https://www.youtube.com/watch?v=2GkcejWOe7I
Đám Cưới Người Hoa Ở Sài Gòn F2
Printable View
https://www.youtube.com/watch?v=2GkcejWOe7I
Đám Cưới Người Hoa Ở Sài Gòn F2
https://www.youtube.com/watch?v=kXifgbfQ1E8
Người Hoa Saigon cúng vong người quá cố.Jan.20.2017
https://www.youtube.com/watch?v=fzOFxzN_4y8
Vong linh nhập môn Đạo Cao Đài
Thăm Chiêu Ứng Từ Ở Huế ...
17 Tháng Giêng 200912:00 SA(Xem: 6886)
Triệu Phong
Hợp Lưu 98
Quản Lĩnh Và Thủ Lĩnh: Thiết Chế Phù Trợ Nhóm Lam Sơn Trên Đất Đông Kinh
Biển Đông Dậy Sóng
Vài Tài Liệu Mới Về Petrus Key ( Trương Vĩnh Ký) (1837-1898)(*)
Cõi Người Ta Của Lê Bá Đảng
Thăm Chiêu Ứng Từ Ở Huế ...
Nhà Thơ Số Một Của Thơ Mới
Điều Tra Viên Văn Hóa Và Kẻ Viết Chui
Thơ Lê Thánh Thư
Thơ Đoàn Minh Châu
María Dos Prazerès
Nõn Nường, Con Rắn Hai Đầu
Ngưng Chiến
Lan Man
Trốn
Hoa Xuân
Từ Trái Tim Mưa
Chúa Nhật, Bis,
Phút Nói Thật Với Nhà Thơ Du Tử Lê
Chỉ Nhớ Người Thôi
Thẳm Sâu, Buôn Ma Thuột
Hành Tây Bắc
Những Người Lính Cũ
Thơ Nguyễn Hàn Chung
Phong
w-hopluu98-f2-t68_0_300x172_1
I. Chiêu Ứng Từ
Ở đường Chi Lăng thuộc khu Gia Hội, thành phố Huế có một ngôi miếu Tàu có tên là Chiêu Ứng Từ. Miếu được xây dựng bởi bang hội người Hoa gốc Hải Nam để thờ cúng vong linh của 108 thương buôn người Hoa bị giết vứt xác ngoài biển. Đây là miếu của người Hoa trên đất Huế, ghi dấu một sự kiện lịch sử và pháp chế đời Tự Đức.
Thoạt đầu, các vong linh được đem thờ chung ở ngôi chùa Bà gần đó có tên Quỳnh Châu Hội Quán nơi thờ Bà Thiên Hậu. Chùa này cũng do sự đóng góp của người Hải Nam mà xây nên. Ngày qua ngày, tin về tấn thảm kịch của những kẻ chết oan được loan truyền rộng ra, ít nhiều được thổi phồng lên; dần dà các nạn nhân được tôn lên thành những vị anh hùng uổng tử, và thành linh thần. Người dân địa phương khi có điều gì cần thường hay ghé vào đây để cầu xin; nhiều người được toại nguyện, ca ngợi sự linh hiển của các thần linh, uy danh do thế ngày càng lớn. Năm 1887, bang hội người đảo Hải Nam quyết định cho xây một ngôi miếu riêng nằm ở địa điểm ngày nay nhưng qui mô hồi ấy vẫn còn nhỏ. Các nơi khác có người Hải Nam lưu trú, nhiều ngôi miếu tương tự cũng được dựng lên như ở Đà Nẵng, Hội An, Sài Gòn, Singapore, Thái Lan, … nhưng bề thế hơn cả là ngôi miếu ở thị trấn Hải Hậu, huyện Vân Xương, đảo Hải Nam, nơi nguyên quán của những người đã khuất.
Về sau, thấy ngôi miếu ở Huế quá khiêm tốn, không xứng đáng với uy danh to lớn của các linh thần, kiều bào người Hoa gốc Hải Nam đứng ra quyên góp và đến năm 1908 mới xây dựng lại như thấy ngày nay. Tất cả công trình kiến trúc đều do bàn tay của các nghệ nhân từ Hải Nam đưa sang, kiểu dáng y hệt như miếu xây ở Hải Nam nhưng với kích thước thu nhỏ lại. Tuy thế đây lại là một trong các miếu cùng loại đẹp nhất với lối trang trí hết sức tỉ mỉ.
Miếu nằm trong khuôn viên rộng khoảng 400 mét vuông, tường rào bằng sắt bao quanh, cổng trước cũng bằng sắt, không trụ biểu, dẫn vào sân ngoài. Sân này được lát bằng gạch, hai bên sát tường có hai bồn hoa đủ các loại.
Kế đến là cổng chính, kiểu nhà có mái, cao 7 m, dài 13 m, rộng 5 m, chia làm ba gian, các cánh cửa đều bằng gỗ. Ở phần tường phía trên cổng là những điêu khắc các nhân vật trong những tích của các tuồng Tàu. Trên cổng có treo tấm biển khắc chữ ‘Chiêu Ứng Từ’, hai tấm liễn treo hai bên có các câu:
‘Để tưởng nhớ đến những đồng hương kính mến’ và ‘Uy danh của các vị bao trùm khắp vũ trụ’.
Ngoài ra, ở trên tường phía tả và hữu có những đoạn văn như sau:
‘Từ lâu người Hoa vốn là khách trú trên xứ An-Nam, trong đó có những người là nạn nhân của sự bất công, vong linh họ chưa được yên nghỉ. Nỗ lực của chúng ta để xoa dịu cơn thịnh nộ của các vị cũng vô vọng như chim Tinh Vệ (1) muốn lấp biển sâu’.
Và:
‘Linh hồn bất tử của các vị mãi mãi lênh đênh trên các sóng, thị hiện như sóng Ngũ Tư (2) để cứu vớt các con tàu bị nạn’.
Đằng sau, ngôi đình tứ giác hai tầng mái kiểu cổ lâu, mỗi bề 7 m, cao 7 m, bốn cột đúc giữa và bốn cột phụ. Bên trên có bức hoành ghi:
‘Tổ quốc chúng ta được che chở bởi linh hồn của các nạn nhân’.
Phía bên phải có một phòng lớn trông như lớp học dùng làm phòng họp của bang hội người Hải Nam.
Chính điện nằm giữa khu sân trong gồm ba gian, dài 12 m, rộng 8,4 m. Bên trên lối vào có bức hoành ghi:
‘Oai danh các vị bao la tựa đại dương’.
Bên trái, bên phải còn có các câu:
‘Sự hy sinh của các vị hộ trì cho sự an ninh của lãnh hải Trung Quốc’
Và:
‘Ân đức các vị nhiều vô kể’.
Nội, ngoại thất cả ba kiến trúc đều trang trí bằng phù điêu gốm màu sản xuất từ Trung Quốc với các hình tượng cá gáy hóa rồng, chữ Phúc, Lộc, Thọ, thơ văn chữ Hán viết trên tường bằng bột màu. Nóc quyết đắp tứ linh tinh xảo, rực rỡ.
Bàn thờ nằm ở gian giữa, bài trí đơn sơ với lư hương, các lọ cắm. Đằng trước và ngay bên trên có treo bức hoành phi:
‘Mọi điều cầu xin đều được toại nguyện’.
Hai bên có hai bức liễn ghi:
‘Lưu vong nơi xứ người nhưng vẫn kính yêu tổ quốc, ghi nhớ lời dạy của cổ nhân’
Và:
‘Đất An-Nam biết trọng lễ nghĩa. Dâng người đã khuất những cúng dường cần thiết để xoa dịu vong linh các vị’.
Đằng sau là bàn thờ nhỏ với bài vị của 108 người chết, bên cạnh có câu:
‘Uy danh các vị tràn ngập đất An-Nam’.
Riêng tại miếu thờ ở Đà Nẵng vẫn còn lưu giữ lá cờ vua Tự Đức ban cho, trên có thêu hàng chữ:
‘Sắc Phong Chiêu Ứng Oanh Liệt, Phó Phong Đức Bảo Trung Hưng"
Sự trang trí bởi các tượng chạm, chữ Hán, các tranh vẽ, cùng nhiều câu đối để diễn đạt xuất xứ của ngôi miếu, nhắc nhở đến các thời kỳ lịch sử xa xưa, mô tả đời sống của người Hoa, để vinh danh nước Trung Hoa, người Hoa nói chung, và đặc biệt linh hồn của những kẻ đã khuất.
Hằng năm vào độ rằm tháng sáu âm lịch, thân nhân các nạn nhân sống tại Việt Nam hay từ Hải Nam, cũng như người Hoa kiều từ các nơi qui tụ về đây để làm lễ tưởng niệm, thường thường lễ kéo dài đến ba ngày.
II. Vụ Án
Mùa hè năm Tự Đức thứ 4 (1851), Chưởng vệ Phan Xích, cùng Lang trung Tôn Thất Thiều nhận lệnh quản suất chiến thuyền mang tên Bằng Đoàn đi tuần tiểu vùng duyên hải các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Ngày 6 tháng 7 thuyền ra cửa Thuận An.
