-
財神感應咒 / ﹕财神感应咒 : 嗡 針 隆木 梭哈 / 「嗡。针隆木。梭哈。」
Tài Thần Cảm Ứng Chú: OM JAM LUM SVAHA / OM DZUM LUM SWAHA
http://tw.sky1109.com/category/%E8%9...9%B9%E5%8D%80/
https://books.google.com.vn/books?id...%9C%A8&f=false
============
黑财神修法 1、先唸召请咒:「嗡。别炸沙嘛牙。 。」三声。 2、静坐观想黑财神降临,黑财神放黑 。财神皆忿怒相。 供养黑财神者,唸黑财神心咒: 「嗡。烟渣呢目抗。渣妈咧。梭哈。 (嗡 英扎尼目看 扎玛利 司哇哈) 此咒共唸百○八遍。 持完咒,再持财神感应咒: 「嗡。针隆木。梭哈。」 感应咒持二十一遍即可。 站了起来,持一杯供养水,用三山印 剑印,右手剑印,左手三山印持杯, 变甘露水咒: 「嗡。沙尔娃瑟爹。吽。」三遍。 观想,黑财神就在眼前。将甘露水洒 其心口。黑财神心口得到清凉,心中 兴,吐宝鼠就「哇 拉哇拉」的吐出许多金银财宝。 对财神的礼赞偈曰: 「敬礼财神诸尊,普行饶益誓愿, 布施财物珍宝,免除众生贫苦, 广大功德圆满,人天欢喜赞美。」 恭送黑财神。
http://tw.sky1109.com/category/%E8%9...9%B9%E5%8D%80/
https://books.google.com.vn/books?id...%9C%A8&f=false
==
Hắc Tài Thần Tâm Chú :
OM JLUM SVAHA OM INDRAYANI MUKHAM BHAMARI SVAHA .
http://minhtamkientanh.blogspot.com/...u-cau-tai.html
https://www.lamayeshe.com/article/chapter/appendices
-
June 2014 - Lotus Bodhi in America
lotusbodhi.blogspot.com/2014/06/
Translate this page
Jun 25, 2014 - 看到贫穷的人,帮他们念多宝如来的 号,化解他们过去偷盗悭贪的恶因, 他们有福报。做生意的朋友 ... http://blog.sina.com.cn/s/articlelis...31845_5_1.html 三皈体是佛法的 ...... 嗡藏巴拉藏炼札呀达拿美迪舍依梭哈 修习红财神法, ... OM DZAMBHALA DZALEN DRAYE SVAHA ... 唵英乍尼木看乍玛利梭哈
http://lotusbodhi.blogspot.com/2014/06/
-
[PDF]1900-Ol
https://ci.nii.ac.jp/els/contentscin...=ART0001211458
by 定方晟 - 1997 - Cited by 1 - Related articles
om Jambhala−Caranendraya svaha. , ○ ,. 多 くは ksim と ... sa 甲 prasthite sarva −tathagata−pratisthite§uddhe svaha. + maha ...... が針 を吸い つ. けるよ うで ...
https://ci.nii.ac.jp/els/contentscin...=ART0001211458
https://ci.nii.ac.jp/els/contentscin...=ART0001211458
-
-
-
https://www.youtube.com/watch?v=wKcxWXC1l9M
伽蓝菩萨
伽蓝尊者咒 / GIÀ LAM TÔN GIẢ CHÚ:
【弩荻雅玛依诺 弩荻哈雅玛侯】
佛教伽蓝神是保护伽蓝(寺庙)的神 佛说有十八神保护伽蓝,即美音、梵 、天鼓、叹妙、叹美、摩妙、雷音、 师子、妙叹、梵响、人音、佛奴、颂 、广目、妙眼、彻听、彻视、遍视, 称伽蓝圣众菩萨。以伽篮菩萨(关公 )形象为代表。
伽蓝菩萨圣诞在农历五月十三伽蓝尊 俗称关公,于三国时期,为一名闻天 之大将。其威武正气,忠勇义德,诚 信质朴之风范流传千古。尤以桃园结 ,千里寻兄等智勇双全之事迹,最为 世津津乐道。乃具备了以忠事主、以 勇立功、以义待人、以德服众的高尚 格。传说中,阿育王虽为崇法爱民之 君圣王,却因临命终时瞋心大起,而 投生于畜生道。关羽虽于人道之品格 风亮节,却因生前杀业太重,死于瞋 。其英魂游荡至玉泉山,受普庆大师 指点迷津。几百年后,天台宗开山祖 智者大师云游至此,为其开示解脱之 ,并为其授皈依戒,遂成为佛教护法 。关公深受广大百姓拥护,而历代帝 所赐予关公之封号更不胜其数。在儒 中崇其为武圣,在道教中尊之为三界 伏魔大帝。此信仰可谓遍于儒、释、 三教。
-
Yellow Jambhala Mantra ( 蓮生活佛 ) ☆ | 黃財神心咒 |εїз Garden of Mantras εїз2 months ago【黃財神心咒】:嗡。針巴拉。查冷查那耶。梭哈【Yellow Jambhala Mantra】 「Om。jum-bah-lah。chan-lan-chah-nah-yeh。so-ha」 In Tibetan Buddhism, Yellow
Yellow Jum Bala Mantra - Karnaval
karnaval.atozviews.com/.../q2qu6uj5jmdt2tgtw8we6el6z8zx6xm8...
Translate this page
針巴拉。查冷查那耶。梭哈。 Om, jum-bah-lah, chah-lan chah-nah-yeh, so-ha 黃 ..... Om Jambhala Jalendraye Svaha 嗡藏巴拉扎念扎耶梭哈杨小琳(敬善媛) 新浪 ...
-
-
Om jam bha la ja len dra ya svaha/om indra ni mukham bhra ma ri svaha/om jam lum svaha
嗡瞻巴拉 渣连札呀 梭哈 及 嗡因札尼 木坎 跋玛哩 梭哈 加持。嗡瞻伦梭哈 (一百零八遍献之)
http://blog.sina.com.cn/s/blog_63999e900102xh40.html
=
圣黑瞻巴拉水供仪轨·成就精华_转变 运基地_新浪博客
blog.sina.com.cn/s/blog_63999e900102xh40.html
Translate this page
Dec 10, 2017 - Om jam bha la ja len dra ya svaha/om indra ni mukham bhra ma ri svaha/om jam lum svaha. 嗡瞻巴拉渣连札呀梭哈及嗡因札尼木 跋玛哩梭哈 .
http://blog.sina.com.cn/s/blog_63999e900102xh40.html
-
Oṃ_ Jambhala-yakṣa-pataye svāhā.
Triệu Nhất Thiết Dược Xoa Chúng Chú là:
“Úm, chiêm bà ra, dược xoa, ba đá duệ, sa ha”.
Oṃ_ Jambhala-yakṣa-pataye svāhā
https://hoavouu.com/images/file/2-k-...EZk/no-947.pdf
-
Linh Quang Huế
Xuân Tân Hợi
Dịch giả cẩn đề.
KINH KIM-QUANG-MINH
Dịch giả
THÍCH THIỆN TRÌ
KINH ĐẠI THỪA KIM QUANG MINH
PHẨM THỨ CHÍN
KIÊN LAO ĐỊA THẦN
Lúc bấy giờ có Địa Thần Kiên Lao bạch Đức Phật rằng:
Kính bạch Thế Tôn! Kinh Kim Quang Minh mầu nhiệm như vậy, hoặc đời hiện tại, hoặc đời vị lai, bất luận nơi nào, hoặc nơi thành thị, hoặc chỗ xóm làng, hoặc trong núi rừng, hoặc ở trên sông, hoặc giữa chỗ không, hoặc trong vương cung... Bạch Đức Thế Tôn! Tùy chỗ nào có phổ biến kinh nầy, trong địa phận ấy, trải tòa Sư tử thỉnh vị Pháp sư ngồi trên tòa ấy, diễn giảng rộng rãi kinh điển quí nầy, con sẽ đến đó thường xuyên hộ vệ, ẩn dưới pháp tòa, đầu đội hai chân của vị Pháp sư. Con nghe pháp rồi, được uống pháp vị cam lồ vô thượng, càng tăng khí lực, cả đại địa nầy sâu mười sáu vạn tám ngàn do tuần, từ Kim Cang Tế (1) đến trên mặt biển và chỗ đất liền, được các chất vị tăng trưởng đầy đủ, phì nhiêu, phát đạt hơn ngày thường nhiều. Vì vậy cho nên trong cõi Diêm Phù cây cối, thảo dược gốc rễ, nhánh lá, hoa trái sum sê, màu sắc tốt tươi, mùi vị thơm ngon đều đầy đủ cả. Chúng sanh ăn rồi càng thêm sống lâu, sắc lực an ổn, tâm trí thông minh, sáu căn lanh lợi, oai đức nhan mạo đặc biệt đoan nghiêm. Thành tựu tất cả việc như vậy rồi, làm các sự nghiệp đều được thành công. Có thế lực lớn, siêng năng mạnh bạo! Thế Tôn! Vậy nên trong cõi Diêm Phù an ổn, vui vẻ, nhân dân thạnh trị, tất cả chúng sanh đều được khoái lạc. Tùy chỗ ưa mến, thích ý vừa lòng!
