-
Mật pháp Ứng dụng
2 tháng 9, 2018 ·
'The Mantra for Protecting Against the Faults of Stepping On or Walking Over Scriptures'
Thần chú đặt trong Kinh Phật, Giáo pháp bảo vệ tránh Ác Nghiệp do người vô tình giẫm đạp hay bước qua Kinh Sách (trích từ Mật điển gốc của Đức Văn Thù Bồ tát do Erick Tsiknopoulos dịch từ Tiếng Tạng)
from the Root Tantra of the Noble Mañjuśrī
(ārya-mañjuśrī-mūla-tantra)
Translated from the Tibetan by Erick Tsiknopoulos
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ/ ACINTYĀDA BHUTA RŪPANĀṂ/ OṂ TĀRE SVĀHĀ
[Tibetan pronunciation:
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀNG/ ATSINTYĀDA BHUTA RŪPANĀNG/ ONG TĀRE SWĀHĀ]
If these twenty-six (26) syllables are placed inside a Dharma book or scripture, then regardless of however much that Dharma book or scripture is stepped on or walked over, there will be no wrongdoing [and hence no resultant negative karmic retribution]. This is taught in the Root Tantra of [the Noble] Mañjuśrī ([ārya]-mañjuśrī-mūla-tantra, ['phags pa] 'jam dpal rtsa rgyud).
(Translated from the Tibetan by Erick Tsiknopoulos, August 29th, 2018.)
https://scontent.fsgn5-6.fna.fbcdn.n...ba&oe=5EF17515
ༀཏཱཪེསྭཱཧཱ།།
https://www.facebook.com/mattongtayt...type=3&theater
-
-
-
-
Phật My Gian Hào Tướng Ấn Chú thứ 10
Cài ngược 2 ngón phía sau ở trong lòng bàn tay, dựng 2 ngón giữa trụ đầu nhau,
kèm dựng 2 ngón cái, đem ngón trỏ trái co bằng lóng bên dưới vịn đầu ngón cái trái, co
mở ngón trỏ phải để trên lưng ngón giữa phải, cách 1 phân (1/30dm)
Chú là:
“Úm (1) ô-hồng (2) ô liệt nê (3) ni-lợi ma lễ (4) a lô kế ni (5) ô-hồng (6) sa ha
(7)”
*)OṂ HŪṂ_ ŪRṆI NṚ-MĀLE ĀLOKIN HŪṂ SVĀHĀ
Đây là Đại Tâm, cũng gọi là Đại Chú
Lại nữa, Chú là:
“Úm (1) ô liệt nê (2) sa ha (3)”
*)OṂ_ ŪRṆI SVĀHĀ
Đây là Tiểu Chú, cũng gọi là Tâm Chú
Nếu có người hay ngày ngày cúng dường, làm Ấn tụng Chú, khi lâm chung thời
ánh sáng ở tam tinh tương tự như hào quang của Đức Phật A Di Đà (Amitābha)
https://chuaanphu.com/wp-content/upl...2/no-901_2.pdf
-
PHONG THUỶ CHÍNH LÀ TÂM CỦA MỖI NGƯỜI!
Triệu Tử Hào làm ăn kinh doanh rất phát đạt. Anh quyết định mua một mảnh đất rộng ở ngoại ô, xây một biệt thự ba tầng, bên trong có vườn hoa cây cảnh ao cá, kết hợp rất đẹp mắt.
Đằng sau vườn còn có một cây vải cổ thụ trăm tuổi. Sở dĩ vì nhắm đến cây vải mà Triệu mới mua mảnh đất này, nguyên nhân là bởi vợ anh thích ăn vải.
Trong thời gian sửa sang nhà cửa, bạn bè khuyên anh tìm một thầy phong thủy về xem giúp để tránh phạm phải những điều kiêng kỵ.
Triệu Tử Hào tự lái xe đến Hồng Kông mời một đại sư. Vị đại sư này họ Tào, đã có hơn 30 năm kinh nghiệm, rất có tiếng trong giới phong thủy.
Sau khi trình bày mọi chuyện, Triệu Tử Hào lái xe đưa thầy phong thủy về biệt thự nhà mình.
Trên đường đi, gặp bất cứ xe nào muốn vượt, anh đều nhường.
Vị đại sư cười nói: “Ông chủ Triệu lái xe thật chậm rãi.”
Triệu Tử Hào cười lớn, đáp: “Những người vượt phần lớn đều là đang có chuyện gấp, không nên cản trở, làm mất thời gian của họ.”
Xe về đến thị trấn, một đứa trẻ đang vừa cười vừa từ trong ngõ nhỏ chạy thẳng ra đường.
Triệu Tử Hào vội phanh xe tránh, đứa trẻ cười tít mắt chạy qua rồi, anh vẫn chưa nhấn ga đi tiếp mà ngó vào trong ngõ, dường như đang đợi điều gì. Một lát sau, lại có một đứa trẻ khác chạy ra, đuổi theo đứa trẻ lúc trước đã đi khá xa.
Tào đại sư ngạc nhiên hỏi: “Sao anh biết phía sau vẫn còn một đứa trẻ nữa?”
Triệu nhún vai: “Trẻ nhỏ đều thích chơi trò đuổi bắt, nếu chỉ chơi một mình, đứa trẻ chẳng thể cười vui như thế được.”
Vị đại sư giơ ngón tay cái ra trước mặt khách hàng của mình, tỏ ý tán dương: “Có tâm”.
Đến biệt thự, vừa xuống xe, vài con chim bất giác bay từ sân sau ra phía trước. Nhìn thấy vậy, Triệu Tử Hào liền dừng xe trước cổng và nói với thầy phong thủy: “Phiền đại sự đợi ở đây một lát.”
“Có chuyện gì vậy?” – vị đại sư lại một lần nữa ngạc nhiên.
“Sau vườn chắc chắn là có trẻ con đang hái trộm vải, bây giờ mà chúng ta vào, chúng sẽ hoảng sợ, không may rơi từ trên cây xuống đất sẽ rất nguy hiểm”, Triệu Tử Hào cười đáp.
Thầy phong thủy họ Tào trầm ngâm trong giây lát và nói: “Phong thủy nhà anh không cần phải xem nữa.”
Lần này, đến lượt Triệu ngạc nhiên: “Đại sư, sao ông lại nói như vậy?”
“Những nơi có anh ở đều là những nơi có phong thủy tốt cả rồi”, Tào đại sư đáp.
Nhân kiệt địa linh, phong thủy tốt nhất đời người chính là tâm của mỗi người!
Con người nếu có tâm, có phúc, sống tại nơi có phong thủy xấu rồi cũng sẽ có ngày chuyển thành đẹp. Ngược lại, nếu sống tại nơi có thế phong thủy đẹp, thế đó rồi cũng sẽ tự bị phá vỡ.
Nói như vậy để thấy rằng, không phải cứ ở nơi có phong thủy tốt, cuộc sống của chúng ta khắc sẽ thuận lợi viên mãn. Phong thủy tốt hay xấu phụ thuộc vào tấm lòng, vào tâm đức, phúc phận của con người. Và để có được những thứ đó, chúng ta cần không ngừng tu dưỡng mỗi ngày.
Tu dưỡng để sống thiện lương, tu dưỡng để sống hiếu thuận, đặt mình ở vị trí thấp hơn người khác để thấu hiểu, bao dung và cảm thông, tu dưỡng để biết đủ, hài lòng với những gì mình có, không tham sân si, không oán trách, thuận theo lẽ tự nhiên…
Bất cứ ai, một khi trong lòng đã tiếp nhận niềm vui, an lạc của người khác, biết nghĩ cho người khác thì người có lợi, không chỉ là người khác mà còn bao gồm cả bản thân chúng ta!
( st)
https://www.facebook.com/Chaykitchen/
-
BÀI THUỐC TRỊ CẢM CÚM đơn giản của GS Bùi Quốc Châu
Mất khoảng 20 phút, và chưa tới 10.000 đồng một ngày, bạn đã có bài thuốc trị cảm cúm hiệu nghiệm đến bất ngờ. Tất cả những thứ bạn cần là quất, nghệ và mật ong.
Đây là bài thuốc "Quân bình âm dương" của giáo sư Bùi Quốc Châu được ông giới thiệu năm 1979, khiến những ai từng dùng đều ngạc nhiên vì sự đơn giản, an toàn, tính kinh tế và trên hết là hiệu quả của nó.
Bài thuốc này được bác sĩ chỉ định chữa các bệnh do nóng hay lạnh như cảm lạnh, cảm nóng, viêm mũi họng, viêm xoang…
CÔNG THỨC:
1. Nghệ xà cừ (khi cạo vỏ thấy màu vàng sậm): Một củ bằng ngón chân cái người bệnh. Nghệ tính dương.
2. Quất tươi xanh (không dùng quất chín): một quả. Quất có tính âm.
3.Mật ong: 3 thìa cà phê (hoặc đường phèn).
4.Nước nóng: 1/2 chén.
CÁCH LÀM:
- Nghệ cạo vỏ, giã nhỏ. Quất cắt đôi, để nguyên hột, bỏ vào bát, thêm 3 thìa mật ong và 1/2 chén nước đem chưng cách thủy 15 phút. Uống ấm sau 2 bữa cơm chính trong ngày (2 lần một ngày). Không dùng trước khi ăn.
- Liều dùng: Người lớn 5 thìa cà phê một lần (có thể ăn cả xác nghệ và quất). Trẻ em: 2-3 thìa cà phê một lần. Trẻ sơ sinh bú mẹ: Mẹ uống rồi cho con bú.
Thuốc dùng xong có thể cất trong tủ lạnh để dùng tiếp. Uống đến khi hết triệu chứng bệnh.
Theo kinh nghiệm của các bệnh nhân, thông thường, tới cuối ngày thứ hai bệnh bắt đầu chuyển biến, các biểu hiện đau họng, sổ mũi bắt đầu thuyên giảm. Trong đa số trường hợp, cuối ngày thứ ba người bệnh khá lên rất nhiều. Nhiều cháu bé phải sang ngày thứ tư mới thấy cải thiện nhưng sau đó bệnh lui rất nhanh.
Các mẹ có con nhỏ, khi đi chơi xa nên mang theo quất, nghệ, mật ong để nếu cần là có thể dùng ngay. Hy vọng bài thuốc này sẽ thực sự hữu ích cho các bạn và người thân.
Lưu ý:
- Với bệnh lạnh và người hư nhược, yếu ớt phải giảm liều quất xuống còn 1/2 quả.
- Với bệnh nóng thì tăng liều quất lên thành 2 quả và giảm liều nghệ xuống còn 1/2 đốt ngón tay út.
