-
Ông chánh bái ca công (Chủ trì lễ xây chầu) nhúng cành dương vào tô nước cầm trên tay vẩy ra xung quanh và đọc lời cầu nguyện: - "Nhất sái thiên thanh". (Trời thêm thanh bình)
- "Nhị sái địa linh" (Đất thêm tươi tốt)
- "Tam sái nhơn trường" (Người được sống lâu)
- "Tứ sái quỷ diệt hình" (quỷ dữ bị tiêu diệt).
( http://angiang.gov.vn/wps/portal/!ut...43f73e163173a4 )
-
-
-
-
* TOA THUỐC TIÊN CỦA THẦY NGÀY XƯA
Thăm hỏi các cụ già, thỉnh thoảng có cụ đi tiểu khó khăn, đi tiểu lắc nhắc nhiều lần, có khi bị bí đái luôn. Phải đi bác sĩ chuyên về Niệu khoa để xoi cho thông, đặt ống, hay giải phẩu tuyến tiền liệt (prostate) bị sưng lớn cản trở đường dẫn nước tiểu từ bàng quang ra. Bí tiểu cũng là chuyện rất khẩn cấp. Nếu không kịp gặp bác sĩ thông cho cũng có thể tử vong. Để ý tìm hiểu về việc nầy, tôi có đọc được một bài viết của cư sĩ Thái Huệ Sơn, thấy hấp dẫn và biết đâu một ngày nào chính mình hay ai đó có thể cần đến, nên tôi trích đăng vào đặc san nầy để các cụ khi cần thì dở ra tham khảo và áp dụng. Trích đăng chứ không thêm bớt, khi nào dùng thì nghĩ cũng nên tham khảo với các thầy thuốc Bắc chân chính.
BBT.
Sau đây là bài viết của tác giả Thái Huệ Sơn:
Tôi xin thuật lại cho bạn đạo nghe một chuyện khó tin mà có thật: Đầu năm 1990, tôi còn ở TP.HCM, được chính quyền CM cấp hộ chiếu (passport) cho cả gia đình sang định cư bên Mỹ theo diện HO. Lúc xong mọi thủ tục đợi ngày đăng ký chuyến bay lên đường, thình lình tôi bị cảm sốt. Tôi uống thuốc cảm hai ngày, cơn sốt không thuyên giảm mà lại biến chứng sang bí đái. Thế rồi bọng đái lói tức và sưng to lên như quả dừa. Tôi vội vàng đi khám bác sĩ chuyên môn về thận và đường tiểu. Bác sĩ Nam lên bệnh án tôi là u xơ tiền liệt tuyến (ulcère de la prostate), nên trị cho tôi bằng nhiều thứ thuốc trụ sinh. Qua nhiều ngày trị liệu, bệnh không thuyên giảm mà lại còn hành thêm.
Đường tiểu bế tắc hoàn toàn, cơn sốt không giảm. Tôi đi rọi quang tuyến X và siêu âm, kết quả vẫn là chứng u xơ tiền liệt tuyến.
Tôi đến bác sĩ chuyên khoa về thận và đường tiểu khác, bác sĩ Hùng, ông khuyên tôi nên đi vào bệnh viện giải phẩu gấp, nếu không thì sẽ nguy đến tính mạng. Tôi yêu cầu bác sĩ Hùng đút ống thông (sonde) lấy nước tiểu ở bọng đái ra. Nước tiểu lấy ra 2 lít rất hôi tanh. Làm sondage rồi tôi thấy dễ chịu, bớt sốt, nhưng vẫn còn bí đái và đau thốn bàng quang. Ngoài Âu dược uống vào liên tiếp, tôi còn áp dụng ngoại khoa châm cứu và đủ thứ thuốc Nam do thân nhân, bạn bè bày biểu, nhưng đường tiểu vẫn bế tắc. Hằng ngày tôi phải đến Bác sĩ Hùng làm sonde một lần để lấy nước tiểu ra. Bác sĩ Hùng đặt cho tôi một dụng cụ mang luôn vào mình để mỗi lần mắc tiểu mở nắp ra, khỏi phải làm thông thường xuyên, sợ trầy trụa trong ống dẫn nước tiểu và nhiểm trùng bàng quang. Dụng cụ đó gây cho tôi sự bực bội khó chịu, nên tôi gỡ ra. Hơn nửa tháng trời mà bịnh vẫn trầm trọng, tôi đành phải tính việc đi vào giải phẩu bệnh “u xơ tiền liệt tuyến”, để xin giúp đở nhập viện.
Bác sĩ Trí thấy tôi sắp gần ngày đi Mỹ, nên khuyên tôi rằng: “Bác nên đợi sang Mỹ rồi sẽ mổ, ở Việt Nam chẳng những thiếu thuốc men, mà hậu quả không bảo đảm cho bằng khoa giải phẩu tối tân ở nước ngoài. Vậy cháu cho bác một loại ống thông để bác về nhà mỗi ngày tự làm sonde lấy 2 lần hầu cầm cự đợi ngày đi Mỹ. Ngoài ra bác cứ uống thuốc liên tiếp may ra bệnh sẽ thuyên giảm.
Tôi áp dụng theo lời chỉ dẫn của bác sĩ Trí, tự làm thông lấy 2 lần để cầm cự. Bịnh không hành hung nhưng đường tiểu vẫn bế tắc.
