http://lianhuajoe.blogspot.com/2011/...ddisattva.html
Printable View
BÀI VĂN TẾ MẪU: VĂN TẾ THÁNH ĐỊA LÝ TẢ AO
Leave a reply
VĂN TẾ THÁNH ĐỊA LÝ TẢ AO
Duy: Duyên nay tại nước Việt Nam, tỉnh Hưng Yên, huyện Ân Thi, xã Đặng Lễ, thôn Nam Trì. Nay tiết… Trọng Hạ, ngày 29 tháng 6 – húy nhật đức Phúc thần Thánh Địa lý Tả Ao, Vũ Văn Điền cùng toàn thể Thái ông Lão bà, Nam phụ Lão ấu, Cấp ủy Chính quyền, Cơ quan Đoàn thể, Nhân dân Phật tử, Thiện tín gần xa Chúng con thành tâm sắm sửa Trai duyên, Tịnh cúng phỉ nghi kính cẩn dâng tấu.
Cung duy: Đức Phúc thần Thánh Địa lý Tả Ao do Tinh tú Trời đất tạo thành, do Linh khí Núi sông hội tụ, bởi Nhật nguyệt sáng soi nên có. Sống hiển vinh Sự nghiệp; hóa Anh linh Phúc thần.
Thiết niệm: Tróc Long tầm huyệt, Phúc họa húc thủ trì, Nhãn thấu Địa thâm, Ngũ thổ Ngũ phương Địa thế Thủ cúc. Anh nghị Thông duệ, Chính trực Trung hòa. Lịch đại Nhân dân tôn sùng, Hương thôn phụng sự. Lịch triều thường hựu Duyên khánh Hiển linh, Khai sáng Lê dân, Hóa phù Âm phúc, Diễn tường Tập khánh, Tế dân Lợi vật, Thiết lập Hương thôn; Hồng huân tạo Từ, Mậu đức tôn hậu.. Quả thực xứng danh: Thánh tổ Thánh sư, Thủy tổ Địa lý, Phong thủy Chính tông, Thần y Danh y – Bản cảnh Thành hoàng Đại vương..
Kính dĩ:
– Nhị vị Thượng đẳng Phúc thần: Trung Thiên Bảo quốc, Trung lang Tế thế – Linh phù Linh chiếu Trung thiên – Dực bảo Trung hưng Đại vương. (vái)
– Phúc thần Thánh Chủ tịch Hồ Chí Minh.
– Phúc thần Phù Nham bá, Thượng đẳng Đại vương .
– Tam vị Trung đẳng Thần Trai tĩnh Trinh uyển Dực bảo Trung hưng Lâu lương, A Lự, Lữ nương Công chúa Phu nhân Tôn thần. Cẩn cốc. (vái)
Chư vị Đại vương: Gương sáng Thiên cổ, Anh liệt khí quân, Anh hào Nhân kiệt, cứu nước dân giúp, vạn thế lưu danh, muôn đời tưởng nhớ.
Nhân duyên hòa hợp: Nam Trì có bậc Thần minh linh ứng. Trượng phép màu nước thịnh dân yên, vun gốc Đức làng xóm yên vui. Hơn nghìn năm gia trì cùng muôn thủa ủng hộ. Thế chim Phượng hoàng ngậm thư, đuôi Rùa vàng, rốn Rồng tạo nên đất quý. Hành cung xưa, Vọng lâu đình Ba xã hội về. Nam Trì đất cổ linh thiêng là nơi hồ ao, gò đống, 3 sông giao hội, thuỷ tụ khê lưu, chảy vòng chín khúc như Câu đối của đức Thánh địa lý và bức Đại tự cổ tại đền cổ Nam Trì mô tả: Tây lộ khê lưu kim tại hậu – Đông giang thuỷ tụ mộc cư tiền; Thiên Nam Trì thuỷ sơn hà đới – Địa Bảo Tàng hương bích Ngọc Khê. Xóm làng lại có bậc Anh linh gia hộ. Các vị Đại vương từ cổ chí kim vẫn luôn soi sáng dẫn đường. Nhờ vậy cho nên: Thôn xóm thuận hòa, Nhà nhà an vui, Người người hạnh phúc, Cảnh vật phồn hoa.
Văn tế tuyên ngày …10, tháng 8 năm Đinh Dậu. Toàn dân chí thành Phụng sự.
This entry was posted in Uncategorized on Tháng Chín 21, 2017.
VĂN TẾ LIỆT SĨ VIỆT NAM CHIÊU HỒN LIỆT SĨ VIỆT NAM 4000 NĂM CÁC THẾ CÁC ĐỜI
Leave a reply
(Nếu không có nhiều thời gian thì tùy theo Đàn lễ và các Nghĩa trang mà đọc theo từng phần của Văn tế. Phần mở đầu và phần VI. phần VII. thì bắt buộc)
Nam mô A Di Đà Phật. (3 lần)
Hỡi! Hỡi các chư Chân linh Anh hùng Liệt sĩ
… thôn…Xã…huyện…tỉnh…(nghĩa trang)… đã hy sinh anh dũng vì nước vì dân
Hỡi! Hỡi các chư Hồn Liệt sĩ Việt Nam các thế, các đời!
ooo
CA NGỢI TRUYỀN THỐNG CHA ÔNG CHỐNG NGHÌN NĂM BẮC THUỘC:
Đất nước ta bao phen binh lửa – Chống ngoại xâm phương Bắc nghìn năm
Biết bao thế hệ anh hùng – Bảo vệ bờ cõi biên cương vẹn toàn.
Bốn nghìn năm buổi đầu dựng nước – Giặc Bắc phương đã đến xâm lăng
Hùng vương thứ 6, giặc Ân – Cậu bé Phù đổng đánh tan quân thù.
Trước Công nguyên đội quân Tây hán – Lần thứ 2 xâm lược Lĩnh Nam
Vua tôi quyết chẳng đầu hàng – Nam Việt bách tính đồng lòng đứng lên
Quyết không để Bắc phương dày xéo – Tướng Lữ gia kháng chiến dài lâu
Bể xương Cắc cớ còn đây – Nam việt vang mãi mai sau anh hùng
Rồi khởi nghĩa bà Trưng, bà Triệu – Phận Nữ nhi quét sạch ngoại xâm
Lĩnh Nam chiến thắng lẫy lừng – Nam Việt một cõi trùng trùng non sông.
Nam Bắc triều lại sang xâm lược – Nhà tiền Lý nối gót tiền nhân
Dựng cờ quốc hiệu Vạn Xuân – Phạm Tu, Lý Bí nhất tâm chống thù
Nước Lâm ấp phía Nam gây chiến – Quân dân ta lại quyết một lòng
Bảo vệ bờ cõi non sông – Giặc kia lại cũng mấy phen hãi hùng.
Lần thứ 3 chống quân phương Bắc – Mai Thúc Loan quyết đánh Tùy, Đường
Phùng Hưng hùng cứ 1 phương – Nối tiếp kháng chiến, Bắc phương tan tành
Khúc Thừa Dụ đến Dương Đình Nghệ – Khởi nên nền Tự chủ dài lâu
Phục hưng độc lập buổi đầu – Nghìn năm phương Bắc từ đây ngó nhìn.
Rồi Nam hán lại sang xâm lược – Vua Ngô quyền tiếp bước Cha ông
Cọc ngầm dưới sóng Bạch đằng – Bè lũ phương Bắc sông xanh máu đào.
Trận Bình Lỗ, Chi Lăng chặn giặc – Lê Đại Hành tiếp nối nhà Đinh
Hai lần chiến thắng Bạch Đằng – Đánh tan Đại Tống xâm lăng cõi bờ.
Lý Thường Kiệt, Ung Châu đánh chặn – Đập tan tành ý chí xâm lăng
Tuyên ngôn độc lập nghìn năm – Bài thơ bất hủ vang danh nghìn đời
Các vua Lý bảo toàn bờ cõi – Giữ vững nền độc lập bao năm
Chiêm Thành, Chân Lạp nát tan – Tổ quốc bền vững vinh quang bao đời.
Nhà Trần tiếp nối ngôi nhà Lý – Ba lần đánh tan tác Bắc phương
Bạch đằng máu đỏ thành sông – Nguyên Mông Thế chủ ống đồng tháo thân
Nhà Hồ, giặc Minh sang xâm lược – Lần thứ tư phương Bắc xâm lăng
Bốn phương tụ hội anh hùng – Lê Lợi khởi nghĩa giữa rừng Lam sơn.
Cùng Nguyễn Trãi, nhân dân quyết đánh – Không cho giặc đồng hóa dân ta
Chi Lăng, Xương Giang bốn bề – Đánh cho lũ giặc thảm thê ê chề
Vua Quang Trung cờ hồng, áo vải – Cùng dân ta Đại phá quân Thanh
Giặc Xiêm xâm lược tan tành – Thống nhất bờ cõi sang trang sử vàng.
ooo
CA NGỢI LIỆT SĨ CHỐNG PHÁP:
Rồi giặc Pháp bắt đầu xâm lược – Dân ta bị kìm kẹp lầm than
Cháu con kế tiếp cha ông – Chống Tầu, Pháp, Nhật quang vinh ngọn cờ
Các vua Hùng có công dựng nước – Thế hệ sau nối bước Tổ tông
Phong trào Nam Tiến, Hoàng Ngân – Chống Pháp đô hộ trăm năm khởi đầu.
Buổi ban đầu trường chinh kháng chiến – Các Sĩ phu khởi nghĩa đánh Tây
Quyết đuổi Đế quốc xéo dầy – Hôm nay máu đổ, mai ngày tự do.
ooo
Không kể gì gái trai già trẻ – Bộ đội, du kích với dân công
Súng đạn, gậy gộc dao gươm – Quyết tâm giết giặc toàn dân một lòng.
Đất Hưng Yên cây đa La Tiến – Hơn một nghìn chiến sĩ hy sinh
Cắt cổ, mổ bụng, moi gan – Bêu thây, treo xác bạo tàn Thực dân
Nữ Du kích Hoàng Ngân thuở ấy – Kẻ thù kia tra tấn dã man
Chết mà thân chẳng vẹn toàn – Nghìn năm bia miệng anh hùng Nữ nhi.
Ngục Hỏa Lò, Sơn La, Côn Đảo – Khám Chí Hòa tù ngục tối tăm
Vạn chiến sĩ bị giam cầm – Kiên trung bất khuất thực dân bạo tàn.
Quân giặc kia trăm mưu, nghìn kế – Bao nhục hình của lũ thú hoang
Dù cho thịt nát, xương tan – Vẫn giữ khí tiết hiên ngang đến cùng.
ooo
Hồ Chủ tịch phất cờ kêu gọi – Võ Nguyên Giáp Đại tướng dẫn đầu
Chư Hồn hưởng ứng tiếp sau – Chín năm Kháng chiến bể dâu máu đào.
Khắp cả nước Quân dân một dạ – Cuộc trường chinh giành lại non sông
Đạn bom khói lửa chiến trường – Xông pha trận mạc coi thường tấm thân.
Bỏ tất cả lên đường đánh giặc – Lòng quyết tâm đuổi hết kẻ thù
Ra đi son sắt lời thề – Đất nước còn giặc không về quê hương
Toàn quốc kháng chiến năm bốn sáu – Mở màn cho kháng chiến lâu dài
Đô thị ở khắp mọi nơi – Đánh cho giặc Pháp tơi bời tháo thân.
Hà Nội 10 đội quân Cảm tử – 100 anh hùng Quyết tử viên
Tự vệ hay Vệ quốc quân – Trấn thủ, khăn đỏ, ôm bom ba càng
Lao thẳng vào xe tăng quân địch – Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh
60 ngày địch hãi hùng – Lễ truy điệu sống hy sinh quật cường.
ooo
Rồi Chiến dịch Thu Đông Việt Bắc – Yên Bình xã, Nghĩa lộ, Vê ga
Xuân Đai, Quốc lộ số 3 – Đông Bắc, chiến dịch phá tề Thuỷ Nguyên
Đường số 4, phá tề 9 tỉnh – Cao Bắc Lạng, Đông Bắc, Đông Xuân
Lào – Hà, Thập vạn Đại sơn – Tây Bắc Liên huyện, Thao giang, sông Đà.
Rồi Chiến dịch Quảng Nam Đà Nẵng – Lê Lai ở Quảng Trị, Quảng Bình
Sông Thao, sông Mã, Hòa Bình – Khánh Hòa, Bến Cát, Cầu Ngang, Cầu Kè
Chiến dịch Lê Hồng Phong, Cao Lãnh – Phan Đình Phùng, Hoàng Diệu, Trà Vinh
Bến Tre, Đắc Lắc, Sóc Trăng – Chiến dịch Biên giới Thu đông đuổi thù.
Khởi đầu trận sông Lô vang dội – Rồi La Ngà, Cốc Xá, Đông Khê
Rồi Trần Hưng Đạo, Trung du – Tiếp đến chiến dịch Châu Hà, Quang Trung
Hoàng Hoa Thám, trên đường 18 – Lý Thường Kiệt, Lội nước Thủy ngân
Bao nhiêu trận đánh anh hùng – Quân thù khiếp vía, vang lừng chiến công.
Rồi chiến dịch chống càn Nam Bắc – Tấn công đồn, tập kích điểm cao
Non Nước, Gối hạc, Chùa Cao – Thanh Hương, Tu Vũ – Hồn nào quản nguy.
Trận Chân Mộng, Đắc Pơ, Trạm Thản – Hồn xông lên anh dũng xốc lê
Hòa Bình, Tây Bắc, An Khê – Chư Hồn, đồng đội bốn bề hy sinh.
Vẫn chẳng thể làm Hồn run sợ – Hồn dọc ngang Trung, Thượng, Hạ Lào
Láng giềng một chút máu đào – Đuổi giặc giúp bạn Hồn nào kể công.