- Thuốc này thơm ngon và công hiệu nhưng cũng không nên lạm dụng vì sẽ bị phản tác dụng.
- Dấu hiệu bệnh nhiệt (nóng): Không sợ trời lạnh, không sợ gió, không sợ nước lạnh, hơi thở nóng, môi khô, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, khát nước, tiểu nóng, vàng. Mạch cổ tay đập nhanh, mạnh.
- Dấu hiệu bệnh hàn (lạnh): Ngược lại với các dấu hiệu trên, sợ khí hậu lạnh, sợ gió, sợ nước lạnh, hơi thở lạnh, môi khô, lưỡi không đỏ, rêu lưỡi trắng, không khát nước, tiểu trong. Mạch cổ tay đập chậm, yếu.
Bác sĩ Thu Thủy
https://www.facebook.com/Chaykitchen...435?__tn__=K-R
-
Vì sao người ăn chay không được ăn hành tỏi (Ngũ Vị Tân)?
Hỏi: Kính bạch thầy, con không hiểu lý do tại sao người Phật tử khi ăn chay không được ăn ngũ vị tân? Ăn ngũ vị tân có hại như thế nào mà không được ăn? Kính xin thầy từ bi giải đáp cho chúng con được rõ.
Đáp: Theo truyền thống Phật giáo Bắc truyền hay còn gọi là Phật giáo Phát triển, thì người Phật tử khi ăn chay nên kiêng cử ngũ vị tân. Ngũ vị tân là năm món gia vị có mùi cay nồng gồm: Hành (cách thông) hẹ (từ thông), tỏi (đại toán), kiệu (lan thông) và hưng cừ, tên khoa học là Allium fistulosum, là loại gia vị có hình dáng và mùi vị tương tự củ nén không có ở Trung Quốc và Việt Nam.
Lý do tại sao người Phật tử không nên ăn những thứ nầy, bởi vì đặc tính của những thứ nầy nó chứa nhiều tố chất kích thích và mùi vị cay nồng, nếu ăn nhiều thì thân thể có mùi hôi, nóng nảy và bị kích dục. Do đó, mà trong Kinh Lăng Nghiêm, quyển 8, Phật dạy: “Các chúng sinh cầu Thiền định (Samadhi) không nên ăn năm món cay nồng của thế gian. Vì năm món cay nồng đó nếu ăn chín thì phát dâm, ăn sống thì sinh nóng giận.
Tuy nhiên, theo khoa y học cho biết, ngũ vị tân có chứa nhiều hoạt chất làm tăng sức đề kháng cho cơ thể, được dùng để phòng và trị bệnh. Những nghiên cứu mới nhất của tổ chức sức khỏe thế giới ( WHO) về tỏi và hành có khả năng chữa các thứ bệnh cảm cúm, tim mạch và ung thư v.v… Do vậy, nên vì mục đích ngăn ngừa hay chữa trị bệnh, thì ở một chừng mực nào đó, người Phật tử ăn chay cũng có thể dùng được.
Theo Đại Đường Tây Vực Ký của Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang thì: “Các nhà sư ở Tây Vực, nếu người nào bị bệnh nặng, theo sự chỉ dẫn của thầy thuốc phải dùng Ngũ vị tân thì tạm được dùng nhưng phải ở riêng một chỗ, biệt lập. Sau khi hết bệnh, phải tắm gội sạch sẽ, thay đổi y phục, mới cho vào ở chung với chúng Tăng.”
Điều nầy, người tu theo Mật giáo, chuyên trì chú, thì tuyệt đối không được ăn. Vì ăn những loại nầy, sự trì chú sẽ không được linh nghiệm. Nhưng đối với những người tu theo Hiển giáo, thì có khác. Vì Hiển giáo không chú trọng vào sự trì chú, nên Phật không có cấm một cách tuyệt đối.
Theo lời giải đáp của Hòa Thượng Thanh Từ về vấn đề nầy, qua câu hỏi của một Phật tử, được ghi lại trong bộ băng nhựa giảng giải về 33 vị Tổ Thiền tông Ấn Độ và Trung Hoa, thì Hòa Thượng cho rằng, người Phật tử tu theo Hiển giáo, thì vẫn có thể dùng được những thứ nầy.
Nhưng như trên đã nói, chỉ được dùng trong một chừng mực nào đó, để ngăn ngừa trị bệnh mà thôi, chớ không nên dùng thái quá, phản tác dụng mà có hại cho sức khỏe. Tuy nó là một vị thuốc, nhưng nếu sử dụng quá mức, thì cũng dễ gây ra tai hại.
Thích Phước Thái
https://www.facebook.com/Chaykitchen/
-
-
TÂM Ý THỨC
Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ
thichtuesyTrước hết chúng ta phải hiểu Tâm là gì? Trong tiếng Hán, Tâm là trái tim. Từ cái nghĩa tâm là trái tim, rồi sau mới suy diễn ra tâm là tấm lòng, cho rằng tâm là tấm lòng suy nghĩ. Một bài thơ chữ Hán nói về tâm theo nghĩa này như sau:
三點如星像
橫鉤似月斜
披毛從此得
做佛也由他
“Tam điểm như tinh tượng,
Hoành câu tợ nguyệt tà.
Phi mao tùng thử đắc,
Tố Phật dã do tha”
Bài thơ này ví von cũng rất hay. Chữ Tâm 心 trong chữ Hán được mô tả có ba chấm như ba ngôi sao (Tam điểm như tinh tượng), còn móc câu nằm ngang như ánh trăng nghiêng (Hoành câu tợ nguyệt tà). Phi mao tùng thử đắc, tố Phật dã do tha: Mang lông đội sừng tức làm thân trâu, ngựa… là do tâm này, mà Phật cũng từ nó.
Định nghĩa tâm xét theo nghĩa tiếng Phạn thì có khác. Theo tiếng Phạn, tâm (citta) có nghĩa là tích tập. Định nghĩa này được thấy trong kinh Hoa Nghiêm, bản dịch chữ Hán của Bát-nhã (quyển 6): tích tập danh tâm 積集名心. Nó do gốc động từ là CI (cinoti): tích chứa, tích lũy, tăng trưởng và cũng có nghĩa là quán sát, tri nhận, cảm nhận. Đây là định nghĩa đặc biệt trong thuật ngữ Phật giáo, đặc biệt là Đại thừa. Nghĩa thông thường của nó, được nói là do gốc động từ cit hay cint (cintayati): tư duy, suy tưởng. Tâm là cái tư duy.
https://thuvienhoasen.org/a7214/tam-y-thuc
-
-
https://www.youtube.com/watch?v=wkXuN74z0R8
VẤN ĐÁP HÀNH TRÌ: CHÉN CƠM CÚNG ĐẠI BÀNG HOẠ CHỮ GÌ VÀO ĐÓ? HT: THÍCH LỆ TRANG
5/ Khi sái tịnh an vị Phật hay cúng thí thực viết chữ án nào là đúng?
-
https://www.youtube.com/watch?v=8VNcBAkQiKc
VẤN ĐÁP HÀNH TRÌ: THẾ NÀO LÀ PHÁP DANH, PHÁP TỰ, PHÁP HIỆU? HOÀ THƯỢNG THÍCH LỆ TRANG GIẢNG
6/ Cách sái tịnh liệm đám tang?
-
-
-
-
-
https://www.youtube.com/watch?v=5o3GIl719h0
✔ Khi SÁI TỊNH viết chữ gì ? ĐĐ. Thích Minh Thiền (quá tuyệt)
-
https://i.ytimg.com/vi/kzidFyVm3_Q/maxresdefault.jpg
https://5b0988e595225.cdn.sohucs.com...ed19305a2.jpeg
https://phathocdoisong.com/upload/im...2441_96129.jpg
https://phathocdoisong.com/upload/im...2459_50259.jpg
《 施食獲五福報經》CBETA 電子版
版本記錄: 1.1
完成日期: 2002/11/04
發行單位: 中華電子佛典協會 (CBETA) cbeta@ccbs.ntu.edu.tw
資料底本: 大正新脩大正藏經 Vol. 2, No. 132b
施食獲五福報經(亦名佛說施色力經)
失譯人名今附東晉錄
聞如是。一時佛遊舍衛國祇樹給 獨園。是時佛告諸比丘眾。當知食以 受而名
損佛言。人持飯食施人有五福德。智 消息意度弘廓。則有五福德道。何謂 五。一
曰施命。二曰施色。三曰施力。四曰 安。五曰施辯。何謂施命。一切眾生 食而立
身命。不得飯食不過七日奄忽壽終。 故施食者則施命也。其施命者。世世 壽生天
世間。命不中夭。衣食自然財富無量 何謂施色。得施食者顏色光澤。不得 時忿無
潤形。面目燋悴不可顯示。是故施食 則施顏色。其施色者。世世端正生天 間。姿
貌煒煒世之希有。見莫不觀稽首為禮 何者施力。人得飯食氣力強盛。舉動 止不以
為難。不得食者飢渴熱惱氣息虛羸。 故施食則施力也。其施力者。世世多 生天世
間。力無等雙出入進止而不衰耗。何 施安。人得飯食身為安隱不以為患。 得食者
。心愁身危坐起無賴不能自定。是故 食。則施安也。其施安者。世世無患 安身強
。生天世間不受眾殃。所可至到常遇 良。財富無數不中夭傷。何謂施辯。 施食者
。氣充意強言語通利。不得食者身劣 弱。不得說事口難發言。是故施食則 辯才。
其施辯者。世世聰明生天世間。言辭 慧口辯流利無一瑕穢。聞者喜悅莫不 仰。是
五福德施。若發道意施於一切。既得 福。所生之處常見現在佛諮受深法。 等四恩
