https://kagyuoffice.org/wp-content/u...ya-997x665.jpg
https://kagyuoffice.org/karmapa/
Printable View
[ LINH PHÙ TRẤN TRẠCH THEO ĐỒ HÌNH VĂN THÙ CỬU CUNG ]
🔖 Dzambala store hiện đang có linh phù bằng đồng chất luợng tốt, không rỉ sét, với 3 size :
- size lớn 14,5cm x 17,5cm : 388k
- size trung 10cm : hết hàng
- size nhỏ 7,5cm x 10cm : 218k
- size mini bỏ túi 5cm x 8cm : 138k
🌈 Đem Chú Đồ này treo trên cửa lớn hoặc bên trong nhà, thì người bên trong nhà được ở yên ổn, chẳng luận: cầu tiền, hôn nhân, cầu con, danh vị,… điều mong cầu đủ hay tăng Duyên lành mà sinh sinh chẳng dứt, diệt Duyên ác mà không có tai họa, ngưng dứt bệnh tật mà thêm tuổi thọ, ngăn chận tất cả Thái Tuế, Tuế Phá, Kiếp sát, Tai Sát, Tuế Sát, Phục Binh, họa của con người… các năm, tháng, ngày, giờ, sát tinh, trở đảng lộ xung, cửa, sàn, bếp, nhà cầu… phương vị chẳng tốt, chỗ sinh hung sát…khiến cho trong nhà toàn gia lớn nhỏ bình an, gia quan tiến tước, chiêu tài tiến bảo, phước thọ lâu dài, an hòa lợi lạc, trăm việc đều thích hợp, cát tường như ý
🌈 Văn Thù Cửu Cung Bát Quái do Tổ Sư khai sơn của Mật Giáo Tây Tạng là Liên Hoa Sinh (Padma-saṃbhava) vì Từ Bi thương tất cả chúng sinh ở Thế Gian do thọ nhận Thời, Không, Phương Vị chẳng cát tường, đã sinh ra chướng nạn, nên đặc biệt gom tập ba đất Phạn, Hán, Tạng phá trừ các loại hung sát để trấn nhà cửa, an cư diệu bảo mà thành.
🌈 Phân giải đồ hình Văn Thù Cửu Cung Bát Quát :
- Phương bên trên, ở chính giữa là ba vị Đại Bồ Tát: Quán Âm (Avalokiteśvara), Văn Thù (Maṃjuśrī), Kim Cương Thủ (Vajra-pāṇi) là Tôn của ba Tộc Tính (Kulāya) chủ về nắm giữ Nhân, Trí, Dũng thuộc Từ Bi, Trí Tuệ, Lực Lượng của Mật Thừa Phật Giáo
- Thần Chú của Kim Cương Thủ là: OṂ VAJRA-PĀṆI HŪṂ
- Thần Chú của Văn Thù Bồ Tát là: OṂ A RA PA CA NA DHĪḤ
- Thần Chú của Quán Âm Bồ Tát là: OṂ MAṆI PADME HŪṂ
_Phía bên trái là Thời Luân Kim Cương Chú Luân khiến cho phương trên, phương dưới, Đông, Nam, Tây, Bắc, bốn góc cùng với nhóm năm, tháng, ngày, giờ là Thời Không Vũ Trụ, tổ hợp Thế Giới tất cả tự tại
_Phương bên phải là Hồi Già Chú Luân phòng hộ tất cả hung sát, chướng ngại, xua đuổi điều chẳng lành.
🌈 Ba vòng tròn ở ngay chính giữa:
- Vòng tròn bên ngoài là 12 Sinh Tiếu đại biểu cho 12 Địa Chi dùng 12 loại Động Vật của năm ấy phối hợp với Thiên Can diễn hóa thành 60 Giáp Tý
- Vòng tròn ở giữa là Quái gồm có Càn (☰), Đoài (☱), Ly (☲), Chấn (☳), Tốn (☴), Khảm (☵), Cấn (☶), Khôn (☷) đại biểu cho nhân chủng, sự vật của nhóm Thiên (Trời), Trạch (đầm nước, hồ nước), Hỏa (lửa), Lôi (sấm), Phong (gió), Thủy (nước), Sơn (núi), Địa (đất)
- Vòng tròn bên trong án chín cách trên lưng con rùa, chia làm 9 số
Cung thứ nhất là màu trắng, tượng trưng cho vật, thuốc
Cung thứ hai là màu đen, tượng trưng cho Ma (Ma Quỷ)
Cung thứ ba là màu xanh biếc, tượng trưng cho nước
Cung thứ tư là màu xanh lục, tượng trưng cho Rồng
Cung thứ năm là màu vàng, tượng trưng cho Chiến Thần
Cung thứ sáu là màu trắng, tượng trưng cho Quân Chủ
Cung thứ bảy là màu đỏ, tượng trưng cho Yêu (yêu quái, Quỷ)
Cung thứ tám là màu trắng, tượng trưng cho Địa Chỉ (Phúc của đất)
Cung thứ chín là màu tím, tượng trưng cho lửa
🌈 Năm Hành phối với nhau, ba màu trắng thuộc Kim, màu đen và màu xanh biếc thuộc Thủy, màu xanh lục thuộc Mộc, màu vàng thuộc Thổ, màu đỏ thuộc Hỏa _Vòng tròn này tổng quát tất cả thởi gian, phương vị, phong thủy, địa lý.
