-
https://www.youtube.com/watch?v=YKpqJgDFF_s
Sự tích ông Địa Bụng Bự - Sự tích về thần tài ông Địa ♫ Bé thương ông Địa - Nhạc thiếu nhi vui nhộn
=========
Sự tích Ông Địa
10-12-2015 - 28104 views
Ngày trước, người dân đất Việt vốn sống nhờ nông nghiệp là chủ yếu. Nông nghiệp lại phụ thuộc nhiều vào các yếu tố tự nhiên như đất đai, khí hậu, thời tiết… Mà trong đó phải kể đến đất đai. Có thể nói đó là điều kiện cơ bản nhất để tạo nên vạn vật trên thế gian, giúp con người được sống sung túc và ấm no. Chính vì vậy mà Thổ Thần, hay còn gọi là Thần Đất luôn là một vị thần được cư dân làm nông sùng bái trước nhất.
Sử sách ghi lại cho biết, Nam Bộ vốn là vùng đất mới, khi đặt chân đến vùng đất này thì nó vẫn là vùng nê địa, đầm lầy, cỏ rậm rừng hoang, tràn đầy thú dữ… Tất cả mọi thứ ở đây đều lạ lẫm với con người, thế nên cả tiếng cá quẫy nước, tiếng chim gọi bầy hay tiếng gầm rống của cọp, tiếng gió gào rít qua cành lá đều làm cho họ cảm thấy sợ hãi.
Truyện cổ tích: Sự tích ông địa
Truyện cổ tích Việt Nam: Sự tích Ông Địa
Có câu rằng: “Tới đây nơi xứ lạ. Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng ghê.”
Dân chúng tới vùng Nam Bộ này lúc đó đều cho rằng nơi đây, từ con sông, khu rừng, vùng đất… mọi thứ đều do các vị thần linh cai quản. Vì muốn yên ổn sinh sống và làm ăn nên họ hô hào nhau làm lễ khấn vái, cầu cúng đủ kiểu cho các vị thần mong thần phù hộ để họ được ấm no, bình an và hạnh phúc.
17 kg mỡ bụng tan ra trong một đêm! Trước khi đi ngủ uống một ly ...
17 kg mỡ bụng tan ra trong một đêm! Trước khi đi ngủ uống một ly ...
Phát hiện bất ngờ từ giáo sư người Việt! Hồi phục khớp, nếu trước khi đi ngủ...
Phát hiện bất ngờ từ giáo sư người Việt! Hồi phục khớp, nếu trước khi đi ngủ...
Hàng tấn ký sinh trùng sẽ bị tẩy đi nếu khi bụng đói, bạn uống một…
Hàng tấn ký sinh trùng sẽ bị tẩy đi nếu khi bụng đói, bạn uống một…
Từ 80 kg còn 53! Giảm cân trong một tháng dành cho những bạn lười nhất!
Từ 80 kg còn 53! Giảm cân trong một tháng dành cho những bạn lười nhất!
Chính bởi lẽ đó nên Thổ Địa rất được dân chúng tôn thờ và sùng kính hết mực. Tất cả đều xem thần Thổ Địa là vị thần luôn bảo hộ từng thửa ruộng, từng mảnh vườn của họ.
Nói tới hình tượng của Ông Địa nơi Nam Bộ, những tượng cùng tranh vẽ về Ông Địa thường sẽ là một người trung niên, tướng tá mập mạp, có chiếc bụng bự, lại có vú lớn, còn miệng thì lúc nào cũng cười ha hả, tay thì mang quạt, tay kia thì cầm theo điếu thuốc… nhìn rất phương phì, đầy chất hào sảng và phong thịnh. Hơn nữa nó cũng mang nét gì đó rất hài hước. Điều đó cũng là một điểm đặc trưng của tính cách người dân Nam Bộ.
Dân Nam Bộ vẫn thường tin vào thần linh, tuy vậy không phải lúc nào họ cũng tuyệt đối hóa việc thờ phụng. Những khi họ tin Ông Địa thì họ thờ cúng, khấn vái quanh năm suốt tháng. Nhưng những lúc mùa màng gặp thất bát, thua lỗ trong buôn bán, họ tới cầu vái Ông Địa rất nhiều, nếu không thấy cuộc sống của mình khấm khá lên chút nào, họ vẫn sẵn sàng mang Ông Địa bỏ ngoài gốc cây, vứt vào hốc đá, thậm chí quẳng luôn xuống dưới sông.
Có lẽ vì thế mà ở Nam Bộ, khoảng cách giữa Ông Địa với con người dường như rất là ngắn. Ông hệt như vị thần chốn dân dã gần gũi và gắn liền với cuộc sống chốn nhân gian.
Vì thế mà giai thoại nói về Ông Địa nhiều không sao kể xiết. Tất cả đều là do nhân dân tự sáng tác, mục đích chính là giải thích cho những đặc điểm hình thể của Ông Địa cũng như lí giải một số hiện tượng, sự việc kì lạ trong đời sống thường ngày của mình.
Một trong số giai thoại đó phải kể đến chuyện “Sự tích Ông Địa bụng bự”, chuyện như sau:
Ngày xửa ngày xưa, lúc đó Ông Địa vẫn có cái bụng giống như người bình thường. Ngày đó ông có kết thân cùng Hà Bá. Ở vùng đó có mụ góa phụ, mụ ta tính tình thì chua ngoa vô cùng, nhưng lại có được một người con gái vô cùng xinh đẹp. Phải nỗi mụ này có cái tật, mỗi khi mở miệng chửi con là y rằng sẽ có mấy câu đầu lưỡi là:
– Má mày Hà Bá!
Khi nghe được thì Ông Địa buồn cười lắm. Sau đó ông tìm đến chỗ Hà Bá, nửa đùa nửa thật mà nói:
– Anh thật tốt phước đấy Hà Bá ạ! Nơi này có người ngày nào cũng có một người kêu gào muốn hiến cô con gái xinh đẹp của mình cho anh.
Thấy Ông Địa nói vậy, Hà Bá tin là thật, hớn hở bảo rằng:
– Thiệt vậy chớ? Ai thế? Anh làm mai liền dùm tôi nghe không?
Nể giao tình đã lâu, Ông Địa gật đầu đồng ý.
Ngày hôm sau, lúc trời vừa sáng thì Hà Bá đã tới kêu Ông Địa dẫn mình đi. Khi đến trước cổng nhà của mụ góa kia. Vì trời vẫn sớm nên con gái mụ ta chưa ngủ dậy, chỉ có bà mẹ đang quét dọn ở ngoài sân.
Đương lúc bà ta dọn dẹp thì có con chó cái canh nhà vẫn nằm lì chỗ đó, mụ ta đuổi mãi mà nó không chịu xê dịch thân mình. Cứ đuổi hoài không xong, nổi xung, mụ ta quay ngược cán chổi, vung lên đập cho con chó cái một đòn, miệng chửi mắng:
– Cái đồ Hà Bá!
Ngờ đâu nghe mụ ta chửi vậy, Hà Bá tức lắm, liền giơ chân đạp Ông Địa một phát rồi mắng:
– Khốn nạn! Mày lừa tao! Dám dẫn tao đến cưới con chó kia à?
Không ngờ chỉ một đạp ấy mà Ông Địa liền rơi tõm xuống dưới kinh. Chưa tính tới trường hợp này nên Ông Địa buồn cười lắm, lúc bị rơi vào giữa kinh vẫn há miệng cười ngất, vì vậy mà ông uống phải rất nhiều nước kinh. Nhiều đến mức mà cái bụng vốn bình thường của ông cứ theo đà lớn dần, cứ phình ra mãi, rồi to chình ình như ngày nay vậy.
Sử sách ghi lại cho thấy tín ngưỡng tôn thờ Thần Đất hay Ông Địa đã xuất hiện nhiều điểm khác, không giữ lại nét nguyên sơ thuở ban đầu nữa.
Trong tiềm thức của người dân Nam Bộ thì Ông Địa luôn được coi là một phúc thần, ngoài việc bảo hộ ruộng vườn, đất đai thì còn có vai trò trong việc đưa đón Thần Tài tới nhà, tức là giúp cho gia đình đó được phát tài, còn kiêm cả việc phù hộ gia chủ của gia đình bệnh tình mau lành, tìm lại được đồ mất. Vì thế nên vào sáng sớm, lúc mở cửa tiệm hay cửa nhà, gia chủ thường tăng thưởng cho Ông Địa điếu thuốc để trên tay cùng với ly cà phê bên cạnh. Nhiều lúc là cả gói thuốc ba số, cùng ly cà phê sữa béo thơm hẳn noi. Thậm chí nhiều khi còn có thêm bánh bao hay thịt heo quay…
Tín ngưỡng của dân gian coi việc thờ cúng Ông Địa là mong được buôn may bán đắt. Nhưng thực ra theo truyền thuyết trong tôn giáo ở Á Đông thì Ông Địa là một vị thần chịu trách nhiệm cai quản địa phương, cũng có thể là vị thần nhận việc bảo hộ cho các gia đình. Nếu được thăng cấp thì Ông Địa sẽ là thần bảo hộ cho người hiền lành, lương thiện, các bậc tu hành khi họ cứu thế độ dân. Nếu theo những nghĩa này, Ông Địa là vị thần mang theo sứ mạng tâm linh.
Ở một số vùng chịu sự ảnh hưởng từ văn hóa Trung Hoa thì lại gọi là Thần Tài (Mọi vật từ đất sinh ra – Tấc đất tấc vàng).
Đối với nhân dân thì Thổ Công ở trong nhà luôn là vị thần tôn kính, quan trọng nhất. Vì vậy nên bát hương của Thổ Công luôn được đặt ở vị trí chính giữa, còn bên trái sẽ đặt bát hương của bà Cô Tổ, và phía bên phải sẽ để bát hương của Gia Tiên. Lúc cúng giỗ thì đều khấn vái Thổ Công đầu tiên để xin phép người cho tổ tiên mình trở về.
Thường thì khi có chuyện liên quan đến đất cát ví như xây cất, đào ao, mở vườn, xây giống, đào huyệt, mở ruộng… thì mọi người đều làm lễ cúng cho thần này.
Trong việc cúng bái Ông Địa cũng tồn tại nhiều việc lý thú đối với người dân Việt ta. Với những người dân ở miền Nam cùng người Hoa Kiều thì khi đưa lễ cúng cho Ông Địa, họ đều bẻ một miếng ăn trước sau đó mới đem đi cúng. Việc này là bởi vì có một sự tích nói rằng Ông Địa ăn phải thức ăn có độc nên mới chết, bởi vậy ông nhận đồ ăn đều rất lo có bỏ độc. Chính vì thế những lễ cúng cho ông đều phải thử trước một miếng thì lúc đó Ông Địa mới dám dùng.
Người miền Nam là vậy, nhưng những người ở miền Bắc thì vẫn làm cúng vái như thường.
Nói sao thì Ông Địa cũng là một vị thần đã gắn liền với người dân vùng Nam Bộ từ thuở mới hình thành, cùng người dân nơi đây khai hoang lập địa gần ba trăm năm lịch sử. Vì vậy mà Ông Địa với người dân vùng Nam Bộ vô cùng thân thiết, gần gũi. Dù cho họ luôn luôn thờ phụng ông như thuở đầu, nhưng trong lòng thì ông lại là vị thần hiền lành, gần gũi, chẳng mấy khi trách ai bao giờ… Cũng theo lẽ đó mà khi họ tạc hình dáng của ông mới trở nên như thế. Hơn nữa, khi họ làm một việc gì đó hết sức mình, hay là chơi bời hết mình thì thường hay đùa vui : “Chơi cho mát trời ông Địa luôn”.
http://cotich24h.com/su-tich-ong-dia.html
-
https://uphinhnhanh.com/images/2018/...G__DSC5034.jpg
讓我們在小風口吃到奶油牛小排、
香噴噴又嫩,根本是型男主廚到你家( 山野外版)~
https://i0.wp.com/dragon9168.com/wp-...pg?w=700&ssl=1
起司鹹豬肉,會牽絲的歐~
吃完感覺人生又立刻又充滿了希望呀!! !
https://i1.wp.com/dragon9168.com/wp-...pg?w=700&ssl=1
下合歡山後,到武嶺拍一下標高^^
新加坡最高的地方不到一千公尺歐~
特別來到台灣三千多公尺的山上取景
然後順路前往清境和羊咩咩一起拍(羊 行大運),
還有唯美又浪漫的櫻花樹下,和市集 鎮取景~
圓滿完成這次行程的所有任務。
感謝所有幫忙的朋友們,也感謝辛苦 班的同事們。
https://dragon9168.com/2015/03/
-
-
-
-
-
观音神课三十二卦断婚恋吉凶 此博文包含视频 (2012-05-29 22:06:56)转载▼
标签: 太和 吉凶 婚姻 程度 大吉 育儿 分类: 百宝箱
以下为卦的解释,供查询:
提示:【背为反面,字为正面】
第一卦 名称:星震卦 吉凶程度:上上
字字字字字
彩凤呈祥瑞,麒麟降帝都,祸除迎福 、喜气自然生。求官得位,考试得意 讼事有理,病者安宁,求财十分,寻 人得见,婚姻有成,买卖十分。
第二卦 名称:从革卦 吉凶程度:上平
字背背背背
从革宜更变,时来合动迁,龙门鱼跃 ,凡骨作神仙。求官小就,谋事有成 讼事宜和,病人无妨,求财七分,走 失有望,婚姻有成,交易有功。
第三卦 名称:曲直卦 吉凶程度:中平
背字背背背
动作因风便,求谋可托人。
若逢成已土,事事得遂心,求官得位 谋事有成,讼事宜和,病人无妨,求 不多,寻人不见,婚姻可定,交易大 利。
第四卦 名称:润下卦 吉凶程度:小平
背背字背背
船放江湖内,滩边获宝多,更宜将大 ,灾散福来居。生意得利,谋事可成 求财可成,求财八分,病人得安。讼 事有吉,寻人得见,婚姻有成,交易 成。
第五卦 名称:炎上卦 吉凶程度:下下
背背背字背
此卦按南方,灾难不可挡,官司多不 ,目下有灾殃。求谋有害,出行平下 求财落空,婚姻不成,讼事无理,寻 人不见,交易不遂,行人不至。
第六卦 名称:进穑卦 吉凶程度:中平
背背背背字
且安群子分。勿用小人言,凡事皆当 ,作福保安然。说言不遂,谋事不成 出行错误,考试不利,讼事不利,病 人不安,婚姻难成,求财不利。
第七卦 名称:进求卦 吉凶程度:上上
字字背背背
国治人安泰,家财渐崭兴,进财求望 ,有福亦平安。求官寻位,谋事有成 讼事理宜,病人安痊,求财十分,卒 生贵子,婚姻成,家宅吉。
第八卦 名称:进宝卦 吉凶程度:上吉
字背背背字
好事承天佑,门掐喜气新,有人助力 获福尽欢欣。求官得禄,谋事有成, 事和,病人安,求财九分,婚姻有成 ,交易成,家宅大吉。
第九卦 名称:获安卦 吉凶程度:中吉
字背字背字
目下如冬树,枯落没开花,看看喜色 ,渐渐发萌芽。讼事和吉,病人无妨 求财易,行人即至,家宅吉,婚姻大 利,交易和,寻人得见。
第十卦 名称:遂心卦 吉凶程度中平
字背背字背
时融逢和气,哀残物再兴,更逢微雨 ,喜色又逢生。求官得位,谋事大吉 讼可和,病人愈,求财十分,婚姻成 就,交易和,家宅安。
第十一卦 名称:灾散卦 吉凶程度:大吉
背字字背字
灾散福门开,无边喜气来,目下相逢 ,须当得横财。出行大吉,谋事成就 讼事和,病无妨,求财十二分,六甲 生男,婚姻成,交易和。
第十二卦 名称:进求卦 吉凶程度:上平
背字背字背
进取逢通达,寒入衣锦回,何人占此 ,凡事任施为。求官事吉,谋事合心 讼事有理,病者愈,求财九分,行人 立至,寻人来,出行大吉。
第十三卦 名称:暗昧卦 吉凶程度:下凶
背字背背字
井底观明月,见形却无形,钱财多散 ,谨守得安宁。求谋不遂,出得不宜 求财不得,寻人不见,子女不成,交 易不就,家宅平安。讼不得理。
第十四卦 名称:安静卦 吉凶程度:不中
背背字字背
心思多不定,求谋未得成,忍耐方为 ,守分免灾星。功名不遂,出行不妨 讼事和免,谋事未成,求财不利,寻 人不克,婚姻二人,家宅平安。
第十五卦 名称:阻隔卦 吉凶程度:下凶
背背字背字
枯木逢霜雪,扁舟遇大风,心无可枉 百事不享通。求谋不利,出行不宜, 财不成,寻人不见,六男生女,心求 和吉,婚姻多阻,交易不合。
第十六卦 名称:保安卦 吉凶程度:平吉
背背背字字
日出临东海,光辉天下明,动用和合 ,百事自然成,求官有望,出行得意 谋事不成,讼事和,求财十分,六甲 生男,婚姻可成,口舌消没。
第十七卦 名称:喜至卦 吉凶程度:中吉
字字字背背
从恶皆消无,端然福气生,如人行暗 ,今已得天明。入官得财,谋事可成 寻人见,出行得财,讼得白,病人愈 ,求财八分,婚姻大吉。
第十八卦 名称:保全卦 吉凶程度:中平
字字背字背
服药将身保,缠绵词讼连,百凡宜守 ,作福自然安。出行平安,谋事先难 口舌不妨,讼官理吉,求财六分,孕 生贵子,婚姻有进,交易可成。
第十九卦 名称:犹予卦 吉凶程度:下下
字字背背字
卦中多恍惚,钱财暗里磨,恩深成怨 ,人事不须知。求谋不须,出行有阻 讼事难和,行人空亡,求财不吉,交 易不成,婚姻不遂,病人沉重。
第二十卦 名称:丰谂卦 吉凶程度:上吉
字背字字背
根实枝叶茂,林多格式高,经营多得 ,兰惠似蓬蒿。求官遂心,出行通达 谋事成,寻人见,病人无妨,求财八 分,婚姻可成,家宅平这安。
第二十一卦 名称:得禄卦 吉凶程度:吉
字背背字字
高名居禄位,笼鸟得逃生,出入多财 ,更宜远方行,谋事可成,口舌可消 讼事理合,病人得安,求财十分,孕 生贵子,婚姻可成,交易得利。
第二十二卦 名称:明显卦 吉凶程度:吉
字背字背字
明月青天上,今宵照绮筵,家家沾往 ,万里净云烟。求官得位,谋事可成 寻人见,出行吉,讼事和,行人至, 婚姻成,求财八成。
第二十三卦 名称:福禄卦 吉凶程度:吉
背字字字背
福禄得安康,荣华保吉昌,所得皆遂 ,千里共兰香。出行大吉,谋事称心 口舌不生,讼事和吉,求财九分,行 人至,婚姻成,交易遂心。
第二十四卦 名称:滞凝卦 吉凶程度:下
背字字背背
赢马登程去,饥人走远途,前人多阻 ,后福方无,求谋不济,出行破财, 财折本,讼求人和,有孕生女,婚姻 不老,病人沉重,家主有灾。
第二十五卦 名称:显达卦 吉凶程度:吉
背字背字字
三姓俱相伴,祥光得共生,更宜分造 ,百福自然享。求官受封,口舌消灾 讼事和,病宜保养,六甲生男。
第二十六卦 名称:福厚卦 吉凶程度:吉
背背字字字
此卦占太和,求谋喜事多,远人归故 ,身乐得欢歌。求官得位,出行有财 行人至,讼有人和,求财九分,寻人 必至,婚姻有成,病人无妨。
第二十七卦 名称:太平卦 吉凶程度:吉
背字字字字
去雨滋苗稼,何愁不广收,自然心得 ,安然总无忧。出行吉,行人至,讼 和,求财九分,考试进,婚姻可成, 六甲生男,病者无妨。
第二十八卦 名称:颠险卦 吉凶程度:不吉
字字字背字
遥遥途中游,云云日坠山,心烦无可 ,前后总皆难。求谋不顺,出行不利 求财折本,行人不至,讼事不利,婚 姻不许,谋事不成,病人不吉。
第二十九卦 名称:开发卦 吉凶程度:平
字字背字字
蚌中珠自见,石内玉增光,进财求望 ,有祸不成殃。求官上任,出行平安 行人自至,讼事宜和,求财六分,婚 姻可成,病人安,交易无难。
第三十卦 名称:鹰扬卦 吉凶程度:吉
字字字字背
天兵诛贼,旌旗得胜回,功熟为将帅 门第有光辉。出行吉,行人至,讼事 ,求财九分,婚姻成,六甲生男,交 易远,谋事得就。
第三十一卦 名称:后吉卦 吉凶程度:平
字背字字字
履傅登冰地,危桥得渡时,重重忧险 ,喜色自芳菲。考试小利,出生平安 行人自至,讼事吉,求财五分,行人 不见,谋事晚成,有孕生女。
第三十二卦 名称:无数卦 吉凶程度:凶
背背背背背
尘里青铜钱,美玉陷淤泥,何时重出 ,再得显光辉。求官难保,出行不利 行人有病,讼事不吉,求财折本,病 人沉重,婚姻有成,谋事不成
http://blog.sina.com.cn/s/blog_5d9de995010139ih.html
-
Sách bàn xâm bà Thiên Hậu Ngươn Quân: nguyên bôn̉ 103 xâm
Bà thiên hâu nguo'n quân ... Kỳ-Lân-Các ...
Author: Kỳ-Lân-Các.
Kỳ Lân Các diêñ nôm.
-
Quẻ số 103 - Quẻ Khổng Minh Thần Toán
Quẻ số 103 trong số 384 quẻ của Khổng Minh Thần Toán. Đây là một phương pháp xem bói rất hay của Gia Cát Vũ Hầu - Gia Cát Lượng.
-
1
Lời cảm ơn!
Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn BTC cuộc thi “Tìm hiểu giá trị
văn hóa - lịch sử Đồng Nai năm 2013” đã tạo sân chơi hữu ích, giúp cho nhân
dân, đảng viên, cán bộ, học sinh, sinh viên, người lao động… có cơ hội thể hiện
tình yêu của mình đối với di sản văn hóa của quê hương Biên Hòa - Đồng Nai.
Thông qua cuộc thi, bản thân đã hiểu biết thêm về di tích văn hóa lịch sử của
tỉnh nhà. Đồng thời, cuộc thi là cơ hội để bày tỏ những chính kiến của bản thân
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa lịch sử truyền thống của dân tộc.
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, các phòng ban, đồng nghiệp Bảo
tàng Đồng Nai đã tạo điều kiện về thời gian, kinh phí, tài liệu, hình ảnh… giúp
cho cán bộ, nhân viên hoàn thành các bài thi.
Kính chúc Ban tổ chức, Ban Giám khảo cuộc thi, Ban Giám đốc, các
phòng ban, đồng nghiệp Bảo tàng Đồng Nai lời chào sức khỏe, hạnh phúc và
thành đạt!
Trân trọng!
2
Chương 1
Lược sử di tích lịch sử - kiến trúc nghệ thuật Miếu Tổ sư
1. Lịch sử vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai
Ngày nay, nhắc đến Đồng Nai mọi người thường nghĩ ngay đây là một
tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế nhanh, có nhiều khu công nghiệp quy mô thu hút
hàng vạn lao động về làm việc và sinh sống. Nhưng có mấy ai biết rằng, vùng
đất Biên Hòa xưa – Đồng Nai nay có một quá khứ sâu thẳm; là nơi in dấu những
bước chân đầu tiên trong quá trình Nam tiến của nhiều cộng đồng dân cư từ hơn
ba trăm năm trước. “Đất lành chim đậu” – nhiều nhóm dân cư từ ba miền Bắc –
Trung – Nam trong suốt diễn trình lịch sử đã chọn Đồng Nai làm nơi sinh kế lâu
dài:
“Rồng chầu ngoài Huế
Ngựa tế Đồng Nai,
Nước sông trong chảy lộn sông ngoài.
Thương người xa xứ lạc loài tới đây,
Tới đây thì ở lại đây
Bao giờ bén rễ xanh cây sẽ về!”
Chợ Biên Hòa xưa
3
Hơn ba thế kỷ qua, vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai là địa bàn sinh tụ và cư
trú của nhiều cộng đồng dân tộc. Ngoài bốn dân tộc bản địa là Chơro, Châu Mạ,
S’tiêng và Kơho, thì người Kinh có số dân đông nhất, rồi đến người Hoa, người
Khơ Me, người Chăm… Theo các sử liệu ghi nhận, Biên Hòa – Đồng Nai xưa
thuộc nước Phù Nam và Chân Lạp, là vùng đất hoang hóa, rừng rậm, sông dài,
dân cư thưa thớt, lác đác vài cộng đồng dân tộc bản địa sinh sống lâu đời. Dưới
triều nhà Nguyễn, người dân từ vùng Ngũ Quảng1
di cư vào để khẩn hoang vùng
đất Mô Xoài, Bàn Lân (Biên Hòa)… Sau khi được trù phú, thịnh vượng, năm
1698, thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vâng lệnh chúa Nguyễn vào Nam kinh lược
vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai, thành lập dinh Trấn Biên thuộc phủ Gia Định.
Năm Gia Long thứ 7 (1808) đổi thành trấn Biên Hoà, đến đời vua Minh Mạng
(1820-1840) lại đổi thành tỉnh Biên Hòa.
Vào khai hoang lập ấp ở vùng đất mới, các thế hệ người Việt, cùng với
cộng đồng dân cư khác đã trải qua nhiều biến cố lịch sử với nhiều chặng đường
đầy khó khăn vất vả, hiểm nguy luôn rình rập. Tuy nhiên với truyền thống văn
hóa được đúc kết từ ngàn năm văn hiến, cộng đồng người Việt nhanh chóng ổn
định cuộc sống, lập làng, lập ấp, xây dựng và phát triển kinh tế…Trong quá
trình Nam tiến, ngoài vốn văn hóa truyền thống như phong tục, tập quán, tín
ngưỡng, tôn giáo được mang theo, người Việt còn tiếp biến các yếu tố văn hóa,
tín ngưỡng tôn giáo của các cộng đồng cùng cộng cự nơi vùng đất mới. Vào đến
vùng đất Nam Trung bộ họ tiếp nhận các yếu tố văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo
Chămpa, sau đó người Việt vào Nam lại tiếp nhận văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo
của người Phù Nam – Chân Lạp, Khơ Me… Về sau khi tiếp xúc với các nước
phương Tây lại tiếp nhận các nền văn hóa mới… Do vậy, qua hơn ba trăm năm
hình thành và phát triển vốn di sản văn hóa phi vật thể của cộng đồng người Việt
ở các địa phương trong tỉnh rất phong phú và đa dạng trên nhiều loại hình văn
hóa như tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội, ngữ văn dân gian, nghệ thuật trình diễn dân
gian, tập quán xã hội, nghề thủ công truyền thống…
Bên cạnh cộng đồng người Việt, thì một bộ phận không nhỏ các dân tộc ít
người ở Đồng Nai với vốn lễ hội văn hóa dân gian khá phong phú, phản ánh đời
1 Ngũ Quảng gồm có Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức, Quảng Nam và Quảng Ngãi
4
sống sinh hoạt tâm linh của dân tộc mình như lễ thức và tập quán vòng đời
người của các dân tộc Chơro, Mạ, S’tiêng, Kơho như lễ Sayangva (dân tộc
Chơro), lễ hội đâm trâu (dân tộc Châu Mạ, S’tiêng)... Thêm vào đó, việc cộng
sinh với các nhóm lưu dân người Hoa, quá trình giao thoa văn hóa trong suốt
thời gian dài đã làm cho loại hình văn hóa phi vật thể như lễ hội dân gian Tả Tài
Phán, cúng Bà Thiên Hậu, cầu an cầu siêu... ở các đền, chùa, miếu, mạo, nghĩa
từ, từ đường... được tổ chức rất công phu, độc đáo, đậm chất dân tộc, quê hương
mình nơi mảnh đất mới và thu hút đông đảo mọi người tham gia.
2. Vài nét về người Hoa ở Biên Hòa – Đồng Nai
Người Hoa ở Đồng Nai là tộc người đứng thứ hai sau người Kinh, sống
xen kẽ với người Kinh. Văn hóa của người Hoa đã góp phần không nhỏ tạo nên
tính phong phú, đa dạng cho văn hóa Đồng Nai nói riêng và Nam bộ nói chung.
Đặc điểm văn hóa ấy là sự kết hợp văn hóa truyền thống Trung Hoa cổ đại, được
người Hoa gìn giữ và phát triển trong điều kiện môi sinh địa lý của Việt Nam
với văn hóa của người Việt.