Các chúng sanh nầy được đủ oai đức thế lực lớn rồi, hay cúng dường Kinh Kim Quang Minh nầy, và hay cung kính, cúng dường bốn chúng thọ trì kinh nầy. Lúc đó con sẽ đến ngay chỗ ấy, vì làm cho các chúng sanh đều được an ổn khoái lạc, thỉnh người thuyết pháp tuyên thuyết rộng rãi kinh điển như vậy.
Vì sao như thế? - Bạch đức Thế Tôn! Nếu khi nào có phổ biến kinh điển Kim Quang Minh nầy, con và quyến thuộc được phần công đức gấp bội lúc thường, càng thêm thân lực, tâm phát lanh lợi!
Kính bạch Thế Tôn! Con uống pháp vị cam lồ vô thượng rồi thì ở cõi Diêm Phù Đề nầy chu vi pháp hội bảy ngàn do tuần đều được phát đạt hơn lúc bình thường!
Bạch đức Thế Tôn! Quả địa cầu nầy, chỗ chúng sanh nương, đều hay tăng trưởng tất cả những vật cần dùng đời sống. Tăng trưởng đủ những vật cần dùng rồi, khiến các chúng sanh tùy ý sử dụng, thọ sự khoái lạc. Tất cả các thứ cơm áo, thuốc men, nhà cửa cung điện, cây cối, vườn rừng, sông, suối, ao, giếng, các vật nương tựa nơi đất như thế đều đầy đủ cả!
Thật vậy, Thế Tôn! Các chúng sanh ấy, vì biết ân con, nên nghĩ thế nầy: Ta phải quyết định nghe và lãnh hội kinh nhiệm mầu nầy, cung kính, cúng dường, tôn trọng, tán dương. Nghĩ như vậy rồi, liền từ chỗ ở hoặc nơi thành lũy, hoặc ở xóm làng, hoặc nơi nhà cửa, hoặc giữa chỗ không, đến nơi pháp hội để nghe kinh nầy. Khi đã nghe và lãnh thọ xong rồi, trở về chỗ ở, đều quí mến nhau, khuyên bảo nhau rằng:
Chúng ta nay đây nghe pháp thậm thâm vô thượng nhiệm mầu, đã được thâu nhóm các món công đức không thể nghĩ bàn, cũng như vô lượng, vô biên chư Phật; quả báo chúng sanh trong ba đường ác đã được giải thoát,ở đời vị lai thường sanh cõi người và các cõi trời hưởng thọ an lạc!
Các chúng sanh nầy đều ở ngay nơi chỗ ở của mình, hoặc vì người khác giảng nói kinh nầy, hoặc một ví dụ, một phẩm, một duyên, hoặc là xưng tán một đức Thế Tôn, một vị Bồ Tát, hoặc một bài kệ, cho đến một câu và xưng đầu đề tên của kinh nầy.
Kính bạch Thế Tôn! Tùy chúng sanh ấy ở nơi chỗ nào, thì ngay nơi đó thường được phong phú, phì nhiêu đầy đủ hơn các nơi khác. Phàm những vật gì nhơn đất sanh ra, đều được tăng trưởng to lớn tốt tươi, khiến các chúng sanh hưởng thọ khoái lạc, giàu có của cải, châu báu tiền bạc, ưa hạnh bố thí, tâm thường thâm tín Tam Bảo kiên cố!
Lúc ấy Phật bảo Địa Thần Kiên Lao:
Nếu chúng sanh nào, cho đến chỉ nghe nghĩa một câu kinh Kim Quang Minh nầy, ở trong cõi Người, sau khi lâm chung, tùy ý vãng sanh lên ở cõi Trời Tam Thập Tam thiên.
Địa Thần! Nếu có những chúng sanh nào, vì muốn cúng dường kinh mầu nhiệm nầy, trang nghiêm nhà cửa, cho đến hoặc treo một cái tràng phan, hay một bảo cái, dùng một cái áo... Cõi Trời Lục Dục ở cõi Dục giới đã có cung điện bảy báu tự nhiên người ấy mạng chung, liền được vãng sanh đến ở nơi đó.
Địa Thần! Trong những cung điện bảy báu, mỗi mỗi tự nhiên có bảy Thiên Nữ, cùng nhau vui vẻ, ngày đêm thường được khoái lạc vô cùng, không thể nghĩ bàn!
Lúc ấy Địa Thần bạch đức Phật rằng:
Kính bạch Thế Tôn! Do nhơn duyên ấy, khi vị Tỳ khưu thuyết kinh pháp nầy, ngồi trên pháp tòa, con thường ngày đêm luôn luôn hộ vệ, không hề xa lìa, ẩn dưới pháp tòa, đầu đội hai chân vị Pháp sư ấy.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu có chúng sanh ở trăm ngàn Phật trồng các thiện căn, người nói pháp ấy, vì những lẽ đó ở cõi Diêm Phù phổ biến rộng rãi kinh nhiệm mầu nầy, khiến không đoạn tuyệt. Các chúng sanh ấy được nghe kinh nầy, ở đời vị lai, vô lượng trăm ngàn na do tha kiếp thường sanh cõi Người và các cõi Trời, hưởng thọ khoái lạc gặp được chư Phật dứt trừ tất cả những điều khổ báo trong ba đường ác, mau được chứng thành Chánh đẳng Chánh giác!
https://kilopad.com/Ton-giao-Tu-tuon...-7-quyen-2-ti7
-
Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh [金光明最勝王經] »» Bản Việt dịch quyển số 8
Tải file RTF (8.348 chữ) » Việt dịch (1) » Việt dịch (3) » Việt dịch (4) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt
Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song: Xem đối chiếu
Kinh Kim Quang Minh
Kinh này có 10 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem: 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 |
Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
PHẨM 18: ĐỊA THẦN KIÊN LAO
Bấy giờ địa thần Kiên Lao từ trong chúng hội đứng dậy, chắp tay cung kính bạch Đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Dù ở hiện tại hay là vị lai, hễ nơi nào có kinh này lưu truyền dù là thành thị, hay ở xóm thôn, lầu đài cung điện, núi rừng đầm vắng…con cũng sẽ đến cúng dường bảo vệ. Nếu nơi nào có đặt tòa cao cho pháp sư giảng thuyết bộ kinh vua này, con dùng thần lực, ẩn thân đến tòa dùng đầu đỡ chân vị pháp sư ấy. Bấy giờ con được nghe pháp, được nếm pháp vị, tăng thêm oai quang, nên lòng vô cùng vui mừng. Tự thân đã được lợi ích như thế, lại còn làm cho cả đại địa này, từ mặt đất sâu đến mười sáu vạn tám ngàn du-thiện-na giáp mé kim cang, cũng được tăng trưởng những chất dinh dưỡng, cho đến tất cả đất trong bốn biển cũng đều màu mỡ hơn xưa. Lại cũng khiến cho rừng rậm cây cối, cỏ thuốc hoa quả, cành lá gốc rễ, lúa mạ mầm chồi tốt tươi xinh đẹp, rất đáng ngắm nhìn, lại còn đầy đủ cả sắc hương vị, đều thọ dụng được. Nếu hữu tình nào thọ hưởng thức ăn thức uống ngon bổ như thế sẽ khỏe mạnh, tăng thêm tuổi thọ, giác quan an định, sắc diện tươi sáng, không còn thống khổ, ý chí mạnh mẽ, gánh vác mọi việc. Hơn nữa tất cả những món cần dùng khắp đại địa này, cho đến trăm ngàn sự việc đều giúp cho được hoàn bị.
Bạch đức Thế Tôn! Vì nhân duyên ấy, cõi Diêm-phù-đề sung túc an ổn, nhân dân đông đảo, không còn suy tổn, tất cả chúng sanh đều được an lạc. Nếu thân tâm đã hưởng được niềm vui như thế thì càng phải nên chí thành cung kính kinh này, mọi lúc mọi nơi đều nên thọ trì, cúng dường tôn trọng ngợi khen. Lại nên đến tòa của đại pháp sư thỉnh giảng kinh này cho khắp chúng sanh. Khi thuyết kinh này thì tự thân con, tất cả quyến thuộc đều được lợi ích, như tăng ánh sáng, khí lực mạnh mẽ, đầy đủ oai thế, dung mạo đoan chánh hơn lúc bình thường. Sau khi con hưởng pháp vị này rồi, liền khiến đất đai trong một phạm vi ngang dọc bảy ngàn du-thiện-na ở cõi Diêm-phù-đề đều được màu mỡ, tất cả chúng sanh đều được an lạc.