Cam pu chia, Hạ Lào Đông Bắc – Át lan tê, chiến dịch Hải Âu
Bắc Tây Nguyên đến Lai Châu – Chuẩn bị trận cuối dập đầu thực dân
Rồi chiến dịch Điên Biên khởi sự – Chư Hồn khắp mặt trận gần xa
Gia lâm cho đến Cát bi – Nghĩa lộ, A1, bốn bề Quân dân.
Máy bay, xe tăng cùng đại bác – Bão đạn, mưa bom trút trên đầu
Chư Hồn có sợ gì đâu – Xông lên giết giặc dẫn đầu xung phong.
Trận Him Lam, Mường Thanh, Hồng Cúm – Trời Điện Biên quân giặc nát tan
Chư Hồn tử trận vẻ vang – Trận Điên Biên phủ danh vang toàn cầu.
ooo
III. CA NGỢI LIỆT SĨ CHỐNG MỸ:
Trận Tua Hai, Quản Cung, Ấp Bắc – Sông Bến Hải, 2 nửa Bắc Nam
Máu xương sông nước hòa chan – Chư Hồn anh dũng vẻ vang nối đời.
Trận Biên Hòa, Núi Thành, Trí Phải – Trận Đầm Dơi, Cái Nước, Trà Là
An Lão, Vạn Tường, Ba Gia – Bàu Bàng trận đánh Quân ta danh lừng.
Tiếp đến trận Bàu Bàng, Bình Giã – Trận Đồng Xoài, Dầu Tiếng âm vang
An Lão, Nhà Đỏ, Bông Trang – Nối tiếp Hiệp Đức, Đồng Dương quật cường
I a Đờ răng hai chiến tuyến – Pờ lây me, đầu trận Mỹ thua
Thân người, cây cối thành tro – Chư Pông rực lửa hỏa lò đạn bom.
Bắc Bình Định và Tây Sơn Tịnh – Chiến dịch Quảng Ngãi với Tây Ninh
Sa Thày chiến dịch quang vinh – 34 trận đánh Liên quân hãi hùng.
Bắc Phú Yên, Đắc Tô, Tân Cảnh – Và chiến dịch ngăn chặn hành quân
Suốt năm mươi ba ngày đêm – Phá tan chiến dịch Giang sơn thủ phòng
Tiếp chiến dịch Lộc Ninh hùng tráng – 60 trận quân Mỹ thua đau
Ba nghìn lính Mỹ phơi thây – Mở ra chiến thắng Sa Thày lần hai
Đối đầu Mỹ, Thủy quân Lục chiến – Tại chiến trường Đường 9 Việt Lào
Phá tan điện tử hàng rào – Bảy bảy ngày đỏ chiến hào Khe Sanh
Trận Tà Mây, Làng Vây vang dội – Và tiếp lại chiến dịch Tây Ninh
Bình Long chiến dịch Mậu Thân – Chiến thắng vang dội cùng sông màu đào
Rồi lần hai Đắc Tô, Tân Cảnh – Trận Long Khánh, Đức Lập, Búp Răng
Chiến dịch Bù Đốp, Phước Bình – Áp sát cửa ngõ Đô thành Ngụy quân.
Tiếp chiến dịch Nam Lào Đường 9 – Trị Thiên Huế khói lửa ngút ngàn
Bản Đông trận đánh vang rền – Đập tan kế hoạch Lam Sơn mỹ miều
Năm 72, Mùa hè đỏ lửa – Xuân Hè chiến trận địch tan hoang
Đại quân Binh chủng hiệp đồng – Tiến công hệ thống thủ phòng khắp nơi
Khắp mặt trận Trị Thiên đến Huế – Đông Nam Bộ đến Bắc Tây Nguyên
Chiến dịch Nguyễn Huệ nối liền – Bắc Bình Định với đồng bằng Cửu Long
Ôi Đông Hà cổ thành Quảng Trị – Cùng Sông Mao, Chư Cúc, Lộc Ninh
Thạch Hãn máu thịt đỏ sông – Xương tan thịt nát cờ hồng tung bay.
ooo
Chiến trường Lào biết bao Liệt sĩ – Cùng bộ đội Pa thét Liên quân
Cùng nhau đánh kẻ thù chung – Làm cho quân Mỹ hãi hùng tả tơi
Trận đầu tiên Nậm Thà chiến dịch – Chiến dịch một hai tám đồng Chum
Chư hồn chiến đấu quật cường – Liên miên mặt trận chiến trường đồng Chum
Trận Quyết Thắng địa danh Nậm Bạc – Lại chiến dịch Mường Xủi tiến công
Loong Chẹng, Xiêng Khoảng, Đồng Chum – Chiến dịch tái diễn cờ hồng tung bay
Chiến trường Cam pu chia nối tiếp – Chiến dịch Đông bắc chống Mỹ càn
Con đường vũ khí quân lương – Ta vẫn giữ vững, Hậu phương an toàn
ooo
Gần 10 năm chiến tranh phá hoại – Cùng miền Nam hứng triệu tấn bom
Phòng không Hà Nội, Hải Phòng – Không quân, Tên lửa chống càn trời xanh.
Lai nơ bếch cơ 2 chiến dịch – Hà Nội Điện Biên Phủ trên không
Mười hai ngày đỏ kiên cường – B52 rụng, Mỹ hàng rút quân
Miền trung tại Mỏ Tàu, Thượng Đức – Chiến trận La Sơn với Hưng Long
Đại thắng Chiến dịch Nông Sơn – Đà Nẵng cùng với Quảng Nam anh hùng
Dọc Trường Sơn, biển Đông máu đổ – Nối tiếp sau chiến dịch Tây Nguyên
Quốc lộ 14, Phước Long – Huế cùng Đà Nẵng đánh tan quân thù.
Hồ Chí Minh, Mùa Xuân chiến dịch – Xuân Lộc kia cửa ngõ thành đô
Bao nhiêu chiến sĩ cầm cờ – Hy sinh anh dũng trước giờ vinh quang.
ooo
Hỡi chư Hồn đường năm năm chín – Hồ Chí Minh đường biển, núi rừng
Âm thầm lặng lẽ chiến công – Màu đào thẫm đỏ biển sông, non ngàn
Những cô gái Dân công Hỏa tuyến – Nữ Xung phong xẻ núi làm đường
Dân quân Du kích địa phương – Nhân dân tuyến lửa mở đường hành quân
Ôi Hàm Rồng, Vĩnh Linh, Sơn Trạch – Và Sông Lam, Nhật lệ, sông Gianh
Ghi công liệt sĩ anh hùng – Cho xe ra trận trùng trùng Đoàn quân.
Mười Cô gái ngã ba Đồng Lộc – Đường hai mươi Quyết Thắng, tám Cô
Quyết tâm bảo vệ tuyến đường – Cho xe thẳng tới chiến trường nuôi quân
Cọc tiêu sống Truông Bồn oanh liệt – Mười ba cô gái Cảm tử quân
Anh hùng Thanh niên xung phong – Phá bom ngăn suối dẫn đường xe qua.
Đồi Con Công đường hai mươi mốt – Ngầm Cà Roòng, Đá Đẽo đèo cao
Đường ra trận đỏ máu đào – Bao nhiêu cô gái thân nào tiếc chi
Tại Vĩnh Lộc ba hai Liệt sĩ – Năm Mậu Thân anh dũng quang vinh
Tây Nam biên giới chiến tranh – Chín chín liệt sĩ hy sinh kiên cường.
ooo
CA NGỢI LIỆT SĨ CHỐNG PÔN PỐT, CHỐNG TÀU:
Hỡi chư Hồn đánh quân Pôn pốt – Xóa diệt chủng cứu giúp dân lành
Căm pu chia được hồi sinh – Chư hồn ngã xuống quang vinh xứ người.
Chiến dịch Chen la 2, bảy mốt – Chiến dịch Ăng co Chây, bảy hai
Quân Khơ me đỏ chạy dài – Chư hồn truy kích diệt loài Quỷ nhân
Quyết bảo vệ Tây nam biên giới – Không để lũ Diệt chủng hại dân
Bao nhiêu trận đánh vang lừng – Đánh cho Pôn pốt tan tành khói mây
Từ Cam pốt, Vây riêng, Xiêm riệp – Công Pông Chàm đến Công Pông Thôm
Nhân dân 2 nước bình yên – Nào Hồn cần bạn đáp đền công ơn.
ooo
Hồn bảo vệ Biên cương phía Bắc – Khắp Quảng Ninh, Cao Lạng, Hà Giang
Tiếp cha ông giữ giang san – Chống quân Phương bắc xâm lăng bao đời.
Bao liệt sĩ hy sinh anh dũng – Nơi biên thùy núi đá cao nguyên.
Bình liêu, Đình lập, Tiên Yên – Quyết giữ Tổ quốc vẹn nguyên cõi bờ.
Rồi đất nước thu về một mối – Biển Hoàng xa vẫn đổ máu đào
Trường xa, Tri Tôn, Len Đao – Bao nhiêu dải cát chiến hào máu xương
Ba tàu chiến, sáu tư liệt sĩ – Bãi Gạc Ma anh dũng hy sinh
Cùng bao chiến sĩ Hải quân – Đáy biển yên nghỉ nghìn năm ngóng bờ.
Biển đảo ta, lưỡi bò phương Bắc – Đang liếm dần sóng nước biển Đông
Biển trời gắn bó nghìn năm – Tổ tiên gìn giữ cháu con nối dòng.
ooo
Hỡi ơi! Các Hương hồn Liệt sĩ – Các chiến trường Nam, Bắc, Tây Nam
Biên giới, Hải đảo, núi non – Các Quân, Binh chủng hợp thành tiến quân.
Thanh niên Xung phong cùng Hỏa tuyến – Dân quân, Du kích với Nhân dân
Phòng, Hóa, Hải, Lục, Không quân – Thiết giáp, Trinh sát, Đặc công, Hậu cần…
Các Binh chủng chư Hồn đầy đủ – Cùng một lòng đánh đuổi ngoại xâm
Hồn đều vì nước, vì dân – Chiến đấu dũng mãnh, ngoại xâm hãi hùng.
ooo
NGỢI CA CÔNG TRẠNG LIỆT SĨ CÁC THẾ CÁC ĐỜI:
Hỡi! Các Anh hùng ơi! – Hỡi! Các Tráng sĩ ơi
Non sông Đất nước ta bao thủa – Lũ kẻ thù dòm ngó, xâm lăng
Nhân dân thống khổ chất chồng – Biên cương Tổ quốc núi sông xéo dày.
Để bảo vệ Giang sơn Đất nước – Cứu Nhân dân thoát ách lầm than
Các hồn từ giã người thân – Sách bút, cầy cuốc, búa liềm ra đi.
ooo
Các hồn đã lên đường đánh giặc – Bỏ phía sau Cha mẹ, vợ con
Phía trước tiếng gọi giang sơn – Ra đi mãi mãi, Hồn không trở về.
Hồn để lại Cha già mẹ héo – Vợ đang son, con dại nhớ nhung
Mỏi mõi trông ngóng, chờ mong – Nhắn gửi vội vã nỗi lòng xa nhau.
ooo
Nhiều hồn đi chưa từng hò hẹn – Cô láng giềng, thiếu nữ làng bên
Ra đi chưa kịp gặp riêng – Nửa đi, nửa ở nỗi niềm ai hay.
Nhiều hồn đi đã từng duyên kết – Người làng bên chót gửi tấm thân
Đêm qua nhà cuộc hành quân – Không chồng mà chửa, oan khiên, đợi chờ.
Nhiều hồn Nữ mại mềm tơ liễu – Vẫn theo gương bà Triệu, bà Trưng
Phụ nữ càng xứng Anh hùng – Tuổi xuân chẳng tiếc, đơn thân chẳng sờn.
Nhiều hồn đi, mấy ngày sau cưới – Vợ chưa quen hơi ấm thân chồng
Đến ngày thống nhất non sông – Bóng chim, tăm cá ngóng trông mịt mờ.
Nhiều hồn đi, vợ đang thai nghén – Rồi vượt cạn, nuôi nấng con thơ
Thanh xuân gầy héo ngóng chờ – Con thơ chẳng biết bao giờ gặp cha.
Nhiều hồn đi, con còn bé dại – Ôm vội con lặng lẽ lên đường,
Mong manh trở lại quê hương – Cho con biết bố, mẹ thương thỏa lòng.
ooo
Hỡi! Các Anh hùng ơi – Hỡi! Các Hương hồn ơi!
Sông núi gọi ngọn cờ độc lập – Nào xá chi nguy hiểm tấm thân
Bom rơi, đạn nổ quanh mình – Xương tan, thịt nát, thân hình còn đâu.
ooo
Hỡi! Các Anh hùng ơi – Hỡi! Các Hương hồn ơi!
Non sông nay đã về một mối – Mọi kẻ thù cuốn gói, cút xa
Bình yên đã đến mọi nhà – Tri ân người đã xông pha chiến trường.
ooo
Hỡi! Các Liệt sĩ ơi – Hỡi! Các Hương hồn ơi!
Hỡi Liệt sĩ các Thế các đời – Từ Hùng vương buổi đầu dựng nước
Bốn lần Bắc thuộc đứng lên – Chống quân xâm lược vong quên thân mình.
Tất cả đều vì dân vì nước – Quyết xả thân bảo vệ biên cương
Nhân dân bao thủa xót thương – Nhất tâm dâng nén Tâm hương thỉnh mời.
ooo
THỈNH MỜI CÁC LIỆT SĨ NHẬP ĐÀN THỤ LỄ, QUY Y:
Hỡi! Các Anh hùng ơi – Hỡi! Các Hương hồn ơi!
Ôi chiến tranh bao lần đổ máu – Ra đi trong những cuộc bể dâu
Mỗi người mỗi Nghiệp khác nhau – Hồn xiêu phách lạc ngự đâu chư Hồn.