Cùng đường tuyệt vọng, tôi van vái Trời/Phật. Bỗng nhiên một đêm nọ tôi hồi nhớ lại thầy tôi đã dạy khi xưa như sau:
-Tao cho mầy toa thuốc chủ trị bịnh “thận hư khí suy” để sau khi có bịnh lấy ra mà dùng, đừng lạm dụng thuốc tây mà nguy đến tính mạng. Ngày biên toa thuốc và còn có ký tên vào đó. Việc đó xảy ra năm 1942, gần 50 năm sau tôi mới nhớ. Tôi bèn lấy toa thuốc để trên bàn thờ van vái.
Sáng hôm sau tôi bảo vợ ra tiệm thuốc Bắc bổ luôn 3 thang đem về sắc cho tôi uống. Uống liên tiếp trong 3 đêm. Bỗng nhiên đêm nọ, khi mắc tiểu tức lói ở bọng đái, tôi đi tiểu tiện, thì tự nhiên đường tiểu thông trở lại. Tôi mừng quá, chẳng khác nào một cơ sở đóng cửa nghỉ việc lâu ngày, nay mở cửa hoạt động trở lại. Tôi mừng quá nhưng chưa dám vội tuyên bố. Hôm sau tôi bảo vợ hốt luôn 4 thang nữa về sắc cho tôi uống. Uống đủ 7 thang thì lành bịnh, sức khỏe phục hồi gần như bình thường. Tôi tuyên bố cho vợ tôi biết: Tôi được thuốc tiên mà qua khỏi cơn tử bịnh. Cả nhà tôi đều vui mừng hơn được vàng.
Tiếng đồn vang ra, bà con lối xóm tới thăm hỏi. Tôi thuật lại tự sự. Ai cũng lấy làm lạ và xin tôi sao ra cho toa thuốc để dành hộ thân, nhưng phải phóng ảnh để lấy được chữ ký của thầy tôi.
Tôi đến các bác sĩ chữa trị để báo tin bịnh tôi đã khỏi, không cần phải giải phẩu.
Họ đều ngạc nhiên. Có người lại nói:
“C’est incroyable”. (Thiệt không thể tin được)
Thật là khó tin mà là sự thật.
Khi tôi sang Mỹ rồi, vợ tôi gởi thư qua cho biết, có nhiều bạn đạo bị bịnh sạn thận, bí đái, bịnh viêm mũi, bịnh suy nhược, đến xin toa về uống, linh nghiệm phi thường. Hầu như toa thuốc trị bá bịnh, ai cũng cho là thuốc tiên.
Tôi nghĩ lại, người tu hành mà bị giải phẫu thì về sau khó tu lắm là vì cơ thể đã bị thương tổn rồi. Tôi nghĩ thương cho thân tôi, tôi nghĩ đến các bạn già như tôi, nếu gặp phải chứng bịnh như tôi mà phó thác cho Tây Y, lên bàn mỗ thì khổ biết bao, cho nên tôi viết ra bài nầy, và đăng lên bài thuốc tiên đã cứu bịnh cho tôi, để quí bạn đạo tùy nghi xử dụng khi cần. Toa thuốc nầy chuyên trị về bệnh “suy thận, hư khí” Và các biến chứng của nó. Kính mong giúp ích được phần nào cho quí bạn. Thái Huệ Sơn.
Toa thuốc bổ khí bổ thận:
1. Thục địa 3 chỉ
2. Hoài Sơn 3 chỉ
3. Trạch tả 3 chỉ
4. Đơn bì 2 chỉ
5. Táo Ngọc 2 chỉ
6. Phục linh 2 chỉ
7. Hắc Đổ trọng 3 chỉ
8. Ngưu tất 3 chỉ
9. Bạch truật 2 chỉ
10. Ngọc thung dung 3 chỉ
11. Táo nhơn 4 chỉ
12. Viễn chí 2 chỉ
13 Quảng bì 3 chỉ
14. Ngươn nhục 3 chỉ
15 Đản sâm 3 chỉ
16. Phấn thảo 2 chỉ
17. Câu kỷ 3 chỉ
18. Xích kỳ 2 chỉ.
Hết
-
* THIỀN NẰM hay THỞ NẰM XẢ TRƯỢC của Bồ Tát Quán Thế Âm
( http://quoctuan-yte.blogspot.com/201...oc-cua-bo.html )
I- Thiền Nằm hay Thở Nằm Xả Trược
của Bồ Tát Quán Thế Âm
Nghiêm chỉnh thực hành thì tốn lối 8 tới 10 phút cho mỗi lần tập, nhưng thường thì ngủ quên hoài. Lưu ý là người chưa khai mở huyệt Bách Hội ở trên đầu thì chỉ tập pháp nầy cho đến khi nếu bộ đầu bị đau nhức thường xuyên thì bỏ. Nghỉ một thời gian cho hết đau rồi lại tập tiếp. Nếu có một phương pháp nào tập kèm theo để khai mở Thiên Môn, hoặc giả có duyên nhờ được ai khai dùm cho, hoặc huyệt Bá Hội trên đầu đã lõm xuống, thì nên tập pháp nầy còn không thì ráng chịu đau đầu một chút. Khi bỏ thôi tập thì hết đau. Khi bộ đầu khai mở được rồi thì hết đau luôn. Ai cũng chịu khó khăn nầy, không kiếp nầy thì kiếp trước đây, dở rồi hóa hay. Chẳng ai sinh ra là thành Tiên hóa Phật liền đâu.