Bạch đức Thế Tôn! Vì muốn báo ân, những chúng sanh kia nên suy nghĩ rằng: ‘Ta nhất định sẽ nghe nhận kinh này, cung kính tôn trọng, khen ngợi cúng dường’. Sau đó từ nơi trụ xứ của mình, hoặc là thành thị, xóm làng đồng vắng, những người ấy đến pháp hội đảnh lễ pháp sư lắng nghe, tin nhận kinh này. Nghe nhận xong liền trở về trụ xứ, lòng ngập niềm vui, tất cả đồng nói: ‘Hôm nay chúng ta đã được nghe pháp vô cùng sâu xa, nhiệm mầu vô thượng, tức đã lãnh thọ công đức không thể nghĩ bàn. Do năng lực kinh, nên chúng ta được gặp và hầu hạ cúng dường vô lượng vô biên trăm ngàn câu-chi na-do-tha vị Phật, vĩnh viễn thoát khỏi ba đường khổ đau; trong trăm ngàn đời mai sau luôn được sanh vào cõi trời cõi người, thọ hưởng niềm vui’. Những chúng sanh ấy, ngay trụ xứ mình, vì các hữu tình mà giảng kinh này, hoặc một thí dụ, hoặc là một phẩm, một nhân duyên xưa, hoặc danh hiệu của một đức Như Lai, hoặc danh hiệu của một vị bồ-tát, hoặc một bài kệ đầy đủ bốn câu, hay chỉ một câu, hoặc nêu tên kinh, thì vùng đất nào chúng sanh ấy trú cũng sẽ phì nhiêu hơn những nơi khác. Đồng thời các loài thực vật vùng ấy cũng sẽ tăng trưởng tốt tươi cao lớn, khiến cho tất cả chúng sanh vui mừng, được nhiều tiền tài báu vật, thích hành bố thí, tin sâu Tam bảo”.
Sau khi nghe thế, Đức Phật bèn bảo địa thần Kiên Lao: “Nếu chúng sanh nào nghe kinh Kim quang minh, dù chỉ một câu, sau khi mạng chung cũng được sanh lên cõi Ba Mươi Ba hoặc cõi trời khác. Nếu có chúng sanh cúng dường kinh này, trang hoàng nhà cửa, cho dù chỉ treo một chiếc lọng lụa, một lá phan thêu thì sẽ tùy niệm sanh lên tầng trời thứ sáu cõi Dục, tùy ý thọ dụng cung điện bảy báu, bảy ngàn thiên nữ tự nhiên hiện đến cùng nhau vui đùa, ngày đêm luôn luôn thọ hưởng niềm an lạc vô biên”.
Địa thần Kiên Lao nghe nói như thế, liền bạch Đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Vì những lẽ đó, nếu có người nào trong bốn chúng đây lên tòa giảng thuyết kinh mầu nhiệm này, thì cả ngày đêm con theo bảo vệ, ẩn thân bên tòa, dùng đầu đỡ chân người giảng pháp ấy. Vì những chúng sanh đã trồng căn lành từ nơi vô lượng trăm ngàn Đức Phật, mà con giúp đỡ lưu truyền kinh này nơi cõi Diêm-phù, không để diệt mất. Những chúng sanh nào được nghe kinh này, thì trong vô lượng trăm ngàn câu-chi na-do-tha kiếp vị lai sẽ được sanh vào cõi trời cõi người, hưởng thọ niềm vui tuyệt diệu, gặp các Đức Phật, thành tựu Vô thượng chánh đẳng chánh giác, không phải trải qua ba đường sanh tử.
Bạch đức Thế Tôn! Con thuyết một bài tâm chú, có năng lực làm lợi ích an lạc cho cả trời người. Nếu mọi người và bốn chúng muốn thấy thân thật của con, thì nên chí tâm trì tụng chú này. Muốn cầu tài sản, trân bảo kho tàng, thần thông tự tại, niềm vui lâu dài, thuốc men chữa bệnh, phá dẹp oán địch, tạo các dị luận… cũng được thỏa mãn. Trước tiên người ấy phải đến nơi tháp có xá-lợi Phật, hoặc lập pháp đàn trong nhà thanh tịnh, tắm gội thân thể, thay y phục sạch, ngồi trên tòa cỏ, đối trước tôn tượng Phật và xá-lợi, đốt hương rải hoa, bày biện thức ăn thức uống cúng dường, đúng ngày bố-sái, mồng tám mỗi tháng trì tụng thần chú sau đây để triệu thỉnh con: Tát da tha, chi ri chi ri, chu ru chu ru, ku ru ku ru, ku tu ku tu, tô tu tô tu, ba ha ba ha, sa va ri, sa va ri, sa va ha.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu tụng chú này trăm lẻ tám biến để triệu thỉnh con, thì con sẽ vì người ấy mà đến. Nếu có chúng sanh muốn thấy thân con và cùng nói chuyện, thì cũng nên theo cách thức như trên mà tụng thần chú: Tát da tha, a ca ni, gờ ri li ga, cờ sa na ti, si ra, si đa ri, ha ha hi hi, ku ru, ba rê, sa va ha.
Bạch đức Thế Tôn! Nên tụng chú này trăm lẻ tám biến, và tụng thêm bài thần chú nói trên, con sẽ hiện thân, hoàn thành tất cả tâm nguyện của họ, hoàn toàn không dối. Nhưng trước tiên nên tụng chú hộ thân: Ta da tha, ni si ri, ma sa ka ni, na ti, ku ti, bút đi, bút đi rê, bi ti bi ti, ku ku ti, ba ci ri, sa va ha.
Nên trì tụng vào sợi chỉ năm màu hai mươi mốt biến, gút hăm mốt gút, rồi buộc vào khuỷu tay trái, sẽ bảo vệ thân, không còn lo sợ. Nếu người chí tâm tụng thần chú này, thì sẽ thỏa mãn tất cả mong cầu. Con không nói dối, Phật pháp tăng bảo sẽ chứng tri lời chân thật của con”.
Thế Tôn lại bảo địa thần Kiên Lao: “Hay thay, hay thay! Ông dùng thần chú bảo vệ kinh vua và người thuyết pháp, ông sẽ hưởng được vô lượng phước báo”.
https://www.rongmotamhon.net/xem-kin...ckt_viet2.html
-
https://upanh1.com/images/Untitled228ba1712a7fb413.png
[PDF]KINH KIM QUANG MINH - Hiệp Bộ - Thư Viện Hoa Sen
https://thuvienhoasen.org/.../file/....g-minh-hiep-bo....
Translate this page
KIM. QUANG. MINH. Hiệp bộ. GIAO. THÀNH HỘI PHẬT GIÁO TP. HỒ CHÍ MINH. ÂN HÀNH - PL. ... NAM-MÔ. BỔN-SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT ... Nghi thức khai kinh trì tụng. Quyển thứ nhất : ... Phục nguyên ... này, có bốn vị Phật xuất hiện chứng minh hộ niệm, và .... đến đời nhà Lương, Ngài Chơn-Đế Tam-Tạng,.
( https://thuvienhoasen.org/images/fil...nh-hiep-bo.pdf )
====
https://upanh1.com/images/Untitledcb1d2e61e03c783c.png
( https://thuvienhoasen.org/images/fil...nh-hiep-bo.pdf )
-
NO.664 - HỢP BỘ KINH KIM QUANG MINH [ QUYỂN 4 ]
Chinese translator: Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm - Đời Bắc Lương
Vietnamese translator: Tuệ Khai cư sĩ.
Chung nghia: Tỳ kheo Thích Đỗng Minh
PHẨM THỨ BẢY : TÁN THÁN
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Địa thần Kiên Lao rằng :
- Này thiện nữ thiên ! Đời quá khứ có vị vua tên là Kim Long Tôn thường dùng lời tán thán khen ngợi các đức Phật quá khứ, vị lai và hiện tại rằng :
Con nay tôn trọng Ø Kính lễ ngợi khen
Khứ, lai, hiện tại Chư Phật mười phương.
Chư Phật thanh tịnh Tịch diệt nhiệm mầu
Sắc thượng trong màu Ánh vàng chiếu sáng.
Ở trong các tiếng Tiếng Phật trên cùng
Giống như Đại Phạm Thâm viễn sấm vang.
Tóc Phật đen biếc
Bụt ốc sáng lên (ánh sáng tóc xoắn ốc của đức Phật)
Ong xanh, khổng tước Ø Màu chẳng thể bằng (chẳng ví được)
Răng ngài tươi trắng Như ngọc tuyết băng
Kim nhan hiển phát Phân đều rõ ràng
Mắt ngài dài rộng Không bẩn sạch trong
Như đóa sen biếc Nở soi nước xanh
Tướng lưỡi dài rộng Hình sắc ánh hồng
Ánh sáng chiếu diệu Như hoa mới sanh.
Vùng mi hào tướng Trắng màu ánh trăng
Xoắn phải thấm nhuận Lưu ly sạch trong
Mày cong dài nhỏ Ø Hình mảnh trăng non
Màu sắc đen mướt Hơn cả chúa ong.
Mũi cao tròn thẳng Như đúc thoi vàng
Mềm mại vi diệu Đang ở diện môn.
Như Lai thắng tướng Thứ lớp trên cùng (tối thượng)
Được vị chân chính Không ai ngang bằng.
Mỗi lỗ chân lông Sinh một lông xoắn
Mịn mềm biếc xanh Giống cổ khổng tước (chim công).
Khi vừa mới sinh Thân phóng ánh sáng
Soi khắp mười phương Vô lượng đất nước
Ba cõi diệt tan Tất cả các khổ
Khiến các chúng sinh Hưởng thụ khoái lạc.
