https://www.youtube.com/watch?v=lxXd...eMNS5E&index=3
观音灵感歌
QUÁN-ÂM LINH-CẢM CA
( https://mp3.zing.vn/bai-hat/Quan-Am-.../ZW6W980D.html )
Printable View
https://www.youtube.com/watch?v=lxXd...eMNS5E&index=3
观音灵感歌
QUÁN-ÂM LINH-CẢM CA
( https://mp3.zing.vn/bai-hat/Quan-Am-.../ZW6W980D.html )
@真言曰:
娑婆離婆帝.救阿救阿帝.陁羅尼 .尼阿囉帝.揭帝羅尼帝.菩薩娑婆 .
http://www.i-part.com.tw/diary/diary...1976602&d=1444
TADYATHA OM ANALE ANALE KHASAME KHASAME BHAYRE BHAYRE SAUMA SAUME SARVA BUDDHA ADISHTANA ADISHTITE SOHA OM SARVA TATHAGATHA USHNISHA SITATATPUTA HUM PHAT HUM MAMA HUM NI SOHA
ALL POSTS TAGGED TADYATHA OM ANALE ANALE KHASAME KHASAME BHAYRE BHAYRE SAUMA SAUME SARVA BUDDHA ADISHTANA ADISHTITE SOHA OM SARVA TATHAGATHA USHNISHA SITATATPUTA HUM PHAT HUM MAMA HUM NI SOHA
CHANT – A – MANTRA (9): ESSENTIAL MANTRAS TO CHANT FOR EACH OF THE 12 CHINESE ANIMAL ZODIAC SIGN BASE ON THE BAZI CHART, 24 MOUNTAIN STARS AND FLYING STARS FORMULA OF THE 2017 YEAR OF THE FIRE ROOSTER!
PUBLISHED ENERO 26, 2017 BY JPTAN2012
In the following posts:
2017 Year of the Fire Rooster Feng Shui Forecast Base on Bazi, Flying Star, and 24 Mountain Stars Formula: A Balanced Chart But Conflicting Year (Part 1)
2017 Year of the Fire Rooster Feng Shui Forecast Base on Bazi Chart, Flying Stars Formula, and 24 Mountain Stars Formula: A Balance Chart But A Conflicting Year! (Part 2)
2017 Year of the Fire Rooster Feng Shui Forecast for the 12 Chinese Animal Zodiac Signs (Chinese Horoscope)!
I wrote about the year’s forecast and the essential cures for each of the 12 Chinese Animal Zodiac. You will notice that each of the signs has different kind of luck and different kind of cures or enhancers that they need. However, due to some of the effects of the year’s energies base on the Bazi Chart / Paht Chee Chart there is some cures or enhancers that we all need. I’m specifically talking about the wearing of a citrine bracelet, a gold pendant image of Ksitigarbha Bodhisattva (also called Earth Store Bodhisattva or Di Zhang Wang Pu Sa)!
A lot of my readers have been asking also as to what are the essential mantras to chant this year. Last year, it was the OM VAJRASATTVA HUM and OM VAJRAPANI HUM. This year it will be extremely helpful if we can all chant OM AH KSITIGARBHA THALENG HUM everyday. However, I would like to share with you also some specific mantras for each Chinese Animal Zodiac that you can chant. Some of you will have more than one.
RAT:
OM MAITRI MAHA MAITRI MAITREYA SOHA
OX:
NAMO RAN DENG FO
The 20 and 56 – year – old Ox should additionally chant the mantra of the Red Dzambhala: OM DZAMBHAL DZALIN DRAYE DHANAM MEDIHI HRIH DAKINI DZAMBHALA SAMBHARA SOHA
TIGER:
NAMO WU PIAN SHEN DRU LAY (pronounced as Lie)
RABBIT:
OM AH HUM VAJRA GURU PADME SIDHI HUM
DRAGON:
OM MUNI MUNI MAHA MUNI YE SOHA
SNAKE:
OM TARE TUTTARE TURE SOHA
HORSE:
OM VAJRAPANI HUM
OM AH HUM HO HAM KSHAMALA VARAYA HUM PHAT
NAMO QIE LAN PUSA
OM AMI DEWA HRIH
OM MANI PADME HUM
SHEEP:
OM AMI DEWA HRIH
OM VAJRAPANI HUM
OM AH HUM HO HAM KSHAMALA VARAYA HUM PHAT
MONKEY:
OM VAJRAPANI HUM
OM DZAMBHALA DZALIN DRAYE SOHA
ROOSTER:
NAMO SAPTANAM SAMYAKSAM BUDDHA KOTINAM TADYATHA OM CHALE CHULE CHUNDI SOHA
OM VAJRASATTVA HUM
DOG:
TADYATHA OM ANALE ANALE KHASAME KHASAME BHAYRE BHAYRE SAUMA SAUME SARVA BUDDHA ADISHTHANA ADISHTITE SOHA OM SARVA TATHAGATHA USHNISHA SITATAPUTRA HUM PHAT HUM MAMA HUM NI SOHA
TADYATHA OM BHEKANDZYE BHEKANDZYE MAHA BHKENANDZYE RADZA SAMUGATE SOHA
PIG:
HUM VAJRA PHAT OM VAJRA CHANDA MAHA RO KHA NA HUM PHAT
TADYATHA OM BHEKANDZYE BHEKANDZYE MAHA BHEKANDZYE RADZA SAMUGATE SOHA
https://sanaakosirickylee.wordpress....a-hum-ni-soha/
https://cf.shopee.tw/file/c325b41280...8beefb0874d44c https://i.imgur.com/LAoP0iO.jpg https://i.imgur.com/agM9F8I.jpg
拜拜安土地真言神咒供奉土地拜土地 紙增福增財助運祈福燒紙咒輪紙
https://i.imgur.com/x8h1Z95.png
https://i.imgur.com/jXqlbk4.png
http://www.mediafire.com/file/eoyabg...4_148.pdf/file
=====================
14/ CHÚ ĐẠI LUÂN VƯƠNG HỘ THÂN :
( Ôm Sri zim – Ôm Brum ) – 21 lần.
Bắt ấn thâu và thổi vào sau khi đọc :
( Chư Phật hiện thân Dã la Thần – Hô la Thần – Niệm chân ngôn –Thiên biến quỷ ly thân – Thân ly sàng – Sàng ly bệnh – Bệnh ly Thân – Nhất thiết tai ương hóavi trần ).
https://i.imgur.com/kYaASY3.jpg https://i.imgur.com/SirzBdF.jpg https://3.bp.blogspot.com/-_ZRig9goQ...B/s1600/25.jpg
https://dienbatnblog.blogspot.com/20...ong-phong.html
===========================
Án sỉ lâm bộ lâm. Án chư Phật hiện thân Giá la Thần, Hộ la Thần, niệm Phật nhứt thiên vạn biến, quỷ ly thân, thân ly sàng, bịnh ly thân, nhứt thiết tai ương hóa vi trần.
KIM CANG SƠN.
Nam mô Quan thế Âm Bồ Tát.
Án sỉ lâm án bộ lâm, đẳng Phật hiện thân, Giá na Thần, Hộ la Thần, niệm Phật nhất thiên biến, quỷ ly thân, thân ly sàng, bịnh ly thân, nhứt thiết tà ma hóa vi trần.
http://buuphaplienhoa.blogspot.com/2...on-su-o0o.html
=======
Án xỉ lâm án bộ lâm Án chư Phật hiện toàn thân giá la thần hộ la thần. Niệm Phật nhứt thiên vạn biến quỉ ly thân, thân ly sàng, bịnh ly thân nhứt thiết tà ma hóa vi trần.....
-
Kim Cang Sơn Kinh
Nam mô Quan Thế Âm bồ tát
Án xỉ lâm Án bộ lâm. Đẳng phật hiện thân giá la thần hộ la thần.
Niệm Phật nhứt thiên vạn biến, quỉ ly thân, thân ly sàng bịnh ly thân, nhứt thiết tà ma hóa vi trần......
http://tuanhieunghia.blogspot.com/20...uong-kinh.html
=======
駕罗神, 護罗神 / 駕羅神, 護羅神
===>>> GIÁ-LA-THẦN, HỘ-LA-THẦN
http://ishare.iask.sina.com.cn/f/31lbRyBvUlS.html
變食真言:
南無薩縛怛他 誐哆。 縛嚕枳帝。 唵。三跋囉三跋囉 吽(三遍)
MANTRA FOR TRANSFORMING FOOD:
NA MWO SA WA DAN TWO YE DWO WA LU JR DI NAN SAN BWO LA SAN BWO LA HUNG (3X)
Biến Thực Chân Ngôn:
Nam mô tát phạ đát tha, Nga đa Phạ lồ chỉ đế. Án Tam bạt ra, tam bạt ra Hồng (3X)
https://www.pinterest.com/pin/660903.../?d=t&mt=login / http://thegioivohinh.com/diendan/sho...%C3%A3/page117
變食真言:
南無薩縛怛他 誐哆。 縛嚕枳帝。 唵。三跋囉三跋囉 吽(三遍)
MANTRA FOR TRANSFORMING FOOD:
NA MWO SA WA DAN TWO YE DWO WA LU JR DI NAN SAN BWO LA SAN BWO LA HUNG (3X)
Biến Thực Chân Ngôn:
Nam mô tát phạ đát tha, Nga đa Phạ lồ chỉ đế. Án Tam bạt ra, tam bạt ra Hồng (3X)
https://www.pinterest.com/pin/660903.../?d=t&mt=login / http://thegioivohinh.com/diendan/sho...%C3%A3/page117
變食真言:
南無薩縛怛他 誐哆。 縛嚕枳帝。 唵。三跋囉三跋囉 吽(三遍)
MANTRA FOR TRANSFORMING FOOD:
NA MWO SA WA DAN TWO YE DWO WA LU JR DI NAN SAN BWO LA SAN BWO LA HUNG (3X)
Biến Thực Chân Ngôn:
Nam mô tát phạ đát tha, Nga đa Phạ lồ chỉ đế. Án Tam bạt ra, tam bạt ra Hồng (3X)
( https://www.pinterest.com/pin/660903.../?d=t&mt=login / http://thegioivohinh.com/diendan/sho...%C3%A3/page117 / http://www.bplmonastery.org/uploads/..._thuc-edit.pdf )
关于“天罗神”等十九字
衣人曰︰爾平生誦觀世音心咒,少十 字。曰︰天羅神,地羅神,人離難, 離身,一切災殃化為塵。
http://blog.sina.com.cn/s/blog_598808180102xk6z.html
http://61.158.180.215:82/Data3/2019%...6%B4%A3%A9.pdf
http://buddha.goodweb.net.cn/music/z.../page06_28.asp
http://www.chibs.edu.tw/ch_html/chbj/08/chbj0806.htm
https://w2091125.pixnet.net/blog/pos...A%A6-%E7%AF%87
http://enlight.lib.ntu.edu.tw/FULLTE...j093387140.pdf
-
吾印象最深者,乃‘天罗神,地罗神 人离难,难离身,一切灾殃化为尘’ 句,文字循环上口,一见就知其伪也 。然每考其出处,遍查大藏,不见其 影,不知何时增入咒文之中。二千年 月,吾购得清 俞樾茶香室丛钞,偶读之,见卷十三 音心咒载:‘宋王巩闻见近录云:全 推母王氏,日诵十句观音心咒。年四 十九,疾笃,恍然见青衣人曰:“尔平生诵观世音 咒少十九字,乃曰:天罗神,地罗神 人离难,难离身,一切灾殃化为尘。 ”王疾寻愈,后至七十九。按此十九字 至今犹有持诵之者。’故此当为‘十 字’之由来也。
http://www.xuefo.net/nr/article56/555895.html
====
然后念咒:“天罗神。
http://www.whealeya.com/jiagepaixing/34937794.htm
===
此咒最早見於法苑珠林卷第六十咒術 第六十八雜咒部第七,有觀世音菩薩 隨願陀羅尼咒,云:‘南無觀世音菩 薩,坦提咃,呿羅婆多,呿羅婆多, 呵婆多,伽婆多,伽筏多,莎訶。’ 云:‘行此法者,應須潔淨三業,在 於淨(靜)處,佛堂塔院,專精禮拜。繞 塔誦是陀羅尼,滿一萬二千遍,當見 世音菩薩,一切所願隨意皆得也。’ 其咒文梵音,與白衣大士神咒略同, 且亦云‘滿一萬二千遍’,所願皆得 故白衣大士神咒當源出於此。法苑珠 成書於唐,故知此咒於唐之前,即已 流行。
吾印象最深者,乃‘天羅神,地羅神 人離難,難離身,一切災殃化為塵’ 句,文字循環上口,一見就知其偽也 。然每考其出處,遍查大藏,不見其 影,不知何時增入咒文之中。二千年 月,吾購得清俞樾茶香室叢鈔,偶讀 之,見卷十三觀音心咒載:‘宋王鞏聞 近錄云:全州推母王氏,日誦十句觀 心咒。年四十九,疾篤,恍然見青衣 人曰:“爾平生誦觀世音心咒少十九字,乃 :天羅神,地羅神,人離難,難離身 一切災殃化為塵。”王疾尋愈,後至 七十九。按此十九字,至今猶有持誦 者。’故此當為‘十九字’之由來也
http://nianjue.org/article/56/555895.html
===
现在流传的白衣观音经后面有:“天 神,地罗神,人离难,难离身,一切 殃化为尘。十九个字。”所以有人一 看这些字就认为是伪经。其实这几句 是有来历的。在清朝人俞樾写的《茶 室丛钞》中卷十三观音心咒有记载, 说宋朝王巩闻见近录云:全州推母王 ,日诵十句观音心咒。年四十九,疾 ,恍然见青衣人曰:“尔平生诵观世音心咒少十九字,乃 :天罗神,地罗神,人离难,难离身 一切灾殃化为尘。”王疾寻愈,后至七十九。按此十九字 至今犹有持诵之者。’故此当为‘十 字’之由来也。
https://www.douban.com/note/625124322/
=======
四 白衣大士神咒
南无大慈大悲救苦救难广大灵感观世 菩萨 (三称三拜)
南无佛。南无法。南无僧。南无救苦 难观世音菩萨。怛垤哆。唵。伽啰伐 。伽啰伐哆。伽诃伐哆。啰伽伐哆。 啰伽伐哆。娑婆诃。天罗神。地罗神 人离难。难离身。一切灾殃化为尘。 无摩诃般若波罗蜜。
【注】 白衣大士即身着白衣的观音菩萨,亦 “白衣观音”、“大白衣”等。此咒 自1915年万钧居士所编《观音灵异纪 一书。关于此咒出处,据中国佛教协 《法音》编辑部编辑、中国佛教文化 研究所特约研究员王孺童说:“此咒 早见于《法苑珠林》卷第六十《咒术 》第六十八《杂咒部》第七,有《观 世音菩萨说随愿陀罗尼咒》……考其 文梵音,与白衣大士神咒略同,且亦 ‘满一万二千遍’,所愿皆得,故白 衣大士神咒当源出于此。《法苑珠林 成书于唐,故知此咒于唐之前,即已 行。”关于“天罗神”等十九字,据 《观音灵异纪》记载,为宋时梦授加 。
https://freewechat.com/a/MzAwMzM4NTI2NQ==/2665580523/3
========
千年灵咒:白衣大士神咒研究与观音 授之洗眼咒 此博文包含图片 (2018-08-18 07:50:46)转载▼
标签: 白衣大士神咒 洗眼咒 分类: 修法仪轨
千年灵咒:白衣大士神咒研究与观音 授之洗眼咒
百岁老人的秘密
南怀谨先生在《二十一世纪初的前言 语》曾讲到:
譬如中国人很流行的一个咒语,就是 世音菩萨传出来的“白衣咒”,你们 在大概都不留意,像我的母亲活一百 岁,她一辈子念这个咒。
我十九岁离开她,后来就没有见过面 我对她很歉然。但是她很放心,她知 我在外面做些什么,在这个大风浪、 变乱当中,她一切非常放心。
她悄悄告诉孩子们,我在外面干什么 她都清楚。
后来她一百岁了,临死以前告诉一个 子,她说你不知道的,我夜里睡觉, 中有个很威严的天人,有胡子,他会 告诉我,你儿子在外面做什么,所以 很清楚,一点都不怕。
你看抗战八年,都没有消息啊!我们 边也沦陷了,不能通信啊,不知道生 存亡。
后来国内变化,我到台湾,三十六年 没有通信啊,但她很放心,为什么?
她念“白衣咒”。这个秘密,我的孩 告诉我,祖母对你怎么样都很清楚、 有信心呢!