六度無極三十七品。法身現相壽命無 相好分明。三十二相致十種力以成佛 。為立
大安普濟危厄。智慧辯才出萬億音度 十方。佛說是經時。諸比丘眾天龍鬼 四部弟
子。莫不歡喜作禮而去
施食獲五福報經
http://buddhism.lib.ntu.edu.tw/BDLM/.../T02n0132b.pdf
========
施Thí 食Thực 獲Hoạch 五Ngũ 福Phước 報Báo 經Kinh
聞văn 如như 是thị 。
一nhất 時thời 佛Phật 遊du 舍Xá 衛Vệ 國Quốc 。 祇Kỳ 樹Thụ 給Cấp 孤Cô 獨Độc 園Viên 。
是thị 時thời 佛Phật 告cáo 。 諸chư 比Bỉ 丘Khâu 眾chúng 。
當đương 知tri 食thực 以dĩ 節tiết 。 受thọ 而nhi 名danh 損tổn 。
佛Phật 言ngôn 。
人nhân 持trì 飯phạn 食thực 施thí 人nhân 。 有hữu 五ngũ 福phước 德đức 。 智trí 者giả 消tiêu 息tức 。 意ý 度độ 弘hoằng 廓khuếch 。 則tắc 有hữu 五ngũ 福phước 德đức 道Đạo 。 何hà 謂vị 為vi 五ngũ 。
一nhất 曰viết 。 施thí 命mạng 。 二nhị 曰viết 。 施thí 色sắc 。 三tam 曰viết 。 施thí 力lực 。 四tứ 曰viết 。 施thí 安an 。 五ngũ 曰viết 。 施thí 辯biện 。
何hà 謂vị 施thí 命mạng 。 一nhất 切thiết 眾chúng 生sanh 。 依y 食thực 而nhi 立lập 身thân 命mạng 。 不bất 得đắc 飯phạn 食thực 。 不bất 過quá 七thất 日nhật 。 奄yểm 忽hốt 壽thọ 終chung 。 是thị 故cố 施thí 食thực 者giả 。 則tắc 施thí 命mạng 也dã 。 其kỳ 施thí 命mạng 者giả 。 世thế 世thế 長trường 壽thọ 。 生sanh 天thiên 世thế 間gian 。 命mạng 不bất 中trung 夭yểu 。 衣y 食thực 自tự 然nhiên 。 財tài 富phú 無vô 量lượng 。
何hà 謂vị 施thí 色sắc 。 得đắc 施thí 食thực 者giả 。 顏nhan 色sắc 光quang 澤trạch 。 不bất 得đắc 食thực 時thời 。 忿phẫn 無vô 潤nhuận 形hình 。 面diện 目mục 燋tiều 悴tụy 。 不bất 可khả 顯hiển 示thị 。 是thị 故cố 施thí 食thực 者giả 。 則tắc 施thí 顏nhan 色sắc 。 其kỳ 施thí 色sắc 者giả 。 世thế 世thế 端đoan 正chánh 。 生sanh 天thiên 世thế 間gian 。 姿tư 貌mạo 煒vĩ 煒vĩ 。 世thế 之chi 希hy 有hữu 。 見kiến 莫mạc 不bất 觀quán 。 稽khể 首thủ 為vi 禮lễ 。
何hà 者giả 施thí 力lực 。 人nhân 得đắc 飯phạn 食thực 。 氣khí 力lực 強cường 盛thịnh 。 舉cử 動động 進tiến 止chỉ 。 不bất 以dĩ 為vi 難nan 。 不bất 得đắc 食thực 者giả 。 飢cơ 渴khát 熱nhiệt 惱não 。 氣khí 息tức 虛hư 羸luy 。 是thị 故cố 施thí 食thực 。 則tắc 施thí 力lực 也dã 。 其kỳ 施thí 力lực 者giả 。 世thế 世thế 多đa 力lực 。 生sanh 天thiên 世thế 間gian 。 力lực 無vô 等đẳng 雙song 。 出xuất 入nhập 進tiến 止chỉ 。 而nhi 不bất 衰suy 耗hao 。
何hà 謂vị 施thí 安an 。 人nhân 得đắc 飯phạn 食thực 。 身thân 為vi 安an 隱ẩn 。 不bất 以dĩ 為vi 患hoạn 。 不bất 得đắc 食thực 者giả 。 心tâm 愁sầu 身thân 危nguy 。 坐tọa 起khởi 無vô 賴lại 。 不bất 能năng 自tự 定định 。 是thị 故cố 施thí 食thực 。 則tắc 施thí 安an 也dã 。 其kỳ 施thí 安an 者giả 。 世thế 世thế 無vô 患hoạn 。 心tâm 安an 身thân 強cường 。 生sanh 天thiên 世thế 間gian 。 不bất 受thọ 眾chúng 殃ương 。 所sở 可khả 至chí 到đáo 。 常thường 遇ngộ 賢hiền 良lương 。 財tài 富phú 無vô 數số 。 不bất 中trung 夭yểu 傷thương 。
何hà 謂vị 施thí 辯biện 。 得đắc 施thí 食thực 者giả 。 氣khí 充sung 意ý 強cường 。 言ngôn 語ngữ 通thông 利lợi 。 不bất 得đắc 食thực 者giả 。 身thân 劣liệt 意ý 弱nhược 。 不bất 得đắc 說thuyết 事sự 。 口khẩu 難nan 發phát 言ngôn 。 是thị 故cố 施thí 食thực 。 則tắc 施thí 辯biện 才tài 。 其kỳ 施thí 辯biện 者giả 。 世thế 世thế 聰thông 明minh 。 生sanh 天thiên 世thế 間gian 。 言ngôn 辭từ 辯biện 慧tuệ 。 口khẩu 辯biện 流lưu 利lợi 。 無vô 一nhất 瑕hà 穢uế 。 聞văn 者giả 喜hỷ 悅duyệt 。 莫mạc 不bất 戴đái 仰ngưỡng 。
是thị 五ngũ 福phước 德đức 施thí 。 若nhược 發phát 道Đạo 意ý 。 施thí 於ư 一nhất 切thiết 。 既ký 得đắc 此thử 福phước 。 所sở 生sanh 之chi 處xứ 。 常thường 見kiến 現hiện 在tại 佛Phật 。 諮tư 受thọ 深thâm 法Pháp 。 四Tứ 等Đẳng 。 四Tứ 恩Ân 。 六Lục 度Độ 無Vô 極Cực 。 三Tam 十Thập 七Thất 品Phẩm 。 法Pháp 身thân 現hiện 相tướng 。 壽thọ 命mạng 無vô 窮cùng 。 相tướng 好hảo 分phân 明minh 。 三tam 十thập 二nhị 相tướng 。 致trí 十thập 種chủng 力lực 。 以dĩ 成thành 佛Phật 道Đạo 。 為vi 立lập 大đại 安an 。 普phổ 濟tế 危nguy 厄ách 。 智trí 慧tuệ 辯biện 才tài 。 出xuất 萬vạn 億ức 音âm 。 度độ 脫thoát 十thập 方phương 。
佛Phật 說thuyết 是thị 經Kinh 時thời 。 諸chư 比Bỉ 丘Khâu 眾chúng 。 天thiên 龍long 鬼quỷ 神thần 。 四tứ 部bộ 弟đệ 子tử 。 莫mạc 不bất 歡hoan 喜hỷ 。 作tác 禮lễ 而nhi 去khứ 。
施Thí 食Thực 獲Hoạch 五Ngũ 福Phước 報Báo 經Kinh
失thất 譯dịch 人nhân 名danh 。 今kim 附phụ 東Đông 晉Tấn 錄lục 。
Phiên âm và chấm câu: Tại gia Bồ-tát giới Thanh tín nam Nguyên Thuận
Phiên âm: 18/2/2015 ◊ Cập nhật: 18/2/2015
►
Đang dùng phương ngữ: BẮC ◈NAM
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...%C3%A3/page109
===
Kinh Bố Thí Thức Ăn Được Năm Phước Báo
Post by: Phật Pháp Ứng Dụng261
TAGBộ A HàmKinh Điển Đại ThừaQuảng Lượng - Lý Hồng Nhựt
Phật Thuyết Thực Thí Hoạch Ngũ Phước Báo Kinh
Việt dịch: Quảng Lượng – Lý Hồng Nhựt
Nghe như vầy: một thuở đức Phật( Thích Ca), ở tại nước Xá Vệ nơi vườn Kỳ Đà Cấp Cô Độc.
Phật bảo các vị Tỳ kheo nên biết rằng : Ăn có chừng mực thì không bịnh.
Người bố thí thức ăn được năm thứ phước báo và khiến người đó đắc đạo.
Người trí liền khởi lòng muốn truyền bá rộng, thời được năm thứ phước. Những gì là năm? Một là bố thí mạng sống.
Hai là bố thí sắc (Vui tươi). Ba là bố thí sức mạnh. Bốn là bố thí sự bình an. Năm là bố thí sự nói năng.
1.Như thế nào là bố thí mạng sống? Người bị đói, thì nét mặt rất là tiều tụy, không thể nào vui tươi. Người đói không quá bảy ngày sẽ chết, vì thế người trí liền bố thí thức ăn. Thật ra ở đây bố thí thức ăn chính là bố thí mạng sống vậy. Người bố thí mạng sống, thì đời đời sẽ sống lâu, dù sanh ra ở cõi người hay cõi trời. Chẳng những được sống lâu mà còn không bị tai họa hay đau khổ; đương nhiên có phước báo và tài sản vô số. Đây là nói về việc bố thí mạng sống.
2. Như thế nào là bố thí vui tươi(sắc)? Người bị đói sắc mặt rất buồn khổ, không thể nào vui tươi được. Vì thế người trí liền bố thí thức ăn. Thật ra ở đây bố thí thức ăn chính là bố thí sự vui tươi. Người bố thí sự vui tươi, đời đời thân tướng tốt đẹp, dù cho sanh ra ở cõi trời hay cõi người.
3. Như thế nào là bố thí sức mạnh? Người bị đói thì thân thể gầy ốm, nghĩ mơ hồ, không thể làm được việc gì. Vì thế cho nên người trí liền bố thí thức ăn, ở đây bố thí thức ăn chính là bố thí sức lực vậy. Người mà bố thí sức lực, đời đời sẽ có sức lực hơn người , dù sanh ra ở cõi trời hay cõi người, thì có sức lực không người sánh bằng. Cho dù lên, xuống, tới, lui sức lực không hề suy giảm. Đây là nói về bố thí sức lực.
4. Như thế nào là bố thí sự bình an? Người bị đói, lòng buồn khổ, thân hư hoại, ngồi đứng không yên, không thể an ổn. Vì thế cho nên người trí liền bố thí thức ăn, thật ra ở đây bố thí thức ăn chính là bố thí sự an ổn thân tâm. Người mà bố thí sự an ổn. đời đời sẽ luôn an ổn, dù sanh ở cõi trời hay cõi người, không bao giờ gặp tai họa; đi đến bất cứ nơi đâu đều gặp những người hiền thiện. tài sản nhiều vô kể, không bao giờ gặp tai họa hay đau khổ. Đây là nói về sự bố thí an ổn thân tâm.