Hồn đang ẩn bờ, đường, gò đống – Hay là nương khe nước, đám mây
Bờ đê, bụi cỏ, lùm cây – Hay là quán nọ, cầu này bơ vơ.
Chư hồn nương Chùa chiền, miếu mạo – Hay Hồn cư lều chợ, bờ sông
Phiêu du triền núi, cánh đồng – Đầm lau, tre bụi, nhà hoang, thủy đình.
Hoặc Hồn ngự núi đồi, khe suối – Hay dưới sông, đáy biển, non ngàn
Hay ở nghĩa trang Trường Sơn – Nghĩa trang tỉnh huyện xã thôn xóm làng
Dù nơi đâu chư hồn đang ngự – Thế hệ sau không dám vong ân
Hôm nay có nén Hương trầm – Ghi ơn tưởng nhớ kính dâng chư hồn.
Nhân sắp tiết Vu lan tháng bảy – Dịp Thương binh Liệt sĩ tri ân
Đàn tràng thiết lập hôm nay – Cầu siêu Tịnh độ nguyện cầu Siêu sinh.
ooo
Mời các Hồn tọa ngay thụ lễ – Rồi về Chùa thính Pháp, văn Kinh.
Chứng minh Đạo nghĩa thâm tình – Nhân dân, Đoàn thể chí tình kính dâng.
Hỡi chư hồn Đông Tây Nam Bắc – Tất cả hãy giáng hạ Đàn tràng
Giải hết thù hận, oán oan – Qui y Phật pháp, con đường siêu thăng.
Phật, Thánh dẫn về nơi Cực lạc – Phóng hào quang cứu khổ, độ mê
Mười phương, bốn bể tựu tề – Não phiền trút sạch, hận thù sạch không.
Nhờ Phật, Thánh Thần thông quảng đại – Chuyển Pháp luân 3 cõi, 10 phương
Cực lạc duy chỉ một đường – Cõi Phật tất cả 10 phương sinh về.
ooo
Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh – Hết cơn mê, tỉnh thức chiêm bao
Chẳng có phân biệt Hồn nào – Tất cả Liệt sĩ hãy vào nghe Kinh.
Kiếp phù sinh như hình như ảnh – Hãy hiểu rằng: Vạn cảnh đều không
Hồn ơi Phật ở tâm mình – Quy y siêu thoát khỏi vòng trầm luân.
ooo
Đàn Cầu siêu vâng lời Phật dạy – Vật cúng dâng lễ mọn, Tâm thành
Tài mã, quần áo, cơm canh – Hương đời thơm ngát nghĩa tình tri ân.
Hương hoa cùng Đăng trà Quả thực – Đàn Lục cúng chớ ngại bao nhiêu
Pháp Phật biến ít thành nhiều – Trên nhờ Tam bảo, Cam lồ mát thanh.
Phật Đại từ Đại bi phổ độ – Chớ ngại rằng có có, không không.
Nam mô Phật, Pháp, Thánh tăng – Độ cho Liệt sĩ siêu thăng Thượng đài.
0oo
VII. TRI ÂN, GHI CÔNG CÁC LIỆT SĨ, CẦU NGUYỆN, TẠ ĐÀN:
Hỡi hỡi! Các chư Hương hồn ơi!
Hãy cùng với quê hương đất Việt – Độ trì cho tất cả trẻ già
Ông bà, con, vợ, mẹ cha – Âm dương hai ngả chan hòa yêu thương.
Hỡi! Hỡi! Chư Hồn Liệt sĩ ơi!
Nơi trận chiến xương tan thịt nát – Thân còn đâu đất đá hòa chôn
Tượng đài Tổ quốc ghi công – Nhân dân mãi mãi nhớ ơn chư Hồn.
Dù nghĩa trang hay đầu ngọn cỏ – Dù khuyết danh hay đã có danh
Nhân dân ghi dạ, tạc lòng – Anh hùng Liệt sĩ thơm danh muôn đời.
ooo
Hỡi! Hỡi các các Hương hồn ơi!
Các anh hùng đầu xanh, đầu bạc – Cũng đã vì Tổ quốc quên thân
Hy sinh cho nước, cho dân – Toàn dân ghi khắc trong lòng tri ân.
ooo
Hỡi! Hỡi các các Hương hồn ơi – Hỡi! Hỡi các các Anh hùng ơi
Những anh hùng một thời vang bóng – Nằm xuống cho Tổ quốc quang vinh
Tiếp tục hộ quốc, độ dân – Không cho phương Bắc lấn xâm cõi bờ.
ooo
Hỡi! Hỡi các các Hương hồn ơi – Hỡi! Hỡi các các Anh hùng ơi
Một lần nữa theo làn hương khói – Hỡi chư Hồn anh dũng hy sinh
Vào Chùa niệm Phật, nghe Kinh – Thụ lộc Phật, Thánh vãng sinh Niết bàn.
ooo
Nam mô Phật Thánh Thượng tôn
Tiếp dẫn linh Hồn siêu thoát phương Tây.
Nam mô Tiếp dẫn Hương hồn Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)
ooo
This entry was posted in Uncategorized on Tháng Chín 21, 2017.
VĂN TẾ CHIÊU HỒN LIỆT SĨ TẠI CÔN ĐẢO
Leave a reply
VĂN TẾ CHIÊU HỒN LIỆT SĨ TẠI CÔN ĐẢO
Nam mô A Di Đà Phật. (3 lần)
Hỡi! Hỡi các chư Chân linh Anh hùng Liệt sĩ hy sinh anh dũng
tại đảo Côn Lôn!
ooo
CA NGỢI TRUYỀN THỐNG CHA ÔNG CHỐNG NGHÌN NĂM BẮC THUỘC:
Đất nước ta bao phen binh lửa – Chống ngoại xâm phương Bắc nghìn năm
Biết bao thế hệ anh hùng – Bảo vệ bờ cõi vẹn toàn biên cương.
Bốn nghìn năm buổi đầu dựng nước – Giặc Bắc phương đã đến xâm lăng
Vua Hùng, Nam Việt vua, dân – Bà Trưng, bà Triệu, Vạn Xuân phất cờ
Mai Hắc Đế, Phùng Hưng khởi nghĩa – Họ Khúc, Dương Đình Nghệ tiếp sau
Khởi nền độc lập dài lâu – Ngô Quyền, Đinh đế khởi đầu Đế vương
Rồi nối tiếp Tiền Lê, triều Lý – Các vua Trần, kế đến Hậu Lê
Quang Trung giữ vững ngọn cờ – Non sông độc lập bến bờ bình yên.
ooo
CA NGỢI CÁ LIỆT SĨ CÔN ĐẢO:
Rồi giặc Pháp bắt đầu xâm lược – Dân ta bị kìm kẹp lầm than
Cháu con kế tiếp cha ông – Chống Tầu, Pháp, Nhật quang vinh ngọn cờ
Các vua Hùng có công dựng nước – Thế hệ sau nối bước Tổ tông
Phong trào Nam Tiến, Hoàng Ngân – Chống Pháp đô hộ trăm năm khởi đầu.
Lại bắt đầu trường chinh kháng chiến – Các Sĩ phu khởi nghĩa đánh Tây
Quyết đuổi Đế quốc xéo dầy – Hôm nay máu đổ, mai ngày tự do.
Không kể gái trai già hay trẻ – Bộ đội, du kích với dân công
Súng đạn, gậy gộc dao gươm – Quyết tâm giết giặc toàn dân đồng lòng.
Đế quốc Pháp trăm năm đô hộ – Biết bao nhiêu thế hệ dựng cờ
Khởi nghĩa giành lại tự do – Non sông đất nước cõi bờ bình yên
ooo
Rồi giặc Mỹ lại sang xâm lược – Chia non sông 2 nửa Bắc, Nam
Đế quốc cùng với Việt gian – Dân ta lần nữa lầm than, đói nghèo.
Nào khởi nghĩa, phong trào chống giặc – Nào hoạt động bí mật, công khai
Dân ta nổi dậy khắp nơi – Phong trào cách mạng đổi đời ấm no.
Biết bao nhiêu anh hùng, chiến sĩ – Bị địch bắt tống ngục, biệt giam
Thực dân đế quốc bạo tàn – Xây bao Địa ngục Trần gian cõi đời
ooo
Đảo nhỏ xa gọi tên Côn đảo – Giữa biển xanh thăm thẳm mây Trời
Đã ghi dấu ấn một thời – Tội ác đế quốc chất đầy non cao.
Hai đế quốc nối nhau xây dựng – Nhà tù kia ở đảo xa xôi
Biệt tăm biệt tích cõi đời – Biển xanh nhuộm đỏ máu đào tù nhân.
Thế kỷ rưỡi nhà tù Côn Đảo – Giặc Pháp xây ngục tối Trần gian
Mỹ Ngụy nối tiếp bạo tàn – Chuồng cọp, xiềng xích cầm giam bao người
Nghĩa trang Hàng Dương màu máu đỏ – Bao nấm mồ đang ngóng chốn quê
Côn Lôn đi dễ khó về – Già đi bỏ xác, trai về nắm xương
Anh hùng 4 vạn nhiều thế hệ – Đã cùng nhau trong 4 khu giam
Hàng trăm chuồng cọp biệt giam – 15 nghìn Nữ tù nhân chuồng bò
Trại 1, 2, Cộng Hòa, Phú Hải – Hầm đá giam, khám nhỏ, khám to
Lại hầm xay lúa, “giã dò” – Cùng khu đập đá, hỏa lò tối tăm
Gần trăm kiểu khác nhau tra tấn – Bao nhục hình hành hạ dã man
Khổ sai, thú tính bạo tàn – Cùm gông, xiềng xích cơ man đồ nghề
Ăn phân, tắm gội vôi, tiêu, ớt – Nhét vào bao bỏ chảo nước đun
Chiếu đèn mù mắt, bẻ răng – Dìm, đập phuy nước, đinh găm xiên đầu
Bắt cởi trần lộn trên sắt nhọn – Dùng ván đôi ép, kẹp thân hình
Hai vai, đầu gối đóng đinh – Nắng hè chôn sống nhục hình dã man…
ooo
Biết bao nhiêu Sĩ phu yêu nước – Như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Chu Trinh
Lão thành cách mạng kiên trung – Nguyễn Duy Chí, Võ Công Tôn, Lê Đoàn
Nguyễn An Ninh, Bùi Quỳ, Nguyễn Đặng – Lê Hồng Phong, Ngô Quới, Võ Thanh
Vũ Quyết, Phan Bạch, Nguyễn Hanh – Phan Thôn, Lê Phú, Trần Hoành, Lê Cao
Tôn Đức Thắng, Nguyễn Nên, Nguyễn Phú – Trần Hữu Ngọc, Nguyễn Cứ, Châu Sanh
Nguyễn Đâu, Lê Trứ, Phạm Hùng – Lê Duẩn, Nguyễn Giác, Nguyễn Thâm, Phan Hòa
Lê Chí Hiếu, Đào Liêm, Lý Chánh – Nguyễn Thanh Phong, Trần Mạnh, Danh Ơn
Nguyễn Khoa, Nguyễn Ký, Quách Phương – Lê Chén, Võ Đức, Cao Dương, Lê Đoàn
Lê Đức Thọ, Phan Hòa, Nguyễn Khánh – Lương Thế Trân, Quản Ngói, Đào Liêm
Tô Hiệu, Đỗ Tấn, Nguyễn Nguyên – Lại Bời, Cao Ngọc, Trần Biên, Thái Thành…
Lại có các Sư tăng yêu nước – Đạo và đời Tổ quốc, Nhân dân
Từ bi, Ái quốc cùng Tâm – Nào đâu có tiếc tấm thân vô thường.
ooo
Kể sao hết anh hùng như thế – Khắc kín tên vách đá Côn sơn
Máu đào đỏ núi Côn Lôn – Đất cát Côn đảo cốt xương chất chồng.
Nghìn vạn chiến sĩ nhiều thế hệ – Bị giam cầm, xiềng xích ở đây
Nhục hình tra tấn, đọa đầy – Tội nhân Chính trị khổ sai tử tù
Tra tấn dã man thời Trung cổ – Khám bí mật, thủ tiêu phi tang
Thực dân đế quốc bạo tàn – Chiến sĩ Cộng sản vẻ vang kiên cường
Vì tự do, phong trào cách mạng – Anh hùng từ khắp các miền quê
Bắc, Trung, Nam bắt dồn về – Đã từng buôn bán, muôn nghề mưu sinh
Hoặc Sĩ phu, Nông dân, Trí thức – Hay Sinh viên, Công chức, làm công
Chiến sĩ Cộng sản tên chung – Phong trào Cách mạng cờ hồng đứng lên
Hội kín Bí mật, Đảng viên – Biệt động, Du kích, Việt minh, “dân rờ” (R)…
Tất cả đều kiên trung, bất khuất – Khí phách từ nguyên khí núi sông
Tinh thần ý chí kiên trung – Không hề khuất phục xiềng gông, nhục hình.
Tất cả đều hy sinh Anh dũng – Quên mình cho Độc lập, Tự do
Nhân dân Hạnh phúc, ấm no – Đất nước thống nhất ngọn cờ tung bay.
ooo
Hỡi! Các Anh hùng ơi – Chư Hương hồn ơi!