🌈 Bên ngoài vòng tròn có một con mắt giận dữ, răng nanh dài hung ác đáng sợ, cái lưỡi cuốn cong lên, lộ rõ Hung Thần bốn tay đều là trông coi mặt trời, mặt trăng, tinh tú, năm, tháng, ngày, giờ…thuộc La Hầu tục xưng là Thái Tuế Tinh Quân
- Chú Luân ở phương bên dưới, phía bên phải là mẫu nguyên âm của tất cả âm thanh với Duyên Khởi Chú tạo làm tăng trưởng Duyên lành, Phước Đức, hút lấy tinh hoa của Trời đất, mặt trời, mặt trăng
- Chú Luân ở phương bên dưới, phía bên trái là làm y theo Âm Dương Ngũ Hành Cửu Cung Già Chỉ Chú Luân hay ngăn che tất cả Duyên trái nghịch
🌈 Công Đức lợi ích:
Đem Chú Đồ này treo trên cửa lớn hoặc bên trong nhà, thì người bên trong nhà được ở yên ổn, chẳng luận: cầu tiền, hôn nhân, cầu con, danh vị,… điều mong cầu đủ hay tăng Duyên lành mà sinh sinh chẳng dứt, diệt Duyên ác mà không có tai họa, ngưng dứt bệnh tật mà thêm tuổi thọ, ngăn chận tất cả Thái Tuế, Tuế Phá, Kiếp sát, Tai Sát, Tuế Sát, Phục Binh, họa của con người… các năm, tháng, ngày, giờ, sát tinh, trở đảng lộ xung, cửa, sàn, bếp, nhà cầu… phương vị chẳng tốt, chỗ sinh hung sát…khiến cho trong nhà toàn gia lớn nhỏ bình an, gia quan tiến tước, chiêu tài tiến bảo, phước thọ lâu dài, an hòa lợi lạc, trăm việc đều thích hợp, cát tường như ý
🌈 Phương pháp sử dụng:
Có thể treo trên cửa lớn, hoặc treo bên trong nhà, hoặc treo túi mang bên thân.
(trích source: kinhmatgiao)
https://scontent.fsgn5-3.fna.fbcdn.n...43&oe=5D070F4D
https://www.facebook.com/dzambalasho...type=3&theater
https://www.youtube.com/watch?v=f8I9SEIq9Sg
Ngài Đạo tế Tế Điên Hòa thượng HT. Thích Giác Hạnh Giảng
http://www.dkn.tv/wp-content/uploads...image114-1.png
Lạt ma Tây Tạng Lobsang Rampa (8/4/1910 – 25/1/1981).
Ảnh: lobsangrampa.org
https://www.dkn.tv/khoa-hoc-cong-ngh...-long-dat.html
Cao tăng Ấn Độ trường thọ 1072 năm được ghi chép chân thực trong sách sử
https://www.dkn.tv/wp-content/uploads/2019/03/628.jpg
https://www.dkn.tv/wp-content/upload...290826a2b.jpeg
Khi nhắc đến người thọ nhất thế giới, có lẽ mọi người thường cho rằng đó là Bành tổ, là người được ghi chép trong sách sử thọ hơn 800 năm. Tuy nhiên trong lịch sử từng có một tăng nhân tu luyện đắc đạo thọ hơn 1.000 năm, đó chính là Bảo Chưởng hòa thượng.
Có câu: “Nhất tăng, nhất đạo”. Đạo ở đây cũng chính là nói tới Bành Tổ ở núi Bành Sơn, ông sống 880 năm, còn Tăng ở đây chính là Bảo Chưởng hòa thượng, ông sống tới 1072 tuổi. Có nhiều người cho đây là chuyện huyễn hoặc, nhưng trên thực tế hai người này đều là nhân vật có thật được ghi chép rõ ràng trong lịch sử.
Trong cuốn: “Hoàng Mai Lão Tổ Tự Chí” biên tập vào những năm Khang Hy triều Thanh có nhắc tới truyền kỳ về Bảo Chưởng hòa thượng. Trong đó có một mục “Thiên Tuế Bảo Chưởng hòa thượng bình sinh khất thực” do chính đại lão tổ trụ trì Mão Khê Hành Lâm quốc sư (1613-1677) biên soạn. Năm Gia Khánh thứ 20 biên sửa cuốn “Hoa Dương Huyện Chí, Ngũ Đăng Hội Nguyên” cũng có ghi chép những điều liên quan đến Bảo Chưởng hòa thượng hết sức rõ ràng.
Theo một số ghi chép lại thì Bảo Chưởng hòa thượng sinh ra tại Ấn Độ vào giờ Ngọ ngày 7/7/năm Đinh Mão 512, tức năm 414 TCN, cuối thời xuân thu đầu thời chiến quốc. Bảo Chưởng hòa thượng là con cái dòng dõi Bà La Môn giáo danh giá tại trung Ấn. Truyền thuyết kể lại, khi Bảo Chưởng hòa thượng sinh ra đã được dự báo ngài là con người khí chất bất phàm, mắt to, mũi dài, hai tai kéo trễ, lông mày cao xéo, tay trái luôn nắm chặt không buông. Cha mẹ ngài khi đó cũng đã dự liệu ngài là lớn lên sẽ khác hoàn toàn những đứa trẻ thông thường.
Khi Bảo Chưởng hòa thượng vừa lên 9 tuổi cha mẹ ngài liền đưa ngài tới tịnh xá của nơi cửa Phật xuất gia làm Sa Di. Khi sư phụ Bảo Chưởng hòa thượng giúp ngài quy y tam bảo, ngài liền mở bàn tai trái bao năm chưa từng mở ra của mình, một hạt minh châu liền lộ ra. Ngài dùng hai tay thành kính dâng viên ngọc minh châu lên đưa cho sư phụ, và đây cũng là lần đầu trong đời ngài thi lễ hai tay hợp thập. Chứng kiến mọi việc, mọi người đều cho đây là kỳ tích dân gian, sư phụ của ngài cũng vì thế mà lấy pháp hiệu cho ngài là Bảo Chưởng hòa thượng.
Cũng kể từ đó ngài xuất gia tinh tấn tu hành, tuân thủ giới luật. Sau khi trưởng thành, vì để tham chiếu được nhiều Phật Pháp hơn nữa, ngài đã vân du tứ hải, trau dồi tri thức thánh nhân. Trải qua 500 năm đi khắp năm châu, cuối cùng ngài cũng tới vùng đất Trung thổ, cũng chính là Trung Quốc ngày nay.
Cuối thời Đông Hán, đầu thời Hán Hoàn đế, trong khoảng thời gian từ năm Kiến Hòa tới năm Vĩnh Hưng (CN 147-153), ngài từ vùng đất Nepal tiến nhập vào Tứ Xuyên, Vân Nam, Trung Quốc. Điểm dừng chân đầu tiên của ngài chính là núi Nga Mi, hướng lễ Bồ Tát Phổ Hiền rồi ở lại Đại Bi Tự tròn 10 năm.
