hiều biết có giới hạn.
Printable View
Công án là các câu hỏi, hay các câu trả lời không ăn nhập với nhau nhưng thách thức đối với con người bạn, đối với cái khái niệm nền tảng nhất về tự ngã của bạn. Công án như vũ khí sắc bén đâm vào tự ngã và từ đó tuôn trào ra Phật Tánh. Công việc của bạn không phải là tác chiến hay vật lộn với các cú tấn công này, mà là trung hòa chúng.
Công án (kung an) xuất phát từ Trung Quốc, tiếng Nhật gọi là Koan, có nghĩa là nguyên tắc chung. Trong Thiền tông, các công án được dùng như chất xúc tác để đánh thức bản chất sâu thẳm, trong sạch của bạn. Công án thường kể lại một cuộc gặp gỡ giữa thầy và trò, trong đó, câu hỏi hay câu trả lời của vị thầy nhằm khai mở bản chất sâu thẳm của vạn pháp như chúng là. Có lẽ, công án điển hình, sớm nhất là công án về câu chuyện, khi Đức Phật Thích Ca không nói một lời, đưa cành hoa sen lên trước hội chúng. Lúc đó, tất cả hội chúng đều im lặng, ngơ ngác không hiểu, chỉ trừ tôn giả Ca Diếp mỉm cười.
Công án là một công cụ cao cấp, không có sức mạnh siêu nhiên ẩn tàng nào nhưng lại có thể giúp hành giả giác ngộ khi thực hành đúng đắn. Tôi từng nghe Thiền sư Genki gọi chúng là ‘cách mở nắp lon’ cho Tâm của bạn.
Công án chỉ nên được dùng sau khi bạn đã vào được chánh định. Chánh định là trạng thái của tâm khi tất cả ý niệm, suy nghĩ, cảm thọ, phán đoán… đã im bặt, và tâm đã trở nên sáng tỏ, lặng lẽ, phản chiếu một cách tự nhiên, trôi chảy tự do trong khoảnh khắc này. Nếu tâm bạn chưa đắc định, thì đừng tu tập gì với công án. Công án sẽ quậy lên dòng nước của tâm, và nếu tâm đang có sẵn sự hỗn loạn thì pháp tham công án sẽ chỉ làm cho mọi chuyện tệ hơn. Đó là lý do vì sao Thiền sư Genki chỉ trao cho công án trong khi vào các kỳ nhập thất Sesshins (có sách dịch là nhiếp tâm, tiếp tâm, một kỳ thất dài nhiều ngày. LND) trong đó học nhân dễ nhập định hơn.
Công án sẽ KHÔNG được giải đáp. Bất kỳ đáp ứng mô tả nào: kiểu có/không, hay kiểu cái này/cái kia… đều sẽ bị bác bỏ. Thường thường, công án không cần gì tới lời nói ngôn ngữ. Một vài cử chỉ đột khởi cũng là đủ rồi. Đó là lý do vì sao tôi nói công án không được trả lời, nhưng được giải quyết.
Để tham một công án có nghĩa là để một công án hoạt động trong bạn. Khi một mức độ chánh định đã đạt được, bạn đưa công án vào tâm. Cách khởi công án thích hợp nhất là nêu câu hỏi một cách dịu dàng nhưng liên tục vào ý thức. Đừng mất thì giờ tìm cách hiểu công án. Hãy để nó đưa tâm của bạn xuyên qua chất vấn này, và đừng có nỗ lực nào giải đáp nó. Bất kỳ phân tích nào cũng chỉ làm uổng phí thì giờ, và tận cùng kiểu đó chỉ cao lắm là sản xuất ra một câu trả lời kiểu Thiền giả mạo. Công án là một khí cụ nhắm tới chỗ diễn dịch, giải thích, bắt chước hay phân tích của chúng ta mà đánh vào; và rồi, chỉ sau khi chúng ta cạn kiệt hay là buông bỏ hết mọi kiểu khảo sát, điều tra loại đó, thì một mức độ thâm sâu hơn của tham cứu mới có thể dò tới được.
Chỉ khi nào chúng ta có thể thú nhận rằng chúng ta không biết gì hết, thì pháp tham công án chân thực mới bắt đầu được. Hãy để công án trong bụng của bạn, nơi đó có thể khởi đầu như là bạn đã nuốt một quả cầu sắt nóng, tới nỗi nó không thể bị tiêu hóa hay trục xuất đi. Thực tế, đôi khi sau nhiều năm tu tập, công án sẽ làm phần việc của nó, tâm bạn sẽ mở ra trong sự hiểu biết sâu thẳm.
Công án là các câu hỏi, hay các câu trả lời không ăn nhập với nhau nhưng thách thức đối với con người bạn, đối với cái khái niệm nền tảng nhất về tự ngã của bạn. Công án như vũ khí sắc bén đâm vào tự ngã và từ đó tuôn trào ra Phật Tánh. Công việc của bạn không phải là tác chiến hay vật lộn với các cú tấn công này, mà là trung hòa chúng.
Bất cứ khi nào một công án khởi lên trong tôi, trước khi vào độc tham (tham vấn riêng giữa Thầy và trò), tôi để mặc cho nó trôi mất đi; đó là bảo đảm tốt nhất rằng [cái] đáp ứng khởi lên trong khi độc tham, hay trước mặt vị Thầy, sẽ là [một đáp ứng] tươi mới. Thường thì, đáp ứng mà tôi trình trong buổi độc tham gần giống như phản ứng lúc đầu của tôi. Tuy nhiên, bằng cách buông bỏ các đáp ứng đầu tiên và kế tiếp đó, công án có cơ hội tốt nhất để mở rộng hiểu biết của bạn vào trong sự hiển lộ đầy đủ nhất.
Thí dụ, khi trả lời công án “Cái gì là tiếng vỗ của một bàn tay”, bạn có thể hiểu nó là sự VẮNG LẶNG: niềm vắng lặng tịch diệt bao trùm khắp vũ trụ, cái tự thân là Đạo. Nhưng nh?ng hiểu biết có phần suy lý này không nói được gì cả. Khi xem như là một đáp ứng, thì nó đã chết từ lâu. Làm cách nào bạn cảm nhận niềm vắng lặng tịch diệt này trong từng mảnh thân tâm bạn, và khi điều này được kinh nghiệm một cách trực tiếp, thì làm cách nào bạn sẽ hiển lộ được kinh nghiệm của bạn để cho vị Thầy hài lòng?