Theo sớ tâu ghi ngày 25 tháng 7 của Phan Xích và Tôn Thất Thiều dâng về triều đình thì ngày 16 tháng 7 ở ngoài khơi đảo Thanh Châu thuộc tỉnh Quảng Ngãi họ phát hiện thấy ba thuyền lạ của Trung Quốc. Chiếc Bằng Đoàn lập tức nhổ neo chạy vòng sang phía bên kia đảo đề quan sát kỹ hơn. Tình nghi là thuyền của hải tặc nên liền bắn ngay vài phát súng thần công. Bị tấn công bất ngờ, ba chiếc thuyền lạ bèn giương buồm bỏ chạy. Ba ngày sau (19 tháng 7) chiếc Bằng Đoàn bắt kịp chúng. Đôi bên giao chiến ác liệt. Sau đó một chiếc bị trúng đại bác vỡ tan, chiếc thứ hai bỏ chạy về phía đông, còn chiếc thứ ba trong tình trạng què quặt trôi bềnh bồng trên sóng. Một toán quân do Hiệp quản Dương Cử chỉ huy xông lên thuyền địch. Tuy đa số đã chết hoặc bị thương nặng, nhưng khoảng một chục thủy thủ đoàn còn lại vẫn ngoan cố kháng cự nên cuối cùng họ hoặc bị giết hoặc nhảy xuống biển trốn thoát. Chiếc thuyền sau đó được kéo về đảo Chiêm Dự tức Cù Lao Chàm. Bản báo cáo còn thêm rằng mặc dù đụng độ địch nhưng chiếc Bằng Đoàn chỉ hư hại nhẹ, có thể sửa chữa lại được ngay. Ngoài ra thì không có tổn thất nhân mạng nào. Phạm Xích và Tôn Thất Thiều sau đó ra lệnh cho đốt thuyền địch. Tinh thần anh em quân sĩ dâng cao, hai ông xin triều đình xét thưởng công cho tất cả.
Vua Tự Đức xem xong tờ tâu liền sinh nghi vì đánh nhau với phỉ mà lính tráng chẳng ai bị thương tích gì, còn phía bên kia thì chết sạch không một người bị bắt làm tù binh. Vua liền giao cho một quan bên Bộ Binh đi tra xét. Viên ngoại Nguyễn Văn Tân điều tra xong trở về xác nhận lời tâu của Phạm Xích và Tôn Thất Thiều là đúng sự thật. Trong tờ sớ tâu về triều, bên Bộ Binh kết luận rằng vì chiếc thuyền sơn màu đen nên không thể là một thuyền buôn được, và dựa theo lời kể của các quan cấp dưới cùng sĩ tốt thì những người trên thuyền đó toàn là quân phỉ. Bộ này xác nhận tất cả đều bị giết sạch nhưng không có chứng tích nào cho thấy bên kia có kháng cự, rõ ràng là nói ngoa.
Đồng thời cũng trong thời gian ấy, một tên trong số thủy thủ của chiếc Bằng Đoàn nhà ở gần phố Gia Hội (khu phố người Hoa ở Huế), nhân ăn nhậu không đủ tiền trả bèn cầm chiếc nhẫn cho chủ quán. Chẳng may cho hắn, vợ một người mất tích nhận ra (vì mặt nhẫn có khắc tên chồng bà), bèn đánh trống kêu oan. Vua Tự Đức sai tra xét, tên ấy phải nhận tội và khai ra hết sự tình.
Viên đội trưởng trong vệ Tuyển phong là Trần Hựu cũng thú nhận rằng hôm 17 tháng sáu năm 1851 thuyền quan đang đậu ở cửa biển Thị Nại được tin có ba chiếc thuyền lạ ngoài khơi đảo Thanh Dữ, Chưởng vệ Phan Xích và Lang trung Tôn Thất Thiều liền ra lệnh nhổ neo, chạy vòng ra phía sau đảo. Đến đây họ mới nhận biết đây là ba thuyền của Trung Quốc. Bị bắn, ba chiếc bỏ chạy về phía đông. Thuyền quan rượt theo và tiếp tục bắn thần công về phía chúng nhưng chúng chẳng hề đáp lại. Đến ngày 18 tháng 7, hai chiếc thoát mất dạng, duy chiếc thứ ba vì bị hư hại nặng phải hạ buồm đứng lại chịu trận. Cập lại gần, Phạm Xích ra lệnh cho tất cả những người bên thuyền của Trung Quốc sang trình diện. Họ tuân hành lệnh. Ba mươi ba người sang trình thẻ, nói là nhà buôn ở Thừa Thiên xin về thăm quê Trung Quốc và đã được cấp phép, lại có biết Lang trung Tôn Thất Thiều và Suất đội Nguyễn Tỉ; những người còn lại đều buôn bán ở Quảng Ngãi. Họ còn thêm rằng họ đang trên đường trở về Trung Quốc, và thuyền họ là thuyền buôn, không có chiếc nào là hải tặc. Mặc dù đã khai như thế nhưng Phạm Xích lại sai Hiệp quản Dương Cử dẫn một toán quân sang khám xét chiếc tàu lạ. Họ thấy bên đó chỉ toàn hàng hóa mà không có vũ khí nào cả. Tuy vậy Dương Cử vẫn được lệnh phải trói tất cả những người bên thuyền ấy lại, gồm có 75 người Hoa. Qua đêm thứ hai, có lệnh chém đầu hết rồi quăng xác xuống biển. Phần 33 người Hoa khác đã sang trước bên chiếc Bằng Đoàn cũng chịu chung số phận. Tổng số có đến 108 bị chém chết rồi đem quăng mất xác. Ngoài ra sau đó còn tìm thấy một người khác trốn dưới đáy khoang. Bị phát giác, người này chạy thoát lên boong, phóng xuống biển mất tích. Toàn bộ hàng hóa trên chiếc tàu Trung Quốc được chuyển sang chiếc Bằng Đoàn rồi chiếc thuyền buôn được sơn lại toàn màu đen để trông như tàu hải tặc.
Ngày 7 tháng 8 năm 1851, Bộ Binh trình sớ khác lên triều đình để chờ vua phán.
Vua Tự Đức duyệt xong liền phê như sau:
"Mới đây, Phạm Xích và Tôn Thất Thiều có dâng sớ báo việc bắt giữ một tàu hải tặc Trung Hoa. Qua đó quả nhân nhận thấy chiếc thuyền này bị giữ mà không có thủy thủ đoàn nào bị bắt làm tù binh và không có gì chứng minh rằng thuyền này có sai phạm. Việc này khiến quả nhân quan tâm và động lòng thương cảm. Quả nhân đã lệnh cho Bộ Binh điều tra vụ việc nhưng khi đọc tờ trình đầu tiên, Bộ này cho biết tất cả đều bị giết sạch vì chống cự, quả nhân lại càng sinh nghi thêm. Quả nhân ngần ngại chưa phê chuẩn ngay được là vì lẽ đó.
"Thế mà, kết quả của tờ trình mới nhất của Bộ Binh cho thấy Phạm Xích và đồng bọn đã ngụy tạo công lao để đòi được khen thưởng. Chúng là một lũ giảo quyệt, tham lam và độc ác, không có chút nhân tính. Tội chúng là trọng tội! Ôi chao nghĩ đến mà quả nhân đã thấy run lên vì sợ và quả nhân cảm thấy đau đớn khi diễn đạt sự độc ác như thế!
"Cứ tiến hành điều tra. Đưa những kẻ phạm tội ra trừng trị theo pháp triều.
"Trẫm ra lệnh tước hết quyền của Phạm Xích và Tôn Thất Thiều, lập tức bắt giam và giao cho Pháp ti (tức Tam Pháp ty: tòa tối cao chuyên xử những vụ đại hình) tra xét. Về phần quan viên bên Bộ Binh, trẫm giao phó trách nhiệm điều tra mà không tìm ra lẽ phải. Nay tạm ngưng công tác để thẩm xét…."
Sau khi tra xét từng trường hợp, ngày 18 tháng 11 năm 1851, Pháp ti kết thúc phiên xử và trình bản án lên vua Tự Đức xin phê chuẩn. Vua đọc xong liền phê ngay. Bản án như sau:
"Lang trung Tôn Thất Thiều và Chưởng vệ Phạm Xích, đồng phạm chủ mưu vụ thảm sát bị xử lăng trì đến chết. Riêng Tôn Thất Thiều bị xóa tên ra khỏi gia đình hoàng tộc, nay phải lấy theo họ mẹ và cải tên thành Đặng Thiều. Vợ con Thiều bị đày vào sống ở Nam Kỳ và không được sống gần nhau. Hình phạt tương tự áp dụng cho vợ con của Phạm Xích.
"Hiệp quản Dương Cử, tội tòng phạm, bị xử tử ngay lập tức và đầu bị đem bêu ngoài chợ để làm gương.
"Các Hộ vệ như Lê Kỳ, Tôn Thất Cẩm, Tôn Thất Giá và Tôn Thất Hành, tội đốc quân thi hành việc chém đầu các nạn nhân, bị án chém đầu ngay lập tức. Riêng ba người dòng Tôn Thất bị cải tên theo họ mẹ thành Nguyễn Cầm, Lê Giá và Nguyễn Hành.
"Hộ vệ Tôn Thất Ân vì chống lệnh giết người nên được miễn tố và được giữ nguyên chức vụ.
"Các Suất đội như Hồ Tá Hổ, Dương Đức Bửu, và Nguyễn Tỉ, tuy không trực tiếp liên quan đến vụ thảm sát nhưng đã không hề cưỡng lệnh, bị phạt đòn mỗi người 100 trượng, phải lưu đày xa quê nhà 3000 lí. Kết quả, Hổ phải vào sống ở Biên Hòa, Bửu ở Gia Định, còn Ti thì về Vĩnh Long.
"Hộ vệ Tôn Thất Chẩn, trong thời gian bị cầm giữ đã cắt lưỡi tự tử nhưng không chết, được đưa đi điều trị vì ra máu nhiều. Vì không trực tiếp chỉ huy nên được gia giảm tội bằng cách bị loại ra khỏi hộ vệ đoàn về nhà ngồi chơi xơi nước.
"Hai mươi đội trưởng cùng khoảng 70 lính trên tàu Bằng Đoàn bị phạt đòn 100 trượng và bị cất chức. Riêng Đội trưởng Trần Văn Hựu vì cưỡng lệnh nên được tha bổng.
"Viên ngoại Nguyễn Văn Tân được giao phó đi Quảng Ngãi để điều tra vụ việc mà không tìm ra được sự thật, bị giáng xuống một bậc.