(Ảnh minh họa: xuehua.us)
Thông thường 20 ngày Bảo Chưởng hòa thượng mới ăn một bữa cơm nhưng vẫn kiên định thường hằng tụng kinh. Tương truyền mỗi ngày ngày ông thông tụng trên nghìn cuốn kinh sách. Ngài thường nói với mọi người rằng: “Ta đây có một tâm nguyện, có thể sống tại nhân gian 1.000 năm, năm nay cũng đã được 626 năm rồi”, và cũng từ đó mọi người thường hay gọi ngài là “Thiên tuế hòa thượng”. Sau này Bảo Chưởng hòa thượng lại đến núi Ngũ Đài Sơn thỉnh lễ Văn Thù Bồ Tát.
Tới thời Tam Quốc, Ngụy Tấn nam bắc phân tranh, ngũ hổ nhập Trung Hoa, chiến sự rối loạn, Bảo Chưởng hòa thượng ẩn thân tại tự viện khai đàn thuyết pháp phổ độ chúng sinh. Tuy bên ngoài chiến sự liên miên nhưng bên trong lại không hề có mảy may tin tức. Đến năm 657, năm Hiển Khánh thứ 2 thời Đường Cao Tông, Bảo Chưởng hòa thượng đã được 1072 tuổi.
Theo sách sử ghi lại, vào đúng ngày 7/7 năm đó, Bảo Chưởng hòa thượng đột nhiên nói với hai đệ tử của mình là Như Quang và Huệ Vân rằng: “Vốn dĩ bất sinh bất diệt, nay lại hiện lộ sinh tử. Ta phải đi trọ tâm, kiếp sau còn tới đây”. Ý của Bảo Chưởng hòa thượng rằng vốn dĩ cho rằng bản thân đã bất sinh bất diệt nhưng không ngờ bây giờ lại hiển lộ ra sinh tử, kiếp sau còn cần phải đầu thai quay lại nơi này. Nói xong Bảo Chưởng hòa thượng liền nhắm mắt nhập định.
Tuy nhiên sau khi nhập định được 7 ngày, Bảo Chưởng hòa thượng lại tỉnh lại nói với chúng đồ đệ: “Sau khi ta chết mọi người phải ở đây tu tháp cung dưỡng, sau này sẽ có người đến đón di cốt của ta về Thiên trúc. Hy vọng mọi người đừng cự tuyệt”, dứt lời liền vĩnh biệt cõi đời.
Như vậy, Bảo Chưởng hòa thượng, vị cao tăng người Ấn Độ đã sống 1072 tuổi, từ thời Xuân Thu cho đến triều đại nhà Đường, đến nay không có người nào vượt qua. Đây cũng chính là trường hợp sống thọ mệnh nhất được lịch sử ghi chép lại.
Minh Vũ
Theo soundofhope.org
https://www.dkn.tv/van-hoa/cao-tang-...g-sach-su.html
513. Ta na yết ra
Dịch: Quỷ điên cuồng.
Kệ:
Hút độc phục dược phát điên cuồng
Hồ ngôn loạn ngữ tự xưng vương
Bát vô nhân quả phi tinh phụ
Ngũ bộ pháp chủ trấn bát phương.
Nghĩa là:
Hút độc uống thuốc phát điên cuồng
Ăn nói hồ đồ tự xưng vương
Bát vô nhân quả yêu tinh nhập
Năm bộ pháp chủ trấn tám phương.
Giảng giải: “Hút độc uống thuốc phát điên cuồng”: Câu Chú nầy là chỉ « Quỷ điên cuồng ». Tại sao có quỷ điên cuồng? Vì có người điên cuồng. Nếu không có quỷ điên cuồng, thì cũng không có người điên cuồng. Cho nên quỷ nhờ sức người, người nhờ sức quỷ, hổ tương trợ giúp. Bạn thấy người điên cuồng họ chẳng màng, chẳng lo gì hết, chẳng sợ trời, chẳng sợ đất, người Mỹ nói tiếng Tàu, gì cũng đều chẳng sợ, cho rằng mình là ông trời, là Phật, là tổ tông. Sự điên cuồng nầy, cũng có một luồng oán khí bên trong. Điên cuồng chẳng phải chỉ là một thứ, mà là có rất nhiều tới tám vạn bốn ngàn thứ.
Lúc tôi ở tại Đông Bắc Trung Quốc, đã từng thấy qua một dạng điên cuồng, nói ra đây cũng đều là do nhân quả. Có gia đình nọ, sinh ra hai người còn gái, cô con gái lớn được mười bảy tuổi, thì đi theo bạn trai, bèn có thai đã lớn. Tư tưởng của người xưa rất là bảo thủ, chẳng giống như nước Mỹ bây giờ rất cởi mở.
Cha của cô ta rất là nóng tính nói: “Việc nầy có thể nhẫn, thì gì chả nhẫn được? Làm gì chưa cưới hỏi mà có con? Đâu có lý nầy”! Bèn trừng trị cô ta. Vì ông ta say rượu, do đó ông ta với cô con gái út đào một cái hố, chôn sống cô con gái lớn. Đây là giết một người mà thành hai mạng người.
Từ đó về sau, oán khí oan hồn của cô chị nhập vào cô em, quỷ lớn và quỷ nhỏ liên hợp với nhau khiến cho cô ta điên cuồng. Điên cuồng như thế nào? Cô ta chạy ra đường, đi về trước ba bước, thì lùi về sau hai bước, đi khắp nơi nói với mọi người rằng: “Mày có biết tao là ai không? Tao là tổ tiên của nhà mày”. Hoặc là: “Tao là lão gia trong nhà của mày”. Hoặc là: “Tao là tổ tông ba đời nhà mày”. Có cha của họ chết, cô ta bèn nói: “Tao là cha của mày”. Cô ta đi khắp nơi mạo xưng.