我说我懂了,我母亲原来不认识字的 我小的时候读书会认得字,她学“白 咒”的时候还问我这个字读什么?我 告诉她这样,这样……
那么这个咒语很普通,大家现在不重 它,但威力很大,我念给你们听,你 可以记录下来:
南无大慈大悲救苦救难广大灵感观世 菩萨摩诃萨。
怛侄他 唵 伽啰伐哆 伽啰伐哆 伽诃伐哆 啰伽伐哆 啰伽伐哆 娑婆诃
天罗神 地罗神 人离难 难离身 一切灾殃化为尘
南无摩诃般若般罗蜜多
这个就是“白衣咒”,我的母亲就是 这个咒语。我的太太呢?九十多岁死 ,她一生念的就是我教的一句“嗡嘛 呢呗咪吽”。
我母亲念这个“白衣咒”,白衣咒是 国很流行的,经常看到观世音菩萨, 身站在大海上,苦海上面,穿个白衣 服,非常庄严漂亮,救一切人。这是 衣咒,这也是咒语。
这个咒语很奇怪,一半有义语,有义 的,一半无义语。“南无大慈大悲救 救难广大灵感观世音菩萨摩诃萨”, 是有义语,有意思的。
然后那个咒语不懂了,无义语,“怛 他,唵,伽啰伐哆,伽啰伐哆,伽诃 哆,啰伽伐哆,啰伽伐哆,娑婆诃” ,这样三次,念完了。
下面有义语,“天罗神,地罗神,人 难,难离身,一切灾殃化为尘”,这 是有义语。最后一句也可以说是有义 语也可以说是无义语,“南无摩诃般 般罗蜜多”,念三次。
你们诸位今天难得碰到一次,我真的 里负担太重了,办这么一个活动要使 人得好处,得平安。一切的道理,总 而言之,归到一句话,你们诸位回去 途无量。
倾莲池:南怀瑾先生所讲的这个故事 蕴含着很多启发。
他的母亲一辈子修一个咒语,长寿、 康,活了一百岁,还能得到护法神的 受,告知儿子的动态。
由此我们可以深深地感受到一门深入 精修一法所散发出的光芒与力量。梦 常有一个天人来告知他,儿子如何如 何。
很明显,这是白衣大士神咒的护法神
圆满世间法之次第
在密宗的羯磨部中,如果修到见到天 、药叉护法神,或者得到他们摄受护 的地步,你会在梦中或者现实中,知 道过去未来之事。
不空罥索自在王咒的经典中,提到童 使者的成就法,当你修成了这个法之 :
“常当供养不敢轻慢咒者每欲吃饮食 。常当为彼先出食分。与彼然后自当 食必不得忘。
若如是者则得归伏。能与财物能示伏 。随所须物彼皆将来。”
不空罥索自在王咒的本尊是观世音菩 ,而对于衣食、世间事业等方面,交 童子护法神来成办。观世音菩萨充当 了赐予悉地的角色。
这种明确的分工,从杂密进入纯密之 ,更是明显。
要修这个法,有三个要素:
1、每天供养观世音菩萨的使者护法, 天也不能间断。其严格程度,和藏传 佛教的护法神类似。
2、使者护法,能够给予行者财物,你 要什么,他都可以帮你摄取过来。
掌管财富的三大部族是天人、药叉、 族,童子使者属于天人药叉,且负有 护不空罥索行者的使命,自然不会让 行者没饭吃饿死。
从侧面来说,你一本尊一护法地修, 尊修好了,天人护法神也摄受了,世 的生活、工作等是不成问题的,衣食 受用、钱财等都会充足。
我经常强调此次第,善修持者自得广 的利益。
如果你如法地修地藏-地天-吉祥天,或不空罥索观音-吉祥天-宝贤大将,世间法会繁荣兴盛。
这是必然的一种显现,因为诸天护法 是落地的法,所谓落地,就是接地气
他们的誓愿三昧耶,就是要帮助行者 决现实的问题,满足现实的需求,然 引导进入本尊的坛城中,求取解脱道 。
我每天收到不少关于生意不顺和负债 累等问题,由于太忙碌,无暇一一回 。
其实这些问题,我已经做过大篇幅地 解。解决现实问题的,核心可以是遵 本尊+天部的次第。
而在天部中,要善于供养,可以是具 的事供、理供,如常见的熏香供、火 、水供、烧供。
《不空罥索陀罗尼经》:“恒常供养 所办食供养。常自食时每常须先出食 与之。所饮之味亦先出与。必不得忘 。
又常供养其制擿迦。常自食时以诸饮 。先出食分与制擿迦。又以花香烧香 等与制擿迦。不得一日而有废忘常当 忆念。
若不尔者纵得法成不受驱使。即自隐 不能现伏。亦不为作一切事走去。”
如果不供养,即使修成了这个使者法 见到他了,他也不受你驱使,不帮你 事。
当然,这个方便说,也有例外,这个 外就是你持戒极其精严,发菩提心, 持如法,或证量高深,诸天鬼神钦服 ,自然感召他们来帮你成办。
如唐朝的道宣律师,受天人供养。又 大圆满祖师龙钦巴尊者,诸大护法神 身帮他成办事业。
其实基本的道理也不难理解,你请使 办事,请他们吃饭也是情理之中。
以他们的福报和富饶,本质上自然不 要你的供养,但是此中的密意是,通 供养这个轨则,可以磨砺你的虔诚和 发心。
同时也作为对境圆满你的布施波罗蜜
昨天一位师兄的留言:
“谢谢师兄的解惑,我想也是这样滴 修三年之约以来,心情一直很好。
我每天加念心经三遍,光明真言108遍 回向坚牢地神、本地的城隍土地神。
儿子也有事做了,月收入不菲,我家 生运势也得到很大的改善,皆因修三 之约的地藏法门。”
3、当得到护法神,诸天药叉等摄受护 之时,如不空罥索经所言——
“有所见闻皆向耳中。而来告示说之 知。终不乏少所须之物。皆令忆念前 之中所有事务。过去未来现在之事。 若其问者皆悉为说终无不实。”
童子使者会在你耳边,告诉你吉凶善 之事,有些类似中国道教的耳报法。
且他会以各种方便,令你知道你的前 、现在、未来之事。
而且,使者是观世音菩萨的眷属,绝 可能如世间的一些鬼神一般,谎言一 ,他只会说真实语。
南怀瑾的母亲修了一辈子的白衣大士 咒,在过程中,由于她的虔诚和至心 感得此咒的护法神,经过在梦中告诉 她关于儿子的情况。
说回白衣大士神咒,此咒在民间流传 广,灵感无数。
白衣观音
我有次在静坐中想探索大吉祥天女法 之秘密时,出现了白衣观音的信息; 知不空罥索自在咒之修法,则出现四 大天王的信息。
此后想起,不空罥索自在王观音的坛 四方,就有四大天王镇守。
至于白衣观音和大吉祥天女的因缘, 前无从得知。大吉祥天女主增益法, 益一切福德财富,乃大财神。
而在宋代的《佛说瑜伽大教王经》中 谈到:“若作增益法。当依宝光菩萨 衣菩萨。若作敬爱法。”
白衣菩萨,在此指的就是白衣观音。 这部经典中,以此尊为增益本尊,和 生如来、宝光菩萨合修,增益福报、 财富、受用。
同经提到白衣观音的三摩地观想法:
“复说三摩地法。时阿阇梨观想邦字 为大智。大智化成白衣菩萨。身现白 六臂三面。面各三目一切装严。
右第一手作无畏印。第二手持金刚杵 第三手持箭。左第一手持莲花。第二 持数珠。第三手持弓。
结跏趺坐观想。莲花。化佛如云满虚 界。如是观想此三摩地。是人当得最 菩提。此名莲花神通最胜佛智金刚三 摩地。”
白衣观音,六臂三面,持金刚杵,有 魔之意,又持莲花。经中还有一个称 “诸法母白衣菩萨”。
其增益法的观想,《佛说瑜伽大教王 》云:
“复次作增益法。时阿阇梨观想己身 宝生如来。身相金色广大圆满。复想 光菩萨及白衣菩萨。亦作金色以手持 宝兼执莲花。降甘露雨及雨珍宝。能 最上增益之法。”
观想白衣观音,持莲花和摩尼宝珠, 后降下甘露雨和珍宝。
这是密法中基本的增益观想法,我以 写坚牢地神和大吉祥天女的观想法中 已经提过这个修法。
而藏传的勾召福寿仪轨中,除了这个 骤,还有其他的秘观之法。
白衣观音,又为莲花部之部母。故在 密,有修观音诸法前,先修白衣观音 可助成观音法之法验悉地。
说了增益,其息灾法,非常著名,密 中常用于息除流年不利、宿曜侵害等 障。
白衣观音,常着白衣在白莲花中。白 表菩提心,意即住此白净菩提心。
故称此尊为大白衣观音、白处尊菩萨 白处观音、服白衣观音、白衣观自在 种子为邦(pam)。
密号离垢(或离苦)金刚。三昧耶形 钵昙摩花。位在密教胎藏界曼荼罗观 院第三列第七位。
其形像于各经轨所载皆不相同,若依 图胎藏界曼荼罗之记述,则其形像为 呈白黄色,着白衣。
左手持白莲花祈求息灾,右手作与愿 ,即伸出五指,掌向外而安置于腰前 结跏趺坐于赤莲花上。
另据大日经密印品记载,其印契系两 虚心合掌,二无名指屈入掌中,二拇 并屈触着二无名指;表示此尊为莲花 部之部母,能生莲花部诸尊。
又以此尊为本尊之修法,称为白衣观 法、白处尊法,用以祈请延命、息灾 。
另有一说,谓此观音有白衣、大白衣 尊,大白衣即为白处观音,白衣即为 明白寺观音,位于观音院之第一列第 六位。
相传,元代有位陶氏十六娘,是江苏 熟徐村人。她年方二十六,便失去了 夫,没有女儿,独自寡居,一心愿往 生净土,平时日日诵读《观音普门品 。
有一次她梦见一个白衣人,手持一朵 莲花给她吃。醒来后,心神大异于往 。她便开始每天面对西方,念诵《弥 陀经》。
念佛刚三年,见佛现光明,佛经的函 上有一个像子大小的火团。她怕水团 着佛经,连忙用手去扑灭。手碰到火 团,火团却变成了一颗舍利。
当她寿终弥留之际,声称看到白衣观 来迎,便含笑别众而往生。
陶十六娘念诵普门品而梦见白衣观音 赐予白莲花给她吃,这是什么?其实 先行成就,或者某种悉地之相。
在日本东密,早诵般若理趣经,晚诵 音普门品。普门品文简义丰,以文字 ,可开显重重观音法界,你念诵普门 品,会与法界中的具缘观音相应。
有的人可能梦见白衣观音,有的可能 因修普门品而见到千手观音等,不一 足,总之精诚之至,必有感通。
上次我发表过一篇文章,一位患癌症 师兄的自述,日夜念诵大悲咒,梦见 衣女人现身,带走了缠身的蛇灵。此 后他的疾病日益好转,直到痊愈。
而现在流传的白衣大士神咒,最初此 在《陀罗尼杂集》中称为观世音说随 陀罗尼。
后来为什么被称为白衣大士神咒了呢
《法苑珠林·咒术篇》里,亦收录了此 咒。
“观世音菩萨说随愿陀罗尼咒。
南无观世音菩萨 坦提咃呿罗婆多呿 婆多 伽呵婆多 伽婆多 伽筏多 诃。”
最初的原始咒,和现今流传的,有所 同。现在的是加句之后的内容。
所谓加句,就是在流传的过程中,有 德在定中,梦中得到本尊的加持引导 从而增加了咒句。
关于“天罗神”等十九字,据《观音 异纪》记载,为宋时梦授加入。
在清朝人俞樾写的《茶香室丛钞》中 十三观音心咒有记载,说宋朝王巩闻 近录云:
全州推母王氏,日诵十句观音心咒。 四十九,疾笃,恍然见青衣人曰:“ 平生诵观世音心咒少十九字,乃曰: 天罗神,地罗神,人离难,难离身, 切灾殃化为尘。”
王疾寻愈,后至七十九。按此十九字 至今犹有持诵之者。’故此当为‘十 字’之由来也。
王老太太天天诵《十句观音经》咒, 病后还非常虔诚地诵经咒。恍惚间看 一个青衣人对她说:你平时诵的观音 咒少十九个字,就是:“天罗神,地 神,人离难,难离身,一切灾殃化为 。”
王氏就加上这些字,病很快就好了。 来这十九字也被加到观世音菩萨随愿 罗尼后面而流传了下来。
印光大师谓:俗念增数句,乃祝愿之 ,有亦无碍,无亦无碍。
经过千百年的衍变和加句,如今的白 大士神咒,属于加句整合的版本,而 灵验事迹非常多。
白衣大士神咒
南無大慈大悲救苦救難廣大靈感觀世 菩薩摩訶薩 (三稱三拜)
南無佛,南無法,南無僧;南無救苦 難觀世音菩薩。
怛垤哆, 唵。 伽囉 伐哆, 伽囉 伐哆;
tadyath, o kara-varta kara-varta
伽訶伐哆; 囉伽伐哆, 囉伽伐哆, 娑婆訶。
gaha-varta, rga-varta, rga-varta,-svh.
天羅神,地羅神,人離難,
難離身, 一 切災殃化為塵。
南無摩訶般若波羅蜜。
简单地分析,白衣大士神咒,分三个 分。
1、皈依三宝和观世音菩萨。在很多的 音咒语中,这一句是必不可少的。毕 竟皈依三宝和本尊,是成就和解脱之 本。
2、梵文咒语。
3、中文句,类似祈祷语。
也可以说,是将咒语和祈祷的语句, 合了一起念。其实密法里,也有这么 的,如在咒语中,将愿望加在斯瓦哈 前,与咒语一起持诵。
4、加句般若名号的念诵。仿佛又加了 道加持力,因为般若的加持不可思议 ,帝释天曾遇到天魔时,仍遇念般若 退魔。
咒语部分,梵音的读法如下:
南无观世音菩萨
tadyath, o kara-varta kara-varta
达地呀他 嗡 嘎啦哇达 嘎啦哇达
gaha-varta, rga-varta, rga-varta,-svh.
嘎哈哇达 啦嘎哇达 啦嘎哇达 斯哇哈
经文云:行此陀罗尼法,应静处专精 拜遶塔,诵是陀罗尼万二千遍,当见 世音菩萨,一切所愿随意皆得。
绕塔达时候,念诵此咒12000遍,能见到 观世音菩萨,一切所愿满足。数量要 并不多,却能见到菩萨,从其特德来 ,法验加持迅猛。
若你真想亲见观世音菩萨证得悉地, 以去五台山等圣地,绕舍利塔念诵此 。
当然随个人因缘,能否见到随个人因 。若是精诚之至,能见到也不是不可 。
白衣大士神咒中后部分地中文句,属 息法地祈祷句,法界中,是否有护法 众摄受认可的增益、怀爱、调伏等祈 祷句?这个值得探讨和研究。
毕竟大众不仅想要息灾治病,还要增 福德资粮,满足诸愿。
古今此咒之灵验,可以说是不计其数 我发现不仅有息法,还特别增益财富 功名利禄。略摘要如下:
1、嘉兴吴门陈氏,年病无嗣,诵咒不 ,并送大士经一千二百卷,病痊生一 子,官户部侍郎。
2、满洲李汝霖赴归州,船至峡口,水 将沉,许印大士,圈一千二百张,风 息船安。
3、京都王喜行屡试不第,梦大士:“ 功名本无望,缘你虔诚诵咒,敬信三 宝,来科赐你一第。”醒,即印一千 百卷,后果中。
4、山东监察周继卿谪成和林,梦大士 传诵此咒,可以解厄。周即念一万二 千遍后,遇赦归。
5、大兴孝女李氏,父病甚危,许持此 一万二千遍,印送一千二百张,父病 即愈。
6、京都刘世隆妻孙氏,四十岁无子, 送此经千二百遍,刊送千二百张,送 遂得一子。
7、徽州许元贫苦异常,欲投江河自尽 忽见一老人曰:“你若虔诵大士咒, 福自天来。”出袖中一卷示之而去。 诵咒无怠,日后竟成富室。
8、河南王永春少年患病,自谅不寿, 日诵此咒,并常印送,后寿竟至九十 (一说:九十九)而终。
9、奉化王陈氏,年三十岁无子,店中 意清淡,夫妇忧急。有亲戚,顾姓至 伊家,说起大士咒有求必应,王即欣 从之,至今财丁二旺矣。
10、泽江俞氏,年二十八岁,遍身患疮 ,屡医无效。得此圈,诵咒一万二千 ,印送大士圈一千二百张,果然,不 日诸疮即失,真神力也。后生二子一 女,皆聪明伶俐。
11、中江张志逸,于日寇侵华期中,为 人陷害,身被囚禁,心烦意乱,欲出 得。
忽忆诵此咒可免灾祸,乃日夕持诵, 诵一万二千遍时,夜梦囚禁之狱门忽 大开。
醒后私念,认为不久或可恢复自由, 而未敢深信。六七日后,果被法院判 无罪。
尤奇者,在由检察署解送法院途中, 铐自动解脱,乃同行数十人中,唯一 此之人也。谓非佛佑而何?
12、董蕙馨,58岁时惟有一子,身体瘦 ,不能勤学上进。她就虔诚地天天为 孩子念《白衣大士神咒》。
后来孩子的身体,渐渐健康强壮起来 学业也大有进步,每年均得奖学金。 学毕业,又留学美国,得到博士学位 。
母亲蕙馨仍持咒不断。蕙馨丈夫为大 教授,堪称夫荣子贵,家门兴旺。这 是蒙观音大士默佑的灵验啊!——《 观音灵感录续编》
13、清朝浙江省钱塘,有位姓赵名叫世 珍的,妻子周氏,因为没有子嗣而到 衣殿祈祷,很虔诚诵念《白衣咒》, 印白衣大士图一万二千卷施赠,而且 真心行善事。
后来果然连生两个儿子,长子做了进 。周氏活到98岁的高寿,亲自看见五 同堂。(出《海南一勺》) ——《观音菩萨灵感录》
观世音菩萨梦授洗眼咒
台州地方有个和尚,名叫处瑫。在他 年的时候,眼睛生病,常常持诵大悲 。
有次梦见观音大士传授法偈令他每天 晨,拿清净水一杯,焚香念偈七遍, 完了拿水来洗眼睛,处瑫照这个方法 实行,眼病就痊愈了,后来活到了八 八岁。
记录这件事的人,也害眼病一个多月 有一位医师孙震元传授这个方法,实 之后,也很灵验。不敢保守秘密,谨 记于簿册上。偈曰:
救苦观世音,赐我大安乐,
与我大方便,灭我愚痴暗,
贤劫诸障碍,无明诸罪恶,
出我暗室中,使我视物光。
我今说洗法,忏眼释罪状,
普放净光明,愿睹微妙相。
此咒不仅能明目,还能增益智慧。印 大师曾经鉴定过,无锡万钧居士编集 《观音灵异纪》中记载了这首偈子及 来历,并说是引自《缪艮笔记》。
白衣大士神咒
南無大慈大悲救苦救難廣大靈感觀世 菩薩摩訶薩 (三稱三拜)
南無佛,南無法,南無僧;南無救苦 難觀世音菩薩。
tadyathā, oṃ kara-varta kara-varta
达地呀他 嗡 嘎啦哇达 嘎啦哇达
gaha-varta, rāga-varta, rāga-varta,-svāhā.
嘎哈哇达 啦嘎哇达 啦嘎哇达 斯哇哈
天羅神,地羅神,人離難,
難離身, 一 切災殃化為塵。
南無摩訶般若波羅蜜。
http://blog.sina.com.cn/s/blog_598808180102xk6z.html
https://3.bp.blogspot.com/-HuDiTEWTa...59C%2583-1.jpg
https://1.bp.blogspot.com/-vubd6hKXF...59C%2583-6.jpg
https://3.bp.blogspot.com/-EZunIWLkZ...59C%2583-7.jpg https://i.imgur.com/HdBIvis.jpg https://i.imgur.com/WeFWKo5.jpg
證達上人・阿旺德吉主持覺行寺地--大悲懺法會
https://jtseng1979.blogspot.com/2016/09/blog-post.html
https://jtseng1979.blogspot.com/2016/09/blog-post.html
Chú ý chắp hai tay, bái Phật phải dùng Bồ Đề Hợp Chƣởng,
hai lòng bàn tay không, mƣời đầu ngón tay tiếp xúc nhau giống
nhƣ hình cái trang thờ Phật. Bái Bồ Tát dùng Liên Hoa Hợp
Chƣởng, hai lòng bàn tay không, hai ngón cái tiếp xúc nhau, hai
ngón út tiếp xúc nhau, ba ngón tay còn lại không tiếp xúc làm
thành hình một hoa sen nở. Bái Kim Cƣơng Thần, dùng Kim
Cƣơng Hợp Chƣởng, cũng là hai lòng bàn tay không, mƣời ngón
tay giao nhau nhƣ hình năm cái trƣợng kim cƣơng giao nhau. Đây
là sự bất đồng trong cách chắp tay, sự bất đồng trong cách lễ bái.
https://dialinhdatviet.files.wordpre...-minh-phap.pdf
Chú ý chắp hai tay, bái Phật phải dùng Bồ Đề Hợp Chƣởng,
hai lòng bàn tay không, mƣời đầu ngón tay tiếp xúc nhau giống
nhƣ hình cái trang thờ Phật. Bái Bồ Tát dùng Liên Hoa Hợp
Chƣởng, hai lòng bàn tay không, hai ngón cái tiếp xúc nhau, hai
ngón út tiếp xúc nhau, ba ngón tay còn lại không tiếp xúc làm
thành hình một hoa sen nở. Bái Kim Cƣơng Thần, dùng Kim
Cƣơng Hợp Chƣởng, cũng là hai lòng bàn tay không, mƣời ngón
tay giao nhau nhƣ hình năm cái trƣợng kim cƣơng giao nhau. Đây
là sự bất đồng trong cách chắp tay, sự bất đồng trong cách lễ bái.
https://dialinhdatviet.files.wordpre...-minh-phap.pdf
Chú ý chắp hai tay, bái Phật phải dùng Bồ Đề Hợp Chƣởng,
hai lòng bàn tay không, mƣời đầu ngón tay tiếp xúc nhau giống
nhƣ hình cái trang thờ Phật. Bái Bồ Tát dùng Liên Hoa Hợp
Chƣởng, hai lòng bàn tay không, hai ngón cái tiếp xúc nhau, hai
ngón út tiếp xúc nhau, ba ngón tay còn lại không tiếp xúc làm
thành hình một hoa sen nở. Bái Kim Cƣơng Thần, dùng Kim
Cƣơng Hợp Chƣởng, cũng là hai lòng bàn tay không, mƣời ngón
tay giao nhau nhƣ hình năm cái trƣợng kim cƣơng giao nhau. Đây
là sự bất đồng trong cách chắp tay, sự bất đồng trong cách lễ bái.
https://dialinhdatviet.files.wordpre...-minh-phap.pdf
Lại có nghi hoặc, hỏi:
< người thế gian bây giờ, đốt giấy tiền, là sao ?>
Tôi đáp:
< Phật điển không có >
< đốt giấy tiền Phật điển không có, cần phải phế bỏ không ? >
Tôi đáp:
< đốt giấy tiền mọi người đều hiểu, rõ ràng là giả, nhưng, Phật
tượng cũng là giả, cúng hương, cúng hoa, cúng đèn, cúng trà quả
đều là giả, cái này hoàn toàn là tác dụng của tâm. Đương nhiên đốt
giấy tiền vàng bạc cũng như vậy cũng là tác dụng của tâm.>
< Liên Sanh hoạt Phật tán thành đốt giấy tiền vàng hay là không
đốt giấy tiền ? >
Tôi trả lời:
< không đốt giấy tiền, tâm có thể an, thì có thể không đốt, nếu tâm
không an, thì vẫn có thể đốt.>
< cái này ……>
Tôi nói:
< an tâm 2 chữ chỉ có như vậy thôi ! >
\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\
Nghi hoặc sau cùng là, Liên Sanh hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, tại
sao ông có thể đem hình tượng sống của bản thân mình, cho thế
nhân cúng lễ bái ?