"Ba thượng quan Bộ Binh là Trương Đăng Quế, Trương Quốc Dũng và Nguyễn Đình Tân, có tội làm tờ trình nhiều sai sót, bị treo lương một năm.
"Những kẻ trọng tội bị tịch thu gia sản và giao tất cả cho Phan Ky Ký, bang trưởng bang hội đồng hương Hải Nam để chuyển đến gia đình nạn nhân hầu xoa dịu nỗi mất mát của họ, đồng thời hoàn trả lại tất cả hàng hóa lấy từ chiếc thuyền buôn.
"Cuối cùng, cần mượn một số tiền từ phủ Thừa Thiên để lập trai đàn ở cửa sông tại Thuận An hầu phục hồi danh dự cho các vong linh. Các tội phạm bị án tử hình tức khắc sẽ được thi hành trong cùng ngày tế lễ này.
"Bản án này được nội các phê và vua Tự Đức chuẩn thuận ngày 7 tháng 12 năm 1851."
Triệu Phong
Bàn thờ và bài vị của 108 người Hoa bị chết oan
(1) Chuyện tích kể con gái vua Thiều Hiếu bị chết đuối khi đang du hành trên biển. Nàng biến thành chim Tinh Vệ hằng ngày tha đá cuội để mong lấp đầy biển sâu.
(2) Ngũ Tử Tư người nước Sở trốn qua nước Ngô để phục vụ cho vua Hạp Lư. Vua Câu Tiễn nước Việt vời ông qua cộng tác, hứa sẽ gả con gái là Tây Thi đẹp sắc nước hương trời. Ở đất Ngô sau nhiều lần vua không chịu nghe lời can gián của ông về thế sự, Tử Tư ngoảy đi và nói: "Nước Ngô rồi đây sẽ bị diệt và sẽ thành một cái ao của nước Việt mà thôi." Nghe vậy vua Ngô đưa kiếm bảo Ngũ Tư phải tự sát. Sau khi Ngũ Tư chết, xác bị quăng xuống sông. Về sau ông biến thành thần sóng.
Tài liệu tham khảo:
(1) A. Bonhomme, "Le Temple de Chiêu Ứng"; Bulletin des Amis du Vieux Hué, I:3 (7-9 / 1914), pp. 191-209.
(2) Lê Nguyễn Lưu, "Văn Hóa Huế Xưa: Đời Sống Văn Hóa Làng Xã"; Nhà xuất bản Thuận Hóa, trang 321-323.
https://hopluu.net/a1094/tham-chieu-ung-tu-o-hue
http://huyenmon.logu2.com/t55-topic
QUAN ÂM ĐẠI SỸ LINH ỨNG QUẺ
XĂM SỐ 1
Hán việt
Khai thiên khai địa tác lương duyên
Cát lợi lương thời vạn vật nguyên
Nhược đắc thử xăm phi tiểu khả
Nhân hành trung chính đế hoàng tuyên.
Dịch
Đất trời tự thuở hông hoang ấy
Ngày tháng tốt lành vạn vật xoay
Người được xăm này là hiếm thấy
Vua liền ban thưởng việc thẳng ngay
Lời bàn
Điềm lành mau đến, Cuối năm giờ tốt. Quan âm giáng bút. Báo trước người hay
Điềm quẻ ứng
Bàn cổ sơ khai. Mọi việc điều tốt
Tích cổ : Chung ly thành đạo
Giải
Gia đạo cầu phúc, Tự thân có tài, Thu đông đại lợi,
Buôn bán hôn sự thành công,Người đi tới, điền vụ lục súc tốt.
Tìm người gặp, Kiện tụng thành, Vật thất đông nam
Bệnh thuyên giảm, Phong thủy cát.
-----------*****-----------
XĂM SỐ 2 TRUNG XĂM
Chữ Hán Việt
Kình ngư vị biến thủ giang hà
Bất khả thăng đằng cánh vượt cao
Dị nhật tranh vanh thân biến hóa
Hứa quân nhất diệu khiếu long môn
Dịch
Tung tăng bơi lội ở ven sông
chớ ngó trời cao với biển đông
Đợi ngày tỏa rạng thân thay xác
vượt được long môn mới hóa rồng
Lời bàn
Phải cố nhẫn nhịn, Không nên nóng vội. Khi thời cơ tới, Công danh sáng tươi
Điềm Quẻ Ứng
Kình ngư chưa biến, Mọi sự nhẫn nhịn chờ thời
Tích Cổ : Tô Tần chưa làm quan
Giải
Gia đạo bất an, Tự thân mãn nguyện, Cầu tài bất lợi, Hôn sự khó thành, người đi bình an
Điền vụ lục súc bất lợi, Tìm người thấy, Kiện tụng hòa, Thất vật đông nam, bệnh cầu khấn, phong thủy cát
-----------*****-----------
SỐ 3 Hạ Xăm
Hán việt
Lâm phong mạo vũ khứ hoàn hương
cánh thị kỳ thân tự yến nhi
Hàm đắc nê lai dục tác lũy
đáo đầu hủy hoại phục tu nê
dịch
Chim én nhỏ bay trong gió bão
Tha bùn về xây tổ nên cao
Xảy đâu một trận mưa rào
Tổ kia tan rã công lao còn gì
Lời Bàn
Sớm tối lo nghĩ, Trăm phương ngàn kế, Nhưng có ngờ đâu, Hao tâm uổng phí
Điềm quẻ ứng
Yến tử hàm nê, Mọi việc lao tâm uổng phí
Tích cổ : Đổng Vĩnh gặp tiên
Giải
Gia đạo tiền hung hậu cát, Tự thân phòng bị, Cầu tài tốt, Giao dịch thành, hôn nhân xấu
Người đi tốt, Điền vụ lục súc có lợi, Kiện tụng có lý,Tìm người gặp, Di dời an
Thất vật gặp, Bệnh thuyên giảm, phong thủy cát
-----------*****-----------
SỐ 4 Thượng xăm
Hán việt
Thiên niên cổ kính phục trùng viên
Nữ tái cầu phu nam tái hôn
Tự thử môn đình trùng cải hoán
Cánh thêm phúc lộc tại nhi tôn
Dịch
Gương xưa đã vở lại liền tròn
Trai cô gái góa hẹn nước non
Cửa nhà cao rông thêm vui vẻ
Phúc lộc lưu truyền tới cháu con
Lời Bàn
Đãi cát tìm vàng, Qua bao gian khó, Tuy nhiều lao tâm, Tựu trung hữu ích
Điềm quẻ ứng
Cổ kính trùng viên, Mọi sự lao tâm, có quí nhân giúp
Tích cổ : Ngọc Liên hội bằng hữu
Giải
Gia đạo bất lợi, Tự thân được tài, thu đông thịnh vượng, Giao dịch được tốt
Hôn nhân thành, Người đi tới, Tìm người thấy, Điền vụ khả quan
Kiện tụng bất lợi, Di dời thủ cựu, Thất vật chậm thấy, Bệnh cầu phúc, Phong thủy cát
-----------*****-----------
SỐ 5 Xăm trung
Hán việt
Thiết chùy thảo địa yếu cầu tuyền
Nổ lực cầu chi đắc tối nan
Vô ý nga nhiên ngộ tri kỷ
Tương phùng huề thủ thượng thanh thiên
Dịch
Tìm nguồn suối ngọt ở nơi sâu
Chùy sắt có mà đào được đâu
Bỗng nhiên gặp được người tri kỷ
Dắt dìu dạo bước cảnh tiên đào
Lời bàn
Tâm nguyện muốn làm, Hướng tây khả cầu, nếu không động thủ, có mà được đâu
Điềm quẻ ứng
Chùy địa cầu tuyền, mọi sự trước khó sau dễ
Tích cổ : Lưu Thần gặp tiên
Giải
Gia đạo cầu phúc, Tự thân có tài,Giao dịch hôn nhân hợp, Người đi trễ, Tìm người gặp
Điền vụ nên sớm, Lục suc tổn, Kiện tụng hòa, Di dời cát, Tìm vật mất, Bệnh khó, Phong thủy cát
-----------*****-----------
SỐ 6 Xăm Trung
Hán Việt
Đầu thân nham hạ điểu đồng cư
Tu thi hoàn tha đại trượng phu
Thập đắc doanh mưu thùy khả đắc
Thông hành thiên địa thử nhân vô
Dịch
Chim đông dựng tổ mõn non cao
Trông đó rõ ràng vẫn thanh tao
Đây được doanh mưu người chẳng được
Con đường rộng mở bước đi mau
Lời Bàn
Cuộc sống không giàu, Thân tự thanh cao, Tới thời lợi lạc, Quyền vẫn như nhau
Điềm quẻ ứng
Đông điểu đầu nham, Việc chi cũng thuận cát
Tích Cổ : Tiết nhân Qúi gặp chủ
Giải
Gia đạo bất lợi, Tự thân cầu tài cát, giao dịch khó thành, hôn nhân tốt, người đi tới
Điền vụ sớm tốt, Di dời cát, Vật thất gặp, Bệnh vần giảm, Kiện tụng đúng lý
, Phong thủy an
--------------*****-----------------
SỐ 7 Xăm Hạ
Hán Việt
Bôn ba trở cách trùng trùng hiểm
Đới thủy đà nê khứ độ san
Cánh dụng tha phương cầu dụng sự
Thiên hương vạn lý vị hồi hoàn
Dịch
Trước mặt non cao lớp lớp dầy
Dây dưa không quyết bước sao đây
Đất khách muốn mưu làm việc lớn
Quê cũ nghìn xa chẳng thể quay
Lời Bàn
Yên thân thời được, Tiến bộ là khó, giữ yên như cũ, đừng ngó cao thêm
Điềm quẻ ứng
Đà nê đới thủy, Việc theo cũ là tốt
Tích Cổ : Tô nương chạy nạn
Giải
Gia đạo bất lợi, Bản thân thuận lợi, Cầu tài thu đông cát, Giao dịch trung bình,
Hôn nhân chớ dội, Người đi trở ngại, Điền vụ lục súc bất lợi, Tìm người khó,
Kiện tụng thua, Di dời cát, Thất vật khó tìm, Bệnh làm phúc, Phong thủy bất lợi
-----------*****-----------
SỐ 8 Xăm Thượng
Hán Việt
Mậu lâm tòng bá chính hưng vương
Vũ tuyết mạc vi tổng phong sương
Dị nhật hốt nhiên thành đại dụng
Công thành danh tựu tài đống lương
Dịch
Rừng sâu tùng bách mọc xanh rì
Mưa bão tuyết sương có xá chi
Mai kia cao lớn cây ngay thẳng
Rường cột thành danh đã đến kỳ
Lời Bàn
Trên lộ hanh thông, Suốt đời ra công, Bội thu thành quả, Gia đạo hưng long
Điềm quẻ ứng
Tòng bá tươi tốt, Việc chi có quí nhân phò hộ
Tích Cổ : Diệu Năng ngộ tiên
Giải
Gia đạo tốt, Tự thân thuận lợi, Cầu tài trung bình, Giao dịch vượng, Hôn nhân thành,
Điền vụ lợi, Lục súc tổn, Người đi có tin, Tìm người có, Kiện tụng hữu lý,
Di dời cát, Thất vật có, Bệnh an khương, Phong thủy cát
-----------*****-----------
SỐ 9 Xăm Thượng
Hán Việt
Phiền quân vật tác tư tâm sự
Thử ý thiên nghi thuyết vấn công
Nhất phiến minh tâm quang kiểu khiết
Uyển như kiểu nguyệt chính thiên tâm
Dịch
Đừng có làm chi việc trái lòng
Dâng ý này lên hỏi thánh ông
Tấm lòng son sắt người người tỏ
Ví giữa trời cao trăng sáng trong
Lời Bàn
Trong lòng chính trực, Thuận lý thuận tình, Thánh vô tư ngữ, sau cũng phân minh
Điềm quẻ ứng
Kiểu nguyệt đương thông, mọi chuyện quang minh thông suốt
Tích Cổ : Khổng Minh điểm tướng
Giải
Gia đạo cát, Tự thân thuận, Cầu tài trung bình, Giao dịch vượng, Hôn nhân thành,
Người đi động, Điền vụ lợi, Lục suc tổn, Tìm người có, Kiện tụng hữu lý,
Di dời cát, Thất vật cầu phúc, Bệnh được an, Phong thủy cát.