Hãy can đảm, đừng ngồi yên và đông lạnh; ít nhất hãy nói, “Con không biết”. Bất kỳ đáp ứng nào bị Thầy bác bỏ đều sẽ khép lại một ngõ hẹp không tới đâu, hay là sẽ đẩy bạn tới một vài hướng mới. Từ từ, vị Thầy sẽ giúp bạn gạt bỏ mọi đáp ứng, chỉ trừ một phản chiếu thuần tịnh trong trẻo về cái đang được hướng tới. Mỗi công án đòi hỏi một đáp ứng riêng biệt, độc đáo, trong khung của câu hỏi. Nếu một công án hệt như một tay quyền đánh vào đầu, thì sẽ vô dụng khi đáp ứng bằng cú đá vào ống quyển. Nếu Thầy đòi có một quả táo, hãy mang tới đủ thứ riêng của bạn; nhưng hãy hiểu rằng một quả cam hay một ổ bánh mì sẽ không đáp ứng được.
Công án được xem như hạt giống của tỉnh ngộ. Đôi khi cần một thời gian dài lâu để trưởng dưỡng sự gian nan, có khi thời kỳ trưởng dưỡng này ngắn và trực tiếp. Muốn giải quyết trọn vẹn một công án, bạn phải để cho nó lớn lên trọn vẹn; một công án phải được tự hiển lộ. Để nuôi dưỡng và chăm sóc cho một công án, một cách đơn giản và liên tục, bạn hãy kích vào cái chăm chú tỉnh biết của bạn, cái cốt tủy của “câu hỏi” hay của “cuộc trực diện” đó.
Thí dụ, nếu công án là “Hãy mang cho tôi tự tánh của tiếng chuông chùa” thì trước tiên, chúng ta phải sửa sọan cái nền đất nơi mà công án sẽ được trồng vào bằng cách nhập định (tình trạng khi tâm bạn hoàn toàn tự nhiên, tĩnh lặng, quân bình, và tỉnh giác tròn đầy). Một khi sự an định đã thiết lập (ở các oai nghi: đi, đứng, ngồi, nằm…), chúng ta trồng công án một cách liên tục và chăm chú bằng việc đưa công án vào sự tỉnh giác, và đặt nó an nghỉ trong bụng mình. Nơi đó, nó sẽ mọc lên và lớn dậy mà không cần thêm bất kỳ nỗ lực nào.
Trong thí dụ đi tìm tự tánh của tiếng chuông chùa, chúng ta hãy để cho tiếng chuông chùa vọng lên trong bụng, cho tới khi nó có thể trôi ra khỏi người chúng ta mà không có bất kỳ phân biệt suy lý nào. Vào khoảnh khắc tỉnh ngộ, quả chín của công án sẽ tự nhiên đứt rời khỏi chúng ta như là một đáp ứng rõ ràng mà không chút màu mè nào về “nó” hay “tôi”. Lúc đó, không có gì tách rời giữa hành giả và tiếng chuông; chúng sẽ là một, mà không có can thiệp nào từ ý thức phân biệt.
Qua nhiều năm tu tập công án với nhiều Thiền sư khác nhau, tôi đã hiểu rằng công án có thể chia làm 5 loại khác nhau. Thực sự, cũng có thể chia chi tiết thêm nhiều nhóm phụ nữa, nhưng xét đến tận cùng tất cả cách chia đều vô nghĩa, một công án chỉ là một công án thôi.
Một số công án đòi hỏi sự buông bỏ các hàng rào giữa bạn và thiên nhiên chung quanh. Những công án như hãy mang cho tôi tiếng mưa rơi, tự tánh của đóa hoa, hay một ngọn núi trên một sợi dây thừng, tất cả đều đẩy học nhân vào hướng của sự tỉnh giác mở rộng.
Các công án khác thì đòi hỏi hành giả buông bỏ các rào cản khái niệm và giả tạo đang dựng lên giữa chính bạn và Phật. Các công án như, hãy mang cho tôi tự tánh của pho tượng [Phật] đứng trên bàn thờ kia, hãy đưa cho tôi xem yếu nghĩa việc làm của Thiền Sư (Câu Chi, Sư Ngạn, Lâm Tế…); hay là khi hàm răng của ông cắn vào cành cây giữa bờ vực mà tay chân đều không bám đâu được, làm sao ông trả lời một câu hỏi chân thành xin giải bày pháp yếu (Chân Lý/ Ý chỉ tổ sư)?...
Một số công án đòi hỏi hành giả mở hết các cửa về đời người bằng cách yêu cầu “hãy mang tới cho ta tự tánh của lão già (hay [của] phụ nữ, đứa trẻ, hài nhi, thằng bịp, tên ngốc, pháp sư, nhà sư, thầy giáo, cái chết, sự sinh, bạn hữu, kẻ thù, niềm vui, nỗi buồn…)”.
Một số công án đòi hỏi hành giả hiển lộ Đạo trong tự thân (nền tảng của Thực Tại, cái vượt qua sinh tử, qua tướng và vô tướng, qua đúng và sai, âm và dương, nam và nữ, và qua mọi nhị nguyên khác).
Cuối cùng, có những công án đòi hỏi hành giả hiển lộ các hành vi bình thường. Các công án đẩy chúng ta vào lối này có thể là yêu cầu “hãy hiển lộ chân tánh của khắp pháp giới trong khi rửa chén,…”.
Tất cả các công án đều đòi hỏi chúng ta tỉnh ngộ hiện tiền, và sống trọn vẹn với cái hiện tiền đó mà không còn màng lọc nào giữa chúng ta và phần còn lại của thực tại.
Khi thiền công án được tu tập đúng hướng, chúng ta sẽ khám phá rằng chính đời sống chúng ta là công án lớn nhất của mọi công án. Bất kỳ trở ngại hay hoàn cảnh nào có vẻ như tách rời chúng ta xa khỏi chính chúng ta, hay xa khỏi bất kỳ ai hay bất kỳ vật gì khác, đều có thể được dùng như một công án. Hãy đưa trở ngại hay nan đề đó vào tâm bạn, như cách đã mô tả trên, và chờ cho nó chín cây, và rụng xuống mà không cần tìm cách sửa chữa, thay đổi hay phân tích. Bạn sẽ khám phá rằng tất cả các trở ngại đề là ảo giác của kiểu này hay kiểu khác của tâm.
Để thấy thực tại một cách rõ ràng là hãy gỡ bỏ hết mọi rào cản bên trong bạn, giữa tự ngã của bạn và mọi thứ khác với nó. Tam Tổ của Thiền Tông nói rằng không hề có gì cách biệt hay bị lọai trừ, vạn pháp vẫn chuyển động và đan vào nhau mà không phân biệt gì.