Ngậm ngùi trước Hàng Dương nghĩa địa – 4 khu kia, nghìn mộ cất chôn
Mộ có tên, mộ không tên – Mộ chôn tập thể, mộ riêng từng người
Hơn nghìn bia không tên trên mộ – Hàng trăm bộ xương lẫn vào nhau
Bao nhiêu xương dưới biển sâu – Mênh mông sóng nước biết đâu mà tìm
Đất Hàng Keo, cầu Ma Thiên lãnh – Bao xà lim khắp 9 trại giam
Hòn cau, Cỏ ống, Bến đầm – Sở muối, Lò gạch địa danh tạc lòng
Và Lò vôi, Cầu tầu ghi nhận – Tội ác chồng nay đã phơi bày
Chứng cớ man rợ tày trời – Bàng hoàng Thế giới người, đời khắc ghi.
ooo
Đất xưa hoa Lê ki ma nở – Người du kích mới tuổi thanh xuân
Võ Thị Sáu nữ anh hùng – Mộ thiêng còn đó bao lần bia tan
Biết bao lần quân thù phá mộ – Kẻ chỉ huy bỗng chết lăn quay
Mộ xanh vẫn mãi còn còn đây – Uy nghi hùng dũng tới ngày tự do
“Yêu nước đâu phải là tội lỗi – Chống thực dân đế quốc xâm lăng”
Tòa binh kết án tử hình – Ba năm tra tấn nhục hình dã man
Không dám bắn, mang ra Côn đảo – Lén hành hình bịt mắt Thế gian
Đêm vẫn hát, sáng ra xử bắn – “Chiến sĩ ca” bài hát tiễn đưa
“Lên đàng” và “Tiến Quân ca” – Tiếng chị Sáu hát vượt qua ngục tù
“Chỉ đứng, không bao giờ quỳ gối” – Chị hét to vào mặt quân thù
Du kích thôn nữ trăng thu – Đao phủ khiếp vía, tử tù hiên ngang
“Kháng chiến sẽ nhất định thắng lợi – Đả đảo đế quốc Pháp thực dân”
Ra đi tuổi mới chớm xuân – Linh thiêng chín suối, cõi trần vinh quang.
ooo
III. NGỢI CA CÔNG TRẠNG LIỆT SĨ CÁC THẾ CÁC ĐỜI:
Hỡi! Các Anh hùng ơi! – Hỡi! Các Tráng sĩ ơi
Non sông Đất nước ta bao thủa – Lũ kẻ thù dòm ngó, xâm lăng
Nhân dân thống khổ chất chồng – Biên cương Tổ quốc núi sông xéo dày.
Để bảo vệ Giang sơn Đất nước – Cứu Nhân dân thoát ách lầm than
Các hồn từ giã người thân – Sách bút, cầy cuốc, búa liềm ra đi.
ooo
Các hồn đã lên đường đánh giặc – Bỏ phía sau Cha mẹ, vợ con
Phía trước tiếng gọi núi sông – Ra đi mãi mãi, Hồn không trở về.
Hồn để lại Cha già mẹ héo – Vợ đang son, con dại nhớ nhung
Mỏi mõi trông ngóng, chờ mong – Nhắn gửi vội vã nỗi lòng xa nhau.
ooo
Nhiều hồn đi chưa từng hò hẹn – Cô láng giềng, thiếu nữ làng bên
Ra đi chưa kịp gặp riêng – Nửa đi, nửa ở nỗi niềm ai hay.
Nhiều hồn đi đã từng duyên kết – Người làng bên chót gửi tấm thân
Đêm qua nhà cuộc hành quân – Không chồng mà chửa, oan khiên, đợi chờ.
Nhiều hồn nữ mại mềm tơ liễu – Vẫn theo gương bà Triệu, bà Trưng
Phụ nữ càng xứng Anh hùng – Tuổi xuân chẳng tiếc, đơn thân chẳng sờn.
Nhiều hồn đi, mấy ngày sau cưới – Vợ chưa quen hơi ấm thân chồng
Đến ngày thống nhất non sông – Bóng chim, tăm cá ngóng trông mịt mờ.
Nhiều hồn đi, vợ đang thai nghén – Rồi vượt cạn, nuôi nấng con thơ
Thanh xuân gầy héo ngóng chờ – Con thơ chẳng biết bao giờ gặp cha.
Nhiều hồn đi, con còn bé dại – Ôm vội con lặng lẽ lên đường,
Mong manh trở lại quê hương – Con biết bố mẹ, yêu thương thỏa lòng.
ooo
Hỡi! Các Anh hùng ơi – Chư Hương hồn ơi!
Sông núi gọi ngọn cờ độc lập – Nào xá chi nguy hiểm tấm thân
Ngục tù, xiềng xích cùm gông – Xương tan, thịt nát, Trung trinh cuộc đời.
Non sông nay đã về một mối – Mọi kẻ thù cuốn gói, cút xa
Bình yên đã đến mọi nhà – Tri ân người đã đi xa thuở nào.
ooo
Hỡi! Các Anh hùng ơi – Chư Hương hồn ơi!
Mỗi người mỗi Nghiệp khác nhau – Hồn xiêu phách lạc bây giờ nơi đâu.
Hay đang ẩn bờ, đường, gò đống – Hay là nương khe nước, đám mây
Hay là bụi cỏ, lùm cây – Hay là quán nọ, cầu này bơ vơ.
Hay là nương Chùa chiền, miếu mạo – Hay Hồn cư lều chợ, bờ sông
Phiêu du giữa những cánh đồng – Đầm hoang, tre bụi, nhà hoang, Thủy đình.
Hoặc Hồn ngự núi đồi, khe suối – Bãi San hô, bờ biển, đảo hoang
Hòn Bà, Bảy Cạnh, Phú Phong – Tài lớn, Tài nhỏ, Hòn Vung, Phú Hoà
Hay hòn Thỏ, Phú Bình, Phú Lệ – Hay Phú Hưng, Phú Thịnh, Phú An
Phú Nghĩa, Phú Hội, Phú Tường – Phú Vinh, Phú Nghĩa, công trường Côn lôn.
Hòn Trai, Hòn bạc, hòn Đá Trắng – Hay hòn Tre, hòn Trọc, hòn Cau
Hòn Trác, hòn Trứng, Bông Lau – Hay ở tận đáy biển sâu mịt mờ.
Dù nơi đâu chư hồn đang ngự – Thế hệ sau không dám vong ân
Hôm nay có nén Hương trầm – Ghi ơn tưởng nhớ kính dâng chư hồn.
(Hôm nay thiết lập Đàn tràng – Cầu siêu Tịnh độ Trang nghiêm nguyện cầu).
ooo
Mời các Hồn tọa ngay thụ lễ – Rồi về Chùa thính Pháp, văn Kinh.
Chứng minh Đạo nghĩa thâm tình – Nhân dân, Đoàn thể chí tình kính dâng.
Hỡi chư hồn Đông Tây Nam Bắc – Tất cả hãy giáng hạ Đàn tràng
Giải hết thù hận, oán oan – Qui y Phật pháp, con đường siêu thăng.
Phật, Thánh dẫn về nơi Cực lạc – Phóng hào quang cứu khổ, độ mê
Mười phương, 4 biển tựu tề – Não phiền trút sạch, oán thù sạch không.
Nhờ Phật, Thánh Thần thông quảng đại – Chuyển Pháp luân 3 cõi, 10 phương
Cực lạc duy chỉ một đường – Cõi Phật tất cả 10 phương sinh về.
ooo
Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh – Hết cơn mê, tỉnh thức chiêm bao
Chẳng có phân biệt Hồn nào – Tất cả Liệt sĩ hãy vào nghe Kinh.
Kiếp phù sinh như hình như ảnh – Hãy hiểu rằng: Vạn cảnh đều không
Hồn ơi Phật ở tâm mình – Quy y siêu thoát khỏi vòng trầm luân.
ooo
Đàn Cầu siêu vâng lời Phật dạy – Vật cúng dâng lễ mọn, Tâm thành
Tài mã, quần áo, cơm canh – Hương đời thơm ngát nghĩa tình tri ân.
Hương hoa cùng Đăng trà Quả thực – Đàn Lục cúng chớ ngại bao nhiêu
Pháp Phật biến ít thành nhiều – Trên nhờ Tam bảo, Cam lồ mát thanh.
Phật Đại từ Đại bi phổ độ – Chớ ngại rằng có có, không không.
Nam mô Phật, Pháp, Thánh tăng – Độ cho Liệt sĩ siêu thăng Thượng đài.
ooo
TRI ÂN, GHI CÔNG CÁC LIỆT SĨ, CẦU NGUYỆN, TẠ ĐÀN:
Hỡi hỡi! Các chư Hương hồn ơi!
Hãy cùng với quê hương đất Việt – Độ trì cho tất cả trẻ già
Ông bà, con, vợ, mẹ cha – Âm dương 2 ngả chan hòa yêu thương.
ooo
Hỡi! Hỡi! Chư Hồn Liệt sĩ ơi!
Nơi Côn đảo xương tàn gửi gắm – Thân còn đâu đất đá hòa chôn
Tượng đài Tổ quốc ghi công – Nhân dân mãi mãi nhớ ơn chư Hồn.
Dù nghĩa trang hay đầu ngọn cỏ – Dù khuyết danh hay đã có danh
Nhân dân ghi dạ tạc lòng – Anh hùng Liệt sĩ lưu danh muôn đời.
ooo
Hỡi! Hỡi các các Hương hồn ơi!
Các anh hùng đầu xanh, đầu bạc – Cũng đã vì Tổ quốc quên thân
Hy sinh cho nước, cho dân – Toàn dân ghi khắc trong lòng tri ân.
Hỡi! Hỡi các các Hương hồn ơi – Hỡi! Hỡi các các Hương hồn ơi
Những anh hùng 1 thời vang bóng – Nằm xuống cho Tổ quốc quang vinh
Tiếp tục hộ quốc, độ dân – Không cho phương Bắc lấn xâm cõi bờ.
ooo
Hỡi! Hỡi các các Hương hồn ơi – Hỡi! Hỡi các các Hương hồn ơi
Một lần nữa theo làn hương khói – Hỡi chư Hồn anh dũng hy sinh
Vào Chùa niệm Phật, nghe Kinh – Thụ lộc Phật, Thánh vãng sinh Niết bàn.
Nam mô Phật Thánh Thượng tôn
Tiếp dẫn linh Hồn siêu thoát phương Tây.
Nam mô Tiếp dẫn Hương hồn Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)
ooooooooooooooooooooooo
This entry was posted in Uncategorized on Tháng Chín 21, 2017.
NGHI THỨC TẾ THẦN – THÀNH HOÀNG LÀNG
Leave a reply
NGHI THỨC TẾ THẦN – THÀNH HOÀNG LÀNG
CÁC TIẾN TRÌNH CỦA CUỘC TẾ:
– Lễ Cáo yết (còn gọi là lễ Cáo tế): Là lễ trình với Thần linh về việc dân làng sẽ tổ chức Tế lễ sự thần. Thường vào buổi chiều hoặc buổi đêm trước ngày Chính tế. Lễ thường chỉ có 1 tuần hương, 1 tuần rượu và sau đó là tuyên Chúc văn nói rõ lý do của cuộc Đại tế.
– Lễ Chính tế: Lễ tế vào ngày chính, ngày của công việc sự thần. Để có một cuộc tế, mỗi năm dân làng phải họp công đồng một ngày để bầu ra một ban tế, nhiệm kỳ là một năm, với các chức danh được bầu chọn.
NHỮNG THIẾT CHẾ HẠ TẦNG:
Các đồ tự khí: 2 cái Đẳng gỗ, đặt hai bên Đông xướng – Tây xướng có lọng che. Đẳng gỗ bên Đông đặt cây đèn, bình hương, bình hoa và Tam sơn đặt 3 đài rượu gọi là bàn Đông bình. Quan viên Đông xướng đứng xướng tế ở đây. Trống hiệu đặt bên dưới bàn Đông bình.
Trên cái Đẳng gỗ bên Tây đặt cây đèn hoặc nến, bình hoa, đĩa trầu cau gọi là bàn Tây quả. Quan viên Tây xướng đứng ở đây. Chiêng hiệu đặt bên Tây, trống đặt bên Đông. Hai cây đèn hoặc nến dùng để dẫn khi lên hương, lên rượu.
Cây quán tẩy: Là cái giá để đựng chậu nước cho Chủ tế, Bồi tế, Chấp sự rửa tay sạch sẽ khi vào hành tế.
Lỗ bộ (chấp kích, bát bửu): trưng bày hai bên Đông – Tây xướng cho uy nghi.
Bảng chúc: Mộc bảng có dạng hình chữ nhật nằm ngang, đặt đứng nghiêng, trên cái giá đỡ là thân hai con ly đứng hai bên, mặt bảng ngửa về phía sau. Ngày tế lễ, bài văn chúc dán lên bảng chúc. Còn có một miếng vải thêu hình hổ phù che lấy bài văn chúc, khi đọc mở ra, thể hiện sự tôn kính Thần linh.
Ngoài ra còn một số đồ dùng khác như: Bốn chiếc chiếu cói mới dùng cho hành lễ, trải thành hàng dọc trước Đình đền. Chủ tế và Bồi tế thực hiện nghi lễ trên đó. Mỗi kỳ tế lại thay mới một lần cho tinh khiết.
Y phục của các quan viên tế: Thường dùng trong vài hoặc 10 năm thay mới 1 lần cho sang trọng. Chủ tế: Riêng một màu, thường là màu đỏ, có cân đai, bối tử. Các viên Bồi tế: Dùng chung một màu cho mũ áo, thường là màu tím. Các Chấp sự: Dùng chung một màu, thường là màu xanh lam. Tất cả đều đội mũ kiểu phốc đầu, áo tay thụng, quần màu trắng kiểu ống sớ, chân đi hia. Các loại quần áo này dùng xong đóng hòm, quản ở di tích.
Chiếu tế: Khi vào cuộc tế, trải 4 chiếc chiếu theo hàng dọc trước Đền đình: Chiếu thứ nhất: Gọi là chiếu Nghinh thần dành riêng chỉ khi làm lễ nghinh thần, đọc chúc, vị chủ lễ đứng hiến lễ ở đây. Chiếu thứ 2: Gọi là chiếu Thụ tộ tức là nơi Chủ tế lên hưởng lộc của Thần ban cho (thụ rượu thịt, ăn miếng trầu cau đã tế lễ). Chiếu thứ 3: Gọi là chiếu Phục vị hay chiếu Tế chủ là chiếu giành riêng cho Chủ tế trở về (điểm xuất phát). Chiếu thứ tư: Gọi là chiếu Bồi tế, chiếu giành riêng cho các vị Bồi tế hành lễ (các chiếu này chỉ dùng 1 lần nên đều là đồ mới tinh khiết).