Tôi trả lời:
60
Đấy là chúng sanh thời nay, đừng suy đoán việc này. Đem nghi
hoặc của thế gian, đồng ở trên trí tuệ của xuất thế gian.
Một con người khai ngộ, sớm đã không có sanh tử, cũng tức là
không có sanh và chết, nhục thân của tôi tuy rằng đang sống, tâm
linh đã sớm thành Phật.
Chân như Phật tánh, cũng không phải là phàm hình, bổn lai là
không tướng, dùng hình tướng của mình, chỉ cầu 1 tương ứng, và
chỉ cùng căn bản thượng sư tương ứng mà thôi.
Thật tình mà nói, hình tượng này chỉ là hiện tượng tạm thời, nhục
thân cũng sẽ già, mà hình tượng này, cũng là < tôi > thôi !
Tượng Liên Hoa đồng tử, tượng trưng người giác, người cúng
tượng tự tỉnh:
1- Nghĩ về căn bản thượng sư không ngừng.
2- Tinh tấn trì giới, tu hành không nghỉ
3- Nhiếp tâm nhất niệm bỏ ác hành thiện
4- Minh tâm kiến tánh giác ngộ thành Phật
https://dialinhdatviet.files.wordpre...thang-ngan.pdf
Chúng ta tụng “Đại Bi Chú” nên quán tƣởng nguyệt luân trong tâm
chính mình, có một chữ Phạn màu trắng “DUO LI” phóng quang
chiếu nhập trong nƣớc, tụng xong chú nƣớc này tức “Đại Bi Chú
Thủy”
Chúng ta tụng “Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà La Ni Chú”, phải quán
tƣởng nguyệt luân ở trong tâm chính mình có một chữ Phạn màu
trắng “KAN” phóng quang, chiếu khắp tất cả các chúng sanh,
chúng sanh tiếp xúc với ánh sáng, nghiêp chƣớng tiêu trừ, thân tâm
thanh lƣơng, đắc đại trí tuệ.
Chúng ta tụng “Quang Minh Chân Ngôn”, hãy quán tƣởng nguyệt
luân ở trong tâm (tim) mình có một chữ Phạn màu kim (vàng) “E”
phóng quang chiếu khắp tất cả chúng sanh, ngƣời đƣợc tiếp xúc
với ánh sáng thì đều xa lìa khổ não, hƣởng an vui. Cách tụng khác
thì suy ra. Trong Mật Giáo mà nói phóng quang gia trì là không thể
nghĩ bàn, ánh sáng từ hƣ không đến tiến vào tâm của ngƣời tu hành
lại từ chủng tự mà phóng ra để cứu độ chúng sanh, nhƣ thế tận hƣ
không giới sinh tử, lục đạo, các giống hữu tình mau mau đƣợc
thành tựu.
https://dialinhdatviet.files.wordpre...ng_tri_tue.pdf
BÍ MẬT CỦA KHUYÊN TRÒN, ĐIỂM CHẤM.
Thông thường chúng ta thấy các đệ tử học tập Mật Tông trên tay
họ thường có máy đếm số tự động. Khi họ làm công quả gia hành, thì
tính toán số lần “trì chú”, bởi vì Mật Tông có “trì minh thành tựu”.
Thượng Sư tâm chú, trăm vạn lần hoặc nhiều hơn nữa; Bản Tôn
chú, trăm vạn lần hoặc nhiều hơn nữa; Hộ Pháp chú, trăm vạn lần hoặc
nhiều hơn nữa. Trừ 3 chú căn bản trên ra, có rất nhiều người có duyên
lành với Chư Tôn chú ngữ đều đã trì tụng cả trăm lần trở lên, thì máy
đếm số tự động chính là máy cần dùng để đếm số. Ngoài ra chúng ta
cũng trông thấy ở các “thiện thư lưu thông xứ” (chỗ để những kinh sách
như kinh Phật, kinh Thánh, sách báo, vân vân, biếu không tại các chợ,
nơi công cộng), những cuốn “Bạch Y Thần Chú”, “Cao Vương Kinh”,
“Quan Âm Kinh”, “Vãng Sinh Thần Chú”, “Tôn Thắng Phật Đảnh Chú”,
“Lăng Nghiêm Chú”, vân vân, ở trang cuối cùng cuốn sách có để sẵn
một tờ giấy trắng, in trên đó những vòng tròn nhỏ. Đây cũng là những
vòng tròn để đếm số. Thông thường niệm chú, niệm kinh, niệm được
bao nhiêu lần thì xử dụng bút đỏ điểm đỏ trong vòng tròn, từng điểm,
từng điểm. Đợi đọc đến khi nào các vòng tròn điểm đỏ cả, thì gửi giao
lại cho Sư Phụ, biểu thị công khóa đã hoàn thành. Sau đó hướng lên hư
không đốt cháy (như hóa đốt giấy vàng bạc sau khi cúng), hồi hướng
vãng sanh Tịnh Thổ. Phân tán tro đốt trên sông nước, hồi hướng hóa độ
cho các loài thủy tộc (cá, ốc, sò…). Trước bàn thờ, trước khi hoá đốt,
hãy khấn cầu những nguyện vọng của mình muốn đạt thành.
Có một đệ tử tên “Liên Hoa Khiết Như”, bản thân ông ta xưa nay
vẫn bị những cơn ác mộng quấy nhiễu. Theo danh từ y học hiện đại là
“thùy miên”, phẩm chất không tốt lắm. Không những chỉ như thế,
thường thường do vì ác mộng, nửa đêm kinh hoàng tỉnh giấc, mồ hôi
ướt đẫm, chảy dầm- dề, rất khổ cực, la hét. Do ác mộng mà bị mất ngủ
mãi: bị đàn rắn cắn, bị ác quỷ dượt đuổi, bị giết toi mạng, bị chặt tay, bị
chặt chân. Các cơn mộng của Liên Hoa Khiết Như toàn là ác mộng, hung
mộng, tà mộng không giống nhau nhưng đủ loại.
Ông ta đã niệm “Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh” một nghìn
lần, cứ niệm xong 10 lần, ông lại lấy bút tô đỏ 10 vòng tròn, cộng cả
thảy đã tô đỏ 100 lần như thế, tức là 1,000 vòng đỏ (số lần đã đọc). Ông
ta tin tưởng “Cao Vương Kinh”: Năng diệt sinh tử khổ, tiêu trừ chư độc
hại, tụng đọc đủ 1,000 lần thì trọng tội đều bị tiêu diệt.
“Liên Hoa Khiết Như” đã đọc đủ 1,000 lần, tô đỏ 1,000 vòng tròn,
nhưng ông ta lại không biết xử trí tờ giấy ghi kết quả của 1,000 vòng
tròn đỏ như thế nào, lại cũng chẳng bìết phải hồi hướng thế nào?!
Trong khi đang do dự không biết phải làm sao, thì “Liên Sinh Hoạt Phật
Lư Thắng Ngạn” nhập mộng. Sư Tôn hỏi: “Có điều gì nghi hoặc?” – “Con
đã đọc đủ 1,000 lần, đã tô đỏ đủ số vòng tròn trên tờ giấy ghi kết quả,
nhưng con không biết xử lý làm sao?!” – “Anh cầu xin gì?” – “Cầu ác
mộng biến mất, đêm mộng được an lành.” Trong mộng tôi chỉ dẫn cho
Liên Hoa Khiết Như: “Bẻ gãy tờ giấy có các vòng tròn đỏ, xếp thành một
hình bát quái, ở giữa trống không, bốn phía bẻ xếp lại, xếp lại. Nếu như
làm không được, thì bẻ tờ giấy thành những hình vuông ngay ngắn nằm
chồng lên nhau, rồi đặt tờ giấy xếp vuông này vào bên trong chiếc gối
đầu (pillow) – “Gối đầu rất dơ bẩn” – “Mua cái gối mới hoặc giặt thật
sạch cái gối cũ cũng được.”
Do đó Liên Hoa Khiết Như mua một cái gối mới và đã đặt tờ giấy
ghi kết quả này vào bên trong gối mới. Từ đó đêm ngủ, ác mộng không
phát sinh nữa, anh mơ những mộng lành. Giấc ngủ mỗi đêm của anh
được cải thiện, không bị mất ngủ nữa. Nếu như nằm mộng là mộng
thấy Quan Âm, mộng thấy Tịnh thổ, mộng thấy chính mình trong trang
nghiêm, đẹp đẽ, mộng thấy chính mình cỡi mây bay lượn, mộng thấy
chính mình mua sắm lầu vàng, nhà bạc, mộng thấy chính mình đang
niệm Phật, trì chú. Trước đó mỗi khi đi ngủ anh cảm thấy rất sợ hãi, bây
giờ thì vô cùng an lạc. Tụng đọc “Cao Vương Kinh” một nghìn lần, rất có
hiệu quả.
http://kba-tx.org/files/vn/phat/ConDuongSang.pdf
Chuyện người âm dạy người dương cúng lễ
Cô Bằng vốn là "nhà ngoại cảm" với khả năng gọi hồn siêu phàm, người khác thì lại kháo cô được 'Thánh ban cho khả năng gọi vong mát tay gần 20 năm nay'.
Thực hư ra sao thì không ai biết nhưng một đồn mười, mười đồn trăm, người ta cứ ùn ùn kéo nhau đến chầu chực tối ngày ở nhà cô để đợi đến lượt gọi hồn người thân. Nhưng tất cả đó chỉ là trò che mắt thiên hạ, không biết những khuôn mặt rạc đi vì chờ đợi kia khi hiểu ra mình bị lừa sẽ nghĩ sao?
Người âm dạy người dương cúng lễ
Giờ xếp lễ ấn định từ 6h30 sáng, nhưng khi chúng tôi vừa đặt chân đến đầu thôn đã thấy kẻ đứng, người ngồi xếp thành hàng dài. Đang loay hoay chưa biết phải làm gì thì có một chị khoảng ngoài 30 tuổi đi tới, đưa chúng tôi ra đầu cổng hướng dẫn mua lễ. Tôi mua hai lễ với giá 30.000 đồng, mỗi lễ gồm một gói bánh, một thẻ hương, một gói nhỏ “tiền, vàng” rồi sang nhà cô Bằng.
Gần 20 năm hành nghề, cô cũng gây dựng cho mình một cơ ngơi gồm căn nhà 5 tầng xây kiểu biệt thự, nội thất trong nhà chủ yếu bằng gỗ đắt tiền. Một gian điện thờ được đặt vuông góc ở sân. Bên ngoài cửa điện, nhà cô cho xây một cái lán lợp mái tôn khá rộng, kê khoảng chục hàng ghế dài kiểu hội trường hợp tác xã ngày xưa.
Lúc 6h30 sáng có khoảng hơn 30 người đến đặt lễ. Mọi người xếp hàng trước cửa điện, vào bàn tự tay bày lễ vào hai cái đĩa nhựa, bỏ thêm tiền vào lễ. Tiền lễ đặt bao nhiêu là tùy tâm, nhưng thường mọi người đặt từ 30.000 - 100.000 đồng. Một bà cạnh tôi bảo: “Đặt kha khá lên thì 'cô' Bằng mới thấy vui và vong cũng về sớm hơn bình thường”. Sau khi đưa lễ vào cửa điện, có một cô gái ra nhận lễ, bày lên ban thờ giúp.
Ban thờ ở điện xây bằng gạch, bày biện khá đơn sơ, giản dị. Lễ của ai được đặt lên thì người đó quỳ khấn trước ban thờ. Có người khấn rất lâu, có người chỉ khấn một, hai phút. Tôi cũng không biết khấn gì nhiều, nên chỉ dăm bảy câu là hết, vái ba vái rồi ra ghế ngoài lán ngồi đợi...
Trong lúc chờ đợi tới giờ cô Bằng làm việc, qua tìm hiểu được biết tên đầy đủ của cô là Vũ Thị Cẩm Bằng, nhà ở thôn Thạch Lỗi (xã Thạch Lỗi, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương). Trước kia, cũng như bao người dân nơi đây, cô Bằng cũng chỉ trông vào hai vụ lúa, nhưng từ ngày Thạch Lỗi có nhiều “cô đồng” nổi lên thì cô Bằng cũng được “Thánh” ban lộc.
Bác Loan (Phú Thọ) bảo: “Như thế này là còn vắng rồi đấy cháu ạ, chứ như trước kia đông lắm, mọi người phải xếp hàng cả đêm để chờ. Cô làm việc cả ngày rất mệt, nên cô xin các "ngài" chỉ làm buổi sáng, và từ giờ 6h30 sáng cô mới cho đặt lễ đấy. Bác đến đây nhiều bác biết, ở đây đặt lễ không tuân theo bất cứ thứ tự xếp lễ nào, vì theo như cô bảo, quan trọng là khi “nối đài”, các quan dưới đó sắp đặt chứ cô không có quyền. Nhiều lần bác đến trước nhưng mãi tới trưa vong mới về, có người đến sau thì vong lại về trước”.
Đợi chừng hơn một tiếng thì cô Bằng xuống điện. cô mặc bộ quần áo nâu ngồi giữa chiếc chiếu trải trước ban thờ. Nhìn quanh một lượt rồi cô đưa tay thỉnh mấy tiếng chuông, miệng lẩm nhẩm khấn. Vì ngồi không xa mà cô lại khấn to nên tôi nghe thấy rõ tiếng cô cầu ngắn gọn thôi, chừng dăm, bảy phút: “Con lạy các quan trên Thiên đình, thần, Phật, thổ công, thổ địa cho con xin được nối đài với các vong linh” và bắt đầu “xin âm dương”, xem các “Ngài” có cho “nối đài” không.
Nếu chưa được, cô lại khấn lại bài khấn đó, rồi lại xin “âm dương”... Có lẽ phải xin đến hơn mười lần thì mới “nối đài” được, tức là “xin âm dương” thành công. cô phấn khởi reo lên “nối đài được rồi”. Mọi người đều vui vẻ, phấn chấn hẳn lên, nhưng rất trật tự, chuẩn bị tâm thế sẵn sàng để được “gặp người âm” ... cô bắt đầu cầm các tờ giấy xếp thứ tự lên đọc tên những người đi cầu và khấn tên những vong người âm, cầu được gặp...
Tất cả mọi người đều im bặt và hồi hộp chờ đợi vong nhà mình xuất hiện. Ai nấy đều tập trung cao độ vào từng động tác, cử động của “cô”. Cô nhắm mắt, che mặt bằng chiếc quạt giấy, ngồi trong tư thế thiền, lắc lư...
Một lúc sau, cô rùng mình một cái và nói theo giọng một ông già: “Gớm, sao mà lắm người thế?”. Mấy người ngồi gần cô chắc đã quen với chuyện đi gọi hồn liền cất giọng ngọt ngào nói: “Lạy vong ạ. Xin vong cho biết quý danh để người trần chúng con biết mà xưng hô cho phải phép ạ”. Bỏ qua câu hỏi của mấy chị, “vong” cất tiếng gọi “vợ chồng thằng Lâm đâu, sao ngồi xa thế, ông không trông thấy mặt”.
Từ cửa, hai vợ chồng chị nọ lật đật rẽ đám người vào ngồi cạnh cô. Một màn gặp gỡ giữa người âm và người dương diễn ra với đủ sắc thái tình cảm, lúc cười vui hớn hở, khi lại giận dữ, khóc lóc. Cuộc trò chuyện diễn ra hơn 15 phút thì “vong” bảo: “Thôi, ông đi đây”!... Và cô Bằng nhắm mắt lại, đờ đẫn, ngã ra... Mấy người ngồi gần đỡ lấy “cô”, phẩy quạt vào người... Chừng vài chục giây, cô lắc lắc đầu rồi tỉnh lại bình thường. cô lấy hai tay vuốt mặt, xoa mắt một lát, rồi cô lại bắt đầu cầm các tờ giấy đã “đăng ký” lên khấn để mời các vong khác về tiếp...
Vong tiếp theo lên là một cụ ông. Cụ xưng tên là Hoạt. Cụ gọi thằng Tốn, thằng Sửu, con Thu, con Mai, thằng Thặng, thằng Quân ... Cụ bảo: “Thằng Quân ngồi gần lại đây!”. Mấy con cháu thưa: “Đây là Quận, em của Quân”. Cụ bảo: “Ừ, sao hai anh em mày giống nhau như đúc! Cụ cứ nhầm”.
Rồi cụ bảo: “Cái Lan con nhà Quân là bị ốm bệnh trần, phải đi bác sĩ mà chữa, chứ ông bà ai lại làm hại con cháu nhà mình. Mà chúng mày cứ đi xem người ta nói lung tung, rồi cúng lễ tứ phương thì khổ mà bệnh đâu có khỏi ... Mà hôm nọ thằng Quân đem ngựa, mũ đi lễ tạ ở cái đống Găng ấy lại hóa ngựa như thế là ngựa mù, ngựa câm, ngựa điếc, ngựa què! Chúng mày có hiểu không?”. Mọi người rối rít: “Chúng con không biết, xin cụ dạy cho ạ”.