Thí dụ, tôi thường bị ám ảnh bởi nhiều loại niệm cứ dường như lập đi lập lại không ngừng; nhưng rồi, nếu tôi lui lại khỏi các loại niệm đó, hay là [lui khỏi] nỗi đau đớn, và giữ nó một cách dịu dàng và chăm chú trong bụng hay trên đùi, rồi trong một trật tự tương đối ngắn thì đợt sóng niệm hay nỗi đau đớn đó sẽ tan biến đi, đôi khi lại hiển lộ ra bằng một câu chuyện hay một chân lý trước đó chưa thấy. Cũng có lúc, sự nhẹ gánh này chỉ là tạm thời, có khi là vĩnh viễn, nhưng luôn luôn với sự tỉnh giác chăm chú thì nó có thể giải quyết xong, hay ít nhất là đã có tiến triển trong thực hành. Một lần, tôi được hỏi là có phải đáp ứng với một công án thì y hệt như đóng kịch không, và tôi nói: “Vâng, y hệt như đóng kịch giỏi, nơi mà, trong sự chân thành thuần tịnh, không có gì cách biệt giữa người diễn viên với vai mà anh ta đang đóng”.
(Thiền sư Genjo Marinello là Viện Chủ Chùa Dai Bai Zan Cho Bo Zen Ji tại Seattle, Hoa Kỳ. Thầy đã tập Thiền từ năm 1975, xuất gia và thọ giới năm 1980, rồi thọ cụ túc giới năm 1990. Ngoài việc chịu trách nhiệm các chương trình dạy Thiền ở chùa, Thầy còn làm công tác Tham Vấn Về Y Tế Tâm Thần, và là Giám Đốc về Tâm Linh (Washington State Licensed Mental Health Counselor and Spiritual Director) tại khu vực Capitol Hill của Seattle, đồng thời là một thành viên trong Hội đồng khoa của đại học Antioch University. Bài sau đây của Thiền sư Genjo Marinello nói về pháp tu công án. Chỗ này xin mạn phép góp một ý nhỏ: Thiền sư Genjo Marinello khuyên rằng nên để công án nơi bụng, tuy nhiên theo người dịch thấy, nên để nghi tình về công án ngoài thân, lơ lửng dưới tầm mắt, sẽ có lợi hơn và sẽ duy trì dễ hơn, nhất là khi rời oai nghi ngồi, tới một lúc chỗ nào mắt nhìn cũng thấy niệm nghi tình hiện ra. Nếu thấy khó để niệm ngoài thân, độc giả cũng không nên để niệm riêng vào một điểm nào trong thân, mà nên để niệm này ở toàn thân một cách tự nhiên. Tùy độc giả sẽ thấy cách nào thích hợp. Tham công án khác với tham thọai đầu. Công án là một tích truyện, mang trong đó một vấn đề, có khi mang cả nhiều vấn đề. Còn thoại đầu là công án được chọn để hướng về một câu hỏi đơn độc, dễ hướng tâm hơn
PQ ơi1 bài của người viết hay post ở đâu dài dữ vậy đọc hỏng nổi gặp M Đ làm biếng đọc quá
dể ợt,không cần họ nói chuyện đối đáp với mình,mà xem họ nói chuyện với người khác củng biết được,hoặc là nhửng bài huynh nói lúc nào họ củng xem qua nhưng không trả lời họ theo giỏi liên tục mà ,tại muội không biết chứ có nhiều người không lên mạng mà hỏi bằng điện thoại hoặc có vị đi du lịch rồi gặp huynh giới thiệu huynh mới biết, chỉ có ai đó nghe một lần rồi im re thì huynh chịu chết ha ha,,,,,,,,
ta muốn tận mắt chứng kiến muội giận và la hét thử lúc đó nó ra làm sao,D,D mà đứng hét lúc đó muội có thể vừa hét vừa ghi hình được không nhỉ? ha ha chuyện nầy quá dể nhưng huynh chưa thấy chưa tin,,,,,
ở Saigon tìm 1 chỗ xã giận kiểu la hét cũng khó lắm huynh ( nguy cơ vào viện tâm thần khá cao )...ở nhà thì ko thể ...nên DD chọn cách ngồi trong xe hơi ...la ...kết quả là ...hữu hiệu huynh ạ ! chắc muội ko có tâm trạng vừa la vừa chụp hình cho huynh coi,nhưng nếu có dịp thì DD xin la trực tiếp cho huynh xem với âm lượng khủng ! hehe !
Vậy minh đài sao đọc thuộc kinh được,pq nhớ có 1quyển kinh có người đọc cả năm,người ta nói ngắn quá,còn 1bài mình đài chỉ cần 15p để đọc mà làm biếng,vậy kiến thức phật học của minhđài từ đâu mà có,pq nói thật có thể mất lòng,giá trị của sự chân thật là nền tản của sự tu tập
P Q hỏi rất hay !kiến thức tu học không phải do đọc nhiều hay tụng nhiều mà do trãi nghiệm .
Kinh văn vốn do tuệ của người tu học kết tập mà viết ,mình đọc là đang đọc sự trãi nghiệm của người khác mà thôi .
M Đ nói nhưng không hẳn là không đọc nhưng đó không phải để mình chấp nó làm kiến thức của mình mà mình phải dùng trí tuệ để trãi nghiệm làm thành kiến thức của bản thân.
,cất nhà đó là vì bản thân ,cái nhà là phương tiện nương nấu ,giống như tu tập vạn pháp đó là vì bản thân ,vì nhiều sự phiền não nên sanh nhiều pháp .
Khi thấy tâm không còn vướn mắc ,không còn bị danh sắc phá giống như 3 lần ngài TỔ SƯ cất lên mà bị cảnh ngoại trần phá ,những sự phiền phá .
Ngài nghỉ mình xây cho chắc không ai phá được nhưng khi đã xây chắc rồi thì chính ngài tự tay phá bỏ .
Tâm đã vững chắc rồi đâu còn sợ mưa gió ,không còn sợ ngoại sắc phá nhiễm nên buông xã pháp ,buông cả cái ta trong vạn pháp .không còn lăng xăng với pháp này hay pháp nọ .đây là đạt đến cảnh giới cao rồi đó .Và ngài không còn bám chấp nên buông ra đi hóa đạo .
Như ngài HUỆ NĂNG người đâu có đọc kinh sách nhiều ,mà ngài chỉ nghe một câu trong KIM CANG mà đã ngộ ,còn ngài ĐẠT MA 3 lần cất nhà mà ngộ .