a)- Công dụng: Hóa giải điển trược và điển bịnh, cũng như Tà khí, độc khí trong bản thể (cho người có bịnh Tà). Thứ hai là điều hòa Tâm-thần, điều hòa nhiệt lượng nóng quá hay lạnh quá. Thứ ba là trị các bịnh bướu ngoại hay ung-thư nhẹ. Thứ tư là giải bịnh táo bón, cho tiêu hóa nhuận trường. Thứ năm là giải bịnh mất ngủ, khó ngủ. Thứ sáu người lớn làm được rồi thì chỉ cho trẻ con khi bị cảm, ấm đầu sổ mũi do thay đổi thời tiết. Nên uống một ly nước ấm rồi trùm mền lại kín mà tập nhiều vòng cho tới khi xuất được mồ hôi ra thì giải cảm. Mỗi ngày nếu chịu khó nhắc cho chúng tập vào trước mỗi bữa cơm, trước khi đi ngủ, khi mới thức dậy một thời gian thì chống được bịnh tật do thời tiết và người chung quanh lây sang, mới giữ hạnh phúc gia đình vững.
b) Kỹ Thuật Thở Nằm: uống một ly nước ấm trước khi tập nếu là mùa Đông còn Hè thì nước mát, đắp mền kín được thì càng tốt. Nằm duỗi tay chơn theo chiều dọc thân người cho thoải mái. Mắt nhắm lại, miệng ngậm lại bình thường, chỉ có đầu lưỡi co lên chân hàm răng trên. Hai tay thì bắt ấn Hỏa. Đây là phương pháp thở bụng nằm. Lúc đầu tiên phải duỗi chơn tay thẳng ra tập. Cho tới khi cảm thấy điện chạy xuống tỏa ra ở lòng bàn chơn được rồi mới bắt đầu co hai chơn dựng đầu gối lên như hình vẽ dưới đây để đem máu về bảo vệ hai cái thận.
c)- Cách đếm hơi thở: Hít hơi vô phình bụng, thở hơi ra xệp bụng, không cho ngực rung động. Hít vô thở ra xong đếm 1, hít vô thở ra đếm 2, đếm cho tới 12 nghỉ ở đây lối 5 hay 10 giây. Trong lúc nghỉ nầy giữ nguyên tư thế lúc đầu, tay vẫn bắt Ấn. Rồi tiếp tục hít vô thở ra đếm 1, hít vô thở ra đếm 2, đếm cho tới 11 lại nghỉ như vừa rồi. Bây giờ lại hít thở trở lại đếm tới 10 thì nghỉ, rồi đếm tới 9 nghỉ, 8 nghỉ, 7 nghỉ, và nghỉ xuống mãi tới 6, 5, 4, 3, 2, 1 là xong một lần tập. Còn thì giờ thì tập thêm nữa. Hơi thở phải nhẹ nhàng, không cố hít vô nhiều quá.
d)- Trạng thái xảy ra trong lúc tập:
Ai đã bị Thiêng Liêng vô ra phiền toái (có nơi gọi là Ma nhập hay Điển nhập, có người dựa hay thần kinh giả) mà muốn Tu thì phải cương quyết tập cho bằng được Pháp Thở nằm nầy thì mới mong họ để yên cho mà Tu Hành. Nếu ai ở trong hoàn cảnh nầy thì phải cương quyết lắm mới làm chủ lại được bản thể. Khuyên họ ra ngoài rồi cùng tu chứ không đuổi họ, nhớ phải độ cho họ mới xong. Hiện nhiều Pháp Tu khác cũng mượn Pháp nầy để thanh lọc bản thể trước khi Thiền. Tập đúng thì sẽ cảm thấy:
- Toàn thân chỗ nào cũng có thể xảy ra ngứa ngáy, hãy cố gắng trân người chịu đựng một thời gian sẽ quen vì đó là trược điển xuất ra, gãi sẽ làm chận đứng sự phóng trược, không nên gãi.
- Hình như có con gì bò bò trong người hay ngoài da, đó là Điển, nhân điện bắt đầu chạy, lúc đầu hơi khó chịu nhưng rồi quen dần.
- Có thể cảm giác như toàn thân nâng bổng lên khỏi nơi mình nằm cũng đừng sợ, đây là trạng thái điển trược của thể xác xuất ra, cứ niệm Phật hay Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát, hoặc cũng có thể niệm Chúa và Đức Mẹ để trấn an và tiếp tục làm công việc của mình cho tới khi xong.
e)- Cách bảo vệ cho hành giả:
Những cảm giác, những trạng thái làm bực mình trong thời gian công phu pháp nầy thì hãy niệm: “Nam Mô cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bố Tát” nhiều lần, một lát sau thì trong tâm được an ổn trở lại ngay mặc dù trạng thái đau nhức, khó chịu kia chưa biến mất. Cứ tiếp tục niệm như vậy rồi trong tâm mình sẽ xảy ra ý tưởng mới để biết sửa chữa như thế nào cho những sự khó chịu kia dang ra xa. Tuy nhiên bất cứ một phương pháp tập luyện nào của nhà Phật cũng đều lấy tịnh thắng động, và kiên trì ý chí tu học với một hạnh nguyện đem lợi lộc cho tha nhơn dù kẻ âm hay người dương, nếu mình thành công trong tương-lai.