Tháng 5 năm Kỷ vị (1679), Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch,
bầy tôi nhà Minh, không phục nhà Thanh đã dẫn 3.000 người với 50 chiếc
thuyền nhập cửa biển Tư Duy (Đà Nẵng), xin định cư ở nước ta. Chúa Nguyễn
chấp thuận và sai các trướng Vân Trình, Văn Chiêu hướng dẫn cho vào đất
Đông Phố. Nhóm Long Môn của Dương Ngạn Địch theo cửa Đại, cửa Tiểu đến
định cư tại Mỹ Tho. Nhóm Cao, Lôi, Liêm của Trần Thượng Xuyên theo cửa
biển Cần Giờ đến sinh sống ở xứ Bàn Lân (tức Biên Hòa ngày nay).
Từ đợt những người Trung Hoa đầu tiên sang nước ta tị nạn chính trị mà
sử sách ghi rõ và các đợt người sau rải rác từ cuối thế kỷ XVII trở đi, tính ra đã
hơn ba thế kỷ. Họ gồm người cùng quê quán, tiếng nói, phong tục… họp thành
những cộng đồng có tổ chức chặt chẽ gọi là bang. Thời các chúa Nguyễn, lưu
thủ Trấn Biên chia người Tàu thành bảy bang (gọi là Thất phủ): Quảng Đông,
Phúc Kiến, Triều Châu (Tiêu), Hải Nam, Hẹ (Sùng Chính), Phúc Châu, Quỳnh
Châu. Người mỗi bang thường làm một vài nghề truyền thống. Người Tiều trồng
rau, mở chành lúa; người Quảng Đông thường mở tiệm ăn. Người Thượng Hải
giỏi nghề trồng răng thủ công. Người Phúc kiến buôn bán đồ lạc xon mà giàu
5
nhanh. Người Hải Nam mở tiệm ăn. Người Hẹ mở tiệm thuốc Bắc, dệt vải và
làm đá mỹ nghệ, đá dân dụng.
Đại diện mỗi bang là bang trưởng, vị này có uy tín, có tài sản, chịu trách
nhiệm giúp nhà cầm quyền địa phương kiểm soát và thu thuế các thành viên
trong cộng đồng. Năm Giáp Tuất (1814) nhà Nguyễn ra đạo dụ chính thức hoá
chế độ lập bang của người Tàu.
Ba trăm năm có lẻ, kể từ khi đặt chân đến xứ Đồng Nai: “xứ sở lạ lùng,
con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh” các nhóm người Hoa bắt đầu tạo
lập cuộc sống trên vùng đất mới. Họ cùng với lưu dân người Việt, số lưu dân
đến định cư trước, cần mẫn khai khẩn mưu cầu một cuộc sống ấm no hơn, hạnh
phúc hơn nơi mà họ đã ra đi dù trước mắt còn nhiều chông gai trắc trở. Bao thế
hệ người Hoa từ đoàn di dân buổi đầu tiên trên đến những đợt di cư do nhiều
biến cố xã hội sau này đã cùng nhau khẩn khai, xây dựng mới với nhưng ước
mơ mới.
Bến tàu chợ Biên Hòa xưa
Trải qua bao biến cố lịch sử, lúc thăng, lúc trầm, trong suốt quá trình di cư
và định cư ở Đồng Nai, người Hoa đã có nhiều đóng góp quan trọng trong công
cuộc khai phá, xây dựng, vùng đất này. Bao cái còn, cái mất với thời gian nhóm
cộng đồng người Hoa đã để lại những dấu ấn của mình trong diễn trình lịch sử
6
của Đồng Nai. Mà ở đó không chỉ là nỗi hoài niệm trong quá khứ của một lịch
sử, của những cái đã từng tồn tại hay đã mất mà cả những điều tưởng chừng như
vô hình lại trở thành hữu thể trong một đời sống tinh thần được thể hiện phong
phú, đa dạng cho đến tận hôm nay.
Cũng như các bang khác của người Hoa ở Biên Hòa, người Hoa bang Hẹ
(Sùng Chính) có mặt trên đất Biên Hòa từ khá sớm. Người Hẹ cùng với các
bang khác đã đến Cù lao Phố khai hoang, lập ấp, xây dựng phố xá, phát triển nơi
đây thành một thương cảng sầm uất bậc nhất xứ Đàng trong suốt thế kỷ XVII -
XVIII. Người Hẹ có nghề thủ công cổ truyền là điêu khắc đá nên định cư ở Cù
lao Phố một thời gian thì họ di chuyển đến sinh sống ở khu vực Bửu Long - nơi
có nguồn nguyên liệu đá xanh dồi dào, chất lượng tốt, dễ khai thác, phù hợp với
nghề truyền thống từ chính quốc. Làng nghề điêu khắc đá ở Bửu Long hình
thành trong thời gian này và được phát triển cùng với các nghề: mộc và rèn.
Giữa các nghề này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nghề này nương nhờ vào
nghề kia để tồn tại và phát triển.
Đến nay, các làng nghề mộc và rèn đã bị mai một, chỉ còn nghề điêu khắc
đá vẫn tồn tại và phát triển khá thịnh vượng. Bằng sự kết hợp giữa đôi tay khéo
léo, lành nghề cùng với máy móc hiện đại, sản phẩm của làng đá Bửu Long rất
đa dạng, phong phú và thông dụng. Các công trình xây dựng bằng đá như: tượng
đài, bậc tam cấp, kỳ lân, tượng đá, hoa văn trang trí rồng phượng; đồ thờ cúng
trong các cơ sở tín ngưỡng như: tứ linh, bia mộ, bàn thờ, đèn đá, lư hương, chân
đèn đến những đồ dùng trong sinh hoạt gia đình như: cối, chày, ly, bàn, cờ
tướng... Tất cả đều mang quan điểm nhân sinh của nghệ nhân làm đá được thể
hiện trong mỗi sản phẩm.
Nhờ nét độc đáo trong từng sản phẩm của làng đá Bửu Long đã vươn xa
theo sông Đồng Nai đi đến các tỉnh lân cận, miền Tây và các tỉnh miền Bắc. Sau
giải phóng (30/4/1975), do yếu tố khách quan về mối quan hệ hôn nhân giữa
người Hẹ với người Việt và tác động của nền kinh tế thị trường, dần dần ở khu
vực Bửu Long đã xuất hiện những người Việt làm đá. Mặc dù có sự giao thoa ấy
nhưng chủ nhân của làng nghề này chủ yếu vẫn là người Hoa bang Hẹ. Nghề
điêu khắc đá tồn tại cùng với một số nghề khác của người Hoa ở Bửu Long hiện
7
nay như: nấu ăn, buôn bán nhỏ đã trở thành nghề chính nuôi sống họ và một số
người Việt ở nơi đây.
Điêu khắc đá ở làng đá Bửu Long
3. Lược sử Miếu Tổ sư
3. 1. Tên gọi: Miếu Tổ sư
Trước 30/4/1975, Miếu Tổ sư thuộc xã Tân Thành, Tổng Phước Vinh
Trung, Quận Châu Thành, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc tổ 30, khu phố 5, phường
Bửu Long, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai). Miếu nằm sát Tỉnh lộ 24, mặt
quay hướng Tây Bắc nhìn ra sông Đồng Nai. Từ trung tâm thành phố Biên Hòa
đi đường bộ theo đường Huỳnh Văn Nghệ (hướng Tân Triều, Vĩnh Cửu) hoặc
đường thủy theo sông Đồng Nai khoảng 3km đến bến đá Bửu Long là tới di tích.
Trong quá trình hình thành, tồn tại và phát triển, Miếu Tổ sư có rất nhiều
tên gọi khác nhau như: Tiên Sư Cổ Tổ Miếu, Tiên Sư Tổ Miếu. Về sau (khoảng
trên 100 năm nay) do phối thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu nên người dân địa phương
quen gọi miếu là Thiên Hậu Cổ Miếu, Chùa Bà hay Chùa Bà Thiên Hậu. Miếu
Tổ sư được UBND tỉnh Đồng Nai công nhận là di tích lịch sử kiến trúc nghệ
thuật vào ngày 24/4/2008 theo quyết định số 981/QĐ-UB do Phó Chủ tịch
UBND tỉnh ký.
8
Bằng xếp hạng Di tích cấp tỉnh của Miếu Tổ sư
3.2. Lịch sử xây dựng và quá trình trùng tu di tích:
Đến nay, vẫn chưa tìm thấy tài liệu, thư tịch cổ thành văn nào viết về năm
xây dựng Miếu Tổ sư một cách cụ thể. Theo hồi cố của một số bô lão người Hoa
bang Hẹ ở địa phương thì trước đây trên cổng bằng đá của miếu có ghi năm xây
dựng: đời vua Khang Hy 16 (tức năm Canh Thân - 1680), trong thời kỳ kháng
chiến chống Mỹ, cổng miếu đã bị phá hủy (hiện miếu còn lưu hình ảnh cổng đá
của Miếu Tổ sư trong Lễ hội làm Chay trước 30/4/1975). Sau giải phóng 1975,
Ban Trị sự miếu đã xây mới cổng kiểu Tam quan như hiện nay. Theo một số
sách xuất bản tại địa phương như: Làng đá Bửu Long, Đồng Nai - di tích lịch sử
văn hóa thì Miếu Tổ sư xây dựng sau chùa Ông ở Cù lao Phố một thời gian
không lâu lắm1
.
Khởi dựng, Miếu Tổ sư có quy mô nhỏ, chỉ là gian Chánh điện hiện nay,
mái lợp ngói âm dương ống ngõa (hay còn gọi âm dương tiểu đại, đây là loại
ngói đặc trưng của người Trung Hoa thường dùng trong các công trình xây dựng
đình, chùa, miếu), tường, cột, xà ngang, nền đều làm bằng đá xanh Bửu Long.
Nội thất chỉ có một bàn thờ ba vị: Tổ nghề đá, Tổ nghề mộc và Tổ nghề rèn.
Thời gian sau (năm 1886 và 1894), người Hoa bang Hẹ ở Bửu Long làm ăn
1 Theo Lý lịch hồ sơ khoa học di tích chùa Ông thì chùa Ông được xây dựng năm 1684 (di tích đã xếp hạng cấp Quốc gia
năm 2001, tài liệu lưu tại BQL Di tích - Danh thắng Đồng Nai).
9
ngày càng sung túc, phát tài, họ mới đóng góp công của trùng tu, sửa chữa, nâng
cấp ngôi miếu khang trang, đồ sộ như ngày nay. Trước Cách mạng tháng Tám
1945 và trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và Mỹ, Miếu Tổ sư cũng được
tiến hành trùng tu, sửa chữa nhiều lần vào các năm: 1904, 1924, 1941, 1967,
1970. Các hạng mục sửa chữa chủ yếu xây thêm một số bệ thờ, làm một số bao
lam, liễn đối bằng gỗ; trang bị thêm đồ thờ cúng như: lư hương, chân đèn, làm
nhà võ ca… Năm 2001, Ban Trị sự miếu tiếp tục sửa chữa, sơn phết lại các tấm
bao lam, hoành phi, liễn đối; xây cao hàng rào bảo vệ bao quanh bằng gạch thẻ
và xi măng; tu sửa sân; chỉnh trang khuôn viên khang trang, sạch đẹp. Đến cuối
năm 2006, Ban Trị sự tháo bỏ nhà võ ca dựng một nhà vòm, rộng và thông
thoáng hơn ở sân miếu để thuận lợi cho việc tổ chức Lễ hội làm Chay và các
hoạt động khác của miếu.
Miếu Tổ sư trước khi trùng tu năm 2006 Miếu Tổ sư sau khi trùng tu năm 2006
3.3. Nhân vật thờ tự tại di tích:
Theo quan niệm của người Trung Hoa và Việt Nam, Tổ sư nghề nghiệp
có 3 vị (tam vị thánh tổ) là Tiên sư, Tổ sư và Thánh sư. Nhưng đây chỉ là ba
biểu tượng mà thôi. Thánh sư là những vị có công khai sáng nghề nghiệp, Tổ sư
là những vị có công cải tiến nghề nghiệp và Tiên sư là những vị có công truyền
dạy nghề nghiệp cho đời sau. Nhân dân thường cụ thể hóa ba biểu tượng này là
ba nhân vật.
Tổ sư nghề nghiệp gồm hai nhóm: Thủy tổ thần và Thành thần. Cũng theo
sách này, Tổ nghề đá, Thủy thổ thần là Nữ Oa nương nương (theo thuyết Nữ Oa
10
luyện đá vá trời) và Thành thần là Lỗ Ban Tiên Sư (người có công cải tiến và
truyền dạy nghề nghiệp cho đời sau).
Hương án thờ ba vị Tổ sư
Như vậy Tam vị Thánh tổ là ba vị Thành thần. Trên thực tế, khi đem vào
thờ tự tại các cơ sở tín ngưỡng, tùy từng địa phương, cộng đồng cư trú lại có sự
thay đổi nhân vật thờ tự cho phù hợp với ngành nghề của họ. Đó là sự tiếp biến
văn hóa trong tín ngưỡng thờ cúng. Khi sang định cư ở Việt Nam, người Hoa
(cụ thể là bang Hẹ) có lẽ đã mang trong tâm thức mình về nghề đá và hình ảnh
ông Ngũ Đăng (Ngũ Đinh) nên ở Miếu Tổ sư, Ngũ Đăng Tiên Sư được đặt ở vị
trí thờ tự chính giữa và có bài vị cao hơn so với hai vị còn lại là Tổ nghề mộc và
rèn, mặc dù ông không phải là người có công chính trong việc sáng chế nghề đá.
Ba vị Thánh tổ thờ tại Miếu Tổ sư là Ngũ Đăng tiên sư, Lỗ Ban tiên sư, Uất Trì
Cung tiên sư. Bài vị thờ đều phong cho các vị này những chức tước rất cao, biểu
lộ niềm sùng tín, ngưỡng mộ, biết ơn các bậc khai sáng nghề nghiệp.
Việc thờ ba vị Tổ này giải thích mối quan hệ chặt chẽ giữa ba nghề, dựa
vào nhau cùng tồn tại và phát triển. Nghề rèn làm và sửa dụng cụ búa, đục các
loại cho nghề mộc, nghề đá. Nghề đá, mộc làm ra sản phẩm để nuôi sống mình
và nghề rèn.
11
Ngoài ra, Miếu Tổ sư còn phối thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu, Quan Công
(Quan Vũ, Quan Vân Trường, Quan Thánh Đế Quân). Việc phối thờ các đối
tượng này xuất phát từ việc bảo tồn tín ngưỡng cộng đồng, thờ những vị phúc
thần của người Hoa nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh của khách hành hương từ
khắp bốn phương về cúng bái chứ không chỉ giới hạn trong cộng đồng người
Hoa bang Hẹ làm nghề điêu khắc đá tại địa phương.
Hương án thờ Bà Thiên Hậu Hương án thờ Quan Thánh Đế quân
3.4. Khảo tả di tích
Miếu Tổ sư tọa lạc trong một khu đất tương đối bằng phẳng, rộng
2.836.6m2
. Mặt tiền quay theo hướng Tây Bắc, nhìn ra Tỉnh lộ 24 (đường đi Tân
Triều - Vĩnh Cửu) và sông Đồng Nai đón gió lành. Mặt sau miếu dựa vào núi
Long Ẩn (hướng Đông), bên trái (hướng Bắc) giáp khu Danh thắng Bửu Long,
bên phải (hướng Nam) giáp nhà dân. Miếu thuộc tổ 30, khu phố 5, phường Bửu
Long, Tp. Biên Hòa. Đây là ngôi miếu có địa thế phong thủy đẹp (mặt hướng ra
sông Đồng Nai, lưng dựa núi Long Ẩn). Miếu có hai cổng ra vào (nhị cổng),
thường gọi là cổng ngoài và cổng trong.
Cổng ngoài còn gọi là cổng Tam quan, có kiến trúc rất đẹp, được tạo dựng
bởi 4 cột vuông, chia thành ba lối vào. Mái cổng lợp ngói âm dương ống ngõa
men xanh có trang trí hoa văn hình lá bồ đề ở đường riềm mái. Trên nóc mái là
hệ thống kiến trúc đá rất độc đáo, với cặp lưỡng long chầu mặt trời tượng trưng
cho mưa thuận gió hòa và cặp cá hóa long tượng trưng cho sự thành đạt. Mặt
12
trước cổng đề 3 dòng chữ Hán màu vàng: chính giữa là Thiên Hậu cổ miếu, bên
trái là Thiên hạ thái bình và bên phải là Như sở đề an.
Cổng tam quan của di tích
Phía trong cổng Tam quan là khoảng sân ngoài rộng, diện tích 1.419m2
.
Sân được trồng một số cây cổ thụ như: bồ đề, phượng, bàng… quanh năm tỏa
bóng mát. Từ cổng ngoài đi theo con đường mòn rải đá mi dài khoảng 50m,
rộng 5,8m là đến cổng trong. Cổng trong thiết kế đơn giản, được tạo dựng bởi
hai cột xây gạch thẻ, xi măng vuông (cạnh 40cm x 40cm) ngoài ốp 25 hàng đá
xanh, trước hai trụ cột phía ngoài có đặt hai con kỳ lân bằng đá.
Qua khỏi cổng trong là đến sân trong của miếu. Sân trong có diện tích
344.2m2
, nền láng xi măng. Cứ vào dịp Lễ hội làm Chay, sân trong lại nguy nga,
lộng lẫy với những sắc màu rực rỡ bởi một điện thờ với bàn hương án đặt trên
bục gỗ khoảng 36m2
ở chính giữa sân, đây là nơi diễn ra các nghi thức tế lễ.
Miếu Tổ sư gồm ba tòa nhà riêng biệt nhưng liên kết với nhau bởi bố cục
mặt bằng theo kiểu “nội Công ngoại Quốc” (国) gồm một tòa nhà chính giữa gọi
là điện thờ chính bao gồm: Tiền điện, Trung điện và Hậu điện hình chữ Công
(工), hai dãy nhà bao quanh là nhà khách, nhà bếp và nhà thờ các vị tiền bối
hình chữ Khẩu (口). Miếu Tổ sư là ngôi miếu duy nhất ở Đồng Nai được xây
13
dựng bằng vật liệu hoàn toàn bằng đá xanh Bửu Long, từ lan can, cột, vách,
khuôn cửa, bậc thềm, các khám thờ, hàng rào đến cổng. Mái miếu lợp ngói âm
dương ống ngõa màu xanh lưu ly.
* Điện thờ chính (Tòa nhà chính giữa):
Đây là nơi thờ phụng chính của miếu với tổng diện tích là 155,6m2
(18.53m x 8.4m). Điện thờ có mặt bằng dạng chữ Công (工) gồm ba gian (gian
ngoài là Tiền điện thờ Phước đức lão gia; giữa là gian Trung điện (còn gọi là
Thiên Tỉnh) thờ trời, đất; trong cùng là gian Hậu điện thờ Tam vị Tổ sư, Thiên
Hậu Thánh Mẫu và Quan Thánh Đế Quân).
Điện thờ chính của di tích
- Tiền điện: Tiền điện cũng là mặt trước của miếu, có diện tích 39,5m2
.
(4.71m x 8.4m), là dạng nhà ba gian hai mái ngang, lợp ngói âm dương tiểu đại
hay còn gọi là ống ngõa, cuối mái có đường riềm hình lá bồ đề và hoa văn dây
leo màu xanh. Đây là kiểu mái đặc trưng của những công trình kiến trúc tín
ngưỡng Trung Hoa.
Trên nóc Tiền điện cũng là mặt trước của mái miếu là một công trình
nghệ thuật đặc sắc với hàng trăm tiểu tượng người, vật... bằng gốm men xanh
thể hiện các lễ hội, tuồng tích tiêu biểu của người Trung Hoa như: cảnh hát bội,
hát tuồng, múa hát cung đình, tập võ, đá cầu, tiên đồng, ngọc nữ, phù điêu mai,
14
lan, trúc, cúc; 01 cặp lưỡng long tranh châu; một cặp cá hóa long đuôi vểnh lên
cao tượng trưng cho sự giàu có. Bước vào Tiền điện phải qua bậc tam cấp và
hành lang còn gọi là tiền sảnh rộng khoảng 3m chạy suốt chiều ngang mặt tiền
miếu. Hành lang được tạo dựng từ nền, cột đến tường hoàn toàn bằng đá xanh
thô Bửu Long. Qua khỏi tam cấp là đến cửa (đây cũng là cửa chính ra vào
miếu). Khung cửa làm bằng đá xanh nguyên khối (rộng 1m16, cao 2m40), hai
cánh cửa bằng gỗ sao sơn đỏ (cao 2m40, rộng 50cm, cánh cửa dày 5cm), trên
hai cánh cửa có đề chữ Hán Văn Thừa và Võ Úy (quan Văn, quan Võ ngày xưa).
- Trung điện: Còn gọi là sân Thiên tỉnh hay Giếng trời, là nơi thờ trời và
đất nằm chính giữa Tiền điện và Hậu điện có diện tích 47,1 m2
(5.61m x 8.4m).
Trung điện là căn nhà ba gian chỉ có hai bức tường tả hữu, mặt trước không có
tường bao che mà thông với Tiền điện, mặt sau thông sang Hậu điện. Trung điện
có mái kiểu bánh ít (hai mái chính, hai mái phụ), lợp ngói âm dương ống ngõa
tráng men xanh, phía dưới trang trí đường riềm hoa văn hình lá bồ đề.
- Hậu điện: Ở phía sau Trung điện, nền cao hơn Trung điện khoảng
20cm. Hậu điện là nơi thờ Tam vị Tổ sư (Mộc, Đá, Rèn), bên trái thờ Thiên Hậu
Thánh Mẫu, bên phải thờ Quan Thánh Đế Quân.
Hậu điện có diện tích 69m2
(8.21m x 8.4m) là căn nhà ba gian, được dựng
bởi 02 hàng 06 cột (04 cột hình vuông bằng đá có kích thước: cao 4m76, cạnh
30cm x 30cm); 02 cột gỗ hình tứ giác sơn đỏ, kích thước 4m76, đường kính
45cm), chân cột kê trên đế đá hình vuông để chống mối mọt. Nền lót gạch hoa
màu xanh, trắng. Hậu điện gồm hai mái lợp ngói âm dương ống ngõa men xanh,
trên bờ nóc trang trí lưỡng long tranh châu tượng trưng cho mưa thuận gió hòa,
cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đối xứng hai bên là cặp cá hóa rồng tượng trưng
cho sự giàu sang. Tường Hậu điện xây bằng đá dày 40cm rất chắc chắn, bền
vững.
Đặc biệt, Hậu điện được bài trí các điện thờ, hoành phi, liễn đối, bao lam
địa võng do các nghệ nhân dân gian chạm trổ tinh vi, sắc xảo mang tính nghệ
thuật cao. Nội dung các bức hoành phi, câu đối phần lớn ca tụng về tài đức của
các vị Tổ làm nghề đá, nghề mộc, nghề rèn và nhắc nhở những người làm nghề
đá cẩn thận giữ lấy nghề với tâm chính đức độ... Đề tài trang trí trên các bao lam
15
như: lưỡng long tranh châu, cửu long tranh châu, tứ linh tượng trưng cho hạnh
phúc, phồn vinh, tước lộc, công hầu theo phong tục của người phương Đông. Bộ
khung, vì kèo ở Hậu điện mang đậm kiến trúc Trung Hoa theo lối: “chồng
rường, giá chiêng”. Tuy không có chạm khắc, trang trí gì nhưng được sơn đỏ
làm cho bộ khung, vì kèo nhìn rất khỏe khoắn, cổ kính và linh thiêng.
* Nhà thờ các vị tiền bối (Tòa nhà bên trái): trưng bày các hình ảnh
hoạt động của miếu và một phần sử dụng làm kho.
Từ sân trong của miếu đi qua một cửa sắt màu đỏ có kích thước (1,1m x
2,06m), phía trên có dòng chữ Hán Như sở đề an vào Nhà thờ các vị tiền bối.
Đây là dãy nhà ngang ba gian diện tích khoảng 87.9m2
. Hai mái lợp tôn giả
ngói, màu đỏ nâu, nền lát gạch bông, tường xây bằng đá xanh, dày 40cm. Toàn
bộ mặt trước Nhà tiền bối để trống, không có cánh cửa, quay mặt vào tòa nhà
chính giữa thông sang Trung điện qua hành lang rộng 3m và một lối nhỏ. Phía
trên các cột là hệ thống bao lam gỗ sơn màu giả đồng trang trí đề tài chim
muông, cây cỏ, hoa lá…. Ba gian có kích thước bằng nhau (29.3m2
). Gian ngoài
cùng (sát sân) được ngăn cách với hai gian trong bởi bức tường đá dày 40cm, có
một lối đi nhỏ cánh cửa bằng gỗ, sơn màu đỏ thông qua, nơi đây được sử dụng
làm kho nhang đèn. Hai gian trong thông thoáng với nhau. Ở chính giữa tường
gian cuối cùng đặt bàn thờ các vị tiền bối có công đóng góp tiền của trùng tu
ngôi miếu bằng đá. Trên tường hai gian đều trưng bày hình ảnh hoạt động của
miếu, đặc biệt là những hình ảnh về Lễ hội làm Chay.
* Nhà khách và nhà bếp (Tòa nhà bên phải):
Từ sân trong của miếu đi qua một cửa sắt sơn đỏ có kích thước như cửa
nhà thờ các vị Tiền bối, phía trên cửa có dòng chữ Hán Thiên hạ thái bình
bước vào nhà khách và nhà bếp.
Từ sân trong của miếu đi qua một cửa sắt sơn đỏ có kích thước như cửa
nhà thờ các vị Tiền bối, phía trên cửa có dòng chữ Hán Thiên hạ thái bình
bước vào nhà khách và nhà bếp. Căn nhà có diện tích khoảng 251.6m2
, kiến trúc
giống hệt nhà thờ các vị Tiền bối. Đây cũng là dãy nhà ngang gồm ba gian,
tường xây bằng đá xanh Bửu Long, dày 40cm, hai mái ngang lợp tôn giả ngói
màu đỏ nâu, bộ khung vì kèo bằng sắt sơn đỏ, nền lót gạch men xanh, trắng.
16
Cũng như nhà thờ các vị Tiền bối, toàn bộ mặt trước nhà khách và nhà bếp để
trống, không có cánh cửa, quay mặt vào điện thờ chính thông qua Trung điện
bằng một hành lang rộng khoảng 3m. Mặt trước nhà là hệ thống bao lam bằng
gỗ sơn giả đồng, trang trí họa tiết chim muông, cây cỏ, hoa lá….Gian ngoài
cùng (sát sân) ngăn cách bởi tường đá được sử dụng làm nhà bếp, hai gian còn
lại được sử dụng làm nhà khách. Nơi đây dùng để tiếp đón khách trong những
ngày lễ trọng đại của miếu.
* Lớp học Sùng Đức:
Nằm sát nhà thờ các vị Tiền bối (hướng Nam), quay mặt ra sân trong của
miếu, lớp học được xây dựng theo kiểu nhà ống (nhà cấp 4), có diện tích
188.3m2
(21.4m x 8.8m). Tường xây gạch thẻ, xi măng tô đá rửa, mái lợp tôn.
Lớp học được thiết kế với 1 cửa xếp ra vào bằng sắt (4m x 6.5m) và 1 cửa sổ
bằng gỗ sơn màu xám; nền lót gạch hoa. Đây là nơi để dạy cho con em người
Hoa bang Hẹ học tiếng Hoa. Đến nay lớp học vẫn duy trì và thu hút cả những
người gốc Việt có nhu cầu học tiếng Hoa.
Kết cấu hệ thống cột, rầm, xuyên… của di tích
3.5. Các ngày lễ chính trong năm của di tích
Hàng năm Miếu Tổ sư tổ chức các ngày lễ lớn:
+ Lễ vía Châu Xương (13 tháng giêng): tổ chức cúng mặn trong một buổi
sáng, trước đây có mới các Bang người Hoa tới dự, hiện nay lễ chỉ được tổ chức
17
trong phạm vi bang Hẹ. Lễ vật cúng gồm vịt, heo quay, hương,đăng, trà, quả,
vàng mã
+ Lễ Khai ấn (19 tháng giêng) hay còn gọi là “trời lủng” nghi lễ được diễn
ra lúc 12 giờ khuya. Trước lễ, trưởng ban và 2 phó ban khấn nguyện sau đó tổ
chức đóng dấu ấn vào trong các tờ giấy màu để bà con thỉnh về nhà treo trước
cửa. Gồm có ba tờ giấy tượng trưng cho ba bàn thờ trong chùa, trên giấy được
vẽ và viết chữ Hán: Thiên Hậu sắc hợp, Tiên Sư vượng tướng, Đế quân phù trì.