5. Như thế nào là bố thí sự nói năng? Người bị đói, thân thể gầy ốm, ý nghĩ yếu đuối, miệng không thể nói thành câu. Vì thế cho nên người trí liền bố thí thức ăn, thật ra ở đây bố thí thức ăn chính là bố thí sự nói năng. đời đời sẽ được thông minh, lời nói trôi chảy, không có gì cản trở; khả năng biện luận với thành tựu rất cao, dù sanh ra nơi cõi trời hay cõi người. người nghe sanh lòng vui thích, đều cuối đầu lắng nghe. Đây chính là năm phước báo của sự bố thí thức ăn.
Phật nói nếu như có người nam hay người nữ nào phát tâm cầu đạo quả. Mà bố thí tất cả thức ăn, y phục, thì ở nơi mà người đó sanh ra, sẽ gặp được Phật ban cho Tam Pháp(Giáo pháp, Hành pháp và Chứng pháp), Tứ Ý(Tứ như Ý), Tam thoát trí(Tam trí), Thập chủng lực();Ba mươi hai tướng tốt cùng tám mươi vẽ đẹp. Đi đến mười phương như mặt trời mọc; sáng lạng huy hoàn, khắp cả mười phương, giáo hóa tất cả chúng sanh. Cho đến thời mạt Pháp kinh nầy vẫn lưu truyền; khiến tu được thành Phật.
Khi đức Phật nói kinh nầy rồi; Thiên Long, quỷ Thần cùng dân chúng Vua, Quan cùng hàng Tứ chúng, không ai là không sanh lòng vui mừng lễ Phật mà lui ra.
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...%C3%A3/page109 / https://phatphapungdung.com/phap-bao...ao-112954.html
======
SỐ 132 (A)
PHẬT NÓI KINH BỐ THÍ ĐỒ ĂN ĐẠT
ĐƯỢC NĂM PHƯỚC BÁO
Hán dịch: Mất tên người dịch, phụ vào dịch phẩm đời
Đông Tấn.
Nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa ở vườn Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước
Xá-vệ.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
–Nên biết rằng ăn uống phải chừng mực, thọ dụng là để giữ gìn sức
khỏe mà thôi.
Đức Phật dạy:
–Người nào đem thức ăn bố thí cho người khác thì có năm
phước đức làm cho người ấy đạt được đạo pháp. Người trí thông hiểu
lẽ doanh hư, tâm ý luôn rộng mở thì đạt được năm phước. Thế nào là
năm?
1. Bố thí mạng sống.
2. Bố thí nhan sắc.
3. Bố thí sức lực.
4. Bố thí sự an ổn.
5. Bố thí sự biện luận.
Thế nào là bố thí mạng sống?
Khi con người không được ăn uống, dung mạo tiều tụy, không thể
tươi tỉnh, chẳng qua bảy ngày phải chết. Thế nên người trí cho họ ăn.
Cho họ ăn là cho họ mạng sống. Người cho mạng sống thì đời đời được
trường thọ, được sinh lên cõi trời hay cõi người, sống lâu không chết yểu,
không bị thương tổn, tự nhiên được phước báo tài sản giàu có vô lượng.
Đó là bố thí mạng sống.
Thế nào là bố thí nhan sắc?
Khi con người không được ăn uống, nhan sắc tiều tụy không thể
tươi tỉnh. Do vậy người trí cho họ ăn. Sự cho ăn ấy là cho họ nhan sắc.
Người cho nhan sắc thì đời đời đẹp đẽ, được sinh nơi cõi trời hay cõi
người thì nhan sắc luôn hồng hào như hoa, người khác thấy liền vui
mừng, bày tỏ sự cung kính. Đó là bố thí nhan sắc.
Thế nào là bố thí sức lực?
Khi con người không được ăn uống, thân thể gầy yếu, ý chí nhu
nhược, không thể làm được gì. Do vậy người trí cho họ ăn. Sự cho ăn ấy
là cho họ sức lực. Người cho sức lực thì đời đời luôn được khỏe mạnh,
sinh vào cõi trời hay cõi người luôn có sức lực hơn hết, ra vào, đi hay ở
sức lực không hề hao tổn. Đó là bố thí sức lực.
Thế nào là bố thí sự an ổn?
Khi con người không được ăn uống thì tâm buồn bã, thân khốn
đốn, ngồi đứng không ổn định, không thể tự yên. Thế nên người trí cho
họ ăn, sự cho ăn ấy là cho họ sự yên ổn. Người cho sự yên ổn thì đời đời
được yên ổn, sinh vào cõi trời, cõi người không hề gặp các tai nạn. Người
ấy đi đến đâu, thường gặp các bậc hiền lương, tài sản giàu có vô lượng,
không bị chết yểu hay bị thương tật. Đó là bố thí sự yên ổn.
Thế nào là bố thí sự biện luận?
Khi con người không được ăn uống, thân thể gầy yếu, ý chí nhu
nhược, miệng không nói nên lời. Thế nên người trí cho họ ăn, sự cho ăn
đó là cho họ sự biện luận nói năng. Người cho sự nói năng biện luận thì
đời đời thông minh, ngôn từ luôn lưu loát, không bị trở ngại, trí tuệ biện
luận thông đạt, sinh vào cõi trời hay cõi người, người được nghe nói đều
vui mừng, lắng nghe, ghi nhận pháp họ nói.
Đó là quả báo của năm loại phước đức do bố thí thức ăn mà có
được.
Đức Phật dạy:
–Nếu các hàng Tộc tánh tử, Tộc tánh nữ, phát đạo tâm, bố thí tất cả
những thức ăn uống, y phục thì họ sinh vào nơi nào, ngay đời ấy liền
được gặp Đức Phật, tu học và thọ trì ba Pháp, bốn Ý đoạn, ba Giải thoát,
đạt đến mười Lực, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, qua lại trong
mười phương, cũng như mặt trời mọc, ánh sáng rực rỡ chiếu khắp mọi
nơi chốn, giáo hóa tất cả chúng sinh. Sau khi vị ấy nhập Niết-bàn, kinh
pháp tiếp tục lưu hành, người phụng trì pháp ấy được giải thoát như Đức
Phật không khác.
Khi Đức Phật thuyết giảng kinh này, các chúng Trời, Rồng, Quỷ
thần, dân chúng trong thế gian, các hàng vua chúa, đại thần, bốn hạng đệ
tử thảy đều hoan hỷ làm lễ Đức Phật.
❑
SỐ 132 (B)
KINH THÍ THỰC ĐƯỢC NĂM
PHƯỚC BÁO
Hán dịch: Mất tên người dịch, phụ vào dịch phẩm đời Đông Tấn.
Nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa ở vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.
Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:
–Nên biết, ăn uống phải chừng mực, thọ dụng là để sức khỏe không bị suy giảm.
Đức Phật dạy:
–Đem thức ăn bố thí cho người khác thì được năm phước đức. Người trí hiểu biết lẽ
doanh hư, tâm ý luôn mở rộng, nên luôn thực hiện năm loại phước đức. Năm loại ấy là gì?
1. Bố thí mạng sống.
2. Bố thí nhan sắc.
3. Bố thí sức mạnh.
4. Bố thí sự yên ổn.
5. Bố thí sự biện luận.
Thế nào là bố thí mạng sống?
Tất cả chúng sinh đều nhờ vào ăn để mạng sống được tồn tại; không được ăn thì chẳng
quá bảy ngày sẽ chết. Thế nên cho ăn uống tức là cho mạng sống. Người cho mạng sống thì
đời đời được trường thọ, được sinh vào cõi trời hay cõi người, không bị chết yểu, y phục thức
ăn tự đầy đủ, tài sản giàu có vô lượng.
Thế nào là bố thí nhan sắc?
Người được cho ăn, nhan sắc trở nên sáng láng tươi nhuận. Khi không được ăn thì khó
chịu, hình sắc tàn tạ, mặt mày tiều tụy không tỉnh táo. Thế nên cho ăn tức là cho họ nhan sắc.
Người bố thí nhan sắc thì đời đời được đoan chánh, sinh nơi cõi trời hay cõi người, dung mạo
luôn hồng hào hiếm có trên đời, người khác trông thấy đều ưa ngắm nhìn, cúi đầu làm lễ.
Thế nào là bố thí sức mạnh?
Người được ăn uống thì khí lực cường thịnh, cử động sinh hoạt không có gì khó khăn.
Người không được ăn, bị đói khát thì nóng nảy, phiền não, hơi thở suy yếu. Thế nên cho ăn là
cho họ sức mạnh. Người bố thí sức mạnh thì đời đời luôn được nhiều sức khỏe, sinh lên cõi
trời hay vào cõi người, sức khỏe không ai bằng, ra vào hoạt động không hao tổn suy yếu.
Thế nào là bố thí sự yên ổn?
Người được ăn uống thì thân thể được yên ổn, không bệnh hoạn. Người không được ăn,
tâm buồn rầu, thân khốn đốn, ngồi đứng không yên, không thể ổn định. Thế nên cho ăn là cho
sự yên ổn. Người bố thí sự yên ổn thì đời đời không bệnh, tâm luôn an ổn, thân cường tráng,
sinh vào cõi trời hay cõi người đều không bị các tai ương. Họ đến đâu cũng luôn gặp việc
hiền lương, tài sản giàu có vô số, không bị chết yểu hay bị thương tổn.
Thế nào là bố thí sự biện luận?
Người được ăn uống thì khí lực sung mãn, ý chí mạnh mẽ, ngôn ngữ lưu loát. Người
không được ăn uống thì thân thể yếu ớt, ý chí nhu nhược, miệng khó nói nên lời, không trình
bày được sự việc. Thế nên cho ăn là cho họ tài nói năng. Người bố thí tài nói năng biện luận
thì đời đời được thông minh, sinh nơi cõi trời hay cõi người, biện luận bằng ngôn từ trí tuệ,
miệng nói lưu loát không bị trở ngại, sai lầm khiến người nghe luôn vui mừng, kính phục, ghi
nhận.
Đó là năm phước đức của sự bố thí thức ăn uống. Người nào phát đạo tâm bố thí tất cả,
được phước này rồi, sinh vào nơi nào luôn được gặp Đức Phật trong đời đó, lãnh hội, thọ trì
giáp pháp sâu xa về bốn Bậc, bốn Ân, sáu Độ ba-la-mật, ba mươi bảy phẩm Bồ-đề. Hiện
tướng của pháp thân thọ mạng vô cùng, tướng tốt quang minh tươi sáng: Ba mươi hai tướng
cho đến mười Lực để thành Phật đạo, lập sự an ổn lớn, cứu độ nguy ách, trí tuệ biện tài, nói ra
vạn ức âm thanh, độ thoát mười phương chúng sinh.
Đức Phật nói kinh này, các Tỳ-kheo, chúng Trời Rồng Quỷ, Thần, bốn hạng đệ tử thảy
đều hoan hỷ, làm lễ từ giã.