Địa ngục, súc sinh Và cả ngã quỉ
Tất cả nhân thiên Yên ổn không hoạn.
Tất cả diệt tan Vô lượng ác thú.
Vi diệu sắc thân Như nước vàng tụ.
Diện mạo sạch trong Như vầng trăng tròn.
Thân Phật sáng rỡ Như nhật mới lên (mặt trời mới mọc)
Uy nghi tấn chỉ (tiến tới, dừng lại) Như Sư tử vương.
Tay dài buông xuống Quá khỏi gối chân
Giống như gió động Cành Ta La rung.
Một tầm vầng sáng Chiếu sáng không lường
Giống như tụ tập. Trăm ngàn trời, trăng (mặt trời, mặt trăng).
Thân Phật tịnh diệu Dơ bẩn đều không
Sáng ấy soi khắp Mọi cõi Thế Tôn (cõi Phật).
Phật quang lồng lộng Sáng rực lửa hừng
Làm lu mờ hết Nhật nguyệt không lường.
Phật nhật, đăng, cự (đuốc) Soi cõi không lường
Đều khiến chúng sinh Theo sáng thấy Phật.
Vốn đã tu hành Trăm ngàn hạnh nghiệp
Công đức tụ thành Trang nghiêm thân Phật.
Cánh tay nhỏ tròn Như mũi vua tượng (chúa voi)
Tay chân sạch mềm Kính ái không nhàm.
Khứ lai chư Phật (các đức Phật quá khứ, vị lai). Số như vi trần
Chư Phật hiện tại Cũng lại như trên.
Như Lai (nhiều) như vậy Con nay lễ lạy !
Thân miệng sạch trong Ý cũng như vậy
Dùng hảo hoa hương Cúng dường hiến dâng.
Trăm ngàn công đức Tám vịnh ca khen.
Giả sử trăm lưỡi Ngàn kiếp ở trong
Khen công đức Phật Chẳng thể tận cùng !
Công đức sở hữu Hiện tại Thế Tôn
Đủ thứ sâu bền Ø Vi diệu đệ nhất.
Ví lưỡi có ngàn Muốn khen một Phật.
Còn chẳng thể xong Phần nhỏ công đức !
Huống muốn ngợi khen Công đức chư Phật !
Đại địa, thượng thiên Lấy làm biển cả
Đến Hữu Đảnh thiên Tràn đầy những nước
Còn dùng sợi lông Đếm biết số giọt.
Không có thể biết Đức một Thế Tôn !
Con nay đã lễ Khen ngợi Thế Tôn !
Nghiệp thân miệng ý Thảy đều sạch trong.
Tất cả nghiệp thiện Đã tu không lường
Cùng các sinh chúng Chứng đạo Vô Thượng.
Như vậy nhân vương Đã khen ngợi Phật
Lại phát thề nguyền Như vậy không lường.
Nếu con lai thế (đời sau) Vô lượng vô biên
A tăng kỳ kiếp Tại khắp chỗ sinh
Thường ở trong mộng Nhìn thấy trống vàng
Được nghe âm vang Thâm áo sám hối !
Nay đã ngợi khen Diện mạo thanh tịnh
Đời sau con nguyền Cũng được như vậy.
Công đức Thế Tôn Chẳng thể nghĩ bàn
Ở trăm ngàn kiếp Rất khó được gặp.
Nguyện ở không lường Đương lai đời sống
Đêm thấy mơ màng Ngày nói như thật.
Con sẽ tu hành Đầy đủ Lục độ
Cứu bạt chúng sinh Vượt qua biển khổ
Nhiên hậu thân con Thành đạo Vô Thượng
Khiến thế giới con Không gì đồng đẳng
Dâng cống trống vàng Nhân duyên khen Phật.
Do báo này nên Vào đương lai thế
Gặp đức Thích Tôn Được thọ ký biệt
Đồng khiến hai con Kim Long, Kim Quang
Thường sinh nhà con Đồng chung thọ ký.
Nếu có chúng sinh Không người cứu hộ
Bức thiết mọi khổ Không chỗ nương dừng
Thì đương lai, con Vì bọn người đó
Làm đại cứu hộ Và chỗ nương dừng
Có thể trừ khổ Khiến diệt tận cùng.
Thí cho sinh chúng Những an vui lành.
Đời vị lai, con Hành Bồ Đề đạo
Chẳng kể kiếp số Như đời tận cùng
Do Kim Quang ấy Sám hối nhân duyên :
Giả sử biển ác Ø Biển nghiệp của con
Và biển phiền não Đều cạn không còn,
Biển công đức, nguyện Của con viên thành,
Biển cả trí tuệ Đầy đủ sạch trong
Công đức không lường, Trợ Bồ Đề đạo
Như biển mênh mông Trân bảo cụ túc
Do sám hối lực Của ánh sáng vàng
Bồ Đề công đức Vô ngại quang minh
Tuệ quang không bẩn Soi suốt sạch trong.
Ánh sáng thân con Đời sau chiếu khắp.
Ánh sáng uy thần Công đức rực rỡ
Ba cõi ở trong Đặc thù tối thắng
Nhứng sức đức công Không gì giảm thiểu
Sẽ độ chúng sinh Vượt qua biển khổ
Đều đem đặt yên Biển cả công đức.
Đời sau nhiều kiếp Hành đạo Bồ Đề
Như xưa chư Phật Hành đạo Bồ Đề
Ba đời chư Phật Tịnh diệu đất nước.
Chư Phật chí tôn Vô lượng công đức
Đời sau khiến con Được những khác biệt
Cõi tịnh công đức Như Phật Thế Tôn !
(Này) Tín Tướng phải biết ! Bấy giờ, quốc vương
Kim Long tôn giả Chính là thân ông !
Hai con lúc đó Kim Long, Kim Quang
Là con ông đó Ngân Tướng vân vân...
-----------
http://phaptangpgvn.net/eng/sach-pha...ap-bo-iii.html
-
Kim Quang Minh-PHẨM KIÊN LAO ĐỊA THẦN
Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh
KIÊN LAO ĐỊA THẦN
_PHẨM THỨ MƯỜI TÁM_
Bấy giờ, Kiên Lao Địa Thần (Dṛḍha-pṛthivi) tức ở trong Chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính, rồi bạch Phật rằng: “Thế Tốn Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này, hoặc đời hiện tại, hoặc đời vị lai, nếu thành ấp, thôn xóm, cung vua, lầu, quán với A Lan Nhã (Araṇya), núi, nhà, rừng vắng… nơi có Kinh Vương này lưu bày.
Thế Tôn! Con sẽ đi đến nơi ấy cúng dường, cung kính, ủng hộ lưu thông. Nếu có phương xứ vì vị Thầy thuyết Pháp dựng lập cái tòa cao diễn nói Kinh thì con dùng Thần Lực, chẳng hiện bản thân, ở ngay cái tòa dùng đỉnh đầu đội bàn chân của vị ấy. Con được nghe Pháp nên thâm tâm vui vẻ, được ăn Pháp Vị, tăng ích uy quang, vui thích vô lượng. Tự thân đã được lợi ích như vậy, cũng khiến cho Đại Địa sâu sáu mươi vạn tám ngàn Du Thiện Na đến bờ mé Kim Cương, khiến cho mùi vị của đất ấy thảy đều tăng ích, cho đến bốn biển, hết thảy đất đai cũng khiến cho ruộng nương tươi tốt, đất xốp mềm màu mỡ tăng hơn ngày thường gấp bội. Cũng lại khiến cho Thiệm Bộ Châu này: sông nhỏ, sông lớn, ao, đầm, hết thảy các cây, cỏ thuốc, rừng rậm, mọi loại hoa quả, cọng rễ, cành lá với các mầm lúa… có hình dáng đáng yêu, mọi người thích nhìn, đầy đủ màu sắc mùi thơm đều thọ dụng được.
Nếu các hữu tình thọ dụng thức ăn uống thù thắng như vậy xong thì sống lâu; sắc đẹp, sức lực, các căn an ổn, tăng ích tươi sáng, không có các đau đớn bực bội. Tâm Tuệ cứng mạnh không có gì chẳng kham nhận được. Lại Đại Địa này, phàm có chỗ cần thì trăm ngàn sự nghiệp thảy đều tốt hết.
Bạch Đức Thế Tôn! Do nhân duyên này, các Thiệm Bộ Châu an ổn giàu có vui sướng, người dân đông đầy, không có các suy não, hết thảy chúng sinh đều được an vui. Đã thọ nhận như vậy thì thân tâm khoái lạc. Đối với Kinh Vương này, tăng thêm yêu kính sâu xa, ở tại chỗ nào đều nguyện thọ trì, cúng dường,
cung kính, tôn trọng, khen ngợi. Lại nữa, ở nơi có Pháp Tòa của vị Đại Sư thuyết Pháp kia thảy đều đến chỗ ấy, vì các chúng sinh khuyến thỉnh nói Tối Thắng Kinh Vương này. Tại sao thế? Thế Tôn! Do nói Kinh này mà tự thân của con với các quyến thuộc đều nương nhờ lợi ích, khí lực tươi sáng, uy thế dũng mãnh, dung mạo đoan chính hơn lúc thường gấp bội
Thế Tôn! Con, Kiên Lao Địa Thần nương vào Pháp Vị xong thì khiến cho Thiệm Bộ Châu: đất dài rộng bảy ngàn du thiện na thảy đều xốp mềm màu mỡ, cho đến như lúc trước, hết thảy chúng sinh đều được an vui.