Lễ được diễn ra tới 3 giờ sáng sau đó có tiệc mặn đãi khách.
+ Lễ vía Thiên Hậu Thánh Mẫu (23 tháng ba âm lịch): là lễ Vía của người
Hoa diễn ra ở hầu hết các miếu có thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu nên lễ Vía Bà ở
Miếu Tổ sư không tổ chức lớn mà chỉ là dịp để người dân tưởng nhớ đến Bà
Thiên Hậu. Lễ vật cúng Bà bao gồm: hoa quả, nhang đèn và các đồ cúng mặn
như: gà, vịt, heo quay. Trong dịp lễ vía Thiên Hậu Thánh Mẫu, Ban Trị sự miếu
còn tổ chức bán đấu giá lồng đèn, đến nay nghi thức này không còn.
Nghi cúng tại hương án Ông Tiêu
+ Lễ cúng Bà Thiên Hậu (từ mùng 10 đến 13 tháng 6 Al):
- Ngày thứ nhất (Khai lễ làm chay), bao gồm các nghi thức:
Khai lễ chiêu thỉnh Chư thần; lễ Khai đàn - khai quang điểm nhãn; Đãi
cơm chay, biểu diễn võ thuật, ca kịch, lân sư rồng.
18
- Ngày thứ hai (Khai kinh cầu an), bao gồm các nghi thức:
Lễ Khai kinh cầu an; lễ Ngọ môn đáp tướng; đãi cơm chay, biểu diễn ca
kịch, lân sư rồng.
- Ngày thứ ba (Chánh lễ làm chay), bao gồm các nghi thức:
Lễ Khai bảng, hội thỉnh lồng đèn; lễ phóng thủy đăng; lễ lập đàn chay,
làm lễ bắc cầu; đãi cơm chay, biểu diễn ca kịch, lân sư rồng.
- Ngày thứ tư (Kết lễ làm chay), bao gồm các nghi thức:
Lễ Cúng thí, xô giàn; cúng cả mặn kết lễ; đãi cơm chay, biểu diễn ca kịch,
lân sư rồng.
19
Chương 2
Cảm nghĩ về giá trị văn hóa – lịch sử di tích Miếu Tổ sư
1. Giá trị cảnh quan, môi trường
Miếu Tổ sư tọa lạc trên một khu đất tương đối bằng phẳng có địa thế
phong thủy đẹp (mặt hướng ra sông Đồng Nai, lưng dựa núi Long Ẩn). Miếu có
hai cổng ra vào (nhị cổng), thường gọi là cổng ngoài và cổng trong.
Miếu Tổ sư gồm ba tòa nhà riêng biệt nhưng liên kết với nhau bởi bố cục
mặt bằng theo kiểu “nội Công ngoại Quốc” (国) gồm một tòa nhà chính giữa gọi
là điện thờ chính bao gồm: Tiền điện, Trung điện và Hậu điện hình chữ Công
(工), hai dãy nhà bao quanh là nhà khách, nhà bếp và nhà thờ các vị tiền bối
hình chữ Khẩu (口). Miếu Tổ sư là ngôi miếu duy nhất ở Đồng Nai được xây
dựng bằng vật liệu hoàn toàn bằng đá xanh Bửu Long, từ lan can, cột, vách,
khuôn cửa, bậc thềm, các khám thờ, hàng rào đến cổng. Mái miếu lợp ngói âm
dương ống ngõa màu xanh lưu ly.
Lễ hội làm Chay (vía Tổ sư) của di tích
Miếu Tổ sư kết hợp cùng khu danh thắng Bửu Long, Văn miếu Trấn Biên
tạo thành một bức tranh sơn thủy hữu tình trong phạm vi của đô thị Biên Hòa.
Cảnh quan này không chỉ vang tiếng trong thời kỳ đầu khai khẩn mà con cho
20
đến hôm nay, trong bức tranh đô thị ngày càng phát triển. Cảnh trí di tích Miếu
Tổ sư độc đáo, trang nghiêm với nghi ngút khói hương, loan tỏa cùng cảnh chùa
Bửu Phong tịch mịch, địa cảnh phong quang trên ngọn núi Bình Điện như một
nét chấm phá độc đáo của cảnh quan vùng đất Biên Hòa. Với cảnh quan như
chốn Tiên bồng hạ giới của quần thể di tích quanh núi Bửu Long (trong đó có di
tích Miếu Tổ sư), sẽ giúp cho chúng ta thư giản tinh thần, giảm căng thẳng, cân
bằng hơn với cuộc sống trong thời buổi kinh tế, đô thị xô bồ, đầy rẫy những lo
toan, tính toán về cơm, áo, gạo tiền…
Danh thắng Bửu Long Văn miếu Trấn Biên
Biên Hòa - Đồng Nai là tỉnh công nghiệp với 30 khu công nghiệp, 43
cụm công nghiệp, hàng trăm nhà máy, xí nghiệp, hàng ngàn xe máy, xe ô tô các
loại, hàng triệu con người ngày đêm thi nhau thải ra khói bụi, các chất nguy hại,
làm ô nhiễm môi trường không khí, đất đai. Ngoài ra, cùng với việc phát triển
công nghiệp là vấn đề đô thị hóa đất nông nghiệp, đất rừng, đất trồng cây
xanh… làm mất vẻ mỹ quan, mất cân bằng sinh thái, môi trường và ảnh hưởng
đến sức khỏe con người. Do vậy, việc giữa lòng thành phố đô thị phồn hoa, di
tích Miếu Tổ sư cùng quần thể di tích Bửu Long và Văn miếu Trấn Biên đã tạo
ra một lá phổi xanh giúp cải tạo môi trường ngày càng trong lành, tạo ra không
gian thoáng đảng, góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống cho cộng đồng dân
cư ở Biên Hòa – Đồng Nai.
2. Giá trị về lịch sử
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ, Miếu Tổ sư là đầu mối liên
lạc thông tin và là nơi dự trữ vũ khí cho Chiến khu Đ. Là cơ sở tín ngưỡng của
21
người Hoa bang Hẹ - nơi có nhiều người tới cúng bái, tụ họp, nhân dân làm đá
đến nộp thuế, thực dân Pháp không để ý tới nên trong khoảng thời gian từ 1945
đến 1948, Ban tiếp tế vũ khí miền Đông đã sử dụng miếu làm cơ sở chế tạo một
số vũ khí như: bom, mìn tự chế, thuốc nổ… cất giấu và cung cấp cho Căn cứ
Cách mạng Chiến khu Đ.
Từ năm 1948 cho đến cuối những năm kháng chiến chống Pháp, Miếu Tổ
sư là Trụ sở của Tổ tình báo thị xã Biên Hòa (đồng chí Nguyễn Tấn Khanh làm
đặc phái viên của Tổ). Miếu đã trở thành địa điểm bí mật để Tổ tiếp xúc với các
cơ sở cách mạng dưới hình thức giả dạng người đi cúng miếu để liên lạc với các
tổ chức bí mật ở nội thành thị xã Biên Hòa, chuyển những thông tin từ Chiến
khu Đ về thị xã và ngược lại. Miếu Tổ sư còn là nơi chứng kiến thực dân Pháp
tàn sát dã man người dân vô tội tại địa phương. Những người làm nông và buôn
bán nhỏ tại địa phương như ông Khoan, ông Ba Tiên đều bị chúng bắn chết ngay
tại miếu.
Sân bay Biên Hòa bị bộ đội ta đánh cháy Tổng kho Long Bình bị bộ đội ta đánh cháy
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, một số cán bộ, bộ đội du kích thị xã
Biên Hòa và xã Tân Thành đã cải trang thành những người thợ đá để bí mật hoạt
động cách mạng. Đặc biệt, tại miếu vào năm 1968, đồng chí Nguyễn Thị Cẩm Y
- một nữ biệt động tại thị xã Biên Hòa đã bắn trọng thương tên xã đội trưởng ác
ôn tên Nhúc gây tiếng vang lớn.
Đến với di tích, du khách sẽ tìm hiểu những sự kiện lịch sử gắn với quá
trình đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân Đồng Nai nói chung và cộng
22
đồng người Hoa nói riêng. Di tích Miếu Tổ sư là trường học, nơi mọi người dân
có thể tìm hiểu, tiếp thu những bài học lịch sử, những trang sử hào hùng của các
thế hệ đi trước đã không quản ngại máu xương vì nền độc lập, tự do, hạnh phúc
của nước nhà, của toàn thể dân tộc Việt Nam. Đến với di tích, là góp phần làm
tăng thêm lòng tin yêu dân tộc, đất nước, hun đúc thêm ý chí, nghị lực của bản
thân trong hành trang đến tương lai tốt đẹp. Đặc biệt, hiện nay kiến thức lịch sử
của một bộ phận học sinh, sinh viên còn yếu. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến
tình trạng này như phương pháp giảng dạy thiếu trực quan, sinh động, quan
niệm chưa đúng mức về tầm quan trọng của lịch sử, nhận thức về vai trò của lịch
sử đối với quá trình phát triển đất nước còn nhiều mơ hồ, lạc lối. Do vậy, giá trị
lịch sử của di tích Miếu Tổ sư là cơ sở quan trọng, góp phần giáo dục cho các
thế hệ trẻ về truyền thống đấu tranh hào hùng của dân tộc ta, là địa chỉ quan
trọng giúp cho các thế hệ nhận thức hơn về lịch sử. Đã đến lúc ngành giáo dục
Đồng Nai nên đưa vào chương trình giảng dạy của mình về hệ thống các di tích
lịch sử, văn hóa để học sinh, sinh viên tìm hiểu, nghiên cứu và học tập những giá
trị văn hóa lịch sử truyền thống của dân tộc. Ngoài ra, trong các môn về lịch sử,
văn hóa nên đưa các em đến với di tích để các em có các nhìn trực quan, sinh
động hơn nhằm tăng khả năng dung nạp kiến thức lịch sử, văn hóa khi được
giảng dạy ở nhà trường.
3. Giá trị về văn hóa phi vật thể (tín ngưỡng, thiết chế văn hóa, lễ
hội…)
3.1. Giá trị về tín ngưỡng, thiết chế văn hóa
Nằm trong hệ thống các cơ sở tín ngưỡng của người Hoa ở Đồng Nai, Miếu
Tổ sư có niên đại khá sớm, đánh dấu sự xuất hiện của cư dân người Hoa bang
Hẹ trên đất Đồng Nai. Sự hòa quyện và phát triển nền văn hóa Việt - Hoa đã để
lại những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể vô cùng quý giá mà ngày nay vẫn
được lưu giữ và bảo tồn. Cùng với chùa Ông ở Cù lao phố, Miếu Tổ sư đã góp
phần tạo nên nét văn hóa và tín ngưỡng đặc trưng của người Hoa. Cũng như
nhiều cơ sở tín ngưỡng khác Đồng Nai, Miếu Tổ sư nỗi lên như một viên ngọc
sáng; là trung tâm sinh hoạt hành chính, văn hóa, tín ngưỡng truyền thống của
những người con vùng đất phương Nam mến yêu từ trong quá khứ lẫn hiện tại.
23
Ngôi miếu là nơi hội tụ, bảo lưu và truyền thừa nhiều giá trị văn hóa dân gian,
tín ngưỡng truyền thống của cộng đồng các dân tộc cùng cộng cư; là nơi thể
hiện rõ nhất hoạt động tín ngưỡng, chiếm vị trí quan trọng trong đời sống của
người dân sở tại. Đây là một ngôi nhà chung của cộng đồng, nơi thờ bà Thiên
Hậu Thánh Mẫu, các vị Tổ sư khác, cùng các bậc Tiền hiền khai khẩn, Hậu hiền
khai cơ… của làng. Miếu Tổ sư còn là nơi thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn
của các thế hệ người Việt, Hoa đối với những người có công với nước, với làng,
với dân.
“Đất lành chim đậu”, bao thế hệ người Hoa chọn vùng đất Biên Hòa –
Đồng Nai làm nơi sinh kế lâu dài, xây dựng quê hương, ổn định cuộc sống. Tuy
nhiên, bên cạnh những thuận lợi do điều kiện thiên nhiên, khí hậu, thổ nhưỡng
của vùng đất mới, thì cộng đồng người Hoa cũng gặp không ít khó khăn trong
cuộc sống hàng ngày. Tương truyền rằng, xưa kia vùng đất Bửu Long còn lắm
hoang vu, rừng sâu, núi cao ẩn chứa nhiều huyền bí. Vào một ngày nọ, từ trên
đỉnh núi Bửu Long một nghệ nhân làm nghề đá tên là Tào Khương, dùng thân
mình lăn từ trên đỉnh núi vào miếu Tổ sư và xưng rằng mình là Bà Thiên Hậu
hiển linh để cứu dân độ thế, tai qua nạn khỏi, đặc biệt là nạn dịch sắp tới. Linh
ứng thay, một thời gian sau nạn dịch (theo cách kể của các vị bô lão thì nạn dịch
đó có thể là dịch tả) đã làm chết rất nhiều người dân vùng Bửu Long. Để tránh
khỏi tai ương đó, ông Tào Khương với hồn là Bà Thiên Hậu ứng nghiệm cho ra
103 quẻ thẻ xăm tương ứng với 103 bài thuốc Đông y để cứu dân lành. Người
dân bị bệnh đến miếu xin xăm, được Bà Thiên Hậu cho xăm số mấy sẽ ứng với
bài thuốc cùng số. 103 bài thuốc Đông y rất ứng nghiệm, nên đã cứu được rất
nhiều người dân. Tuy nhiên, số người bị bệnh rất đông và hình thức xin xăm
không thể cứu tất cả, nên ông Tào Khương được Bà Thiên Hậu mách bảo làm
một con rồng bằng rơm, sau đó dùng nhang cắm xung quanh. Con rồng được
ông Tào Khương đưa đi khắp làng, đến đâu ông cũng dùng dao phóng để trừ tà
ma, dịch bệnh. Cũng nhờ vậy, mà bệnh tật được đẩy lùi nhân dân biết ơn Bà
Thiên Hậu nên lập đàn thờ chính tại Miếu Tổ sư – từ đó nhân dân mới gọi Miếu
Tổ sư là Miếu Bà Thiên Hậu. Hiện nay, cuốn sách có 103 bài thuốc hiện do ông
Tiêu Sơ ở Thiên Hậu Cung (phường Hòa Bình, thành phố Biên Hòa gìn giữ.
24
Nghi lễ cầu an, cầu siêu trong lễ hội làm Chay Thả hoa đăng trong lễ hội làm Chay
Mức độ chính xác của câu chuyện chúng ta chưa bàn tới bởi đúng sai là
điều không quan trọng ở khía cạnh nghiên cứu này. Song qua câu chuyện đã
chứng minh di tích Miếu Tổ sư có một vai trò quan trọng trong đời sống tín
ngưỡng, tâm linh đối với cộng đồng người Hoa bang Hẹ nói riêng và người Hoa
ở Biên Hòa nói chung. Ngôi miếu là nơi chở che về đời sống tâm linh của nhiều
thế hệ người Hoa, giúp cho cộng đồng an tâm sinh sống và làm ăn lâu dài trên
quê hương thứ hai của mình.
Di tích miếu Tổ sư có một vai trò lớn là chỗ dựa niềm tin và tâm linh cho
công cuộc mưu sinh của cộng đồng người Hoa. Do vậy, hàng ngày có rất nhiều
người đến di tích cầu an và xin xăm trong công việc làm ăn, cũng như những
vấn đề khác trong cuộc sống đời thường. Nói về tập tục xin xăm ở Miếu Tổ sư
có nhiều nét khác biệt so với nhiều di tích khác của người Hoa ở Biên Hòa.
Thông thường, tại các cơ sở tín ngưỡng của người Hoa, xăm gồm 100 thanh tre
tương ứng với 100 quẻ, mỗi thanh có đánh số thứ tự từ 1 đến 100, nhưng với di
tích Miếu Tổ sư có hai loại xăm gồm xăm thường và xăm thuốc, mỗi loại gồm
103 quẻ, được giữ riêng trong hai lọ. Loại xăm trị bệnh được dùng chữ Hán để
đánh số, loại xăm thông thường đánh theo số thứ tự 1, 2, 3… Người đến xin
xăm trị bệnh, sau khi được quẻ xăm số mấy sẽ đến Thiên Hậu Cung (phường
Hòa Bình, thành phố Biên Hòa) lấy thuốc. Trong 103 quẻ xăm thông thường
dùng để cầu an, cầu tài, cầu duyên… có 03 quẻ xăm đặc biệt với tên gọi là tam
khôi (xăm đỉnh khôi, xăm á khôi và xăm đô khôi). Đây là 03 quẻ xăm mà các cơ
sở tín ngưỡng khác của cộng đồng người Hoa không có. Xăm đỉnh khôi, xăm á
25
khôi và xăm đô khôi là những lá xăm cực tốt mà người xin hằng mong ước. Do
vậy, xưa kia nếu xin được một trong ba quẻ xăm này, người xin phải nộp “phạt”
cho miếu 20 lít dầu cùng lễ vật cúng Bà Thiên Hậu như gà, vịt, heo quay để tạ
ơn Bà. Sau đây tôi xin trình bày nội dung của ba lá xăm tam khôi:
- Xăm đỉnh khôi (Thượng thượng):
+ Xăm chữ:
“Nhất điểm xuân lai vạn vật tân
Thiên hồng vạn tử ngậu phương phi
Hạnh trì mai tảo hà tiên hậu
Nhứt thiệt huê khai tự hữu thời”
+ Nghĩa xăm:
“Xuân về vạn vật mới thay
Muôn hồng ngàn tía ấy ngày xinh tươi
Mai sớm hạnh chậm đến nơi
Kết bông đơm trái nhằm thời mới nên”
+ Lời bàn giải:
Quẻ xăm này thuộc Mộc, phải đợi mùa xuân mà cầu khấn thì vạn sự mới
đặng như sở nguyện. Hoặc cầu trong tháng hay ngày thuộc Mộc thì tốt lắm.
Còn mùa Hạ, Thu, Đông thì ít tốt. Đàn bà phải lo ngừa bệnh hoạn. Cầu hôn
nhơn trong 4 mùa đều tốt. Có thai mùa Xuân ắt sanh đặng nam tử. Người xin
quẻ xăm này chẳng ngại tiếng thị phi. Xăm đúng câu: “Tài lợi tương tùy, an
tâm cầu Vọng”.
- Xăm Á khôi (Thượng thượng):
+ Xăm chữ:
“ Tiên quân thiên tước cửu năng ta
Thiên tước diên năng phú khả cầu
Độc thính nghiêu dai hư xướng bải
Thỉ trì tánh tự quán quần lưu”.
+ Nghĩa xăm:
26
“Tiền duyên khen đã khóc tu
Ngày nay đã đặng nên người giàu sang
Tiền trình muốn hỏi cho tàng
Dẫn đường chỉ nẻo quới nhơn hộ trì”.
+ Lời bàn giải:
Người xin đặng quẻ xăm này trăm việc chi cũng phải rán lo đề phòng bởi
xăm thuộc về ngũ hành, tốt ít xấu nhiều, trước phải chịu khó, sau mới dễ dàng.
Cầu công danh thì mùa xuân mới tốt; căn bịnh người già nên cẩn thận, phải
cúng thần thánh họa may mới giảm. Trong việc kiện thưa và cầu tài lợi có quới
nhơn tiến dẫn; phải ngừa tiểu nhơn ám hại; việc hôn nhơn bất thành. Xăm đúng
câu: “Cầu tài, cầu quan hợp, căn bịnh phải lo âu”.
- Xăm đô khôi (Thượng thượng):
+ Xăm chữ:
“Dạ quang minh nguyệt ánh phi thường
Hạnh tế xương kỳ khứng thối toàn
Thiện giá kỹ năng tùng mỹ nguyện
Tự nhiên thính dự hiến chiêu xa”.
+ Nghĩa xăm:
“Đêm sáng trăng trong cảnh lạ thường
Gặp thời rán chí giúp quân vương
Đừng đem giá ngọc chờ cao mải
Thanh giá từ đây khắp bốn phương”
+ Lời bàn giải:
Quẻ xăm này thuộc Hỏa, như tích Thái Ưng thưởng kiểng mùa Thu,
phàm chư sự. Người xin đặng quẻ xăm này phải lo đề phòng tai khốc trong gia
trạch. Việc hôn nhơn thục huyền, phải lo ngừa cẩn thận. Chỉ có cầu danh thì
được toại nguyện mà thôi. Trong việc kiện thưa có quới nhơn phò trợ. Bịnh
đặng gặp thầy. Xăm đúng câu: “Kiện thưa đắc lý, đi xa thành công. Cầu bịnh
khó thành, phai tua van vái”.
27
Di tích Miếu Tổ sư là một thiết chế văn hóa của cộng đồng người Hoa nói
chung và nghề đá ở Bửu Long nói riêng; là địa chỉ tin cậy để người Hoa cố kết
cộng đồng lại với nhau. Đến vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai chung sống với các
dân tộc khác trong công cuộc khai mở vùng đất này, người Hoa đã cố gắng đoàn
kết lại, nương tựa vào nhau. Sự cố kết đó đã giúp người Hoa không chỉ trụ vững
trong cuộc sống vật chất, mà còn bảo tồn được bản sắc văn hóa, tạo được thế
mạnh vật chất và tinh thần cho cộng đồng người Hoa. Thông qua những hình
thức sinh hoạt tín ngưỡng ở di tích, người Hoa gặp gỡ, chia sẽ tình cảm, tâm tư
và giúp đỡ nhau trong công việc cuộc sống. Rộng hơn là cộng đồng người Hoa,
cơ sở tín ngưỡng Miếu Tổ sư với các hoạt động tín ngưỡng của mình, đã liên kết
với nhau một cách khá chặt chẽ, bảo bọc nhau, gần gủi nhau hơn. Hoạt động tín
ngưỡng của người Hoa còn gắn liền với các hoạt động xã hội khác, đặc biệt là
hoạt động từ thiện. Trước đây, Miếu Tổ sư còn là cơ sở nuôi dưỡng, lưu trú của
những trường hợp khó khăn về chỗ ở và kinh tế của cộng đồng người Hoa thông
qua các hình thức tương trợ như bố thí, phước sương…
Hàng năm vào các dịp lễ tết, những người tham gia làm nghề đá ở Bửu
Long cùng chung tay với bá tánh để tổ chức các hoạt động lễ nghi tại di tích.
Thông qua các ngày cúng tế là dịp để các nghệ nhân, những người tham gia làm
nghề đá giao lưu, trao đổi nghề nghiệp, giúp đỡ với nhau để cúng nhau phát
triển. Về mặt nào đó tín ngưỡng thờ Tổ sư sẽ giúp người làm nghề yên tâm, tin
tưởng và hy vọng vào công việc làm ăn của mình, mong chờ vào sức mạnh của
Thần phù hộ để vượt qua khó khăn, vực dậy khi thua lỗ trong cuộc cạnh tranh.
3.2. Giá trị về lễ hội văn hóa dân gian
Hàng năm, ở Miếu Tổ sư thường tổ chức các lễ hội vía Tổ sư (ngày 13
tháng 6 âm lịch), vía Thiên Hậu Thánh Mẫu (ngày 23 tháng 3 âm lịch), vía Quan
Thánh Đế Quân (ngày 24 tháng 6 âm lịch). Đặc biệt, đáo lệ 3 năm một lần, miếu
tổ chức lễ hội vía Tổ sư hay còn gọi lễ hội chùa Bà, lễ làm chay (từ ngày 10 đến
ngày 13 tháng sáu âm lịch). Đây là lễ hội duy nhất miếu tổ chức cúng chay để
tưởng nhớ công ơn của ba vị Tổ sư, Thiên Hậu Thánh Mẫu và Quan Thánh Đế
Quân, cầu phúc cho bá tánh. Đây là lễ hội lớn của người Hoa bang Hẹ cũng như
28
của cộng đồng người Hoa ở Biên Hòa, thu hút đông đảo nhân dân (người Hoa và
người Việt) ở địa phương và các vùng lân cận tham dự.
Ban đầu lễ vía Tổ sư là lễ hội có mục đích tôn vinh tổ nghề (lễ vật dùng
trong lễ hội gồm: cây thước mộc, 5 tép chỉ màu, một cái kéo… là những dụng cụ
của các nghề thủ công). Trước đây, vào những dịp này, những người thợ đá đều
nghỉ việc và mỗi gia đình phải cử một hoặc hai người tham gia phụ giúp công
việc ở miếu. Sau này, lễ hội không còn nguyên thủy là tôn vinh tổ nghề mà kết
hợp cả tín ngưỡng thờ Quan Thánh Đế Quân và Thiên Hậu Thánh Mẫu nhưng
vẫn giữ nguyên tính chất cầu an, cầu siêu, cầu phúc cho cộng đồng.
Lễ bắc cầu Lễ bắc cầu
Lễ hội vía Tổ sư có tính chất, quy mô của lễ hội cổ truyền và có sự kết
hợp khéo léo giữa tín ngưỡng dân gian với tôn giáo. Lễ hội nhằm tôn vinh Tổ
nghề, tạ ơn Thần thánh đã che chở, phù hộ cho dân làng trong ba năm qua, cầu
an cho cộng đồng, cầu siêu cho những vong hồn không được siêu thoát…
Những nghi lễ này rất phù hợp với đạo lí của Nho giáo vốn rất coi trọng đạo
đức, lễ nghi và thờ kính tổ tiên. Những nghi thức cúng trong ba ngày lễ cho thấy
sự dung hợp giữa những nghi thức của Đạo giáo (vị chủ tế là pháp sư mời ở Chợ
Lớn), Nho giáo và Phật giáo trong đó vai trò của Đạo giáo là chủ đạo. Nghi lễ
29
của Đạo giáo được dùng trong những lễ cầu an, cầu phúc; còn nghi lễ cúng cầu
siêu, cúng thí, xô giàn lại mang âm hưởng của Phật giáo. Đây là một hiện tượng
khá độc đáo khác hẳn với lễ cúng Bà của cộng đồng người Hoa ở các địa
phương khác.
Nghi rước linh vị tam Tổ, Thiên Hậu Thánh Mẫu và Quan Thánh Đế Quân
Lễ hội còn là dịp giao lưu văn hóa giữa cộng đồng người Hoa và cộng
đồng người Kinh thể hiện ở nhiều yếu tố: ngoài những món ăn truyền thống của
người Hoa còn có cả những món ăn của người Kinh như kiểm, mắm chay, bánh
ít. Trước đây, khi tổ chức lễ hội thường mời đoàn hát ở Hồng Kông về biểu diễn
(bằng tiếng Hoa) thì nay Ban tổ chức chỉ mời đoàn hát tại địa phương về biểu
diễn (bằng tiếng Việt). Bên cạnh đó, băng rôn mừng lễ, bảng thông báo nội dung
buổi lễ, danh sách những người quyên góp tiền đều được viết bằng cả hai ngôn
ngữ Việt và Hoa, ngoài tên của gia đình người Hoa còn có cả tên của các gia
đình người Việt đóng góp. Điều này cho thấy các cơ sở tín ngưỡng gốc Hoa
không còn khép kín dành riêng cho cộng đồng người Hoa mà đã mở rộng phạm
vi cho cả người Việt. Người Việt và người Hoa đều tin tưởng vào sự phù hộ của
Bà trong cuộc sống với tư tưởng “hữu cầu tất ứng”.
Các lễ hội của Miếu Tổ sư có vai trò giá trị rất to lớn đối với cộng đồng
người Hoa và người Việt ở Đồng Nai. Thông qua các lễ hội của miễu Tổ sư là
30
dịp để chúng ta được trở về nguồn cội của dân tộc đều này có ý nghĩa thiêng
liêng trong tâm trí mỗi người. Lễ hội là nơi thể hiện sức mạnh cộng đồng làng
xã, địa phương vì cùng thờ chung vị thần, có chung mục tiêu đoàn kết để vượt
qua gian khó, giành cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Qua lễ hội đã đáp ứng nhu cầu
sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá vật chất và tinh thần của mọi tầng
lớp dân cư; là hình thức giáo dục, chuyển giao cho các thế hệ sau biết giữ gìn, kế
thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống quý báu của dân tộc. Lễ hội
là dịp để con người được giải toả, dãi bày phiền muộn, lo âu với thần linh, mong
được thần giúp đỡ, chở che vượt qua những thử thách đến với ngày mai tươi
sáng hơn.