Âm nhạc dùng trong lễ tế: Âm nhạc tế được dùng theo một quy chế nhất định, có thể thức với thiết chế Lên âm, Xuống nhạc. Lên là khi dâng hương, hiến lễ. Xuống là trở về vị trí khi công việc hoàn thành. Các loại âm nhạc dùng có tính chất lễ nghi, thờ cúng trong việc tế lễ nơi đền miếu đều thuộc phạm trù nhạc lễ.
Nhạc cụ: Bộ gõ gồm các loại trống, chiêng, Sênh tiền (3 loại). Sênh tiền dùng trong lễ tế (cả lễ rước kiệu) là để điểm nhịp trong hành lễ, múa theo vị Chủ tế hoặc các Chấp sự lên hương, lên rượu. Bộ hơi gồm Kèn và sáo. Nhạc gồm bài Lưu thuỷ dùng khi tiến tước, gọi là Lên âm, bài Ngũ đối dùng khi tiến tước hoàn thành, gọi là Xuống nhạc.
IV. THÀNH PHẦN BAN TẾ:
Đội tế là một nhóm gồm khoảng 20 người. Thông thường Tế thần là đàn ông (gọi là đội Tế ông), đàn bà chỉ tế Mẫu, nữ Thần (gọi là đội Tế bà). Đội tế gồm:
Chủ tế: Còn gọi là mạnh bái, là người đứng vái lạy Thần – Thành Hoàng. Chủ tế thứ bậc xã hội là hàng mệnh quan, thứ bậc tâm linh là vị con trưởng nhà Thánh. Về nhân thân, Chủ tế là người được dân làng kén chọn kỹ càng nhất trong thành phần ban tế. Thường là bậc cao niên, khoẻ mạnh, vóc dáng phương phi, có chức sắc phẩm hàm, có học vị ngoài xã hội càng quý, gia đình song toàn, đông đúc, thê vinh, tử vượng. Các tiêu chí làng xã đều xếp bậc cao, gia đình có văn hoá.
Bồi tế: 2 -4 người, là người đứng, đứng hàng chiếu dưới của Chủ tế giúp Chủ tế và trông theo người Chủ tế mà làm lễ, lễ theo Chủ tế. Thường bầu 2 Bồi tế, tối đa là 4 Bồi tế đều thuộc hàng số chẵn, đứng 2 bên.
Nội tán: 2 người phụ Chủ tế. 1 đứng đằng Đông, 1 đứng đằng Tây để dẫn Chủ tế ra, vào chiễu tế khi hành lễ và trợ xướng khi Chủ tế vào chiếu trong (chiếu nghinh Thần) và chuyển chúc.
Đông xướng:1 người, đứng ở bàn bên Đông, ngang với chiếu phục vị, làm phận sự xướng tế, điều hành cuộc tế theo nghi thức có trong bài tế đã định sẵn. Bàn có lọng che, Đông xướng đứng dưới lọng. Trên bàn bày đèn hương, bình rượu tế, cái Đẳng rượu, trong đài đựng các chén rượu, nên bàn Đông xướng còn gọi là Đông bình.
Tây xướng:Người này đứng ở bàn bên Tây đối xứng với bàn Đông xướng cũng làm phận sự xướng tế, phụ giúp cho người Đông xướng. Bàn có lọng che, Tây xướng đứng dưới lọng. Trên bàn bày cây đèn, đĩa trầu cau nên còn gọi là Tây quả.
Chấp sự:Là người giúp việc ở 2 bàn Đông – Tây xướng, chia đứng 2 bên, mỗi bên 3 người, giúp việc dâng hương, dâng rượu.
Thủ hiệu: 2 người. Bên trống: Điều hành cuộc tế bằng trống cái. Bên chiêng: đánh chiêng theo lệnh của trống cái.
Đọc chúc:1 người thông văn tự vì phải đọc bài văn tế bằng nguyên bản chữ Hán Việt theo âm điệu, có giọng đọc sang sảng vang xa, gây truyền cảm và xúc động.
Ngoài ra còn có phường Bát âm, đội múa…
THIẾT CHẾ CỦA MỘT LỄ TẾ – QUI TRÌNH TẾ THẦN – THÀNH HOÀNG LÀNG
Khởi sự tế, phải chuẩn bị đồ Tế, Hương án. Thắp hương xong, một người đánh lên 3 hồi trống cái, trống trước, chiêng sau. Thường thì người Đông xướng xướng hoặc người Đông xướng, người Tây xướng thay nhau xướng (nếu có một người thì xướng từ đầu đến cuối). Xướng lần lượt (phần chữ đậm). Lễ Tế thần gồm 36 bước như sau:
Khởi chinh cổ (Nổi chiêng, trống): 2 Chấp sự làm phận sự của Thủ hiệu (đánh trống, chiêng, cầm hiệu lệnh dẫn tế) đứng ở 2 bàn Đông – Tây, đi vào chỗ đặt giá trống, giá chiêng cùng đánh 3 hồi, 3 tiếng nữa, rồi vái đi ra.
Nhạc sinh tựu vị (Ban nhạc vào vị trí): Phường Bát âm tấu nhạc và chiêng, trống.
Củ soát Tế vật (Kiểm soát lễ vật Tế thần): Một vị Chấp sự bưng cây đèn dẫn Chủ tế từ bàn Đông xướng đi lên theo hướng Đông, đến bên bàn để tế vật, xem xét lại đồ lễ có đầy đủ, tinh khiết hay không rồi trở về theo bên Tây gọi là Thăng đông, Giáng tây. (Hoặc 2 Chấp sự, 1 người cầm nến, 1 người cầm ống hương cắm bó hương dẫn Chủ tế.
Ế mao huyết (Chôn lông tiết trâu bò lợn – nghi thức ít dùng): Đem đổ lông tiết trâu bò lợn (lợn, trâu, bò được làm thịt sạch sẽ, khiêng để trước bàn thờ, lấy một ít lông và tiết để trên 1 cái đĩa nhỏ đặt dưới đất sau đuôi hoặc đặt ở bàn bên Tây để cẩn cáo Thần – Thành Hoàng rằng đây là lợn, trâu, bò sống được làm chọc tiết thịt chứ không phải bị chết).
Chấp sự giả các ty kỳ sự (những Chấp sự vào vị trí): Những Chấp sự ai được cắt cử phụ trách gì thì vào vị trí ấy thành 2 hàng.
Tế chủ dữ Chấp sự giả các nghệ quán tẩy sở (Chủ tế và những Chấp sự vào chỗ rửa tay): Chủ tế và những Chấp sự vào chỗ rửa tay cạnh hương án có một chiếc kỷ, trên đặt một châu nước và treo một cái khăn.
Quán tẩy (Rửa tay): Chủ tế rửa tay ở chậu nước.
Thuế cân (Lau tay): Chủ tế lấy khăn lau tay.
Bồi tế viên tựu vị (Bồi tế vào vị trí): Các vị Bồi tế bước vào đứng ở chiếu thứ 4 (chiếu dưới cùng).
Chủ tế viên tại vị (Chủ tế vào vị trí): Chủ tế bước vào chiếu của mình, chiếu Phục vị (thứ 3), đi từ bên Đông vào theo hình chữ Ất (乙) gọi là Nhập ất (để không quay đằng lưng vào ban thờ). Trong cùng lúc đó, các Chấp sự viên cũng về đúng chỗ của mình. Đến đây, cuộc hành lễ bắt đầu. Đi thì có nhiều cách tùy theo chân phải hay chân trái trước. 2 cách bước 1 chân còn chân kia kéo lên bằng chân bước tức là 1 bước 1, 2 cách bước 2 bước 1. Tuy nhiên cách bước thẳng (lùi hoặc tiến hoặc sang trái) bằng chân trái và kéo chân phải theo (trừ khi bước ngang sang phải) là đúng nhất.
Thượng hương (Dâng hương): Hai Chấp sự: 1 người bưng lư hương, 1 người bưng hộp trầm đem đến trước mặt Chủ tế. Chủ tế bỏ trầm vào lư hương, đốt lên rồi 2 tay nâng lư hương dâng đặt ở hương án giữa trước Đình.
Nghinh Thần cúc Cung bái (Chủ tế và Bồi tế bái): Chủ tế và Bồi tế đều bái lạy lần thứ nhất (đầu gối quỳ, mặt sát đất, 2 bàn tay ngửa đan vào nhau). Chủ tế theo 2 Nội tán (theo sau viên bên Đông) dẫn lên chiếu thứ nhất rồi quỳ xuống, các Bồi tế quỳ theo.
Khi bước đi cũng theo nghi thức riêng gọi là Xuất Á (亞 – để không quay đằng lưng vào ban thờ).
Xuất Á là đi hình chữ (亞): Khi trong chiếu bước ra thì đi ngang sang phải (phía Đông) và tiến thẳng vào cửa bên phải của Đình đền; quan cửa thì lại đi ngang sang trái (phía Tây) rồi tiến thẳng vào Hậu cung. Hoặc từ giữa chiếu đi thẳng sang phải (phía Đông) và rồi rẽ trái tiến thẳng vào cửa bên phải của Đình đền… Từ trong Đình đền quay lại rồi mới đi thẳng vào chiếu thứ nhất theo lối Nhập Ất (乙).
Trong khi ấy các Chấp sự 2 bên bàn Đông – Tây cử hành Dâng hương vào Thượng điện theo nhịp trống khẩu điều hành và tấu bài nhạc lễ Lưu thuỷ (gọi là Lên âm). Khi đoàn Chấp sự hoàn thành việc dâng hương trở về bàn của mình. (tiếp là 4 lễ nghinh Thần)
– Tây xướng – xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
– Đông xướng – xướng: Bái (lạy): Chủ tế và Bồi tế đều bái lạy lần thứ 2.
– Tây xướng – xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
– Đông xướng – xướng: Bái (lạy): Chủ tế và Bồi tế đều bái lạy lần thứ 3.
– Tây xướng – xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
– Đông xướng – xướng: Bái (lạy): Chủ tế và Bồi tế đều bái lạy lần thứ 4.
– Tây xướng – xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
Đông xướng – xướng: Bình thân (đứng dậy tại vị trí cũ).
Đông xướng – xướng: Hành sơ Hiến lễ (dâng rượu lần đầu): Chuẩn bị dâng rượu.
Nội tán xướng: Nghệ tửu Tôn sở – Tư tôn giá cử mịch (xem lại bình rượu quí – mở đài riệu, bình riệu): Chủ tế đi đến chỗ Hương án để bình rượu, vào vị trí rót riệu. Chấp sự mở cái miếng phủ trên mâm đài, đài riệu, bình riệu. Chủ tế bước tới chỗ án để rượu, Chấp sự mở nắp đài ra.
Đông xướng – xướng: Chước tửu (rót rượu): Chấp sự rót riệu vào 2 chén ở Đài riệu.
Đông xướng – xướng: Nghệ Đại vương Thần vị tiền (hướng trước Uy thần Thành Hoàng): Hiệu lệnh để nhắc nhở vị Chủ tế, 2 người Nội tán. 2 Nội tán dẫn Chủ tế lên chiếu nhất.
Nội tán xướng: Quỵ (Chủ tế và Bồi tế đều quỳ): Chủ tế và Bồi tế đều quỳ xuống
Đông xướng – xướng: Tiến tửu (hoặc Tiến tước là rước riệu): Chấp sự dâng đài rượu cho Chủ tế để Chủ tế vái một vái, xong lại giao cho Chấp sự.
Đông xướng – xướng: Hiến tửu (dâng rượu lên Thành Hoàng): Chấp sự đi thành 2 hàng (mỗi hàng 1 Đài riệu), 2 tay nâng 2 Đài rượu (rước riệu) đi vào ban thờ trong Đền đình đi theo nghi thức Xuất Á. Đến ban thờ thì Quỳ dâng rượu lên Thành Hoàng.
Đông xướng – xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
– Đông xướng – xướng: Bình thân (đứng dậy về vị trí cũ): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy về vị trí cũ.
– Đông xướng – xướng: Phục vị (về vị trí cũ): Chủ tế và Bồi tế quay về chỗ cũ ở chiếu tế theo nghi thức Nhập Ất.
Đông xướng – xướng: Độc Chúc (dâng Văn tế): 2 Chấp sự vào trong đình kính cẩn rước Văn tế ra. (Văn tế phải do một bậc đại khoa hoặc một người văn tự trong làng, có chân trong ban tư vấn, được dân làng cử ra để soạn bài Văn Tế thần. Văn tế soạn xong, được đặt trên Long đình rước rất tôn nghiêm về đình làng)
Nội tán xướng: Nghệ độc Chúc vị (chuẩn bị đọc Chúc): 2 người Nội tán dẫn Chủ tế lên chiếu nhất.
Đông xướng – xướng: Giai quỵ (đều quỳ): Chủ tế, Bồi tế, hai Chấp sự bưng Chúc – Văn tế cùng quỳ.
Đông xướng – xướng: Chuyển Chúc (chuyển Văn tế): 2 Chấp sự bưng trao bảng Văn tế cho Chủ tế. Chủ tế cầm Chúc – Văn tế, vái một vái rồi đưa cho người đọc Chúc- Văn tế.
Đông xướng – xướng: Tuyên Chúc (đọc Chúc): Đọc Văn tế, đọc xong Chủ tế lạy 2 lạy rồi lui ra chiếu của mình.