Thật tế người khiến cho cô ta điên cuồng, là chị của cô ta và đứa con trong bụng của cô ta, cùng nhau đến đòi mạng cô ta. Ba của cô ta say rượu, thì cô ta cũng say rượu, cho nên chôn sống cô ta. Ba của cô ta chết rồi, thì báo ứng rơi vào trên thân của người em gái. Có người giới thiệu tôi đi đến độ cho cô ta, (một số người vẫn không biết cô ta đã giết người chị), lúc đó tôi tuổi còn trẻ, chẳng biết tốt xấu gì, vì cô ta mà trị, trị như thế nào? Lập tức trên trán cô ta mọc ra một cái sừng, dài khoảng hai tất, giống như sừng bò, bất quá do thịt hình thành.
Tôi có một đệ tử quy y, trên đầu cũng có một “nhục kế”, lớn cỡ quả cam. Trước kia cô ta vốn là con đà bối, giống như con ngan, nhưng cô ta thường niệm Bồ Tát Quán Thế Âm. Có một lần nọ bị ngã nhào, đáng lý ngã sấp, nhưng lại ngã ngửa, bạn nói có kỳ lạ chăng? Đầu của cô ta mọc ra một vật, do đó bèn đến hỏi tôi rằng: “Cái nầy có đáng sợ không”? Tôi nói: “Nhục kế mà sợ gì? Đây là con niệm Phật có sự cảm ứng”. Cô ta nghe rồi cũng cảm thấy rất vui. Nhưng hơn hai mươi năm qua, vật đó trên đầu cô ta càng dài ra, đầu lại thêm đầu, cảm giác chẳng dễ chịu, bèn thỉnh tôi nghĩ cách gia trì cho cô ta. Tôi bèn nói với cô ta: “Con giữ nó thì càng tốt, con so với người khác nhiều hơn một phần”! Nhưng cô ta chẳng có nhiều nơi như thế, lúc ngủ cũng rất bất tiện.
Tôi gia trì cho cô ta chẳng bao lâu, một ngày nọ khi cô ta làm việc ở nhà bếp, nhục kế bị vỡ, chảy ra khoảng một tô nước trà, sau đó cô ta đến bệnh viện kiểm tra, bác sĩ bèn nói chẳng có độc. Cô ta nói: “Đương nhiên chẳng có độc, vì đã hơn hai mươi năm, tôi cũng chẳng chết”.
Tại sao hay bị điên cuồng? Vì người đó hút độc, hút thuốc phiện, điên điên đảo đảo, cho rằng mình đã thành Phật, thành Tiên. Thời xưa rất lâu xa đã có cây gai, người hút cây gai rồi, thì cảm thấy nhìn thấy thần, gì cũng nhìn thấy được, cho rằng mình hay giỏi, cho nên bị điên cuồng.
“Ăn nói hồ đồ tự xưng vương”: Ăn nói hồ đồ, tự xưng là hoàng đế, tự xưng mình là Phật, nói mình có tam sơn ngũ nhạc gì đó, loại cửu hầu tiên sinh, kỳ thật, đây là hầu tinh, ngưu tinh, mã tinh, điểu quy tinh đang tác quái. Kẻ ngu chẳng minh bạch, bèn nói đây là Bồ Tát khai nhãn, có ngũ nhãn lục thông, đây đều là bắn đại pháo (nổ).
Tôi có một vị đệ tử, suốt ngày đến tối muốn thần thông, nên nghe trong hư không có âm thanh kêu anh ta ăn đại tiện. Người đó chuyên tin Mật Lặc Nhật Ba, ôi, đây là do tôi dạy đệ tử, vì tôi làm sư phụ mà không biết dạy người, nên Hằng Không cũng chẳng không.
“Bát vô nhân quả yêu tinh nhập”: Tại sao không sợ nhân quả? Vì họ có yêu tinh nhập. Yêu tinh tức là hồ ly tinh, xà tinh, trăn tinh, hoàng thử lang tinh, những ngưu quỷ xà thần nầy, đều là yêu tinh, khi chúng thấy người đó có tố chất điên cuồng, thì chúng bám vào thân họ, trợ giúp họ. Ví như Lư Thắng Ngạn bị ma quỷ nhập, Lâm Vân thì có chim rùa theo, người nầy chuyên môn đi lường gạt tiền tài, sắc đẹp, nếu anh ta hành dâm với người nữ, thì người nữ đó từ từ cũng sẽ làm chim rùa, trở thành quyến thuộc của anh ta. Ở nước Mỹ thì có Jinones, Rojanish. Cho nên yêu ma quỷ quái đều muốn lập mối quan hệ với người, để phan duyên, để tăng thêm thế lực của chúng.
“Năm bộ pháp chủ trấn tám phương”: Như vậy phải làm thế nào? Bạn tụng trì Chú Lăng Nghiêm, thì năm bộ pháp chủ và năm bộ diệu pháp trấn tám phương, tất cả yêu ma quỷ quái đều lão thật.
http://langnghiem.com/de-ngu/
Ở Los Angeles, tôi đã từng gặp không ít các đồng tu học Phật rất
kiền thành, từng có một vị Thượng Sư Mật Tông đến đó mở đỉnh đầu
(khai đảnh) cho họ, cắm cọng cỏ vào đó
16
. Những đồng tu học Phật như
ong vỡ tổ kéo đến, đến cắm cọng cỏ [vào đỉnh đầu] vẫn phải nộp lệ phí,
thâu mỗi người hai mươi Mỹ kim. Đã thế, vị Thượng Sư bảo họ: “Đỉnh
đầu đã mở, tương lai chắc chắn sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới”.
Tôi đến Los Angeles, các đồng tu đem chuyện này kể với tôi, tôi nói:
“Nếu có pháp môn ấy trong thời Thích Ca Mâu Ni Phật, mà đức Phật
chẳng truyền lại, Phật chẳng từ bi! Cớ sao chúng ta phải khổ sở niệm
Phật nhiều năm như thế, cắm cọng cỏ vào đỉnh đầu là sang Tây Phương
được rồi, đơn giản ngần đó! Pháp này chưa hề được truyền rộng khắp
trong thiên hạ, đức Phật chẳng từ bi! Cắm cọng cỏ [vào một huyệt trên
đỉnh đầu] bèn có thể vãng sanh, tôi chẳng tin tưởng!”