Nghi lễ cầu an, cầu siêu trước khi phóng sinh
4. Giá trị về kiến trúc - nghệ thuật
Có thể nói, Miếu Tổ sư là một công trình kiến trúc bằng đá độc đáo, chứa
đựng nhiều nét văn hóa, kiến trúc nghệ thuật có một không hai ở Đồng Nai. Các
hạng mục của công trình từ trụ, tường, vách, lan can, khuôn cửa, bậc thềm, các
khám thờ, hàng rào đến cổng… đều được làm bằng đá xanh Bửu Long với độ
tinh xảo, chính xác cao, gắn kết vững chải trước dòng chảy của thời gian. Đá
xanh là đá granit có nhiều nơi ở Đồng Nai nhưng đá lấy ở núi Lò Gốm (tên chữ
là chùa Bửu Phong, còn gọi là Lò Gạch vì làng Bạch Khôi ở chân núi lúc ấy có
nhiều lò gạch) là loại tốt nhất, dễ khai thác. Nghề làm đá ở Bửu Long có từ xưa,
31
gắn với quá trình khai phá của cộng đồng người Hoa. Địa chí Đồng Nai (tập IV
– Kinh tế) có viết về nghề đá ở Bửu Long như sau: “Trong số di thần người Hoa
đến cư trú ở Đồng Nai năm 1679 có một số người Hẹ vốn có nghề chế tác đá.
Đầu tiên có tám gia đình thuộc họ Lưu, Đặng, Phạm về làng Tân Lại mở hầm
khai thác đá”. Trong quá khứ nghề đá phát triển rực rỡ nhưng chủ yếu “nằm
trong tay hơn 400 người Tàu1
”. Một thời gian sau người Pháp, người Việt đã
sớm chen chân vào khai thác, người Tàu chỉ chiếm phần lớn số hầm đá trắng.
Sách Địa chí tỉnh Biên Hòa (1924) có viết như sau: “Có khoảng 90 hầm đá
granit phần lớn ở các làng Bạch Khôi, Bình Điện, Tân Lại, Bình Trị, Bình
Thạch. Người Tàu thu lợi bằng lao động khai thác thủ công. Họ dùng thuốc nổ
tách những tảng granit sau đó đẽo gọt bằng dụng cụ thép…. Người ta xây mộ,
đá kê chân cột, đá kê máy xay xát gạo, nó cũng dùng trong kiến trúc châu Âu…”
Đến nay, làng nghề đá Bửu Long không còn thịnh vượng như trước do nhiều
nguyên nhân, số lượng khai thác, chế tác đá chỉ còn trên dưới 10 cơ sở.
Hệ thống liễn đối hoành phi, cột, xuyên bằng đá ở chánh điện
Đặc biệt, hệ thống hoa văn trang trí trên các hoành phi, liễn đối bằng đá,
bằng gỗ của di tích Miếu Tổ sư khá đa dạng, thể hiện nhân sinh quan, thế giới
quan của các bậc tiền nhân. Hình ảnh tứ linh với long – lân – quy – phụng, là 4
con vật linh, biểu trưng cho sự thiêng liêng, cao quý xuất hiện nhiều ở các
hương án, nóc mái, hoành phi, liễn đối. Ngoài ra, các họa tiết hoa văn thể hiện
1 Theo Địa chí tỉnh Biên Hòa - 1901
32
mô típ: “trúc – tước”, “nho – sóc”, “bức quyển thư”… với ước mong có một tấm
lòng ngay thẳng, rong sạch, một sức sống bền bỉ, con cháu đời sau sẽ nối nghiệp
cha ông, thờ tự tổ tiên, học hành hiển đạt, biểu trưng cho “phúc – lộc – thọ” xuất
hiện khá nhiều ở các hạng mục công trình của di tích. Các tác phẩm chạm khắc
ở Miếu Tổ sư ngoài việc thể hiện những ước mong, gửi gắm của các bậc tiền
nhân còn mang nhiều giá trị nghệ thuật, thẩm mỹ và thể hiện sự phát triển cao
nghề thủ công truyền thống của cộng đồng các dân tộc trên mảnh đất Biên Hòa –
Đồng Nai.
Các họa tiết hoa văn, các đề tài trang trí ở bao lam chánh điện
Đặc biệt, đến với di tích Miếu Tổ sư, ấn tượng đầu tiên đập vào mắt của du
khách là quần thể tượng trên nóc mái tiền điện rất độc đáo phản ánh rõ nét các
quan niệm, những ước vọng của các bậc tiền nhân xưa. Nét cổ kính, trầm mặc
như phủ lớp bụi của thời gian thể hiện rõ từ trên chóp mái, bờ đao, với lối trang
trí rất đặc trưng của quần thể tượng do các nghệ nhân người Hoa Quảng Đông
làm tại các lò gốm Cây Mai nổi tiếng một thời vùng Gia Định. Ở Đồng Nai kiểu
trang trí quần thể tượng gốm men xanh Quảng đặc trưng như Miếu Tổ sư còn
thấy ở các cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng của người Hoa như Chùa Ông (xã Hiệp
Hòa), chùa Bà Thiên Hậu (phường Hòa Bình), đình Tân Lân (phường Hòa Bình)
hoặc các di tích có ảnh hưởng với văn hóa Hoa như đình Bình Thạch (xã Bình
Hòa, Vĩnh Cửu).
33
Nhìn xa, quần thể tượng dùng để trang trí trông khá rối, nhưng nếu tiếp cận
ở khoảng cách gần, đi sâu vào chi tiết, sẽ thấy ở đó những câu chuyện được
miêu tả cực kỳ sống động, thể hiện đời sống sinh hoạt thường ngày của con
người, hay những ước vọng của các bậc tiền nhân hoặc những cảnh lấy từ trong
tiểu thuyết chương hồi cổ điển Trung Hoa. Có thể thấy, kết cấu các quần thể tiểu
tượng gồm hai thành tố:
+ Quần thể tượng dùng để trang trí và thể hiện các nghi thức
+ Quần thể tượng có nội dung cụ thể
Quần thể tượng dùng để trang trí và thể hiện nghi thức được bố trí thành
hàng ngang trên bờ nóc, có chức năng tạo các ý nghĩa biểu trưng cao. Đó là
“Rồng Chầu Pháp Lam” trên những vầng sóng nước ở cổng tam quan, nóc mái,
đối xứng hai bên là cá hóa rồng. Hình ảnh rồng chầu trên cổng tam quan, nóc
mái hay ở bao lam hương án của di tích là vật linh thiêng đáng kính trọng; tượng
trưng cho quyền lực của nhà vua và nó tượng trưng cho điềm lành, cái thiện, cho
sự phồn thịnh. Còn hình ảnh cá hóa rồng - biểu ý mong muốn gặp vận lợi cực tốt
chúc tụng, sự sung túc và đỗ đạt cao của những hiền sĩ.
Lưỡng long chầu Pháp lam ở cổng tam quan
Quần thể tượng có nội dung cụ thể gồm cụm tiểu tượng được bố trí trên nóc
mái và phù điều ở chánh điện là một cụm tượng đang biểu đạt một điển tích.
34
Theo Huỳnh Ngọc Trảng, Nguyễn Đại Phúc trong sách “Gốm Cây Mai – Sài
Gòn xưa” thì đây là nhóm tượng thể hiện: “cảnh thiếu nữ gieo sầu, cảnh diễn
v đài, cảnh tiễn đưa, cảnh diễn hí – tấu nhạc, cảnh vinh quy bái tổ, cảnh uống
rượu đánh cờ, cảnh để thơ ngâm vịnh…”. Xen lẫn với quần thể tượng là các
mảng trang trí khác như phượng, rùa, mai, cúc, sen, dây hoa lá cách điệu…
Ngoài ra chúng ta còn thấy các đề tài cảnh vật cặp đôi: Liên – Áp, Mai – Điểu,
Phù dung – Phụng, Tùng – Lộc… Toàn bộ mặt trước, bên trong của miếu là các
mảng trang trí độc đáo và cực kỳ sinh động với nhiều chủ đề biểu tượng cho sự
thịnh vượng, trường thọ, như ý, hay đề tài có tính chất tả thực “đã làm cho tập
hợp các quần thể tiểu tượng mở ra những không gian thoáng đãng, đưa thiên
nhiên vào với lâu đài, với đám người đông đúc có phần chật chội, đem chất tươi
mát hòa vào sự hoành tráng có phần bề bộn”1
.
Quần thể tiểu tượng ở nóc mái Miếu Tổ sư
5. Giá trị di sản tư liệu
Thời phong kiến, chữ Hán, Nôm đóng vai trò là một công cụ mở mang
văn hóa để người Việt hiểu sâu đạo Nho, đạo Phật, đạo Lão, tiếp thu những tinh
hoa văn hóa của khu vực để phát triển Nhà nước, các thiết chế văn hóa cao, tạo
nên giá trị văn hiến cho Đại Việt. Trong khoảng 20 năm đầu của thế kỷ 20, chữ
1 Xem Huỳnh Ngọc Trảng, Nguyễn Đại Phúc: “Gốm Cây Mai – Sài Gòn xưa” , NXB Trẻ, 1994.
35
Hán Nôm ở Việt Nam vẫn đóng vai trò ấy, nhưng nó còn là một công cụ để
truyên truyền yêu nước, cách mạng, ngôn ngữ của báo chí, văn chương, đạo lý
dân tộc… Ngoài ra, kể từ khi tiếp nhận chữ Hán, người Việt Nam đã sớm nhận
thức những đặc thù về hình thể đến nội dung hay đặc trưng bản chất của hệ văn
tự này và cũng sớm tiếp nhận coi trọng nghệ thuật thư pháp. Hình thức biểu hiện
của loại hình chữ Hán khá đa dạng về nội dung, hình thức từ dân gian đến cơ sở
tín ngưỡng, tôn giáo; từ liễn đối, hoành phi, đại tự, bài kinh, văn bia…
Miếu Tổ sư là nơi lưu giữ nhiều cổ tự với những câu đối, bài kinh, hoành
phi độc đáo, phong phú và đa dạng về nội dung và hình thức thể hiện, được bày
trí nhiều khu vực từ cổng tam quan, chánh điện, hậu điện… thể hiện nhân sinh
quan và thế giới quan sâu sắc của các thế hệ tiền nhân. Đến với di tích là dịp để
các nhà nghiên cứu, các sinh viên học sinh tìm hiểu, nghiên cứu, học tập rèn
luyện kiến thức đặc biệt là Hán tự - một ngôn ngữ mà dân tộc ta đã sử dụng gần
một ngàn năm. Bởi hoành phi – liễn đối không chỉ là những vật treo để tăng
thêm vẽ thẩm mỹ, vẻ trang nghiêm cho di tích mà bản thân nó còn là những lời
ca ngợi công đức của các bậc thánh nhân, tiền hiền, hậu hiền; còn là lời dạy bảo,
khuyên nhủ, là những nguyện ước của cha ông nhắn nhủ cho các thế hệ con
cháu mai sau tu luyện bản thân và cư xử ở đời cho phải đạo làm người và truyền
thống của dân tộc.. Đồng thời đó là một trong những nguồn tư liệu quý giúp
chúng ta nghiên cứu về phong tục tập quán của cộng đồng người Hoa.
Hệ thống hoành phi – bài kinh ở tiền điện
36
Một số liễn đối, hoành phi ở Chánh điện di tích Miếu Tổ sư:
Phiên âm/tạm dịch:
06 - Thánh đức phối Thiên: đức Thánh sánh Trời
05 - Thiên cổ nhất nhân: Xưa nay chỉ một người
07 - Hải quốc trường xuân: Nước Việt mãi xinh tươi
03 - Tiên sư Tổ miếu: Miếu Nghiệp tổ - Tiên sư
02 - Sáng bách nghệ nguyên lưu: tượng tâm độc vận
04 - Thuỳ thiên thu thằng mặc: Sư thị hàm tôn
Bày trăm nghề xưa truyền: thợ biết tự tay lèo lái
Để muôn đời mực thước: Thầy đều hết thảy kính tôn
創
百
藝
源
流
匠
心
獨
運
02 04
垂
千
秋
繩
墨
師
氏
咸
尊
03
廟 祖 師 先
春 長 國 海 天 配 德 聖 人 一 古千
07 06 05
37
Cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam giàu truyền thống đạo lý “uống nước
nhớ nguồn” có truyền thống văn nhã và có tính phiêu lưu mạo hiểm khai phá các
vùng đất hoang sơ nên có tinh thần tập thể. Quá trình mở mang khai khẩn vùng
đất mới Đồng Nai đã tạo nên những khu dân cư đông đúc, kinh tế, văn hóa, xã
hội phát triển. Những cư dân từ phương Bắc, Trung vào lập nghiệp, cùng với các
đợt di dân của dân tộc Hoa trong suốt diễn trình lịch sử đã đem theo những
phong tục tập quán, những nét văn hóa riêng biệt làm phong phú thêm bản sắc
văn hoá của Đồng Nai. Vì có đạo lý uống nước nhớ nguồn, nên người Hoa đi tới
đâu đều lập miếu nhằm đáp ứng những nhu cầu tâm linh nơi vùng đất mới. Hàng
năm có tổ chức cúng miếu mà hễ có cúng miếu phải có bài văn tế nhằm đề cao
công đức người xưa để mong được phước lành, thạnh vượng nơi hoang sơ vừa
được khai phá. Những nghi thức tế tự theo điển lệ cũng theo bước chân những
lưu dân du nhập vào Đồng Nai và được những cư dân nơi đây vận dụng một
cách linh hoạt, sáng tạo dựa theo đặc điểm chung của tình hình thực tế nơi vùng
đất mới.
Nghi đọc văn tế trong lễ hội làm Chay
Ở Đồng Nai, di tích Miếu Tổ sư là cơ sở tín ngưỡng đang lưu truyền và
thực hành nhiều bài văn cúng, văn tế thần, tiền hiền, hậu hiền… bằng chữ Hán
có giá trị to lớn ẩn trong những di sản văn hóa vật thể. Nội dung các bài văn tế
chủ yếu ghi lại những quan điểm Nho giáo trong việc tổ chức vấn đề trị nước,
38
xây dựng nếp sống gia đình truyền thống, phong tục tập quán trong xã hội, nhớ
ơn những bậc tiền nhân có công khai hoang lập ấp, những bậc hậu hiền có công
mở mang xóm làng… Văn cúng, văn tế là một hình thức văn tự biểu hiện tấm
lòng của hậu thế đối với các bậc tiền nhân có công khai khẩn, mở mang vùng
đất, phù hộ cho quốc thái dân an ... Thể loại văn tự này tồn tại một cách tự nhiên
trong đời sống hiện tại, được rất nhiều các tầng lớp kỳ lão người Hoa tự nguyện
gìn giữ và lưu truyền. Văn cúng, Văn tế được tiến hành tuân thủ theo nghi thức
điển lệ được quy định từ xưa, với lối hành văn bác học.
Sau đây xin giới thiệu bài văn tế trong lễ hội làm Chay của di tích Miếu
Tổ sư:
HẠ ĐẢN SỚ VĂN
賀 誕 疏 文
中 華 人 民 共 和 國 歲 次 … 年 … 六 月 初 十 日。
啟 坛 建 醮。三 年 三 請 醮。三 日 三 宵。今 十 三 日 為 先 師 宝 誕 之
期。旅 越 邊 和 市 仝 狔 省。僑 裔 暨 善 信 人 等 誠 心 處 香。福 德 同
霑 信 士。值 理 事 列 名 人 等。(宣 意 文 )。
謹 以 牲 醴 素 酌、香、諸 燭 帛 之 儀。
致 祭 于:
- 勅 封 護 國 庇 民。
- 太 子 太 保。
- 伍 丁 先 師。
- 北 城 亭 候。
- 魯 班 先 師。
39
- 護 國 公 候 尉 遲 先 師。
- 忠 義 仁 勇 關 聖 帝 君。
- 混 元 教 主 太 上 老 君。
- 護 國 庇 民 天 后 元 君。
- 列 位 老 師、少 師。
寳 座 案 前。
曰:
為 神 降 福。普 耀 萬 方 四 海 感 賴、德 澤 绵 長、英 靈 顯 赫、頒民 恩
光、感 神 沾 常、利 祿 施 常。禮 乃 舊 典、追 思 難 忘。 固 有:
春 秋 設 祀、黍 稷 馨 香 必 誠 必 格。
集 庶 士 於 祥 鄉 頌 聲 同 作、濟 濟 一 堂。謹 具 微 觴、献 于 高 堂、來
格 來 賞。伏 願 各裔 大 展。微 觴、献 于 高 海 海 國 通 商、處 世 榮
昌業。各 行 旺 相、護 民 老 少 安 康。消災 遠 禍。降 福 載 祥。感 神
護 佑、威 德 無 彊。
聊 表 上 達。敬 备 微 漿。年 年 富 貴、代 代 榮 昌。男 添 百 福、女 納
千 祥。手 藝 者 精 通 萬 变。讀 書 者 金 榜 名 楊。耕 田 者 積 穀 千
倉。薦 諸 盤 四、向 其 來 格 來 賞。
尚 饗。
天 運 … 年 …月…日…
吉 旦。
40
Phiên âm:
Hạ đản sớ văn
Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa quốc, tuế thứ … niên … lục nguyệt sơ
thập nhật. Khải đàn kiến tiếu. Tam niên tam thỉnh tiếu. Tam nhật tam tiếu. Kim
thập tam nhật vi Tiên sư bảo đản chi kỳ. Lữ việt Biên Hòa thị, Đồng Nai tỉnh.
Kiều duệ kỵ thiện tín nhân đẳng thành tâm xử hương. Phước đức đồng triêm tín
sĩ. Trị lý sự liệt danh nhân đẳng. (Tuyên ý văn).duệ kỵ thiện tín nhân
Cẩn dĩ sanh lễ tố chước, hương, chư chúc bạch chi nghi.
Trí tế vu:
- Sắc phong hộ quốc tý dân.
- Thái tử Thái bảo.
- Ngũ đinh Tiên sư.
- Bắc thành Đình hầu.
- Lỗ ban Tiên sư.
- Hộ quốc Công hầu, Uất Trì Tiên sư.
- Trọng nghĩa nhân dũng Quan Thánh Đế Quân.
- Hỗn nguyên giáo chủ Thái Thượng Lão Quân.
- Hộ quốc tí dân Thiên Hậu Nguyên Quân.
- Liệt vị lão sư, thiếu sư.
Bão tòa án tiền.
Viết:
Vi thần giáng phước, phổ diệu vạn phương, tứ hải cảm lại, đức trạch miên
trường, anh linh hiển hách, ban dân ân quang. Cảm thần triêm thường, lợi lộc thi
thường. Lễ nãi cựu điển, truy tư nan vong.
Cố hữu:
Xuân thu thiết tự, thử tắc hinh hương tất thành tất cách.
Tập thứ sĩ ư tường hương, tụng thanh đồng tác, tế tế nhất đường. Cẩn cụ
vi thương, hiến vu cao đường. Lai cách lai thưởng. Phục nguyện các duệ đại
triển.
41
Hải quốc thông thương. Xử thế vinh xương nghiệp, các hành vượng
tướng. Hộ dân lão thiếu an khương, tiêu tai viễn họa, giáng phước tải trường,
cảm thần hộ hữu, uy đức vô cương.
Liêu biểu thượng đạt. Kính lược vi tương. Niên niên phú quý, đại đại vinh
xương. Nam thiêm bách phước, nữ nạp thiên tường. Thủ nghệ giả tinh thông vạn
biến. Độc thư giả kim bảng danh dương. Canh điền giả tích cốc thiên thương.
Tiến chư bàn tứ, hướng kỳ lai cách lai thưởng.biến. Độc thư giả thiên
Thượng hưởng.chư bàn tứ, hướng kỳ lai cách lai thưởng.biến. Độc thươn
Thiên vận …. niên… nguyệt … nhật.
Cát đán.
Tạm dịch:
Sớ văn mừng sinh nhật Bà
Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm … tháng sáu, ngày mùng 10.
Lập đàn cúng kiến. Ba năm mới cúng ba ngày ba đêm. Hôm nay ngày 13,
là đến kỳ cúng kỷ niệm đản sanh quý báu của tiên sư.
Tại nước Việt Nam, tỉnh Đồng Nai, thành phố Biên Hòa, thiện nam tín
nữ, con cháu dòng dõi người Hoa kiều cư nước Việt, thành tâm dâng hương. Tín
sĩ đồng tâm nhuận phước đức. Các thành viên trong trị lý sự liệt vị có tên dưới
đây:
(Chúc văn tuyên ý)
Kính cẩn dâng lễ vật gồm vật cúng, rượu, đèn, nhang.
Kính cẩn trí tế cùng:
- (Thiên Hậu) được sắc phong che nước, chở dân.
- Thái tử Thái Bảo.
- Ngũ đinh tiên sư.
- Đình hầu bắc vực.
- Tiên sư Lỗ Ban.
- Công hầu che chở nước, Tiên sư Uất Trì.
- Quan thánh Đế quân trung nghĩa nhân dũng.
42
- Hỗn nguyên giáo chủ Thái Thượng lão Quân.
- Nguyên Quân Thiên Hậu che nước chở dân.
- Các vị Lão sư, Thiếu sư.
Trước bàn bảo tòa rằng:
Là thần giáng phước, phổ diệu muôn nơi (phương). Bốn biển đều nhờ.
Đức trọng dài lâu. Anh linh hiển hách. Giúp dân ân quang. Cảm thần triêm
thưởng. Lợi lộc thường thiên. Lễ xin soi xét. Truy tư (truy nguyên tư viễn) khó
quên cho nên: Bày biện lễ cúng xuân thu hai lần, lòng thành tất cảm cách. Tập
hợp sĩ thứ tại xứ sở an lành cùng cất tiếng ca tụng, rờ rỡ một đường. Kính cẩn
cúng ly rượu lạt, dâng hiến cao đường. Đến cảm cách, thưởng) thức lễ vật, cầu
nguyện các con cháu khách đều được phát triển lớn.
Hải quốc thông thương, xử thế xương thạnh sự nghiệp. Các hành vượng
tướng, bảo hộ dân lớn bé an khương. Tiêu trừ tai ương, đuổi xa hoạn họa. Giáng
phước, mang đến điềm lành. Cảm kích ơn Thần giúp đỡ, oai đức vô cùng.
Tạm biểu lộ cùng trên. Kính sắm sanh sơ sài tiệc rượu mọn. Năm nay giàu
sang, đời đời vinh xương. Nam thêm trăm phước, nữ nạp ngàn lành. Công nghệ
tinh thông muôn biến. Người học hành tên nêu bảng vàng. Nông dân chứa thóc
đậu ngàn kho. Dâng cúng bốn mâm, cầu mong Thần đến cảm cách, thưởng thức.
Cúi mong thượng hưởng.
Thiên vận … năm … tháng … ngày…
Ngày tốt.
6. Giá trị kinh tế thông qua hoạt động du lịch
Phát huy và bảo tồn các giá trị văn hóa là hai mặt của một thể thống nhất,
có tác động tương hỗ lẫn nhau trong quá trình phát triển của mỗi xã hội mà văn
hóa được xem là nền tảng. Việc phát huy các giá trị văn hoá sẽ có tác dụng làm
tăng ý thức, trước hết là của mỗi thành viên trong cộng đồng dân tộc và của bè
bạn quốc tế đối với trách nhiệm bảo tồn các giá trị văn hóa. Ngược lại việc bảo
tồn sẽ là cơ sở và tạo ra cơ hội có được các giá trị văn hóa để tự hào, để giới
thiệu với các dân tộc khác, các quốc gia khác trên thế giới.
43
Du lịch là một ngành kinh tế có định hướng tài nguyên một cách rõ rệt,
hay nói một cách khác du lịch chỉ có thể phát triển trên cơ sở khai thác các giá
trị tài nguyên du lịch. Đứng từ góc độ này, các giá trị văn hóa được xem là dạng
tài nguyên du lịch để khai thác tạo ra các sản phẩm du lịch hấp dẫn, khác biệt và
có khả năng cạnh tranh không chỉ giữa các vùng miền, các địa phương trong
nước mà còn giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và quốc tế.
Hát bội trong lễ hội vìa Bà Thiên Hậu
Miếu Tổ sư là di tích cấp tỉnh có nhiều giá trị văn hóa lịch sử, cùng với
nhiều di tích khác song hành suốt chiều dài lịch sử mảnh đất và con người ở
Đồng Nai. Do vậy, bên cạnh các giá trị khác, Miếu Tổ sư có giá trị về kinh tế
thông qua các hoạt động du lịch. Nếu biết phát huy những giá trị kinh tế của
miếu sẽ giúp cho chúng ta vừa quảng bá được hình ảnh vừa góp phần bảo tồn và
phát huy có hiệu quả cơ sở tín ngưỡng. Bởi du lịch được xem là phương thức
phát huy có hiệu quả nhất của di sản. Thông qua hoạt động du lịch, du khách có
cơ hội không chỉ được được tận mắt nhìn thấy trong thực tế, mà còn được hiểu
về giá trị các di sản văn hóa nơi mình đến du lịch. Nhiều giá trị văn hóa chỉ có
thể cảm nhận được trong những khung cảnh thực của tự nhiên, của nếp sống
truyền thống cộng đồng mà không thể có phim ảnh, diễn xuất nào có thể chuyển
tải được. Ngoài ra, nguồn kinh phí thu từ hoạt động du lịch sẽ giúp cho Ban
44
Quản lý có thể giúp trùng tu, tôn tạo các hạng mục, công việc hàng năm của di
tích Miếu Tổ sư một cách bền vững.
45
Chương 3
Thực trạng và giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị lịch sử
- kiến trúc nghệ thuật di tích Miếu Tổ sư
1. Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai
Trong những năm qua, hoà chung với các chủ trương, đường lối của Đảng
và Nhà nước, tỉnh Đồng Nai đã thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa, thực hiện
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy các yếu tố
của đô thị, của kinh tế hàng hóa, của văn hóa bên ngoài đang hằng ngày, hằng
giờ tác động một cách tích cực và tiêu cực đến đời sống văn hoá – xã hội của các
cộng đồng dân cư đã ổn định từ bao đời nay. Mặt tích cực là sự tăng trưởng kinh
tế, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại để từng bước phát triển đời sống vật
chất cũng như tinh thần của các cộng đồng dân cư. Được sự quan tâm của các
cấp chính quyền với sự đồng thuận, nhận thức cao của các cộng đồng dân tộc
nên nhiều lễ hội văn hoá dân gian truyền thống, nhiều di tích được trùng tu tôn
tạo và tổ chức rất công phu, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia,
hưởng ứng. Song mặt trái của nền kinh tế thị trường tác động đến truyền thống
văn hóa của các thế hệ tiền nhân bao đời gầy dựng hết sức nặng nề. Nhiều lễ hội
văn hoá dân gian độc đáo của dân tộc mình đã mất đi do không còn được tổ
chức; một số lễ hội dân gian truyền thống được các cộng đồng dân tộc cố gắng
gìn giữ, duy trì nhưng không còn giữ bản sắc văn hóa dân tộc như vốn có…
Gìn giữ và phát huy những giá trị di sản văn hoá truyền thống của dân tộc
để phục vụ cho chiến lược phát triển đất nước một cách bền vững là nhiệm vụ
hết sức quan trọng. Tại nghị quyết lần thứ V Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng
khoá VIII đã chỉ rỏ: “… Xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc tiên tiến,
đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, làm
cho văn hoá thấm sâu vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng,
từng địa bàn dân cư vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra
trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát
triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân
46
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, tiến bước vững chắc lên CNXH”.
Nhận thức được tầm quan trọng của văn hoá dân tộc, đặc biệt là các lễ hội dân
gian truyền thống của các cộng đồng dân tộc anh em trong quá trình hội nhập và
phát triển đất nước cũng như ở từng địa phương, đặc biệt là vùng đất “địa linh
nhân kiệt” Đồng Nai đang trong quá trình đô thị hoá một cách nhanh chóng, nên
trong những năm qua, bằng nguồn kinh phí địa phương và nhà nước các cấp các
ngành chức năng đã đầu tư, thực hiện nhiều đề tài, dự án nhằm bảo tồn và phát
huy những tinh hoa, kiệt tác của các cộng đồng dân tộc. Nhiều đề tài văn hóa
được Bảo tàng Đồng Nai đầu tư nghiên cứu như Nghề thủ công truyền thống
Thạnh Phú, Di sản văn hóa làng Hiệp Phước, Lễ hội văn hóa dân gian, Nhà cổ ở
Đồng Nai, Văn cúng – Văn tế Hán Nôm… đã góp phần quan trọng trong việc
bảo tồn và phát huy giá trị di sản, đặc biệt là công tác gìn giữ và phục hồi các lễ
hội văn hóa dân gian ở Đồng Nai. Ngoài ra, thông qua các đề tài, dự án các nhà
nghiên cứu, những người làm công tác văn hóa được tiếp cận, tìm hiểu văn hóa
truyền thống đặc sắc của các cộng đồng dân tộc ở địa phương. Đồng thời việc
đầu tư nghiên cứu về lịch sử, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa, diễn trình và các vấn đề
nội dung khác có liên quan đến từng di tích lịch sử, văn hóa nghệ thuật, lễ hội
văn hóa dân gian truyền thống sẽ là những cứ liệu quan trọng, hữu ích giúp cho
mọi người có cách nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về đất nước, con người Đồng
Nai.