Thế Gian Vô Nan Sự,
Chí Nhẫn Thành Kim Thị Thái Hòa.
Tại đây, kính chúc an lành để tập luyện từ 3, 6 tháng tới một năm sau hay lâu hơn nữa mới tiến lên việc kỹ thuật ngồi Thiền. Thời gian dài ngắn nầy là tùy nơi hành giả thanh lọc thân xác xong sớm hay muộn đó thôi.
Đừng nên dục tốc bất đạt. Chỉ cần cái Tâm muốn cãi sửa thì dù có ra đi bất thình lình thì trò bảo đảm là hưởng được ân huệ “Sống gởi thác về thiên giới” rồi chứ không phải lạc vào 4 đường ác đâu mà sợ. Tuy nhiên nếu hấp tấp luyện tập do cái Tâm Tham vọng động, vọng tưởng sớm thành tiên thành Phật này nọ kèm theo thì Mô Phật! Bà con chung quanh quý vị dẫn dắt quý vị theo họ chứ trò hoàn toàn không trách nhiệm. Thời đại ngày nay là Ma cường Pháp nhược, người hiền hay gặp nạn là vậy. Là do cái Tâm mình móng lên, dấy lên thì có người tới lo ngay, giúp ngay. Nhớ rằng: Cầu thì lụy, Cầu thì kỳ, kỳ cục đó.
-
-
BÀI GIẢNG
1. Khởi động thiền
Ở chương trình Trung cấp, khởi động Thiền là: mở mắt, hít vào bằng mũi, phình bụng, sau
đó thở ra từ từ, ép bụng lại, nhịp 1 – 1 từ ba lần trở lên (Thở 2 thì).
Đến chương trình Trung cấp tăng cường (Luân xa 8-9 Mạch Nhâm), khởi động Thiền theo
nhịp 1 – 4 – 2. Hít vào 1 nhịp, sau đó nín hít 4 nhịp rồi thở ra 2 nhịp, cũng làm từ ba lần trở
lên (Thở 3 thì).
Ở Chương trình Luân xa Cao cấp, khởi động Thiền theo nhịp 1 – 4 – 2 – 4, thực hiện từ từ
và êm ái (Thở 4 thì).
Cụ thể:
1 → 4 → 2 → 4
Hít vào Nín hít Thở ra Nín thở
(phình bụng) (thót bụng)
Giả sử thời gian của 1 nhịp là 5 giây, ta sẽ thở theo nhịp 1 – 4 – 2 – 4 như sau:
- Nhịp 1: Hít vào 5 giây
- Nhịp 2: Nín hít 5 x 4 = 20 giây
- Nhịp 3: Thở ra 5 x 2 = 10 giây
- Nhịp 4: Nín thở 5 x 4 = 20 giây
Tuỳ theo hơi thở ngắn hay dài mà ta quy định thời gian cho 1 nhịp thở của mình
(tính bằng giây).
2. Thiền
Chương trình Cấp III khi thiền có thể chọn tư thế ngồi hoặc đứng.
Khi bước vào Thiền, sử dụng Luân xa 6 như con mắt thứ ba, từ trên cao điều khiển thu
năng lượng vào các Luân xa:
LX7 (1’) → LX5 (1’) → LX4 (1’) → LX3 (1’) → LX2 (1-2’)
Thu năng lượng theo chiều dương giáng là chủ yếu (gần trời xa đất)
Luân xa 6 như con mắt thứ ba từ trên cao nhìn thấy rõ những dòng xoáy năng lượng kèm
theo ánh sáng rực rỡ đang được thu vào từng Luân xa mạch Đốc. Ta cảm thấy các Luân xa
nóng ran và độ quay của nó khi quán tưởng thu năng lượng. Mỗi Luân xa thời gian thu
từ 1 – 1.5 phút.
Tiếp theo, phát lệnh (kèm theo hít mạnh bằng mũi) thu năng lượng toàn thân, quán tưởng
một dải ánh sáng từ cằm qua Luân xa 7 chạy dọc cột sống xuống đến chân. Hai chân như
được đi bằng đôi ủng to ánh sáng, hai tay được đi bằng đôi găng tay to phồng ánh sáng.
Toàn thân như được úp trong một chiếc lồng năng lượng bằng ánh sáng. Chiếc lồng năng
lượng này mỗi lúc một lớn lên, rộng ra, căng phồng ánh sáng chói loà.
Từ cấp ba trở đi, động tác tập luyện mỗi ngày một gian khổ và khó hơn, đòi hỏi những ai bước
tới nên chuẩn bị cho mình một tư tưởng sẵn sàng, một niềm tin vững vàng và với sự kiên
trì, tập luyện nghiêm túc thì mới có hy vọng thành quả.
Luân xa 6 (huyệt Thiên Mục ở giữa trán) ở cấp học này sẽ được sử dụng một cách tích cực
trong khi Thiền cũng như để điều chỉnh bệnh từ xa. Nó khác với môn Khí công, người ta
sử dụng huyệt Khí Hải (dưới rốn) để phát công là chủ yếu. Đây là sự khác nhau cơ bản của
bộ môn Trường Sinh học Dưỡng sinh với môn Khí công các loại.
Trong quá trình Thiền, mắt có thể mở nhưng không nhìn vào đâu cả (vô vọng), cũng có thể
vừa ngồi Thiền vừa nghe giảng bài, nhận năng lượng tẩy từ Luân xa 6 của Thầy.