Chân lý ngộ đạo từ chỉ đột nhiên ,không phải trên kinh văn hay văn tự
Khi tổ huệ khả tới gặp tổ bồ đề đạt ma,tổ hụê khả nói tâm con bất an xin thầy an tâm dùm con,tổ bồ đề đạt ma nói con đưa tâm ra ta an tâm cho,tổ hụê khả tìm cái tâm hoài mà kg thấy,tổ nói con tìm kg thấy tâm,tổ bồ đề đạt ma nói ta đã an tâm cho con rồi đó,
Tổ hụê năng thì thiền kg thấy tâm,còn d_d thiền cũng kg thấy tâm biết bao nhiêu người muốn mà kg được,còn nghịch cảnh là kho tàn của chúng ta,
hời....mấy ông còn chưa bik hình thái và tình cách của người ta. Mà mấy ông đã vội nói họ rỗng, tâm tinh khiết. Đến ngồi thiền ngay trước mắt mà chỉ sữa dc ở ngoài thân, tâm ng ta nghĩ gì còn chưa bik.....thật ko hiểu nổi mấy ông rùi...thui duyên ai nấy ngộ ..nghiệp ai nấy gánh....vậy.
nghe hsnc nói vothuong đẹp trại lắm mà kg được rộng lượng lắm,vothuong có chuyện gì nói ra,nên giải đừng nên kết
Muốn thoát khỏi khổ sanh tử luân hồi, muốn được quả vị thánh nhân, Bồ Tát, chúng ta cần trau giồi cho được một tâm vô cùng rộng lớn, một "vô lượng tâm".
A. MỞ ĐỀ
Đứng về phương diện tuyệt đối, hay chơn như môn, thì tâm của chúng sinh hay tâm của Phật cũng vẫn là một, không có rộng hẹp, thấp cao, sai khác, ngăn cách.
Nhưng đứng về phương diện tương đối hay sinh diệt môn, thì tâm có muôn hình vạn trạn, tùy theo chủng tánh của chúng sinh mà có cao thấp, rộng hẹp không đồng. Hễ nghĩ đến tham, sân, si, mạn v.v...thì tâm trở thành nhỏ hẹp, lớn bé, ngàn sai, muôn khác,cũng như cùng một thứ bột mà do người thợ làm bánh, khéo hay vụng mà có bánh ngon, bánh dở, bánh tốt, bánh xấu, bánh lạt, bánh mặn v.v...Cho nên Tôn cảnh Lục có chép: " Tâm tạo chư Phật, tâm tạo chúng sinh, tâm tạo thiên đường, tâm tạo địa ngục. Tâm vọng động thì ngàn sự sai biệt tranh khởi, tâm bình thì thế giới thản nhiên, tâm phàm thì ba món độc trói buộc, tâm thánh thì sáu món thần thông tự tại, tâm không thì nhứt đạo thanh tịnh, tâm hữu thì vạn cảnh tung hoành. Tự mình đạp mây mà uống nước cam lồ, chẳng có ai cho mình. Nằm trong lửa hừng mà uống máu mủ cũng tự mình gây nê, không phải trời sanh ra, cũng không phải do đất mà có ".
Xem thế thì cũng đủ biết tâm là động lực chính để làm cho ta sướng hay khổ, vui hay buồn, trầm luân hay giải thoát.
Vậy muốn thoát khỏi khổ sanh tử luân hồi, muốn được quả vị thánh nhân, Bồ Tát, chúng ta cần trau giồi cho được một tâm vô cùng rộng lớn, một "vô lượng tâm".
B. CHÁNH ĐỀ
I. ĐỊNH NGHĨA TÂM VÔ LƯỢNG
Vô lượng là gì? Vô lượng nghĩa là nhiều, rộng lớn, không thể lường tính được.
Tâm vô lượng là tâm vô cùng rộng lớn thoát ra khỏi sự ràng buộc của các thứ phiền não đê hèn của phàm phu, phá vỡ được các thứ quan niệm chấp trước hẹp hòi của Nhị thừa, là tâm có một vùng thương yêu rộng lớn có thể bao trùm đến vô lượng chúng sinh, và tìm phương cứu cho tất cả. Vô lượng tâm cũng có nghĩa là "Đẳng tâm", cái tâm bình đẳng, phổ biến; bình đẳng, vì tâm này chỉ tự nhiên, không phân biệt so đo thấp cao, hơn kém; phổ biến, bởi nó trang trải mọi nơi chẳng khu biệt, giới hạn.
Và dĩ nhiên, nhân nào quả nấy: do thi hành bình đẳng, phổ lợi cho vô lượng chúng sinh, nên chi tâm này có công năng dẫn sinh vô lượng phước đức, làm cho sự kiện căn bản để cảm thành vô lượng quả báo tốt đẹp, ấy là quả vị Bố tát và Phật đà.
Hơn nữa, tâm này không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh, dẫn sinh vô lượng phước đức, và tạo thành vô lượng quả vị tốt đẹp trong một thế giới và trong một đời, mà còn lan rộng ra đến vô lượng thế giới trong vô lượng kiếp sau này, và tạo thành vô lượng chư Phật.
Tóm lại, chữ vô lượng ở đây hàm ngiều nghĩa, vô lượng nhân lành, vô lượng quả đẹp, vô lượng chúng sinh, vô lượng thế giới, vô lượng đời kiếp, vô lượng chư Phật và Bồ Tát.
II. THÀNH PHẦN VÀ HÀNH TƯỚNG CỦA BỐN MÓN TÂM VÔ LƯỢNG
Tâm vô lượng gồm có bốn phần là: bi vô lượng, từ vô lượng, hỷ vô lượng và xả vô lượng.
1. Bi vô lượng
Bi là lòng thường xót rộng lớn trước những nỗi đau khổ của chúng sinh và quyết tâm làm cho dứt trừ những đau khổ ấy. Nhưng chúng ta đã học trong khóa thứ ba nói về Tứ đế, cái khổ của chúng sinh thật là mênh mông, rộng lớn không thể nói hêt. Nó bao trùm cả nhân lẫn quả, cả thời gian lẫn không gian, cả phàm lẫn thánh, thật đúng là vô lượng khổ.
Khổ nằm trong nhân. Trong các kinh điển thường có câu: "Bồ Tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả". Chúng sinh vì không sáng suốt cho nên chỉ khi nào quả khổ hiện ra mới lo sợ, chứ trong khi đang gây nhân thì lại không nhận thấy, mà vẫn cứ thản nhiên như không. Họ đang sống trong cảnh khổ mà họ không biết, nhiều khi lại là cho vui. Họ hoan hô tán thán và khuyến khích nhau gây khổ mà cứ tưởng là vui, như những đứa trẻ quẹt diêm quăng lên mái nhà lá, rồi vỗ tay reo mứng với nhau. Vì thiếu sáng suốt cho nên đôi khi họ gây khổ để cứu khổ, chẳng khác gì làm cho đỡ khát bằng cách uống nước mặn.