2. Thực trạng và giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị lịch sử -
kiến trúc nghệ thuật di tích Miếu Tổ sư
2.1. Thực trạng công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích Miếu Tổ sư
Di tích Miếu Tổ sư là một công trình kiến trúc nghệ thuật có giá trị cao,
được các thế hệ người Hoa – Việt gìn giữ, tôn tạo suốt hơn 100 năm qua. Hiện
nay, di tích vẫn còn bảo lưu nhiều hạng mục công trình có giá trị văn hóa độc
đáo, mang tính thẩm mỹ cao như hệ thống bao lam, hoành phi, liễn đối, kết cấu,
kiến trúc được tạo tác bằng đá…. Hệ thống vì kèo, mái ngói, bờ đao… được các
ngành chức năng, Ban Quản lý miếu, cùng bá tánh, nhân dân thường xuyên tu
bổ, tôn tạo hàng năm nhằm đảm bảo tính nguyên bản của di tích trước những tác
động của môi trường thiên nhiên và thời gian. Các lễ hội văn hóa dân gian của di
47
tích như lễ hội làm Chay (vía Tổ sư), lễ hội vía Bà Thiên Hậu…được nhiều thế
hệ Ban Quản lý tổ chức hàng năm nhằm gìn giữ các lễ tục trịnh trọng và đầy đủ.
Chính nhờ vậy, hàng năm vào dịp lễ hội hàng ngàn bá tánh gần xa đến lễ bái và
tham gia vào các hoạt động, tạo ra không gian văn hóa đặc sắc của tỉnh Đồng
Nai. Ngoài ra, hàng năm nơi đây còn thu hút các đoàn học sinh, du lịch, các nhà
nghiên cứu đến tham quan và tìm hiểu về giá trị lịch sử, văn hóa, kiến trúc nghệ
thuật…
Tuy nhiên, việc bảo tồn và phát huy lịch sử - kiến trúc nghệ thuật chưa
tương xứng với giá trị và tiềm năng của di tích. Trong quá trình phát triển đô thị
đã làm ảnh hưởng đến kết cấu của công trình, cảnh quang môi trường của di
tích. Việc diện tích đất của miếu bị lấn chiếm, dân cư ở đan xen với khu vực thờ
tự đã phần nào ảnh hưởng đến giá trị của di tích. Con đường chính dẫn vào miếu
và khoảng sân ngoài còn nhếch nhác do chưa được đầu tư đúng mức.
Đặc biệt, việc quan tâm, đầu tư nghiên cứu và bảo tồn còn nhiều hạn chế,
chưa phát huy hết giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của di tích. Quần thể
tượng gốm trên mái ngói, bờ đao, tiền sảnh… đến nay vẫn chưa thấy có một
công trình nghiên cứu, giải mã nội dung (niên đại, nguồn gốc, chất liệu, kỹ
thuật, nội dung…) nhằm xác định các giá trị để có những biện pháp bảo tồn và
phục chế.
Di tích miếu Tổ sư là nơi lưu giữ nhiều giá trị lịch sử kiến trúc nghệ thuật
nhưng hàng ngày vẫn vắng bóng khách đến tham quan, chiêm ngưỡng (trừ các
dịp cúng tế định kỳ hàng năm). Số lượng các đoàn học sinh, sinh viên đến tìm
hiểu di tích còn quá khiêm tốn. Các công ty du lịch, lữ hành chưa mặn mà đưa
du khách đến đây. Cơ quan quản lý, các nhà nghiên cứu chưa thấy có công trình
nghiên cứu, hoặc đề án xây dựng riêng để bảo tồn và phát huy giá trị di tích.
2.2. Một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di tích Miếu Tổ
sư
Từ thực trạng trên, đã đến lúc chúng ta cùng chung tay, xây dựng những
giải pháp và định hướng nhằm bảo tồn và phát huy giá trị, để di tích mãi trường
tồn cùng với dân tộc Việt Nam. Với mong muốn đó, bản thân tôi xin mạnh dạn
48
đưa ra một số giải pháp để các nhà quản lý tham khảo, nếu có gì chưa đúng xin
lượng thứ bỏ qua:
- Một là, kêu gọi ngành chức năng, các thành phần xã hội quan tâm, đầu
tư đến di tích nói chung và Miếu Tổ sư nói riêng. Đây là cách chúng ta huy động
sức mạnh tổng lực của toàn xã hội để tiến hành điều tra, sưu tầm, thu thập,
nghiên cứu, giải mã các giá trị văn hóa phi vật thể của di tích. Thông qua công
tác điều tra, nghiên cứu, sưu tầm các giá trị văn hóa sẽ được xác định, đánh giá
một cách toàn diện, đầy đủ, đúng bản chất. Trên cơ sở đó, các nhà nghiên cứu,
quản lý sẽ hoạch định chính xác các biện pháp, chính sách nhằm bảo tồn và phát
huy giá trị của di tích.
- Hai là, tăng cường vai trò quản lý, tổ chức, hướng dẫn của nhà nước đối
với các hoạt động quản lý, bảo tồn, trùng tu, tôn tạo di tích. Đây là nội dung
chiến lược, là biện pháp quan trọng nhằm đảm bảo tính nguyên tắc, đồng nhất và
ổn định lâu dài. Thực tiễn đã chứng minh trong suốt nhiều năm qua, chính sách,
thông tư, nghị định, quy định, hướng dẫn về việc bảo tồn và phát huy giá trị của
di tích chưa phát huy hiệu quả, đôi khi có sự xung đột lợi ích giữa bảo tồn và
phát huy với quá trình phát triển kinh tế, hội nhập, giao lưu quốc tế mà phần
thua thiệt luôn thuộc về di sản (trong đó có di tích). Thiết nghĩ, chúng ta phải
đầu tư, nghiên cứu làm sao xây dựng được các biện pháp đồng bộ, khả thi, đáp
ứng đúng và đủ yêu cầu, nguyện vọng của di tích, người tham gia quản lý và chủ
thể đang thực hành, nghệ nhân nắm giữ các bí quyết… Chính sách để bảo tồn và
phát huy di tích phải cụ thể, quyền lợi ưu tiên luôn thuộc về di tích và chủ thể
đang nắm giữ di sản. Các cơ quan chức năng, nghiệp vụ như Sở VHTTDL, Ban
Quản lý di tích và danh thắng, Bảo tàng… phải phối hợp chặt chẽ với nhau trong
việc định hướng trùng tu, tôn tạo, bảo quản di tích, tránh tình trạng đầu tư, xây
dựng tùy tiện, chủ quan có thể dẫn đến phá vở không gian và biến dạng di tích.
Kết hợp với chính quyền địa phương, nơi có di tích, để cùng có trách nhiệm
trong việc bảo vệ nguyên trạng di tích, nhất là tình trạng lấn chiếm đất đai, xây
dựng trái phép và các tác động khác từ bên ngoài hoặc biến khu vực di tích
thành các điểm kinh doanh, mồi chài mua bán, hoạt động mê tín di đoan...
49
- Ba là, hàng năm bằng nguồn ngân sách Trung ương, địa phương hoặc xã
hội hóa, nhà nước nên đầu tư cho các cơ quan, đơn vị chuyên môn, nhà nghiên
cứu để tổ chức nghiên cứu chuyên sâu từng nội dung, từng chi tiết của công
trình, kết cấu di tích như quần thể tượng gốm, di sản chữ Hán, Nôm trên hoành
phi liễn đối, các đề tài trang trí, chạm khắc… Đặc biệt, ở di tích miếu Tổ sư có
hai vấn đề đòi hỏi các cơ quan chức năng nhanh chóng vào cuộc để nghiên cứu,
đó là: nghiên cứu, giải mã nội dung của quần thể tượng gốm trên nóc mái, bờ
đao để xác định nội dung, chất liệu, màu men, niên đại… để đánh giá thực trạng
mà có biện pháp bảo vệ, phục hồi. Quần thể tượng gốm tính đến nay đã trên
dưới trăm năm, dưới dòng chảy của lịch sử và thời gian các tượng gốm cũng
phần nào bị tác động nếu không có biện pháp kịp thời e rằng một thời gian tới sẽ
mất đi mà không có gì có thể thay thế được. Vấn đề quan tâm thứ hai là cải tạo
môi trường cảnh quan xung quanh di tích cũng như một số công trình xây dựng
chưa hợp lý của di tích như công trình nhà tole sân trong đã che khuất hoàn toàn
tiền điện, làm ảnh hưởng đến mỹ quan của di tích.
- Bốn là, đào tạo, nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn cho đội ngũ
quản lý di tích (gồm cán bộ nhà nước và Ban Quý tế, các nghệ nhân…). Đây là
giải pháp quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, mang tính bền vững và đạt hiệu quả
cao. Việc đầu tư nâng cao năng lực quản lý, trùng tu, khai thác di tích phải được
tổ chức bài bản, khoa học, có kế hoạch cụ thể. Thực trạng chung trong nhiều
năm qua, cán bộ ngành quản lý di tích nước ta còn thiếu và yếu, phần nào ảnh
hưởng đến công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Thỉnh thoảng ở đâu đó
chúng ta vẫn thường hay gặp tình trạng di tích bị xâm hại, việc quản lý, trùng tu
còn nhiều điều bất cập mà nguyên nhân chính là trình độ chuyên môn còn yếu
kém. Trước đây, đất nước ta còn gặp nhiều khó khăn do chiến tranh, lạc hậu, đôi
khi trong quá trình bảo quản, trùng tu di tích chưa đáp ứng yêu cầu là việc tạm
chấp nhận, nhưng ngày nay, đất nước ta đã đủ điều kiện kinh tế, nhân lực thì
việc di tích bị xăm lại do tác động của con người là không thể chấp nhận. Do
vậy, để giải quyết dứt điểm tình trạng này, điều trước tiên là phải gắn trách
nhiệm cho từng cá nhân, từng cán bộ tham gia quản lý, trùng tu, tôn tạo di tích.
Phải xây dựng hệ thống pháp lý đồng bộ, chế tài đủ mạnh, cơ chế giám sát chặt
50
chẽ để hạn chế những yếu kém, thất thoát trong công tác quản lý, trùng tu di
tích. Thường xuyên cử cán bộ tham gia các khóa đào tạo ngắn hạn, dài hạn ở các
đơn vị đào tạo quốc tế có chất lượng, uy tín cao về công tác quản lý, trùng tu và
phát huy giá trị di sản. Có được như vậy, thì di tích mới được bảo vệ, công tác
trùng tu, tôn tạo không gặp nhiều khó khăn, phụ thuộc vào các tổ chức quốc tế.
Đội ngũ hướng dẫn, thuyết minh trong khu di tích phải luôn nâng cao trình độ
kiến thức, chuyên sâu về nghiệp vụ, đảm bảo khả năng truyền tải thông điệp đến
khách tham quan về những giá trị đích thực của di sản
Ngoài ra, các ngành văn hóa thông tin nên thường xuyên mở các lớp nâng
cao trình độ, kiến thức cho các chủ thể, người dân đang gìn giữ và thực hành các
di sản ở cơ sở. Chúng ta nhận thức rằng, sự nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị di
sản văn hóa nói chung, chỉ có thể được đẩy mạnh và đạt hiệu quả khi người dân
tự giác tham gia. Do đó, việc giáo dục để nâng cao ý thức tự giác của người dân,
khơi dậy ở họ lòng tự hào đối với di sản văn hóa của cộng đồng mình là công
việc có ý nghĩa quan trọng để hướng người dân chủ động tìm tòi, sưu tầm và bảo
tồn di sản. Đặc biệt phải thường xuyên tổ chức tuyên truyền vận động nhân dân
tham gia quản lý và phát huy giá trị di tích bằng các phương pháp thực hiện
khoa học, dễ hiểu, thông tin cụ thể, sát thực và gần gũi với đời sông sinh hoạt
của họ để mang lại hiệu quả cao.
- Năm là, nâng cao vai trò của gia đình, nhà trường và xã hội trong công
tác phổ biến giá trị của di tích lịch sử, văn hóa ở địa phương. Đây có lẽ là biện
pháp hữu hiệu nhất nhằm nâng cao nhận thức, vai trò của mọi người đối với di
sản văn hóa. Phải trang bị kiến thức, niềm tự hào, sự hiểu biết của mọi người về
di tích để họ thấy rõ giá trị, vai trò của di sản đối với sự phát triển bền vững của
đất nước trong hiện tại và tương lai. Ông bà, cha mẹ, thầy cô, các tổ chức đoàn
thể xã hội thường xuyên dạy bảo, tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức cộng đồng
cho sự nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Nhà trường thường
xuyên lồng ghép các buổi ngoại khóa, các buổi nói chuyện chuyên đề, các cuộc
thi thuyết trình, tìm hiểu các di tích trên địa bàn nơi trường hoạt động để làm sao
ít nhất trong mỗi năm học học sinh phải đến tham quan, tìm hiểu từ hai đến ba di
tích. Mỗi trường, mỗi lớp học nên tổ chức, kết hợp hoặc nhận chăm sóc một di
51
tích để mỗi tháng học sinh, sinh viên có cơ hội đến di tích tìm hiểu, giao lưu, từ
đó khơi dậy niềm tự hào, yêu mến, quý trọng các di sản văn hóa của dân tộc.
Các cơ quan đoàn thể xã hội, thường xuyên tổ chức các cuộc thi, các hoạt động
về nguồn để người lao động, cán bộ quản lý có cơ hội tìm hiểu, thưởng ngoạn
các di sản văn hóa.
- Sáu là, trong xu thế phát triển du lịch hiện nay, di sản văn hoá, đặc biệt
là các di tích có giá trị lịch sử, văn hóa xếp hạng đã trở thành sản phẩm của du
lịch; là điểm đến tham quan, du lịch thường xuyên cho khách trong nước và
nước ngoài. Vì thế, kết hợp giữa bảo tồn và phát huy di tích với việc phát triển
du lịch là một xu thế khách quan, có hỗ trợ qua lại với nhau. Đặc biệt, lễ hội làm
chay, lễ hội vía Bà Thiên Hậu là di sản văn hoá phi vật thể, là hình thái sinh hoạt
văn hoá dân gian có hiệu quả cao nhất trong việc thu hút khách du khách. Do đó,
phải chú trọng đến việc tổ chức, nâng cấp lễ hội là việc làm cần thiết vừa đảm
bảo tính chất thiêng của lễ hội vừa tạo ra sức hút đối với khách đến tham quan
và lễ bái. Tuy nhiên chú ý khi phát triển, mở rộng du lịch tuyệt đối không làm
ảnh hưởng đến không gian di sản văn hoá, nội dung diễn trình của lễ hội cúng
đình. Trong đầu tư, xây dựng phải có chủ đích, tuyệt nhiên không vì lợi nhuận
hoặc tiện ích cho việc vụ phục du khách mà can thiệp quá sâu vào cảnh quan
khu vực di sản văn hoá. Di sản là thành quả lao động sáng tạo của ông cha ta, là
tác phẩm nghệ thuật có sức sống với thời gian, tự thân nó đã là một giá trị vĩnh
hằng, cho nên khi di sản trở thành là sản phẩm du lịch thì con người phải ứng xử
phù hợp, không thể chạy theo thị hiếu của du khách, biến nó thành những giá trị
khác, dù thị hiếu đó có mang đến lợi nhuận bao nhiêu. Đối với miễu Tổ sư việc
phát huy các giá trị của di tích có nhiều thuận lợi khi kết hợp phát triển du lịch.
Di tích tọa lạc ở khu vực trung tâm thành phố Biên Hòa – nơi có dân cư đông,
gần chợ, có hệ thống giao thông thuận lợi (gồm đường bộ và đường thủy), đặc
biệt có nhiều di tích lịch sử văn hóa độc đáo để tạo thành một chương trình tham
quan lý tưởng và thuận lợi.
52
KẾT LUẬN
Miếu Tổ sư – một di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật độc đáo, có nhiều giá
trị văn hóa, lịch sử tô điểm thêm vốn văn hóa dân gian truyền thống của tỉnh
nhà. Di tích Miếu Tổ sư trong suốt chặng đường lịch sử đã che chở bảo vệ dân
làng trong công việc mưu sinh, ổn định cuộc sống và phát triển quê hương, đất
nước. Dẫu thời gian cứ lặng lẽ trôi qua và cuốn đi nhiều thứ quý giá trong cuộc
sống con người. Nhưng có một điều chắc chắn rằng: di tích Miếu Tổ sư vẫn mãi
trường tồn cùng với dân tộc Việt Nam.
53
Tài liệu tham khảo
1. Bảo tàng Đồng Nai (1998), Cù lao phố - Lịch sử và văn hóa, Nxb Tổng
hợp Đồng Nai, .
2. Bảo tàng Đồng Nai (2001), Việt Nam- Đồng Nai trăm năm nhìn lại,
Nxb Tổng hợp Đồng Nai.
3. Địa chí Đồng Nai (tập V- Lịch sử) (2001), Nxb Tổng hợp Đồng Nai, .
4. Lương Văn Lựu (), Biên Hoà sử luợc, Sài Gòn 1960, 1972.
5. Nguyễn Yên Tri (2002), Làng đá Bửu Long, NXB Tổng hợp Đồng Nai.
6. Trần Quang Toại (chủ biên) (2004), Đồng Nai di tích lịch sử văn hóa,
Nxb tổng hợp Đồng Nai.
7. Huỳnh Văn Tới (1999), Bản sắc dân tộc và Văn hoá Đồng Nai, Nxb
Đồng Nai.
8. Huỳnh Tới, Phan Đình Dũng, TS Phan Xuân Biên (2005), Văn hóa
Đồng Nai (Sơ khảo), Nhà xuất bản Đồng Nai.
9. Tài Liệu kiểm kê phổ thông các cơ sở tín ngưỡng ở Đồng Nai của Bảo
tàng Đồng Nai (1999-2004).
10. Ban Quản lý Di tích và Danh thắng Đồng Nai (2009), Lý lịch tổng hợp
Miếu Tổ sư.
11. Trần Minh Trí, Tư liệu điền dã, 2008-2013.
54
PHỤ LỤC
I/ HỆ THỐNG DI SẢN TƯ LIỆU DI TÍCH MIẾU TỔ SƯ
CỔNG
Phiên âm/Tạm dịch:
01-Thiên Hậu cổ miếu: miếu cổ Thiên Hậu
Ái ngọc ưu kim – vân lý ư kim giáng Tiên tử
Phi hoa xuyết thái– nhân gian thử xứ thị Bồng lai
Thương ngọc yêu vàng – mây toả: đời nay giáng Tiên nữ
Hoa rơi tô thắm–giữa trần: chốn ấy thật Bồng lai
01
飛
花
綴
彩
人
間
此
處
是
篷
乘
憂
玉
金
雲
裡
於
今
降
仙
子
廟 古 后天
天
55
CHÁNH ĐIỆN
Phiên âm/Tạm dịch:
06-Thánh đức phối Thiên: đức Thánh sánh Trời
05-Thiên cổ nhất nhân: Xưa nay chỉ một người
07-Hải quốc trường xuân: Nước Việt mãi xinh tươi
03-Tiên sư Tổ miếu: Miếu Nghiệp tổ - Tiên sư
02 - Sáng bách nghệ nguyên lưu: tượng tâm độc vận
04 - Thuỳ thiên thu thằng mặc: Sư thị hàm tôn
Bày trăm nghề xưa truyền : thợ biết tự tay lèo lái
Để muôn đời mực thước: Thầy đếu hết thảy kính tôn
創
百
藝
源
流
匠
心
獨
運
02 04
垂
千
秋
繩
墨
師
氏
咸
尊
03
廟 祖 師 先
06
天 配 德 聖
07
春 長 國 海
05
人 一 古千
56
CHÁNH ĐIỆN
08
配
天
昭
聖
業
厚
德
載
群
生
福 景 番 天 盡
義
盡
仁
是
漢
室
擎
天
一
柱
10 12
至
剛
至
大
興
尼
山
拔
地
齊
峰
11
春 懷 賽 玉
13
波 楊 不 海
09
輪 扶 氣正
爺 老 德 福
14
德 祖 恩 婆
16
添 復佑 神
17
家 一 正 崇
15
疆 無 德 恩
57
Phiên âm/Tạm dịch:
16-Thần hựu phục thiêm: Thần lại giúp thêm
15-Ân đức vô cương: Ơn đức không bờ
17-Sùng chánh nhất gia: Trọn nhà thờ ‘Chính’
14-Bà ân- Tổ đức: Ơn của Bà- Đức của Tổ
Ngọc trại hoài Xuân: trại ngọc nhớ Xuân
09-Chánh khí phò luân: Chánh khí giữ luân thường
13-Hải bất dương ba: Biển không xao sóng
10/12-Tận nghĩa, tận nhân– thị Hán thất kình thiên nhất trụ
Chí cương, chí đại – hưng Ni sơn bạt địa tề phong
Tận nghĩa, tận nhân – phò nhà Hán: chống trời dựng trụ
Chí cương, chí đại –tôn lăng Khổng: nhổ đất san non
08-Ba thiên cảnh phước
Trời mạnh mẽ - phước lớn lao
Hậu đức tái quần sanh / Phối Thiên chiêu Thánh nghiệp
Dày đức giúp muôn loài/ Với trời hưng nghiệp Thánh
Phước đức lão da: Ông Lớn Phước đức
58
BÊN TRÁI CHÁNH ĐIỆN
CUỐN THƯ
Phiên âm/Tạm dịch:
-Vĩnh kỷ Tiền hiền: Nhớ mãi Tiền hiền
Kiến miếu tự tiên Thánh/ Hinh hương tục hậu nhân
Lập miếu thờ tiên liệt/ Dâng hương dạy hậu nhân
(tục俗: người sau theo người trước: gần nghĩa với tục續: nối tiếp. Vế này có
đảo ngữ, hơi tối nghĩa: nên viết : hinh hương phong風 hậu nhân (phong: người
trước làm gương cho người sau)
馨
香
俗
後
人
建
朝
祀
前
聖
賢 先 紀 永
59
CHÁNH ĐIỆN
覃
恩
浩
蕩
長
水
流
19 21
厚
德
巍
峨
獨
配
天
20
僑 護 國 南
22
民 庇 國護
18
赫 顯 靈 威
一
統
熙
朝
萬
里
光
天
化
日
23 24
九
重
聖
后
普
度
靄
霧
慈
航
60
Phiên âm/Tạm dịch:
23/24- Nhất thống hi triều- van lý quang thiên hoá nhật
Cửu trùng Thánh hậu – phổ độ ái vụ từ hàng
‘Một mối’ rạng hoàng triều– muôn dặm: trời trong- nắng toả
Chín tầng thiêng Thánh hậu – độ khắp: mây móc- thuyền từ
20-Nam quốc hộ kiều: Nước Việt giúp kiều dân
18-Oai linh hiển hách: oai linh rạng rỡ
22-Hộ quốc tí dân: giữ nước, che dân
19/21-Đàm ân hạo đãng - trường lưu thuỷ / Hậu đức nguy nga - độc phối
Thiên
Ơn tràn lai láng – mãi tuôn nước / Đức lớn muôn cao – chỉ sánh Trời
61
CHÁNH ĐIỆN
Phiên âm/Tạm dịch:
26/28-Tinh công diệu đạc qui củ chí kim vô song sĩ
Mặc thằng xảo tạo tự cổ lưu truyền đệ nhất nhân
精
工
妙
度
規
矩
至
今
無
雙
士
26 28
墨
繩
巧
造
自
古
傳
流
弟
一
人
29
千
秋
著
祀
頌
慈
航
萬
派
廻
瀾
依
后
德
宮 后 天
25
神
留
千
古
仰
垂
園
義
凛
一
心
扶
漢
殿
宮 天 協
27
妙
手
脩
成
金
寶
殿
精
工
巧
造
玉
龍
樓
殿 師 先
62
Qui củ thạo nghề: đo sít tới nay đâu kẻ sánh
Mực dây khéo tạo: tài truyền từ trước chẳng ai so
27-Tiên sư điện: điện Tiên sư
Diệu thủ tu thành Kim bửu điện / Tinh công xảo tạo ngọc long lầu
Tay khéo -làm nên Kim bửu điện / Nghề hay -giỏi dựng ngọc long lầu
25-Hiệp thiên cung
Nghĩa bẩm nhất tâm phò Hán điện / Thần lưu thiên cổ ngưỡng viên thuỳ
Một lòng Nghĩa nặng - phò ngai Hán / Muôn thuở Thần ban - cậy trọn niềm
29-Thiên hậu cung: cung Thiên hậu
Vạn phái hồi lan ban Hậu đức / Thiên thu trứ tự ỷ Từ hàng
Muôn đợt sóng lùi do đức Mẫu / Ngàn năm cúng trọng cậy thuyền Từ
KHÁM THỜ:
Phiên âm/Tạm dịch:
Đức trọng như sơn: Đức lớn dường non
Bổn cung chúng tiền bối chi thần vị: bài vị các tiền bối của miếu nhà
Sáng lập – Tiên bối: các Ông lớp trước lập ra
Duy trì – Tiên cô: các Bà lớp trước gìn giữ
Tiền hiền thành tâm đồng tái tạo /Hậu bối hợp chí khả tu bồi
Đời trước dốc lòng cùng dựng lại /Lớp sau chung ý khá sửa sang
後
輩
合
至
可
修
培
先
賢
誠
心
同
再
造
山 如 重 德
本
維 官 創
持 立
衆
前
輩
先 先
姑 賢
之
神
位
63
II/ HÌNH ẢNH TÁC GIẢ TẠI DI TÍCH LỊCH SỬ - KIẾN TRÚC NGHỆ
THUẬT MIẾU TỔ SƯ
64
III/ MỘT SỐ HÍNH ẢNH TÁC GIẢ THAM GIA NGHIÊN CỨU VÀ
THAM QUAN TẠI CÁC DI TÍCH CẤP TỈNH
Di tích cách mạng chùa Bửu Hưng (Chùa Cô Hồn) – Tp. Biên Hòa
Địa điểm thành lập Chi bộ Cộng sản Bình Phước Tân Triều và
Tỉnh Ủy Lâm thời tỉnh Biên Hòa – H. Vĩnh Cửu
65
Di tích lịch sử Đình Bình Quan – Tp. Biên Hòa
Di tích lịch sử Đình Long Chiến – H. Vĩnh Cửu
66
Di tích lịch sử Đình Phú Trạch – H. Vĩnh Cửu
Di tích lịch sử Đình Xuân Lộc - Chùa Xuân Hòa – Tx. Long Khánh
67
Di tích lịch sử Đình Hưng Lộc – H. Thống Nhất
Di tích lịch sử Thành Biên Hòa – Tp. Biên Hòa
68
Di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật Đình Phú Mỹ - H. Nhơn Trạch
Di tích kiến trúc nghệ thuật Đình Phước Lộc – H. Long Thành
69
IV/ MỘT SỐ HÌNH ẢNH LỄ HỘI LÀM CHAY CỦA MIẾU TỔ SƯ
Cây nêu trong lễ hội làm Chay
Lồng đèn
70
Ông Tiêu trong lễ hội làm Chay
Múa lân sư rồng trong lễ hội làm Chay
71
Đọc sớ cầu an cầu siêu tại lễ hội làm Chay
Điểm nhãn cho lồng đèn
72
Nghi thỉnh Tổ sư, Bà Thiên Hậu, Quan Thánh Đế Quân
Pháp sư tụng kinh trước khi phong sinh
73
Chuẩn bị làm lễ bắc cầu hoa
Nghi cúng cô hồn, các đảng
https://dost-dongnai.gov.vn/SiteAsse..._Giai%20Ba.pdf
-
-
VĂN KHẤN VÁI
Tác giả: TRUNG BON
CÚNG PHẬT – BỒ TÁT QUÁN ÂM
Ngày vía Phật Thích Ca: : 8-2 Âm lịch (xuất gia), 15-2 âm lịch (nhập diệt), 8-12 âm lịch (thành đạo).
Ngày vía Bồ Tát Quan Am: 19-2 Âm lịch, 19-6 Âm lịch, 19-9 Âm lịch.
Lễ vật: bông+ trái+ hai cây đèn cầy+ 3 chung nước + 3 cây nhang thơm.
(mùng 1, rằm mỗi tháng và các ngày vía cúng thêm ba chén cơm trắng thật đầy).