-----------*****-----------
SỐ 10 XămTrung
Hán Việt
Thạch tàng vô giá ngọc hòa trân
Chỉ quản tha hương ngoại khách tầm
Uyển tự trì đăng canh mịch hỏa
Bất như thu thập uổng lao tâm
Dịch
Đá kia ẩn ngọc quí bên trong
Tìm chi xứ lạ mãi mênh mông
Ví tựa cầm đèn chờ lửa tới
sắp đặc đúng rồi khỏi ngóng trông
Lời bàn
Nhân duyên hội ngộ, Việc chi không thành, lòng suy nghĩ kỹ, mới gặp chân lý
Điềm quẻ ứng
Cầm đèn chờ lửa, mọi việc đợi thời mới thành
Tích Cổ : Bàng Quyên xem trận
Giải
Gia đạo thiếu lợi, Tự thân an, Cầu tài giao dịch khó, Hôn nhân hợp, Người đi động,
Kiện tụng thua, Điền vụ thu tốt, Lục súc khó nuôi, Tìm người thấy, Di dời an,
Vật thất khó tìm, Bệnh thuyên giảm, Phong thủy trung bình
-----------*****-----------
Về Đầu Trang Go down
Xem lý lịch thành viên
MA NỮ U LINH
Smod
Smod
Tổng số bài gửi : 105
Điểm : 155
Thanks : 22
Join date : 07/11/2012
Đến từ : Trái Đất
Bài gửiTiêu đề: Re: QUAN ÂM ĐẠI SỸ LINH ỨNG QUẺ 28/11/2012, 9:46 am
SỐ 11 Xăm Thượng
Hán Việt
Dục cầu thắng sự khả phi thường
Tranh nại thân nhân nhật tạm mang
Đáo đầu cánh tất thành lộc tiển
Qúi nhân chỉ dẫn quí nhân hương
Dịch
Ham muốn tranh chi việc thắng thua
Nhân duyên mợi sự chớ tranh đua
Có ngày hưu nhỏ nên tên ngắm
Qúi nhân dẫn giúp đến quê xưa
Lời Bàn
Việc có may rủi, Sau lại an nhiên, Như muốn hành sự, sẽ gặp quí nhân
Điềm quẻ ứng
Trong họa có Phúc, Mọi sự được cát lợi
Tích Cổ : Tiến cử Khương Duy
Giải
Gia đạo đại cát, Tự thân thuận lợi, Cầu tài có, Giao dịch thành, Hôn nhân hợp,
Tìm người có, Người đi trễ, Điền vụ lục súc trung bình, Kiện tụng có lý, Di dời vượng,
Thất vật Hướng đông, Bệnh khó, Phong thủy cát.
-----------*****-----------
SỐ 12 Xăm thượng
Hán Việt
Bỉ khứ thái lai chỉ xích gian
Tạm giao quân tử xuất vu san
Nhược phùng hổ thố giai âm tín
Lập chí mang trung sự tức nhàn
Dịch
Khổ cực sáng tươi cách tất gang
Tạm đưa người quí vượt đồi ngang
Gặp được mẹo dần tin được tốt
Lập thân trong gắp hóa thư nhàn
Lời Bàn
Đổi bố lấy tơ, Buộc hai chân người. Muốn thấy phân minh, Trong tai có phúc
Điềm quẻ ứng
Họa trung hữu phúc, Mọi việc tiền hung hậu cát
Tích Cổ : Võ Cát gặp thầy
Giải
Gia đạo an, Tự thân cát, Cầu tài có, Giao dịch cẩn thận, Hôn nhân thành, Người đi trễ,
Điền vụ lợi, Lục súc cẩn thận, Tìm người có tin, Kiện tụng tốt, Di dời theo cũ,
Thất vật có, Phong thủy cát
-----------*****-----------
SỐ 13 Xăm Trung
Hán Việt
Tự tiểu sinh ư phú quí gia
Nhãn tiền vạn vật tổng xa hoa
Mông quân thí thử kim giác đới
Tứ hải thanh danh định khả khoa
Dịch
Tự nhỏ sinh ra tại nhà giàu
Trước mắt xa hoa quí xiết bao
Chờ ngày ban thưởng vòng đai ngọc
Thanh thơm bốn biển hãy khoe mau
Lời Bàn
Tù nhân được thả, Bệnh tức an nhiên, Qua được long môn, Danh truyền khắp xứ
Điềm quẻ ứng
Cửa rồng được thông, Mọi sự đại cát
Tích Cổ : La Thông bái sư
giải
Gia đạo tự thân cầu phúc, Cầu tài thu đông cát, giao dịch cẩn thận, Hôn nhân hợp,
Tìm người thấy, Kiện tụng hữu lý, Người đi cầu bảo, Điền vụ lục súc trung bình,
Di dời y cựu, Thất vật hướng đông, Bệnh an, Phong thủy cát.
-----------*****-----------
SỐ 14 Xăm Trung
Hán Việt
Uyển như tiên hạc xuất phàm lung
Thoát đắc lung phàm lộ lộ thông
Nam bắc đông tây vô trở cách
Nhậm quân trực thượng cữu tiêu cung
Dịch
Chim hạc giờ đây đã xổ lồng
Lượn bay tung cánh khắp tây đông
Thênh thang trời rộng đâu ngăn trở
Thẳng đường lên đến cữu tiêu cung
Lời Bàn
Tùy ý chẳng lo, Lộ đã hanh thông, Tùy tâm tự tại, Ung dung thanh nhàn
Điềm quẻ ứng
Tiên hạc rời lồng, Mọi việc trước khó sau dể
Tích Cổ : Tử Nha từ quan
Giải
Gia đạo bất an, Tự thân như nguyện,Cầu tài giao dịch hợp, Người đi gặp, Điền vụ lợi
Lục súc tổn, Tìm người trở, Kiện tụng hòa, Di dời cát, Vật thất đông nam,
Bệnh thuyên dứt, Phong thủy cát
-----------*****-----------
SỐ 15 Xăm Trung
Hán Việt
Hành nhân liệt nhật khí nan thôn
Hốt hữu sự tai vật cận tiền
Điểu phá lâm sào vô sở túc
Khả tầm thâm thụy ổn an thân
Dịch
Trời trưa nắng nóng khó người đi
Rơi tổ rừng khô chim ở gì
Tìm nơi an giấc an thân lấy
Sự việc chẳng lành bước tới chi
Lời Bàn
Nếu bị người oán, Lúc nào minh oan, Hảo ngọt chớ tin, Thủ cựu chờ thời
Điềm quẻ ứng
Chim tổ rừng sâu, Mọi sự sau như tâm nguyện
Tích Cổ : Tô Tân tỏ chí
Giải
Gia đạo tiên hung hậu cát, Tự thân cần phòng, Cầu tài cát, Giao dịch thành,
Hôn nhân trở, Người đi thuận, Điền vụ lợi, Lục súc vượng, Tìm người gặp,
Kiện tụng có lý, Bệnh như ý nguyện, Vật thất khó tìm, Phong thủy cát.