❑
http://www.daitangkinh.org/images//l...20B%C3%A1o.pdf
========
Cúng dường cơm cháy chuyển nghiệp đọa địa ngục thành sinh thiên
07/06/2020 - 06:08 Lượt xem: 237
Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại thành Ràjagaha (Vương Xá), ở chỗ nuôi sóc trong Trúc Lâm. Cũng vào thời ấy, những người trong một gia đình kia tại Vương Xá bị bệnh dịch tả. Mọi người trong nhà ấy đều chết trừ một nữ nhân. Kinh hoàng vì nỗi sợ chết, nàng bỏ nhà cùng tất cả tiền bạc thóc lúa bên trong ấy chạy trốn qua một chỗ nứt của vách tường.
http://daibaothapmandalataythien.org...?itok=skuQwqgw
Vì không ai giúp đỡ, nàng đến nhà một gia đình khác, xin ở nhờ phía sau. Người trong nhà ấy thương hại nàng đem cho nàng cháo gạo, cơm chín và cơm cháy cùng các thứ còn sót lại trong nồi niêu. Nhờ lòng rộng lượng của họ, nàng có thể sống tại đó.
Vào thời ấy Tôn giả Mahà-Kassapa (Đại Ca-diếp) đã nhập Diệt Định suốt bảy ngày và sau khi xuất định, trong lúc Tôn giả suy nghĩ: “Hôm nay ta sẽ làm phước cho ai bằng cách nhận thức ăn? Ta sẽ giải thoát sầu bi cho ai?”, Tôn giả thấy nữ nhân kia gần mạng chung và một ác nghiệp đưa đến địa ngục đã xuất hiện cho nàng.
Tôn giả suy nghĩ: 'Khi ta đến gần, nữ nhân này sẽ cho ta cơm cháy mà nàng nhận được cho phần mình, và do chính hành động ấy nàng sẽ được tái sinh vào Hóa Lạc thiên giới. Khi ta đã giải thoát cho nàng khỏi tái sinh vào địa ngục như vậy, chắc chắn ta sẽ tạo hạnh phúc thiên giới cho nàng'.
Sau khi đã đắp y vào buổi sáng sớm, Tôn giả cầm y bát và đi về phía nơi nàng cư trú.
Bấy giờ, Sakka Thiên chủ (Đế Thích) giả dạng cúng dường Tôn giả thực phẩm thiên giới đầy đủ mọi hương vị thơm ngon cùng nhiều loại cháo, canh và cà-ri. Vị Trưởng lão nhận ra ngài, bèn chối từ và bảo:
- Này Kosiya, tại sao ngài đã thành tựu các công đức thiện sự lại làm như vậy? Xin đừng làm hỏng dịp may của những kẻ bất hạnh khốn khổ'.
Rồi Tôn giả đi đến đứng trước nữ nhân kia. Nàng ước muốn cúng dường Tôn giả một vật gì đó, liền suy nghĩ: 'Ở đây không có gì xứng đáng để cúng dường vị Trưởng lão đại oai nghi này cả', và nàng nói:
- Xin ngài hãy tiến lên một chút nữa.
http://daibaothapmandalataythien.org...?itok=3yiF1SRP
Tôn giả Đại Ca-diếp
Vị Trưởng lão chỉ bước lùi lại một bước và không nhận thứ gì do các người khác cúng dường. Nàng thấy rõ ràng Tôn giả muốn giúp nàng, bèn cúng dường Tôn giả miếng cơm cháy của mình, Tôn giả vừa ăn ngay tại chỗ vừa bảo:
- Trong tiền kiếp thứ ba trước đây, cô đã là mẹ của ta.
Xong Tôn giả ra đi.
Nàng từ trần ngay đêm ấy và được tái sinh vào hội chúng Hóa Lạc thiên.
Rõ ràng qua những bài Kinh trên cho thấy đức Phật và Thánh đệ tử là những ruộng phước tối thắng, bất khả thuyết, có thể chuyển nghiệp ác đọa địa ngục của người sắp mất thành nghiệp thiện sinh lên thiên giới.
(Nguồn: Đại Tạng Kinh Việt Nam - Khuddaka Nikàya
Tiểu Bộ Kinh – Tập I - Tập X
Việt dịch: Hòa thượng Thích Minh Châu và Giáo sư Trần Phương Lan)
-
Kinh Cúng Thí Người Mất
Posted on Tháng Chín 17, 2019
0shares
Chính tôi được nghe, lúc Đức Phật lưu trú tại tinh xá Kỳ Viên, bà-la-môn Cha-nu-sô-ni (Janussoni) đến viếng thăm, đảnh lễ rồi thưa hỏi Đức Phật:
– Bạch đức Thế Tôn, con là bà-la-môn chuyên làm các lễ cúng cho người chết, lòng những mong sẽ đem lại lợi ích cho họ, như vậy, bạch Thế Tôn, họ có thật sự được lợi ích không? O
Đức Phật dạy:
– Này Bà-la-môn, nếu có tương xứng thì người chết sẽ hưởng được phẩm vật cúng dường. Bằng không có tương xứng thì họ không được hưởng gì cả. O
Bà-la-môn bạch Phật:
– Kính xin đức Thế Tôn giải rõ cho chúng con hiểu thế nào là tương xứng và không tương xứng?
Lúc bấy giờ, Đức Phật bảo Bà-la-môn Cha-nu-sô-ni và đại chúng rằng: O
1. Nếu ai sống sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, phù phiếm, có tham ái, sân, si và tà kiến, sau khi mạng chung sẽ bị đọa vào địa ngục. Tại đây y được nuôi sống và tồn tại bằng thức ăn của địa ngục. Do đó, việc người thân quyến cúng đồ ăn của con người cho họ là không tương xứng. Người mất sẽ không hưởng được gì từ sự cúng kiến đó. O
2. Này các thiện nam, tín nữ, với người đầy dẫy mười điều ác, mạng chung bị sanh vào loài bàng sanh. Tại đây, y được nuôi sống và tồn tại bằng thức ăn của loài bàng sanh. Do đó quả thật sẽ không tương xứng, khi người thân quyến đem phẩm vật của con người để cúng quảy, làm sao người chết đó ăn được. O
3. Này các thiện nam, tín nữ, ngay cả trường hợp người chết khi sanh tiền tu tập mười nghiệp lành, được tái sanh làm con người, hay có phước báo hơn được sanh vào cảnh giới chư thiên. Tại đây, với y báo là con người hay chư thiên, họ có cha mẹ riêng và các món ăn riêng để nuôi sống hiện hữu của họ. Do đó, thật là không tương xứng, nếu người thân quyến cúng dường và mong người quá cố thọ nhận. Vì người chết đã tái sanh làm người khác hoặc chư thiên rồi làm sao thọ nhận được. O
4. Này các thiện nam, tín nữ, chỉ có một trường hợp duy nhất người chết có thể nhận được sự cúng quảy của người thân quyến. Đó là trường hợp người chết bị đọa vào ngạ quỷ. Món ăn nào mà người thân quyến muốn hiến cúng cho họ thì họ sẽ hưởng được món đó. Họ sống và hiện hữu nhờ vào các món ăn này. Đây là trường hợp Như Lai gọi là có tương xứng. O
Nghe Đức Phật giải bày cặn kẽ, bà-la-môn hỏi thêm:
– Bạch Thế Tôn, các trường hợp người chết tái sanh vào loài bàng sanh, địa ngục, a-tu-la, hay sanh lại làm người, hoặc sanh thiên thì sự cúng quảy không có sự thọ hưởng. Nhưng nếu người chết không tái sanh vào cõi ngạ quỷ thì ai sẽ là người thọ hưởng sự cúng kiến ấy ?
Lúc ấy Đức Phật dạy rằng:
– Này các thiện nam, tín nữ, nếu không là người thân thuộc quá cố của người cúng thì cũng có những người thân thuộc khác của người cúng ở loài ngạ quỷ sẽ hưởng thế phần.
Bà-la-môn thưa hỏi:
– Nhưng nếu cả dòng họ thân thuộc của người cúng không một ai bị tái sanh vào loài ngạ quỷ thì phẩm vật cúng đó sẽ thuộc về ai ?
Đức Phật dạy:
– Đây là trường hợp không thể xảy ra, rằng chỗ ấy trống không trong một thời gian dài mà không có một ai đó trong huyết thống bị sanh vào. Nhưng này các thiện nam, tín nữ, mặc dù thế, người bố thí ấy không phải không hưởng được quả phước từ sự cúng thí đó. O
Nhân đó Đức Phật dạy thêm về phước báo của sự bố thí:
– Này các thiện nam, tín nữ, trong suốt quá trình sống, người nào vi phạm mười điều ácnhưng lại biết làm hạnh bố thí, người ấy khi mạng chung sẽ sanh cộng trú trong loài voi nhưng là con voi được chăm sóc, ăn uống và trang phục đầy đủ. Trong trường hợp họ vì nghiệp duyên bất thiện, sanh làm ngựa, bò hay bất kỳ loài bàng sanh nào, thì ở đấy y vẫn hưởng thọ đầy đủ sự ăn uống tương xứng với phước duyên bố thí khi họ còn làm người. O
Nhưng này các thiện nam, tín nữ, điều Như Lai muốn răn dạy vẫn là một người đầy đủ mười hạnh lành lại còn biết trau dồi hạnh bố thí chơn chánh và cúng dường những bậc chân tu, những người đạo đức. Khi mạng chung hoặc được tái sanh làm chư thiên thì tại đấy y sẽ được hưởng năm thứ phước đức chư thiên, hoặc sanh làm người thì sẽ được hưởng năm thứ phước báo cõi người. Trong bất kỳ trường hợp nào, người có hạnh bố thívẫn tốt hơn.
Sau pháp thoại sâu sắc đó, bà-la-môn Cha-nu-sô-ni bỗng chốc trở thành nam cư sĩ và toàn thể pháp hội đều hoan hỷ, tín thọ lời Phật dạy. OOO
(Tỳ Kheo Thích Nhật Từ, Kinh Tụng Hàng Ngày)
Nguyên gốc văn bản kinh từ kinh hệ Pali:
Đại Tạng Kinh Việt Nam
KINH TĂNG CHI BỘ
Anguttara Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Chương Mười Pháp
Phẩm 13-22
(XI) (177) Jànussoni
1. Rồi Bà-la-môn Jànussoni đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Jànussoni bạch Thế Tôn:
– Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi Bà-la-môn, cho bố thí, làm các lễ cúng cho người chết. Mong rằng, bố thí này cho bà con huyết thống đã chết được lợi ích! Mong rằng các bà con huyết thống đã chết, thọ hưởng bố thí này! Thưa Tôn giả Gotama, bố thí có lợi ích gì cho các bà con huyết thống đã chết không? Các bà con huyết thống đã chết có được thọ hưởng bố thí ấy hay không?