Khấn vái: Nam mô thập phương chư Phật- chư Đại Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, chứng minh cho đệ tử tên…………tuổi……..với lòng thành kính dâng cúng hương hoa đăng phẩm vật, cầu nguyện chư phật, Quán Thế Âm Bồ Tát gia hộ cho gia đình con được bình an, mạnh khỏe làm ăn phát đạt, sở cầu như ý (lạy 3 lạy).
KHẤN LỄ PHẬT KHI ĐI CHÙA
Nam mô A Di Đà Phật. (3 lần)
Hôm nay ngày…..tháng……năm…..
Con tên ………………tuổi………ngụ tại……..
Thành tâm đối trước Đại Hùng Bảo Điện nơi Chùa Pháp Thạnh phường 9 quận 8 Tp Hồ Chí Minh dâng nén tâm hương dốc lòng kính lạy: đức Phật Thích Ca, đức Phật A Di Đà, đức Phật Dược Sư Lưu Ly, đức Thiên Thủ Thiên Nhãn Ngũ Bách Danh Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ưng Quán Thế Âm Bồ Tát, Mười Phương Chư Phật, Vô Lượng Phật Pháp, cùng Thánh Hiền Tăng.
Đệ tử lâu đời lâu kiếp, nghiệp chướng nặng nề, ngày nay đến trước Phật đài, thành tâm sám hối, nguyện tránh điều dữ, nguyện làm các việc lành ngưỡng trông ơn Phật, Quan Âm Đại Sĩ cùng Thánh Hiền Tăng, Thiên Long Bát Bộ, Hộ Pháp Thần Vương chư vị Thiện Thần từ bi gia hộ, khiến cho chúng con và cả gia đình tâm không phiền não, thân không tật bệnh, hằng ngày an vui làm theo pháp phật nhiệm mầu, để cho vận đáo hanh thông, muôn thuở nhuần ơn phật pháp.
Lại nguyện cho chúng con tai qua nạn khỏi, điều lành đem đến, điều dữ tiêu tan, phát lộc phát tài, gia trung khỏe mạnh, trên dưới thuận hòa, an khang thịnh vựơng.
Lễ bạc tâm thành cúi xin chứng giám.
Cẩn nguyện!
CÚNG ÔNG ĐỘ MẠNG VÀ BÀ MẸ SANH MẸ ĐỘ
Ngày vía ông Quan Thánh: 13-1 Âm lịch, 13-5 Âm lịch, 24-6 Âm lịch.
Ngày vía 12 Bà Mẹ Sanh: 9-9 Âm lịch.
Lễ vật: bông + trái cây + 2 cây đèn cầy + 3 chung nước. ( ngày mùng 1 cúng thêm ba chén cơm trắng. Ngày vía cúng thêm xôi chè + trầu cau).
Khấn vái: Nam mô Ngũ Công Vương Phật – Quan Thánh Đế Quân, Cửu Thiên Huyền Nữ, Chúa Tiên Chúa Ngọc, Linh Sơn Thánh Mẫu, Thập Nhị Huê Bà phò hộ bổn mạng gia đình bình an, mạnh khỏe làm ăn phát đạt, sở cầu như ý.
CÚNG THẦN TÀI THỔ ĐỊA ĐẤT ĐAI VIÊN TRẠCH
Lễ vật: bông + 5 thứ trái cây + 3 chung nước trà + 5 chung rượu trắng + 2 cây đèn cầy + 5 cây nhang + vàng bạc…
Khấn vái: Ngũ Phương Ngũ Thổ Long Thần, Tiền Hậu Địa Chủ Tài Thần, Âm Thần Phước Thần, Quế Thần, Thành Hoàn Bổn Cảnh, Đất Đai Viên Trạch, Chúa Ngung Man Nương, Đào Lương Ban, Mai Thị Thục, Cư Văn Thổ, Tá Văn Thần, Chư Vị Tôn Thần đồng lai chứng giám. Con tên …tuổi….nay ngày lành tháng tốt con cúng…………………xin chư vị gia hộ cho trong nhà được bình an khỏe mạnh, làm ăn phát tài, gặp nhiều may mắn, sở cầu như ý.
Hoặc khấn bài này
Nam mô A Di Đà Phật. (3 lần)
Hôm nay ngày…..tháng …..năm……
Tín chủ tên là……..
Ngụ tại……….
Thành tâm sửa biện hương hoa, lễ vật, kim ngân, trà quả và các thứ cúng dâng bày ra trước án.
Chúng con thành tâm kính mời:
Bản gia Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân.
Bản gia Thổ Địa Long Mạch Tôn Thần.
Bản gia Ngũ Phương Ngũ Thổ Phúc Đức Chánh Thần.
Cúi xin các ngài thương xót tín chủ, giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành, thọ hưởng lễ vật, phù trì tín chủ chúng con toàn gia an lạc, công việc hanh thông. Người người được chữ bình an, tám tiết vinh quang thịnh vượng, tài lộc tăng tiến, tâm đạo mở mang, sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm.
Lễ bạc tâm thành cúi xin chứng giám.
Cẩn cáo!
CÚNG ÔNG TÁO
Lễ vật: bông + trái + 2 cây đèn + 3 chung rượu + vàng bạc…….
Khấn vái: Táo Phủ Thần Quân, chư Vị Táo Thần đồng lai chứng giám con tên …tuổi…….xin chư vị gia hộ cho ……….
KHẤN CÚNG ĐƯA ÔNG TÁO 23 THÁNG CHẠP
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
Kính lạy ngài Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân.
Chúng con tên là:……………..
Ngụ tại:…………………..
Nhân ngày 23 tháng chạp, chúng con thành tâm sửa biện hương hoa, vật phẩm, xiêm, hài, áo, mũ, nghi lễ cúng trần, dâng lên trước án, dâng hiến tôn thần, đốt nén tâm hương, dốc lòng bái thỉnh.
Chúng con kính mời: Ngài Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân giáng lâm trước án, thụ hưởng lễ vật.
Phỏng theo lệ cũ, ngài là vị chủ, Ngũ Tự Gia Thần, soi xét lòng trần, táo quân chứng giám.
Trong năm sai phạm các tội lỗi lầm, cúi xin Tôn Thần, gia ân châm chước, ban lộc ban phước, phù hộ toàn gia, trẻ già trai gái, an ninh khang thái, trải tấm lòng thành, cúi xin chứng giám.
Bái thỉnh Cửu Thiên Đông Trù Tư Mệnh Táo Quân, nhất gia chi chủ, ngũ tự chi thần, từ hậu thiệt ư, bắc đẩu chi trung, sát thiện ác ư, đông trù chi nội, tứ phúc xá tội, di hung hóa kiết, an trấn âm dương, bảo hữu gia đình, họa tai tất diệt, hà phúc tất tăng, hữu cầu tất ứng, vô cảm bất thông, đại bi đại nguyện, đại thánh đại từ, cửu thiên đông trù, ti mệnh lô vương, nguyên hoàng định quốc, hộ trạch thiên tôn, cấp cấp như luật lịnh.
CÚNG BÀN THIÊN
Lễ vật: Bông + trái + 3 chung nước trà + vàng bạc.
Khấn vái: Hoàng Thiên Hậu Thổ, phục vọng Thiên La Thần, Địa La Thần, chư vị Thánh thần giáng lâm hộ độ con tên…………hiệp nội gia nam nữ đắc bình an, đắc tài đắc lộc hành thông đại kiết, ngưỡng vọng thánh thần lai lâm chứng hưởng.
CÚNG KHẨU MÔN
Lễ vật: Bông trái + 2 cây đèn + 3 chung trà + vàng bạc….
Khấn vái: Khẩu môn thổ địa, chư vị Tôn Thần đồng lai chứng giám cho con tên..tuổi…..xin chư vị gia hộ chotrong nhà khỏe mạnh, xuất nhập bình an, sở cầu như ý……
CÚNG CÔ HỒN
Lễ vật: bông trái + 2 cây đèn cầy + 3 chung rượu + 3 chung nước trà + vàng bạc + bánh kẹo+ mía chuối + đậu phộng + cháu + gạo muối……
Khấn vái: tứ sanh lục đạo, thập loại cô hồn, chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn, oan hồn uổng tử, nhứt thiết nam nữ đẳng lai đáo án tiền thọ tài hưởng thực phò hộ cho……
CÚNG KHAI TRƯƠNG
Lễ vật: bông + 5 thứ trái cây + 5 chung rượu trắng + 3 chung nước trà + 2 cây đèn cầy + giấy tiền vàng bạc + 1 đĩa gạo muối + 1 đĩa trầu cau + 3 cây nhang lớn (không cúng cam, chuối, sa-bô-chê và bông sen).
Khấn vái: Thần Tài Thổ Địa, Ngũ Phương Đạo Lộ Tôn Thần, Chư Vị Tôn Thần đồng lai chứng giám, con tên…tuổi….nay ngày lành tháng tốt con cúng khai trương, xin chư vị gia hộ cho mọi việc được tốt đẹp, làm ăn phát đạt, mua mai bán đắc, quí nhơn giúp đỡ, trong nhà bình an, khỏe mạnh, vạn sự kiết tường như ý.
CÚNG ĐỘNG THỔ (XÂY CẤT NHÀ-SỬA CHỮA NHÀ)
Lễ vật: bông + 5 thứ trái cây + 5 chung rượu trắng + 3 chung nước trà + đèn cầy + giấy tiền vàng bạc + 1 đĩa gạo muối + 1 đĩa trầu cau + 3 cây nhang lớn
Khấn vái: Ngũ Phương, Ngũ Thổ Long Thần, Tiền Hậu Địa Chủ Tài Thần, Thành Bổn Cảnh, Đất Đai Viên Trạch, Chư Vị Tôn Thần chứng giám cho con tên…tuổi nay ngày lành tháng tốt con động thổ xây cất (sửa chữa) nhà. Xin chư vị gia hộ cho mọi việc làm hoàn mãn tốt đẹp, trong gia đình được bình an, mạnh khỏe, làm ăn phát đạt, sở cầu như ý. (khấn vái xong lạy 5 lạy, lấy xà ben động thổ 3 lần). Xong mời thầu xây dựng đến khấn vái sau đó đốt vàng bạc rải gạo muối, thợ bắt đầu khởi công.
DỌN VỀ NHÀ MỚI
Lễ vật: dọn một bàn đặt giữa nhà gồm: bông hoa + trái cây 5 thứ + 5 chung rượu trắng + 3 chung nước trà + 2 cây đèn cầy + giấy tiền vàng bạc + 1 đĩa gạo muối + 1 đĩa trầu cau + 3 cây nhang lớn + 1 hủ gạo + 1 hủ nước + 1 hủ muối + 1 bếp lò (đốt lửa).
Khấn vái: Ngũ Phương Ngũ Thổ Long Thần, Tiền Hậu Địa Chủ Tài Thần, Thành Hoàn Bổn Canh, Đất Đai Viên Trạch, Chư Vị Tôn Thần chứng giám cho con tên…..tuổi …..nay ngày lành tháng tốt, con về nhà này ở. Xin chư vị gia hộ cho trong nhà đựơc bình an khỏe mạnh, làm ăn phát đạt, sở cầu như ý. Cúng tàn nửa cây nhang, đem bếp lò hủ gạo, hủ muối, nước ra sau nhà bếp)
Trưa hoặc chiều: cúng 3 mâm cơm, mỗi mâm gồm bông hoa, trái cây, 2 cây đèn, rượu, trà, vàng bạc, thức ăn…
1 mâm cúng Cửu Huyền Thất Tổ (4 chén cơm).
1 mâm cúng Đất Đai Viên Trạch (5 chén cơm).
1 mâm cúng Chiến Sĩ (để trước nhà 6 chén cơm).
KHẤN RƯỚC ÔNG BÀ NGÀY 30 TẾT
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
Hôm nay ngày 30 tháng chạp năm……..
Năm cũ sắp hết, ngày tết đến gần, chuẩn bị đón xuân, gia chủ chúng con là ………….ngụ tại………………đồng gia quyến đẳng.
Kính lạy Thành Hoàng Bản Thổ Đại Vương.
Kính lạy Đệ Nhất Gia Thần, cập thổ chư vị Thần Tài, đồng lai giám cách.
Tâm thành kính thỉnh: Lịch Đại Tổ Tiên, Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Cô Di Tỷ Muội, Thúc Bá Đệ Huynh.
Kính lạy hương linh ông, (bà):………………………………..
Theo hầu tiên tổ, bấy lâu cách trở, đôi ngã âm dương, hôm nay chúng con sắm sanh phẩm vật hương đăng, kim ngân hoa quả, phù tử lễ nghi, trình cáo tôn thần, cung thỉnh chư Tiên Linh Cửu Huyền Thất Tổ về với gia đình, cháu con phụng sự, bát nước nén hương, âm thầm báo đáp, tỏ lòng hiếu kính.
Cúi xin tôn Thần phủ thùy doãn hứa, biểu tấm lòng thành, cúi xin chứng giám.
Cẩn cáo.
CÚNG GIAO THỪA (CÚNG NGOÀI TRỜI)
Nam mô A Di Đà Phật. (3 lần)
Kính lạy đức Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật.
Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị tôn thần.
Ngài Cựu Niên Thiên Quan Lưu Vương Hành Khiến, Ngũ On Chi Thần, Nguyên Tào Phán Quan.
Ngài Bổn Cảnh Thần Hoàng Chư Vị Đại Vương.
Ngài Bổn Xứ Thần Linh Thổ Địa, Ngài Định Phước Táo Quân.
Các ngài Địa Chúa Long Mạch Tôn Thần và tất cả các thần linh cai quản trong khu vực này.
Nay là giờ phúc giao thừa năm……………
Chúng con là:………..
Ngụ tại:…………..
Phút thiêng giao thừa vừa tới, năm cũ qua đi, đón mừng năm mới, tam dương khai thái, vạn tượng canh tân. Nay ngài Thái Tuế Chí Đức Tôn Thần trên vâng lệnh thượng đế giám sát vạn dân, dưới bảo hộ sinh linh tảo trừ yêu nghiệt, quan cũ về triều để khuyết, lưu phúc lưu ân. Quan mới xuống thay để đức hiếu sinh, ban tài tiếp lộc.
Nhân buổi tân xuân chúng con thành tâm sửa biện hương hoa vật phẩm, nghi lễ cúng trần dâng lên trước án. Cúng dâng Phật Thánh, dâng hiến Tôn Thần, đốt nén tâm hương dốc lòng bái thỉnh.
Chúng con kính mời:
Ngài cựu niên đương cai Thiên Quan Việt Vương Hành Khiển, Thiên Bá Chi Thần, Thành Tào Phán Quan.
Ngài đương niên Thiên Quan Lưu Vương Hành Khiển, Ngũ Ôn Chi Thần, Nguyên Tào Phán Quan.
Ngài Bản Cảnh Thành Hoàng Chư Vị Đại Vương.
Ngài Bản Xứ Thần Linh Thổ Địa.
Ngài Định Phước Táo Quân.
Ngài Phúc Đức Chánh Thần.
Các ngài Ngũ Phương, Ngũ Thổ, Long Mạch Tài Thần.
Ngài Bổn Gia Táo Quân.
Các ngài Địa Chúa Long Mạch Tôn Thần và tất cả các Thần linh cai quản trong khu vực này.
Cúi xin giáng lâm trước án, thọ hưởng lễ vật.
Nguyện cho chúng con: minh niên khang thái, trú dạ cát tường. Độ cho chúng con mọi duyên thuận lợi, công việc hanh thông, người người được chữ bình an, tháng ngày đựơc hưởng phần lợi lộc. Âm phù dương trợ, sở nguyện như ý, sở cầu tòng tâm. Bốn mùa không hạn ách nào xâm, tám tiết có điềm lành tiếp ứng.
Trải tấm lòng thành, cúi xin chứng giám.
Cẩn cáo.
CÚNG GIAO THỪA TRONG NHÀ
Nam mô A Di Đà Phật. (3 lần)
Kính lạy Đức Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật.
Hoàng Thiên Hậu Thổ Chư Vị Tôn Thần.
Ngài Bổn Cảnh Thần Hoàng Chư Vị Đại Vương.
Ngài Bổn Xứ Thần Linh Thổ Địa, ngài Định Phước Táo Quân.
Các ngài Địa Chúa Long Mạch Tôn Thần và tất cả các Thần linh cai quản trong khu vực này.
Nay là giờ phúc giao thừa năm……………
Chúng con là:………..
Ngụ tại:…………..
Phút thiêng giao thừa vừa tới, nay theo vận luật, tống cựu nghinh tân, giờ Tý đầu xuân đón mừng Nguyên đán, chúng con thành tâm sửa biện hương hoa vật phẩm, nghi lễ cúng trần dâng lên trước án. Cúng dâng Phật Thánh, dâng hiến Tôn Thần, đốt nén tâm hương dốc lòng bái thỉnh.
Chúng con kính mời:
Ngài Bản Cảnh Thành Hoàng Chư Vị Đại Vương.
Ngài Bản Xứ Thần Linh Thổ Địa.
Ngài Định Phước Táo Quân.
Ngài Phúc Đức Chánh Thần.
Các ngài Ngũ Phương, Ngũ Thổ, Long Mạch Tài Thần.
Ngài Bổn Gia Táo Quân.
Các ngài Địa Chúa Long Mạch Tôn Thần và tất cả các Thần linh cai quản trong khu vực này.
Cúi xin giáng lâm trước án, thọ hưởng lễ vật.
Chúng con lại kính mời: các vị Tiên Linh Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Bá Thúc Đệ Huynh, Cô Di Tỷ Muội, Nội Ngoại Tộc chư Vị Hương Linh, cúi xin giáng về linh sàng, hâm hưởng lễ vật.
Chúng con kính mời các vị Vong Linh Tiền Chủ Hậu Chủ, Y Thảo Phụ Mộc ở trong đất này, nhân tiết giao thừa, giáng lâm trước án, chiêm ngưỡn tôn thần, thọ hưởng lễ vật.
Nguyện cho chúng con: minh niên khương thới, trú dạ kiết tường. Độ cho chúng con mọi duyên thuận lợi, công việc hanh thông, người người được chữ bình an, tháng ngày được hưởng phần lợi lộc. Âm phù dương trợ, sở nguyện như ý, sở cầu tòng tâm. Bốn mùa không hạn ách nào xâm, tám tiết có điềm lành tiếp ứng.
Trải tấm lòng thành, cúi xin chứng giám.
Cẩn cáo.
LỄ CÚNG (ĐẦY THÁNG, ĐẦY NĂM CHO TRẺ CON)
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
Kính lạy Đệ Nhất Thiên Tỷ Đại Tiên Chúa.
Kính lạy đệ Nhị Thiên Đế Đại Tiên Chúa.
Kính lạy đệ Tam Tiên Mụ Đại Tiên Chúa.
Kính lạy Thập Nhị Bộ Tiên Nương.
Kính lạy Tam Thập Lục Cung Chư Vị Tiên Nương.
Hôm nay ngày………tháng …….năm……..
Vợ chồng con là…………sinh được con (trai, gái) đặt tên là………………….
Nay nhân ngày đầy tháng (đầy năm) chúng con thành tâm sửa biện hương hoa lễ vật và các thứ cúng dâng bày lên trước án, trước bàn tọa chư vị tôn thần kính cẩn tâu trình:
Nhờ ơn thập phương chư Phật, chư vị Thánh Hiền, chư vị Tiên Bà, các đấng Thần Linh, Thổ Công Địa Mạch, Thổ Địa Chánh Thần, Tiên Tổ Nội Ngoại cho con sinh ra cháu tên……..sinh ngày……….được mẹ tròn con vuông.
Cúi xin chư vị Tiên Bà, chư vị Tôn Thần giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành thọ hưởng lễ vật, phù hộ độ trì vuốt ve che chở cho cháu được ăn ngoan ngủ yên, hay ăn chóng lớn, vô bệnh vô tật, vô tai vô ương, vô hạn vô ách, phù hộ cho cháu bé được tươi đẹp, thông minh sáng láng, thân mệnh bình an cường tráng, kiếp kiếp được hưởng vinh hoa phú quí. Gia đình con được phúc thọ an khang, nhân lành nảy nở, nghiệp dữ tiêu tan, bốn mùa không hạn ách nghĩ lo.
Xin thành tâm đảnh lễ.
Cẩn cáo!
KHẤN VÁI GIA THẦN, GIA TIÊN KHI CƯỚI GẢ
Nam mô A Di Đà Phật. (3 lần)
Kính lạy Hoàng Thiên Hậu Thổ Chư Vị Tôn Thần.
Kính lạy ngài Bổn Cảnh Thành Hoàng, Ngài Bản Xứ Thổ Địa, Ngài Bản Gia Táo Quân Cùng Chư Vị Tôn Thần.
Kính lạy Tổ tiên họ………..chư vị hương linh.
Nay là ngày……tháng………năm……..
Tín chủ chúng con là………..
Ngụ tại…………….có con trai (con gái) kết duyên cùng…………con của ông.bà………... ngụ tại…..
Kính lạy nay thủ tục hôn lễ đã thành, xin kính dâng lễ vật gọi là theo phong tục nghi lễ thành hôn và hiệp cẩn.
Kính lạy trước linh tọa Ngũ Tự Gia Thần chư tôn linh.
Kính lạy trước linh bài liệt vị gia tiên chư chơn linh xin kính cẩn khấn cầu.
Kính lạy phúc tổ di lai, sinh trai có vợ (nếu là nhà trai), sinh gái có chồng (nếu là nhà gái).
Kính lạy lễ mọn kính dâng, duyên lành gặp gỡ, giai lão trăm năm, vững bền hai họ, nghi thất nghi gia, có con có của.
Kính lạy cầm sắc giao hòa, trông nhờ phúc tổ.
Cẩn cáo!
KHẤN ĐÁM GIỖ ÔNG BÀ
Nam mô A Di Đà Phật. (3 lần)
Kính lạy Tổ Tiên Nội Ngoại.
Hôm nay ngày…..tháng…..năm…..
Chính là ngày cát kỵ của: ông (bà)…………………….
Thiết nghĩ vắng xa trần thế, không thấy âm dung.
Năm qua tháng lại vừa ngày húy lâm, ơn võng cực xem bằng trời biển, nghĩa sanh thành không lúc nào quên. Càng nhớ công ơn gây cơ tạo nghiệp bao nhiêu, càng cảm thâm tình khôn bề giải tỏ. Hôm nay cát kỵ chúng con và toàn gia con cháu, nhất tâm sắm sửa lễ vật kính dâng, đốt nén tâm hương, giải tỏ tấc thành.
Thành khẩn kính mời: ……………..mất ngày….tháng……năm………
Cúi xin (cha, mẹ, cô…..)linh thiêng giáng về linh sàng, chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật, độ cho con cháu bình an, gia cảnh hưng long thịnh vượng.
Con lại xin mời các Cụ Tổ Tiên Nội Ngoại, Tổ Khảo Tổ Tỷ, Bá Thúc Cô Di và toàn thể các Hương linh gia tiên đồng lai hâm hưởng.
Tín chủ con lại xin kính mời Ngài Thổ Công Táo Quân và chư vị Linh Thần đồng lai giám cách thượng hưởng.
Tín chủ lại mời các vị Vong linh Tiền Chủ Hậu Chủ trong đất này cùng tới hâm hưởng.
Cẩn cáo!
KHẤN DÁN BÙA NÊU
Phục vọng thái thượng lão quân, trương thiên sư chứng chiếu họa hộ linh phù, yểm cựu nghinh tân, tống hung nghinh kiết, phù hộ nội gia nam nữ bình an khương thới, ngưỡng vọng thánh thần lai lâm chứng chiếu.
Lễ vật: lấy lá bùa thiên sư để lên bàn, 3 đĩa bánh + nhang đèn + nước vái lạy xong dán bùa lên cửa cái.
CÚNG GÀ MÙNG 3 RA MẮT TIÊN SƯ
Phục vọng nhơn hoàng tạo mạng nhơn sanh ư dần, mỗi niên ngươn ngọat kiên dần hộ độ nội gia nam nữ bình an khương thới, ngưỡng vọng thánh thần lai lâm chứng hưởng.
Lễ vật: lấy bùa ông hổ dựng lên bàn. Đặt 1 con gà luộc (hoặc 1 đĩa tam sên), 4 chén cháo, rượu trà, nhang đèn, vái lạy xong dán ông hổ trước cửa nhà.
CÚNG TẾT NHÀ MÙNG 3
Phục vọng cửu thiên huyền nữ công vu tử, tịnh thần tri bổn gia, thập nhị trụ thần, hộ độ đệ tử tên…….. họ. ………tuổi……..thiết lễ xuân nhựt tri ân gia đường, kỳ thánh thần chứng hưởng lễ nghi, hộ độ nội gia nam nữ đắc bình an, gia đình hưng vượng, đắc tài đắc lộc vạn sự hanh thông, kiết tường như ý. Ngưỡng vọng thánh thần lai lâm chứng giám.
Lễ vật: 12 dĩa bánh tét, lấy vàng bạc cắt sẵn hình hồ lô, nhang đèn, vàng bạc. Cúng vái lạy xong rồi dán hồ lô vàng hồ ô bạc lên cửa, tủ.
CÚNG CÔ HỒN MÙNG 2, 16 HOẶC THÁNG 7 AL
Lễ vật: gạo muối, nhang đèn, bánh kẹo, đồ thế, giấy tiền vàng bạc, 6 chén cháo trắng.
Vái ngày mùng 2 và 16
Phục vọng tứ sanh lục đạo, thập loại cô hồn, chiến sĩ trận vong đồng bào tử nạn, lai lâm lâm chứng chiếu con tên……..thiết lễ cúng thí thực kỳ chư vị chứng hưởng lễ nghi, hộ độ nội gia nam nữ tứ thời vô họa hoạn chi tai, bát tiết hữu kiết tường như ý, gia đình hưng vượng, kinh doanh tài lợi đắc hanh thông. Ngưỡng vọng chư vị lai lâm chứng hưởng.
Vái cúng cô hồn tháng 7
Nam mô a di đà phật. (3 lần)
Con lạy đức phật a di đà
Con lạy bồ tát quan thế âm
Con lạy đức địa tạng vương bồ tát
Con lạy ngài tiêu diện khẩu diệm đại sĩ.
Con lạy táo phủ thần quân chính thần
Tiết tháng bảy sắp thu phân
Ngày rằm xá tội vong nhân hải hà
Am cung mở cửa ngục ra
Vong linh không cửa không nhà
Địa thánh khải giáo a nan đà tôn giả
Tiếp chúng sanh không mả không mồ bốn phương
Gốc cây xó chợ đầu đường
Không nơi nương tựa đêm ngày lang thang
Quanh năm đói ra rét cơ hàn
Không manh áo mỏng che làn heo may
Cô hồn nam bắc đông tây
Trẻ già trai gái về đây hợp đoàn
Dù rằng chết uổng chết oan
Chết vì nghiện hút chết tham làm giàu
Chết tai nạn chết ốm đau
Chết đâm chết chém chết đánh nhau tiền tình
Chết bom đạn chết đau binh
Chết vì chó dại, chết sông
Chết vì sanh sản lưu phương giống nòi
Chết vì sét đánh giữa trời
Nay nghe tín chủ thỉnh mời
Lai lâm chứng hưởng mọi lời trước sau
Cơm canh cháo tẻ trầu cau
Tiền vàng quần áo đủ màu đỏ xanh
Gạo muối quả thực hoa đăng
Mang theo một chút để dành mai sau
Phù hộ tín chủ lộc tài
An khang thịnh vượng hòa hài gia trung
Nhớ ngày xá tội vong nhân
Lại về tín chủ thành tâm thỉnh mời
Bâny giờ nhận hưởng xong rồi
Dắt nhau già trẻ về nơi âm phần
Tiền chủ thiêu hóa kim ngân
Cùng với áo quần đã được phân chia
Kính cáo tôn thần
Chứng minh công đức
Cho tín chủ con tên là…..
Vợ:……………….
Chồng: …………………….
Con trai:………………………..
Con gái: ……………………..
Ngụ tại …………………….
Nam mô a di đà phật.
(Khi đốt vàng ma bạc, quần áo thì rãi muối gạo ra 4 phương tám hướng)
http://www.chuaphapthanh.com/literature.php?id=93
-
-
-
Cù Lao Phố - Trần Nguơn Phiêu - Scribd
https://www.scribd.com/document/.../...n-Nguơn-Phi... - Translate this page
Ngọc Vạn, nay là hoàng hậu Sam Đát đã xử sự rất khéo và rất được lòng hoàng tộc Chey Chetta. Sau cuộc hành quân năm Mậu Tuất (1658) của chúa Nguyễn Phước Nguyên vào Môi Xuy (Bà Rịa), vua Nặc Ông Chân mới chịu thuần phục Chúa Nguyễn và đồng ý cho người Việt đến sinh sống trên đất mình. Chúa Nguyễn ...