Khổ nằm trong quả. Đã gây nhân quả, thì tất phải chịu quả khổ, đó là lẽ tất nhiên. Có ai trồng khoai mà được đậu bao giờ? Thế mà người đời ít ai chịu công nhận như thế. Người ta oán trời trách đất, rren khóc thảm thiết, làm cho cõi đời đã đen tối lại càng đen tối thêm, cuộc sống đã khổ sở lại càng khổ sở thâm.
Khổ sở bao tùm cả thời gian. Từ vô thỉ đến nay, cái khổ chưa bao giờ dứt, mà cứ trông thêm lên mãi. Nó gây nhân rồi lại kết quả, kết quả rồi lai gây nhân, cứ thé tiếp tục mãi trong một vòng lẩn quẩn, nmhư bánh xe lăn tròn trên đường thiên lý, không bao giờ dừng nghỉ.
Khổ bao trùm cả không gian. Cái khổ không có phương sở và quốc độ; ở đâu có vô minh thì ở đó có khổ ! Mà vô minh thì như một tấm màn vô tận, bao trùm không chỉ một thế giới khác nữa. Khoảng không gian mênh mông vô tận như thế nào, thì nỗi khổ đau cũng mênh mông vô tận như thế ấy:
Khổ chi phối cả phàm lẫn thánh. Chúng sinh ở địa ngục, ngạ quỷ, sauc sanh đã đành là khổ vo cùng, loài người vì say đắm nguc dục lạc, và tham sân, si chi phối, nên cũng quay cuồng lặn hụp trong biển khổ như còn chư thiên mặc dù không khổ như người, nhưng cũng không tránh được cái khổ vì ngũ suy tướng hiện. Cho đến các hàng thánh như Thanh Van, Duyên giác, vì còn mê pháp, trụ trước Niết Bàn, nên cũng không tránh khỏi nỗi khổ biến dịc sanh tử. Xem thế đủ biết nõi khổ thật là lớn lao vô lượng. Có được một lòng thương xót lớn lao vô lượng cân xứng với nỗi đau khổ vô lượng và có một chi nguyện cứu độ tất cả thoát khỏi nỗi đau khổ vô lượng, ấy là tâm Bi vô lượng.
Các vị Bồ Tát nhờ có lòng đại bi nên đã phát tâm bồ đề rộng lớn, thệ nguyện độ khắp tất cả. Các Ngài nhận thấy mình có sứ mạng vào trong sah tử để hóa độ chúng sinh, nên không chấp trệ ở Niết Bàn. Sứ mạng chính của các Ngài là gần gũi chúng sanh để:
Làm cho chúng sanh nhận được mặt thật của cõi đời, rõ thế nào là tà là chánh, là khổ là vui.
Làm cho chúng sanh nhận rõ được thân phận của mình mà thôi làm các điều ác, chừa các điều tội lỗi.
Xem như thế đủ biết lòng đại bi chính là động lực chánh để đi đến quả vi bỗ tát và Phật. Trong đại hội Hoa Nghiêm đức bồ tát Phổ hiền cũng tự nhận và nói như thế này: "Nhơn vì chúng sanh mà khởi lòng đại bi. Nhơn lòng đại bi mà phát tâm bồ đề. Nhơn phát tâm bồ đề tiến thành ngôi chánh giác".
Câu nói của Ngài Phổ Hiền đã rõ ràng, không còn nghi ngờ gì nữa. Phật đã dạy: "Hạt giống Bồ đề, không thể gieo trên hư không, chỉ trồng trên đát chúng sinh mà thôi". Vậy, chúng ta là Phật tử, muốn tu bồ tát hạnh, tất phải mở rộng lòng Bi, thương xót tất cả, không phân chia nhân, ngã, bỉ, thử, và phải phát nguyện độ khắp tất cả, nghĩa là phải tu luyện cho có được một lòng Bi vô lượng.
2. Từ vô lượng
Từ là mến thương và vì mến thương mà gây tạo cái vui cho người. Từ vô lượng là lòng mến thương vô cùng rộng lớn, đối với toàn thể chúng sanh, và gây tạo cho chúng sanh cái vui chân thật.
Vui của thế gian sở dĩ gọi là giả tạm, vì cái vui ấy không bền, cái vui ấy còn phiền não chi phối: khi tham, sân, si, mạn được thỏa mãn thì vui, nhưng có bao giờ những thứ dục vọng ấy có thể thỏa mãn được hoàn toàn và lâu bền đâu?
Còn vui xuất thế gian là cái vui chân thật, vì nó lâu bền, thoát ra ngoài vòng phiền não của tham, sân, si, mạn; nó không bị dục vọng chi phối. Cái vui này không ồn ào, sôi nổi nhưng vĩnh viễn nhẹ nhàng, vì là cái vui của cảnh giới giải thoát siêu phàm.
Muốn có được cái vui này, thì trước tiên phải dứt trừ cho hết các khổ do phiền não gây ra. Nếu không ngăn chặn được tham,sân, si hoành hành, thì chỉ có thẻ có được mmọt cái vui nhất thời giả dối.
Bởi thế, các vị Bồ Tát muốn ban vui cho chúng sanh, thì trước tiên phải có lòng từ bi vô lượngnhư đã nói trên, để luôn luôn răn nhắc chúng sanh đừng gây tội dìu dắt chúng sanh tránh xa những hố hầm nguy hiểm.
Qua các giai đoạn ầu tiên ấy rồi, các Ngài mới hướng dẫn chúng sanh đi lên con đường quang minh chánh đại, con đường sáng để tiến địa vị giải thoát mà hưởng cái vui vĩnh viễn. Nói mọt cách rõ ràng hơn là lòng Từ phải đi theo lòng Bi: Bi để chỉ nguyên nhân của đau khổ và khuyên bảo chúng sanh đừng gây nhân khổ; Từ để chỉ rõ phương pháp diệt khổ và được vui.
Tỷ dụ Bồ Tát muốn cho chúng sanh hưởng cảnh Niết Bàn, thì trước hết các Ngài chỉ cho biét thế nào là khổ (khổ đế) và đâu là nhơn của khổ (tập đế), sau mới chỉ cho thấy cái vui Niết Bàn như thế nào (diệt đế). Nếu chúng sanh y theo lời dạy của các Ngài mà thi hành, thì cái vui Niết Bàn sẽ xuất hiện. Như thế, động lực dạy cho chúng sanh biết khổ đế và tập đế là Bi, còn động lực dạy cho chúng sanh biết diệt và đạo đế là Từ.
Nhưng nói khỏ của chúng sanh đã là vô lượng, lòng Bi đã là vô lượng, thì lòng Từ cũng phải như thế. Muốn thành tựu tâm Từ này, Bồ Tát phải dùng đủ phương tiện để làm lợi lạc cho chúng sanh. Tựu trung có hai điểm quan trọng sau đây mà Bồ Tát không thể bỏ qua trong khi hóa độ chúng sanh là: Tùy cơ và tùy thời.