3. Xả thiền
Mục đích xả là đẩy trược chảy ra chân, giúp cho kinh mạch thông thoáng, khí huyết lưu
thông, bệnh tật lui giảm. Gồm các động tác:
- Hai tay ôm gáy, bịt tai. Nghĩ ra chân.
- Vuốt mặt, tai, cổ. Nghĩ ra chân.
- Vuốt tóc, chải tóc, vuốt đầu, tay. Nghĩ ra chân.
- Vuốt 2 vùng thận (sau lưng) qua hông. Nghĩ ra chân.
Nếu thiền đứng, bóp cho hết tê và ngồi xuống. Uống một cốc nước đầy.
4. Xả trược
Xả trược là một kỹ thuật đã được học từ chương trình Cấp II Mạch Nhâm. Trong chương
trình Cấp III chỉ giới thiệu thêm một số cách đơn giản để xả trược:
- Tư thế tay và chân gác lên nhau (như lớp Cấp II Mạch Nhâm) nhìn bằng Luân xa 6
các Luân xa, ý nghĩ dòng chảy ra chân. Thời gian xả như thiền, càng lâu càng tốt, bất kể
lúc nào có điều kiện. Cũng có thể nằm, tay nọ ôm khuỷu tay kia, bàn chân vắt vào nhau để xả.
- Tắm cũng là biện pháp xả trược tốt, nhất là dưới vòi hoa sen, nước có thể ấm hoặc
mát, dòng chảy từ gáy xuống lưng, đến chân.
- Thiền đứng xả trược rất nhanh và mạnh. Trường hợp bị TKG xâm nhập, đứng từ 1
đến 2 tiếng là hết.
Ngoài ra, có thể dùng sữa tươi (Vinamilk) cũng rất tốt, ngày dùng 1 hộp, liên tục 3
ngày. Sữa tươi có tác dụng đẩy xả các độc tố trong ruột ra ngoài. Khi đó có thể bị đi
lỏng, mùi phân rất khó chịu, nhưng sau đó sẽ cảm thấy thoải mái, nhẹ nhõm, thông kinh mạch.
http://violet.vn/trongkydth/entry/sh...ry_id/11298168
-
-
sư phụ chúng tôi cũng là người tu luyện về thâu năng lượng , nhưng ông cấm tuyệt đối đệ tử không được trị bệnh cho ai hết ,đó là việc từ bi ,mà người thường không thấy được nguyên lý này , bởi vì khi mình thiền 2 lòng bàn tay có 2 nguyệt lao , mở ra rất to , để thâu năng lượng ,nhưng rồi trị bệnh cho người khác ,khí bệnh của họ sẽ hút trở ngược vào người thầy ,thời gian dài khí bệnh của nhiều người tích lũy lên thân người [ thầy ] bệnh rất nặng ,không khéo sẽ nằm 1 chỗ như người thực vật , nếu muốn cứu họ , thì chỉ họ tự thâu năng lượng và tự trị cho mình thôi ,còn thầy trị cho họ ,nếu họ bớt hoặc hết thì đó là chỉ đẩy lùi căn bệnh , bệnh là do nghiệp ,mình tu luyện chân chánh ,mấy tiêu nổi nghiệp bệnh ,mà mình đi gánh nghiệp cho họ ,rất là nguy hiểm . chỉ có người khai công khai ngộ , viên mãn mới thấy ,và biết được việc này thôi ...... ,
( https://www.youtube.com/watch?v=WEx0_PYvaHA )
-
Nếu bạn có đi thì bạn nhớ ghé Hoàng Thần Tài 2,Địa chỉ:54 A Hoa Lan,,khu dân cư Phan Xích Long ,P.2,Q.Phú Nhuận hoặc cửa hàng Lạc Hoa,Địa chỉ: 382/77 Quang Trung, P. 10, Q. Gò Vấp, Tp. Hồ Chí Minh mua 1 cái khăn Khata trắng nha bạn! Ở Hoàng Thần tài 2 thì giá 1 cái khăn Khata trắng là 58.000 đ ,còn ở cửa hàng Lạc Hoa thì giá là 50.000 đ.Đó là truyền thống của người Tạng khi gặp các bậc đại đạo sư, khi gặp các Ngài thì bạn dâng khăn Khata này cúng dường các Ngài và các Ngài sẽ chú nguyện,ban phép lành vào chiếc khăn đó và bạn có thể mang về đặt trên bàn thờ Phật.Bên Tây Tạng họ nghỉ có nhiều khăn đã ban phước thì càng nhiều may mắn và dùng để tặng lại cho khách quý cũa họ đễ thượng lộ bình an & may mắn.
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...81-L%E1%BB%A2I
-
DUNG AN TỨC HƯƠNG ĐỂ THẤY QUÁN ÂM
Thứ 1 : bạn muống thấy quán thế âm bồ tát thì bạn cần phải khai nhãn . ( Muống khai nhãn thì cần phải tu tâp trì chú bát nhã ba la mat đa tâm kinh 108 lần 1 ngày , nếu để sớm thấy được bồ tát bạn phải trì chú liên tục trong 7 ngày mổi ngày 3 lần mổi lần 1080 biến )
Thứ 2 : trước khi bạn đốt hương an tất bạn phải trì 108 biến đại bi chứ không phải 21 biến đại bi đâu .sau sau khi tri chú đai bi xong ban phải đọc thần chú quán âm linh cảm 108 biến . Thì bạn mới thấy được . Còn không thì quán âm chỉ có thể dùng thiên nhãn để quán xét bạn thôi . .....