Sau đó, tôi đến Nữu Ước, ở Nữu Ước có một vị pháp sư tuổi còn
rất trẻ, lại còn có một tỳ-kheo-ni rất trẻ, đại khái chưa đến ba mươi tuổi,
chúng tôi nhắc đến chuyện ở Los Angeles, bọn họ nói: “Chuyện này rất
đơn giản, chúng tôi đều có thể cắm”. Tôi hỏi: “Chuyện này là như thế
nào?” Bọn họ đã học châm cứu, họ nói: “Trên thân người có các huyệt
đạo. Huyệt đạo trên đỉnh đầu lớn nhất, chỉ cần tìm đúng huyệt đạo thì sẽ
có thể cắm được, cũng chẳng cần phải tác pháp
17
, cũng chẳng cần phải
niệm chú”. Tôi nói: “Công phu của các vị còn cao hơn công phu của vị
Thượng Sư đó!” Đủ thấy tánh con người ưa chuộng kỳ quái, tà sư bên
ngoài dùng cách mầu mè để lừa gạt. Hắn cắm cọng cỏ kiếm được không
ít tiền mang về; quý vị chẳng thể vãng sanh, hắn đâu có chịu trách
nhiệm! Do vậy, hễ thiếu tri kiến bèn bị lừa, bị người khác gạt gẫm. Tôi
thấy quá nhiều người bị gạt, bị lừa. Quý vị giảng chánh pháp, bảo họ bỏ
ra một ít tiền để làm công đức họ chẳng làm, tiếc tiền! Lừa gạt họ, họ
ngoan ngoãn mắc lừa, hết sức ngu si! Tri kiến chẳng chánh, “hãm nhập
quần tà” (bị vây hãm trong các thứ tà kiến). “Quần tà” là như kinh
Lăng Nghiêm đã nói: “Tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng”, bị
kẻ khác gạt gẫm!
(Huyền Nghĩa) Bỉ Phật nguyện lực oai thần gia bị hành nhân,
đại quang minh trung, bất tao ma sự, năng vị hộ niệm, trực chí đạo
tràng.
(玄義) 彼佛願力威神加被行人 , 大光明中 , 不遭魔
事,能為護念,直至道場。
===================
16 Đây là một phép tu của Mật Tông có tên gọi là Ph’owa (thuật ngữ Tây Tạng dịch
từ tiếng Phạn Samkrānti, thường được gọi là Sáu Phép Yoga của đại hành giả
Naropa, tức là những pháp tu thường được coi là do đại thành tựu sư Tilopa của Ấn
Độ truyền lại) nhằm chuyển hóa thần thức khi lâm chung. Phép tu này đòi hỏi hành
giả phải tập luyện bằng những cách quán tưởng nhằm hướng dẫn thần thức quen với
diễn biến của sự chết, để có thể điều khiển thần thức trong lúc lâm chung. Họ tin
rằng khi đạt đến thành tựu nhất định, dưới sự hướng dẫn của một vị A-xà-lê, sẽ mở
được một huyệt ở đỉnh đầu, và để dễ quán niệm, người ta cắm vào đó một cọng cỏ
Kusha (Cát Tường Thảo). Khi lâm chung, thần thức sẽ theo huyệt ấy thoát ra khỏi
thân xác. Tuy thế, khi truyền sang các nước khác, nhất là tại Mỹ và các nước phương
Tây, có những Thượng Sư ham lợi, đã giở trò làm lễ mở đỉnh đầu cho bất cứ ai đóng
đủ lệ phí, cắm vào đó một cọng cỏ, bảo họ đã có thể liễu sanh thoát tử, chẳng hề
truyền dạy giáo nghĩa và cách hành trì của phép tu Ph’owa! Có những người như
Liên Sanh Hoạt Phật (tên thật là Lư Thắng Ngạn) của Chân Phật Tông (một tà phái
đội danh Mật Tông Tây Tạng ở Đài Loan, pha trộn lung tung Mật Tông và các tín
ngưỡng dân gian lẫn Đạo Giáo, có rất nhiều tín đồ người Hoa tại hai tiểu bang
California và Washington) đi đâu cũng khoe vết thủng trên đỉnh đầu để chứng tỏ
mình là Hoạt Phật (Phật sống) thứ thiệt đã khai đảnh!
17 “Tác pháp” là một thuật ngữ thường dùng trong Mật Tông với ý nghĩa cử hành các
nghi lễ như sái tịnh đàn tràng, hộ thân, triệu thỉnh Bổn Tôn, gia trì, quán đỉnh, tiêu
tai, cung tống Bổn Tôn v.v..