– Này Bà-la-môn, nếu có tương ưng xứ, thời có lợi ích, không có lợi ích nếu không có tương ưng xứ.
– Thưa Tôn giả Gotama, thế nào là tương ưng xứ, thế nào là không tương ưng xứ?
2. Ở đây, này Bà-la-môn, có người sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, có tham ái, có sân, có tà kiến. Vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào địa ngục ăn. Món ăn của chúng sanh ở địa ngục ăn, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là không tương ưng xứ, trú ở nơi đây, vị ấy không được lợi ích của bố thí ấy.
3. Ở đây, này Bà-la-môn, có người sát sanh… có tà kiến. Sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy sanh vào loại bàng sanh. Món ăn của chúng sanh ở bàng sanh ăn, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là không tương ưng xứ; trú ở đây, vị ấy không được lợi ích của bố thí ấy.
4. Ở đây, này Bà-la-môn, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnhtrong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, không có tham ái, không có tâm sân hận, có chánh kiến. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh cộng trú với loài Người. Món ăn của loài người như thế nào, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là không tương ưng xứ, trú ở đây, vị ấy không được lợi ích của bố thí ấy.
5. Ở đây, này Bà-la-môn, có người từ bỏ sát sanh… có chánh kiến. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung được sanh cộng trú với chư Thiên. Món ăn của chư Thiên như thế nào, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà La môn đây là không tương ưng xứ, trú ở đây, vị ấy không được lợi ích của bố thí ấy.
6. Ở đây, này Bà-la-môn, có người từ bỏ sát sanh… có tà kiến. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi ngạ qủy. Món ăn của chúng sanh ngạ qủy như thế nào, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Món ăn nào các bạn bè , hoặc thân hữu, hoặc bà con, hoặc người cùng huyết thống từ đấy muốn hướng cúng cho vị ấy, tại đấy vị ấy sống với món ăn ấy; tại đấy , vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là không tương ưng xứ, trú ở đây, vị ấy được lợi ích của bố thí ấy.
7. Thưa Tôn giả Gotama, nếu bà con huyết thống ấy đã chết, không sanh vào chỗ ấy, thời ai hưởng bố thí ấy?
– Này Bà-la-môn, các bà con huyết thống khác đã chết, được sanh vào chỗ ấy, những người ấy được hưởng bố thí ấy.
– Thưa Tôn giả Gotama, nếu bà con huyết thống đã chết, không sanh vào chỗ ấy, và các bà con huyết thống khác cũng không sanh vào chỗ ấy, thời ai hưởng bố thí ấy?
– Không có trường hợp ấy, không có cơ hội ấy, này Bà-la-môn, rằng chỗ ấy có thể trống không trong một thời gian dài, không có người bà con huyết thống đã chết. Nhưng này Bà-la-môn, người bố thí không phải có hưởng quả.
– Có phải Tôn giả Gotama nói một giả thuyết không thế xảy ra?
– Này Bà-la-môn, Ta nói một giả thuyết không thể xảy ra. Ở đây, này Bà-la-môn, có người sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, có tham ái, có sân tâm, có tà kiến. Người ấy bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn, các món ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương, phấn sáp, các giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Người ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với các loài voi. Tại đây, vị ấy được đồ ăn, đồ uống, vòng hoa, các loại trang sức khác. Vì rằng, ở đây, này Bà-la-môn, có sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, do vậy người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với các loài voi. Vì rằng vị ấy có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương, phấn sáp, các giường nằm, trú xứ, đèn đuốc; do vậy, tại đấy vị ấy được các món ăn, các đồ uống, vòng hoa, các đồ trang sức khác. Ở đây, này Bà-la-môn, có người sát sanh, lấy của không cho, tà hạnhtrong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, có tham ái, có sân tâm, có tà kiến. Người ấy có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn, các món ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy sanh cộng trú với các loài ngựa… sanh cộng trú với các loài bò… Cộng trú với các loài gia cầm. Vị ấy tại đấy, được các món ăn, các đồ uống, vòng hoa, các đồ trang sức khác. Vì rằng, này Bà-la-môn, có sát sanh, có lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, có nói láo, có nói hai lưỡi, có nói lời độc ác, có nói lời phù phiếm, có tham ái, có sân tâm, có tà kiến. Do vậy, sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy sanh vào cộng trú với các loài gia cầm. Vì rằng vị ấy có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn với các đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, các giường nằm, trú xứ, đèn đuốc, nên tại đấy vị ấy được đồ ăn, đồ uống, vòng hoa, các loại trang sức khác. Ở đây, này Bà-la-môn, có hạng người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, từ bỏ tham ái, từ bỏ sân tâm, có chánh kiến. Người ấy có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn các món ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, các vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với loài Người. Tại đấy, vị ấy được năm loại dục công đức sai khác, thuộc về loài Người. Vì rằng, này Bà-la-môn, vị ấy từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, không có tham ái, không có sân tâm, có chánh kiến, sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy được sanh cộng trú với loài Người. Vì rằng vị ấy có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn các đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, các vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, giường nằm, các trú xứ, đèn đuốc; do vậy, ở đấy vị ấy được năm dục công đức của loài Người. Ở đây, này Bà-la-môn, có người từ bỏ sát sanh… có chánh kiến, người ấy bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn các đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, các vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Người ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên. Vị ấy tại đấy được năm loại dục công đức của chư Thiên. Vì rằng ở đây có từ bỏ sát sanh… có chánh kiến, cho nên sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy được sanh cộng trú với chư Thiên. Vì rằng vị ấy có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn các đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, các vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Do vậy, tại đấy vị ấy được năm dục công đức của chư Thiên. Tuy nhiên, này Bà-la-môn, người bố thí không phải không có kết quả.
8. Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thay, Tôn giả Gotama! Cho đến như thế này, thưa Tôn giả Gotama, là vừa đủ để bố thí, là vừa đủ để tổ chức các tín thí. Vì rằng, ở đấy, người bố thí không phải không có kết quả (như đã được nói).
– Như vậy, này Bà-la-môn, người bố thí này không phải không có kết quả.
– Thật kỳ diệu thay Tôn giả Gotama… Xin Tôn giả Gotama hãy nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-69_...etail_bookmark
XEM VĂN BẢN KINH GỐC TỪ PHẠN NGỮ:
● Đức Phật Nói Về Sự Cúng Thí Tổ Tiên và Ngạ Qủy
http://vietrigpabardo.org/2019/09/17...thi-nguoi-mat/
-
Lễ Cúng Thí Thực Theo Tinh Thần Kinh Nikaya
Lễ Cúng Thí Thực Theo Tinh Thần Kinh Nikaya
Theo kinh Phật dạy, các hương linh đó nếu thọ dụng được thức ăn hiến cúng đó, tương đương chúng sanh trong cảnh giới ngạ quỷ. Cho nên hương linh là ngôn ngữ nhân gian, có thể thọ nhận được sự hiến cúng phẩm vật. Kinh chép rằng: “Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi ngạ quỷ. Món ăn của chúng sanh ngạ quỷ như thế nào, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Món ăn nào các bạn bè, hoặc thân hữu, hoặc bà con, hoặc người cùng huyết thống từ đấy muốn hướng cúng cho vị ấy, tại đấy vị ấy sống với món ăn ấy; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là tương ưng xứ, trú ở đây, vị ấy được lợi ích của bố thí ấy [4]. Thực chất cảnh giới chúng sanh trong loài quỷ có nhiều loại, tùy theo phước báo và nghiệp lực sai biệt, nên sanh vào trong loài quỷ cũng có nhiều loại. Thức ăn chúng ta hiến cúng, tương ưng với nghiệp lực loài đó, thì có sự thọ nhận. Kinh điển Phật Giáo Nguyên Thủy và Đại Thừa thường nhắc đến loài quỷ có phước và oai lực, loài quỷ thiếu phước khổ đau và đói khát. Có loài quỷ thường xuất hiện trong không gian, chỉ có người có tuệ nhãn mới thấy. Điều này được ghi nhận trong Kinh Nikaya ghi rất rõ ràng, khi tôn giả Mục Kiền Liên (Maha Moggallana) trong thấy có nhiều loài quỷ quái dị mà người bình thường không thể thấy, và Đức Phật xác nhận điều ấy qua đoạn Kinh sau: “Xưa kia, này các Tỳ-kheo, Ta đã thấy chúng sanh ấy nhưng Ta không có nói. Nếu Ta có nói, các người khác cũng không tin Ta. Và những ai không tin Ta, những người ấy sẽ bị bất hạnh, đau khổ lâu dài.”[5].
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo. Nếu không hiểu rõ ý nghĩa tích cực và phương pháp lễ cúng này và nếu áp dụng lễ cúng thí theo kiểu Tế Đàn cực đoan của Bà La Môn giáo và ngoại đạo thì chắc chắn không không có phước báo tốt đẹp. Một lễ cúng đầy đủ ý nghĩa cần có thực phẩm hiến cúng và dùng pháp ngữ khai thị hương linh, ngạ quỷ nhận thức đạo lý để xả ly chấp thủ, luyến ái và sớm được giải thoát tự tại. Vấn đề ở đây cần nhận thức rõ ràng tinh thần người hiến cúng và đối tượng được hiến cúng trong pháp thí thực một các có trí tuệ, mới có sự lợi lạc.