Tùy cơ: Nghãi là quan sát trình độ căn bản của chúng sanh như thế nào rồi tùy theo đó mà dạy bảo. Tâm bệnh của chúng sanh vô lượng, nên thuốc pháp của Bồ Tát cũng vô lượng. Nhưng chính vì bệnh vô lượng mà thuốc cũng vô lượng nên cho thuốc đúng với bệnh là một điều mà chỉ có các vi lương y đại tài như Hoa Đà, Biển Thước mới làm được.
Các vị bồ tát sở dĩ hóa độ được nhiều chúng sanh là nhờ, ngoài trí huệ sáng suốt, còn có một tâm Từ vô lượng, không quản khó khăn, không nagị gian nguy, một lòng kiên nhẫn vô biên như l覣242;ng kiên nhẫn của người mẹ đối với người con, quyết tâm tác thành cho con nên người mới thôi. Nếu không có được trí huệ, chí kiên nhẫn và nhất là lòng từ bi vô lượng như các vị bồ tát thì kho tránh khỏi cái nạn thối chuyển vì trần sa hoặc.
Dưới đây là một đoạn văn chương trong Kinh Hoa Nghiêm có thể chứng minh một cách hùng hồn lòng Từ vô lượng của đức Phổ hiền:
"...Hằng thuận chúng sanh là như thế nào? Nghĩa là có bao nhiêu chúng sanh ở cõi nước mười phương trong cả pháp giới, hư không giới...tôi đêù tùy thuận mà chuyển mọi thứ thừa sự, mọi cách cúng dường, như kình cha mẹ, như phụng sự sư trưởng và A La Hán cho đến bực như lai đều đồng không khác. Với kẻ bịnh khổ thì làm lương y cho họ, với kẻ lạc đường, chỉ lối thẳng cho họ, với kẻ trong đêm tối, làm cho họ được sáng lên và với ke nghèo cùng, khiến cho họ được gặp của...Bồ Tát làm lợi ích bình đẳng với tất cả chúng sanh như thế là vì bò tát nhận thấy rằng tùy thuận chúng sanh tức là tùy thuận cúng dường chư Phật nên tôn trọng thừa sự chúng sanh tức là tôn trọng thừa sự Như lai..".
Tùy thời. Tức là thích ứng với thời đại với giai đoạn mà hóa độ chúng sanh. Thời gian xoáy vần cuộc thế biến chuyển mỗi khi một khác. Thời tiết có khi mưa, khi nắng, thay đổi theo bốn mùa, thì lòng người cũng có khi thích cái này khi ưa cái khác. Nếu phương pháp hóa độ không biến chuyển, không thay đổi để cho thích nghi với hàon cảnh, với giai đoạn thì phương pháp dù hay ho bao nhiêu, cũng chẳng thu được kết quả gì tốt đẹp. Bồ Tát hiểu rõ như thế, nên khi dạy chúng sanh cũng phải theo thời thế, biết khi nào là tượng pháp, khi nào mạt pháp để cho giáo pháp được thích hợp với căn cơ.
Tóm lại, muốn hóa độ chúng sanh một cách có hiệu qủa thì Bồ Tát bao giờ cũng không quên hai điều chính là tùy cơ và tùy thời. Kinh "Tâm Địa Quán" cũng có dạy:
" Các đức Phật chuyển pháp luân, vẫn tùy cơ mà nói pháp, bao giờ cũng tránh bốn điều sai lạc; một là nói không phải chỗ; hai là nói không phải thời; ba là nói không phải là căn cơ; bốn là nói không phải pháp".
Bởi những lẽ trên nên Bồ Tát trong lúc hóa độ khi thì hiện thân, khi thì ẩn thân lúc làm thuận hạnh, lúc lại nghịch hạnh, khi dùng oai dũng, lúc lại Từ hòa. Công hạnh của bồ tát sai khác nhiều đến vô lượng, nhưng chỉ phát sinh từ một ý duy nhất là tạo cái vui chân thật cho chúng sanh.
Nên nhớ "tạo cái vui chân thật" ở đây, không có nghĩa là tạo ra cảnh giới thiên đàng hay cảnh giới cực lạc để cho những chúng sanh thân yêu của mình vào hưởng, như người ta ban phép lạ, mà chỉ có nghĩa là tạo cho chúng sanh cái mầm an vui chân thật bằng cách thức tỉnh dắt dẫn chúng sinh tránh các điều dữ làm các điều lành một cách tích cực mạnh mẽ, cho đến khi cái mầm vui, nhưò các hành động lành ấy mà kết quả vui mới thôi.
Đấy, lòng Từ vô lượng là thế. Như trên đã nói Từ phải đi theo với B. Nếu chỉ có Bi không, thì đại nguyện của Bồ tát chưa thành, vì mới chỉ cứu hkổ, chứ chưa ban vui. Chúng ta là Phật tử, muốn tu hạnh Bồ Tát phải luyện tập cho lòng Từ mở rộng, mở rộng mãi cho đến vô lượng vô biên.
3. Hỷ vô lượng
Hỷ là gì? Nói cho đúng là tùy hỷ, nghĩa là "vui theo". "Vui theo" có nhiều cách:
Phóng tâm vui theo những cảnh trần: nào sắc, nào thanh, nào hương, nào vị, nào xúc, nào pháp..để mặc cho nó làm chủ, không biết phản giác, không biết tỉnh ngộ mà dẹp trừ những hiện hành phiền não, ấy là vui theo dục vọng, theo thói quen phóng túng của lòng phàm.
Vui theo ác nghiệp, như khi thấy một người sát sanh, uống rượu, trộm cướp..đáng lẽ ta nên khuyên can mà lại không, còn bằng lòng theo họ đi vào con đường ác. Sự vui theo ở đây có nghĩa là khuyến khích đồng lỏa với kẻ ác vậy.
Vui theo những việc nhưon từ phước thiện, như khi thấy người đem của ra bố thí, lập nhà thương, ta tán thành, gíup đỡ vui theo với công việc của họ.Sự vui theo này là một bước tiến đi đến con đường thiện nghiệp. Tuy thế, ta nên phân biệt hai trường hợp tốt sẽ được nhiều phước báo, còn nếu không vì lòng thiện, nhưng vì thấy người làm thiện được người ta ca tụng, danh tiếng vang lừng mà mình cùng hùa theo tán thành, giúp đỡ để được tiếng khen lây, thì không khéo chỉ gây thêm ngã ái ngã mạn.