-----------*****-----------
SỐ 16 Xăm Trung
Hán Việt
Sầu mi tư lự tạm thời khai
Khải xuất vân tiêu hỷ tự lai
Uyển như phấn thổ trung tàng ngọc
Lương công thiện cử xuất trần ai
Dịch
Từ đây bỏ dứt mọi ưu phiền
Sắc màu vui vẻ đến liên miên
Như đất bùn kia chôn ngọc quí
Qua tay thợ khéo mãi lưu truyền
Lời Bàn
Chỗ được không mất, Trong mất hữu ích, Tiểu nhân gặp ác, Quân tử thuận cát
Điềm quẻ ứng
Âm dương hòa hợp, Mọi mưu tính điều tốt
Tích Cổ : Diệp mộng Hùng chầu vua
Giải
Gia đạo bất lợi, Tự thân thu đông cát, Cầu tài Giao dịch Hôn sự thành. Người đi tới,
Điền vụ cầu bảo, Lục súc bình, Tìm người thấy, Kiện tụng bất lợi, Di dời thủ cựu,
Vật thất trở, Bệnh làm phúc, Phong thủy an.
-----------*****-----------
SỐ 17 Xăm Trung
Hán Việt
Mạc thính nhàn ngôn thuyết thị phi
Thần hôn chỉ hảo khấn Thần Tiên
Nhược tương cuồng thoại vi chân thật
Họa bỉnh như hà chỉ đắc cơ
Dịch
Nên lo sớm tối khấn Thần Tiên
Bỏ hết ngoài tai chuyện thị phi
Nếu lời điên dảo cho là thật
Như ăn bánh vẽ có no gì ?.
Lời Bàn
Tâm trung bất định, Siêng đọc kinh văn, Ví như bánh vẽ, Ăn có được chăng
Điềm quẻ ứng
Họa bỉnh sung cơ, mọi việc hư nhiều thật ít.
Tích Cổ : Tào Tháo thoại mai chỉ khát
Giải
Gia đạo cầu phúc, Tự thân cầu tài, Giao dịch thuận lợi, Hôn nhân trở, Điền vụ nên sớm
Lục súc bất lợi, Người đi trễ, Tìm người gặp, Kiện tụng hòa, Vật thất không thấy,
Di dời thủ cựu, Bệnh hoàn nguyện, Phong thủy cát.
-----------*****-----------
SỐ 18 Xăm Thượng
Hán Việt
Kim điểu trụy tây thố đông thăng
Nhật dạ tuần hoàn chí cổ kim
Tăng đạo đắc tri vô bất lợi
Công thương nông sĩ các tùng tâm
Dịch
Xưa nay nhật nguyệt mãi tuần hoàn
Đã báo tin vui vạn việc toàn
Các giới tùy tâm mưu nghiệp lớn
Ngày ngày tâm ý mãi hân hoan
Lời Bàn
Trong lòng yên ổn, Việc làm có công. Như tên trên cung, Bay thẳng lên không
Điềm quẻ ứng
Âm dương tiêu trường, Mọi việc toại ý
Tích Cổ : Tào quốc Cựu thành tiên
Giải
Gia đạo an, Tự thân cát, Cầu tài thuận, Giao dịch thành, Hôn nhân hợp, Người đi cát,
Tìm người có, Điền vụ sớm, Lục súc bất lợi, Kiện tụng hữu lý, Vật thất chậm có,
Di dời cát, Bệnh khấn vái, Phong thủy đại cát
----------------*****--------------
Số 19 Xăm Trung
Hán Việt
Cấp thủy than đầu phóng thuyền qui
Phong ba tố lãng dục hà vi
Nhược yếu an nhiên cầu ổn tịnh
Đẳng đải lãng an độ thử nguy
Dịch
Bãi cạn thuyền về sóng lớp cao
Gió dông gềnh đá biết thế nào
Đợi ngày yên lặng qua cơn hiểm
Xuôi về quê cũ thẳng đường mau
Lời Bàn
Thuyền gặp nước xiết, Chỗ hiểm đợi thời. Mưu tính việc gì, Có thể thực thi
Điềm quẻ ứng
Thuyền gặp bãi cạn, Mọi việc giữ cũ đợi thời
Tích Cổ : Quách tử Nghi phong vương
Giải
Gia đạo, Tự thân làm phúc. Cầu tài Giao dịch chưa thành, Hôn nhân chưa tựu,
Người đi tới, Điền vụ cát, Lục súc tổn, Tìm người khó, Kiện dung hòa, Di dời thủ cựu,
Vật thất khó tìm, Bệnh cầu phúc, Phong thủy cát.
-----------*****-----------
SỐ 20 Xăm Trung
Đương xuân cữu vũ hỷ khai tinh
Ngọc thố điểu kim tiệm tiệm sinh
Cựu sự tán tiêu tân sự toại
Khán khan nhất khiếu quá long đình
Dịch
Đương xuân mưa dứt cảnh vui tươi
Trời tỏ trăng trong dần sáng ngời
Chuyện cũ qua đitin mới đến
Như cá hóa rồng toại ý người
Lời Bàn
Thần Thánh hộ trì, Vượt khỏi tai nguy, Bình sinh toại chí, Sau sẽ vinh quy
Điềm quẻ ứng
Cữu vũ sơ tình, Mọi việc sau như ý
Tích Cổ : Khương thái Công ngộ Văn Vương
Giải
Gia đạo trung bình, Tự thân cầu phúc, Cầu tài chưa có, Giao dịch đợi thời,
Hôn nhân tùy ý, Điền vụ lục súc trở, Tìm người trễ, Vật thất có, Bệnh cầu bảo
-----------*****-----------
Về Đầu Trang Go down
Xem lý lịch thành viên
MA NỮ U LINH
Smod
Smod
Tổng số bài gửi : 105
Điểm : 155
Thanks : 22
Join date : 07/11/2012
Đến từ : Trái Đất
Bài gửiTiêu đề: Re: QUAN ÂM ĐẠI SỸ LINH ỨNG QUẺ 28/11/2012, 9:48 am
SỐ 21 Xăm Thượng.
Hán Việt
Âm dương đạo hợp tổng do thiên
Nữ giá nam hôn hỷ tự nhiên
Đản kiến long xà tương hội họp
Hùng hùng nhập mộng hỷ đoàn viên
Dịch
trời cao tạo dựng mối duyên nồng
Trai thời cưới vợ gái theo chồng
Như thể rồng mây tương hội ngộ
Hừng hực động phòng thỏa ước mong
Lời Bàn
Mưu vọng tùy tâm, Hôn nhân hòa hợp. Tài lộc tiến tới, Càng lợi điền viên
Điềm qủe ứng
Âm dương đạo hợp, Mọi việc đại cát
Tích Cổ : Lý Đán long phụng phối hợp
Giải
Gia đạo an, Tự thân lợi, Cầu tài có, Giao dịch thành, Hôn nhân hợp, Người đi tới,
Điền vụ lục súc hưng vượng, Tìm người thấy, Kiện tụng có lý, Di dời xương thịnh,
Vật thất có, Bệnh thuốc tốt, Phong thủy cát
-----------*****-----------
SỐ 22 Xăm Trung
Hán Việt
Hạn thời điền lý giai cô cảo
Tạ thiên cam vũ lạc lâm lâm
Thảo mộc quả hoa giai nhuận trạch
Thủy tri nhất vũ trực thiên kim
Dịch
Hạn lâu vườn ruộng quá khô khan
Trời ban mưa lớn sấm rền vang
Hoa lá cỏ cây xanh sắc thắm
Mưa rơi đúng lúc đáng ngàn vàng
Lời Bàn
Ruộng vườn bội thu, Vận mệnh đã tới. Bệnh gặp thuốc hay, Người đi đến đích
Điềm quẻ ứng
Hạn gặp mưa rào, Gặp khó có người giúp
Tích Cổ : Lục Lang được cứu
Giải
Gia đạo cầu an, Tự thân an, Cầu tài đại cát, Giao dịch trở, Hôn nhân hợp,
Người đi trở ngại, Điền vụ lục súc lợi, Tìm người khó, Kiện tụng thua, Di dời y cựu,
Vật thất hướng tây, Bệnh thuyên giảm, Phong thủy an cát.
-----------*****-----------
SỐ 23 Xăm Trung
Hán Việt
Quế tiên dục bản nhập thiềm cung
Khỉ lự thiên môn bất nhậm quân
Hốt ngộ nhất ban âm tín hảo
Giai tiếu nhân nhân lĩnh đỉnh hoa
Dịch
Ước mơ quẻ quế quảng hàn cung
Cửa trời diệu vợi nghĩ mông lung
Bỗng có tin vui liền báo đến
Lẵng hoa tươi đẹp thưởng trùng trùng
Lời Bàn
Thương mại đại lợi, Làm việc khỏi nguy. Bệnh khỏi Kiện thắng, Việc chi cũng được
Điềm quẻ ứng
Thủ bản tiên quế, Mọi việc có quí nhân giúp
Tích Cổ : Hoài Đức cầu thân
Giải
Gia đạo thiếu an, Tự thân làm phúc, Cầu tài toại ý, Giao dịch hợp, Hôn nhân trở,
Người đi nguy, Điền vụ lục súc bất lợi, Tìm người khó, Kiện tụng thua,
Di dời thiếu cát lợi, Bệnh an, Phong thủy tựu cát.
-----------*****-----------
SỐ 24 Xăm Hạ
Hán Việt
Bất thành luận lý bất thành gia
Thủy tính si nhân tự lạc hoa
Nhược vấn quân ân tu đắc lực
Đáo đầu phương kiến sự như ma
Dịch
Người đần bơi nước tựa hoa rơi
Cửa nhà chẳng thiết chạy muôn nơi
Nếu người có ý trao luân lý
Từ đây thêm khó rối tơi bời
Lời Bàn
Đừng nói phải trái, Cần nên kỷ lưởng. Lòng ngay lẽ thẳng, mới khỏi tai nguy
Điềm quẻ ứng
Người khùng cản lối, Mọi việc nên chờ thời
Tích cổ : Ân Giao ngộ sư
Giải
Gia đạo bất an, Tự thân nguy hiểm, Cầu tài trở, Giao dịch khó, Hôn nhân đợi thời,
Diền vụ lục súc đa tai, Người đi khó, tìm người trở ngại, Kiện tụng thua,
Di dời cát, Bệnh cầu thần, Vật thất khó tìm, Phong thủy xấu.