Chính vì thế cho nên, bạch Đức Thế Tôn! Thời chúng sinh ấy vì báo đáp ân của con, nên tác niệm này: “Tôi sẽ quyết định nghe nhận Kinh này, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi”. Tác niệm này xong, liền từ chỗ cư trú, thành ấp, thôn xóm, nhà cửa, đất trống đi đến chỗ của Pháp Hội, đỉnh lễ vị Pháp Sư, nghe nhận Kinh này. Đã nghe nhận xong, đều quay vễ chỗ của mình, Tâm sinh mừng vui, cùng nhau nói lời này: “Ngày nay, chúng tôi được nghe Pháp màu nhiệm vô thượng thâm sâu, tức là nhiếp nhận nhóm Công Đức chẳng thể nghĩ bàn. Do sức của Kinh cho nên chúng tôi sẽ gặp được vô lượng vô biên trăm ngàn câu chi na dữu đa Phật, thừa sự cúng dường, lìa hẳn nơi cực khổ trong ba đường. Lại ở trong trăm ngàn đời sau thường sinh lên Trời với tại nhân gian thọ nhận các niềm vui thù thắng”. Thời các người ấy đều quay về chỗ ở của mình, vì mọi người nói Kinh Vương này, hoặc một ví dụ, một phẩm, một nhân duyên xưa, tên của một Đức Như Lai, tên của một vị Bồ Tát, một bài Tụng bốn câu, hoặc lại một câu. Vì các chúng sinh nói Kinh Điển này, cho đến tên gọi của đầu đề
Thế Tôn! Tùy theo nơi các chúng sinh cư trú, đất ấy thảy đều xốp mềm màu mỡ tươi tốt hơn hẳn nơi khác. Phàm vật được sinh ra trên đất đai ấy đều được tăng trưởng tối tươi rộng lớn, khiến cho các chúng sinh thọ nhận sự khoái lạc, nhiều tiền của, thích hành Huệ Thí, Tâm thường bền chắc tin sâu nơi Tam Bảo”
Nói lời này xong. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Kiên Lao Địa Thần rằng: “Nếu có chúng sinh nghe Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này, cho đến một câu thì sau khi chết sẽ được sinh về cõi Tam Thập Tam Thiên với cõi Trời khác.
Nếu có chúng sinh vì muốn cúng dường Kinh Vương này thì nên trang nghiêm nhà cửa, cho đến trương một cái dù lọng, treo một phan lụa. Do nhân duyên này, như niệm thọ sinh trên sáu cõi Trời, tùy ý nhận dùng cung màu nhiệm bảy báu, mỗi mỗi đều tự nhiên có bảy ngàn Thiên Nữ cùng nhau vui sướng, ngày đêm thường thọ nhận niềm vui thù thắng chẳng thể nghĩ bàn”
Nói lời này xong. Khi ấy, Kiên Lao Địa Thần bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Do nhân duyên này, nếu có bốn Chúng đi lên Pháp Tòa, nói Pháp này thời con sẽ ngày đêm ủng hộ người này, tự ân thân mình, ở tại tòa dùng đỉnh đầu đội bàn chân của vị ấy.
Thế Tôn! Kinh Điển như vậy, vì chúng sinh kia đã ở chỗ của trăm ngàn Đức Phật gieo trồng căn lành, ở Thiệm Bộ Châu lưu bày chẳng diệt. Các chúng sinh đó nghe Kinh này thì ở đời vị lai: vô lượng trăm ngàn câu chi na dữu đa kiếp, trên cõi Trời, trong cõi người thường thọ nhận niềm vui thù thắng, được
gặp chư Phật, mau thành A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề (Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác), chẳng trải qua nỗi khổ sinh tử trong ba đường”
Lúc đó, Kiên Lao Địa Thần bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Con có Tâm Chú hay lợi cho người, Trời, an vui tất cả. Nếu có người nam, người nữ với các bốn Chúng muốn được đích thân thấy Chân Thân của con thì cần phải chí Tâm trì Đà La Ni này, tùy theo ước nguyện của người ấy thảy đều toại tâm, ấy là: tiền của, châu báu, phục tàng (kho tàng bị che lấp), cầu Thần Thông, thuốc màu nhiệm sống lâu và chữa trị mọi bệnh, giáng phục oán địch, chế ngự các Luận khác… Nên ở Tịnh Thất, an trí Đạo Trường, tắm gội thân xong, mặc áo sạch mới, ngồi xổm trên tòa cỏ, ở trước Tôn Tượng có Xá Lợi, hoặc Chế Để (Caitye: tháp miếu) có Xá Lợi, đốt hương rải hoa, thức ăn uống cúng dường. Vào ngày 8 của kỳ Bạch Nguyệt hợp với sao Bố Sát (Puṣya: Quỷ Tú), tức có thể tụng Chú Thỉnh Triệu này
“Đát điệt tha: chỉ lý chỉ lý, chủ lỗ chủ lỗ, cú lỗ cú lỗ, câu trụ câu trụ, đổ trụ đổ trụ, phộc ha phộc ha, phạt xả phạt xả, toa ha”
*)TADYATHĀ: CIRI CIRI, CURU CURU, KURU KURU, KUṬU KUṬU, TOṬU TOṬU, VAHA VAHA, VAŚA VAŚA SVĀHĀ
Thế Tôn! Thần Chú này, nếu có bốn Chúng tụng 108 biến thỉnh triệu con thì con vì người này, liền đến nhận sự thỉnh cầu (phó thỉnh).
Lại nữa, Thế Tôn! Nếu có chúng sinh muốn được thấy con hiện thân cùng nói chuyện thì cũng nên như lúc trước, an trí Pháp Thức, tụng Thần Chú này:
“Đát điệt tha: át chiết nê, hiệt lực sát nê, thất ni, đạt lý, ha ha, hứ hứ, khu lỗ, phạt lệ, toa ha”
*)TADYATHĀ: AÑCANE KṚŚANE-SANE-DHARI_ HA HA_ HI HI_ KURU VĀRE SVĀHĀ
Thế Tôn! Nếu người trì Chú này thời nên tụng 108 biến kèm với tụng Chú lúc trước thì con liền hiện thân, tùy theo ước nguyện của người ấy đều được thành tựu, cuối cùng chẳng hư hão
Nếu muốn tụng Chú này thời trước tiên tụng Hộ Thân Chú là:
“Đát điệt tha: nễ thất lý, thất lý, mạt xả yết trí, nại trí, củ trí, bột địa bột địa lệ, tỳ trí tỳ trí, củ cú trí, khư bà, chỉ lý, toa ha”
*)TADYATHĀ: ŚIRI ŚIRI_ MĀSA KAṬI NAṬI KUṬI_ BUDDHI BUDDHILĪ_ VIṬI VIṬI_ KUKUṬI KAVACIRI SVĀHĀ
Thế Tôn! Khi tụng Chú này thời lấy sợi dây ngũ sắc, tụng Chú 21 biến, thắt 21 gút, cột buộc ngay sau khuỷu tay trái, tức liền hộ thân không có chỗ sợ hãi. Nếu có người chí Tâm tụng Chú này thì chỗ mong cầu đều được toại nguyện. Con chẳng nói dối, con dùng báu Phật Pháp Tăng để làm Khế Ước chứng biết là thật”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Địa Thần rằng: “Lành thay! Lành thay! Ông hay dùng Thật Ngữ Thần Chú này hộ trì Kinh Vương này với người nói Pháp. Do nhân duyên này khiến cho ông được vô lượng Phước Báo”
http://kinhkimquangminh.blogspot.com...o-ia-than.html
-
Kiên Lao Địa Thần
Phẩm 18: Kiên Lao Địa Thần
Vào lúc bấy giờ Kiên lao địa thần ở trong đại hội tức thì đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, chắp tay cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn, trong hiện tại hay trong vị lai, những nơi thành thị, làng xóm, cung vua, lầu đài, lan nhã, chằm núi, rừng hoang, chỗ nào có bản kinh vua Ánh sáng hoàng kim này quảng bá thì, bạch đức Thế tôn, con sẽ đến chỗ ấy, hiến cúng, tôn kính, hộ vệ, quảng bá. Chỗ nào đặt tòa cao cho vị pháp sự diễn giảng kinh này, thì con đem thần lực, không biểu hiện bản thân, mà ở ngay nơi tòa cao đưa đỉnh đầu đội chân cho vị pháp sư ấy bước lên. Con được nghe pháp, thâm tâm hoan hỷ, được hưởng pháp vị, tăng thêm uy quang, mừng vui vô hạn. Bản thân con được lợi ích như vậy, con làm cho cõi đất to lớn này, sâu một trăm sáu mươi tám ngàn, sâu đến kim cang luân, màu mỡ của đất đều thêm lên. Trong bốn biển, đất đai tất cả hải đảo cũng vậy, được làm cho màu mỡ hơn ngày thường. Trong đại lục Thiệm bộ, bao nhiêu sông rào ao hồ mà có các loại cây, cỏ thuốc, lùm rừng với các thứ hoa quả, rễ thân, nhánh lá, cùng với lúa má, thì bề ngoài ai cũng đã thích nhìn, màu sắc hương vị đủ cả, và thứ nào cũng dùng được. Dùng những ẩm thực phẩm khác thường như vậy thì tăng thêm sống lâu, sắc đẹp, và sức mạnh, tất cả giác quan đều ổn định, tươi sáng thêm lên, đau đớn không còn. Tâm trí mạnh mẽ, đủ mọi kham năng. Cả địa cầu này cần gì thì hàng trăm hàng ngàn sự việc đều hoàn bị. Bạch đức Thế tôn, vì tình trạng này mà cả đại lục Thiệm bộ yên ổn sung túc, dân chúng đông đảo, không mọi suy tổn, ai cũng an lạc.