Có một cách để thấy quán âm dễ hơn đó là sau mổi thời chú đại bi bạn trì tụng . Thì bạn nên phát nguyện ( Nguyện cho con trong lúc ngủ vả lúc con ngồi thiền , con được bồ tát đến thuyết pháp cho con nghe , dạy con cách tu hành thành chánh đẳng chánh giác .)
Dấu hiệu có sự linh ứng của quán âm bồ tát đến
1 Nước uốn cúng bồ tát có vị ngọt ( nên kiểm trứng bằng cách lấy nước giếng chưa đun cúng bồ tát vì nước giếng có mùi hôi phèn ) .
2 Có mùi hương thơm thoang thoảng khác với mùi nhan bạn dùng .
3 Thân và tâm bạn rất là an vui .
4 Toàn thân bạn mát mẻ và nhẹ nhàn .
5 Trên chán của bạn có một cảm giác như bị ai đó ấn tay lên giửa chặn hai bên chân mày .
6 Khi lập đàn cúng bạn nên đóng cửa trong và ngoài thì sẻ thấy gió thổi mát và 2 cây đèn cầy muốn bị tắt vì gió thổi . ?( Dùng đèn dầu là thấy rỏ nhất )
Đây là điều mình nhận thấy khi lập đàn cúng quán thế âm .
Nhớ là không làm việc ác trong khi và trước khi cúng quán âm .
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...-Tức-Hương
https://lotusleanh.blogspot.com/2016_11_01_archive.html
-
-
-
-
CHỮA ĐAU NHỨC XƯƠNG KHỚP TỪ CÂY ĐINH HƯƠNG
Đinh hương còn có tên khác là cống đinh hương, đinh tử. Lá mọc đối, hình bầu dục nhọn, phiến lá dài. Hoa mọc thành xim nhỏ chi chít và phân nhánh ở đầu cành. Vị thuốc giống như chiếc đinh, lại có mùi thơm nên đặt tên đinh hương.
Hoa gồm 4 lá đài dày, khi chín có màu đỏ tươi, 4 cánh tràng màu trắng hồng, khi nở thì rụng sớm, rất nhiều nhị. Quả mọng dài, quanh có các lá đài, thường chỉ chứa một hạt.
Cây nụ đinh.
Cây mọc hoang trong rừng hoặc được trồng để thu hoạch hoa làm gia vị và làm thuốc trị nhiều bệnh. Bộ phận dùng là nụ hoa, nụ thơm chứa nhiều tinh dầu có màu hơi vàng nâu, có độ rắn là tốt. Đinh hương được sử dụng làm gia vị trong chế biến thức ăn trong nhiều nền văn hóa ẩm thực. Trong nấu ăn đinh hương được dùng ở dạng nguyên vẹn hay nghiền thành bột và tạo mùi rất mạnh nên chỉ sử dụng ít cho mỗi lần chế biến các món ăn.
Theo quan niệm y học cổ truyền đinh hương có mùi thơm, vị cay, tính ôn, đi vào các kinh phế, tỳ, vị và thận. Có tác dụng ôn trung (ấm bụng), noãn thận (ấm thận), kích thích tiêu hóa, chỉ huyết.
Một số bài thuốc từ đinh hương:
Bài 1: Chữa đau nhức xương khớp do thời tiết: Đinh hương 20g, long não 12g, rượu trắng loại cao độ 250ml, hàng ngày lắc cho đều thuốc, ngâm trong 7 ngày liền. Lấy thuốc xoa bóp nơi khớp đau nhức, ngày 2 lần.
Dược liệu đã sơ chế.
Bài 2: Sát khuẩn chân răng, chữa sưng đau răng do viêm: Đinh hương, xuyên tiêu mỗi vị 20g, tán bột mịn, bôi hàng ngày nơi đau.
Bài 3: Trị chứng viêm loét miệng: Đinh hương 5g, tán bột mịn, cho ít nước sôi để nguội cho ngấm đều thành nước sền sệt (sau 3 giờ). Dùng tăm bông chấm vào nước thuốc này bôi vào nơi viêm. Hàng ngày cần súc miệng nước muối loãng nhiều lần, chữa liền 5 ngày.
Lưu ý: Phân biệt nụ đinh hương với hoa cây nụ đinh là loại bé hơn, không thơm, khi khô đầu nụ teo lại. Những người hư hàn thì không nên dùng.
Bác sĩ Nguyễn Hữu Nam
http://baithuochay.net/mobile/?bai-t...oc&p=541&.html
-
ĐINH HƯƠNG – CHỮA KHỚP, XUẤT TINH SỚM
Trong y học hiện đại cũng nhận thấy đinh hương có tác dụng dược lý khá phong phú như có khả năng ức chế sự phát triển của các vi khuẩn lỵ trực trùng, thương hàn, phó thương hàn, bạch hầu, than, E coly, tụ cầu vàng, chống viêm loét đường tiêu hóa, kích thích tiết dịch mật, dạ dày nên thúc đẩy tiêu hóa, giảm đau, chống viêm…Để áp dụng và tham khảo, sau đây Thảo Dược Sinh Phương xin giới thiệu những phương thuốc trị liệu từ đinh hương.