-----------*****-----------
SỐ 25 Xăm Thượng
Hán Việt
Qúa liễu ưu nguy sự kỷ trùng
Tùng kim tái lập vĩnh vô không
Khoan tâm tự hữu khoan tâm kế
Đắc ngộ cao nhân lập đại công
Dịch
Qua rồi ngày tháng âu lo ấy
Tái lập tiền đồ phát tự đây
An dạ rộng đường toan tính kế
Gặp được cao nhân sự nghiệp đầy
Lời Bàn
Việc kiện hữu lý, Bệnh được an toàn. Ra vào mưu tính, Giếng cũ nước tràn
Điềm quẻ ứng
Giếng cũ đầy nước, Việc quí nhân giúp mới thành
Tích Cổ : Diệu năng ái chức
Giải
Gia đạo trung bình, Tự thân cầu tài, Giao dịch trở ngại, Hôn nhân hòa hợp,
Kiện tụng hữu lý,Người đi, tìm người trở, Điền vụ lục súc bất lợi, Di dời xấu,
Vật thất khó tìm, Bệnh cầu phúc, Phong thủy bất an
-----------*****-----------
SỐ 26 Xăm Trung
Hán Việt
Thượng hạ truyền lai sự chuyển hư
Thiên biên tiếp đắc nhất phong thư
Thư trung hứa ngã công danh toại
Trực đáo trung thời diệc thị hư
Dịch
Sau trước có tin tới rất nhanh
Một phong thư viết rõ rành rành
Hứa rằng mai được công danh toại
Lời kia cuối lại chỉ hư danh
Lời Bàn
Trên dưới phiền lòng, Cầu nhàn bất nhàn. Muốn có công danh, An thân thủ phận
Điềm quẻ ứng
Hư danh, Việc hư nhiều thật ít, Thủ phận là tốt
Tích Cổ : Chung ly đắc đạo
Giải
Gia đạo cầu phúc, Tự thân an, Cầu tài trở, Giao dịch hôn nhân bất thành, Người đi có,
Điền vụ trung bình, Lục súc nuôi tốt, Tìm người hướng tây, Kiện tụng thua,
Di dời thủ cựu, Vật thất khó tìm, Bệnh cầu khấn, Phong thủy cát
-----------*****-----------
SỐ 27 Xăm Trung
Hán Việt
Nhất mưu nhất dụng nhất phiên thư
Bất cãm vi tiền lự hậu tư
Thời đáo quí nhân tương trợ lực
Như sơn tường lập khả an cư
Dịch
Một quyển sách dầy nghĩ dụng mưu
Không dám tiến hành bởi rối mù
Thời tới quí nhân ra giúp sức
Vựa tường núi chắc dễ an cư
Lời Bàn
Đổi cũ thành mới, Hoa lạnh gặp xuân. Trước thì trì trệ, Nay được thanh tâm
Điềm quẻ ứng
Nhà tốt tường vững, Việc phải ổn thân mà làm, mới không nguy hiểm
Tích Cổ : Lưu Cơ can chũ
Giải
Gia đạo an, Tự thân cát, Cầu tài có, giao dịch khó, Hôn nhân trở, Người đi trễ,
Tìm người khó Điền vụ được, Lục súc lợi, Kiện tụng hòa, Di dời cát, Vật thất khó tìm,
Bệnh thuyên giảm, Phong thủy y cựu đại cát.
------------------*****--------------
SỐ 28 Xăm Hạ
Hán Việt
Đông biên nguyệt thượng chính thuyền quyên
Khoảnh khắc vân già diệc ám hôn
Hoạt hữu viên thời hoàn hữu khuyết
Cánh ngôn phi giả diệc nhàn ngôn
Dịch
Trăng lên trong sáng ở phương đông
Bỗng mây che khuất tối mênh mông
Trăng có khi tròn rồi lại khuyết
Nói lời sai trái cũng bằng không
Lời Bàn
Trăng bị mây che, Không nên nghi hoặt. Chờ lúc mây tan, Tức thì sáng tỏ
Điềm quẻ ứng
Trăng bị mây che, Mọi việc mịch mờ chưa định
Tích Cổ : Lý Hậu tìm Bao Công
Giải
Gia đạo bất an, Tự thân cầu khấn, Cầu tài trở, Giao dịch cát, Người đi trễ,
Điền vụ lục súc bất lợi, Hôn nhân không hợp, Tìm người khó, Kiện tụng thua,
Di dời y cựu, Vật thất hướng tây, Bệnh khó, Phong thủy thay đổi.
-----------*****-----------
SỐ 29 Xăm Trung
Hán Việt
Bảo kiếm xuất hạp diệu quang minh
Tại hạp dĩ nhiên bất nhạ trần
Kim đắc quí nhân đề xuất hiện
Hữu uy hữu thế chúng nhân khâm
Dịch
Kiếm trong tráp đâu ai biết quí
Tuốt ra ngoài tỏa sáng uy nghi
Nay được cao nhân thi triển tốt
Anh hùng trên thế có ai bì
Lời Bàn
Kiếm ra khởi tráp, Hào quang vạn lý. Qúi nhân chỉ dẫn, Xinh đẹp vô cùng
Điềm quẻ ứng
Bảo kiếm ra tráp, Mọi việc có uy thế
Tích Cổ : Triệu tử Long cứu Á Đẩu
Giải
Gia đạo cầu phúc, Tự thân cát, Cầu tài lợi, Giao dịch thành, Hôn nhân các, Người đi trễ,
Điền vụ có, Lục súc tổn, Tìm người thấy, Kiện tụng hòa, Di dời hưng vượng,
Vật thất hướng nam, Bệnh như nguyện, Phong thủy cát.
-----------*****-----------
SỐ 30 Xăm Trung
Hán Việt
Khuyến quân thiết vật hướng tha cầu
Tự hạc phi lai ám tiễn đầu
Nhạ khứ thải tân xà tại thảo
Khủng tao độc khẩu dã ưu sầu
Dịch
Khuyên ai đừng nghĩ tới mà hay
Như thân chim hạc cản tên bay
Rắn ẩn lối đi khi nhặc cũi
Chạm rồi nọc độc sẽ bi ai
Lời Bàn
Cắn răng ngậm miệng, Đừng nghĩ việc chi. Làm trái lương tâm, Tự hại đến mình
Điềm quẻ ứng
An phận thủ kỷ, Mọi việc cẩn thận phòng bị
Tích Cổ : Kỳ Bàn đại hội
Giải
Gia đạo an, Tự thân bình, Cầu tài đợi thời, Giao dịch trễ, Hôn nhân chậm hứa,
Người đi tìm người trở, Lục giáp lo, Lục súc điền vụ bất lợi, Di dời thủ cựu,
Vật thất khó tìm, Bệnh khó, Phong thủy đại cát.
-----------*****-----------
Về Đầu Trang Go down
Xem lý lịch thành viên
MA NỮ U LINH
Smod
Smod
Tổng số bài gửi : 105
Điểm : 155
Thanks : 22
Join date : 07/11/2012
Đến từ : Trái Đất
Bài gửiTiêu đề: Re: QUAN ÂM ĐẠI SỸ LINH ỨNG QUẺ 28/11/2012, 9:51 am
SỐ 31 Xăm Trung
Hán Việt
Thanh tịnh vô ưu tọa xứ nhàn
Khất hạ thân tâm bất dụng mang
Bảo hậu ngật trà thời tọa ngọa
Tất định bất chiêu oán dử than
Dịch
Cơm nước đủ đầy cứ thảnh thơi
Nằm ngồi mặc ý mãi vui tươi
Oán hận họa tai nên khéo tránh
An ổn thân tâm hãy đợi thời
Lời Bàn
Thủ Cựu an tâm, Khấn hỏi tiên thần, Đợi khi thời tới, Sự việc ngẩu nhiên
Điềm quẻ ứng
Thủ cựu an nhiên, Mọi việc đợi thời, sau mới tốt tươi
Tích Cổ : Sư Thánh Ấn hội Đông pha
Giải
Gia tộc cầu bảo, Tự thân an, Cầu tài đợi thời, Giao dịch nên chậm, Hôn nhân hợp,
Người đi tới, Kiện tụng hòa, Điền vụ thu tốt, Lục súc ổn, Tìm người khó, Di dời cát,
Vật thất khó, Bệnh thuyên giảm, Phong thủy cát.
-----------*****-----------
Số 32 Xăm Trung
Hán Việt
Tiền trình tra sát định vô nghi
Thạch trung tàng ngọc hữu thùy tri
Nhất triêu lương tượng phân minh phẩu
Thủy giác an nhiên bích ngọc kỳ
Dịch
Đường tới dò tra chẳng ngại nghi
Đá dấu ngọc kia ai biết gì
Một sớm thợ tài phân cắt đúng
Ngọc bích lộ dần quí xiết chi
Lời Bàn
Của quí trong đá, Người khác sao hay. Tới khi rõ ràng, Đúng thì mới quí
Điêm quẻ ứng
Cắt đá tìm ngọc, Mọi việc điều thành công
Tích Cổ : Lưu Bị cầu hiền
Giải
Gia đạo trung bình, Tự thân an, Cầu tài lao lực, Giao dịch trở, Hôn nhân thành, Người đi dò, Điền vụ muộn thu, Lục súc vượng, Tìm người thấy, Kiện tụng khó, Di dời cải ý,
Vật thất phương tây, Bệnh khó an, Phong thủy thay hướng tốt.