Cả cơ thể và tâm trí hưởng được lạc thú như vậy, thì đối với bản kinh vua này càng thêm mến trọng sâu xa, ở đâu cũng muốn thọ trì, hiến cúng, cung kính, tôn trọng, tán dương. Lại cùng nhau đến chỗ pháp tòa của vị pháp sư, vì chúng sinh mà thỉnh cầu diễn giảng bản kinh vua tối thắng này. Tại sao, vì bạch đức Thế tôn, diễn giảng kinh này thì bản thân con và mọi tùy thuộc đều nhờ lợi ích, khí lực tươi sáng, uy thế mạnh mẽ, dung mạo đoan trang, sắc tướng đẹp đẽ, tất cả đều hơn ngày thường. Bạch đức Thế tôn, con, Kiên lao địa thần, hưởng được pháp vị rồi, có thể làm cho đại lục này, với bảy ngàn lần trăm triệu chu vi đất đai đều màu mỡ, cho đến như trước đã nói ai cũng an lạc. Do vậy, bạch đức Thế tôn, lúc đó chúng sinh, để trả ơn con, nên nghĩ như vậy, ta nhất định phải lắng nghe tiếp nhận kinh vua ấy, cung kính hiến cúng tôn trọng, tán dương. Nghĩ vậy nên từ bất cứ chỗ nào họ cư trú, họ cùng đến pháp hội, kính lạy pháp sư, lắng nghe kinh này. Lắng nghe rồi, ai nấy trở về chỗ cũ, lòng rất mừng vui, và nói rằng nay chúng ta được nghe cái pháp thậm thâm vô thượng, thế là đã thu nhận cái khối phước đức bất khả tư nghị. Do cái lực của kinh này, chúng ta sẽ gặp được vô lượng chư vị Thế tôn mà phụng sự hiến cúng, vĩnh ly những chỗ tối khổ là ba nẻo đường dữ. Thêm nữa là vị lai, trong hàng trăm hàng ngàn đời, thường hưởng hạnh phúc hơn hết ở trong nhân loại và trên chư thiên. Khi trở về chỗ cũ, họ cũng nói cho những người đồng hương về bản kinh vua này. Họ nói kinh này qua một sự ví dụ, một phẩm, một chuyện đời trước, một danh hiệu Thế tôn, một danh hiệu Bồ tát, một bài chỉnh cú bốn câu, hoặc một câu có nghĩa, hay đến nỗi chỉ nói tên kinh. Như thế thì bạch đức Thế tôn, chỗ họ cư trú đất đai phì nhiêu hơn chỗ khác. Đất đai ấy sản xuất gì cũng tăng trưởng, tươi tốt, to lớn, làm cho chúng sinh thụ hưởng lạc thú, nhiều của, ưa bố thí, tâm chí kiên định mà thâm tín Tam bảo.
Kiên lao địa thần thưa như vậy rồi, đức Thế tôn bảo, rằng Kiên lao địa thần, nếu ai nghe được kinh vua Ánh sáng hoàng kim thì, dầu chỉ một câu, họ chết cũng sinh Đao lợi hay các thiên xứ khác. Ai vì sự hiến cúng kinh vua này mà trang hoàng nhà cửa, thì đến nỗi chỉ trương một cái lọng dù, treo một cái tràng phan, cũng do nhân tố ấy mà sinh trong sáu thiên xứ cõi Dục, sống trong cung điện thất bảo mà thụ hưởng tùy thích, và điều mà ai cũng tự nhiên có được là vui với bảy ngàn thiên nữ, ngày đêm thường xuyên hưởng thụ cái phước đặc biệt và khó mà nghĩ bàn.
Đức Thế tôn dạy như vầy rồi, Kiên lao địa thần lại thưa, bạch đức Thế tôn, chính vì sự thể đức Thế tôn đã nói, nên những ai trong bốn bộ đệ tử của Ngài lên ngồi pháp tòa diễn giảng kinh này, thì con ngày đêm hộ vệ những người ấy, tự ẩn mình đi, đưa đỉnh đầu mình mà đỡ chân cho vị pháp sư khi bước lên và khi ngồi trên pháp tòa. Bạch đức Thế tôn, kinh này vì những người đã trồng thiện căn nơi vô số chư vị Thế tôn mà quảng bá bất tuyệt trong đại lục Thiệm bộ. Những người ấy lắng nghe kinh này thì vị lai vô số kiếp thường hưởng hạnh phúc vượt bậc trong chư thiên nhân loại, được gặp chư vị Thế tôn, được mau thành tựu vô thượng bồ đề, và nhất là không còn phải trải qua cái khổ sống và chết trong ba nẻo đường dữ.
Khi ấy Kiên lao địa thần lại thưa, bạch đức Thế tôn, con có một bài minh chú (84) có năng lực lợi ích nhân thiên, an lạc tất cả. Nam tử nữ nhân nào, hay bốn bộ đệ tử của đức Thế tôn, muốn được đích thân nhìn thấy chân thân của con, thì phải chí tâm mà trì minh chú ấy. Thì tùy sở nguyện mà toại ý cả. Là như nguyện được đồ dùng để sống, nguyện được tài sản, nguyện được vàng ngọc, nguyện được kho tàng ẩn trong lòng đất, nguyện được những khả năng thần kỳ, nguyện được thuốc thần để trường sinh hay trị liệu mọi bịnh, nguyện chiến thắng thù địch, nguyện chế ngự các thứ luận thuyết. Hãy dọn một tịnh thất mà thiết đạo tràng, tắm mình mẩy, mặc đồ sạch, ngồi nệm cỏ. Hãy đối trước hình tượng Phật có xá lợi, hay trước chùa tháp Phật có xá lợi, mà đốt hương, rải hoa, hiến dâng ẩm thực. Lấy ngày tám tháng trăng sáng (85) , hoặc là ngày sao Bố sái (86) mà tụng minh chú triệu thỉnh con, Kiên lao địa thần: Tát da tha, chi ri, chi ri, chu ru, chu ru, ku ru, ku ru, ku tu, ku tu, tô tu, tô tu, ba ha, ba ha, sa va ri, sa va ri, soa ha. (Tadyatha ciri ciri curu curu kuru kuru kutu kutu totu totu bhaha bhaha savari savari svaha).
Bạch đức Thế tôn, minh chú này, nếu có ai trong bốn bộ đệ tử Thế tôn tụng được một trăm tám biến mà triệu thỉnh con, thì con sẽ đến tức khắc. Lại nữa, bạch đức Thế tôn, nếu ai muốn thấy con biểu hiện thân ra để nói chuyện với nhau, thì cũng phải sắp đặt như trước rồi tụng minh chú này: Tát da tha, a cha ni, gri li ga, kơ sa na ti, si ra, sít đa ri, ha, ha, hi, hi, ku ru, ba rê, soa ha. (Tadyatha acani griliga ksanati sira sidhari ha ha hi hi kuru bhare svaha).
Bạch đức Thế tôn, tụng minh chú này thì phải một trăm tám biến, lại tụng minh chú trên nữa, thì quyết chắc con sẽ biểu hiện thân con, thành tựu cho sở nguyện của họ, hoàn toàn không vô hiệu quả. Nhưng muốn tụng minh chú này thì trước hết phải tụng minh chú giữ mình: Tát da tha, ni si ri, ma sa ka ni, na ti, ku ti, bút đi, bút đi rê, bi ti, bi ti, ku ku ti, ba chi ri, soa ha. (Tadyatha nisiri masakani nati kuti budhi budhire biti biti kukuti baciri svaha).
Bạch đức Thế tôn, tụng minh chú này thì dùng chỉ ngũ sắc, tụng hai mươi mốt biến thì thắt hai mươi mốt gút, đem buộc sau khuỷu tay trái, thì giữ mình mà không có gì sợ hãi nữa. Chí tâm mà tụng minh chú này thì cầu gì cũng thỏa. Con không vọng ngữ. Phật pháp tăng là chứng điệp của con, chứng nhận cho con.