Cụ cười bảo: “Không ai dạy cho thì dốt là phải. Trước khi hóa ngựa, phải 'khai nhãn', là mở mắt ấy, hiểu chưa? Rồi 'khai nhĩ', là thông tai ấy, hiểu chưa? Rồi khai khẩu, là mồm ấy, để nó còn hý được chứ". Một người hỏi: “Thưa, khai thế nào ạ?”. Cụ lại cười, bảo: “Phải cầm nén hương, đưa vòng quanh và khấn cho mắt nó tinh, tai nó thính, miệng nó hý to, chân nó chạy khỏe ... hiểu chưa?”.
Tôi giật mình, chả nhẽ chuyện này “người âm” cũng biết được để dạy lại cho con cháu, không hiểu những ông ngựa bằng giấy ấy xuống đó sẽ chạy kiểu gì và cỏ đâu mà ăn, không lẽ cũng lại phải đốt thêm cỏ. Sau khoảng hơn chục phút thì cụ cũng đi, trước khi đi, cụ còn cất tiếng chào mọi người.
Gọi được gần chục vong thì hết thời gian, nhìn điệu bộ tôi thất thểu, một chị vỗ vai an ủi: “Cái này còn tùy thuộc vào người nhà mình em ạ. Cũng khối lần chị cũng mất mấy ngày mới gọi được các cụ lên đấy”. Tôi hỏi chị có hay đến đây nhờ cô không, chị cười bảo: “Một năm cũng vài lần, nhà cứ có việc là chị lại đến”. Tôi hỏi tiếp: “Chị thấy có đúng không?”. Chị bảo: “Cũng tùy lần em ạ, nói chung là đi để giải tỏa tâm lý thôi”.
Hết thời gian gọi vong, cô Bằng trở vào trong nhà. Hàng dài người xếp hàng lộ vẻ mặt đầy thất vọng, lục đục ra về, người thì tìm chỗ trọ, chờ đến lượt vào sáng sớm hôm sau. Cách nhà cô không xa, hàng quán phục vụ cơm nước, chỗ nghỉ đã kịp bày biện sẵn sàng phục vụ khách hàng. Từ ngày cô Bằng “nổi tiếng” gần xa, công việc kinh doanh của họ cũng phát đạt lên trông thấy nên khi hỏi về “cô”, tôi chỉ toàn nhận được những lời có cánh về khả năng gọi vong của cô. Nhưng chỉ cần đi xa một chút thì sẽ nghe được rất nhiều điều.
Ghé vào một quán nước cách xa nhà cô, thấy bộ mặt thiểu não của tôi, chị chủ quán liền hỏi: “Em đi gọi rí nhà cô Bằng về đấy à, chắc không gọi được đúng không? Nhiều người đến đây cũng chịu cảnh đấy. Có người mãi tận Lạng Sơn, Nghệ An, đường xá xa xôi ra đây không gọi được, cứ ăn trực nằm chờ trông tội lắm. Chỉ lợi mấy bà kinh doanh nhà nghỉ quanh đó thôi.
Chị ở đây chị biết, tin gì ba cái trò gọi hồn đó, chả nhẽ lại nói toạc móng heo ra thì mất đường làm ăn. Cứ sống sao cho tử tế, tốt đẹp khắc sẽ gặp may chứ hồn nào giúp mấy ông bà không làm gì mà vẫn có ăn. Dạo này vắng khách nên nhân viên nhà bà ấy cũng giảm bớt đấy, trước kia có mà hàng đống. Không biết có đúng hay không? Nhưng chị chả bao giờ đến xem. Vô tình gặp, nói còn chả ăn ai, huống hồ là ghi tên ghi tuổi ra, biết trước nhiều điều thế, tin sao nổi”.
Bí mật đằng sau trò gọi hồn
Sáng sớm hôm sau, tôi lại bắt đầu với điệp khúc quen thuộc, xếp lễ và chờ đợi. Đúng lúc cô Bằng đang xin “nối đài” đã mấy lần, xem chừng sắp được thì bỗng nhiên có một người đàn ông xồng xộc chạy vào lôi vợ ra sân, quát tháo om sòm: “Cô có biết nó lừa thế nào không? Mua một cái lễ 30.000 đồng, ăn một bát mỳ 30.000 đồng, chưa kể tiền trọ mấy ngày nay... Mỗi ngày hàng trăm người đến, người ta thu bao nhiêu tiền! Lừa bịp hết! Ngu thế hả”.
Trong khi cô vợ còn đang ngơ ngác thì anh chồng đã kịp lôi đi xềnh xệch. Thế là thay vì tập trung đợi cô Bằng nhập vong, đám đông ồn ào bình phẩm thực hư câu chuyện. Như để trấn an tinh thần mọi người, cô Bằng nói vọng ra phía ngoài sân: “Các bác tin hay không thì tuỳ, nhà cháu làm việc theo cái tâm với các Ngài thì sợ nhất là phạt. Trước đây, các Ngài phạt cháu có lần nôn ra hàng chậu máu, có lần bụng trướng lên như cái thúng, có lần phạt nặng, liệt nửa người hơn 3 tháng trời! ... Thế nhưng, cháu chịu bị phạt để còn biết đường cầu xin, sám hối, các Ngài tha cho, cũng là gánh đỡ cho mọi người thôi. Thế nhưng, nhiều người lại không hiểu”.
Nghe cô nói, đám đông thôi bàn tán. Tất cả lại chắp tay khấn xin sớm được “nối đài”. Chẳng biết tấm lòng cô Bằng “Bồ tát” đến đâu nhưng sau mấy ngày quan sát, tôi nhận thấy đích thị trò gọi hồn, gọi vong này 100% là lừa đảo. Đầu tiên, tất cả mọi người đến đều phải làm thủ tục ghi rõ họ tên, địa chỉ rồi người thân đã mất, cùng một vài thông tin quan trọng về người đó hoặc gia đình.
Cô chỉ gọi được vong vào buổi sáng. Chủ yếu là vong ở quanh quanh địa bàn cô sinh sống, còn ở ngoại tỉnh thường 2 - 3 ngày sau thì vong mới về vì còn phải xếp hàng chờ đến lượt ở điện thờ nhà cô. Trong khi gọi hồn, cô rất khéo léo liếc mắt vào đống giấy đăng ký để ngay phía trước mắt qua những khe quạt giấy.
Thi thoảng, cô lại xướng ất ơ một tên vong nào đó sau 10 phút. Trong khi nhập vong trò chuyện, đôi mắt cô vẫn rất tinh tường, chẳng có vẻ gì là được “nhập hồn” nhưng mọi người đều đang xì xụp khấn vái, dâng tiền bạc nên không ai chú ý vào những hành động kỳ lạ của cô. Ngày thứ hai trôi đi, tôi lại về tay trắng. Thấy vậy, một số người thông cảm, bày cho cách sáng hôm sau đến sớm, rỉ tai chồng cô để ông ấy nói khéo giúp cho.
Thời mới nổi, cô Bằng thực sự có khả năng gọi hồn chính xác đáng kinh ngạc nên được nhiều người biết đến và tin tưởng. Nhưng chỉ sau đó không lâu, cô Bằng lạm dụng và mất đi khả năng ngoại cảm. Những gì xảy ra sau này hoàn toàn là một trò lừa đảo được dàn dựng tinh vi, trục lợi trên sự cả tin của người đến gọi hồn. Vì vậy, tại nhà cô Bằng không cho phép quay phim, chụp ảnh hay ghi âm.
Hỏi về ý định khi nào “rửa tay gác kiếm”, chồng “cô” Bằng vội bảo: “Ôi, cái này phức tạp lắm nên không phải muốn bo là bỏ đâu. Mấy lần xin thôi rồi lên các ngài không cho. Nhà tôi có căn phải đứng ra nhận lấy việc này giúp mọi người… Các Ngài giao cho thì cứ phải làm…”.
Và đám đông mê muội ngoài sân nhà vẫn thấp thỏm , kiên trì chờ đến lượt vong về để thỏa lòng trò chuyện với người thân…
Tìm đến Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng con người, gặp thiếu tướng Chu Phác, hỏi về “cô đồng” Bằng, ông cười và bảo: “Cách đây mây năm, chúng tôi có đến nhà cô Bằng và mời cô ấy lên trung tâm để trắc nghiệm khả năng của cô ấy. Lúc ấy thì chuyện cô ấy có thể chuyển tải được lời người âm là có. Nhưng một vài lần sau, chúng tôi thử nghiệm lại thì xác xuất không còn cao nữa nên trung tâm không cấp giấy chứng nhận. Lâu nay, tôi vẫn nghe chuyện cô ấy gọi hồn kiếm sống, chuyện gọi được đúng sai thế nào, tôi không có mặt trực tiếp nên không giám bàn. Chỉ có điều là một cô đồng rất khó duy trì khả năng của mình lien tiếp trong vòng 20 năm như vậy, trừ khi cô ấy phải tập luyện lien tục, mà cho dù có sự tập luyện thì khả năng đó không cao. Bây giờ, chuyện các cô đồng cứ dựa vào một vài khả năng của mình để kiếm tiền dựa trên lòng tin của người đời nhiều lắm”.
An Linh
https://www.nguoiduatin.vn/chuyen-ng...le-a96897.html
Văn khấn Cúng Cô Hồn hàng tháng
Văn khấn:
KÍNH LỄ MƯỜI PHƯƠNG TAM BẢO CHỨNG MINH
Hôm nay ngày………….Chúng con tên…………..
Ở tại số nhà………………………………………
Hôm nay là ngày mùng 2 (hay 16) tháng…
Phát lòng thành tịnh, thiết lập đạo tràng, bày tiệc cam lồ, Kỳ an gia trạch, Kỳ an bổn mạng. Nhờ ơn tế độ, thêm sự phước duyên, nguyện xin gia đình yên ổn, thuận lợi bán buôn, dòng họ quy hướng đạo mầu, con cháu học hành tinh tiến, nguyện cầu thế giới hòa bình, nhơn sanh phước lạc.
Kính thỉnh:
Cô hồn xuất tại côn lôn
Ở tam kì nghiệp,cô hồn vô số
Những là mãn giả hằng hà
Đàn ông, đàn bà, già trẻ lớn nhỏ
Ôi! Âm linh ơi, cô hồn hỡi
Sống đã chịu một đời phiền não
Chết lại nhờ hớp cháo lá đa
Thương thay cũng phận người ta
Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu
Đàn cúng thí vâng lời phật dạy
Của có chi, bát nước nén nhang
Cũng là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đàng thăng thiên
Ai đến đây dưới trên ngồi lại
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu
Phép thiêng biến ít thành nhiều
Trên nhờ tôn giả chia đều chúng sanh
Phật hữu tình từ bi tế độ
Chớ ngại rằng có có không không
Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng
Độ cho nhứt thiết siêu thăng thượng đài.
Chân ngôn biến thực: Nam mô tát phạt đát tha nga đa, phà lồ chí đế án tam bạt ra, tam bạt ra hồng (3 lần)
Sắm lễ: đặt lễ cúng ngoài hành lang
1/ Muối gạo (1 đĩa)
2/ Cháo trắng nấu lỏng (12 chén nhỏ) hay là cơm vắt : 3 vắt .
3/ 12 cục đường thẻ .
4/ Giấy áo, giấy tiền vàng bạc .
5/ Bắp rang
6/ Mía (để nguyên vỏ và chặt từng khúc nhỏ độ 15 cm)
7/ Bánh, kẹo .
8/ Nước: 3 chun (hay 3 ly nhỏ), 3 cây nhang , 2 ngọn nến nhỏ.
Cúng cô hồn hàng tháng giản dị và không quy mô như cúng cô hồn trong mùa Vu Lan, nên không có bọn trẻ con đến giật, nhưng nếu có thì nên cho chúng lấy, vì cúng cô hồn :
- Thứ nhất : người cúng không ăn,
- Thứ nhì : không đem vào nhà (nếu không ai giành giật thì bỏ vào túi cho ăn mày). Còn đồ mã thì đốt ngay tại chỗ, đĩa muối gạo được rải ra xa.
https://thocungdida.com/van-khan-cung-co-hon-hang-thang
hướng dẫn cúng Ông Công , Ông Táo cơ bản
🔥 Năm nay 2019 ngày cúng Ông Công , Ông Táo tốt nhất là ngày 27/1/2019 dương
( tức 22 âm lịch năm Mậu Tuất )
Do là chủ nhật - tiện việc dương , thong thả cúng lễ
Đồng thời cũng là ngày sát 23 - tiện cho việc âm , đúng ngày cúng kiếng
🔥 ngày khác có thể cúng vào đúng 23 âm tháng chạp. Tức 28/1/2019
1️⃣ - vị trí cúng : nếu trong nhà có bàn thờ các quan thần linh / bàn thờ gia tiên thì có thể cúng tại bàn thờ này .
Nếu nhà có bàn thờ táo quân thì có thể cúng ở bàn thờ này luôn .
Trong trường hợp không có bất kỳ bàn thờ nào , có thể lấy 1 cái bàn sạch , 1 cái mâm sạch để đồ cúng và cúng trong khu vực nhà bếp ( do quan niệm Táo Quan nôm na là vua bếp )
( lưu ý : nếu cúng ở khu vực gần bếp nâm để đồ lễ phải để trên bàn cao , k để dưới đất , nếu có thể lau qua mâm bằng rượu trắng ngâm gừng sẽ tốt hơn )
2️⃣ - thời gian cúng : quan niệm dân gian , cúng lúc nào trong ngày cũng được , nhưng tốt nhất là sau 6g sáng ( khi mặt trời đã lên và hoàn thành trước 12g trưa khi mặt trời chính ngọ )
1 số quan niệm cúng cũ vào từ tối đến nửa đêm , cũng k sao cả ạ
2️⃣, 5️⃣ : người có thể cúng : nếu tốt nhất thì là chủ nhà , nhưng nếu k tiện thì bất kỳ ai có quan hệ má mủ , sinh sống tại ngôi nhà đó , đều có thể lễ đc . K nhờ bác hàng xóm , bạn bè cúng hộ 😂
3️⃣ - đồ lễ cơ bản :
🔥 bộ vàng mã : gồm 2 bộ quần áo có cánh chuồn cho 2 Ông Táo và 1 bộ quần áo k có cánh chuồn cho Bà Táo
( lưu ý bộ phải đầy đủ hia và hài , thực ra thời nay vàng mã khá đầy đủ , hầu như k có sự thiếu cái này , bán đầy đường rất dễ mua ) ( năm nay năm Mộc cũng có 1 số người muốn mua bộ mã màu xanh - do có quan niệm hành năm nào cho ngài mặc đồ màu năm đó - thực tế việc này không quá quan trọng )
Lưu ý :nếu là người sống xa xứ , k có điều kiện chuẩn bị đồ mã , sớ thì cũng k cần thiết phải lo lắng.
Đàn sơ lễ mọn , nhưng tâm thành sống tốt thì cũng ổn thoả cả
Đàn to cỗ lớn , nhưng tâm ác sống hèn thì cũng k giải quyết vấn đề gì
🔥 sớ Ông Công Ông Táo : cái này khá quan trọng nhưng k bắt buộc ( có thì tốt hơn ) ,
Nên tìm thầy viết sớ chữ nho chuẩn để viết - trong trường hợp k tìm đc thì cứ tìm thầy bất kỳ có thể tin tưởng -
để thầy ngoáy 1 hồi r bảo thầy đọc lại tên tuổi địa chỉ - nếu k đọc lại đc giả tiền thầy r tìm thầy khác 😂
🔥tiền vàng tuỳ tâm , vàng nén vàng thỏi , tiền Thánh đều ok , k cúng tiền Phật
🔥 3 con cá chép sống để Táo Quân cưỡi về trời hoặc thời nay update thêm cá giấy ( thực ra theo mình thì mình thích đi thả cá hơn )
( lưu ý : khi thả cá k vứt mạnh cá xuống hồ , rất dễ dập bụng mà chết , túi nilon cũng k nên vứt cả xuống - ô nhiễm sông hồ 😂 )
🔥 mâm lễ chay / mâm lễ mặn : nhìn chung Táo Quân khá dễ tính , nên có thể cúng theo kiểu trước cúng sau ăn , chay mặn gì cũng được
🔥 chay thì gồm có : hương , hoa , nến , đèn , chè , thuốc , bánh kẹo , đĩa hoa quả tuỳ tâm
🔥 mặn thì xôi gà , chân giò bánh chưng , bát canh măng nấm
4️⃣ - cách cúng : thắp 3/5/7/9 nén hương , nhìn chung là số lẻ
sau đấy vái 3 vái , nếu k biết khấn có thể khấn theo bài mình viết dưới comment
sau đấy đợi hương tàn 2/3 thì xin phép hạ lễ hoá vàng ( do có quan niệm hơi cầu kỳ là khi hương còn đang cháy thì hoá vàng mới nhận đc , có nhà đợi hương tàn hẳn mới hạ lễ / thực ra mà nói cũng k sao )
vậy là hoàn thành
******************************************
lưu ý tổng quan :
- dù Táo Quân khá dễ tính nhưng nhà cửa cũng nên gọn sạch , quần áo mặc tươm tất , k chơi kiểu 2 dây hay quần đùi khi làm lễ
- Khi làm lễ nên mở cửa nhà rộng mở để có sự thông thoáng , thoát khí , đón điều lành , tiễn điều xấu ( 1 số người khó tính quan niệm khi lễ k nên giật , xả nước - tránh trôi lộc xin về )
-Khi lễ nên thắp nến cho soi sáng đàn lễ. Sau đấy thì có thể đợi nến tự cháy hết hoặc chủ động tắt nến. 1 số lão nhân cầu kỳ cho rằng k nên thổi nến ( do 2 quan niệm thổi thì bay mất lộc , hoặc quan niệm khác kiếp này thổi nến kiếp sau sứt môi )
Thay vì thổi nến có thể lấy 1 cái đĩa nhỏ úp ngược lên cốc nên để dập nến
- khi khấn , nên khấn ra thành tiếng , k to quá k lẩm nhẩm , vì phải thành âm thoát ra miệng thì mới dễ linh ứng
- khi hoá vàng , hoá sớ đầu tiên , rồi đến quần áo , rồi đến tiền vàng , khi cời cho cháy nhanh k chọc mạnh kẻo rách đồ mã
- tuỳ theo vùng miền mà đồ mã có n~ sự thay đổi khác , nghe đâu miền trung có nơi cúng cả ngựa - nhưng tổng quan như trên là đầy đủ , k cần quá cầu kỳ
#trước khi cúng hãy dùng 1 Cây nhang xông phong thủy để tẩy trừ những luồn khí xấu
#khi bắt đầu cúng hãy dùng 1 cây nhang
# sau khi cúng ta dùng 1 Cây nhang xông phong thủy Long Vân để tạ lễ
chúc mọi ng khoá lễ thành công
https://www.facebook.com/permalink.p...Fz0&__tn__=K-R
hướng dẫn cúng Ông Công , Ông Táo cơ bản
🔥 Năm nay 2019 ngày cúng Ông Công , Ông Táo tốt nhất là ngày 27/1/2019 dương
( tức 22 âm lịch năm Mậu Tuất )
Do là chủ nhật - tiện việc dương , thong thả cúng lễ
Đồng thời cũng là ngày sát 23 - tiện cho việc âm , đúng ngày cúng kiếng
🔥 ngày khác có thể cúng vào đúng 23 âm tháng chạp. Tức 28/1/2019
1️⃣ - vị trí cúng : nếu trong nhà có bàn thờ các quan thần linh / bàn thờ gia tiên thì có thể cúng tại bàn thờ này .