-
本頭公靈籤
Bổn Đầu Công LINH XÂM
XÂM THƯỢNG THƯỢNG 上上簽
thượng tấu.上奏
Sớ văn thượng tấu. 疏文上奏
TƯƠNG TẤU THƯỢNG THƯỢNG ( LINH XÂM ) = ? 奏上上 ( 靈籤 )
https://vi.scribd.com/document/26419...m-Kh%E1%BA%A3o
===========
圣 = 聖 : THÁNH / 笑 = 陽 : TIẾU = DƯƠNG / 阴 =陰 : ÂM
三陰 : ÂM ÂM ÂM / TAM ÂM
三陽 = 三笠杯 : DƯƠNG DƯƠNG DƯƠNG / TAM DƯƠNG = TAM LẠP BÔI
三聖 : THÁNH THÁNH THÁNH / TAM THÁNH
http://quachtrantuong.forumotion.com/f16-xam-ong-bon / http://blog.sina.com.cn/s/blog_59ceed650101h96v.html
-
三宝佛公 2485年Wat Panan Choeng 此博文包含图片 (2013-11-13 16:13:46)转载▼
分类: 泰国圣物介绍
三宝佛公 <wbr> <wbr>2485年Wat <wbr>Panan <wbr>Choeng
上图是2485年,Ayutthaya Wat Panan Choeng所出的三宝佛公
佛历1867年(西历1324年),距今约700年历 之前,当时其中一代的暹逻国王和当 时中国一位公主有婚约,国王派了超 一百人到中国迎娶公主,但当公 主得知国王没有亲自到国迎娶时,非 伤心,在公主再三请求下国王都拒绝 到迎娶,公主在非常伤心情况下得了 大病,最终在没有完成婚约下离开人 ,国王因此 下令制作一寺庙及内有一佛像,用作 念公主,即以下介绍的龙波多(佛像名 称)—屈白能昌。
传说龙波多是泰国其中一位河神,后 佛,经历泰国多个不同朝代,是一尊 常有历史典故及灵验的大佛,据说在 400年前泰缅战争期间,佛像曾经流泪 当时有很 多民众目睹这神迹发生。而追溯至近 ,在佛历2484二次大战期间,有很多炮 弹落在寺庙周围但都没有爆炸,多年 寺庙一直香火鼎盛,前来求事的人骆 不 绝,且都多有灵验,而且如果家中小 容易生病,泰国人都会到寺庙上契给 波多,希望小孩能身体健康。
三宝佛公在泰国的中国华侨很多也有 往参拜,在求平安、财运,及有关经 海外贸易上都有很多灵验事绩,口啤 不断,有很多人佩带疑难解决及发生 祥事情…等等。
三宝佛公 <wbr> <wbr>2485年Wat <wbr>Panan <wbr>Choeng
帕楠称寺(Wat Panan Choeng)
泰国的三宝公寺中规模最大,建造年 最早,也最负盛名的是位于大城府的 楠称寺
(Wat Panan Choeng,帕楠车寺,帕南乔安妮寺)。大 (Ayutthaya,阿瑜陀耶,阿犹他亚,艾 塔雅)是泰国古都,是素可泰(Sukhothai 速古台,戍可太)王朝衰败后,拉玛提 波底一世(Ramothibodi I)于1350年在此建都。阿瑜陀耶王朝绵 417年(1350-1767年),历经33名统治者,当十七世纪 力最强之时,版图及于现今的寮国、 缅甸、柬埔寨及马来亚等地,大城为 时东南亚最大的国际化城市。大城在1 767年遭缅甸攻占,之后拉玛一世(Rama I)驱走缅甸,并向南迁至吞武里(Thonburi ),1782年定都曼谷,建立却克里(Chalkkri )王朝,现任泰皇蒲美蓬为拉玛九世。
大城历经战火的摧残,幸而保存了盛 期间建造的多座佛像、佛寺、王宫, 合国教科文组织特于1991年,将大城 入「世界文化遗产」。大城距曼谷以 85公里,位于湄南河(Mae Nam Chao Praya,昭披耶河)、洛波里河(Lopbori)、 巴沙河(Nam Pasak)三条河流交会处的一个岛上,渠 与运河贯穿其间,以桥梁相连,是个 丽的水都。由曼谷搭船溯湄南河而上 ,需约3-4小时光景,若搭车经高速公路,只消 个半小时。
华人称为三宝公庙的柏楠称寺,是在 城之南10公里处,离王宫有些距离, 临湄南河东岸。华人称三宝佛公(Sam Pa Hud Kong)或三宝公(Sam Po Kong),泰人称Luang Pho Toa,意为大佛陀。
《东西洋考》中描述暹罗的名胜古迹 礼拜寺(永乐间,郑和所建寺,甚宏 ,佛高与屋齐),是现在位于大城的 三宝佛公寺吗?该寺宏伟瑰丽,铜铸 佛像高度及屋顶,但据竖立在庙外的 碑写着,寺庙建于1324年,比阿瑜陀 王朝在此建都还早26年,比郑和下西 的年代更早了近一世纪。
此佛像是泰国最高的坐佛,高19公尺, 相当于六层楼,宽20.17公尺,两膝间距 14公尺。工作人员站在佛像手边,用吊 勾在其左肩斜披黄纱巾,人的身高只 佛像手指的长度,由此可见佛像的巨 。佛像后方整片墙有上百的神龛,由 信众捐款,供奉佛祖。此庙香火鼎盛 祈福求签、顶礼膜拜,只见香油钱与 潮不断涌入。
庙外的石碑说明华人尊崇此佛为三宝 公,能保佑出海者,因为过去有许多 人经海路来此贸易或移民,信众繁多 。此庙几经增修,已不复见14世纪的古 意,只有庙门对联「七度使邻邦有明 纪传异域,三保驾慈航万国衣冠拜故 」,算是与郑和下西洋事迹有关的痕 迹。
http://blog.sina.com.cn/s/blog_4a9ed36d0101hn18.html
-
-
http://mind-talks.forumotion.biz/t253-topic
第壹首 (聖聖陰)
:: 籤詩大全 :: 城隍爺
第1頁(共1頁) • 分享 • 更多!
上一篇主題 下一篇主題 向下
第壹首 (聖聖陰)
發表 由 ajk32123212 于 2011-06-22, 17:59
第壹首 (聖聖陰)
角聲三弄響 無雪自心寒
勸君休愁慮 合營人馬安
解曰
貴人扶持 諸事有理 眼前未遂 退後遇時
前程有路 喜得平安 骨肉和順 到老雙全
此卦乃崑崙姜太公學藝所卜後果為相
占作事不利亦不成 占雨春三六九秋二四八有 占年冬平平
占賣買相爭二次成 占五穀不貴 占功名春期有冬期無
占胎產應生男宜作福 占求財有不成
占田禾六分收園禾八分收 占生理大吉利市應三六九日財氣盈盈
占宅橫財大吉 占尋人三六九日得見 占出路有貴人 占婚姻媒人親戚可成 占行人三六九日至 占官符無妨
占六畜興旺 占風水二房出外六十年進財
占子息現在二女晚居男 占病人犯境主家神為患宜急求神小兒 險
占失物在東方 占倒換不成遇春天可成 占年冬大冬好 占討物二次有 占養飼好
占運氣初逆中平後大吉 占谷不貴
再詩曰
啞子得夢似難言 孔子絕糧陳姤賢
九曲明珠穿難過 瞎眼穿針便不然
ajk32123212
版主
版主
文章數 : 372
注冊日期 : 2011-06-18
回頂端 向下
上一篇主題 下一篇主題 回頂端
-
二十八圣签详解
https://uphinhnhanh.com/images/2018/01/21/J08d41.png
二十八圣签详解 此博文包含图片 (2013-02-18 23:34:16)转载▼
分类: 观音六十甲子灵签详解
二十八圣签详解
籤头
籤头万事皆大吉 求神许愿可得力
添油添香增福寿 即达平坦始自由
解曰
一言之蔽 世事皆吉 人善心善 蚤积福缘
虽无望报 回顾儿孙 善恶由尔 福祸是天
此卦周文王被赦回国所卜乃知国家祯 西岐亨通也
信评曰
吉凶皆系人为 事事切莫心亏 神明示出香愿
善意敬添方全 痴人若不相信 具看灾到可醒
占作事或胜或败见机而行
占买卖初不利迟后吉
占雨逢旬日乃有
占功名遇贵人则有望
占胎孕应生男儿宜会愿头
占求财有不可远行
占田禾熟宜许求土地公可安训园禾平
占五穀丰收
占生理大吉宜会合黄姓有利
占宅人口平安且守家训
占寻人急得见迟难见
占婚姻友爱可喜淑女成吉
占出路有贵人
占行人近日到
占官府离身
占风水长房不吉二房大兴馀者均平
占六畜兴旺
占子息有五个大贵
占病人犯东北方神将作崇宜求大神设 占到换成
占失物在东北方初难见后自知觉 占讨物有
占养饲好 占年冬平平 占运气暂暂好势
再诗曰:世事初吉非为吉 维时终凶未是凶慎德明衡真要道 决断执两用其中
第一首 (圣圣阴)
角声三弄响 无雪自心寒
劝君休愁虑 合营人马安
解曰:
贵人扶持 诸事有理 眼前未遂 退后遇时
前程有路 喜得平安 骨肉和顺 到老双全
此卦乃崑崙姜太公学艺所卜后果为相
占作事不利亦不成 占雨春三六九秋二四八有占年冬平平
占卖买相争二次成 占五穀不贵 占功名春期有冬期无
占胎产应生男宜作福 占求财有不成
占田禾六分收园禾八分收 占生理大吉 利市应三六九日财气盈盈
占宅横财大吉 占寻人三六九日得见 占出路有贵人
占婚姻媒人亲戚可成 占行人三六九日至 占官符无妨
占六畜兴旺 占风水二房出外六十年进财
占子息现在二女晚居男
占病人犯境主家神为患宜急求神小儿 险
占失物在东方 占倒换不成遇春天可成 占年冬大冬好
占讨物二次有 占养饲好
占运气初逆中平后大吉 占谷不贵
再诗曰:哑子得梦似难言 孔子绝粮陈姤贤
九曲明珠穿难过 瞎眼穿针便不然
第二首 (圣圣笑)
亢宿属金龙 常行子丑宫
暗藏身在未 急急避他乡
解曰:
缺月团圆 枯木再生 慢行三步 诸事难成
千年古镜 改旧重新 三人和合 依然收成
此卦乃孙膑破秦所卜乃知后果得胜也
占功名春冬有秋夏无占作事夏好冬吉 行人一五七到
占养饲好宜防疫厄 占年冬好 占求财有
占婚姻好 占失物在东南方
占雨春三六九冬一五七有 占寻人三六九见 占五穀腾贵
占官符有贵人相持无妨 占风水好二房有煞有土煞子息二个长 二房煞
占病人犯飞士煞土煞二五八女三六九 之安 占子息有二个
占倒换不成 占出路有贵人 占讨物有
占生理平顺 占宅人口安顺 占买卖后好 占六畜平平 占田禾不吉园禾好
占胎孕应得男儿吉 占运气上平中不利后好 凡事应子丑日即知吉凶成败
占养饲好 占谷贵
再解曰:月镜并明 作事易成,速则有利 月晦难行
再诗曰:宝镜团圆知月明 琴瑟和鸣畅吾情,婚姻买卖皆得意 登科一举状元名
第三首 (阴阴笑)
氐头偷举眼 暗想好佳人
君与相谈话 只恐未成亲
解曰
往去求人 劳心费力 求财问事 退后回头
家门无气 财散人亡 食无求饱 居无求安
此卦乃宋王夺韩朋之妻所卜 后果不利也
占功名春有馀无贵 占求财无气 占生理平平
占胎孕生男儿恐难平安三天宜作福
占庆应五七日过母子方得双全 占作事不成
占雨二四八有 占年冬不丰 占失物不见
占官符及身之患宜寻贵人 占婚姻难成有势可望
占病人死若不死多鬼宜求神设法 占子息无
占出路无贵人不吉 占五穀二四八腾贵 占养饲好
占讨物无 占田禾六分收园禾恐患浸 占行人不来 占倒换不成遇贵人即成 占寻人难见
占小儿病犯夫置童子应七日则吉 不退则凶 是内裡家神为患宜作福
占六畜平平 占买卖初不利后好
占风水初平平久则不吉 占宅人口不安 宜托神週全有委屈之事
占运气多有异端 四季不顺 宜永佛投神解制之可安
再诗曰:八仙过海赴蟠桃 龙王拖下篮采和,夺去伊帕相交战 阿弥菩萨来解和
第四首 (阴笑阴)
房中生瑞草 孕妇喜临盆
亲眷皆来庆 麒麟是子孙
解曰
牛郎织女 会合佳期 七夕相见 后来分离
向东望月 日落西山 好事难得 不可近前
此卦韩信事吕皇后所卜后果受其害也
占作事紧成若冬不成 占雨夏一五七秋冬二四八有 占买卖利市
占功名三次显春有秋冬无 占年冬好 占求财有不成
占寻人见 占讨物有 占婚姻二次吉
占病人犯土地公又有内家神串外魂作 占官符有小罪 占失物在东南方
占出路有贵人 占倒换不成紧则成 占五穀腾贵 占养饲好
占胎孕产男儿吉庆宜行善 占田禾十分收园禾平
占生理大吉利市久恐有厄宜仔细
占宅先吉后凶应出外转姓 占风水兴旺有外人进横财
占行人在路未至有贵人扶持 占子息三个蚤积善缘 占六畜中途仔细 占寻人男人难见女人见
占运气初平中不吉后好 占谷贵
再诗曰:昔日螳螂始捕蝉 岂知黄雀在身边,莫笑他人直中直 须防其中仁不仁
第五首 (笑阴阴)
心事未分明 又恐被鬼惊
细思难解救 暗路失明灯
解曰
人逢十善 恶事莫作 不必忧虑 自有贵人
作事如何 劳心费力 休贫他妈 失却自牛
此卦张骞寻张曳所卜黄河乃知后也
占作事不成 占雨春一五七秋冬二四八有 占买卖不吉
占寻人三次见秋冬不见 占功名无望 占求财无气
占年冬不吉 占失物不见
占官符及身贵人在东北 占婚姻不成 占风水无气
占病人犯内外冤魂相侵又有飞土煞田 公之崇 占讨物无
占养饲好 占子息一个女多 占出路无贵
占倒换不成 占五穀一五七腾贵
占胎孕生女母身不安作福吉 占失物在东南方
占行人路上有祸不到宜访寻之
占宅女人口舌时常不顺安 占生理不吉利
占田禾足收园禾恐雨水浸氾 占六畜久恐不利
占运运气初吉中平后不吉 占信评凡事不利
再诗曰:若要求财未得财 只恐鬼贼相侵害
闭门不管他人事 祸福皆从天上来
第六首 (阴圣圣)
尾与头相似 不寒亦不温
行人须且止 宿客便寻村
解曰
凡事迟疑 言三语四 眼前未遂 日后遇时
先取其长 后取其短 云开见月 依旧光辉
此卦苏秦游说六国所卜后果为丞相也
占作事不成 占雨有 占买卖无财气
占失物不见二次有 占年冬不好 占功名无望
占求财春有 占婚姻不成 占行人二四八见
占风水有气长房人见 占病人家神为患急宜问神设法
占胎孕生女 占子息或贵或凡宜积善 占宅人口难安 占田禾早冬平大冬好园禾失收
占生理平平
占讨物速有迟则无 占出路初不吉后好 占倒换不成
占少儿病犯东北方境主 占五穀如旧 占养饲始终如意
占寻人遍游得见 占官符及身后无事 占六畜初凶后吉
占运气初吉申纯后大吉
再诗曰:夫妇有意两相求 情未成合两成愁,万事逢春成大吉 姻缘注定不须媒
第七首 (笑圣圣)
箕箒是夫妻 搬尽垢浊泥
一朝入王殿 便得贵人提
解曰
在家日好 身闲不閒 求神作福 老少平安
知足当足 自然有福 有种有收 失物有寻
此卦齐晏子宪举所卜后果为丞相也
占作事好宜紧慎 占雨一五七有 占寻人得见
占功名细心注意显无 占买卖好 占年冬好
占行人到 占失物埋没难寻后应有人报说
占官符无事 占出路有贵人 占风水好长房有煞
占倒换不成 占病人冲犯游行冤魂及田相公太岁又 石头煞
占五穀平常 占养饲平平
占宅六神无气人口难安 占胎产如常平平宜作福 占年冬好
占田禾早冬不利大冬好 占六畜不吉 占倒换急好迟不利 占运气平顺大吉信评凡事吉庆到时报
再诗曰
太公渭钓八十秋 除商灭纣再兴周
民安国泰太平世 万里江山任君游
第八首 (笑笑阴)
斗秤不公平 恐他不至诚
两边交易了 到底亦相争
解曰
凡事如求 摘来在手 无根之物 如何得久
晚在和气 不遇春时 人言口后 退步自守
此卦彭越战项王绝粮时卜得之虽弃彭 也
占作事平常 占雨无 占寻人见
占功名不吉 占求财无有鬼 占失物不见
占行人不来 占风水无气不吉 占五穀腾贵
占官符有家内人作鬼宜托人私和 占婚姻不吉亦不成 占倒换不成 占出路无贵
占病人中年者恐死有犯东北方外境主 枉死魂让化之吉
占胎孕产双一男七女 占田禾六分收园八九分收 占宅如旧不增不减 占官符缠身宜仔细家人作鬼 占年冬好 占六畜不吉
占讨物有 占风水先吉后凶 占子息两个
占买卖利市要平心 占生理先不利后好
占墓地恐有不明事故宜辨明三年后财 如意 占运气初不利中吉后不吉
再诗曰:一盏明灯对面休主人有福再 油,任他险处不见险若有灵时别处求
第九首 (阴笑笑)
牛饱栏中眠 牧童在眼前
若人知得我 快乐是神仙
解曰
一尾金鳞 变化成龙 两边有路 直上青天
半途走马 顺水行舟 龙蛇有变 滴水成田
此卦李沛逃难所卜 后果得遇明官也
占作事不成 占雨二四八有细雨 占寻人不见
占行人不来 占功名无贵人 占买卖迟后好
占年冬不吉 占失物难见
占官符先难后易有贵人扶持 占风水平地有山项无 占五穀腾贵
占子息此少女多 占出路不吉 占倒换不成
占宅好春时兴工大吉 占讨物问母即明 占胎孕生男
占病人有鬼二三位家神作崇又北方得 外姓家神为祸急制让之三六日九退吉 退则凶 占六畜好 占求财不吉
占田禾不足收园禾九分收 占五穀半冬好 占生理后好
占墓地子孙进益吉 占运气中不吉后好
再诗曰:伏义八卦甚是灵 六十甲子排五星,暗处亏心天地见 举头三尺有神明,
第十首 (三阴)
女子觅良媒 通情便得成
相看谈未了 好事自天来
解曰
哑子得梦 有口难言 病都难愈 失物难寻
暗处穿针 尽不知音 虽然有路 亦须小心
此卦孟姜女送寒衣寻夫所卜 乃因慌忙不吉也
占作事不成 占买卖不吉 占寻人不见
占功名无望 占子息少 占年冬大冬好
占五穀不贵 占养饲好 占求财不吉
占雨有细雨 占病人久长之患三日内急作福祭让退 不吉凶
占出路无贵 占失物十日后有人报说 占婚姻不成成好 占倒换不成 占讨物无
占官符事主和之吉 占行人近日到 占胎孕生男儿
占宅平稳可居进财大吉 占风水进丁益财吉
占田禾恐风所害园禾恐犯浸 占生理平平久吉 占六畜有殃
占运气初中均平后不好 占风水丅财吉
再诗曰
鬼门关上遇无常 缺船过海遇头风
久远冤家相罗网 运欲去时灾祸殃
第十一首 (圣阴圣)
虚空多感应 尔必用虔诚
所求皆称遂 颇知有性形
解曰
皎月当空 却被云遮 云若开时 依旧光辉
前世姻缘 万代兄弟 今日得过 福禄双全
此卦汉高祖欲困宋卜得之后宜守旧也
占作事不成成好 占雨三六九有 占买卖吉
占求财有 占寻人一二次难见后自知觉 占行人来
占功名春有 占子息一个 占年冬平平
占风水不吉 占宅人口安宁吉
占失物初难寻后或得见 占养饲好
占病人冲犯伤亡魂水星君宜禳之 占婚姻成吉 占出路有贵 占倒换好有人破 占生理平平
占官符迟有小罪急则有人和 占田禾五分收园禾八分收
占胎孕生男儿恐犯土煞先祭禳之 占五穀平平
占六畜旧种好 占讨物后好
占运气初平中不吉后好
再诗曰:富贵总是天注定 五榖丰登胜上年,共享太平无事日 含飱鼓腹乐尧天
第十二首 (阴圣阴)
危途宝可忧 未免得无愁
细思千里外 山水两悠悠
解曰
他要进前 汝要退后 事有难言 大家相误
梦中得宝 醒来还无 水裡摸针 费尽工夫
此卦杨贵妃私通安禄山所卜后果不利
占作事不成 占雨有 占买卖迟纯不利
占寻人不见 占功名无贵人 占年冬不吉
占五穀不贵 占求财枉费心神 占失物难寻
占宅六神无气难安 占婚姻不成 占倒换不成
占养饲不吉
占病人骨节疼痛上轻下重犯着伤亡魂 魂为怪急投神托佛可矣
占田禾高处吉园禾不利 占胎孕生男儿产后多生异端细心为要 占官符及身及早解之 占生理有暗盗不吉 占出路不吉
占子息一介宜修阴德 占风水无气不吉 占讨物无
占六畜不吉 占运气初吉中平后不利 占六畜失利
再诗曰:张弓射月总虚空 朽木难凋枉费工,平生胜念千声佛 行恶枉烧万炉香
第十三首 (笑阴笑)
室家事已成 四序尽和平
若要心头快 青云足下生
解曰
一枝花柳 舒发冬天 开花结子 不遇春时
且急退后 不可进前 只宜守旧 免受灾殃
此卦周文王在姜里所卜后果知子不守
占宅人口平安万物吉庆为人子侄当守 法可顺景 占行人即日到
占风水不吉 占失物被女人所藏十分难寻 占作事不成
占病人犯着游行太岁并流索白虎 又有土地公难安及北方古庙愿头未答 是以难安少儿病犯天吊花婆宜急解制
占求财有 宜东南方 占官符有小罪名 占雨有小雨
占胎孕生女儿男儿后多端 占寻人急见迟难见
占婚姻成吉恐庚书不宜勘钓或不成 占功名初不吉后或有
占年冬平平 占五豰如旧年 占买卖利市
占子息一个 占出路不吉
占田禾吉恐妨无秋尾园禾不耕 占倒换不成
占讨物二次有 占养饲厄后好 占六畜平平
占运气初不吉中平后好 占生理平平
再解曰:冤愆散散无歎劝,君停讼方 灾难
再诗曰:囚人出狱上酒楼 畅饮几杯解闷愁,劝君当忍一时气 非干己事且相饶
第十四首 (三笑)
璧月挂云间 游鱼上急滩
欲求鱼以月 上下两艰难
解曰
天地如水 龙门未开 劝人待好 好事后来
金龙未变 守在江南 东方不顺 又过南阳
此卦陈后主得张丽华所卜后知先喜后 也
占宅初平平久恐难安 占风水初平隐久当解方向 占作事不急则成
占病人犯着内魂作崇急请大神解和之 占官符后无事
占雨无 占失物先若见后不见难寻 占子息无气
占求财难 占出路无贵 占行人不来
占年冬好半冬不利 占六畜不吉 占功名无望又恐有殃
占胎孕生女儿吉 占五穀贵有临机应变之妙吉 占养饲不吉
占婚姻先吉后凶是庚书之敞 占田禾丰登园禾半收 占买卖无财气
占寻人见 占讨物无一倒换不吉
占行人在路有厄不至往持之 占生理中好先后不利
占运气初吉中平后不利
再诗曰:风和浪静可行舟 鼓舞高歌乐优游
四皓八仙齐畅饮 十八学士登瀛洲
第十五首 (圣笑笑)
奎星报与君 尔且所知闻
上看十一口 下看十八分
解曰
劝读诗书 功名不悞 今朝得意 青云有路
开山得宝 经纪得财 六甲生男 缘份终成
此卦汉高祖欲拜韩信为相所卜乃知后 之不利也
占宅六神无气不吉 占风水面前有煞急宜迁移方安
占病人西方瘟神作怪又运气为 又有太岁星绕身解造之自安
占婚姻难成 占少儿犯天吊婆姐午酉戍化之则吉
占行人即日至 占失物速见迟难见
占官符破财失理急托人和解 占年冬好 占买卖好
占胎孕恐产厄之患宜先祭之 占功名有望应二次作福成贵
占养饲好要注意 占倒换不成 占讨物有
占出路有贵 占求财澹薄后渐好 占田禾有收园禾亦吉
占五穀早冬外晚冬不吉 占作事成大利暗中有贵 占寻人见
占出理平平 占雨一八有细雨 占六畜多厄
占运气初吉中后不利
再诗曰
梅花冻雪正芳菲 渔翁海上皱双眉
夜静风寒鱼不饵 满船空载明月归
第十六首 (圣阴笑)
娄氏头戴米 身穿子路衣
人人皆道是 我且犹堪疑
解曰
人生做事 日日无忧 贵人和合 得遇公侯
好日期会 用力有功 前程有路 当权皆通
此卦唐玄宗避安禄山乱所卜 及后身出九重也
占宅门户光彩人丁兴旺 占风水人丁进益子孙兴旺 占行人朝夕到
占病人瘟气为灾女魂为怪主内热饮食 进急宜解制小儿病犯飞土煞
占婚姻成吉 占胎孕生男儿申子辰举吉 占寻人二次见
占求财得意贵人扶持 占生理后好 占作事成好
占官等始终如意 占子息三个
占失物有人拾得应一五七日有人报知 占路有贵人
占田禾十分收园十二分收 占功名春显一名 占买卖吉
占年冬好有厄 占五穀熟 占雨一五七有
占倒换成好 占六畜好 占讨物有
占运气初平中不利后好
再诗曰
鲤鱼志气本英雄 屈守池中运未通
一旦时来头角现 风云际会变成龙
第十七首 (圣阴阴)
胃肚脉和调 安身睡一宵
任他兵马动 我且自无聊
解曰
凡事悠悠 未得成就 只有宽心 依然自旧
宽心宽怀 福禄当年 守旧当强 割肉成疮
此卦韩信击取散关不破 卜得之后果也
占宅宅堂大吉瑞气云集旺人丁益财源 占风水先凶后吉
占买卖先不利迟后好 占失物急寻见应在三日内迟则难见
占求财有 占婚姻不吉亦不成 占功名无望
占作事二人和合成吉 占寻人不见
占官符缠身急觅贵人解之 占雨有 占年冬大冬好园亦好
占子息一个女多 占出路有贵人 占倒换不成
占五穀不贵 占养饲好 占胎孕生女应小警惶
占行人三六九到 占讨物有 占六畜好有厄
占生理速则有利 占田禾好园禾不利
占病人犯着东南方游行岁君主发热心 疼痛让化之可安若不退急请神治之
占运气初平中好后亦好
再解曰
虎外防蛇文王困棘兄弟忍耐在休息
再诗曰
白虎出山欲害人 悞入罗网难脱身
害人之心即害己 虫飞入火难救生
第十八首 (圣笑圣)
昴星头戴日 炎威亦不多