– Đông xướng – xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
– Đông xướng – xướng: Bái (lạy): Chủ tế và Bồi tế đều bái lạy.
– Đông xướng – xướng: Bình thân (đứng dậy về vị trí cũ): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy về vị trí cũ.
– Đông xướng – xướng: Phục vị (về vị trí cũ): Chủ tế và Bồi tế quay về chỗ cũ ở chiếu tế.
Á hiến lễ (dâng rượu tuần thứ 2):
– Đông xướng – xướng: Nghệ tửu tôn sở (xem lại bình rượu quí): Chủ tế đi đến chỗ án để rượu, vào vị trí rót riệu.
– Đông xướng – xướng: Tư tôn giá cử mịch (mở đài riệu, bình riệu): Chấp sự mở cái miếng phủ trên mâm đài, đài riệu, bình riệu. Chủ tế bước tới chỗ án để rượu, Chấp sự mở nắp đài ra.
– Đông xướng – xướng: Chước tửu (Rót rượu): Chấp sự rót riệu vào 2 chén.
– Đông xướng – xướng: Nghệ Đại vương Thần vị tiền (hướng trước Uy thần Thành Hoàng): Hiệu lệnh để nhắc nhở vị Chủ tế, 2 người Nội tán.
– Nội tán xướng: Quỵ (Chủ tế và Bồi tế đều quỳ xuống)
– Đông xướng – xướng: Tiến tửu (hoặc Tiến tước là rước riệu): Chấp sự dâng đài rượu cho Chủ tế để Chủ tế vái một vái, xong lại giao cho Chấp sự.
– Đông xướng – xướng: Hiến tửu (dâng rượu lên Thành Hoàng): Chấp sự đi thành 2 hàng (mỗi hàng 1 Đài riệu), 2 tay nâng 2 Đài rượu (rước riệu) đi vào ban thờ trong Đền đình đi theo nghi thức Xuất Á. Đến ban thờ thì Quỳ dâng rượu lên Thành Hoàng.
– Đông xướng – xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
– Đông xướng – xướng: Bình thân (đứng dậy về vị trí cũ): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy về vị trí cũ.
– Đông xướng – xướng: Phục vị (về vị trí cũ): Chủ tế và Bồi tế quay về chỗ cũ ở chiếu tế theo nghi thức Nhập Ất.
Chung hiến lễ (dâng rượu tuần thứ 3):
– Đông xướng – xướng: Nghệ tửu tôn sở (xem lại bình rượu quí): Chủ tế đi đến chỗ án để rượu, vào vị trí rót riệu.
– Đông xướng – xướng: Tư tôn giá cử mịch (mở đài riệu, bình riệu): Chấp sự mở cái miếng phủ trên mâm đài, đài riệu, bình riệu. Chủ tế bước tới chỗ án để rượu, Chấp sự mở nắp đài ra.
– Đông xướng – xướng: Chước tửu (Rót rượu): Chấp sự rót riệu vào 2 chén.
– Đông xướng – xướng: Nghệ Đại vương Thần vị tiền (hướng trước Uy thần Thành Hoàng): Hiệu lệnh để nhắc nhở vị Chủ tế, 2 người Nội tán.
– Nội tán xướng: Quỵ (Chủ tế và Bồi tế đều quỳ xuống)
– Đông xướng – xướng: Tiến tửu (hoặc Tiến tước là rước riệu): Chấp sự dâng đài rượu cho Chủ tế để Chủ tế vái một vái, xong lại giao cho Chấp sự.
– Đông xướng – xướng: Hiến tửu (dâng rượu lên Thành Hoàng): Chấp sự đi thành 2 hàng (mỗi hàng 1 Đài riệu), 2 tay nâng 2 Đài rượu (rước riệu) đi vào ban thờ trong Đền đình đi theo nghi thức Xuất Á. Đến ban thờ thì Quỳ dâng rượu lên Thành Hoàng.
– Đông xướng – xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
– Đông xướng – xướng: Bình thân (đứng dậy về vị trí cũ): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy về vị trí cũ.
– Đông xướng – xướng: Phục vị (về vị trí cũ): Chủ tế và Bồi tế quay về chỗ cũ ở chiếu tế theo nghi thức Nhập Ất.
Ẩm phúc (hưởng riệu dâng Thần – Thành Hoàng): 2 Chấp sự vào nội điện bưng ra 1 chén rượu và một Đài trầu).
Nghệ ẩm Phúc vị (vào vị trí hưởng riệu): Chủ tế vào chiếu thứ 2 – chiếu Thụ tộ.
Quỵ (quỳ): Chủ tế quỳ xuống. 2 Chấp sự đưa chén rượu, Đài trầu cho Chủ tế)
Ẩm phúc (hưởng riệu lộc Thần – Thành Hoàng): Chủ tế bưng lấy chén rượu vái, lấy tay áo che mồm uống 1 hơi hết ngay.
Thụ tộ (hưởng lộc Thần – Thành Hoàng ban): Chủ tế cầm Đài trầu hoặc bánh hoặc miếng thịt, vái xong rồi ăn 1 miếng.
Tạ lễ cúc cung bái (Bái lạy tạ lễ): Chủ tế và Bồi tế đều bái lạy lần thứ nhất.
– Tây xướng – xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
– Đông xướng – xướng: Bái (lạy): Chủ tế và Bồi tế đều bái lạy lần thứ 2.
– Tây xướng – xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
– Đông xướng – xướng: Bái (lạy): Chủ tế và Bồi tế đều bái lạy lần thứ 3.
– Tây xướng – xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
– Đông xướng – xướng: Bái (lạy): Chủ tế và Bồi tế đều bái lạy lần thứ 4.
– Tây xướng – xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
Phần chúc (hóa Chúc): Đem Chúc đi hóa.
Lễ tất (Lễ tế xong): Dân làng, khách thập phương dự lễ vào trong đền Dâng hương, Dâng lễ,cúng Thần – Thành hoàng.
https://taaonamtri.wordpress.com/page/2/
http://daotroiphapphat.com/nhu-y-phap-mon/3/
NHƯ Ý Pháp môn | LONG HOA PHÁP VƯƠNG PHẬT | Page 3
daotroiphapphat.com/nhu-y-phap-mon/3/
Translate this page
Jan 26, 2014 - Là vị Thượng Đế Chúa Tể Càn Khôn, là Vua trên muôn Vua, là vị cầm nắm quyền binh trong Trời Đất và vũ trụ Càn Khôn. Mỗi Phật Tiên Thần Thánh và ... Như Ý Pháp Môn cho những hàng Tỳ Kheo, La Hán, Bồ Tát, Ấu Phật, Á Phật, Thần Phật, Kiết Phật, Thánh Phật, La Hán Phật, Tỳ Kheo Phật và Bồ Tát ...
Tâm linh con người
28 Tháng 3 2015 ·
Đến Chùa hành lễ cần theo thứ tự như sau:
1. Đặt lễ vật: Thắp hương và làm lễ ban thờ Đức Ông trước.
2. Sau khi đặt lễ ở ban Đức Chúa xong, đặt lễ lên hương án của chính điện, thắp đèn nhang, thỉnh 3 hồi chuông rồi làm lễ chư Phật, Bồ Tát.
3. Sau khi đặt lễ chính điện xong thì đi thắp hương ở tất cả các ban thờ khác của nhà Bái Đường. Khi thắp hương lên đều có 3 lễ hay 5 lễ. Nếu Chùa nào có điện thờ Mẫu, Tứ Phủ thì đến đó đặt lễ, dâng hương cầu theo ý nguyện.
4. Cuối cùng thì lễ ở nhà thờ Tổ (nhà Hậu)
5. Cuối buổi lễ, sau khi đã lễ tạ để hạ lễ thì nên đến nhà trai giới hay phòng tiếp khách để thăm hỏi các vị sư, tăng trụ trì và có thể tuỳ tâm công đức.
VĂN KHẤN LỄ PHẬT
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Hôm nay là ngày ..... tháng ..... năm .....
Tín chủ con là .................................................. ...............................................
Ngụ tại .................................................. .................................................. ........
Cùng toàn thể gia đình thành tâm trước Đại Hùng Bảo Điện, nơi chùa ............ dâng nén tâm hương, dốc lòng kính lạy:
Đức Phật Thích Ca, Đức Phật Di Đà, Mười phương chư Phật, Vô thượng Phật pháp, Quán Âm Đại Sỹ, cùng Thánh hiền Tăng.
Đệ tử lâu đời, lâu kiếp, nghiệp chướng nặng nề, si mê lầm lạc. Nay đến trước Phật đài, thành tâm sám hối, thề tránh điều dữ, nguyện làm việc lành. Ngửa trông ơn Phật, Quán Âm Đại Sỹ, chư Thánh hiền Tăng, Thiên Long Bát bộ, Hộ pháp Thiên thần, từ bi gia hộ. Khiến cho chúng con và cả gia đình tâm không phiền não, thân không bệnh tật, hàng ngày an vui, sống và làm việc theo pháp Phật nhiệm màu, để cho vận đáo hanh thông, muôn thuở nhuần ơn Phật pháp.
Đặng mà cứu độ cho các bậc Tôn Trưởng cha mẹ, anh em, thân bằng quyến thuộc, cùng cả chúng sinh đều thành Phật đạo.
Dãi tấm lòng thành, cúi xin bái thỉnh.
Cẩn nguyện
VĂN KHẤN Ở BAN TAM BẢO
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Đệ tử con thành tâm kính lạy Mười phương chư Phật, chư vị Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng, Hộ pháp Thiện thần, Thiên Long Bát Bộ.
Hôm nay là ngày ..... tháng ..... năm .....
Tín chủ con là .................................................. ...............................................
Ngụ tại .................................................. .................................................. ........
Thành tâm dâng lễ bạc cùng sớ trạng (nếu viết sớ đặt trên mâm lễ vật) lên cửa Mười phương Thường trụ Tam Bảo.
Chúng con xin dốc lòng kính lễ:
- Đức Phật A Di Đà giáo chủ cõi Cực Lạc Tây phương.
- Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo chủ cõi Sa Bà.
- Đức Phật Dược Sư Lưu Ly giáo chủ cõi Đông phương.
- Đức Thiên thủ, Thiên nhãn, Ngũ bách danh tầm thanh cứu khổ cứu nạn, linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát.
- Kính lạy Đức Hộ Pháp thiện thần Chư Thiên Bồ Tát.
Kính xin chư vị rủ lòng từ bi, phù hộ độ trì cho con, nguyện được .................................... (công danh, tài lộc, giải hạn, bình an…).
Nguyện xin chư vị, chấp kỳ lễ bạc, tâm thành (sớ trạng) chứng minh, chứng giám cho con được tai quan nạn khỏi, điều lành đem đến, điều dữ tiêu tan, phát lộc phát tài, gia trung mạnh khoẻ, trên dưới thuận hoà an khang thịnh vượng.
Chúng con người phàm trần tục lầm lỗi còn nhiều. Cúi mong Phật, Thánh từ bi đại xá cho con (và gia đình) được tai qua nạn khỏi, mọi sự tốt lành, sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm.
Dãi tấm lòng thành, cúi xin bái thỉnh.
Cẩn nguyện
VĂN KHẤN LỄ ĐỨC ÔNG
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Kính lạy Đức Ông Tu Đạt Tôn Giả, Thập Bát Long Thần, Già Lam Chân Tể.
Hôm nay là ngày ..... tháng ..... năm .....
Tín chủ con là .................................................. ...............................................
Ngụ tại .................................................. .................................................. ........
Cùng cả gia đình thân tới cửa Chùa ................................... trước điện Đức Ông, thành tâm kính lễ, (nếu có đang lễ vật thì khấn thêm “hiến dâng phẩm vật, kim ngân tịnh tài”). Chúng con tâu lên Ngài Tu Đạt Tôn Giả từ cảnh trời cao soi xét.
Chúng con kính tâu lên Ngài Già Lam Chân Tể cai quản trong nội tự cùng các Thánh Chúng trong cảnh nhà Chùa.
Thiết nghĩ: Chúng con sinh nơi trần tục, nhiều sự lỗi lầm, hôm nay tỏ lòng thành kính, cúi xin Đức Ông thể đức hiếu sinh, rủ lòng tế độ che chở cho chúng con, ba tháng hè chín tháng đông, tiêu trừ bệnh tật tai ương, vui hưởng lộc tài may mắn, cầu gì cũng được, nguyện gì cũng thành.
Dãi tấm lòng thành, cúi xin bái thỉnh.
Cẩn nguyện
VĂN KHẤN LỄ ĐỨC ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
(U Minh giáo chủ)
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô Đại bi, Đại nguyện, Đại thánh, Đại từ Bản tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Kính lễ Đức U Minh giáo chủ thuỳ từ chứng giám
Hôm nay là ngày ..... tháng ..... năm .....
Tín chủ con là .................................................. ...............................................
Ngụ tại .................................................. .................................................. ........
Thành tâm đến trước Phật đài, nơi điện Cửa hoa, kính dâng phẩm vật, hương hoa kim ngân tịnh tài, ngũ thể đầu thành, nhất tâm kính lễ dưới Toà sen báu.
Cúi xin Đức Địa Tạng Vương không rời bản nguyện, theo Phật phó chúc trên cung trời Đạo Lợi, chở che cứu vớt chúng con và cả gia quyến, như thể mẹ hiền, phù trì con đỏ, nhờ ánh ngọc Minh Châu tiêu trừ tội, trí tuệ mở mang, được mây từ che chở, tâm đạo khai hoa, não phiền nhẹ bớt. Khi còn sống thực hành thiện nguyện, noi gương Đại Sỹ, cứu độ chúng sinh. Khi vận hạn ốm đau, nhờ được đức từ hộ niệm, Thần Linh bản xứ giúp yên. Lúc lâm chung được nhờ ánh bi quang, vượt khỏi tam đồ, sinh lên cõi thiện.