Khác với những lối vui trên, là những lối vui tầm thường của thế gian, hàng Nhị thừa chỉ vui theo cảnh giới Niết Bàn tịch tịnh. Thứ vui theo này, tuy không có tánh cách trụy lạc ác độc, nhưng theo chánh giáo, thì cũng còn hẹp hòi, thiếu lòng Từ bi rộng rãi và chưa phải đúng nghĩa "hỷ" vô lượng tâm. Đức Phật còn quở đó là cái vui "Khôi thân diệt trí" hay "thu tịch Niết Bàn".
Chỉ có sự "vui theo" sau đây của Bồ Tát mới đúng với nghĩa tâm Hỷ vô lượng.
Trong khi thật hành phương tiện Từ bi để độ sinh và sau khi công hạnh này được kết quả, nhận thấy chúng sinh hết khổ, hưởng vui, tâm của Bồ Tát tự nhiên cũng vui theo. Trong luận Đại Thừa Trang nghiêm Ngài Trần Na Bồ Tát dạy rằng: "Sự vui này còn nhiều gấp bội sự vui của chúng sinh được hưởng". Bồ tát còn xác nhận rằng:"Nếu làm chúng sinh được vui, tức làm cho tất cả chư Phật được vui mừng". Đó là lời nói của đức Phổ Hiền.
Nên nhớ cái "Hỷ" của bồ tát có những đặc điểm sau đây:
Chẳng những không làm cho chúng sinh mê lầm mà còn giác ngộ cái mê và được giải thoát.
Không còn bị buộc trong vòng vui tự đắc làm tăng trưởng ngã mạn, chấp trước ở thế gian, mà trái lại, làm cho chúng sinh xuất thế.
Thoát ra khỏi phạm vi tư lợi mà phổ biến và bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Tóm lại, sự vui ở đây bắt nguồn từ lòng Từ bi mà phát ra. Lòng Từ bi rộng lớn bao nhiêu thì cái "hỷ" này cũng rộng ớn như thế.
Chúng ta là Phật tử, tu hạnh Bồ tát, chúng ta phải tập cho được cái vui trong sạch, giải thoát của các vị bồ tát, chứ đừng quay cuồng theo cái vui nhiễm ô ích kỷ, hẹp hòi của phàm phu hay hàng Nhị thừa.
4. Xả vô lượng
Xả là cái gì? Xả là bỏ, không chấp không kể.
Thói thường, khi chúng ta làm điều gì, nhất là khi được két quả tốt, thia hay tự hào, đắc chí đôi khi ngạo nghể kho chịu. Sự bất bình, cãi vả xung đột giữa bạn bè thân thuộc hay giữa nhóm này và nhóm khác cũng do tánh chấp trước. tự cho là quan trọng ấy. Nguyên nhân của tánh nầy là do sự chấp ngã, chấp pháp mà ra.
Phàm phu thì vừa thấy có mình làm (chấp ngã) vừa thấy có công việc kết quả mình đạt được (chấp pháp) nên cứ bị trói buộc trong cái giới hạn phân chia nhân nãg, bỉ thử và do đó, không bao giờ thoát được cảnh giới phàm phu.
Còn hàng Nhị thừa tuy đã xả được chấp ngã, nhưng chưa xả được chấp pháp. Sau khi nhờ tu tập, các Ngài thoát ly được tam giới chứng được quả Hữu dư y Niết Bàn, các Ngài coi như đó là phần thưởng xứng đáng của bao công phu tu tập và yên trí nơi cảnh giới sở đắc ấy. Do đó, hàng Nhọ thừa vẫn còn bị biế dịch sanh tử.
Chỉ có các vị bồ tát là những bậc chừn được pháp không, nên đã ly khai quan niệm pháp chấp. Khi các Ngài ra công cứu khổ cho chúng sinh, thì đó là một sự cảm ứng tự nhiên, giữa các Ngài với chúng sinh, các Ngài dùng trí hoàn toàn vô phân biệt để được bình đẳng phổ biến theo đồng thể đại bi.
Chúng sinh có hưởng được vui chăng, Bồ tát không thấy mình là kẻ ân nhân chủ động. Trai lại, các Ngài còn thấy chúng sinh là ân nhân của mình trên bước đường lợi tha tiến đến công hạnh viên mãn. Bởi thê, lòng Từ, lòng Bi của Bồ Tát thoát khỏi vòng ái kiến và trụ trước, túc là xả vậy. Đến như lòng "Hỷ" cũng thế, Bồ Tát vui lòng từ bi, thấy chúng sinh được vui chứ không phải lối vui tự đắc, vui vì thàh thật tán thán công đức chung cùng chư Phật, chư Bồ tát và chúng sinh, chứ không phải vui vì dắm miếng riêng tư. Cho nên tâm tùy hỷ đây cũng hoàn toàn giải thoát, nghĩa là cũng thanh tịnh trên tinh thần "Xả".
Như vậy, Xả là một tâmlượng quảng đại cao cả. ở đó, không kiến lập một tướng nào. Ke fần Ngài xa đeù bình đẳng, kẻ trí người ngu vẫn như nhau, mình và người không khác; làm tất cả mà thấy như không làm gì cả; nói mà thấy mình có nói gì cả, chứng mà không thấy mình có chứng và quả gì được.Cho nên trong kinh Tú thập nhị chương có chép "Niệm mà không chấp nơi niệm mới là niệm, hành mà không chấp nơi hành là hành, nói mà không chấp nơi nói mới là nói, tu mà không chấp nơi tu mới là tu. Lý hội nghĩa ấy là gần đạo, mê mờ không rõ là xa đạo".
Làm như thế tức là Xả: Xả hết tất cả mới thật là Bồ tát. Nếu còn chấp một tướng gì, dù nhỏ nhặt bao nhiêu cũng chưa phải là Bồ tát. Hãy nghe trong kinh Kim Cang Phật dạy ông Tu Bồ Đề. "Này ông Tu Bồ Đề, nếu có vị Bồ Tát còn tướng ngã, tướng nhưon, tướng chúng sinh, tướng thọ giả, tức chẳng phải là Bồ Tát".
Ý nghĩa chữ Xả đã rõ ràng. Bây giờ chúng ta chỉ còn cố gắng tu tập dần dần cho được cái tâm xả ấy. Thành tựu được cái Xả một cách hoàn toàn cái Xả vô lượng tức là chứng quả Bồ đề.
III. SỰ ĐỐI TRỊ CỦA BỐN MÓN TÂM VÔ LƯỢNG
Bốn món tâm vô lượng là bốn trạng thái của Tâm Bồ Tát, nhưng đó cũng là bốn pháp tu của những Phật tử tu hạnh Bồ tát.
Trong mỗi con người đều có hai xu hướng: xu hướng thiện và xu hướng ác. Hai xu hướng này cứ xung đột nhau luôn: hễ thiện thắng thì ác lùi, hễ ác thắng thì hiện lùi.