Nếu nhà có bàn thờ táo quân thì có thể cúng ở bàn thờ này luôn .
Trong trường hợp không có bất kỳ bàn thờ nào , có thể lấy 1 cái bàn sạch , 1 cái mâm sạch để đồ cúng và cúng trong khu vực nhà bếp ( do quan niệm Táo Quan nôm na là vua bếp )
( lưu ý : nếu cúng ở khu vực gần bếp nâm để đồ lễ phải để trên bàn cao , k để dưới đất , nếu có thể lau qua mâm bằng rượu trắng ngâm gừng sẽ tốt hơn )
2️⃣ - thời gian cúng : quan niệm dân gian , cúng lúc nào trong ngày cũng được , nhưng tốt nhất là sau 6g sáng ( khi mặt trời đã lên và hoàn thành trước 12g trưa khi mặt trời chính ngọ )
1 số quan niệm cúng cũ vào từ tối đến nửa đêm , cũng k sao cả ạ
2️⃣, 5️⃣ : người có thể cúng : nếu tốt nhất thì là chủ nhà , nhưng nếu k tiện thì bất kỳ ai có quan hệ má mủ , sinh sống tại ngôi nhà đó , đều có thể lễ đc . K nhờ bác hàng xóm , bạn bè cúng hộ 😂
3️⃣ - đồ lễ cơ bản :
🔥 bộ vàng mã : gồm 2 bộ quần áo có cánh chuồn cho 2 Ông Táo và 1 bộ quần áo k có cánh chuồn cho Bà Táo
( lưu ý bộ phải đầy đủ hia và hài , thực ra thời nay vàng mã khá đầy đủ , hầu như k có sự thiếu cái này , bán đầy đường rất dễ mua ) ( năm nay năm Mộc cũng có 1 số người muốn mua bộ mã màu xanh - do có quan niệm hành năm nào cho ngài mặc đồ màu năm đó - thực tế việc này không quá quan trọng )
Lưu ý :nếu là người sống xa xứ , k có điều kiện chuẩn bị đồ mã , sớ thì cũng k cần thiết phải lo lắng.
Đàn sơ lễ mọn , nhưng tâm thành sống tốt thì cũng ổn thoả cả
Đàn to cỗ lớn , nhưng tâm ác sống hèn thì cũng k giải quyết vấn đề gì
🔥 sớ Ông Công Ông Táo : cái này khá quan trọng nhưng k bắt buộc ( có thì tốt hơn ) ,
Nên tìm thầy viết sớ chữ nho chuẩn để viết - trong trường hợp k tìm đc thì cứ tìm thầy bất kỳ có thể tin tưởng -
để thầy ngoáy 1 hồi r bảo thầy đọc lại tên tuổi địa chỉ - nếu k đọc lại đc giả tiền thầy r tìm thầy khác 😂
🔥tiền vàng tuỳ tâm , vàng nén vàng thỏi , tiền Thánh đều ok , k cúng tiền Phật
🔥 3 con cá chép sống để Táo Quân cưỡi về trời hoặc thời nay update thêm cá giấy ( thực ra theo mình thì mình thích đi thả cá hơn )
( lưu ý : khi thả cá k vứt mạnh cá xuống hồ , rất dễ dập bụng mà chết , túi nilon cũng k nên vứt cả xuống - ô nhiễm sông hồ 😂 )
🔥 mâm lễ chay / mâm lễ mặn : nhìn chung Táo Quân khá dễ tính , nên có thể cúng theo kiểu trước cúng sau ăn , chay mặn gì cũng được
🔥 chay thì gồm có : hương , hoa , nến , đèn , chè , thuốc , bánh kẹo , đĩa hoa quả tuỳ tâm
🔥 mặn thì xôi gà , chân giò bánh chưng , bát canh măng nấm
4️⃣ - cách cúng : thắp 3/5/7/9 nén hương , nhìn chung là số lẻ
sau đấy vái 3 vái , nếu k biết khấn có thể khấn theo bài mình viết dưới comment
sau đấy đợi hương tàn 2/3 thì xin phép hạ lễ hoá vàng ( do có quan niệm hơi cầu kỳ là khi hương còn đang cháy thì hoá vàng mới nhận đc , có nhà đợi hương tàn hẳn mới hạ lễ / thực ra mà nói cũng k sao )
vậy là hoàn thành
******************************************
lưu ý tổng quan :
- dù Táo Quân khá dễ tính nhưng nhà cửa cũng nên gọn sạch , quần áo mặc tươm tất , k chơi kiểu 2 dây hay quần đùi khi làm lễ
- Khi làm lễ nên mở cửa nhà rộng mở để có sự thông thoáng , thoát khí , đón điều lành , tiễn điều xấu ( 1 số người khó tính quan niệm khi lễ k nên giật , xả nước - tránh trôi lộc xin về )
-Khi lễ nên thắp nến cho soi sáng đàn lễ. Sau đấy thì có thể đợi nến tự cháy hết hoặc chủ động tắt nến. 1 số lão nhân cầu kỳ cho rằng k nên thổi nến ( do 2 quan niệm thổi thì bay mất lộc , hoặc quan niệm khác kiếp này thổi nến kiếp sau sứt môi )
Thay vì thổi nến có thể lấy 1 cái đĩa nhỏ úp ngược lên cốc nên để dập nến
- khi khấn , nên khấn ra thành tiếng , k to quá k lẩm nhẩm , vì phải thành âm thoát ra miệng thì mới dễ linh ứng
- khi hoá vàng , hoá sớ đầu tiên , rồi đến quần áo , rồi đến tiền vàng , khi cời cho cháy nhanh k chọc mạnh kẻo rách đồ mã
- tuỳ theo vùng miền mà đồ mã có n~ sự thay đổi khác , nghe đâu miền trung có nơi cúng cả ngựa - nhưng tổng quan như trên là đầy đủ , k cần quá cầu kỳ
#trước khi cúng hãy dùng 1 Cây nhang xông phong thủy để tẩy trừ những luồn khí xấu
#khi bắt đầu cúng hãy dùng 1 cây nhang
# sau khi cúng ta dùng 1 Cây nhang xông phong thủy Long Vân để tạ lễ
chúc mọi ng khoá lễ thành công
https://www.facebook.com/permalink.p...Fz0&__tn__=K-R
Lại nói đến thần chú Cẩn Cô để niềng đầu Ngộ Không của Quán Thế Âm Bồ Tát truyền cho Tam Tạng. Nguyên thần chú là:
Án cấp địa ta bà ha. (Om Captra svaha)
Thần chú này có oai lực trói buộc ý thức vọng khởi điên đảo cho dừng trụ lại. Bởi Ngộ Không (Ý thức) mặc dù đã quy y theo Tam Tạng nhưng tánh ngông nghênh, tự đắc cho mình là trên hết, đôi lúc không chịu đầu phục Tam Tạng, do nương theo thức Mạt na (thức chấp ngã) sai sử. Năng lực thần chú Cẩn Cô chỉ có thế.
http://chualongphuoc.thientinhmat.com/duong-ve-tinh-do/
=========
而金箍咒、紧箍而咒、紧箍咒、禁箍咒, 金箍咒
NHI KIM-CÔ CHÚ, KHẨN-CÔ-NHI CHÚ, KHẨN-CÔ CHÚ, CẤM-CÔ CHÚ, KIM-CÔ CHÚ
(Nguyên là Khẩn cô chú (紧箍咒): lời chú cẩn cô, chú cẩn cô nhi, như lời chú mà Đường Tăng dùng để trói buộc Tôn Ngộ Không; thường ví với việc xiềng xích ...
Cũng giống như kinh cứu khổ mà đa số Phật tử đều biết và cho in ấn rất nhiều, trong đó chỉ có câu “Nam mô Đại từ Đại bi, cứu khổ cứu nạn quảng đại linh cảm ứng Quán Thế Âm Bồ Tát” mà khiến cho người hành trì có kết quả. Bấy giờ thần đạo lấy kinh ấy làm nền tảng cho họ.
http://chualongphuoc.thientinhmat.com/duong-ve-tinh-do/
PHỤ LỤC KINH PHẬT
Phật nói:
Kinh Nhứt Thế Như Lai Kim Cang Thọ Mạng Đà Ra Ni
***
( Nước Nam Thiên Trúc, Ngài Tam Tạng Kim Cang Trí cùng Ngài Sa môn Trì Tạng vâng chiếu dịch)
***
Ta nghe như vầy: Một thuở Phật ở bên sông Căn già, cùng với các Tỳ Khưu và Đại Bồ Tát cùng vô lượng đại chúng trời người đến hội.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo bốn vị Thiên Vươnghàng Tỳ Sa Môn rằng: Có bốn pháp rất đáng ghê sợ, dù nam dù nữ, đồng nam, đồng nữ, tất cả hữ tình không ai tránh khỏi. Bốn pháp ấy là sanh, già, bệnh, chết. Trong đó một pháp rất tức tởi đau khổ, khó bề đối trị gọi là sợ chết.(1)
Vì vậy ta thường nói pháp đối trị.
Khi ấy, bốn vị Thiên Vương bạch Phật rằng:
''Kính thưa Thế Tôn. Chúng con ngày nay, mong được lợi lớn, xin Đức Thế Tôn vì tất cả chúng sanh tuyên nói pháp ấy''.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn xây mặt hướng Đông, Ngài búng ngón tay triệu tập tất cả các đức Như Lai nói lời thệ rằng:
"Khắp cả mười phương các đấng Như Lai thành Chánh Đảng Giác, vì độ chúng sanh, chứng đạo Bồ Đề thảy đều giúp ta, đem sức oai thần tất cả Như Lai, khiến cho tất cả chúng sanh đổi nghiệp phi mạng, tăng thêm thọ mạng.
Từ trước, ta chưa vì chúng sanh chuyển pháp luân nầy, đến nay mới chưỳển có thể khiến cho sắc lực và thọ mạng của chúng sanh, đều được thành tựu khỏi sợ chết yểu".
Lại hướng qua các phương Tây, Nam, Bắc bốn góc(2) trên dưới, đức Thế Tôn, cũng đều triệu tập, kỉnh cáo như thế.
Lúc ấy bao nhiêu thế giới mười phương, tột chỗ mắt Phật thấu tới, tất cả các đức Như Lai thảy đều đến họp, đấy đủ hư không, như số vi trần.
Bấy giờ, tất cả các Đức Phật, vì cớ gia trì, khác miệng đồng lời, đều nói Đà Ra Ni: " Nhất Thế Như Lai Kim Cang Thọ Mạng" rằng:
"Đát nể gỉ tha, giả lê, giả lã, giả lê, vỉ nô chi tát phạ, tát để, khể chiết ngật lảng, nghiệt nẩm, bát ra, xá mản đô, tát phạ lộ, nga tát phạ nẩm, a nô lai, cu nô lai, ma ha no lai, giả mê giả mê, hệ mạ nghiểu rí, hệ mạ sản ni hệ mạ thi khí, kiêu ra ví, kiêu ra thoan, hệ cu ra vi,cu ra lê, cu mạ để, vi xá mạ ní mạ ní, thú thú tì, phạ a giả lê, dỉ giả lê, mạ vỉ lảm mạ, hộ mộ, hộ mộ, án phạ rạ, dụ lệ, tát phạ hạ".
Bấy giờ, tất cả các vị Chấp Kim Cang Bồ Tát, ở chỗ các Phậtmười phương, cũng khác miệng đồng lời, đều nói Đà Ra Ni Diên thọ rằng:
" Hồng hồng thi khí tát phạ hạ".
Như vậy, tất cả các Đức Như Lai và các vị Chấp Kim Cang Bồ Tát trong mười phương đều nói Đà Ra Ni nầy rồi thì không thị hiện ra nữa.
Lúc đó, vị Tỳ Sa Môn Thiên Vương bạch Phật rằng: nương thần lực của Phật, để gia trì hộ niệm, trừ nghiệp phi mạng cho tất cả chúng sanh, con xin nói Đà Ra Ni rằng:
" Thỉ vỉ đế, thỉ vỉ, đát lỵ, lật lỵ".
Lúc đó, vị Tỳ Lâu Lặc Xoa Thiên Vương cũng bạch Phật rằng: nương thầ lực của Phật để trừ nghiêp phi mạng cho nhiều chúng sanh, con xin nói Đà Ra Ni rằng:
"Ma đắng nghe, ma đắng nghê ni, du ma du ma mưu".
Lúc đó vị Đề Đầu Lại Cha Thiên Vương cũng bạch Phật rằng: cũng để trừ nghiệp Sợ Chết cho các chúng sanh, con xin nói Đà Ra Ni rằng:
"Giả rể giả rể, giả ra rí".
Lúc đó vị Tỳ Lâu Bát Xoa Thiên Vương cũng bạch Phật rằng: nương thần lực của Phật để trừ nghiệp phi mạng cho tất cả chúng sanh, con xin nói Đà Ra Ni rằng:
"Mạt lâm, phạ phạ phạ phạ".
Phật bảo bốn vị Thiên Vương rằng:
" Nếu ai đọc tụng kinh này, ngày thọ trì, dù cho một biến, phải nên cung kính các trai lành, gái lành ấy, nên tưởng như Phật, sau không đợa ba đường dữ, quyết được tăng thêm thọ mạng.
Nếu người nào thường ngày, vì tất cả chúng sanh luân chuyển tụng kinh này, thì sau không còn sợ m5ng ngắn, chết yểu, điềm dữ, yêu tinh nguyền rủa, và hình bóng hung ác, la sát quỷ thần, cũg không bị tai nạn; nước lửa và độc họa binh đao. Sẽ được tất cả các Chư Phật, Bồ Tát nhiếo thọ hộ niệm, xứ sở đó cũng được Chư Phật hộ trì".
Khi Đức Thế Tôn nói Kinh này xong, các vị Tỳ Sa Môn Thiên Vương cùng tất cả đại chúng đều rất vui mừng, tin chịu vâng làm.
Phật nói kinh Nhứt Thế Như Lai Kim Cang Thọ Mạng Đà Ra Ni.
Hết
Tán
Kim Cang thị mạng
Lời Phật thân tuyên
Đà Ra Môn tỏ nghĩa u huyền.
Tụng chú đức Kim tiên
Pháp lực vô biên
Tuổi thọ được tăng diên
Nam Mô Tăng Thọ Toán Bồ Tát Ma Ha Tát
Phật từ rộng lớn
Cảm ứng không ngoa
Tịch quang chánh định khắp hà sa
Nguyện chẳng lìa Già gia
Tế độ trai gia
Đất báu trổ liên hoa
Nam Mô Tiêu Tai Tăng Phước Thọ Bồ Tát Ma Ha Tát ( 3 lần)
http://hocthuatphuongdong.vn/index.php?topic=2141.0
Cho đi đến tận cùng
https://phatphapungdung.com/wp-conte...n-tan-cung.jpg
Bố thí là một trong sáu pháp môn (bố thí, trì giới, nhẫn nại, tinh tấn, thiền định, bát nhã) giúp chúng ta nuôi dưỡng tâm bồ đề rộng lớn để tự độ mình và độ người ra khỏi biển sinh tử luân hồi, chạm đến bờ giác ngộ.
Bố có nghĩa là cùng khắp. Thí là cho, là trao tặng. Bố thí là cho cùng khắp, cho tất cả mọi người, mọi vật, mọi nơi. Paramità dịch âm là Ba La Mật Ða, nói tắt là Ba La Mật (parami). ‘Para’ có nghĩa là bờ bên kia, ‘mi’ có nghĩa là đi đến. Bố thí Ba La Mật có nghĩa là băng qua con sông Bố thí (dànanadi) và đến được bờ bên kia. ‘Bờ bên này’ có nghĩa là bờ tham lam, bỏn xẻn, con sông là sự Bố thí, ‘bờ bên kia’ là bờ đại bi. Ngoài ra, ‘bờ bên này’ còn có thể được hiểu là bờ tà kiến chấp trước, ‘bờ bên kia’ là bờ Trí huệ; ‘bờ bên này’ là bờ sanh tử luân hồi, ‘bờ bên kia’ là bờ Niết Bàn giải thoát. Ta bắt đầu qua sông, nhưng do chưa đủ duyên hay phước báu để thực hành bố thí nên đến nửa đường ta lại quay trở về, đó không gọi là Ba La Mật. Ví như khi thấy một bà cụ già bán vé số, người mẹ thấy người con tặng tiền thì mẹ suy nghĩ lại thôi không tặng nữa. Hay khi ta bố thí mà mong được trả ơn hoặc muốn được vinh danh thì cũng không được gọi là bố thí trong sạch.
Bố thí Ba La Mật là bố thí cả vật chất lẫn tinh thần bao gồm Tài thí, Nội thí, Ngoại thí, Pháp thí, Vô úy thí một cách thật trong sạch. Trong sạch ở đây có nghĩa là cho chỉ là cho, không mục đích gì khác. Tài thí là đem tiền bạc, của cải của mình ra tặng người khác như trao quà, tiền cho người nghèo, người bệnh, cúng dường xây chùa, xây mái ấm, viện dưỡng lão… Không lãng phí tiền bạc vào các trò chơi và mua sắm xa xỉ phẩm cũng là một cách bố thí.
Nội thí là tặng những gì trong thân thể mình như nội tạng, hiến máu… Thí nội tài là một cử chỉ hy sinh cao đẹp nhất mà chỉ những người giàu lòng từ bi, bác ái mới làm được. Khi còn sống, còn khỏe, chúng ta có thể hiến máu cứu người. Khi qua đời, mình có thể hiến xác cho bệnh viện để sử dụng các bộ phận của cơ thể cho người đang bị khiếm khuyết. Hành giả khi thực tập Thiền tuệ nhận diện được tính không của ngũ uẩn, danh sắc, ta không phải là ta, sắc thân này không phải của ta, tất cả đều vô thường và vận hành theo quy luật thành trụ hoại không, từ đó buông bỏ sự sở hữu hình tướng và dâng tặng với tâm hoan hỷ cứu người.
Cho đi đến tận cùng
Thí thứ ba là ngoại thí, ban tặng những vật ngoài thân mình như thức ăn, trang phục, xe cộ, đất đai, nhà cửa… Dành thời gian và sự có mặt của mình cho người thân, cùng lắng nghe, chia sẻ vui buồn trong cuộc sống cũng là một cách bố thí dễ thương.
Trong các phép thí, loại bố thí cao thượng nhất chính là Pháp thí. Phước đức của một người được nghe chánh pháp, hành trì theo, đạt được quả vị giải thoát cao gấp ngàn lần tất cả núi tu di trên thế gian. Khi giác ngộ, người sẽ giáo hóa và cứu độ được nhiều người khác và những người ấy lại tiếp tục ban pháp cứu khổ cho nhiều người khác nữa. Pháp thí giúp đỡ nhân loại rất nhiều về phương diện tinh thần, không riêng gì đối với người nghèo khó, mà cả người giàu sang, chức tước; không phải chỉ có ảnh hưởng tốt trong một giai đoạn, mà gieo nhân lành cho nhiều đời kiếp về sau. Riêng tự thân người tu hành miên mật theo giáo lý của Đức Phật, bỏ dữ làm lành, cải tà quy chánh cũng là một sự bố thí cao đẹp cho đời. Một bạn lớp trưởng học giỏi, đạo đức, hay giúp đỡ bạn bè trong lớp, ngoan ngoãn với thầy cô sẽ là một tấm gương sáng cho các bạn cùng lớp noi theo. Một lớp ngoan, giỏi sẽ được nhiều lớp khác noi theo và cả trường sẽ cùng tiến bộ, xã hội tương lai sẽ chào đón một thế hệ trẻ tài đức lên ngôi. Nói công đức vô lượng là như thế.