-----------*****-----------
SỐ 33 Xăm Trung
Hán Việt
Nội tàng vô giá bảo hòa trân
Đắc ngọc hà tu ngoại giới tầm
Bất như đẳng đải cao nhân thức
Khoan tâm do thả cánh khoan tâm
Dịch
Trân châu vô giá giữ bên trong
Được ngọc cần gì phải ngóng mông
Chi bằng đợi được cao nhân giúp
Lòng yên thanh thảng lại an lòng
Lời Bàn
Trong chứa vàng ngọc, Không cần ngoại tìm. Gặp quí nhân chỉ, Chẳng cần lao tâm
Điềm quẻ ứng
Giữ ngọc còn tìm ngoài, Mọi việc đợi thời sau cát lợi
Tích Cổ : Giảo Kim mời Nhân quí
Giải
Gia đạo cầu bảo, Tự thân an, Cầu tài phải đợi, Giao dịch trễ, Hôn nhân thành,
Người đi trở, Điền vụ trung bình, Lục súc vượng, Tìm người tốn công, Kiện tụng nhẫn nhịn,
Di dời cát, Vật thất phương bắc, Bệnh gặp lương y, Phong thủy sửa đổi.
-----------*****-----------
SỐ 34 Xăm Trung
Hán Việt
Hành tàng xuất nhập lễ nghi cung
Ngôn tất trung lương tín tất thông
Tâm bất liễu nhiên thả tịnh triệt
Quang minh hồng nhật chính đương trung
Dịch
Ra đường lễ nghĩa nhớ mang theo
Lời nói thẳng ngay chữ tín gieo
Phải biết lui êm khi chẳng rõ
Chờ khi tường tỏ mới qua đèo
Lời Bàn
Trong lòng vô sự, Nước thu trong vắt, Không cần nghi hoặc, Sự tự nhiên thành
Điềm quẻ ứng
Hồng nhật đương không, Mọi việc toại ý
Tích Cổ : Đào viên kết nghĩa
Giải
Gia đạo cát, Tự thân an, Cầu tài hư ảo,Giao dịch hôn nhân hợp, Người đi trở,
Điền vụ bất lợi, Lục súc suy, Tìm người lâu gặp, Kiện tụng thua, Di dời y cựu,
Vật thất khó tìm, Bệnh thuyên giảm, Phong thủy đại cát
-----------*****-----------
SỐ 35 Xăm Trung
Hán Việt
Y quan trùng chỉnh cựu gia phong
Đạo thị vô cùng khước hữu công
Tảo Khứ đương đồ kinh cức thích
Tam nhân nhược nghị tái hòa đồng
Dịch
Chỉnh trang áo mão giữ gia phong
Lời phải tới cùng chẳng uổng công
Quét sạch chông gai đường bước tới
Ba người tái họp ý tương đồng
Lời Bàn
Không cần lo ngại, Tự có thời tốt, Nếu hỏi đường đi, Trước mặt sẽ tốt
Điềm quẻ ứng
Trùng chỉnh y quan, Mọi việc trước khó sau dể
Tích Cổ : Đường Tăng thỉnh kinh
Giải
Gia đạo loạn, tự thân cát, Cầu tài tốt, Giao dịch lợi, Hôn nhân trở, Người đi tới,
Tìm người có, Điền vụ bất lợi, Lục súc hưng vượng, Kiện tụng hữu lý, Di dời an,
Vật thất chậm có, Bệnh cầu khấn, Phong thủy đại cát.
-----------*****-----------
SỐ 36 Xăm Trung
Hán Việt
Nhãn tiền bệnh tụng bất tu ưu
Thực địa tư tài tận khả thu
Kháp thị viên hầu kim tỏa thoát
Tự qui sơn động kháp lai du
Dịch
Tiền đồ bệnh tật chẳng cần lo
Muốn thu tài vật có trời phò
Đời khỉ xích vàng đâu khóa được
Núi cũ quay về sống tự do
Lời Bàn
Thoát qua mọi việc, Phải tự an lòng. Đợi khi thời tới, Tìm đường thẳng ngay
Điềm quẻ ứng
Khỉ rừng thoát khóa, Mọi việc trước khó sau dể
Tích Cổ : Tương tử gặp bạn
Giải
Gia đạo bất an, Tự thân bình, Cầu tài đại lợi, Giao dịch chờ thời, Hôn nhân chưa thành,
Người đi tới, Tim người có, Điền vụ sung túc, Lục súc bình, Kiện tụng có lý, Di dời cát,
Vật thất xa, Bệnh lâu an, Phong thủy cát.
-----------*****-----------
SỐ 37 Xăm Trung
Hán Việt
Dục đãi thân an vận thái thời
Phong trung đăng chúc bất tương nghi
Bất như thâu thập thâm đường tọa
Thứ miễn an nhiên tịnh xứ huy
Dịch
Ngọc quỳnh nơi tối tỏa quang chi
Tựa cửa ngồi nhàn để nghĩ suy
Như đèn gặp gió lung lay động
Khang thái an nhiên phải có thì
Lời Bàn
Ở yên an thân, Đợi ngày giờ tốt, Không gây điều xấu, Thủ cựu khỏi lo
Điềm quẻ ứng
Như đèn gặp gió, Mọi việc thủ thường mới tốt.
Tích Cổ : Lý Tịnh qui sơn
Giải
Gia đạo thủ cựu, Tự thân bình, Cầu tài có, Giao dịch khó, Hôn nhân không hợp,
Kiện tụng hòa, Người đi có tin, Điền vụ thu tốt, Lục súc an, Tìm người gặp, Di dời thủ cựu,
Bệnh Hung, Phong thủy không nên sửa
-----------*****-----------
SỐ 38 Xăm Hạ
Hán Việt
Nguyệt chiếu thiên thư tịnh xứ kỳ
Hốt tao vân vụ hựu hôn mê
Khoan tâm kỳ đãi vân hà tán
Thử thời canh cải hảo thi vi
Dịch
Cảnh êm trăng rọi quyển thiên thư
Bỗng chốc mây che tối thế ư
Yên lòng chờ đợi tan mây khói
Từ đấy đổi thay được ý như
Lời Bàn
Gia đạo buồn phiền, Nhân khẩu gặp nạn, Khấn cầu bảo hộ, Lo bị hao tài
Điềm quẻ ứng
Mây khói che trăng. Mọi việc chưa toại, Thủ cựu thì hơn.
Tích Cổ : Hà văn Tú gặp nạn
Giải
Gia đạo bất an, Tự thân cầu bảo, Cầu tài khó, Giao dịch đợi thời, Hôn nhân khó hơp,
Người đi trở, Điền vụ lục súc tổn, Tìm người gặp, Kiện tụng hòa, Di dời an,
Vật thất khó tìm, Bệnh dần an, Phong thủy sữa đổi.
-----------*****-----------
Số 39 Xăm Hạ
Hán Việt
Thiên biên tiêu tức thực nan tư
Thiết mạc đa tâm vọng cưỡng cầu
Nhược bả thạch đầu mai tác kính
Tăng tri uổng phí kỷ công phu
Dịch
Tin tới từ xa khó đoán suy
Nhọc lòng tính toán cố mà chi
Ví đem đá núi mài làm kính
Uổng phí công lao có ích gì
Lời Bàn
Trăm phương dụng kế,Uổng phí công phu, Chi bằng thủ cựu, Tìm hiểu nguyên do
Điềm quẻ ứng
Thủ thường an tịnh, Đợi thời thuận lợi mới làm
Tích Cổ : Khương Nữ tầm phu
Giải
Gai đạo an, Tự thân đề phòng, Cầu tài bình, Giao dịch trở, Hôn nhân không hợp,
Người đi động, Điền vụ lợi, Lục súc tổn, Tìm người khó, Kiện tụng thua, Di dời bình,
Vật thất không, Bệnh an, Phong thủy đại cát.
-----------*****-----------
SỐ 40 Xăm Trung
Hán Việt
Hồng luân tây trụy thố đông thăng
Bá sự dương tiêu nghi trưởng âm
Thị nhược nữ nhân tài vọng dụng
Tăng thêm tài lộc phúc kỳ tâm
Dịch
Bỗng trời lặng dứt trăng hướng đông
Âm thịnh dương suy phải thế không
Nếu thật nữ nhân tài giỏi vậy
Tăng thêm tài lộc phúc thêm hồng
Lời Bàn
Âm lợi nữ nhân, Chẳng hợp nam tử. Nếu có cầu mưu, Tiền hung hậu cát
Điềm quẻ ứng
Âm thịnh dương suy. Mọi việc trước khó sau dể
Tích Cổ : Võ tắc thiên đăng vị
Gia đạo bất lợi, Tự thân cầu phúc, Cầu tài đượi thời, Giao dịch cát, Hôn nhân bất hợp,
Điền vụ lục súc vượng, Người đi trở, Tìm người chưa gặp, Kiện tụng thua, Di dời đại cát,
Vật thất không, Bệnh lo, Phong thủy cát.
-----------*****-----------
Chắc các bạn nghe nhiều người nói phật giáo không dạy bói toán , có người nói mê tín không nên xem.
Nhưng cái này thì khác , nó không làm chệch tín tâm của người , đó là lời khuyên của ngài quán âm.
NHư khi TTV cầu xem pháp tu tập mình thế nào thì xâm không bao giờ bị trật , xin phát là ra , không bàn về chuyện công danh(Mà có bàn thì hiểu ngầm là tu tập).TTV thấy rất linh.