Bấy giờ đức Thế tôn bảo Kiên lao địa thần, lành thay, địa thần có thể đem minh chú nói thật mà hộ trì kinh này và pháp sư quảng bá kinh này. Nhân tố này làm cho địa thần được phước báo vô số lượng
http://kinh-anh-sang-hoang-kim.blogs...o-ia-than.html
-
KINH KIM QUANG MINH
(KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM)
Hoà Thượng Thích Trí Quang Dịch Giải
Bản Hoa Dịch của Ngài Nghĩa Tịnh
Kinh Kim Quang MinhToàn bộ Phật giáo, bất kể nguyên thỉ, bộ phái hay đại thừa, đều rất trọng cái thân loài người. Nói tu theo Phật giáo là nói do cái thân người và do ý thức nơi thân ấy. Kinh này, trước hết, cũng là như vậy.
Không cần lặp lại, Phật tử thì ai cũng biết thân người dễ tu chứng, nhân loại là nơi Phật thị hiện thân Phật. Vì ở đây không quá khổ quá sướng, ở đây tư duy và hành động sắc bén, quả cảm. Nhưng kinh này còn nói rõ chính nơi cái thân ngũ uẩn mà phát hiện pháp thân và thực hiện pháp thân ấy.
Rõ ràng hơn nữa, kinh này nói "thân này thì bản thân, yếu tố, đối cảnh, đối tượng, kết quả, tất cả toàn là dựa vào chân như, và nó thật khó mà nghĩ bàn. Thân này là cỗ xe vĩ đại, là thể tánh Như lai, là bào thai Như lai" (phẩm 3). Câu đầu đoạn văn này phải giải thích. Bản thân thì thân này là thắng thân (cái thân đặc thù, hơn hết), làm cái dụng cụ chứa đựng Phật pháp. Yếu tố là thắng thiện (điều thiện đặc thù, hơn hết) đời trước làm nhân tố có ra thân này. Đối cảnh là trí tuệ và phước đức mà thân này vin lấy. Đối tượng là đối tượng tối thượng và tối hậu mà thân này nhắm đến, hoạt động theo, đó là đại bồ đề. Kết quả là sự đại giải thoát hội nhập chân như. Bản thân là dị thục quả, yếu tố là tăng thượng quả, đối cảnh là đẳng lưu quả, đối tượng là sĩ dụng quả, kết quả là ly hệ quả. Trọn vẹn kinh này, hay bất cứ kinh nào, nằm gọn như vậy trong cái thân này.
….
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ. Phải chú ý sự tương quan này mới nói đến sự hộ vệ của chư thiên thiện thần.
Đương cơ của kinh này là Diệu tràng, một vị bồ tát người thành Vương xá. Trong danh sách bồ tát loài người, thời Phật, phải kê thêm tên vị này. Và thật là dễ hiểu khi thấy đặc tính nhân bản rất rõ và nhất quán của kinh này.
KINH KIM QUANG MINH
Tổng Quan
Nghi Thức Sám Hối
Ghi Chú
Phẩm 1: Mở Đầu Pháp Thọai
Phẩm 2: Thọ Lượng Thế Tôn
Phẩm 3: Phân Biệt Ba Thân
Phẩm 4: Âm Thanh Trống Vàng
Phẩm 5: Diệt Trừ Nghiệp Chướng
Phẩm 6: Minh Chú Tịnh Địa
Phẩm 7: Hoa Sen Ca Tụng
Phẩm 8: Minh Chú Kim Thắng
Phẩm 9: Trùng Tuyên Về Không
Phẩm 10: Mãn Nguyện Vì Không
Phẩm 11: Thiên Vương Quan Sát
Phẩm 12: Thiên Vương Hộ Quốc
Phẩm 13: Minh Chú Ly Nhiễm
Phẩm 14: Ngọc Báu Như Ý
Phẩm 15: Đại Biện Thiên Nữ
Phẩm 16: Cát Tường Thiên Nữ
Phẩm 17: Tăng Trưởng Tài Vật
Phẩm 18: Kiên Lao Địa Thần
Phẩm 19: Dược Xoa Đại Tướng
Phẩm 20: Vương Pháp Chính Luận
Phẩm 21: Thiện Sinh Luân Vương
Phẩm 22: Tám Bộ Hộ Trì
Phẩm 23: Thọ Ký Thành Phật
Phẩm 24: Chữa Trị Bịnh Khổ
Phẩm 25: Truyện Của Lưu Thủy
Phẩm 26: Xả Bỏ Thân Mạng
Phẩm 27: Bồ Tát Tán Dương
Phẩm 28: Diệu Tràng Tán Dương
Phẩm 29: Thọ Thần Tán Dương
Phẩm 30: Biện Tài Tán Dương
Phẩm 31: Ký Thác Kinh Vua
https://hoavouu.com/a26359/kinh-kim-quang-minh
-
-
KIM QUANG MINH TỐI THẮNG VƯƠNG KINH
Hán dịch: Đại Đường Tam Tạng Sa Môn NGHĨA TỊNH phụng chế dịch
Việt dịch: HUYỀN THANH
Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh
KIÊN LAO ĐỊA THẦN
_PHẨM THỨ MƯỜI TÁM_
Bấy giờ, Kiên Lao Địa Thần (Dṛḍha-pṛthivi) tức ở trong Chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính, rồi bạch Phật rằng: “Thế Tốn Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này, hoặc đời hiện tại, hoặc đời vị lai, nếu thành ấp, thôn xóm, cung vua, lầu, quán với A Lan Nhã (Araṇya), núi, nhà, rừng vắng… nơi có Kinh Vương này lưu bày.
Thế Tôn! Con sẽ đi đến nơi ấy cúng dường, cung kính, ủng hộ lưu thông. Nếu có phương xứ vì vị Thầy thuyết Pháp dựng lập cái tòa cao diễn nói Kinh thì con dùng Thần Lực, chẳng hiện bản thân, ở ngay cái tòa dùng đỉnh đầu đội bàn chân của vị ấy. Con được nghe Pháp nên thâm tâm vui vẻ, được ăn Pháp Vị, tăng ích uy quang, vui thích vô lượng. Tự thân đã được lợi ích như vậy, cũng khiến cho Đại Địa sâu sáu mươi vạn tám ngàn Du Thiện Na đến bờ mé Kim Cương, khiến cho mùi vị của đất ấy thảy đều tăng ích, cho đến bốn biển, hết thảy đất đai cũng khiến cho ruộng nương tươi tốt, đất xốp mềm màu mỡ tăng hơn ngày thường gấp bội. Cũng lại khiến cho Thiệm Bộ Châu này: sông nhỏ, sông lớn, ao, đầm, hết thảy các cây, cỏ thuốc, rừng rậm, mọi loại hoa quả, cọng rễ, cành lá với các mầm lúa… có hình dáng đáng yêu, mọi người thích nhìn, đầy đủ màu sắc mùi thơm đều thọ dụng được.
Nếu các hữu tình thọ dụng thức ăn uống thù thắng như vậy xong thì sống lâu; sắc đẹp, sức lực, các căn an ổn, tăng ích tươi sáng, không có các đau đớn bực bội. Tâm Tuệ cứng mạnh không có gì chẳng kham nhận được. Lại Đại Địa này, phàm có chỗ cần thì trăm ngàn sự nghiệp thảy đều tốt hết.
Bạch Đức Thế Tôn! Do nhân duyên này, các Thiệm Bộ Châu an ổn giàu có vui sướng, người dân đông đầy, không có các suy não, hết thảy chúng sinh đều được an vui. Đã thọ nhận như vậy thì thân tâm khoái lạc. Đối với Kinh Vương này, tăng thêm yêu kính sâu xa, ở tại chỗ nào đều nguyện thọ trì, cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi. Lại nữa, ở nơi có Pháp Tòa của vị Đại Sư thuyết Pháp kia thảy đều đến chỗ ấy, vì các chúng sinh khuyến thỉnh nói Tối Thắng Kinh Vương này. Tại sao thế? Thế Tôn! Do nói Kinh này mà tự thân của con với các quyến thuộc đều nương nhờ lợi ích, khí lực tươi sáng, uy thế dũng mãnh, dung mạo đoan chính hơn lúc thường gấp bội
Thế Tôn! Con, Kiên Lao Địa Thần nương vào Pháp Vị xong thì khiến cho Thiệm Bộ Châu: đất dài rộng bảy ngàn du thiện na thảy đều xốp mềm màu mỡ, cho đến như lúc trước, hết thảy chúng sinh đều được an vui.