Loại bố thí cuối cùng là vô úy thí, có nghĩa bố thí sự không sợ hãi. Muốn bố thí bình an, trước tiên chúng ta phải tôi luyện cho mình sự mạnh mẽ từ trong tâm. Quán chiếu được sanh già bệnh chết, tiền tài danh vọng… tất cả đều vô thường nên cõi lòng không còn xao động, thân tâm luôn an tịnh trước mọi đổi dời của thế gian. Nếu trong ta có quá nhiều sợ hãi và khổ đau thì năng lượng từ bi không thể được nuôi dưỡng và phát triển. Đời đã là bể khổ nên đừng làm bể đầy hơn vì những nỗi sợ vô hình của mình. Đã mang nghiệp vào thân thì không tránh khỏi vay trả. Thấu hiểu được chân lý giả tạm của cuộc đời, ban tặng sự bình an cho bản thân và người thương chính là đang giúp mình và người tát bớt khổ đau hiện tiền. Như người mẹ ôm ấp đứa con đang khóc vào lòng vỗ về, dùng tình thương của mình xoa dịu làn sóng sợ hãi.
Trong một lần đi hành hương, đoàn chúng tôi thấy một con chó bị xe đụng chảy máu đang vùng vẫy đau đớn bên vệ đường. Không chút ngần ngại, một vị thầy trên xe đã nhanh tay xuống vỗ về chó, bảo chó hãy ngồi yên để thầy bế vào nhà người dân băng bó. Một vài cô Phật tử lo lắng không biết con chó ấy có bị bệnh dại hay không, sợ nó đang hoảng hốt sẽ cắn nhầm thầy… Nhưng với tình thương dạt dào từ tâm tỏa ra, sau câu nói ấy, chú chó thu mình nằm yên một cách ngoan ngoãn để thầy và mọi người cứu chữa. Việc làm của thầy không chỉ ban tặng sự bình yên cho chó mà còn cứu được sinh mạng một chúng sinh đang gặp nạn. Sau chuyến đi ấy, đoàn chúng tôi đã có được một bài học vô cùng quý giá về lòng từ cứu chúng sinh không phân biệt của chư Tăng.
Khi mang của cải, vật chất, sự sống, sự hiểu biết, sự giúp đỡ, sự bình an… tặng cho tất cả chúng sinh, không phân biệt, vô điều kiện, không có bất cứ một dụng ý hay yêu cầu nào, phát tâm bố thí một cách hoan hỷ, không cầu lợi, không cầu danh; kể cả khi thực hành bố thí bị người nhận bố thí làm điều trái ý, nghịch lòng mà tâm mình vẫn hoan hỷ, không phiền muộn, khổ đau; thực hành bố thí với tấm lòng như thế gọi là Bố thí Ba la mật. Như Bồ Tát bố thí một cách bình đẳng với tất cả mọi loài, không bao giờ nghĩ rằng phải bố thí cho người lớn chứ không cho trẻ em, phải bố thí cho người tu hành chứ không cho người thường, phải bố thí cho người chứ không cho thú vật, phải bố thí cho Hòa Thượng chứ không cho chú tiểu. Bồ Tát bố thí không kể ngày hay đêm, mùa đông hay mùa hè, trời tốt hay trời xấu. Bồ Tát bố thí cũng không cầu được phước báo hay với mục đích là thực hiện thực tướng của sự bố thí. Vì lòng Người đã là bờ đại bi, bờ Niết Bàn nên người không cần băng qua con sông bố thí nào cả. Bố thí chỉ để bố thí mà thôi. Cứu một con cá cũng như cứu một con người. Giúp một trẻ em cơ nhỡ cũng như giúp một cụ ông, cụ bà neo đơn. Đi từ thiện ở chùa, viện dưỡng lão hay mái ấm là như nhau. Cúng dường cho một chú tiểu nhỏ cũng như cúng dường cho một vị Hòa Thượng. Biết đâu sau này chú tiểu tu hành giỏi giang sẽ giúp được nhiều người như vị Hòa Thượng kia… Giúp chúng sinh không kể hình tướng như thế gọi là bố thí không chấp tướng.
Bố thí không chấp tướng là bố thí với một dụng ý trong sạch, đúng với ý nghĩa của bố thí. Trong khi bố thí, vì lòng từ bi bình đẳng mà mình xem chúng sinh như con, nên không sinh tâm vị kỷ, không phân biệt quen hay không quen, thương hay không thương. Chúng ta biết tài sản cũng như thân mạng mình đều là giả tạm, vô thường, nên không tham lam, tiếc nuối. Chúng ta biết cái ngã không có thật, nên khi cho không thấy ai là người cho, ai là người nhận, không tự cao, tự đại mà ngược lại phải cảm ơn người nhận bố thí vì đã tạo duyên lành cho mình thực tập chánh pháp. Bố thí với một tâm địa trong sạch như trên sẽ được phước báu thanh tịnh, mới đúng là Bố thí Ba la mật. Ví như khi ta cho đi một đồng mà muốn phước điền thì phước nhận lại sẽ được tương đương một đồng; còn khi ta cho đi một đồng, mong người nhận được no đủ, hoan hỷ thì phước nhận lại sẽ được mười lần; hay khi ta cho đi một đồng và kêu gọi nhiều người cùng chung tay đóng góp, tình thương trải ra, nhân rộng khắp thì phước báu nhân lên vô lượng vì tình thương là thứ cho đi không bao giờ mất mà lại còn tăng trưởng mạnh hơn. Bố thí không phân biệt, không mong cầu với một tâm thiện lành, hoan hỷ như thế sẽ làm cho hạnh bố thí vô cùng trong sáng và dễ thương.
Ngược lại, nếu bố thí mà còn phân biệt kẻ sang người hèn hay phân biệt đối tượng được phước thì đó gọi là bố thí chấp tướng, nghĩa là bố thí với một dụng tâm không trong sạch. Bố thí xuất phát từ tâm mà ra, là một pháp môn để tự độ và độ tha. Nhưng nếu bố thí với một dụng tâm khác như cầu danh, cầu tài lợi thì gọi là bố thí chấp tướng hay sự đầu tư. Một số doanh nghiệp hay cá nhân đưa từ thiện vào nghiệp vụ quan hệ công chúng (PR) thường niên để quảng bá thương hiệu rộng rãi trên thị trường. Không hẳn là các doanh nghiệp không có tâm làm từ thiện. Chỉ vì áp lực truyền thông, áp lực doanh số mà họ tối ưu hóa tất cả chi phí bỏ ra để đạt được mục đích. Tuy nhiên cũng không nên quá lợi dụng lòng tốt của đại chúng, mượn hình ảnh những hoàn cảnh đáng thương để được lợi cho mình.
Có người nói nghèo quá lấy gì bố thí. Một người đi ngang chùa trong túi có 100 ngàn, người đó cúng hết 100 ngàn. Một người nghèo hơn đi ngang chùa trong túi có năm ngàn, người đó cúng hết năm ngàn. Một người không có tiền đi ngang thấy hai người cúng dường, sanh tâm hoan hỷ, vỗ tay tán thán. Ba người phước ngang nhau. Đức Phật không đòi hỏi thí chủ phải cúng bao nhiêu tiền, bao nhiêu vật thực. Ngài Ca Diếp thậm chí dùng ngay tại chỗ bát cơm hẩm cúng dường của bà cụ nghèo một cách trân trọng. Của ít lòng nhiều. Lòng ở đây là tâm cung kính, là tình thương và sự tu tập của người bố thí. Mẹ bảo con thương mẹ, con dâng tặng mẹ thời gian ở cạnh bên, lắng nghe và chia sẻ tâm sự với mẹ, cùng mẹ ăn cơm thì mẹ đã vô cùng hạnh phúc. Làm lụng vất vả, đi khắp thế gian mua của ngon vật lạ về biếu mẹ chưa chắc mẹ đã thấy vui. Thầy nói con thương thầy, con lo tu tập để đạt được quả vị giải thoát, cứu độ nhiều người, rải tâm từ cho toàn thể chúng sinh là trả hiếu cho thầy rồi. Qua đó, ta có thể thấy bố thí tình thương, sự hiếu đạo, sự tu tập không những không tốn kém mà còn làm cho phước điền được trải đều khắp nhân sinh.
Một lần đi du lịch ở Vũng Tàu, đang nằm nghỉ trên bãi biển, tôi thấy có một em bé đến xin ăn một cặp vợ chồng khá sang trọng. Người vợ bỏ thức ăn vào chiếc bịt ny lông và ném ra xa để em bé chạy theo lấy ăn. Lần khác ngồi ở cửa chùa, tôi cũng vô tình thấy một bà cụ nắm tay cháu mình đến tặng hai nghìn đồng cho một ông lão ăn xin với một thái độ rất cung kính. Sau khi lấy hai tay biếu tiền ông cụ, cháu bé chắp tay chào ông bằng câu A Di Đà Phật. Ba ông bà cháu đều mỉm cười an lạc. Một hành động bố thí trong hai hoàn cảnh khiến người chứng kiến phải suy ngẫm về câu ‘Của cho không bằng cách cho’. Con người sinh ra và lớn lên không ai muốn đi xin ăn, trừ những trường hợp bất đắc dĩ. Ai cũng có lòng tự trọng. Khi quán chiếu được tánh không của Bố thí Ba La Mật, ta thấy không có ai là người cho, không ai là người nhận cũng không có vật bố thí mà chỉ thấy sự biến chuyển, diễn tiến và sinh diệt của vô số nhân duyên. Các pháp không tự tánh cho nên sự bố thí cũng không có tự tánh. Người cho và người nhận là giả danh của hợp thể ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), đồ vật được cho là giả danh của một hợp thể vô số chất liệu. Nếu không có người nhận thì vật thí nhiều cách mấy người cũng không cho được. Do đó, người bố thí phải biết cảm ơn người nhận bố thí vì họ đã tạo điều kiện cho mình làm phước và thực tập buông bỏ tâm tham, ngã mạn của tự thân.
Không có gì trên thế gian mà cơn lũ của cái chết không cuốn theo nó. Những gì mà ta trân quý như một cái ta, thân thể của ta, tài sản của ta, gia đình của ta…, một khi thần thức mất rồi thì có còn gì nữa đâu. Trời vô thường, đất vô thường, người vô thường, danh vọng, tiền tài rồi cũng vô thường… thì tại sao ta lại cứ thích ôm vào? Thực tập buông bỏ, sẻ chia với người đang thiếu thốn, cưu mang những người đang cần sự giúp đỡ, cho đi đến tận cùng với tất cả tình thương, mong chúng sinh luôn được an vui chính là thực tập hạnh bốn tâm vô lượng của Chư Phật và Bồ Tát. Như lòng mẹ bao la cần mẫn, dù thịt nát xương tan, dù trăm cay ngàn đắng vẫn vui cười, nguyện một lòng vì hạnh phúc trường tồn của con, không một lời ai oán. Dù cho sanh mạng mất tất cả, tình thương với các con vẫn bao la thiên hạ. Từ bi thênh thang như trời xanh. Đây đích thực gọi là Bố thí Ba La Mật.
Tường Lam
https://phatphapungdung.com/cho-di-d...ng-139546.html
VÀI TOA THUỐC NAM
Mà Đức Thầy đã dùng từ năm 1939 để trị
Bịnh cho bá-tánh thập phương.
_____________
1.- BỊNH HO
É tía, rau tần, rễ chanh, gừng lùi, lá bưởi, bông thọ, rễ chòi mòi
(sao), một xu nhơn trần, một xu trắc bá diệp.
***
2.- BỊNH BAN
Chổi đực, vòi voi, hắc-sửu, rau bợ, rể chòi mòi, năm thứ đậu, đọt
tre mở một nắm (sao chín).
***
3.- BỊNH THƯỜNG
Lá xoài, lá ổi, lá mít, lá bưởi, bông trang hay là bông thọ (để
sống).
***
_____________
33 TOA THUỐC GIA TRUYỀN MÀ ĐỨC THẦY ĐÃ GIAO CHO ANH
EM TÍN-ĐỒ Ở BẠC-LIÊU HỒI THÁNG 6 DL. 1945, TRONG LÚC
NGÀI ĐI KHUYẾN NÔNG.
1.- CẢM MẠO (thuốc tán)
Xuyên hậu phát 1 lượng, Quản trần bì (sao) 1 lượng, Bạch bì 1
lượng, Xuyên khung (sao) 1 lượng, Sa nhân 1 lượng, Bạch khấu 1
lượng, Bạch trực (sao) 2 lượng, Thương trực (sao) 2 lượng, Cam
thảo 1 lượng, Thảo quả 2 lượng, Hoát hương 2 lượng, Thạch cao
1 lượng, Chánh thần khúc 1 lượng.
Tán khô để vô ve, mỗi lần uống 1 chỉ với nước gừng, trị nóng
lạnh, mới cảm, nhức đầu, thổ tả, đau bụng, ban trái.
***
2.- CẢM GIÓ (thuốc ban)
Sa sâm 2 chỉ, Kiết cánh 1 chỉ, Phục linh 1 chỉ, Tiền hồ 2 chỉ, Độc
huợt 2 chỉ, Sài hồ 2 chỉ, Cam thảo 1 chỉ, Xuyên khung 1 chỉ, Chỉ
xát 1 chỉ, Khương huợt 1 chỉ, Sanh cương 2 chỉ.
Uống rồi trùm lại chờ đổ mồ hôi
***
3.- Cảm ba bốn ngày sắp lên, nửa trong nửa ngoài, nóng
lạnh từ hồi, cổ không thông, khô cả nước miếng hoặc làm rét.
Sài hồ 3 chỉ, Bạch bì sâm 3 chỉ, Cam thảo 2 chỉ, Trần bì (sao) 2 chỉ,
Thảo quả 3 trái, Chế bản hạ 2 chỉ, Hoàng cầm 3 chỉ, Thương trực
(sao) 2 chỉ, Hậu phát 2 chỉ, Gừng sống 4 lát.
Uống hai nước.
***
4.- Ho gió, mới cảm trong mười ngày thì cứ uống
Tử tô diệp 2 chỉ, Bạc hà 2 chỉ, Quế tiện 1 chỉ, Hạnh nhơn 2 chỉ,
Sanh cương 5 lát, Trần bì (sao) 2 chỉ, Tang bạch bì 3 chỉ, Đại phúc
bì 2 chỉ, Trầm hương tốt (gói riêng) 2 chỉ, Ma hoàng 1 chỉ, Tô tử 2
chỉ, Cam thảo 2 chỉ.
Sắc uống hai nước.
***
5.- Trị bịnh ho vừa phát nóng lạnh dữ lên thì ho dữ-dội ấy là
cảm gió vào phổi hóa nóng nhiều.
Sa sâm 3 chỉ, Kiết cánh 2 chỉ, Cát căn 2 chỉ, Chỉ xác (sao) 2 chỉ, Tử
tô diệp 2 chỉ, Tiền hồ 2 chỉ, Phục linh cũ 2 chỉ, Nam mộc hương 1
chỉ, Trần bì (sao) 2 chỉ, Chế bản hạ 3 chỉ, Cam thảo 2 chỉ, Sanh
cương 5 lát.
Uống hai nước.
***
6.- Ho thuộc về thận
Trạch tả 3 chỉ, Táo nhục 3 chỉ, Thiên môn đông 2 chỉ, Ngưu tất 2
chỉ, Hoài sơn (sao) 4 chỉ, Lão thục địa 8 chỉ, Mạch môn đông 3 chỉ,
Hạnh nhơn 2 chỉ, Phục linh cũ 3 chỉ, Ngũ vị tử 1 chỉ, Mẫu đơn 3
chỉ.
222
Sắc 2 nước vắt nước cốt chia ra hai phần uống 2 lần.
***
7.- Ho gió lâu quá mà thuốc nào cũng vô hiệu
Kha tử (nướng cho vàng) 5 chỉ, Cam thảo 2 chỉ.
Hai vị nầy chung lại, sắc uống, hiệu nghiệm như thần.
***
8.- Ho ra huyết ói cả tô, lúc đầu vừa ói ra nó nặng ngực
(thượng tiêu)
Đại hoàng tốt (sao rượu cho khô) 2 chỉ, Xuyên hoàng liên 3 chỉ,
Huỳnh cầm 4 chỉ.
Sắc hai nước uống hai lần, cho ỉa đừng sợ (mệt mà bổ). Xổ
rồi lại uống thang dưới đây:
Văn thảo (sao) 2 chỉ, Lão thục địa 8 chỉ, Ngũ vị tử 1 chỉ, Thiên môn
đông (khử bỏ tim) 3 chỉ, Hoài sơn (sao) 4 chỉ, Phục linh cũ 3 chỉ,
Mạch môn đông 2 chỉ, Đơn bì 4 chỉ, Táo nhục 2 chỉ, Đông hoa 2
chỉ.
Hốt 1 thang sắc hai nước, vắt lấy nước cốt uống hai lần,
uống luôn 3 thang thì hết, nếu uống mà sôi bụng ỉa ấy là Lão thục
địa xấu, phải mua thứ tốt.
***
9.- Đàn bà huyết băng cầm lại rồi còn đương mệt nhọc lại
hóa ho nhiều
Phòng đản sâm 3 chỉ, Bạch trực (sao) 3 chỉ, Xuyên khung 2 chỉ,
Mạch môn đông (khử bỏ tim) 2 chỉ, Công giao châu 2 chỉ, Cam
thảo 2 chỉ, Lão thục địa 5 chỉ, Đại đương qui 3 chỉ, Phục linh cũ 2
chỉ, Bạch thược (sao) 3 chỉ, Đông hoa 2 chỉ, Ngũ vị tử 1 chỉ, Tam
thốc can 2 chỉ, Kỳ ngại khô 1 chỉ.
Sắc hai nước, uống hai lần. Uống năm thang mới giảm và
hết.
***
10.- Đàn bà đường kinh đi râm-rỉ cả 10 ngày hay nửa tháng
mà không dứt
Tam thốc can 3 chỉ, Viễn chí 2 chỉ, Phòng đản sâm 3 chỉ, Chánh
phục thần 3 chỉ, Cam thảo 2 chỉ, Chá hoàng kỳ 4 chỉ, Quảng mộc
hương (gói riêng không sắc) 6 chỉ, Đại qui đầu 3 chỉ, Tàng táo
(sao) 2 chỉ, Bạch trực (sao) 3 chỉ, Long nhãn nhục 2 chỉ.
Sắc hai nước, uống hai lấn, uống ba thang thì hết, cữ ăn
hành, tỏi.