Người Hiến Cúng
a) Người hiến cúng bằng pháp bất thiện
Người hiến cúng thí thực bằng pháp bất thiện sẽ mắc nghiệp xấu, vì giết hại sanh linh lấy thịt cúng tế sẽ tạo ba thứ ác nghiệp từ thân, miệng và ý, chắc chắn sẽ đưa đến kết quả không như ý muốn. Điều này được ghi lại trong Kinh Tăng Chi qua Phẩm Tế Đàn, khi Đức Phật đã trả lời cho Bà La Môn Uggatasarìra. Vị Bà La Môn này ý định đốt lửa, dựng trụ tế đàn, giết hàng trăm con bò, con cừu, con heo làm thực phẩm hiến cúng để cầu mong được quả phước lớn. Đức Phật đã thẳng thắn phê phán, cho đó là hành động bất thiện chỉ đưa đến quả khổ trong đời này và đời sau, Ngài dạy như sau: “Này Bà-la-môn, người nhen nhúm ngọn lửa, dựng lên trụ tế đàn, trước khi lễ tế đàn, dựng lên ba cây kiếm này, đưa đến khổ sanh, khổ dị thục”.[1] (Dựng lên ba cây kiếm là dụ cho ba nghiệp xấu ác của thân, miệng và ý, vì đã giết hại sanh linh để làm thực phẩm cúng tế một cách mù quáng). Qua đó chúng ta hiểu rằng, trong Dân Gian Việt Nam, nếu cá nhân gia đình, hay truyền thống làng và họ, với bất kỳ nghi lễ cúng tế nào mà sát sanh, hại vật đều đưa đến quả khổ chung cả người cúng tế lẫn đối tượng được cúng.
b) Cúng thí thực bằng pháp thiện
Người hiến cúng bằng thiện pháp sẽ đưa đến phước lành, họ không sát hại sanh linh để lấy thịt hiến cúng, dùng phẩm vật thanh tịnh cúng tế. Pháp hiến cúng này thể hiện được phẩm hạnh từ bi giúp các sanh linh thoát khỏi cảnh giới đói khổ. Trong kinh Tăng Chi Đức Phật giải thích rõ cho các người Bà La Môn như sau: “Này Bà la môn, tại những tế đàn nào, trong ấy không có bò bị giết, không có dê cừu bị giết, không có gà heo bị giết, không có các loài sinh vật khác bị giết hại. Này Bà la môn, Ta tán thán loại tế đàn không có sát sinh như vậy, tức là làm bố thí, tế đàn cầu hạnh phúc cho gia đình. Những loại tế đàn không có sát sinh như vậy, này Bà la môn, các A la hán và những ai đi trên con đường hướng đến A la hán, có đi đến.”[2] Qua đoạn Kinh trên, nội dung khẳng định rõ ràng, cúng tế không sát hại sanh linh là có quả báo tốt đẹp, đáng được tán thán.
2. Đối tượng được cúng
a) Sanh được làm người là khó (Ý nghĩa này mang tính chất pháp thí, trong pháp ngữ của nghi cúng mà hương linh- ngạ quỷ cần nhận biết)
Thuật ngữ Hương Linh, Vong Linh chỉ cho người thế tục qua đời. Thuật ngữ Giác Linh là chỉ cho người có giới đức và phẩm hạnh qua đời. Ở đây, các bậc thánh giả, thoát ly luân hồi chúng ta không bàn tới trong chuyện cúng thí. Theo tuệ giác của Phật thì, những hạng người không tu tập thiện pháp, người sát sanh, trộm cắp, tà hạnh và ác khẩu, khi chết không được sanh thiên giới, không được tái sanh làm người, phần đông sanh vào cảnh giới thấp như địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Đức Phật dạy: “Này các Tỳ-kheo, ít hơn là các chúng sanh sau khi chết từ thân người, được tái sanh làm người lại. Và nhiều hơn là các chúng sanh sau khi chết từ thân người, phải tái sanh vào cõi ngạ quỷ [3]. Những chúng sanh trong loài quỷ này, đa số chịu nhiều sự đói khát và có hình thù quái lạ, phần nhiều cầu mong sự cúng thí thực phẩm của người đời. Phẩm vật hiến cúng và đối tượng thọ nhận phải có sự tương ưng. Trong văn hóa cúng bái nhân gian Việt Nam, mỗi khi cúng, người ta thiết hai bàn, bàn thượng và bàn hạ. Bàn thượng cúng hương hoa, bông trái và nước trong thanh khiết dành cúng cho chư thiên và các chúng sanh ở cảnh giới cao, gọi là bàn Thiên. Bàn hạ là cúng thức ăn thông thường như người đang sống thường dùng, như cơm, cháo, bánh trái để cúng cho các hương linh, gọi là bàn hương linh.Trong nghi thức chẩn tế và siêu độ thì đàn tràng được thiết lập theo triết lý Mật Tông. Người cúng thỉnh sư đọc tụng chân ngôn, cầu sự gia trì của Phật và Bồ tát, giúp cho chúng hương linh (ngạ quỷ) được thọ dụng no đủ và thoát khổ.
b) Sự hiến cúng thực phẩm, vì sao cần khai thị hương linh trong lễ cúng
Theo kinh Phật dạy, các hương linh đó nếu thọ dụng được thức ăn hiến cúng đó, tương đương chúng sanh trong cảnh giới ngạ quỷ. Cho nên hương linh là ngôn ngữ nhân gian, có thể thọ nhận được sự hiến cúng phẩm vật. Kinh chép rằng: “Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi ngạ quỷ. Món ăn của chúng sanh ngạ quỷ như thế nào, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Món ăn nào các bạn bè, hoặc thân hữu, hoặc bà con, hoặc người cùng huyết thống từ đấy muốn hướng cúng cho vị ấy, tại đấy vị ấy sống với món ăn ấy; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là tương ưng xứ, trú ở đây, vị ấy được lợi ích của bố thí ấy [4]. Thực chất cảnh giới chúng sanh trong loài quỷ có nhiều loại, tùy theo phước báo và nghiệp lực sai biệt, nên sanh vào trong loài quỷ cũng có nhiều loại. Thức ăn chúng ta hiến cúng, tương ưng với nghiệp lực loài đó, thì có sự thọ nhận. Kinh điển Phật Giáo Nguyên Thủy và Đại Thừa thường nhắc đến loài quỷ có phước và oai lực, loài quỷ thiếu phước khổ đau và đói khát. Có loài quỷ thường xuất hiện trong không gian, chỉ có người có tuệ nhãn mới thấy. Điều này được ghi nhận trong Kinh Nikaya ghi rất rõ ràng, khi tôn giả Mục Kiền Liên (Maha Moggallana) trong thấy có nhiều loài quỷ quái dị mà người bình thường không thể thấy, và Đức Phật xác nhận điều ấy qua đoạn Kinh sau: “Xưa kia, này các Tỳ-kheo, Ta đã thấy chúng sanh ấy nhưng Ta không có nói. Nếu Ta có nói, các người khác cũng không tin Ta. Và những ai không tin Ta, những người ấy sẽ bị bất hạnh, đau khổ lâu dài.”[5].
Có những người qua đời tái sanh trong loài quỹ vẫn còn lưu luyến người thân. Một chi tiết trong Kinh Tăng Chi thuật về cuộc đối thoại của nữ cư sĩ Velukantakì và tôn giả Sàriputta chứng minh điều đó. Kinh chép như sau: “Ở đây, thưa Tôn giả, người chồng của con, khi mạng chung, sanh vào loại Dạ-xoa, và vị ấy hiện lên trước mặt con, với một tự ngã như lúc trước. Nhưng thưa Tôn giả, con rõ biết, không vì nhân duyên ấy, tâm của con có đổi khác.[6] Như vậy, dù qua kiếp khác, nhưng ấn tượng về những gì trong đời trước vẫn còn, nên các loài quỷ còn bám víu người thân và hoàn cảnh sống quá khứ. Cho nên, ngoài phẩm vật cúng thí, còn dùng giáo nghĩa Phật dạy, khai thị cho hương linh, ngạ quỷ nhận thức để xả ly sự chấp thủ các yếu tố tham ái để được giải thoát là điều cần thiết.
Kết luận
Phật giáo không phải thiết lập mục đích sự chứng ngộ thông qua nghi lễ cúng tế. Nhưng thực hiện nghi thức cúng thí thực cho người đã khuất bằng phẩm vật thanh tịnh, không giết hại sanh linh làm phẩm vật cúng tế là được Đức Phật tán thán. Pháp thí thực như vậy không phải xuất phát từ tính ngưỡng ngoại đạo mà có. Vì thông qua pháp ngữ trong lễ cúng, chư hương linh-ngạ quỷ nhận chân được chân lý Phật dạy.
Chúng ta nên xem những chúng sanh bị đọa lạc trong cảnh giới khổ đau, có thể họ đã từng là cha mẹ, tổ tiên, thân bằng quyến thuộc của chúng ta nhiều đời kiếp, họ đáng được báo ân và và thọ nhận sự bố thí cúng dường. Đó là việc làm thiết thực và có quả phước lành đáng được tôn trọng.
Trong cuộc sống hiện đại, con người chạy theo những giá trị vật chất, dễ dàng quên đi cái ân nghĩa đối người thân thuộc đã qua đời. Thực hiện bố thí trong đó có Pháp Thí luôn nuôi dưỡng và khơi dậy tinh thần cứu khổ và ban vui của đạo Phật đối với chúng sanh ngay trong đời này và các đời sau./.
[1] Tăng Chi Bộ - Anguttara Nikaya, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt, Chương VII - Bảy Pháp, Phẩm Tế Đàn
[2] ĐTKVN,Tăng Chi BộI, chương 4, phẩm Bánh xe, phần Ujjaya, VNCPHVN ấn hành, 1996, tr.629
[3] Kinh Tương ưng bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2015, tr.830.
[4] Kinh Tăng chi bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2015, tr.720.
[5] Kinh Tương ưng bộ, tập 1, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2015, tr.599-606
[6] Tăng Chi Bộ - Anguttara Nikaya. Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt, Phẩm Tế Đàn, Phần: Mẹ Của Nanda
http://www.phathocthuongthuc.com/ind...an-kinh-nikaya
-
-
-
Mũi: Xông ngũ hương, dược liệu
14/05/2020 - 06:08 Lượt xem: 241
Bí mật của Hương giải thoát
Trầm hương hay các loại hương đốt tinh chế từ thảo dược quý (đinh hương, thảo quả, quế hồi, bạch giới tử) thuộc dương tính đặc biệt có tác dụng xua đuổi tà khí, thanh lọc thân tâm, tịnh hóa môi trường sống.
Theo vũ trụ học Mật thừa, khi các nguồn năng lượng tiêu cực xâm nhập vào đời sống, biểu hiện bên ngoài là thân bệnh, bên trong có thể là các loại tà khí quấy nhiễu, sâu hơn nữa là các loại xúc tình phiền não, tâm nhị nguyên phân biệt.
Các y sư vùng Himalaya thường đốt hương liệu và cho người bệnh xông, ngửi luồng năng lượng khí từ khói thảo dược này như là một phương pháp y thuật để loại trừ âm khí ra khỏi người bệnh.
Những nơi có không khí lạnh lẽo, u ám, nhiều âm khí là môi trường chiêu vời các loại bệnh tật, virus xâm nhập, vì vậy cần được thanh lọc. Việc đốt các loại thảo dược dương tính có thể khử âm khí và tạo ra nguồn năng lượng an lành. Hiểu theo tâm linh, đó chính là sự gia hộ bảo vệ của chư Thiên, bách thần hộ pháp.