Chính vì thế cho nên, bạch Đức Thế Tôn! Thời chúng sinh ấy vì báo đáp ân của con, nên tác niệm này: “Tôi sẽ quyết định nghe nhận Kinh này, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi”. Tác niệm này xong, liền từ chỗ cư trú, thành ấp, thôn xóm, nhà cửa, đất trống đi đến chỗ của Pháp Hội, đỉnh lễ vị Pháp Sư, nghe nhận Kinh này. Đã nghe nhận xong, đều quay vễ chỗ của mình, Tâm sinh mừng vui, cùng nhau nói lời này: “Ngày nay, chúng tôi được nghe Pháp màu nhiệm vô thượng thâm sâu, tức là nhiếp nhận nhóm Công Đức chẳng thể nghĩ bàn. Do sức của Kinh cho nên chúng tôi sẽ gặp được vô lượng vô biên trăm ngàn câu chi na dữu đa Phật, thừa sự cúng dường, lìa hẳn nơi cực khổ trong ba đường. Lại ở trong trăm ngàn đời sau thường sinh lên Trời với tại nhân gian thọ nhận các niềm vui thù thắng”. Thời các người ấy đều quay về chỗ ở của mình, vì mọi người nói Kinh Vương này, hoặc một ví dụ, một phẩm, một nhân duyên xưa, tên của một Đức Như Lai, tên của một vị Bồ Tát, một bài Tụng bốn câu, hoặc lại một câu. Vì các chúng sinh nói Kinh Điển này, cho đến tên gọi của đầu đề
Thế Tôn! Tùy theo nơi các chúng sinh cư trú, đất ấy thảy đều xốp mềm màu mỡ tươi tốt hơn hẳn nơi khác. Phàm vật được sinh ra trên đất đai ấy đều được tăng trưởng tối tươi rộng lớn, khiến cho các chúng sinh thọ nhận sự khoái lạc, nhiều tiền của, thích hành Huệ Thí, Tâm thường bền chắc tin sâu nơi Tam Bảo”
Nói lời này xong. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Kiên Lao Địa Thần rằng: “Nếu có chúng sinh nghe Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này, cho đến một câu thì sau khi chết sẽ được sinh về cõi Tam Thập Tam Thiên với cõi Trời khác. Nếu có chúng sinh vì muốn cúng dường Kinh Vương này thì nên trang nghiêm nhà cửa, cho đến trương một cái dù lọng, treo một phan lụa. Do nhân duyên này, như niệm thọ sinh trên sáu cõi Trời, tùy ý nhận dùng cung màu nhiệm bảy báu, mỗi mỗi đều tự nhiên có bảy ngàn Thiên Nữ cùng nhau vui sướng, ngày đêm thường thọ nhận niềm vui thù thắng chẳng thể nghĩ bàn”
Nói lời này xong. Khi ấy, Kiên Lao Địa Thần bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Do nhân duyên này, nếu có bốn Chúng đi lên Pháp Tòa, nói Pháp này thời con sẽ ngày đêm ủng hộ người này, tự ân thân mình, ở tại tòa dùng đỉnh đầu đội bàn chân của vị ấy.
Thế Tôn! Kinh Điển như vậy, vì chúng sinh kia đã ở chỗ của trăm ngàn Đức Phật gieo trồng căn lành, ở Thiệm Bộ Châu lưu bày chẳng diệt. Các chúng sinh đó nghe Kinh này thì ở đời vị lai: vô lượng trăm ngàn câu chi na dữu đa kiếp, trên cõi Trời, trong cõi người thường thọ nhận niềm vui thù thắng, được gặp chư Phật, mau thành A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề (Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác), chẳng trải qua nỗi khổ sinh tử trong ba đường”
Lúc đó, Kiên Lao Địa Thần bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Con có Tâm Chú hay lợi cho người, Trời, an vui tất cả. Nếu có người nam, người nữ với các bốn Chúng muốn được đích thân thấy Chân Thân của con thì cần phải chí Tâm trì Đà La Ni này, tùy theo ước nguyện của người ấy thảy đều toại tâm, ấy là: tiền của, châu báu, phục tàng (kho tàng bị che lấp), cầu Thần Thông, thuốc màu nhiệm sống lâu và chữa trị mọi bệnh, giáng phục oán địch, chế ngự các Luận khác… Nên ở Tịnh Thất, an trí Đạo Trường, tắm gội thân xong, mặc áo sạch mới, ngồi xổm trên tòa cỏ, ở trước Tôn Tượng có Xá Lợi, hoặc Chế Để (Caitye: tháp miếu) có Xá Lợi, đốt hương rải hoa, thức ăn uống cúng dường. Vào ngày 8 của kỳ Bạch Nguyệt hợp với sao Bố Sát (Puṣya: Quỷ Tú), tức có thể tụng Chú Thỉnh Triệu này
“Đát điệt tha: chỉ lý chỉ lý, chủ lỗ chủ lỗ, cú lỗ cú lỗ, câu trụ câu trụ, đổ trụ đổ trụ, phộc ha phộc ha, phạt xả phạt xả, toa ha”
*)TADYATHĀ: CIRI CIRI, CURU CURU, KURU KURU, KUṬU KUṬU, TOṬU TOṬU, VAHA VAHA, VAŚA VAŚA SVĀHĀ
Thế Tôn! Thần Chú này, nếu có bốn Chúng tụng 108 biến thỉnh triệu con thì con vì người này, liền đến nhận sự thỉnh cầu (phó thỉnh).
Lại nữa, Thế Tôn! Nếu có chúng sinh muốn được thấy con hiện thân cùng nói chuyện thì cũng nên như lúc trước, an trí Pháp Thức, tụng Thần Chú này:
“Đát điệt tha: át chiết nê, hiệt lực sát nê, thất ni, đạt lý, ha ha, hứ hứ, khu lỗ, phạt lệ, toa ha”
*)TADYATHĀ: AÑCANE KṚŚANE-SANE-DHARI_ HA HA_ HI HI_ KURU VĀRE SVĀHĀ
Thế Tôn! Nếu người trì Chú này thời nên tụng 108 biến kèm với tụng Chú lúc trước thì con liền hiện thân, tùy theo ước nguyện của người ấy đều được thành tựu, cuối cùng chẳng hư hão
Nếu muốn tụng Chú này thời trước tiên tụng Hộ Thân Chú là:
“Đát điệt tha: nễ thất lý, thất lý, mạt xả yết trí, nại trí, củ trí, bột địa bột địa lệ, tỳ trí tỳ trí, củ cú trí, khư bà, chỉ lý, toa ha”
*)TADYATHĀ: ŚIRI ŚIRI_ MĀSA KAṬI NAṬI KUṬI_ BUDDHI BUDDHILĪ_ VIṬI VIṬI_ KUKUṬI KAVACIRI SVĀHĀ
Thế Tôn! Khi tụng Chú này thời lấy sợi dây ngũ sắc, tụng Chú 21 biến, thắt 21 gút, cột buộc ngay sau khuỷu tay trái, tức liền hộ thân không có chỗ sợ hãi. Nếu có người chí Tâm tụng Chú này thì chỗ mong cầu đều được toại nguyện. Con chẳng nói dối, con dùng báu Phật Pháp Tăng để làm Khế Ước chứng biết là thật”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Địa Thần rằng: “Lành thay! Lành thay! Ông hay dùng Thật Ngữ Thần Chú này hộ trì Kinh Vương này với người nói Pháp. Do nhân duyên này khiến cho ông được vô lượng Phước Báo”
https://quangduc.com/a26628/kinh-kim-quang-minh
-
*Trong Mạn đồ la Thai tạng của Mật giáo có vẽ 2 vị Kiên lao địa thiên nam và nữ:
.Vị Địa thiên nam ngồi trên tòa tròn, thân mầu đỏ, đội mũ báu, tay trái bưng bát, trong bát có hoa tươi, tay phải đặt ở trước ngực, bàn tay hướng ra ngoài, hình Tam muội da là bình báu, chủng tử là (pf).
.Vị Địa thiên nữ ở bên trái(hoặc phía sau)vị Địa thiên nam, cũng ngồi trên tòa tròn, thân mầu trắng, đội mũ báu, tay phải để trước ngực, tay trái đặt trước bụng.
*Trong hội Thành thân của Mạn đồ la Kim cương giới thì vị tôn nữ này 2 cánh tay ôm một vòng tròn, trong mũ báu có hình bán nguyệt, chủng tử là (aô), hình Tam muội da là hình vuông hoặc bình báu.
http://phatam.org/dictionary/detail/...o-dia-thien/10
=======
KIÊN LAO ĐỊA THIÊN NGHI QUỸ
(堅牢地天儀軌)
Pháp có thể vẽ tượng của KIÊN LAO ĐỊA THẦN / Pháp họa tượng Kiên Lao Ðịa Thần:
*Kiên Lao Ðịa Thiên Nam:
1. Theo Cố TT.Thích Viên Đức: Vẽ nam thiên tướng sắc mặt đẹp đẽ, tay tả cầm bát đầy hoa, bàn tay hữu hướng ngoại.
2. Theo Cư Sĩ HUYỀN THANH: Vị Trời nam có màu thịt, tay trái cầm cái bát chứa đầy hoa, tay phải hướng lòng bàn tay ra bên ngoài.
*Kiên Lao Ðịa Thiên Nữ:
1. Theo Cố TT.Thích Viên Đức: Thiên nữ sắc mặt trắng đẹp, tay hữu ôm tâm, tay tả cũng ôm bắp vế.
2. Theo Cư Sĩ HUYỀN THANH: Vị Trời nữ có màu thịt, tay phải ôm ngay trái tim, tay trái cũng ôm ngay bắp đùi.
http://www.buddhamountain.ca/VT1286_TVDuc.php / http://giahungtangkinh.blogspot.com/...-nghi-quy.html
===
https://upanh1.com/images/Untitled499abdc1010c5922.png
https://upanh1.com/images/Untitled726f68f513071096.png
https://archive.org/details/deva.group/page/n263 / https://archive.org/details/deva.group/page/n267