***
11.- Huyết hư, cảm mạo, nóng lạnh, không có mồ hôi, đường
kinh quá kỳ không đi
Lão thục địa 5 chỉ, Bạch thược 2 chỉ, Đại đương qui 3 chỉ, Tử tô
diệp 2 chỉ, Kiết cánh 2 chỉ, Pháp hạ 2 chỉ, Phục linh 2 chỉ, Cam
thảo 2 chỉ, Xuyên khung 2 chỉ, Phòng đản sâm 3 chỉ, Trần bì (sao)
2 chỉ, Tiền hồ 2 chỉ, Càn cát 1 chỉ, Chỉ xác (sao) 2 chỉ.
Sắc hai nước, chia ra uống hai lần, uống 3 thang đổi toa.
***
12.- Điều hòa huyết, trị huyết nóng đau bụng, nhức mỏi,
đường kinh trồi sục
Lão thục địa 3 chỉ, Xuyên khung 3 chỉ, Chế hương phụ 1 chỉ, Ích
mẫu 2 chỉ, Bạch thược 3 chỉ, Đương qui 3 chỉ, Ô dước 2 chỉ, Sanh
cương 5 lát.
Sắc hai nước uống hai lần.
***
13.- Điều kinh, đàn bà kinh kỳ trồi sục, đau bụng nhiều ít
không chừng
Trạch tả (sao) 3 chỉ, Táo nhục 2 chỉ, Bạch thược 3 chỉ, Bạch trực
(sao) 3 chỉ, Hoài sơn (sao) 4 chỉ, Lão thục địa 7 chỉ, Xuyên khung
2 chỉ, Mẫu đơn 3 chỉ, Phục linh 3 chỉ, Đương qui 3 chỉ.
Sắc hai nước uống nhiều thang mới hết.
***
14.- Thuốc sản hậu (trong 15 ngày mà hóa các chứng bịnh gì
cứ uống. Còn trong 8 ngày thì cứ uống chớ ngại chi)
Đương qui vĩ 7 chỉ, Đào nhân 3 chỉ, Cam thảo chá 2 chỉ, Xuyên
khung 5 chỉ, Bào cương 2 chỉ.
223
Nước lã 1 chén, nước đái 1 chén, sắc còn 7 phân, thêm 1 chung
nước đái vô chén thuốc, thuốc sắc rồi uống ấm. Khi mới sanh đẻ
hốt hai thang, sắc thang trước lấy nước nhứt, lại sắc thang sau lấy
nước nhứt uống vô, rồi lấy cái xác của hai thang (sắc rồi) sắc nước
nhì cũng như cách trên bảo vậy. Nếu uống liền bốn thang như vậy
thì càng tốt.
***
15.- Thuốc ỉa nước nhiều và nóng nhiều.
Trạch tả 3 chỉ, Bạch trực (sao) 3 chỉ, Phòng đản sâm 3 chỉ, Trần bì
(sao) 2 chỉ, Sanh cương 5 lát, Phục linh 3 chỉ, Biên đậu (sao) 3 chỉ,
Cam thảo 2 chỉ, Sài hồ 3 chỉ, Đại táo 3 trái, Hoài sơn (sao) 3 chỉ.
Sắc 2 nước uống ấm.
***
16.- Tỳ vị, quá hư lạnh, sanh ra ỉa nước, ăn không vô.
Bạch trực (sao) 3 chỉ, Phòng đản sâm 3 chỉ, Hắc phụ tử 3 chỉ, Hắc
cương 2 chỉ, Cam thảo 2 chỉ, Phục linh 3 chỉ, Hoài sơn (sao) 4 chỉ,
Biên đậu (sao) 3 chỉ, Sanh cương 5 lát.
Sắc hai nước uống hai lần. Chừng vài thang thì hết ỉa.
***
17.- Ăn chậm tiêu, sình bụng no hơi, đau bụng, hoặc lạnh tay
chơn, ói mửa ỉa ra nước mà không thôi.
Phòng đản sâm 4 chỉ, Càn cương 2 chỉ, Hắc phụ tử 2 chỉ, Cam thảo
chích 2 chỉ, Bạch trực (sao) 3 chỉ, Hoài sơn (sao) 3 chỉ.
Hốt 1 thang sắc hai nước uống hai lần, uống 3 thang đổi toa.
***
18.- Ăn không tiêu, đau bụng,
ngăn ngực, nghẹn trong cổ
Phòng đản sâm 2 chỉ, Bạch trực (sao) 3 chỉ, Mạch nha (sao) 2 chỉ,
Thần khúc 2 chỉ, Đại táo 3 trái, Phục linh 2 chỉ, Cam thảo 2 chỉ,
Bào cương 1 chỉ, Sơn tra 2 chỉ, Gừng sống 5 lát.
Sắc hai nước uống ấm.
***
19.- Bịnh kiết đi sông nhiều,
rặn nhiều và ra đàm ít
Bạch thược (sao) 3 chỉ, Xuyên hoàng liên 4 chỉ, Vỏ lựu nướng 5
chỉ, Thương trực (sao) 4 chỉ, Quảng mộc hương 3 chỉ.
Chung lại tán nhỏ, thêm vô một chỉ nhựa bông, tán chung.
Uống mỗi lần 1 chỉ. Chừng 3 lần hết bịnh (Cần thêm nhiều cho dứt
căn). Đàn bà đẻ uống cũng được.
***
20.- Trị bịnh uất mới có, xổ êm
Sài hồ 3 chỉ, Đại hoàng 3 chỉ, Sanh cương 4 lát, Chế bản hạ 3 chỉ,
Sanh chỉ xác 3 chỉ, Xích thược dược 2 chỉ, Huỳnh cầm 2 chỉ, Đại
táo 3 trái.
Uống một nước để lâu ước chừng 2 giờ xem có đi sông
chăng hoặc có sôi ruột mà chưa sông thì uống thêm nước nhì; như
có sông mà ít thì uống thêm nửa nước nhì. Uống thuốc xổ thì nên
dè-dặt vì bịnh hư dễ xổ, bịnh thiệt khó xổ. Vậy nên mình coi thêm
bớt cho vừa ý.
***
21.- Xổ rửa sạch độc cũ, đau lâu uất bón phong nhiều, ung
độc ghẻ chốc, nóng trong mình
Phòng phong 2 chỉ, Bạch thược 1 chỉ, Xuyên khung 1 chỉ, Phát tiêu
(để riêng) 2 chỉ, Liên kiều 1 chỉ, Kiết cánh 1 chỉ, Ma hoàng 1 chỉ,
Huợt thạch 15 phân, Đại hoàng 2 chỉ, Bạc hà 1 chỉ, Cam thảo 1
chỉ, Chi tử 1 chỉ, Huỳnh cầm 1 chỉ, Bạch trực (sao) 2 chỉ, Kinh giái
1 chỉ, Thạch cao 15 phân.
Sắc 2 nước uống 2 lần (uống quá sức thuốc có hại).
***
22.- Thuốc tiêu trị bá chứng như: Thũng thực vật, bại xụi
Hương phụ tử chế 1 cân (chia 4 phần tẩm muối, tẩm gừng, tẩm
nước đái, tẩm giấm trọn đêm, sao cho cháy một chút). Hắc sửu
nửa cân (phân nửa sao, phân nửa để sống). Ngũ linh chỉ 1 cân
224
(rửa sạch, tẩm giấm sao cháy một chút). Tạo giác nửa cân (để
sống).
Bốn vị chế xong đều tán nhỏ, khuấy hồ gạo vò viên bằng hột
bắp, mỗi lần uống 30 hoàn với nước trà tống hạ, như uống nhiều
bằng 2 thì xổ êm, uống ít thì tiêu.
***
23.- Đau lưng
Trạch tả (sao) 3 chỉ, Mẫu đơn 3 chỉ, Lão thục địa 7 chỉ, Đổ trọng
(sao muối) 2 chỉ, Táo nhục 2 chỉ, Hoài sơn (sao) 4 chỉ, Phục linh 3
chỉ, Thục đạn 2 chỉ.
Sắc hai nước uống ấm.
***
24.- Tức và lói ra sau lưng
Sài hồ 4 chỉ, Bạch trực (sao) 3 chỉ, Phục linh 4 chỉ, Bạc hà 2 chỉ,
Hương phụ chế 3 chỉ, Bạch thược (sao) 4 chỉ, Đương qui 3 chỉ,
Cam thảo 1 chỉ, Ô dước 2 chỉ.
Sắc hai nước thêm 5 lát gừng sống.
***
25.- Phong đau mình, nhức mỏi,
bổ huyết và hành huyết, bổ khí
Lão thục địa 4 chỉ, Xuyên khung 3 chỉ, Phòng đản sâm 4 chỉ, Bạch
trực (sao) 3 chỉ, Độc huợt dương 2 chỉ, Xuyên túc đoạn 2 chỉ, Bạch
thược (sao) 3 chỉ, Đại qui đầu 3 chỉ, Phục linh cũ 2 chỉ, Cam thảo 2
chỉ, Chá hoàng kỳ 2 chỉ, Linh tiên 2 chỉ.
Sắc hai nước uống hai lần. Uống 2 thang nghỉ. Rồi uống toa
thuốc dưới đây:
Độc huợt 2 chỉ, Đổ trọng (sao) 3 chỉ, Tế tân 1 chỉ, Tần giao 2 chỉ,
Quế tâm 1 chỉ, Cam thảo 2 chỉ, Phòng phong 2 chỉ, Xuyên khung 2
chỉ, Tang ký sanh 3 chỉ, Ngưu tất 2 chỉ, Phòng đản sâm 3 chỉ, Phục
linh 2 chỉ, Bạch thược 2 chỉ, Thục địa 4 chỉ, Đại đương qui 3 chỉ,
Sanh cương 5 lát.
Sắc 2 nước chế thêm một chung nhỏ rượu, chia ra làm hai,
uống luôn hai, ba thang mới hay. Bịnh có bớt, uống thêm càng tốt.
***
26.- Mạnh tỳ vị, mau tiêu,
bổ về phần khí cho sanh huyết
Phòng đản sâm 3 chỉ, Bạch trực (sao) 3 chỉ, Đại táo 3 trái, Sanh
cương 5 lát, Phục linh cũ 3 chỉ, Cam thảo 2 chỉ, Hoài sơn (sao) 3
chỉ, Liên nhục (sao) 2 chỉ.
Sắc hai nước uống cho nhiều.
***
27.- Ăn ngủ không được, mệt,
lạnh tay chơn nghẹn cổ, chóng mặt
Trạch tả (sao) 3 chỉ, Mẫu đơn bì 3 chỉ, Lão thục địa 7 chỉ, Hắc phụ
tử 1 chỉ, Đỗ trọng (sao muối) 2 chỉ, Hoài sơn (sao) 4 chỉ, Táo nhục
2 chỉ, Phục linh cũ 2 chỉ, nhục quế (gói riêng) 1 chỉ, Ngưu tất 2 chỉ.
Hốt 1 thang sắc hai nước, vắt xác lấy nước cốt quế ngâm
riêng nước sôi để nguội, lấy ra ngâm lại, lần thứ nhì, rót lại hai
nước quế và nước thuốc chung vô 1 tô, trộn đều chia làm hai uống
hai lần, uống hơi nguội một chút, cử ăn hành, tỏi và tiêu vì phạm
thuốc.
***
28.- Ăn ngon ngủ nhiều
Đại đương qui 3 chỉ, Long nhãn nhục 2 chỉ, Phòng đản sâm 3 chỉ,
Chánh phục thần 2 chỉ, Quảng mộc hương (gói riêng) 5 phân, Tàn
táo (sao) 2 chỉ, Viễn chí 2 chỉ, Bạch trực (sao) 3 chỉ, Chá hoàng kỳ
4 chỉ, Cam thảo 2 chỉ.
Sắc hai nước uống ấm. Mộc hương để ngoài, mài riêng,
thuốc sắc tới rồi chế vô trộn đều chia ra hai phần uống hai lần.
***
29.- Bổ tim, dưỡng tỳ, trị bịnh hồi hộp, làm
cho ăn ngủ ngon, mạnh tinh-thần khí lực
Phòng đản sâm 3 chỉ, Bạch trực (sao) 3 chỉ, Lão thục địa 4 chỉ,
Đương qui lớn 3 chỉ, Ngũ vị tử 1 chỉ, Hoàng kỳ chá mộc 4 chỉ, Sanh
cương 5 lát, Phục Linh 2 chỉ, Cam thảo 2 chỉ, Bạch thược (sao) 2
chỉ, Viễn chí 2 chỉ, Trần bì (sao) 2 chỉ, Nhục quế 1 chỉ.
225
Sắc hai nước uống ấm.
***
30.- Bổ trung chơn, trị đau lâu, ăn ngủ ít, tay chơn bải-hoải,
mồ hôi ra nhiều, cổ chẳng thông, có đàm nhiều.
Hoàng kỳ chá mộc 4 chỉ, Phòng đản sâm 3 chỉ, Đại đương qui 3
chỉ, Thăng ma 2 chỉ, Đại táo 3 trái, Cam thảo 2 chỉ, Bạch trực (sao)
3 chỉ, Bắc sài hồ 2 chỉ, Trần bì (sao) 2 chỉ, Sanh cương 5 lát.
Sắc hai nước uống ấm.
***
31.- Chận cử rét (lạnh nhiều hơn nóng)
Bắc sài hồ 3 chỉ, Phòng đản sâm 3 chỉ, Cam thảo 2 chỉ, Bạch trực
(sao) 3 chỉ, Lá Thường sơn tẩm rượu (sao) 5 lá, Chế bản hạ 3 chỉ,
Điều cầm 2 chỉ, Phục linh 2 chỉ, Thảo quả 3 chỉ.
Sắc hai nước, uống trước khi làm cữ một giờ.
***
32.- Chận cữ rét (nóng nhiều hơn lạnh)
Lão thục địa 4 chỉ, Xuyên khung 2 chỉ, Bắc Sài hồ 3 chỉ, Chế bản
hạ 3 chỉ, Cam thảo 2 chỉ, Thảo quả 3 chỉ, Bạch thược 3 chỉ, Đại táo
3 trái, Lá Thường sơn tẩm rượu (sao) 5 lá, Đương qui 3 chỉ, Điều
cầm 2 chỉ, Phòng đản sâm 3 chỉ.
Sắc hai nước, uống trước khi làm cữ một giờ.
***
33.- Con nít ói sữa
Thiên sanh ư trực 1 chỉ, Phòng đản sâm 1 chỉ, Phục linh 5 phân,
Xuân sa nhơn 8 phân, Cam thảo chá 5 phân, Hoài sơn 1 chỉ, Biên
đậu 1 chỉ, Hoát hương 3 lá.
Hốt một thang để vô chưng cách thủy, một chén còn lại bốn
phân cho uống, chẳng cần mấy thang, con uống nước nhứt, mẹ
uống nước nhì, cứ uống cho nhiều thì mau hết. Đừng để lâu vì
bịnh nầy hay hại con nít.
http://www.vietnamvanhien.org/SamGiangThiVanToanBo.pdf
Tìm hiểu tập quán cúng cô hồn hay lễ Mông Sơn thí thực
23/10/2010 10:55:00Trần Trọng Khoái
Đã đọc: 29388 Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font
image
http://www.daophatngaynay.com/vn/fil..._453288799.jpg
Việc siêu độ cô hồn có thể phát xuất từ đời nhà Đường bên Trung Quốc khi ngài Huyền Trang trở về sau chuyến Tây Du, lập đàn siêu độ cho tứ sanh đang luân hồi trong lục đạo.
Khi xem chương trình đại lễ Vu Lan có phần cúng Mông Sơn Thí Thực, nhiều em trong gia đình Phật tử luận bàn với nhau, rồi đưa một em hỏi chúng tôi về xuất xứ và xin giảng giải về điển tích "Mông Sơn", bởi lẽ người hay đi chùa chỉ nghe nói cúng Mông Sơn, đương nhiên họ đã tạm hiểu rồi, nhưng sao người ta không nói cúng Tịnh Thủy để thêm ý nghĩa thanh đạm tự nhiên, hay nói "cúng thí" như ngày xưa cho dễ hiểu, mà phải dùng từ lạ lại thêm phiền?
Nhớ lại năm xưa viết về Giai Tiết Vu Lan, tôi có sơ lược về cúng Âm Linh Cô Hồn, tác tạo phước duyên, cầu âm siêu dương thái. Tôi tìm hồ sơ lưu và đọc thêm các tài liệu ngoài đời, chúng tôi viết bài bổ túc về hậu Vu Lan để cống hiến chư đồng hương, đồng đạo thưởng lãm, đồng thời đáp ứng nhu cầu học hỏi của giới trẻ rất ngộ nghĩnh kỳ thú, nhưng hàng phụ huynh lắm lúc ít quan tâm.
Theo nghi lễ Á Đông, khi chiến cuộc kết thúc, kẻ được ca khúc khải hoàn thường tế lễ các bậc anh hùng đã xả thân vì quốc gia dân tộc, truy điệu các chiến sĩ trận vong và đồng bào tử nạn, chẳng hạn như Vua Quang Trung đại phá quân Thanh năm Kỷ Dậu (1789) đã hạ chiếu làm lễ tưởng niệm các chiến sĩ hữu công và tiến cúng cô hồn, kể cả mấy vạn quân Thanh đã thành ra oan hồn uổng tử. Vua Gia Long sau khi thống nhất sơn hà cũng thiết tràng siêu độ cho quan quân tử sĩ và những oan hồn vì chiến cuộc do ông Nguyễn Văn Thành giữ chức Tổng Trấn Bắc Thành soạn bài văn tế Tướng Sĩ Trận Vong và Cô Hồn Thập Loại bằng quốc âm là một áng văn kiệt tác trong nền quốc văn cận đại (1802).
Bộ Lễ của tiền triều cũng có phần tế cô hồn vào tiết tháng 7 mà những áng văn của các danh nhân biên soạn như Phan Huy Ích nguyên là sứ thần của Tây Sơn sang thăm xã giao, đã xướng họa thi văn với vua Càn Long, được Thanh triều trọng vọng. Lúc về nước ông được gia phong Thượng Đại Phu Thị Trung Ngự Sử, hay cụ Nguyễn Du, tác giả tập Đoạn Trường Tân Thanh còn lưu lại Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh bằng chữ Nôm, được tìm thấy ở Chùa Hưng Phúc, xã Xuân Lôi, huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh, sau này được in trong quyển "Ứng Phó Dư Biên Tổng Tập".
Cụ Lê Thước cũng tìm được một bản nôm khác của soạn giả Nguyễn Tiên Điền ở Chùa Diệc miền bắc Nghệ An, cụ phiên âm sang quốc ngữ và ấn hành vào năm 1924. Năm 1926 Trần Trung Viên cho in vào tập I, trong Văn Đàn Bảo Giám và năm 1927 lại xuất hiện trên Nam Phong Tạp Chí số 178, Tạp Chí Văn Học số 2 năm 1977 cũng đăng lại bản hiệu đính của cụ Hoàng Xuân Hãn với 8 câu đầu:
"Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt
Gió heo may lạnh buốt xương khô
Não người thay bấy chiều thu
Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng
Đường bạch dương, bóng chiều mang mác,
Ngọn đường lê lác đác mưa sa,
Làng nào lòng chẳng thiết tha,
Cõi dương còn thế, nữa là cõi âm!"