Khi mình tu thì mình gặp nhiều chướng lằm , sai đường tùm lum , nên mỗi ngài phải xin xâm để ngài chỉ bảo
Chẳng những khuyên bảo mà ngài còn động viên chúng ta trên con đường tu tập nữa hug007
Việc xin xâm, xin quẻ không cần lằng nhằn,phức tạp, vào thẳng web này:
http://www.xemtuong.net/boi/que_quan_am/index.php
http://www.xemtuong.net/boi/xam_quan_am/
Sau niệm danh : NA mô đại bi quán thế âm bồ tát
Vài lần ,quan trọng là lòng thành :D , nên đọc ra tiếng :D , đọc nhiều lần như thế sau đó nói việc mình muốn cầu , nhấn nút ->>>XONG!
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...%97i-ng%C3%A0y
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tịnh bình rưới hạt dương chi
Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh - Nguyễn Du
Theo Phật giáo đại thừa thì Bồ Tát Quan Âm dùng nhánh duơng liễu để nhúng vào nuớc rảy để ban phuớc
http://forum.phunuviet.org/yaf_posts...uong-lieu.aspx
Gieo quẻ Quan Tế Công - Quẻ Phật Tổ Tế Công - Phongthuyso.vn
Gieo quẻ Ngũ Hành - BaoLaVanSu.com
Quẻ Quan Thế Âm: Quẻ Bồ Tát Lưu Cơ Gián Chủ
February 20, 2017 Hỗn Hợp No comments
ShareLưu
Do Lưu Cơ am hiểu sách lược, thông thạo thiên văn địa lý, cho nên “khi gặp khó khăn nguy cấp, thì dũng cảm hăng hái, lập tức định ra kế hoạch, người đời không ai có thế đoán trước được”.
Đây là điển cố thứ Hai bảy trong quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát, mang tên Lưu Cơ Gián Chủ (còn gọi là Lưu Cơ Can Gián Chủ Nhân). Quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát Lưu Cơ Gián Chủ có bắt nguồn như sau:
Cùng chúng tôi khám phá những điều mới mẽ hằng ngày để bổ sung kiến thức về kinh tế thị trường, nắm bắt các công nghệ mới nhất, những tin tức mới nhất về thị trường bất động sản trong ngày? Còn chần chừ gì nữa mà không click vào để tìm lấy cơ hội làm giàu tìm hiểu ý tưởng kinh doanh mới nhất và khám phá cuộc sống điều mình muốn!
Lưu Cơ (1311 -1375), tự là Bá Ôn, thụy là Văn Thành. Là người thôn Vũ Dương, núi Nam Điền, huyện Thanh Điền, lộ Xứ Châu, hành tỉnh Giang Triết (nay là thuộc huyện Thanh Điền, tỉnh Triết Giang). Lưu Cơ tinh thông thiên văn, binh pháp, lý số, rất giỏi về kinh sử, đặc biệt là tinh thông về lĩnh vực tinh tượng kinh vĩ, người đương thời thường so sánh ông với Gia Cát Lượng. Năm Nguyên Thống thứ nhất đời vua Nguyên Thuận (tức năm 1333), ông thi đỗ tiến sĩ trong kỳ thi Minh kinh.Năm Chí Chính thứ 19 (tức năm 1359), Chu Nguyên Chương đi xuống vùng Xứ Châu (nay là thành phố Lệ Thủy, tỉnh Triết Giang), nghe danh Lưu Cơ, Tống Liêm, nên năm sau cho đưa lễ vật đến. Lưu Cơ viết ra mười tám kế sách về thời cuộc, được hoàng đế tín nhiệm và ban thưởng lễ vật. Ồng lại cùng vạch ra những kế hoạch quân sự lớn như bình định Trương Sĩ Thành, Trần Hữu Lượng và chinh phạt vùng Trung Nguyên ở phía bắc.
Tháng tám năm Chí Chính thứ 19, quân Nguyên công phá Biện Lương (nay là Khai Phong, Hà Nam), thủ lĩnh quân Hồng Cân phương bắc là Lưu Phúc Thông bảo vệ Hàn Lâm Nhi (lãnh tụ của quân Hồng Cân) phá vòng vây, lui về ở An Phong (nay thuộc thành phố Đông Đài, tỉnh Giang Tô). Bốn năm.sau, Trương Sĩ Thành sai Bộ tướng là Lã Trân bao vây tấn công An Phong. Lưu Phúc Thông sai người đi ứng Thiên (nay là thành phổ Nam Kinh) cầu viện Chu Nguyên Chương. Chu Nguyên Chương chuẩn bị thống lĩnh quân chủ lực tiến về phương bắc giải cứu An Phong, Lưu Cơ vội vàng đến ngăn cản, bởi vì ông suy đoán rằng, nếu tiến quân lên phía bắc chắc chắn sẽ thất bại.
Chu Nguyên Chương không nghe, đích thân thống lĩnh quân chủ lực đi về phương bắc giải cứu An Phong. Kết quả thực đúng như dự liệu của Lưu Cơ, Chu Nguyên Chương bị vây khốn, sau nhờ tướng quân Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân đến cứu mới thoát được nguy hiểm.
Năm Chí Chính thứ 20 (tức năm 1360), Lưu Cơ được Chu Nguyên Chương mời đến ứng Thiên làm Mưu thần, ông đã bộc lộ rõ tài năng của một nhà binh pháp xuất sắc. Nhằm vào tình thế lúc đó, Lưu Cơ đã đưa ra kiến nghị với Chu Nguyên Chương nên tránh tác chiến biệt lập theo hai tuyến, kiến nghị của ông được chấp nhận, ông giúp Chu Nguyên Chương tập trung binh lực lần lượt tiêu diệt các thế lực Trần Hữu Lượng, Trương Sĩ Thành, đồng thời kiến nghị Chu Nguyên Chương một mặt tách khỏi Tiếu Minh Vương Hàn Lâm Nhi tự lập thế lực, mặt khác dùng chữ “Đại Minh” làm quốc hiệu để hiệu triệu lòng dân trong thiên hạ sẵn sàng chiến đấu vì chính nghĩa.
Do Lưu Cơ am hiểu sách lược, thông thạo thiên văn địa lý, cho nên “khi gặp khó khăn nguy cấp, thì dũng cảm hăng hái, lập tức định ra kế hoạch, người đời không ai có thế đoán trước được”.
Năm 1360 sau Công nguyên, Trần Hữu Lượng chỉ huy ba mươi vạn tinh binh, năm nghìn thuyền chiến, tấn công Thái Bình, đóng quân ở ghềnh Thái Thạch, trực tiếp uy hiếp Kim Lăng, khí thế rất hung hãn. Lúc này quân đội đóng gần Kim Lăng của Chu Nguyên Chương chỉ có hơn mười vạn. Do lực lượng hai bên có sự chênh lệch lớn, các đại thần văn võ trong quân của Chu Nguyên Chương trở nên rối loạn: người thì chủ trương đầu hàng, người thì chủ trương nên từ bỏ mệnh trời, giữ gìn thực lực đế ngày sau tính tiếp; có người lại chủ trương tấn công, quyết sống chết một phen,… Chỉ riêng Lưu Cơ là ngôi yên không nói gì, Chu Nguyên Chương bèn mờl Lưu Cơ về phòng riêng của mình để hỏi ý kiến. Lưu Cơ nói: “Những người chủ trương đầu hàng và trốn chạy cần chém đầu trị tội, bởi vì họ không nhận thấy tình thế đang rất tốt đẹp, mà lại gieo rắc ý nghĩ thất bại. Sự thực là, Trần Hữu Lượng tự cho là binh mạnh thế đông, lại đã đánh thắng được mấy trận, cho nên càng đắc chí kiêu căng. Chúng ta sẽ lợi dụng sự kiêu ngạo của hắn, bố trí mai phục, dùng kế dụ hắn vào sâu bên trong, khi đó chỉ cần đánh một tiếng trống là có thế phá được!”
Chu Nguyên Chương nghe theo chủ kiến của Lưu Cơ, định ra kế sách chinh phạt. Đầu tiên, Lưu Cơ sai người đi giả đầu hàng, đồng thời hẹn Trần Hữu Lượng đến bên cây cầu gỗ ở Giang Đông thì dùng tiếng gọi “lão Khang” làm tín hiệu liên lạc. Trần Hữu Lượng không hề hay biết kế sách này, kết quả là dẫn ba mươi vạn tinh binh, tiến đến bên cây cầu ở Giang Đông, sai người hô “lão Khang” mà không có người đáp lại. Đang lúc nghi hoặc, thì quân mai phục bốn phía đồng loạt tấn công, Trần Hữu Lượng phải tháo chạy, thất bại mà lui đến ven sông. Không ngờ đội thuyền chiến dùng để tiếp ứng đã bị phá hết, bên sông chỉ còn lại ba trăm chiếc thuyền. Tàn quân của Trần Hữu Lượng tranh nhau qua sông trước, phần lớn bị chết đuối ở dưới sông. Chu Nguyên Chương thừa thắng thu phục Thái Bình, tấn công xuống các vùng An Khánh, Tín Châu và Duyện Châu.
Nội – Ngoại Thất
Hồ sơ Doanh Nghiệp
Dự Án Kinh Doanh
Nghề nghiệp Kinh Doanh
Nhân vật Nổi Tiếng
BUSINESS – CỔNG THÔNG TIN VỀ VẤN ĐỀ KINH DOANH , THƯƠNG MẠI, KHỞI NGHIỆP MỚI NHẤT, GƯƠNG MẶT DOANH NHÂN VÀ NHỮNG BÀI HỌC TRONG THỰC TIỄN QUẢN TRỊ CỦA DOANH NHÂN
BUSINESS BY THIENMY.COM – THÔNG TIN KINH DOANH – KHỞI NGHIỆP – MARKETING – DOANH NHÂN
Contact us: info@thienmy.com // (+1) 323 515 548
Xin Xăm Mỗi Ngày 2018 - Các ứng dụng dành cho Android trên ...
Sintamani (S) Như ý châu, chân đà ma ni, như ý bảo.
Sissa (S) Đệ tử → See Śiṣya.
https://phatan.org/a2656/sho