http://ftp.budaedu.org/ebooks/pdf/VI303.pdf
Trong một pháp hội được ghi hình, khi nhận được câu hỏi từ mảnh giấy:” Hòa Thượng có biết Lư Thắng Ngạn không?”, Hòa Thượng Tuyên Hóa trả lời :”Tôi không biết Lư Thắng Ngạn là ai … nhưng đối với tôi hắn chỉ là một con tiểu quỷ. Hắn ta ăn thịt uống rượu và suốt ngày vui đùa với đàn bà”.[4]
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%...1p#cite_note-4
阿彌陀經疏鈔演義 Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
337 Lô Thắng Ngạn là giáo chủ tà phái Chân Phật Tông của Đài Loan. Ông ta sanh năm 1945, quê ở Gia Nghĩa (Đài Loan), thuở nhỏ theo đạo Tin Lành, từng tốt nghiệp kỹ sư khảo sát từ đại học Trung Chánh, chuyên dạy Kinh Thánh vào Chủ Nhật mỗi tuần. Đột nhiên, năm 1969, ông ta tuyên bố được Diêu Trì Kim Mẫu khai Thiên Nhãn Thông và hai mươi vị đạo sư của Đạo Giáo, Hiển Giáo và Mật Giáo Tây Tạng thị hiện, khải thị nên theo Phật giáo, học Phong Thủy với Liễu Minh Hòa Thượng, quy y với ngài Ấn Thuận để học Thiền, và bắt đầu khai đạo, thành lập tông phái Linh Tiên Tông. Giáo nghĩa của ông ta pha trộn lung tung những niềm tin dân gian, tín ngưỡng Đạo Giáo, vay mượn và xuyên tạc Mật Tông Phật giáo, nhất là Mật Tông Tây Tạng. Ông ta tuyên bố từng được “điểm đạo” bởi các vị lạt-ma nổi tiếng của Tây Tạng như Karmapa đời thứ mười sáu, Rangjung Rigpe Rinpoche, Tai Situ Rinpoche, nhưng các lạt-ma Tây Tạng không công nhận điều này! Ông ta tự tuyên bố mình là hóa thân của một vị Bồ Tát tên Padmakumara (Liên Hoa Đồng Tử), vị này chính là hóa thân của A Di Đà Phật (sic!), nên thường tự xưng là Liên Hoa Hoạt Phật. Năm 1982, ông ta dẫn vợ con sang Mỹ, định cư tại Seattle và đổi tên đạo của mình thành Linh Tiên Chân Phật Tông; về sau chỉ còn gọi là Chân Phật Tông. Ông ta lại xin quy y với thượng sư Thổ Đăng Đạt Cát của Hoàng Giáo Tây Tạng (chi phái Mông Cổ) tại Hương Cảng để tăng uy thế. Năm 1986, ông ta chính thức xuống tóc xuất gia tại chùa Lôi Tạng do chính ông ta sáng lập tại Seattle, nhưng vẫn sống với vợ con, hưởng thụ mọi lạc thú trần tục, thậm chí tín đồ không cần kiêng rượu thịt. Vợ ông ta là Liêu Lệ Hương tự xưng là Liên Hương Thượng Sư và nắm quyền chỉ đạo pháp vụ trong Chân Phật Tông. Năm 1996, sau khi xin được tiếp kiến Đạt Lai Lạt Ma và sư trưởng Ganden Tri Rinpoche (trưởng dòng tu Gelugpa, tức dòng tu của Đạt Lai Lạt Ma), Lô Thắng Ngạn tuyên bố ông ta được hai vị này công nhận ông ta là lạt-ma cao cấp của Tây Tạng và có toàn quyền xử lý sự vụ của tín đồ Phật giáo Tây Tạng tại Đài Loan, nhưng văn phòng chính phủ Tây Tạng phản bác tuyên bố này. Ngày 24 tháng Mười năm 2007, bảy đại đoàn thể Phật giáo Trung Hoa tại Mã Lai (Tổng hội Phật giáo Mã Lai, Hội Thanh Niên Phật Giáo Mã Lai, Hội Phật giáo Hoằng Pháp Mã Lai, Tích Lan Phật Giáo Tinh Tấn Hội, Phật Quang Sơn, Phật Giáo Từ Tế Công Đức Hội, Tổng Hội Kim Cang Thừa Mã Lai) cùng một số tổ chức Phật giáo tại Đài Loan và Hương Cảng đã cùng tuyên cáo Chân Phật Tông là ngoại đạo dựa hơi Phật giáo. Hai vị Ấn Thuận và lạt-ma Thổ Đăng Đạt Cát đều tuyên bố minh bạch họ không có quan hệ sư thừa với họ Lô.
http://hocday.com/-ch-ging-lo-php-s-....html?page=101
A-na-luật (pi. anuruddha)
(Aniruddha - Anurauddha) (Mắt trời thấy suốt, không gì chướng ngại)
A-na-luật (Hán tự: 阿那律, tiếng Nam Phạn: Anuruddha, tiếng Phạn: aniruddha, tiếng Tạng chuẩn: མ་འགགས་པ་): Thiên nhãn đệ nhất;
THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT
Thích Minh Tuệ
Sàigòn 1991- Pl 2535
Tôn Gỉả A Na Luật
ANIRUDHA Thiên Nhãn Đệ Nhất
A Nậu Lâu Ðà, dịch là Vô Bần : không nghèo. Nhơn vì kiếp trước, đem cơm bằng gạo lúa tắc cúng cho vị Bích Chi Phật, nên về sau suốt chín mươi mốt kiếp được cái phước báu muốn chi...được nấy nên gọi là không nghèo. Nay tu pháp Tam muội chứng được thiên nhãn thông thấy biết sáng suốt nên gọi là thiên nhãn đệ nhứt.
https://hoavouu.com/p16a1401/chuong-bay-kinh-a-di-da
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%...%87_t%E1%BB%AD
===================
A Nậu Lâu Đà
(s: Aniruddha, p: Anuruddha, 阿冕樓馱): còn gọi là A Na Luật (阿那律), A Nan Luật (阿難律), A Lâu Đà (阿樓陀), hay A Ni Luật Đà (阿尼律陀), A Nê Lô Đậu (阿泥盧豆); ý dịch là Vô Diệt (無滅), Vô Tham (無貪), Vô Chướng (無障), Như Ý (如意), Thiện Ý (善意), Bất Tranh Hữu Vô (不爭有無); là người em họ của Đức Phật, một trong các vị đại đệ tử của Phật. Về xuất xứ tên Vô Tham của Tôn Giả, do đời trước xa xưa đói khát, ông thường lấy thức ăn của mình cúng dường cho một vị Bích Chi Phật (辟支佛), do đó, 7 đời sanh lên cõi trời đều làm Thiên Vương; 7 đời sanh vào cõi người đều làm vua, đời đời về sau mọi cầu mong đều được như ý, và trong 91 kiếp không chịu nỗi khổ nghèo cùng, khốn khổ. Về thân thế của Tôn Giả, Khởi Thế Kinh (起世經) quyển 10, Ngũ Phần Luật (五分律) quyển 15, Chúng Hứa Ma Ha Đế Kinh (眾許摩訶帝經) quyển 2, v.v., cho biết rằng Tôn Giả là con của Hộc Phạn Vương (斛飯王). Tuy nhiên, Phật Bản Hạnh Tập Kinh (佛本行集經) quyển 11, Đại Trí Độ Luận (大智度論) quyển 3 lại cho rằng Tôn Giả là con Cam Lồ Phạn Vương (甘露飯王). Sau khi thành đạo, đức Phật trở về thăm cố hương, lúc đó A Na Luật cùng với A Nan (阿難), Nan Đà (難陀), Ưu Ba Ly (優波離), v.v., xuất gia làm đệ tử đức Phật. Tôn Giả cũng giống như A Nan và rất nhiều người trong giòng họ xuất gia theo Phật. Tôn Giả có tật vừa nghe thuyết pháp vừa ngủ gục nên một lần kia bị Đức Phật quở mắng, Ngài phát thệ nguyện từ đó trở đi, tuyệt đối không ngủ nghỉ, đến nỗi, về sau Tôn Giả bị mù cả hai mắt. Tuy nhiên, do kết quả của sự tinh tấn tu hành như vậy, Tôn Giả đã chứng được Thiên Nhãn. Tôn Giả thông cả Bát Đại Niệm (八大念, tức tám điều giác ngộ của bậc đại nhân) và Tứ Niệm Xứ (四念處, bốn phép Thiền Quán). Tôn Giả được liệt vào 10 vị đại đệ tử và được xem là người có Thiên Nhãn Đệ Nhất. Khi Đức Phật nhập diệt thì Tôn Giả đã cùng với A Nan và các đệ tử khác hầu cận một bên.