Lại nguyện cho Hương linh Gia tiên chúng con nhờ công đức cúng dâng này thảy đều siêu thoát.
Dãi tấm lòng thành, cúi xin bái thỉnh.
Cẩn nguyện
VĂN KHẤN LỄ ĐỨC QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
(Phật Bà Quan Âm)
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô Đại từ, Đại bi Linh cảm Quán Thế Bồ Tát.
Kính lạy Đức Viên Thông giáo chủ thuỳ từ chứng giám.
Hôm nay là ngày ..... tháng ..... năm .....
Tín chủ con là .................................................. ...............................................
Ngụ tại .................................................. .................................................. ........
Thành tâm đến trước Phật đài, nơi điện Đại bi, kính dâng phẩm vật, hương hoa kim ngân tịnh tài, ngũ thể đầu thành, nhất tâm kính lễ dưới Toà sen hồng.
Cúi xin Đức Đại Sỹ không rời bản nguyện chở che cứu vớt chúng con như mẹ hiền phù trì con đỏ. Nhờ nước dương chi, lòng trần cầu ân thanh tịnh, thiện nguyện nêu cao. Được ánh từ quang soi tỏ, khiến cho nghiệp trần nhẹ bớt, tâm đạo khai hoa, độ cho đệ tử cùng gia đình bốn mùa được chữ bình an, tám tiết khang ninh thịnh vượng, lộc tài tăng tiến, gia đạo hưng long, mầm tai ương tiêu sạch làu làu, đường chính đạo thênh thang tiến bước. Cầu gì cũng được, nguyện gì cũng thành.
Dãi tấm lòng thành, cúi xin bái thỉnh.
Cẩn nguyện
VĂN KHẤN LỄ ĐỨC THÁNH HIỀN
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Con cúi lạy Đức Thánh Hiền, Đại Thánh Khải Giáo A Nan Đà Tôn Giả.
Hôm nay là ngày ..... tháng ..... năm .....
Tín chủ con là .................................................. ...............................................
Ngụ tại .................................................. .................................................. ........
Chúng con thành tâm tiến dâng lễ bạc, oản quả, hương hoa.
Cầu mong Tam Bảo chứng minh, Đức Thánh Hiền chứng giám, rủ lòng thương xót phù hộ cho con được mọi sự tốt lành, hạnh phúc an lạc ............ (tài lộc, cửa nhà)
Cúi mong Ngài soi xét tâm thành, phù hộ cho gia đình chúng con được sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm.
Dãi tấm lòng thành, cúi xin bái thỉnh.
Cẩn nguyện
5 lượt thích2 lượt chia sẻ
https://www.facebook.com/tamlinhconn...88207248018070
Chùa Hộ Pháp
05/07/2014 4393
Từ Thành Phố Hồ Chí Minh ra Vũng Tàu, theo Quốc lộ 51, đến cây số 80, qua khỏi khu Đại Tòng Lâm một đoạn quẹo phải, vào cổng khu Công Nghiệp Phú Mỹ, theo đường tráng nhựa chạy thẳng vào hơn 1km là đến cổng chùa.
Cổng ngoài của chùa có hai cột xây bằng đá xanh , bảng tên Chùa Hộ Pháp nền xanh chữ vàng, đi vào vài chục thước cổng tam quan chùa, rộng với hai tầng mái cong xây theo kiến trúc cổ nằm phía trái đường.
chùa hộ pháp
Từ trên cao nhìn xuống Chùa
Xem thêm: Các khách sạn giá tốt ở Bà Rịa - Vũng Tàu
Chùa được xây dựng trên một khuôn viên rộng 20 mẫu, có nhiều cơ sở, được kiến trúc theo sơ đồ sau:
Qua khỏi cổng Tam Quan , sân chùa rộng trồng nhiều loại cây kiểng và hoa.. Ở giữa sân là tượng Bồ Tát Quan Thế Âm. Chánh Điện xây theo hình chữ "Đinh". Trước là một toà nhà cao hai tầng, với hai tầng máy cong.
chùa hộ phápHình ảnh phía trước Chùa Hộ Pháp - Vũng Tàu
Đỉnh mái tiền Đường trang trí :" Lưỡng Long Bảo Pháp" hai con rồng ngoảng đầu chầu về bánh xe pháp ở giữa. Mặt tiền Chánh Điện rộng 12m, cao 11m nối liển với Chánh điện rộng 8m dài 16m.
Bên phải Chánh điện là Nhà khách rộng 8m dài 21m với hành lang xung quanh. Bên trái Chánh điện là dãy nhà dài, chia làm hai phần. Phòng ngoài là phòng khách, phía trong là phương trượng của Thượng Toạ khai sơn. Phía sau Chánh Điện, cách hành lang rộng 2m là phòng khách tiếp Tăng Ni và Quan Khách, hai bên là hai phòng Trai Đường.
chùa hộ phápCác hàng cây xung quanh Chùa Hộ Pháp - Vũng Tàu
Ở đâu khi đi du lịch tại Bà Rịa - Vũng Tàu ?
Khách Sạn Sea Mountain Vũng Tàu Khách Sạn Sea Mountain Vũng Tàu
7.8
Giá từ: 1,682,000 đ
Bình Minh Resort (KDL Hồ Mây) Khu du lịch Hồ Mây
6.7
Giá từ: 1,747,000 đ
Seaside Resort Vũng Tàu Seaside Resort Vung Tau
8.1
Giá từ: 1,740,000 đ
Khách Sạn Kỳ Hòa Vũng Tàu Khách Sạn Kỳ Hòa Vũng Tàu
7.9
Giá từ: 2,900,000 đ
Xem thêm: Các khách sạn giá rẻ tại Vũng Tàu
Sau dãy nhà khách bên phải Chánh Điện, Thượng Toạ Viện Chủ đang xây dựng Bảo Tháp hình lục giác cao 9 tầng, thờ Xá Lợi của Phật cao 21m, đường kính đáy 10m . Bảo Tháp thờ 18 viên Xá Lợi của Phật Thích Ca do Tôn Giả NaRaDa Chủ tịch Hội Phật Giáo Thế Giới Tặng. Tôn giả tặng cho một vị Sư Trung hoa gốc Miến Điện, vị Sư này tặng lại cho Thượng Toạ Viện chủ Chùa Hộ Pháp vào năm 1997. Phía bên phải Tháp cách một khoảng sân là Chùa Một Cột.
Chùa Một Cột hình vuông mỗi cạnh 3m, dựng trên một hồ sen nước hình chữ nhựt 14m * 12m. Chung quanh Chùa là khu vườn nhiều cây cảnh , nhiều loại hoa và nhiều cây ăn trái (xoài, vú sữa, dừa...).
chùa hộ phápCác sư tham gia lễ cầu an
Xem thêm: Các tour giá tốt ở Bà Rịa - Vũng Tàu
Năm 1990, khu Dầu khí được thành lập, Chùa phải nhượng lại 16 mẫu vườn. Nhờ tiền bồi thường, Thượng Toạ xây dựng lại Chùa: xây Cổng Tam Quan, dựng mặt tiền Chánh Điện thành hai tầng lầu với hai tầng mái cao và khởi công xây dựng Trường Cơ Bản Phật Học Đại Tòng Lâm.
Ngoài công trình xây dựng Chùa Hộ Pháp Thượng Toạ Thích Quảng Hiển còn là người sáng lập và xây dựng Trường Phật Học Đại Tòng Lâm, chi phí từ năm 1990 đến nay gồm cả xây dựng và đời sống tu học cho Tăng Ni cả hai lớp Cơ Bản và Cao Đẳng, gần 10 năm qua một khoảng tiền rất lớn , có thề nói tính hết 2/3 khoảng tiền bồi thường số đất Chùa Hộ Pháp để xây dựng Trường Phật Học Đại Tòng Lâm.
chùa hộ phápKhuôn viên trong Chùa Hộ Pháp - Vũng Tàu
Thượng Toạ góp nhiều công đức trong việc xây dựng Trường Phật Học tỉnh Đồng Nai ở Đại Tòng Lâm vào năm 1991. Trường này, đổi thành trường Cơ Bản Phật Học tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu (hay Trường Phật Học Đại Tòng Lâm).
Thượng Toạ Thích Quảng Hiển hiện là phó Ban Trị Sự Tỉnh Hội Phật Giáo tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, Hiệu Trưởng Trường Cơ Bản Phật Học Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu .
https://mytour.vn/location/1301-chua-ho-phap.html
============
LỊCH TU HỌC VÀ THUYÊT GIẢNG TẠI CHÙA HỘ PHÁP - GẦN CHÙA ĐẠI TÒNG LÂM
THÔNG BÁO
Tại chùa Hộ Pháp có tổ chức cộng tu mỗi ngày Chủ Nhật do ĐĐ.Thích Giác Nhàn hướng dẫn tu tập vào tháng 12 năm Giáp Ngọ 2014
I/ Chương trình tu học và thuyết giảng do ĐĐ.Thích Giác Nhàn trực tiếp hướng dẫn
- Tháng 12: Chủ Nhật, Ngày 13 tháng 12 âm lịch Giáp Ngọ (Dương lịch: 01 – 02 – 2015)
+ Địa điểm: Chùa Hộ Pháp – TT.Phú Mỹ – Huyện Tân Thành – Bà Rịa Vũng Tàu (Gần Chùa Đại Tòng Lâm - Nằm trong Khu Công Nghiệp Phú Mỹ) - Đi ra từ cổng Đại Tòng Lâm quẹo trái bỏ ngã tư đèn xanh-đỏ thứ nhất tới ngã tư đèn xanh-đỏ thứ hai (đối diện chợ tân thành) quẹo phải. Đi thẳng tới vòng xoay nhìn sang bên trái là chùa Hộ Pháp.
+ Điện Thoại Liên Lạc:
Chú Hiền: 01652.141.757 Chú Hiếu: 01218.516.078
Chú Hạnh: 0932.686.655 Chú Phúc: 01649.810.738
Tịnh Thất Quan Âm - Chú Quang: 0909.74.74.74
Chùa Hộ Pháp Gần Chùa Đại Tòng Lâm Bà Rịa Vũng Tàu
II/ Thời khóa tu học: (từ 8 giờ sáng đến 4 giờ 30 chiều)
7:30 – 8:30: Phật tử vân tập.
8:30 – 10:00: Tụng kinh Vô Lượng Thọ, niệm Phật A Di Đà.
10:00 – 11:30: thuyết giảng.
11:30 – 1:30: thọ trai.
1:30 – 3:00: Tụng Kinh Vô Lượng Thọ, niệm Phật A Di Đà.
3:00 – 4:00: thuyết giảng.
4:00 – 4:30: Cúng thí thực, Phóng Sanh và hoàn mãn.
+ Muốn xem đầy đủ thông tin xin vào:
Website: www.voluongtho.vn
Email: tinhthatquanam@voluongtho.vn
Nhạc Thần Khẩn Na La (Kiṃnarendra: Khẩn Na La Chủ)
Tô La (Surendra: Tu La Chủ), Kim Sí Chủ (Garuḍendra)
=======
Đại Địa Thần Nữ (Pṛthivī devatā) này
Thần quả trái (Phala-śasyādhi-devatā), vườn rừng (ārāma-vṛkṣa-devatā)
Thần cây (Vṛkṣa-devatā), Thần sông nước (Vāsinyonadi-devatā)
Thần Chế Để (Caityāni-devatā), các Thần (Devatā)
Thần rừng, quả, lúa mạ (Phala-śasya-vana-devatā: Lâm Quả Miêu Giá Thần)
========
Tăng thọ mạng (Āyur)
https://quangduc.com/a26628/kinh-kim-quang-minh
Bho (p): Tôn giả.
http://www.tuvienquangduc.com.au/tud...nphucPV-b.html
Ayusmat (S) Cụ thọ → Huệ mạng → 1- Bậc đầy đủ huệ và đức hạnh được mọi người tôn kính. 2- Huệ mạng: thọ mạng ở thế gian.
Cụ Thọ (Āyuṣmat: lời tôn xưng hàng A La Hán)
https://quangduc.com/a26628/kinh-kim-quang-minh
===========
Các Đại Thanh Văn (Mahā-śrāvaka)
Acarin (skt): Hành giả—Practitioner—One who practises and performs the duties of a disciple.
Acariya-mutthi (p): Mật giáo—Esoteric doctrine—Secret teaching.
Acarya (skt) Acharya (p): A Kỳ Lợi—A Già Lợi Da—A Già Lê Da—A Xà Lê—Giáo thọ—Một trong hai loại thầy tinh thần được biết đến ...
Thượng Thủ (Pramukha)
Vô Thượng Bồ Đề (Agra-bodhi),
Hương Sơn (Gandha-mādana: tục gọi là núi Côn Lôn)
Lưỡng Túc Tôn (Dvipadottama: một tên hiệu của Đức Phật)
Tối Thắng Mâu Ni Tôn (Muṇīndra)
Đại Chúng Sinh (Mahā-satva)
Amoghavajra (不空金剛)
http://www.tanhongthai.com/products/...-th%E1%BA%A7n/
SINH TRAI HAY GÁI
SINH TRAI HAY GÁI
images_3
Phương pháp tính sinh trai hay gái.
Sinh trai hay gái là do lẽ tự nhiên của tạo hóa. Nhưng khi cuộc sống phát triển, nhu cầu sinh trai hay gái cũng xuất hiện. Nhiều gia đình sinh con một bề muốn cho “có nếp có tẻ” đối khi rất muốn sinh con theo giới tính được định sẵn. Khoa học hiện đại cũng có nhiều công trình nghiên cứu về việc này. Chúng tôi sưu tầm dưới đây là những phương pháp còn lưu truyền trong dân gian thuộc cổ học Đông phương để các bậc phụ huynh tham khảo.