Chư độc giả đồng hương muốn rõ Thập Loại Cô Hồn là những ai, xin vui lòng đọc tiếp:
"Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Chút khôn thiêng phảng phất u minh,
Thương thay Thập Loại Chúng Sinh,
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người,
Hương khói đã không nơi nương tựa,
Hồn mồ côi lần lữa đêm đen,
Còn chi ai khá, ai hèn,
Còn chi mà nói kẻ hiền, người ngụ"
"Thế sự nhược đại mộng", khi thăng hoa, lúc thất bại đôi khi cũng cận kề, có ai ngờ nhà văn Phan Huy Ích, một danh sĩ lỗi lạc được trích dẫn vừa rồi và em vợ là Ngô Thời Nhiệm, nhà văn học lẫy lừng, nhà chính khách có biệt tài và nhiều sáng tạo, cả hai đều thi đỗ Tiến Sĩ từ lúc tuổi xuân, vang danh một thuở, nhưng chung cuộc với cái chết lạnh lùng đơn bạc của hai ông khác gì sự ra đi âm thầm của vị cựu Thủ Tướng tài ba Phan Huy Quát tại Sàigòn năm 1979!
Người nằm xuống, thì người còn lại phải khói hương truy niệm, nhất là nhờ uy đức của Tam Bảo giải oan bạt độ cho hương linh được cao siêu tịnh giới, chứ phẩm vật tiến cúng chỉ là ý niệm của thế nhân, tưởng không cần thiết lắm, nên soạn giả viết tiếp:
"Tiết đầu Thu lập đàn giải thoát,
Nước Tịnh Bình rưới hạt Dương Chi,
Muốn nhờ đức Phật từ bi,
Giải oan cưù khổ, hồn về Tây phương."
Trước đây từ phố thị đến thôn trang, đâu đâu cũng thấy có "đàn âm linh" hay "am chúng sinh", nơi tương đối hoang vu tịch mịch hoặc tại các vùng mộ địa tha ma, với tập tục hằng năm nhân dân địa phương chọn ngày thuận tiện để cùng nhau sửa chạp những mồ vô chủ và tiến cúng âm hồn. Sau phần cúng vái thì bánh quà, phẩm vật... dành cho người nghèo khó neo đơn, hay các trẻ em được tự do chung hưởng.
Nhiều nơi, nhiều vùng được quân dân dấy nghĩa chống xâm lăng, nhưng việc không thành, có người tuẫn tiết, hay nhiều kẻ vong nhân! Do sự kính ngưỡng tôn vinh người hy sinh vì đại nghĩa, nên nhân dân khói hương tưởng nhớ, sau cúng vái quân binh các ngài, thành ra mỹ tục từng địa phương, như tại vùng Chợ Lớn, Tân An, Gò Công, Cần Giuộc, rộng ra là 6 tỉnh Nam Kỳ có tục lệ truy niệm vị anh hùng chống Pháp Trương Công Định và các nghĩa quân của ông vào mùa ông đền nợ nước năm 1864. Trong thơ ai điêù Trương Tướng Quân, cụ Đồ Chiểu viết:
"Trăm nấm mộ binh, vầy lớn nhỏ.
Một gò cô lũy, chống hôm mai!
rồi cụ kết luận:
Hay dở phải chăng trời đất biết?
Một tay chống đỡ mấy năm dài?
Nhà văn Nguyễn Đình Chiểu, bậc lão thành trung dũng còn lưu lại mấy bài văn tế nổi tiếng như "Văn Tế Sĩ Dân Lục Tỉnh" và "Văn Tế Vong Hồn Mộ Nghĩa".
Cùng một ý nghĩa trên, tại vùng Kiên Giang, Rạch Giá có tập tục truy niệm ông Nguyễn Trung Trực và quân binh tử sĩ, đồng bào nạn vong gần thập niên 1861 - 1868 trong phong trào anh dũng chống Pháp của nhà chiến sĩ ái quốc Kiên Giang, đã hy sinh tại Rạch Giá. Mỹ tục này đã lan ra hải ngoại, nơi có đông người Kiên Giang - Rạch Giá định cự Đặc biệt ở Thừa Thiên - Huế sau khi vua Tự Đức băng hà, trong triều có phe "chủ hòa" với nhiều quan lại và nhóm hoàng thân quốc thích muốn cầu an thụ hưởng, ngược lại nhóm "chủ chiến" do vị Phụ chính đại thần kiêm Binh Bộ Thượng Thư Tôn Thất Thuyết cầm đầu, ông lo huấn luyện quân binh, thành lập đội quân "Đoàn Kết" và "Phấn Nghĩa" trong hoàng thành, lập Tân Sở ở Quảng Trị làm hậu cứ chống Pháp. Thực dân Pháp ngày càng gây áp lực với Nam Triều. Khi Trung tướng De Courcy vào hoàng thành, đòi mở cửa Ngọ Môn cho quân Pháp cùng vào là điều nhục quốc thể, buộc lòng ông Tôn Thất Thuyết tạo ra cuộc binh biến chống Pháp lúc giờ Tý ngày 23/5 năm Ất Dậu (05/7/1885). Đại sự bất thành, Tôn Thất Thuyết và nhóm chủ chiến phò vua Hàm Nghi ra Tân Sở, rồi tiến về Hà Tỉnh xuống chiếu Cần Vương, kêu gọi toàn dân chống Pháp.
Cuộc hưng binh chống Pháp đền nợ non sông của vua Hàm Nghi, ông Tốn Thất Thuyết và quân chủ chiến có chính nghĩa, nên được nhiều nhân sĩ khắp nơi hưởng ứng. Thường những cuộc chiến chinh đương nhiên phải đổ maù, phần đông là lương dân lúc bấy giờ nghe tiếng súng ì ầm với việc động binh là mạnh ai nấy chạy không cần biết đường lối nào cả, nhất là khi quân Pháp vào hoàng thành càn quét thanh toán, lại gây ra chuyện tổn thương nhân mạng không sao kể xiết!
Từ đó về sau, nhân dân Thừa Thiên - Huế có tập tục cúng Cô Hồn Tử Sĩ, kỷ niệm ngày "Kinh Thành Thất Trận Ất Dậu Niên Gian". Ở Huế có rất nhiều văn tế của giới trí thức và những bài vè trường thiên khích lệ tinh thần chống Pháp rất lâm ly tha thiết, nên nhiều người đã thuộc lòng.
Ai cũng nghĩ rằng có cô hồn vất vưởng nên cần các thức ăn, đồ mặc, tiền bạc để chi tiêu... tạo ra tập tục đốt vàng mã, áo giấy tốn kém khá nhiều. Lúc Phật giáo chấn hưng, chùa chiền không cần đồ giấy cúng vong linh nữa, nên nhiều nơi đã thay vì chi tiền mua vàng mã cúng đốt vu vơ, để mua ít vải vóc, gạo bánh hay vật dụng phân cấp cho các bạn nghèo với dụng ý là cầu "âm dương đều lợi lạc".
Luận bàn về việc tế tự người đã khuất, tưởng không nên nặng về "sự việc" tức là chuộng hình thức, rồi sinh ra tập tục cúng bái dị đoan mà chỉ xét về "ý nghĩa", lấy tinh thần làm căn bản là hơn. Nói rộng ra, chẳng những người Phật tử thường tỏ lòng hiếu kính với nội ngoại tôn thân, nêù có thể được họ còn thể hiện hạnh từ ái, vị tha, giúp đỡ được chút gì cho các đồng hương, đồng loại là thiết thực. Qua truyền thống Vu Lan, người Á Đông còn ghi ân các chiến sĩ trận vong, truy niệm đồng bào tử nạn, tiến cúng Thập Loại Cô Hồn như đã nói trên, tốt nhất là phần nguyện cầu để chuyển nghiệp cho nhau, do đó ta thấy phẩm vật tiến cúng Âm Linh rất đạm bạc, giản đơn, nói chung là không cần mỹ vị cao lương cho khó kiếm, mà chỉ dùng hương hoa trà quả, thêm xôi chè bánh mứt, ít cháo hoa, chén cơm trắng, tượng trưng về trai phạn nhà chùa là tốt.
Việc thiết cúng Mông Sơn hay chẩn tế cô hồn với hậu ý bày tỏ chân tình với đồng loại, chứ người đã khuất bóng, thì ngũ uẩn tuồng như mất hết! Thân uẩn tức là sắc tướng không còn, thì có đâu lớn bé rộng hẹp mà ta lo may áo xống, sắm xe cộ gởi về cho hương linh? Suy ra, 3 uẩn tiếp theo tức là thô, tưởng, hành uẩn cũng không có, chỉ còn thức uẩn mịt mờ mênh mang, khiến cho linh hồn hay thần thức cảm nhận sự vui buồn, no đói hay thanh thoát, tủi hờn... là do nghiệp lực đã tạo ra từ lúc sinh tiền vậy thôi, chứ không thực hữu. Tỉ như ban ngày ta tiếp bà con từ xa đến, ăn uống vui vẻ, chuyện vãn thân thương ... sự việc ấy lắng đọng trong tiềm thức, khi gặp thuận duyên có thể tái phát trong giấc mơ với đầy đủ chương trình thứ lớp, nào là tiếp khách trong phòng sang trọng, nhận tặng phẩm đẹp, mừng vui được ăn ngon, uống trà thơm...
Trong cơn mộng đẹp đó, nêù có tiếng động mạnh làm ta thức giấc, thử hỏi có còn gì chăng? Tất cả đều không thực hữu, chỉ còn chút thức uẩn cảm nhận lờ mờ, vì vậy mà có giấc mơ ta còn nhớ lâu, vài chuyện không cần thiết sẽ quên luôn. Nói cách đơn giản thì hương linh cũng vậy thôi, nêù sinh thời không gây nghiệp sát sinh, thì thần thức hòa ái tự nhiên. Không bỏn sẻn hay tham lam tiền tài vật thực, thì thức uẩn rất bình thản về vật chất. Sinh thời không tị hiềm, đố kỵ thì linh hồn luôn hỉ xả thanh cao. Bởi lẽ đó nên nói chung việc tiến cúng người đã khuất, cần thể hiện lòng thành khẩn cầu nguyện, để chư hương linh cởi bỏ phàm tâm thâm nhập Phật tánh, như kẻ lầm đường lạc lối được thiện hữu dẫn dắt đưa về hướng quang minh thật là hợp lý.
Việc siêu độ cô hồn có thể phát xuất từ đời nhà Đường bên Trung Quốc khi ngài Huyền Trang trở về sau chuyến Tây Du, lập đàn siêu độ cho tứ sanh đang luân hồi trong lục đạo. Qua đời Tống, ngài Bất Khinh Tam Tạng chuyên tu Mật Giáo ở Mông Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, quán biết các cô hồn đang vất vưởng, đòi hỏi những nhu cầu cần thiết, nên Ngài vận dụng pháp lực để cung ứng và siêu độ cho họ.
Việc cúng Mông Sơn thí thực tại chùa hay bạt độ chẩn tế cô hồn có thể khởi đầu từ đời nhà Tống tại Mông Sơn, Tứ Xuyên nên trong khoa nghi mệnh danh là "MÔNG SƠN THÍ THỰC", hiện nay ở các tự viện thường có bàn thờ đức Hộ Pháp Bồ Tát, ngụ ý là vọng bái các vị thiện thần, hàng phục tà ngụy, hộ trì chánh pháp lợi lạc sinh linh, đối diện với án thờ ngài Tiêu Diện Đại Sĩ, thống lĩnh chư âm linh cô hồn văn kinh thính pháp thọ cam lồ vị vào mỗi buổi chiều, là giờ ăn của ma quân ngạ quỷ, hay là sau những tiết lễ long trọng có phần Mông Sơn Thí Thực trước khi hoàn mãn, nhất là trong tiết Thu lá rụng mưa ngâu, mùa rét lạnh đến... người ta dễ chạnh lòng tưởng nhớ đến các cô hồn còn phảng phất bên chân trời góc biển mù khơi mà lập đàn tiến bạt cầu siêu, với chân tâm thành ý:
"Nguyện đem công đức này,
Hướng về khắp tất cả,
Người còn với kẻ khuất,
Đều trọn thành Phật Đạo."
oOo
http://www.daophatngaynay.com/vn/ngh...-thi-thuc.html
BẠCH Y THẦN CHÚ + KINH TÔ TẤT ĐỊA
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...D-ki%E1%BA%BFn
Lama Ole Nydahl invited to London to attend Kalachakra Initiation by H.H. Sakya Trizin
https://blog.dwbuk.org/wp-content/up...ya-Trizin1.jpg
https://i.imgur.com/EaHaY9W.jpg https://i.imgur.com/WrzQzpW.jpg
Lama Jampa Thaye, Dechen Dolma, Lama Ole Nydahl and Caty Hartung at the Kalachakra Initiation in London
https://blog.dwbuk.org/diamond-way-b...-sakya-trizin/
https://i.imgur.com/ZHdHcmg.png https://i.imgur.com/8OXqqdS.png
https://issuu.com/hvpgnguyenduc/docs/thichnhatthien
================
Thichnhatthien by Học Viện Phật Giáo Huế - issuu
https://issuu.com › hvpgnguyenduc › docs › thichnhatth...
Translate this page
Nov 7, 2013 - Title: Thichnhatthien, Author: Học Viện Phật Giáo Huế, Name: Thichnhatthien, Length: 227 pages, Page: 1, Published: 2013-11-08.
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...M%C3%A3/page97
https://issuu.com/hvpgnguyenduc/docs/thichnhatthien
Mão Tỳ Lô Giá Na:
Câu kệ chú:
Tỳ Lô đảnh thượng tôn
Tam giới vô luân thất
Ngã kim đảnh thượng thọ
Phụng thỉnh Tỳ Lô Tôn
Án A Hồng Nhựt Tóa Ha
Nam mô Tỳ Lô Giá Na Phật
Tỳ Lô Giá Na là pháp giới thể tánh của vô lượng chư Phật. Tất cả ai thành Phật cũng nhập chung thể tánh ấy.
Đường về TỊNH ĐỘ qua Truyện Tây Du Ký của Tỳ Kheo Thích Nhật Quang: http://chualongphuoc.thientinhmat.com/duong-ve-tinh-do/
====================
https://i.imgur.com/ZHdHcmg.png https://i.imgur.com/8OXqqdS.png
Luận Văn Tốt Nghiệp: Tìm Hiểu Về Du Gìa Diệm Khẩu Thí Thực Khoa Nghi của Thích Nhật Thiện / Thichnhatthien by Học Viện Phật Giáo Huế - issuu : https://issuu.com/hvpgnguyenduc/docs/thichnhatthien
“毘盧頂上尊。遍滿虛空界。 眾生離苦趣。八部來護持。 人千共喜悅。奄精進慧莎訶。
ÁN TINH-TẤN-TUỆ TÓA-HA
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...%BB%80N/page32
北斗心咒曰:
嗡,薩打楠,及那雅,梭哈。
om sapta-nam jinaya svaha
北斗增益咒曰:
嗡,薩打楠,及那雅,巴薩巴那耶, 楠,布師頂古如,梭哈。
om sapta-nam jinaya karsapanaye dha-nam? pushtim kuru svaha
(註:karsapana,錢財之意)
北斗延壽咒曰:
嗡,薩打楠,及那雅,阿育兒達爹, 師頂古如,梭哈。
om sapta-nam jinaya ayur-date pushtim kuru svaha
北斗開智慧咒曰:
嗡,薩打楠,及那雅,阿囉巴加那提 吽呸,梭哈
om sapta-nam jinaya a-ra-pa-ca-na-dhih hum phat svaha
https://dharmanote.blogspot.com/sear...BE%85%E5%B0%BC
印(加持水時用右手結此印):
https://1.bp.blogspot.com/-fxQy33-d0...258D%25B0.webp
覺龍-寶藏天女相關手印
咒語發音:
Ong 夏啦夏裏 得啦噶得啦噶 微達啦尼 斯哇哈
https://dharmanote.blogspot.com/sear...97%8D%E6%A2%A8
Kinh Nhất Thiết Như Lai Tâm Bí Mật
Toàn Thân Xá Lợi Bảo Khiếp Ấn Đà-la-ni
Sutra of Casket Seal Dharani from Secret Whole
Bodies Relics of all Buddha Hearts
Hán dịch: Bất Không/Amoghavajra (705-774)
Việt dịch: Nguyên Hiển
English Translation: Nguyên Hiển
The Buddha ‘s three bodies are also inside .
Then the Buddha spoke the Dharani :
NAMAH STRYI DHVI KANAM , SARVA
TATHAGATANAM ,OM BHUVIBHA VADHAVARI
VACHARI VACHATAI , SURU SURU DHARA DHARA , SARVA
TATHAGATA DHATUDHARI
PADMABHAVATI JAYAVARI , MUDRI SMARA TATHAGATA
DHARMA CHAKRA , PRAVARTTANA VAJRI
BODHI PANA , RUMKARA RUMKRITI ,
SARVA TATHAGATA DHISTITE , BODHAYA
BODHAYA BODHI BODHI , BUDDHYA BUDDHYA , SAMBODHANI
SAMBODDHAYA , CHALA CHALA CHALAMTU ,
SARVA VARANANI , SARVA PAPAVIGATE , HURU HURU
SARVA SUKHAVIGATI , SARVA TATHAGATA HARIDAYA VAJRANI ,
SAMBHARA SAMBHARA ,
SARVA TATHAGATA SUHAYA ,
DHARANI MUDRI , BUDDHI SUBUDDHI , SARVA TATHAGATA DHISTITA ,
DHATU GARBHE SVAHA ,
SAMAYA DHISTITE SVAHA ,
SARVA TATHAGATA HARIDAYA , DHATU MUDRI SVAHA ,
SUPRA TISHITA STUBHE
TATHAGATA DHISTITE , HURU HURU HUM HUM SVAHA ,
OM SARVA TATHAGATA USNISA ,
DHATU MUDRANI , SARVA TATHAGATAM SADHA
TUVIBHUSITA , DHISTITE HUM HUM SVAHA .
http://vnbaolut.com/daitangvietnam/T...ate_t1022b.pdf
藏传佛教六道轮回图, The wheel of life and death
http://1.bp.blogspot.com/-svCnyA6DmL...00/LunHui1.jpg https://anh4.com/image/TOeCD https://i.imgur.com/oCrYfNp.jpg
http://lotusbodhi.blogspot.com/2014/06/
http://www.donghuasi.org/ueditor/php...0871512827.jpg
新闻】法性为坛——东华禅寺2018年水 空法会内坛佛事-
http://www.donghuasi.org/news_detail.php?id=1183
[1] Trước khi mãn một tiểu kiếp, sẽ xẩy ra 7 ngày binh đao chiến tranh, 7 tháng bịnh dịch hoành hành và 7 năm hạn hán đói khát
[2] Ngọc phép (cintamani) hay ngọc như ý: khi tâm nghĩ điều gì thì liền có điều đó. Lu thần (bhadragata): khi cần điều gì, chỉ cần thò tay
vào lu là lấy được. Linh chú (Siddhavidya): khi đọc câu chú này thì mọi việc đều thành tựu. Cỏ thuốc (mahaushadhi): là một cỏ chữa bá
bịnh. Cây như ý (kalpaviksha) và con bò ước (kamadhenu) là bảo vật của chư thiên. Trái cây và sữa bò cho ra tất cả điều ước.
http://www.amitayus.net/tu-lieu-pdf/...-Hang-Ngay.pdf