Khi lòng Giận hừng hẩy, thì tâm Bi bị lấn.
Khi lòng sân bừng dậy, thì tâm Từ bị che khuất.
Khi Ưu não dẫy đầy, thì tâm Hỷ không phát hiện.
Khi lòng Ái dục còn nặng nề, thì tâm xả không sanh.
Trái lại, khi tâm Bi lớn mạnh, thì lòng Hận phải yếu mòn.
Khi tâm từ lan rộng, thì lòng sân phải lùi.
Khi tâm hỷ bừng lên, thì lòng Ưu não phải dẹp xuống.
Sự chiến đấu với phiền não cũng như sự chiến đấu với giặc cướp, phải tiếp tục mãi cho đến khi toàn thắng mới dừng lại. Nếu chúng ta mới chiến thắng vài ba trận đã vội thỏa mãn và dừng nghỉ, thì giặp cướp sẽ tai phát và hoành hành trở lại.
Cũng thế, trong trận chiến đấu của Từ, Bi, Hỷ, Xat chống sân, hận, ưu, dục chúng ta phải tiếp tục thi hành cho đến toàn thắng, gnĩa là Bành trướng các đức từ, bi hỷ, xả cho đến vô cùng tận để sân, hận, ưu, dục hoàn toàn bị tiêu diệt mới thôi. Một khi bóng tối đang còn, là vì ánh sáng chưa mạnh, muốn bóng tối hoàn toàn tiêu tan, thì ánh sáng phải đủ sức chiếu soi cùng khắp. Khi từ bi, hỷ xả, đã trở thành vô lượng thì phiền não sẽ không còn và hành giả đạt đến quả vị Bồ tát. Đó là ý nghĩa "phiến não tức là Bồ đề" mà Ngài Bồ tát Trần Na đã dạy trong Luận Đại Thừa Trang nghiêm.
C. KẾT LUẬN
Chúng ta thướng nghe quen tai và nói quen miệng bốn tiếng "từ bi hỷ xả". Những chính vì "quen" quá mà chúng ta không để ý phân tách ý nghĩa sâu xa của nó. Bốn đức tánh ấy có một sự tương quan mật thiết và bổ túc cho nhau, thiêu một không được:
Vì thấy chúng sinh vô cùng khổ sở, nên thương xót chúng sinh. Vì thương xót chúng sinh nên ra tay cứu chúng sinh khỏi khổ (Bi). Cứu chúng sinh khỏi khổ cũng chưa phải làm xong nhiệm vụ của tình thương, nên cần phải tiếp tục làm cho chúng sinh được vui (Từ). Khi chúng sinh hết khổ được vui, mình mới vui được (Hỷ). Nhưng nếu cái vui này mà còn vướng ngã mạn, tụ đắc vì tự cho mình đã thành tựu những công hạnh lớn lao, thì cái vui ấy trở thành ái dục, dơ bẩn nặng nề, kéo hành giả xuống hàng phàm phu. Vậy cái vui ấy cần phải là một thứ vui trong sạch, hoàn toàn xa lìa các thứ chấp trước như nhân, ngã, bỉ, thử, chúng sinh, Bồ tát...(Xả).
Đó là về phần phẩm, còn nói về phần lượng thì bốn đức tánh này cần phải rộng lớn vô cùng, hay nói theo danh từ thường dùng, là phải vô lượng. Có vô lượng mới đủ sức cứu độ chúng sinh cũng nhiều vô lượng. Có vô lượng mới lấn át tất cả những phiền não và không cho chúng có đất sống để tái phát và nhiễu loạn.
Đó là hành tướng và ý nghĩa của bốn món Tâm vô lượng, hay của bốn đức: Đại từ, Đại bi, Đại hỷ, Đại xả, mà chúng ta thường tán thán mỗi khi niệm các danh hiệu Bồ tát hay Phật.
Phải công nhận rằng có được bốn món Tâm vô lượng không phải là dễ, mặc dù bốn đức ấy đã nămg sẵn trong bản tánh thanh tịnh của chúng sinh. Nhưng cùng đừng thấy khó mà lại chùn chân, lùi bước. Có công việc gì được thành công lớn lao, rực rỡ mà dễ dàng đâu?
Yếu tó quan trọng gíup cho sự thành công là sự quyết tam và lòng kiên nhẫn. Người tu hành cũng như kẻ trèo núi. Đừng thấy núi cao mà nản chí, sơn lòng. Trước tiên phải lập chí quyết trèo lên trên cho đến chót núi, rồi sau đó tuần tự kiên nhãn bước từng bước một, đừng hấp tấp và cũng đừng trễ nải thì một ngày kia thế nào cũng đặt chân lên được chót núi cao.
Người tu hành cũng vậy, hãy phát bốn lời thệ nguyện lớn, ròi cứ tuận tự, kiên nhẫn, mà tu tập theo những pháp môn Phật đã chế cho đến khi thành tựu mới thôi.
cho mình có ý kiến nhỏ với PHANQUAN nhé,bây giờ không cần phải giải tràng lang dài dòng thế đâu tùy theo đối tượng bạn à, đối với VOTHUONG thì dư biết chổ nầy rồi,còn đối với người khác nếu thấy cần chúng ta chỉ cần vài ý thì có thể phá được chổ mê của đối tượng nếu đối tượng là người quyết tâm học phật,còn nếu đối tượng đi lòng vòng tìm hương hoa thì chúng ta có thể mất thời gian,thị do phi mà có phi do thị mà sanh thị phi nương nhau mà tồn tại ,có nhửng cái ở người kia thì rất cần còn ở người nầy thì có thể không cần ,không khéo còn cải lộn đó,ha ha có mổi một ông cha mà tùy theo trình độ hiểu biết và tưởng tượng của từng đứa con mà mổi đứa nó suy diển mổi kiểu phải không ,kiểu nào củng đúng nếu chỉ cần nói trong mấy đứa có đứa nào đo đúng thì tranh cải ngay,vì vậy đạo chỉ cảm thông không thể nghỉ bàn, chúng ta nói là nói cái tương đối để còn có chổ chấp nhận,còn nếu luận chổ tuyện đối thì chả có gì nói, vì thế PQ,đừng đem muối bỏ biển ,không khéo mình và họ cùng sinh tâm thì mất đức,vì chúng ta đang thực hiện nhân quả đó ,chào ông bạn của tôi,,,,,,
----nếu là chim tôi sẻ làm loài bồ câu trắng
----nếu là mây tôi sẻ làm một vần mây ấm
----nếu là hoa tôi sẻ làm một đóa hướng dương
----nếu là người tôi sẻ chết cho quê hương,,,,,,,,,,,,,