Đinh Hương Vị Thuốc Quý
Đinh Hương Vị Thuốc Quý
Theo Đông y đinh hương có mùi thơm, vị cay, tính ôn, đi vào các kinh Phế, Tỳ, Vị và Thận. Có tác dụng giáng nghịch, ôn trung (ấm bụng), noãn thận (ấm thận), kích thích tiêu hóa. Chủ trị nấc cụt, hoắc loạn, thổ tả, đau bụng, răng lợi đau nhức… khi sử dụng chín có tác dụng chỉ huyết.
Đinh Hương có tên khoa học Syzygium aromaticum (L) merret perry thuộc họ sim (Myrtaceae). Tên thuốc Flos caryophylatac.
Mô tả :
Cây Đinh Hương thường xanh có thể cao tới 10-20m, các lá hình bầu dục lớn, các hoa màu đỏ thẫm mọc thành cụm ở đầu cành. Các chồi hoa ban đầu có màu xanh nhạt, dần dần trở thành màu lục, về sau phát triển thành màu đỏ tươi cũng là khi hoa có thể thu hoạch. Các hoa được thu hoạch khi chúng dài chừng 1,5-2cm, bao gồm đài hoa dài, căng ra thành 4 lá, đài hoa cũng 4 cánh hoa không nở tạo thành viên tròn nằm ở trung tâm, như vậy khi phơi khô hoa trông giống cái định nhỏ mùi rất thơm, có lẽ vậy mà được đặt tên là Đinh Hương.
Phân Bố:
Cây Đinh Hương là loại cây xanh mọc hoang trong rừng hoặc được trồng để thu họach hoa làm gia vị và làm thuốc trị nhiều bệnh. Đinh hương có nguồn gốc từ Indonesia và Madagascar, còn trồng nhiều tại Zanzibar, Ấn độ, Srilanka…
Chú ý không dễ nhầm nụ đinh hương với hoa cây nụ đinh (Ludwigia prostrata Roxb) là loại bé hơn, không thơm, khi khô đầu nụ teo lại.
Nụ Đinh Hương
Nụ Đinh Hương
Bộ phận dùng: Nụ hoa, nụ thơm chứa nhiều tinh dầu có màu hơi vàng nâu, có độ rắn là tốt.
Vị thuốc bài thuốc trị liệu từ Đinh Hương:
– Trị chứng xuất tinh sớm: Đinh hương 20g, tế tân 20g, cho cả hai vị ngâm trong 100ml rượu trắng có 75% độ cồn trong nửa tháng là được. Lấy dung dịch này xoa lên đầu dương vật trước khi hành sự chừng vài phút.
– Trị bệnh khớp: Đinh hương 20g, long não 12g, cồn 90 độ 250ml, ngâm trong 7 ngày liền, lọc bỏ bã. Lấy bông thấm thuốc xoa bóp nơi khớp đau nhức, ngày 2 lần.
– Trị sưng đau chân răng: Lấy Đinh hương và xuyên tiêu có lượng như nhau, tán bột mịn cùng ít băng phiến rồi trộn ít mật ong để bôi hằng ngày chỗ đau.
– Trị chứng viêm loét miệng: Lấy Đinh hương 5g, tán bột mịn, sau đó ngâm với nước sôi nguội sau 4 giờ thì dùng được. Dùng tăm bông chấm vào dung dịch này bôi vào nơi viêm.
– Trị hôi nách: Đinh hương 18g, hồng thăng đơn 27g, thạch cao 45g, tất cả tán thành bột thật mịn, sau đó cất trong lọ kín dùng dần. Mỗi ngày lấy một ít bôi vào nách và cần làm liền trong 5 ngày.
– Trị viêm xoang, hơi thở hôi, hắt hơi, sổ mũi: Dùng đinh hương bọc vào bông, thỉnh thoảng nút vào mũi.
– Trị đi lỏng: ĐH 30g, xa tiên tử sao 20g, tất bạt 10g, hồ tiêu 5g, nhục quế 5g, tất cả tán bột mịn rồi đựng trong lọ kín; mỗi lần lấy 100mg bột thuốc hoà với nước đắp vào rốn, dùng băng cố định lại. Cứ 1-2 ngày thay thuốc 1 lần.
Hoặc: Đinh hương 5-10 g, nhục quế 4-6 g, mộc hương 5-10 g, tất cả tán thành bột mịn, đắp vào rốn. Hoặc: Đinh hương 3 g, sa nhân 6 g, bạch truật 12 g, tán bột, uống mỗi lần 2-4 g, ngày 2-3 lần.
– Viêm nhiễm đường hô hấp, viêm mũi, xoang: Dùng tinh dầu đinh hương, tinh dầu bạch đàn, menthol, trần bì, hạt mùi, natri carbonate, acid citric, tất cả trộn đều làm hoàn to. Mỗi lần lấy 2 – 3g để xông họng hoặc hòa vào nước ngậm và súc để các chất tinh dầu bốc hơi lên xoang, họng, mũi.
– Nấc, nôn do hư hàn: Dùng Đinh hương, thị đế, nhân sâm, sinh khương, mỗi vị đều 9g, sắc lấy nước uống ngày 2- 3 lần. Hoặc lấy đường trắng 250g, cho chút nước vào đun. Gừng 30g giã nát. ĐH 5g cho vào đun đến khi trở thành keo sờ tay không dính là được. Tất cả đổ ra khay có thoa dầu lạc, đợi nguội cắt thành 50 miếng nhỏ. Mỗi ngày ăn một vài miếng sau bữa ăn cơm.