http://phatam.org/dictionary/detail/...a-nau-lau-da/1
Sivali (Si Oa Li) - đệ nhất ứng cúng lợi dưỡng, bậc thánh Thinh văn đại đệ tử có tài lộc bậc nhất trong các hàng đệ tử của Đức Phật Gotama.
https://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuo...7012722116.htm
https://lotusleanh.blogspot.com/2016...ieng-pali.html
Các Vị Ðại Ðệ Tử Của Ðức Phật
Bình Anson
Trong Tăng Chi Bộ Kinh, phẩm Những Người Tối Thắng (quyển 1, chương 14), có đề cập đến 75 vị đại đệ tử của Ðức Phật, trong đó có 41 vị tỳ kheo, 13 vị tỳ kheo ni, 11 vị nam cư sĩ và 10 vị nữ cư sĩ. Cũng xin ghi nhận ở đây là trong Hán tạng, Kinh Tăng Nhất A Hàm (quyển 1, các chương 4, 5, 6, và 7) liệt kê nhiều vị đại đệ tử hơn: 100 vị tỳ kheo, 50 vị tỳ kheo ni, 40 vị cư sĩ nam, và 30 vị cư sĩ nữ.
Ở đây chỉ xin liệt kê 75 vị đệ tử như đã ghi lại trong Tăng Chi Bộ như sau:
Tỳ Kheo:
Annakondanna (A-nhã Kiều-trần-như) là đệ nhất tổ của tăng đoàn.
Sariputta (Xá-lợi-phất) là đệ nhất trí tuệ.
Mahamoggalana (Ðại Mục-kiền-liên) là đệ nhất thần thông.
Mahakassapa (Ðại Ca-diếp) là đệ nhất đầu đà.
Anuruddha (A-nậu-lâu-đà, A-na-luật) là đệ nhất thiên nhãn.
Bhaddiya Kaligodhaputta (Phát-ti-da Ca-lị-gô-da-pút-ta) là đệ nhất quý tộc.
Lakuntaka Bhaddiya (La-kun-ta-ka Phát-ti-da) là đệ nhất âm thanh.
Pindola Bharadvaja (Bin-đô-la Phá-rát-oa-cha) là đệ nhất âm sư tử hống.
Punna Mantaniputta (Pun-nha Manh-ta-ni-pút-ta, Phú-lâu-na) là đệ nhất pháp sư.
Mahakaccana (Ðại Ca-chiên-diên) là đệ nhất biệt giải Phật ngôn.
Cullapanthaka (Chu-la-banh-tha-ca) là đệ nhất thần thông dụng ý hóa thân và định vô lậu pháp.
Mahapanthaka (Ma-ha Banh-tha-ca) là dệ nhất tưởng vô lậu pháp.
Subhuti (Tu-bồ-đề) là đệ nhất vô tranh lạc trú và ứng cúng.
Revata Khadiravaniya (Rê-oa-ta Kha-đi-ra-oa-ní-da) là đệ nhất tu ẩn cư.
Kankha Revata (Căn-kha Rê-oa-ta) là đệ nhất nhập thiền.
Sona Kolivisa (Sô-na Kô-li-qui-sa) là đệ nhất tinh tấn.
Sona Kutikanna (Sô-na Ku-ti-canh-na) là đệ nhất thuyết pháp tinh xảo.
Sivali (Si-oa-li) là đệ nhất ứng cúng lợi dưỡng.
Vakkali (Oắc-ka-li) là đệ nhất thuần tín.
Rahula (La-hầu-la) là đệ nhất hiếu học.
Ratthapala (Rát-tha-pha-la) là đệ nhất thuần tín xuất gia.
Kundadhana (Kun-đa-tha-na) là đệ nhất lộc hưởng.
Vangisa (Oan-ki-sa) là đệ nhất biện tài.
Upasena Vangantaputta (U-ba-sê-na Oăn-ganh-ta-pút-ta) là đệ nhất đối tượng khả ái.
Dabba Mallaputta (Ðắp-ba Ma-la-pút-ta) là đệ nhất tổ chức cư trú cho tăng đoàn.
Pilindavaccha (Pi-lin-đa-oắc-cha) là đệ nhất đối tượng khả ái của chư thiên.
Bahiva Daruciriya (Ba-hi-da Ða-ru-chi-rí-da) là đệ nhất tốc chứng thánh đạo.
Kumara Kassapa (Ku-ma-ra Ca-diếp) là đệ nhất vi diệu giảng sư.
Mahakotthita (Ma-ha Kốt-thi-ta, Ma-ha Câu-hy) là đệ nhất tuệ phân giải.
Ananda (A-nan-đà) là đệ nhất thinh văn, ức niệm, tế nhị, kiên trì, thị giả.
Uruvela Kassapa (U-ru-uê-la Ca-diếp) là đệ nhất đa tín đồ.
Kaludayi (Ka-lu-đà-di) là đệ nhất tạo lạc cho mọi gia đình.