欲超去附热 终久被他磨
解曰
凿石得玉 淘沙见金 金炉发火 气象皆新
工夫艰难 如船过滩 前程有路 贵人相攀
此卦李广所卜乃知后凡事果不及也
占作事成好内有恶人作崇 占婚姻不吉
占病人日轻夜重是土煞又家神为怪灶 土地公又溪边犯着瘟神岁君让化之退 凶少儿病犯着内魂恐二八日不过
占买卖吉 占胎孕生女产后恐母子有厄宜仔细
占寻人二次见 占雨三六九日有细雨
占行人路逢星缠绕不至 占功名显无
占官符有加锁牢狱之患宜仔细 占子息二个
占出路有贵人 占倒换成好 占五穀如旧年
占年冬平平 占养饲平平
占田禾吉恐患旱园禾恐盗贼之厄
占宅初平平中多端后渐吉 占风水平顺 占生理好中有难
占六畜不利 占讨物有
占运气先平中不吉后有利
再诗曰
叶落根深莫忧恼 枯木逢春再发花
虽是中间多阻滞 钱财到底属我家
第十九首 (圣笑阴)
毕竟西风起 定招远客排
秋来休嫌冷 惟有月华明
解曰
人生老健 秋后扇凉 虽然命好 马瘦毛长
金生得水 晚境平安 积善之家 到老双全
此卦武王伐 卜得之后果重兴天下也
占宅初主损六畜破财五年后转凶无吉 占六畜后好
占功名不吉
占病人犯着神将土地祭化之月半过渐 痊癒若老人秋后之景不吉若化之则延 益寿
占雨有 占养饲好 占求财有气利在西方
占官符缠身后有贵人扶持主破财
占风水百日内有灾厄后吉 占失物初难寻后自出现
占行人不至主有信来报喜 占婚姻成好
占胎孕生男儿若母子双全吉 占出路不吉 占子息有
占田禾好园禾恐雨水浸氾高处则吉 占作事不成
占买卖不合 占年冬平平 占五穀贵三个月
占讨物无 占倒换不成 占生理后好
占寻人见 占运气初好中不利后好
再诗曰
皇天降下紫微星 阴邪退避得安宁
二十八宿扶圣主 汉王江山再重兴
第二十首 (三笠杯)
嘴占崑山玉 凡人知吉凶
劝君急退步 恐久坠坑中
解曰
阴阳未判 事理分明 劝君慢进 方得安宁
北斗微明 诸事仅通 行人见阻 词讼见争
此卦汉高祖斩丁公疑惑时卜得之结果 也
占宅先六十年大退不吉 占风水主损丁破财不吉 占五穀不丰
占失物不见 占作财不但无恐有灾厄 占养饲不安
占行人不来且有灾难若高年病凶 占讨物有宜往西方吉
占官符受狱之厄 占婚姻不成成亦不利
占六甲生男儿宜细心保养 占作事以人共之吉
占病人有冤魂缠身急请高神治之小儿 犯水官男二四八制之可安
占功名不吉 占雨寅午日有 占田禾半收园禾不收
占倒换不成吉成有是非 占年冬不丰
占子息一个女多宜修阴德 占出路不吉 占寻人都市见
占六畜失利 占买卖无气 占生理不吉
占运气初好中平后不吉
再诗曰
人心险测却难防 幸有神明鑑在傍
若有坚持终不改 一生淹赛理应当
第二十一首 (三圣)
参宿原来吉 劝君不用疑
所求皆称遂 好事大家知
解曰
一枝好花 芳菲烂慢 未曾结子 狂风吹散
贪生怕死 用力无功 久年永远 作事和同
此卦杨令保宋主上五台山进香所卜 后果不利也
占宅先凶后吉 占风水有丁吉 占寻人不见
占病人有鬼东北方伤亡鬼禳化之吉小 不吉 占作事不成
占买卖不吉 占求财不吉 占官符缠身
占失物速不见迟见 占行人不到 占子息有
占出路有贵人 占功名不吉 占年冬平平
占婚姻不成成好 占五穀不贵 占养饲不吉
占失物在东方 占胎孕生男宜细心 占倒换不成
占雨失时 占六畜失利 占讨物后有
占田禾不利园禾好 占运气初好中不利后平
再解曰
老者还壮 少者逆遭
求谋退守 诸事皆然
再诗曰
福如东海寿南山 君汝何故苦中间
荣华富贵天注定 太白贵人守身边
第二十二首 (笑圣阴)
井泉清且甘 薰风便是南
呼童来取水 跳出步高岩
解曰
前人作事 虎斗龙争 饶人一步 不可进前
作事相信 不须烦恼 若要好事 须问三老
此卦蔡顺遇赤眉贱卜得之后果得脱大 也
占宅喜气盈盈好事入门四十五年大吉 不利 占作事好
占婚姻成吉 占风水三房无气二房吉 占生理好
占病人犯着西方飞土煞又有口愿未还 女家魂不安精神解法之可安少儿病犯 方境主水神化之吉
占失物在东北方春在南方 占年冬平平 占五穀不贵
占养饲不吉 占买卖成有利 占子息晚有
占寻人一五七见 占功名无望 占雨二四八有
占行人到 占官符无事 占出路好
占倒换不成 占讨物有 占求财有恐得空虚
占田禾不吉园禾好 占六畜不利 占胎孕生男儿
占运气初不吉后好
再诗曰
释迦化出妙应身 老君抱送玉麒麟
真宗求嗣生贤圣 梁武祷丘最时灵
第二十三首 (阴圣笑)
鬼崇作灾殃 关防守看羊
火中跳出马 四蹄却无伤
解曰
家门有喜 逢财遇时 病者身安 灾何由至
知则心正 行路远归 老者得福 少者得禄
此卦项王被韩信十面埋伏所卜后果士 溃散也
占宅被木匠私藏技术作怪人口六畜不 急精神禳之
占风水亡魂不安山神土地为怪家主大 安急易之
占病人冲犯西南方古塚家魂作崇急祭 之可安少儿病犯西方土地公及游路将 并有内家有内家神为祸宜问神托佛设 法方可不安顺
占买卖利市宜防暗盗 占年冬好 占五穀不贵
占养饲不吉 占行人得遇 占作风不成
占雨生一五七有小雨 占功名显好 占官符及身
占行人不日即至 占失物一五七见
占胎孕男儿有灾患宜先解制作福吉 占生理平平
占出路有贵人 占婚姻成好须择六合 占子息许会愿头可有
占讨物有 占运气初年老年不吉中年吉
再诗曰
鱼在小涧上长滩 浅处难游深处安
心虚不定悞君事 夷齐饿死首阳山
第二十四首 (笑圣笑)
柳絮舞春风 向西又向东
行人开口笑 可作老来翁
解曰
远望行人 千山万水 三朝五日 终久相逢
若问前程 得遇公侯 好日相会 诗书得成
此卦晋文公未立时出亡在外卜得之后 脱而为国君
占宅暗昧六神不护财物消费不聚不吉 高明神佛设法之
占买卖先难后易
占病人西南方将军白虎为祸肉跳心惊 卧不安急请神佛祭化之吉
占行人路上患病未得回宜往访扶持之 占年冬好
占胎孕生女儿有邻舍产厄鬼作崇宜作 退吉不退凶 占雨有
占五穀熟恐患风 占寻人二次见 占求财先不遂后如意
占养饲好 占失物现时难寻后有人报说 占作事恐不成成有益
占子息有宜修身荫之 占倒换不成 占出路有贵
占婚好不成成好 占讨物初无后有 占功名春有
占生理初平顺后渐好 占田禾好园禾亦好
占官符及身后有贵人解违 占风水后好 占六畜平顺
占运气初平中迍后大吉
再诗曰
牛郎织女是天仙 阻隔银河各潜然
百年富贵风中烛 一旦荣华梦裡天
第二十五首 (阴阴圣)
星辰光灿烂 河溪一路通
牛女缠相见 泪后各西东
解曰
凡事烦恼 如船过滩 虽然得过 见尽艰难
西南有路 终不相亲 病者难保 失物难寻
此卦孔明周瑜赤璧破曹所卜乃知曹后 大败也
占宅初景安静财物并旺十年进财十二 过男女奴僕私通患奸破财
占讨物后有 占年冬虚花早冬好 占五穀不丰
占作事运成有利
占病人在路犯七星煞主七吼流血急请 师制之不退则凶
占行人不来 占官符缠身宜托势力者助之可
占婚姻不成成亦不利 占功名无望
占少儿病西方半天童子祭化之吉
占胎孕应双生一男一女恐有产厄速宜 化之
占田禾不丰早冬好园禾亦好 占养饲好 占出路无贵
占失物无踪踪难见 占求财称意速有利迟无财气 占雨有
占寻人不见 占买卖利市 占子息晚居
占五豰平平 占六畜多厄 占风水屿吉平地无气
占倒换不吉 占运气初平中顺后大吉
再诗曰
三藏取经往西天 路逢圣僧得安然
云横秦岭家何在 雪拥篮关马不前
第二十六首 (笑笑圣)
张舍出贤人 流传代代新
到头归涧谷 此事实为真
解曰
喜遇春时 好花正开 大凡作事 速速而来
前人种作 后人得收 急时进步 退后难留
此卦姜太公钓于渭滨卜得之乃知后遇 王树勳建德也
占宅居位平静鸡犬不安钱财耗散 占婚姻恐不成成好
占求财留连后有 占五穀五月正月贵 占子息有
占病人冲犯西方境主及伤亡鬼宜作福 老人五日内恐不能过
占风水虽然平稳难以久往后当还移 占倒换好
占作事好 占胎孕生男儿恐有煞神犯身宜先制化
占寻人得见 占年冬好 占养饲平平
占功名二次有望 占买卖利市 占田禾吉园禾平
占讨物有 占行人一五七到
占失物在南方恐寻不见 占官符有势吉 占雨近日有
占生理后有利 占出路有贵人 占六畜不吉自产者吉
占运气初平中迍后好
再诗曰
日吐东风云吹散 乾坤精气尽光明
二十四季皆清吉 求财作事终有成
第二十七首 (笑阴圣)
翼飞万里遥 思欲上云霄
一旦风云起 身归黑里飘
解曰
喜气望望 守舍兴隆 枯木再生 又遇春风
开花结子 枝叶相宜 星辰初出 有功之时
此卦王莽篡汉社稷时卜得之知汉后日 重兴天下也
占守初时平平后恐风雨火灾损坏 占功名有望
占买卖吉 占养饲好
占行上路上有灾殃至亦不吉
占病人有内裡女魂又口愿未还主上热 冷要解化求神和之可安又猫相公为祸
占讨物有 占子息无
占风水棺必朽烂金者入水急宜迁移
占田禾不吉园禾恐风雨损坏 占年冬早冬恐犯风 占五穀不贵
占求财无气 占作事口舌多端宜仔细先凶后吉
占寻人二三次方得见 占雨一七五有
占官符先难后易贵人见 占婚姻迟成好 占六畜不吉
占倒换不成 占失物在东北方难寻岁暮者或得见
占出路二四八无贵一五七有贵
占胎孕产男儿七日内仔细 占生理好要斟酌
占运气初平中安然后如意
再诗曰
三人异姓同一心 桃园结义情意深
崑山美玉皆是宝 我身似铁变成金
第二十八首 (阴笑圣)
轸宿廿八位 思想不甘心
有话无相答 宛然口自吟
解曰
世事蒙胧 天眼分明 劝君迟迟 且待宽心
天远地阔 心照在庭 人在其中 百事思宽
此卦伯夷叔齐扣马谏周不听 卜得之后果耻食周粟而饿死于首阳山
占作事先不成后成好 占雨二四八有
占买卖先不成后成有财吉 占功名有后好 占寻人迟见
占年冬春早好 占失物在东北方永远在 占行人即日到
占婚姻好有人破 占子息无贵
占官符先凶后吉有小罪名亦有贵人宜 神暗助 占风水不吉
占讨物速有迟无 占五穀不贵
占病人犯着山神土地田岁君和尚鬼宜 制之可 占出路有贵
占养饲好 占倒换平平 占胎孕产女
占田禾有园禾好 占生理利市有财 占守人口安顺后吉
占六畜后好 占运气初吉中平后不利
再诗曰
雷霆霹雳震当空 天罡差我察吉凶
积善之家必有庆 积恶之家定有殃
福德正神廿八簽詩:
福德正神簽,有廿八簽,每簽用 駁杯」擲在地下三次,組成一簽,這 的組合共廿七簽。三次擲杯之中,如 有一杯或二杯豎起,稱之豎杯,是神 的嚴重示警。
「駁杯」,用老竹的根莖部,切 二至五寸長,頭尾細中間粗,對半切 ,竹節越多越好。輕輕擲地有聲,有 清脆的響聲為佳。而傳統的「駁杯」 寸長,隱其五方五土土地長出之意, 多內實喻求簽人之節義分明,心誠意 實,非邪心詐術也。
杯每次擲下,二杯的內切面都向 ,稱「笑杯」或「陽杯」。
杯每次擲下,二杯的外表面都向 ,稱「陰杯」。
杯每次擲下,一杯內切面一杯外 面向上,稱「聖杯」或「勝杯」或「 杯」。
杯的內切面稱「陽」,杯的外表 稱「陰」。善信如用古銅錢或硬幣作 來求簽亦可,正面為陽,背面為陰。
求簽時,應摒棄雜念,誠心誠意 默禱事由,恭請神明指示,雙手奉杯 起,將二杯並合,輕輕擲下,即是一 杯,合掌謝過神靈之後,再拾取地下 杯,如是者三次得三駁即一簽。求簽 ,應跪拜謝神。
一. 三聖杯:上簽.郭子儀全祿.
福如東海壽南山,君爾何故苦 間?
富貴榮華天註定,太白貴人守 邊。
凡事大吉,暗勸世人.
二. 三笑杯:上吉.四皓八仙,十 學士.
風恬浪靜好行舟,高歌鼓舞樂 悠;
四皓八仙齊暢飲,十八學士登 洲。
功名大吉,出外大吉.
三. 三陰杯:下下.武則天坐天.
鬼門關上撞無常,破船更遇浪 風;
久遠冤家相羅網,運交吉時也 殃。
暗陰有財氣,光陽則不吉.
四. 聖聖笑:中平.孔子在陳.
啞子得夢事難言,瞎子穿針更 然;
九曲明珠穿得過,在陳絕糧全 賢。
凡事艱難,有貴人助.
五. 聖聖陰:上吉.王安石小登科
寶鏡團圓似月明,琴瑟和鳴暢 情;
紅杏枝頭春意鬧,登科一舉狀 名。
照時婚姻買賣大吉,初一至十五求大 .
六. 聖笑聖:中平.劉福妻勸夫.
葉落根深霜不怕,枯木逢春再 芽;
雖是中間多進退,錢財到底屬 家。
求財照時吉,事磨但終成.
七. 聖笑笑:中平.張飛義釋嚴顏
梅花凍雪抖芳菲,江上漁翁把 飛;
夜靜水寒魚不餌,滿船空載月 歸。
凡事平常,心誠運至.
八. 聖笑陰:上吉.劉秀興漢.
皇天降下紫微星,除妖滅怪得 寧;
二十八宿扶聖主,漢王家國再 興。
暗時星出大吉,凡事二次大吉
九. 聖陰聖:上吉.舜歷山耕田.
富貴總是天註定,五谷豐登勝 年;
共享太平歌舜日,含哺鼓腹樂 天。
凡事大吉,白天大吉.
十. 聖陰笑:中吉.呂蒙正破窯齊 .
鯉魚志氣本英雄,屈守池中運 通;
一旦崢嶸頭角現,風雲際會化 龍。
求財潮漲吉,出外風雨吉.
十一.聖陰陰:下下.韓信逼鐘離眛 刎.
白虎出山欲害人,魚入羅網難 身;
害人之心則害己,飛蟲撲火自 生。
宜守本份,謹防口舌.
十二.笑聖聖:中吉.太公遇文王.
太公釣魚八十秋,除商滅紂再 周;
民安國定太平日,江山萬裏任 遊。
凡事照舊,潮漲大吉.
十三.笑聖笑:下下.夷齊恥食周粟
魚在小澗生長難,深處安身淺 寒;
清冷香中抱膝吟,夷齊餓死首 山。
頭好尾衰,財氣趨淡.
十四.笑聖陰:中吉.釋迦,老君, 宗,梁紇.
釋迦幻化妙應身,老君拋送玉 麟;
真宗求嗣生太子,梁紇禱丘出 人。
誠信立世,有求必應,添油向 .
十五.笑笑聖:上吉.觀音渡眾生.
日上東方如火輪,十分光彩照 坤;
二十四氣盡清潔,一年四季太 春。
凡事大吉,日照大吉.
十六.笑笑陰:中平.朱壽昌棄官尋 .
一盞孤燈對面休,富貴錢財水 舟;
任他險處不見險,主人有福再 油。
凡事不須強求,向善即逢凶化 .
十七.笑陰聖:中吉.桃園結義.
三人各姓同一心,桃園結義情 深;
山中石頭皆是寶,運來都能變 金。
凡事人和,能成事業.
十八.笑陰笑:中平.程咬金遇赦.
囚人出禁上酒樓,暢飲寬杯解 頭;
勸君慎忍一時氣,非幹己事且 饒。
宜守本份,以退為進.
十九.笑陰陰:下下.梅妃的故事.
若要求財未得時,只恐鬼賊相 害;
關門閉戶家中坐,災禍偏從天 來。
遇事不吉,須防小人,防患災 .
二十.陰聖聖:中吉.蘇小妹答詩.
夫婦有意兩相求,綢繆未合各 愁;
心有靈犀一點通,天註姻緣不 憂。
逢春大吉,暗事大吉,凡事有 .
廿一.陰聖笑:中吉.七夕相會.
牛郎織女各天邊,阻隔銀河路 然;
百年富貴風前燭,一旦榮華雲 仙。
凡事無實,財氣五分.
廿二.陰聖陰:中平.後羿射日,嫦 奔月.
張弓射日總虛空,朽木難雕白 工;
平生常念千聲佛,作惡枉燒萬 香。
凡事慎言,事滿招損.
廿三.陰笑聖:中平.劉文定買父.
雷霆霹靂震虛空,天公差我察 凶;
積善之家有餘慶,積惡之家有 殃。
作事應隨運,求財遇春吉.
廿四.陰笑笑:中平.伏羲畫八卦.
伏羲八卦最精靈,六十甲子推 星;
暗虛虧心天地見,舉頭三尺有 明。
隱忍則善,靜以待時,夜求昌 ,財氣三分.
廿五.陰笑陰:下下.呂後害韓信.
昔日螳螂去捕蟬,豈知黃雀在 邊;
莫信他人直中直,須防心裡仁 仁。
凡事太險,謹防則吉.
廿六.陰陰聖:中平.三藏取經.
三藏取經往西天,路途險阻勞 賢;
雲橫秦嶺家何在?雪擁藍關馬 前。
凡事艱難,財運未到,忍以待 .
廿七.陰陰笑:中平.八仙過海.
八仙過海赴蟠桃,龍王降奪藍 和;
因貪玉皮動刀戰,慈心惟佛來 和。
凡事曲折,有貴人助,財運未 .
廿八.豎杯:衰簽.賽盧醫歹心害人
口占崑山玉,行人問吉凶;
勸君急退步,不久落坑中。
歹心作惡,天降橫禍.
香港紅碪福德古廟靈簽:
一 .聖聖聖:
三及禹門開,鯉魚變化來,東 西北路,直上雲天臺。
二 .聖聖陰:
一樹上好花,奇意早登科,千 松柏茂,何處不耕耘。
三 .聖陰聖:
啞仔雖有夢,有話亦雖言,好 終須至,失物勿慌忙。
四 .聖陰陰:
春天草木青,尼姑去採茶,得 君早起,吃往早回家。
五 .聖陽陰:
石船鐵欄杆,風吹不搖動,聽 好日子,勸君勿心忙。
六 .聖聖陽:
關公持寶刀,織女過銀河,朱 隨身走,船載蘇東坡。
七 .聖陽陽:
楊梅夜來開,朝夕早相遂,風 鐵馬響,衣錦轉回歸。
八 .聖陽聖:
智遠去投軍,千裏寄回文,做 烝相職,一十八年春。
九 .聖陰陽:
一字值千金,遂好須用心,關 騎赤兔,玉帶永隨身。
十 .陰陰陰:
勸人讀詩書,功名定有期,今 得成意,色雲乾採珠。
十一.陰陽陽:
半夜去尋金,想久枉費心,求 早未遇,請去別處尋。
十二.陰陰陽:
上高須用梯,失足踏不對,遇 貴人到,救起轉回歸。
十三.陰陰聖:
此簽第一春,萬事有乾坤,喜 婚姻好,做事不須文。
十四.陰陽聖:
雖然是太平,人閒心不閒,停 正是福,老少可安寧。
十五.陰聖陽:
月缺今團圓,古木再生枝,慢 進一步,福祿定有期。
十六.陰聖陰:
瞎眼去穿針,勞心亦勞力,求 有得過,退後歸南延。
十七.陰陽陰:
知足自然足,事到有大福,眼 未見利,便是亦勞碌。
十八.陰聖聖:
開山得見寶,買賣得利好,來 相有期,有起亦有倒。
十九.陽陽陽:
廟中一爐香,坐落細思量,勿 嫦娥女,鐵馬移過鄉。
二十.陽陽聖:
平地可跑馬,順水可行舟,龍 有變化,水活變成龍。
廿一.陽陰聖:
好事大家知,所做無不知,眼 可遂意,神明相扶持。
廿二.陽聖聖:
貴人相扶持,諸事甚有理,眼 未見利,退後正有喜。
廿三.陽聖陰:
玄德去帶兵,關公入古城,翼 相會面,三人一同行。
廿四.陽聖陽:
千年一古鏡,分明照人影,雖 好磨洗,衣舊正齊整。
廿五.陽陰陽:
信士來求神,未來神先知,諸 未得意,貪食禍就來。
廿六.陽陰陰:
西北有其方,見事未齊知,狂 一吹散,近前必有持。
廿七.陽陽陰:
天子賀新年,文武拜殿墀,殿 有歌舞,聲聲說團圓。
早期土地公簽卦:
一 .三聖杯:
卦曰:參宿星吉,君不用疑, 求稱遂,好大家知.
解曰:好花芳菲,未曾結籽, 風吹著,依舊和平,故事相同.
斷曰:訟吉事好,病可安,財 婚平,行人至,小兒有難但命大,應 宿.
二 .三笑杯:
卦曰:皎月掛雲,魚上水灘, 月戲魚,上下兩閒.
解曰:天地祥和,龍門方開, 名守得,好事自來,東風不順,祇於 州.
斷曰:訟平財無,病作福,行 至,孕男婚可求,有耕有收,應科應 信.
三 .三陰杯:
卦曰:女子不媒,通音就是, 陽對調,應有天意.
解曰:卦有異象,暗內穿針, 得小心,凡事莫急.
斷曰:訟凶財有,覓物不見, 平孕女,急作福,應一五十五頭兇尾 .
四 .聖聖笑:
卦曰:角聲三弄,無雪心寒, 君休慮,眷多驕蹇.
解曰:啞子得夢,前程阻擾, 人扶事,喜得平安,到老雙全.
斷曰:訟兇財平,行人止,婚 孕男,家宅安,應三六九.
五 .聖聖陰:
卦曰:亢宿金龍,行子醜宮, 身在未,且避他鄉.
解曰:缺月再圓,並蒂蓮開, 年寶鏡,故月重新,依舊成雙.
斷曰:訟吉財有,行人至,婚 孕女,月底吉,應二四八子醜日求財 吉.
六 .聖笑聖:
卦曰:昂戴日,炎焚茅,去雨 ,被他磨.
解曰:鑿石得玉,淘沙見金, 船過灘,前程有路,貴人扶持.
斷曰:訟平病難,行未至,婚 孕男,財有望,應月運.
七 .聖笑笑:
卦曰:奎星振興輪,汝且聽知 ,上看十一口,下看十八分.
解曰:勸讀書,功名遂,清雲 路,開山得寶,寬心待時.
斷曰:財無孕女,物自找,緣 終成,病作福,雞鳴大命無事,應季 .
八 .聖笑陰:
卦曰:畢竟風起,定招客驚, 高秋爽,還有月明.
解曰:人生志健,星宿相扶, 天動地,得水還襯,明月照舊,二次 吉.
斷曰:財有訟平,行未至,婚 孕女,諸事大吉,病占卦吉,應星月
九 .聖陰聖:
卦曰:虛心拜神,世事靈靈, 求稱遂,頗知汝情.
解曰:日月被雲遮,雲開依舊 ,前世婚緣,萬物生來.
斷曰:訟吉財無,行人至,凡 平隱,應一五七.
十 .聖陰笑:
卦曰:婁氏頭載米,身穿子路 ,人人道是,我且堪疑.
解曰:一時鯉魚變成龍,西京 路直透天,平安走馬,順利行舟.
斷曰:訟吉財有,宜有志,婚 孕男,宜作福應潮信.
十一.聖陰陰:
卦曰:胃腹調,睡一宵,在他 ,我無聊.
解曰:自食惡果,寒心鬼擾, 事雖成,不宜安身.
斷曰:訟兇病平,行人止,凡 兇險應時.
十二.笑聖聖:
卦曰:箕帚是掃泥,一朝便得 提.
解曰:身閒不閒蔔中知,知足 樂自有福.
斷曰:訟吉財有,事可成,婚 孕男,病可安,有耕有收,應潮信.
十三.笑聖笑:
卦曰:柳舞風,西又東,行人 ,作老翁.
解曰:萬裏家州好,作事虎問 ,饒人不可進,息人應自潔.
斷曰:訟平病兇,求財難,小 不吉,婚不成,凡事應季節,頭好尾 .
十四.笑聖陰:
卦曰:甘井泉,薰南風,呼童 ,上高峰.
解曰:逢事須心誠,自有貴人 .
斷曰:訟吉財有,仙人至,婚 孕男,病可安,應求者.
十五.笑笑聖:
卦曰:張舍出賢,流傳年年, 頭歸真,好事連綿.
解曰:前人栽果後人收,凡事 疑不可取,當時進步,退後難留.
斷曰:訟平財無,行人止,婚 孕女,病作福,晨散午後大吉應時.
十六.笑笑陰:
卦曰:鬥稱不公平,到底亦相 .
解曰:摘來錢財,如何得久, 傷和氣,且宜退後,多種善果,惡事 為.
斷曰:訟吉財無,行人至,凡 終成,婚不成應時.
十七.笑陰聖:
卦曰:翼風萬裏,志在雲霄, 雲忽起,異姓同驕.
解曰:志同道合能成事,開花 春喜氣揚,步步相宜,宅旺家興.
斷曰:訟兇病吉,行人至,財 婚好,宜祈福,事應月底大吉.
十八.笑陰笑:
卦曰:若要心頭快,青雲足下 .
解曰:好花冽雪裡,開時不遇 ,宜退不可進,宜守免災殃.
斷曰:訟吉病安,行可至,財 孕女,婚不成應月令.
十九.笑陰陰:
卦曰:心事未分明,又恐被鬼 ,細思猶難解,暗路失明燈.
解曰:人逢惡賊心存擾慮,雖 貴人徒勞開心,休貪他人馬,自失手 牛.
斷曰:訟平病兇,行人止,財 孕女,婚不遂,應五六七九,占此卦 .
二十.陰聖聖:
卦曰:頭尾相似,不寒不溫, 人覓宿,就近山村.
解曰:先取無長,後取無短, 事遲疑,眼前未遂,
日後遇時,雲開見日, 舊光輝.
斷曰:訟吉財有,行未至,婚 孕男,急病應時.
廿一.陰聖笑:
卦曰:星辰燦爛,河漢相通, 女相見,淚後西東.
解曰:牛郎識女難會,佳期好 難過,不可向前.
斷曰:訟平財無,病祈福,好 男,多折磨,應月令應七.
廿二.陰聖陰:
卦曰:危途千裏外,山水兩悠 .
解曰:他要進前,事有難言, 中得寶,醒後全無.
斷曰:訟兇財無,凡事空,病 孕女,婚不成,應作福.
廿三.陰笑聖:
卦曰:軫當未位,想不甘心, 有不合,依然自吟.
解曰:世事混沌沒定數,勸君 心莫嗟遲,
天高地低原有意,遠處晚 不勝情.
斷曰:訟兇財有,行人至,婚 孕男,凡事成,有種有收,應五六七 .
廿四.陰笑笑:
卦曰:牛飽眠,牧童前,人知 ,快如仙.
解曰:無私作事最開心,前路 阻必有因.
斷曰:訟平孕女,婚不成,財 病兇,急作福應,季節而行.
廿五.陰笑陰:
卦曰:鬼崇作殃,事要關防, 中走馬,四蹄盡傷.
解曰:往事勞傷,求財問事, 破人亡,食無求飽,居無求安.
斷曰:訟兇財失,凡事兇,婚 孕女,行人止應一五七.
廿六.陰陰聖:
卦曰:山中瑞草,摘取艱難.
解曰:凡事多磨,小船過河, 急灘險,往西無路,石頭粉碎.
斷曰:訟平財無,行人至,病 孕男,婚不好,應六七九.
廿七.陰陰笑:
卦曰:低頭偷看,暗想佳人, 君舌巧,恐未成親.
解曰:求財問事,退步回頭, 費心機,貪財人散.
斷曰:訟吉財難,行人止,病 婚未,孕婦負應潮信.
廿八.豎杯:
卦曰:嘴占碧玉,人知吉兇, 君退步,恐墮坑中.
解曰:神龍伐惡,吉者沒事, 人遭殃,天誅地滅,會有預兆.
斷曰:訟兇事惡,財免問,婚 孕絕,天行道全應.
http://blog.sina.com.cn/s/blog_59ceed650101h96v.html