– Trị liệt ruột cơ năng: Đinh hương 30-60g, tán bột mịn trộn với rượu mạnh hoặc nước rồi đắp vào vùng rốn rộng chừng 6-8cm, lấy băng dính đính giữ. Hoặc dùng Đinh hương, mộc hương, nhục quế, xạ hương tán bột băng rịt vào rốn.
– Thổ tả: Đinh hương 2 nụ, rượu vàng 50 ml, cho vào chén hấp cách thủy trong 10 phút, sau đó bỏ bã uống rượu.
Lưu ý: Không dùng đinh hương phối hợp với uất kim (nghệ). Kỵ lửa hay chứng bệnh không thuộc hư hàn thì không nên dùng.
http://thaoduocsinhphuong.com/dinh-huong/
-
-
‘A Prayer To Mother Earth’:
samudra-vasane devi/ parvata-stana-mandite
visnu-patni namas tubhyam/ padasprsam ksamasva me
‘Oh, Mother Earth, I offer my humble obeisances to you, who are the wife of Lord Visnu and the residence of the oceans, and who are decorated with mountains. Please forgive me for stepping on you’
https://mukundacharan.wordpress.com/2011/05/
-
BÀN THỜ PHẬT ĐƯỜNG
1. Kỵ tường và sàn nhà màu hồng.
2. Vách tường nên màu trắng sữa, màu vàng kem là tốt.
3. Không nên thờ quá nhiều thần tượng, quá phức tạp, chủ lòng không yên.
4. Bàn thờ nên đơn giản trang nghiêm chất phác.
5. Mỗi ngày nên dùng khăn khô sạch lau bàn thờ sạch sẽ.
6. Vào mồng một, rằm hàng tháng nên dọn chân nhang trong lư hương một lần.
7. Khi lau dọn, lư hương không được di chuyển.
8. Thần vị nên đặt ngược dòng nước chảy.
9. Thần vị không nên đặt xuôi dòng nước chảy.
10. Độ cao tượng thần không hạn chế, thành tâm là được.
11. Phía trước thần vị kỵ sung cột.
12. Phía trước thần vị kỵ sung góc nhà người khác.
13. Phía trước thần vị kỵ sung tháp nước người khác.
14. Phía trước thần vị kỵ sung cây cột điện.
15. Phía dưới thần vị kỵ đặt TV.
16. Phía dưới thần vị kỵ đặt tủ lạnh.
17. Phía dưới thần vị kỵ đặt các loại rượu.
18. Phía dưới thần vị kỵ đặt ghế - không ổn định.
19. Phía dưới thần vị kỵ đặt đồ dơ bẩn, ô uế.
20. Phía trên thần vị kỵ bị đà đè.
21. Bên phải thần vị nên tịnh, không nên động.
22. Trước mặt thần vị kỵ đặt TV chiếu thẳng.
23. Phía trước thần vị kỵ treo quần áo.
24. Bên trái, phải thần vị kỵ sung đường cửa.
25. Phía trước mặt thần vị kỵ sung đường cửa.
26. Phía sau thần vị kỵ sung bàn cầu của nhà cầu.
27. Thần vị đừng hướng ngay miệng lò gas.
28. Ánh sáng thần vị nên sáng sủa.
29. Đèn thần vị nên sáng quanh năm.
30. Đèn thần vị không nên tắt.
31. Phía trước thần vị kỵ sung với bảng hiệu màu đen.
32. Thần vị không nên ở sân thượng nóng gắt.
33. Thần vị tốt nhất nên tiếp xúc với người nhiều.
34. Độ cao thần vị nên hợp với thước Lỗ Ban chữ “Tài”, hoặc chữ “Bổn” là tốt.
35. Bàn thờ không phải quá phú lệ hoa quý.
36. Bàn thờ luôn giữ sạch sẽ không cần phải xa hoa.
37. Thần vị không cần thiết đặt ở lầu cao nhất.
38. Trước thần minh đừng mặc quần áo lót đi qua đi lại.
39. Độ cao lư thần minh 5.5 tấc là lành.
40. Lư thần minh cứng rắn không dể vỡ là tốt.
41. Trước lư thần minh tốt nhất dán giấy đỏ tròn.
42. Độ cao bàn thờ nên ở thước Lỗ Ban “Tài”, hoặc “Bổn” là tốt.
43. Độ cao thần minh không hạn chế, trang nghiêm thì được.
44. Tượng thần minh không hẳn chất gỗ mới tốt.
45. Tượng thần minh bằng sứ, đồng đều được.
46. Tượng thần vẽ cũng được, cần nhất là thành tâm.
47. Thần vị dùng giấy đỏ viết tên thần thờ phụng cũng tốt, thành tâm là trước hết.
48. Tượng thần nên trang nghiêm đoan trang, mặt rõ ràng là tốt.
49. Thờ phụng thần tượng đừng quá nhiều, không thì ba lòng hai dạ không cát lợi.
50. Thờ phụng nên hiểu biết rõ về sự tích lịch sử của thần trước.
http://hunyuan.tw/?disp=ggzhouse&language=VNM&page=27