Bakkula (Bắc-ku-la) là đệ nhất thiểu bệnh.
Sobhita (Sô-phi-ta) là đệ nhất túc mạng tri.
Upali (Ưu-ba-li) là đệ nhất giới luật.
Nandaka (Nan-đà-ka) là đệ nhất huấn ni.
Nanda (Nan-đà) là đệ nhất thu thúc căn môn.
Mahakappina (Ma-ha Káp-pi-na) là đệ nhất huấn tăng.
Sagata (Sa-ga-ta) là đệ nhất tam muội hỏa.
Radha (Ra-tha) là đệ nhất năng khởi biện tài.
Mogharaja (Mô-kha-ra-cha) là đệ nhất hạnh phấn tảo y.
Tỳ Kheo Ni:
Mahapajapati Gotami (Ma-ha-pa-cha-pa-ti Gô-ta-mi) là đệ nhất tổ của ni đoàn.
Khema (Khê-ma) là đệ nhất trí tuệ.
Uppalavanna (Úp-pa-la-oanh-na) là đệ nhất thần thông.
Patacara (Pa-ta-cha-ra) là đệ nhất giới luật.
Dhammadinna (Thăm-ma-đin-na) là đệ nhất pháp sư.
Rupananda (Ru-pa-nan-đà) là đệ nhất nhập thiền.
Sona (Sô-nha) là đệ nhất tinh tấn.
Sakula (Sa-ku-la) là đệ nhất thiên nhãn.
Kundalakesa (Kun-đà-la-kê-sa) là đệ nhất tốc chứng thánh đạo.
Bhaddakapilani (Phát-đa-ka-pi-la-ni) là đệ nhất túc mạng trí.
Yasodhara (Da-du-đà-la) là đệ nhất đại thắng trí.
Kisagotami (Ki-sa-gô-ta-mi) là đệ nhất hạnh phấn tảo y.
Sigalamata (Si-ga-la-ma-ta) là đệ nhất thuần tín.
Nam Cư Sĩ:
Tapussa (Ta-phút-sa) là đệ nhất tổ của cư sĩ nam (giới U bà tắc).
Phallika (Pha-li-ka) cùng với Tapussa là nhị vị đệ nhất tổ của cư sĩ nam.
Anathapindika (A-ná-tha-pin-đi-ka, Cấp cô độc) là đệ nhất bố thí.
Citta Macchikasandika (Chít-ta Mắc-chi-ka-săng-đi-ka) là đệ nhất giảng sư.
Hatthaka Alavaka (Hách-tha-ka A-la-oa-ka) là đệ nhất hành trì tứ nhiếp pháp.
Mahanama Sakka (Ma-ha-na-ma Sắc-ka) là đệ nhất bố thí vật thực thượng vị.
Ugga Vesalika (Úc-ga Uê-sa-li-ka) là đệ nhất bố thí vật diệu dụng.
Hatthigamaka Uggata (Hách-thi-ga-ma-ka Úc-ga-ta) là đệ nhất hộ tăng.
Sura Ambattha (Su-ra Ăm-bách-tha) là đệ nhất chánh tín bất thối.
Jivaka Komarabhacca (Chi-oa-ka Kô-ma-ra-bắc-cha) là đệ nhất hội chúng khả kính.
Nakulapita (Na-ku-la-pi-ta) là đệ nhất thân thiện với Ðức Phật.
Nữ Cư Sĩ:
Sujata Senanidhita (Su-cha-ta Sê-na-ni-thi-ta) là đệ nhất tổ của nữ cư sĩ (giới U bà di).
Visakha Migaramata (Quí-sa-kha Mi-ga-ra-ma-ta) là đệ nhất bố thí.
Khujuttara (Khút-chu-ta-ra) là đệ nhất thinh văn.
Samavati (Sa-ma-oa-ti) là đệ nhất từ tâm.
Uttara Nandamata (Út-ta-ra Nan-đa-ma-ta) là đệ nhất nhập thiền.
Suppavasa Koliyadhita (Súp-pa-oa-sa Kô-li-da-thi-ta) là đệ nhất cúng dường thực phẩm.
Suppiya (Súp-pi-da) là đệ nhất phụng dưỡng bệnh nhân.
Katiyani (Ka-ti-da-ni) là đệ nhất chánh tín bất thối.
Nakulamata (Na-ku-la-ma-ta) là đệ nhất thân thiện với Ðức Phật.
Kali Kulagharika (Ka-li Ku-la-kha-ri-ka) là đệ nhất văn thuyết tịnh tín.
Bình Anson ghi chép
Perth, Western Australia
tháng 3-1998
Tham khảo
1. Kinh Tăng Chi Bộ, HT Minh Châu dịch, Sài Gòn, 1996
2. Tình Bạn, HT Hộ Giác, Texas, 1985
3. Kinh Tăng Nhất A Hàm, HT Thanh Từ dịch và HT Thiện Siêu hiệu đính, Sài Gòn, 1997
https://www.budsas.org/uni/u-vbud/vbkin049.htm
Ngài có bốn vị tôn đệ tử là: MA HA CA DIẾP, MỤC KIỀN LIÊN, XÁ LỢI PHẬT, A NA LUẬT. Bốn vị Hiền Sĩ này, hay thương những người nghèo đói, và tác phúc cho những chúng sinh đau khổ.
Nếu ai chí tâm tin kính cúng dàng những vị ấy, thì đời hiện tại này, muốn cầu gì cũng được toại nguyện.
http://tuvientuongvan.com.vn/phap-bao/pham-thu-ba-muoi-bay-sai-ma-p515.html
https://www.youtube.com/watch?v=IG5V-Tn36Xw
LAMA SANG 2001 VN 1
https://www.youtube.com/watch?v=LJdo3aIL3EY
Shamar Rinpoche, Situ Rinpoche, Gyaltsab Rinpoche and Jamgon Rinpoche - Vajradhara Lineage Teaching.
https://www.youtube.com/watch?v=vvMgQFNdY10
國師 嘉察仁波切 His Eminence Goshir Gyaltsab Rinpoche _大寶法王之法子與攝政(英文字幕)