Ở nhà cũng như công sở, chúng ta cần tạo ra bầu năng lượng tích cực bằng cách vệ sinh sạch các vật dụng, đồng thời xông, đốt các hương thơm có nguồn từ tinh chất thảo dược nguyên chất; không nên dùng hóa chất sẽ phản tác dụng.
Giải thoát qua sự Ngửi
Các nhà khoa học cho rằng 75% cảm xúc của con người được kích hoạt bởi mùi hương có liên hệ tới niềm vui, hạnh phúc, cảm xúc và trí nhớ.
Mùi hương của các loại trầm, thảo dược, hay hương từ Bhutan tác động đến các giác quan, kích thích các kênh năng lượng, giúp lưu thông khí mạch và khai phóng năng lượng tích cực nơi mỗi người.
Theo Đạo Phật, trong sáu căn của con người là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, căn mũi hay tỵ căn đặc biệt quan trọng, ta có thể không thấy, không nghe không biết, không làm, nhưng ta không thể không hít thở. Quán sát hơi thở, nhận biết hơi thở vào ra giúp tâm ta trở nên an định và tỉnh thức hơn.
Các loại thảo dược hay hương liệu như hương trầm, đinh hương, thảo quả, quế hồi, bạch giới tử… không chỉ là phương tiện Phật tử cúng dàng lên chư Phật, Bồ Tát, mà hương thơm tinh khiết của thảo dược tự nhiên còn là liệu pháp tuyệt vời giúp chúng ta loại bỏ trược khí, thanh lọc thân tâm và cải thiện sức khỏe.
Kinh Phật dạy rằng Chư Phật, Bồ tát nhờ có công phu tu hành thành tựu nên các ngài tỏa ban “hương thơm Bồ đề” bao trùm khắp mọi thế giới, đó là hương của ‘tâm giác ngộ’ giúp cho chúng sinh có thể nương nhờ vào đó mở mang trí tuệ, đạt được giác ngộ, giải thoát.
Phật giáo Himalaya thường sử dụng trầm hương để giải tỏa stress, tăng cường sự tập trung, an định, giúp cho giác quan trở nên nhạy bén, khai mở luân xa và trưởng dưỡng trí tuệ. Những điều này đặc biệt quan trọng đối với việc thực hành thiền định và yoga.
(Nguồn ảnh: Lorenz Berna)
Bạch giới tử cũng là một trong những dược liệu có năng lực tịnh hóa rất mạnh, từng được Đức Kim Cương Thủ - vị Bồ tát uy lực trong Kim Cương bộ với công hạnh chính là phá tan mọi hận thù, xung đột và những ảnh hưởng tiêu cực khác, cúng dàng lên Đức Phật.
Bạch giới tử nêu biểu cho Chính kiến trong Bát Chính Đạo. Hương Bạch giới tử khi đốt cháy có tác dụng tịnh trừ tà khí, xua đuổi quỷ thần, oan hồn uổng tử nhiễu hại con người.
Hương thảo dược thanh tịnh, được sử dụng đúng cách có thể trở thành ‘hương giải thoát’, không chỉ giúp chúng ta thanh lọc thân tâm mà trên hết, có khả năng đưa mình trở về tự tính an lạc vốn sẵn có và tịnh hóa tâm nhị nguyên.
(Mai An biên soạn)
http://daibaothapmandalataythien.org...?itok=5gfUkLCx
http://daibaothapmandalataythien.org...ong-giai-thoat
-
Xúc chạm: Đeo đồ gia trì hộ thân
20/04/2020 - 06:08 Lượt xem: 407
Sự gia trì từ Pháp khí Hộ thân và các biểu tượng giác ngộ
Thời kỳ giãn cách xã hội là quãng thời gian chúng ta có thể tận dụng để chăm lo, tăng cường sức khỏe để phòng tránh dịch bệnh bằng nhiều cách, từ tập luyện thể thao, thiền, cải thiện chế độ ăn uống đến việc duy trì sinh hoạt lành mạnh…Việc có được cơ thể khỏe mạnh là rất cần thiết. Chỉ khi khỏe chúng ta mới có thể lực và sức đề kháng chống lại sự xâm nhập của virus, bệnh tật. Khi có sức khỏe, chúng ta mới có thể sống hạnh phúc bình an.
Là Phật tử, chúng ta cũng cần biết cách sử dụng các đồ hộ thân gia trì. Nếu đôi khi bạn còn chủ quan cho rằng mọi thứ đều ổn, những pháp khí hộ thân mang theo người sẽ vướng víu, bất tiện, thì phần giải thích sau đây hy vọng sẽ giúp bạn thực sự hiểu và trân trọng những Pháp khí hộ thân quý giá này.
Đeo Hộ luân gia trì
Hộ luân gia trì nghĩa là gì? “Hộ” là sự hộ trì che chở, “luân” chính là Mandala được các Bậc Thầy tạo ra từ các chất liệu thanh tịnh khác nhau để hộ mệnh cho nên gọi là hộ luân hộ mệnh hay thường gọi là Pháp khí hộ thân.
(Nguồn ảnh: Trung tâm Phật Trường Thọ)
Các Pháp khí hộ thân này được tạo ra từ nhiều cách: Chân ngôn được viết bằng vàng, các chất liệu ngọc, đá quý nhiều màu sắc, chỉ ngũ sắc, các loại linh dược và cả xá lợi Phật, xá lợi chư Thượng Sư giác ngộ. Các Pháp khí hộ thân này có sự gia trì Thân Khẩu Ý Giác ngộ của Chư Phật. Lịch sử ghi nhận rằng Đức Phật và Đức Liên Hoa Sinh đã điều phục vô số quỷ thần và chuyển hóa họ trở thành các bậc Hộ pháp. Vì vậy, việc sử dụng các biểu tượng giác ngộ và chân ngôn sẽ nhắc nhở các quỷ thần về Tam muội da giới họ đã phát nguyện và không quấy phá, nhiễu hại người đeo các biểu tượng này.
Đặc biệt, khi bạn đeo (chạm) vào hộ luân gia trì liên tục sẽ giúp tăng trưởng công đức, tác động mạnh mẽ tích cực đến toàn bộ thân tâm vi tế và bảo hộ khỏi nỗi sợ hãi ma quỷ, dịch bệnh, hạn hán, chiến tranh, động đất, hỏa hoạn, tác động tiêu cực từ các hành tinh...Trong Sáu sự giải thoát của Kim Cương thừa, đây được gọi là “Giải thoát qua sự Xúc chạm”
Hãy luôn nhớ, Pháp khí hộ thân là sự kết tinh từ tinh túy của Phật pháp, là sự giải thoát, giác ngộ, từ bi, trí tuệ, là những năng lượng tích cực mà không gì có thể phá hủy được, hoàn toàn không phải các bùa chú thế gian.
Chuỗi tràng mà bạn trì tụng Chân ngôn hàng ngày, đặc biệt là nếu được một bậc Thượng Sư giác ngộ ban gia trì cho chuỗi tràng, cũng là một pháp khí hộ thân đầy năng lực. Hãy luôn mang theo các Pháp khí quý giá này bên mình như vật bất ly thân. Không chỉ trong thời gian bệnh dịch đe dọa mà mọi lúc, mọi nơi, vì lợi ích vô giá mà các Pháp khí đó mang lại cho bạn.
http://daibaothapmandalataythien.org...?itok=LX5gOX5N
http://daibaothapmandalataythien.org...tuong-giac-ngo
-
Lưỡi: Ăn chay, nếm thuốc gia trì
Thọ dụng thuốc gia trì – “thần dược” tịnh hóa thân tâm
Từ nguyên liệu thảo dược lấy từ các vùng thánh địa, được hấp thụ năng lượng tinh túy của vũ trụ từ lúc mọc mầm, cùng xá lợi tôn quý của các Bậc giác ngộ và nhiều chất liệu linh thiêng khác, trải qua các nghi lễ tâm linh nghiêm mật và được làm với tâm chí thành và sự thiền định của hành giả, mỗi viên thuốc gia trì cam lồ nhỏ như những hạt kê nhưng lại chứa đựng vô số công đức và năng lượng tâm linh của Từ bi và Trí tuệ, có công dụng mang lại ân phúc gia trì cho người dùng, giúp hành giả nhanh chóng thành tựu pháp, chữa lành thân tâm bệnh.
Xuất phát từ lòng từ bi vô hạn, chư Phật Bồ tát có thể hóa hiện thành những hình tướng vô tình nhằm truyền trao năng lượng gia trì và giác ngộ qua các cách thức khác nhau, thuốc gia trì chính là phương tiện giải thoát qua sự nếm (nếm tức giải thoát).
Theo truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa, thuốc gia trì hay thuốc cam lồ trong có thể được ngậm, pha cùng nước nóng để uống hay mang theo người để hộ thân.
Thọ dụng thuốc gia trì với tâm chí thành, tri kiến đúng đắn có thể giúp Phật tử chứng ngộ được Tính không, bảo hộ chúng ta thoát khỏi nạn vũ khí, độc dược, giúp tịnh hóa ô nhiễm trong tâm, làm tăng trưởng những ý nghĩ thiện lành, đối trị vô minh và đau khổ.
http://daibaothapmandalataythien.org...?itok=Db7LbKNE
http://daibaothapmandalataythien.org/54-uong-thuc-duong
-
-
-
-
-
-
https://www.youtube.com/watch?v=BMLPtL5Ergg
Tam Giáo Chính Độ-Phép Khai Quang Điiểm Nhãn Vong (39)
-
-
https://www.youtube.com/watch?v=g4XLDDc4-jQ
Tam Giáo Chính Độ-Phó Chúc Chỉ Lộ-Lễ Địa Tạng Phó Chúc (11)
-
https://www.youtube.com/watch?v=W2Wrx4nCjgU
Tam Giáo Chính Độ-Các bước Pháp Sư Phó Chúc cho người ốm (5)
-
https://www.youtube.com/watch?v=Z_N3bzxV2sE
Tam Giáo Chính Độ-Phó Chúc Tụng Kinh-Chuyển Sắc Thân (9)
-
-
https://www.youtube.com/watch?v=PJESItwe360
Tam Giáo Chính Độ-Nghi thức lúc lâm chung (17)
-
https://www.youtube.com/watch?v=gI6jDMxK_O0
Tam Giáo Chính Độ-Phép Liệm do Sản Vong-Trụy Thai (34)
-
https://www.youtube.com/watch?v=1G1ZLM2l2eM
Tam Giáo Chính Độ-Nghi thức khi người ốm đã qua đời (16)