Phương pháp thứ I
Lấy tuổi vợ chồng theo tuổi Âm lịch, sau đó cộng tuổi vợ chồng trừ đi 40. Nếu số dư trên 40 tiếp tục trừ đi 40. Lấy số dư còn lại đầu tiên trừ 9, tiếp tục trừ 8, lại trừ 9, trừ 8… cho đến khi số dư nhỏ hơn hoặc bằng 9 -8 thì thôi.
1 - Hiệu số cuối cùng còn lại là số chẵn thì cấn bầu trong năm sinh trong trong năm là con trai. Ngược lại cấn bầu ngoài năm sinh trong năm là con gái.
2 - Hiệu số cuối cùng còn lại là số lẻ thì cấn bầu trong năm sinh trong trong năm là con gái. Ngược lại cấn bầu ngoài năm sinh trong năm là con trai.
Thí dụ:
Tuổi chồng 37. Tuổi vợ 32.
Tổng số 69.
69 – 40 = 29.
29 – 9 = 20.
20 – 8 = 12.
12 – 9 = 3.
Theo phương pháp này:
Nếu hai vợ chồng này cấn bầu trong năm và sinh trong năm sẽ sinh con gái. Ngược lại, cấn bầu trong năm nay và sinh trong năm tới sẽ sinh con trai.
Phương pháp thứ II
Phương pháp này bắt đầu từ một bài ca quyết lưu truyền sau đây:
Nguyên văn:
49 từ xưa đã định rồi.
Cộng vào tháng đẻ để mà chơi.
Trừ đi tuổi mẹ bao nhiêu đấy!
Thêm vào 19 để chia đôi.
Tính tuổi trăng tròn cho thật chuẩn.
Chẵn trai, lẻ gái đúng mười mười.
Như vậy; nếu chúng ta gọi tháng sinh là “n” và tuổI mẹ là “M” thì sẽ có bài toán là:
(49 + n – M +19): 2
Giản lược công thức trên , ta có:
(68 + n – M) :2.
Thí dụ:
Mẹ 32 tuổi, sinh con tháng 9 Âm lịch.
Thay vào công thức trên ta có: n = 9; M = 32.
(68 + 9 – 32): 2 = 22. 5.
Lẻ. Theo phương pháp này thì bà mẹ 32 tuổi sinh tháng 9 sẽ là con gái.
Phương pháp thứ III
Ứng dụng bảng tổng kết theo Lịch Vạn sự về “tháng thụ thai sinh trai hay gái” như sau:
T.mẹ:18-19-20-21-22-23-24-25-26-27-28-29-30-31-32-33-34-35-36-37-38-39-40.
Tháng
thụthai:
1: 0 . + . 0 . + . 0 . + . + . 0 . + . 0 . + . 0 . + . + . + . 0 . + . + . 0 . + . 0 . 0 . 0.
2: + . 0 . + . 0 . + . + . 0 . + . 0 . + . 0 . + . 0 . 0 . 0 . + . 0 . + . + . 0 . + . + . +.
3: 0 . + . 0 . 0 . + . 0 . + . + . + . 0 . + . 0 . + . + . + . 0 . + . 0 . + . + . o . 0 . 0.
4: + . 0 . + . 0 . 0 . + . + . 0 . 0 . + . 0 . + . 0 . 0 . 0 . + . 0 . + . 0 . + . + . + .+.
5: + . 0 . + . 0 . + . + . 0 . + . 0 . + . 0 .+ . 0 . 0 . 0 . + . 0 . 0 . + . 0 . + . 0 .0.
6: + . + . + . 0 . + . 0 . + . 0 . + . 0 . 0 .+ . 0 . 0 . 0 . 0 . 0 . 0 . 0 . + . + . + .+.
7: + . 0 . + . 0 . + . + . + . + . 0 . + . + .+ . 0 . 0 . 0 . 0 . 0 . 0 . 0 . 0 . + . + .+.
8: + . 0 . + . 0 . 0 . 0 . 0 . + . + . + . + . + . 0 . 0 . 0 . + . 0 . + . + . + . 0 . 0 .0.
9: + . 0 . + . 0 . 0 . + . 0 . + . 0 . + . + . + . 0 . 0 . 0 . 0 . 0 . + . 0 . 0 . + . + .+.
10:+ . 0 . + . 0 . 0 . + . 0 . + . 0 . 0 . + . 0 . + . 0 . 0 . 0 . 0 . + . + . + . 0 . 0. 0.
11:+ . 0 . + . 0 . 0 . + . 0 . + . 0 . + . 0 . 0 . + . + . + . + . + . + . + . + . + . +. +.
12:+ . 0 . + . 0 . 0 . + . 0 . + . 0 . + . 0 . 0 . + . + . + . + . + . + . 0 . + . + . 0 .0.
Theo bảng này, chúng ta xem cột tuổi người mẹ phía trên từ 18 đến hết 40. Cột dọc bên trái ứng với tháng thụ thai. Nếu rơi vào ô có dấu “+” là sinh con trai, dấu “0″ là con gái.
Tương truyền đây là bảng tổng kết của các quan Thái Giám trong cung đình xưa.
Cách kết hợp ba phương pháp
Ba phương pháp này lưu truyền rời rạc trong dân gian. Chúng đều khó kiểm định tính hiệu quả cho từng phương pháp. Nhưng chúng tôi nhận xét thấy rằng:
1 - Phương pháp I tính năm sinh con theo ý muốn.
2 - Phương pháp II tính tháng sinh con theo ý muốn.
3 - Phương pháp III tính tháng cấn bầu để sinh con theo ý muốn.
Ba phương pháp này tuy khác nhau nhưng không phủ định nhau về nguyên tắc.
Bởi vậy, sự kết hợp cả ba phương pháp sẽ cho chúng ta một xác xuất cao hơn.
1 - Trước hết chúng ta áp dụng phương pháp thứ I để xác định một cách tổng quát nên cấn bầu và sinh trong năm hay cấn bầu năm nay sinh năm tới.
2 – Sau đó áp dụng phương pháp thứ II. Giả thiết rằng chúng ta cần một con số chẵn cho tháng sinh thì – Khi tuổi mẹ lẻ, tháng sinh phải lẻ và ngược lại thì kết quả của công thức trên sẽ cho ra một số chẵn.
3 – Sau khi xác định được tháng sinh là lẻ (Hoặc chẵn), lúc đó ta áp dụng phương pháp thứ III. Giả thiết tháng sinh lẻ, ta sẽ chọn trong bảng tháng thụ thai thích hợp với tháng lẻ hoặc chẵn cần tìm.
Thí dụ:
Chồng 31, vợ 27.
* Giả thiết rằng vợ chồng này muốn sinh con trai.
I - Ứng dụng phương pháp thứ I
Cộng tuổi vợ chồng 31 + 27 = 58.
58 - 40 = 18.
18 - 9 = 9
9 - 8 = 1.
Như vậy số dư là 1 là số lẻ. Sang năm vợ chồng đều cộng lên 2 tuổi sẽ có số dư 3 cũng là số lẻ. Do đó nếu có bầu và sinh con trọn năm sẽ là con gái và ngoài năm sẽ là con trai.
Vậy theo điều kiện của phương pháp I thì muốn sinh con trai phải có bầu trong năm này và sinh vào năm sau.
II - Ứng dụng phương pháp II
Sau khi xác định phải có bấu trong năm nay và sinh năm sau, ta ứng dụng phương pháp II để chọn tháng sinh con theo công thức:
(68 + n – M): 2.
Ta có: Tuổi mẹ M = 27.
Thay thế vào công thức trên ta có:
(68 + n – 27): 2 = (41 +n): 2.
“n” là tháng sinh. Như vậy để thỏa mãn tháng sinh chẵn con trai thì tháng sinh phải chọn tháng lẻ.
III - Ứng dụng phương pháp III.
Sau khi xác định phải sinh trong tháng lẻ và phải cấn bầu năm nay (27 tuổi) và sinh năm sau (28 tuổi), ta tra bảng trên để tìm một tháng lẻ trong năm 28 tuổi (Như 1 – 3 – 5 – 7 ….) và tính lùi 9 tháng để rơi vào một tháng cấn bầu thích hợp có dấu +.
Cụ thể là:
Nhìn vào cột ngang ô người mẹ 28 tuổi (Giả thiết năm hiện tại là 27, sinh vào sang năm là 28). Nhưng tháng lẻ có khả năng sinh con trai theo phương pháp II là 1 - 3 - 5 - 7 .
- Trường hợp chọn tháng Giêng năm 28 tuổi thì cấn bầu tháng 6 năm 27 tuổi. Cấn bầu tháng 6 năm 27 tuổi bảng cho biết khả năng sinh con trai (Dấu +).
- Trường hợp chọn tháng Ba thì cấn bấu tháng 8 năm 27 tuổi. Cấn bầu tháng 8 năm 27 tuổi, bảng cho biết khả năng sinh con trai (Dấu +)
- Trường hợp chọn tháng Năm thì cấn bấu tháng 10 năm 27 tuổi. Cấn bầu tháng 10 năm 27 tuổi, bảng cho biết sinh con gái (Dấu 0). Không thỏa mãn giả thiết trên.
Như vậy, khi kết hợp cả ba phương pháp, cho người mẹ 27 tuổi chồng 31 thì điều kiện thỏa mãn cả ba phương pháp là cấn bầu tháng 6 hoặc 8 năm vợ 27 tuổi và sinh vào năm 28 tuổi.
* Giả thiết rằng vợ chồng này muốn sinh con gái.
I - Ứng dụng phương pháp thứ I
Cộng tuổi vợ chồng 31 + 27 = 58.
58 - 40 = 18.
18 - 9 = 9
9 - 8 = 1.
Như vậy số dư là 1 là số lẻ. Sang năm vợ chồng đều cộng lên 2 tuổi sẽ có số dư 3 cũng là số lẻ. Do đó nếu có bầu và sinh con trọn năm sẽ là con gái.
Vậy theo điều kiện của phương pháp I thì muốn sinh con gái phải có bầu và sinh trọn trong năm nay, hoặc có bầu và sinh trọn trong năm sau.
II - Ứng dụng phương pháp II
Sau khi xác định phải có bấu và sinh trọn trong năm nay (Hoặc trọn năm sau), ta ứng dụng phương pháp II để chọn tháng sinh con theo công thức:
(68 + n – M): 2.
Ta có: Tuổi mẹ M = 27.
Thay thế vào công thức trên ta có:
(68 + n – 27): 2 = (41 +n): 2.
“n” là tháng sinh. Như vậy để thỏa mãn tháng sinh lẻ con gái thì tháng sinh phải chọn tháng chẵn.
III - Ứng dụng phương pháp III.
Sau khi xác định phải sinh trong tháng chẵn và phải cấn bầu và sinh trọn năm nay (27 tuổi); hoặc trọn năm sau (28 tuổi), ta tra bảng trên để tìm một tháng chẵn trong năm 27 (Hoặc 28) tuổi (Như 2 – 4 – 6 – 8 ….) và tính lùi 9 tháng để rơi vào một tháng cấn bầu thích hợp có dấu +.
Như vậy, ta đã ứng dụng cả ba phương pháp cho giả thiết vợ chồng trong thí dụ trên sinh con gái.
Nhưng dân gian ta có câu:
“Người tính không bằng trời tính”
Bởi vậy, cũng xin lưu ý là moị chuyện theo tự nhiên là tốt nhất. Tuy kết quả trên khá chính xác. Nhưng còn số phận người đó có thể sinh trai hay gái hay không lại là chuyện khác. Muốn thay đổi số phận, điều đầu tiên phải tạo phúc đức đã.
Chúc vạn sự như ý.
Theo: Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương
Xem thêm thông tin: http://www.tanhongthai.com/products/sinh-trai-hay-gai/
https://sites.google.com/site/hiepth...m-ong/xam-so-3
( việt Ngữ phía dưới )
第3簽 中吉 古人占驗:賈誼遇漢文
衣食自然生處有。勸君不用苦勞心。
但能孝悌存忠信。福祿來成禍不侵。
聖意:
問名利。自有時。訟和吉。病瘥遲。
求財平。婚未宜。宜謹守。免憂疑。
病平=產尚遲。病可治
功名:一次未中 再接再厲 不可餒 三次即中
六甲:吾身自重 本不甚硬 己身健
求財:雖用心苦 時之不與 莫可奈 今春即轉
婚姻:合之始也 如同路人 久而久
農畜:春夏防疫 秋則見效 循環之 救爾一時
失物:一時不慎 遺落於西 半回半
生意:初沈大海 一時靈感 起死回 出乎意外
丁口:丁旺口盛 唯身必健 方得幸
出行:出之可行 唯勿勉強 強行招 不可不慎
疾病:原因出己 悔不當初 所幸遇
官司:本是芝麻 延伸大火 可收拾 先冷靜己
時運:早春之時 令人寂寞 夏至即
東坡解:
富貴前定。何須強求。徒勞心力。反 傷憂。
事親待人。動合循理。天必佑之。有 無否。
碧仙註:
隨緣安分。直道而行。
心中無愧。自然和平。
解曰:
此籤只宜守舊。不可貪求。但存中直 卻得兩平。
謀事遲。求財阻。婚姻可。風水更。 將生。宜早保。免憂驚。
釋義:
生處有者。戒人凡事依本分。不可貪 。
處家孝悌。則內無怨。處人忠信。則 無怨。毒害消矣。
交財未穩。婚姻主遲。是非口舌。主 為宜。
修身待時。不可徒勞心力。成字或作 字。
故事及記載:
■賈誼遇漢文帝
漢。賈誼。洛陽人。文帝時河南守。 薦之石為博士。年二十餘。
超遷歲中至大中大夫。請改正朔。興 樂。上治安策。降灌等。毀之。
出為長沙王太傅。誼既適去。渡湘水 賦。弔屈原。論者謂賈生。
王佐才遇漢文明主。終不大用。卒悲 而死。豈非天(意)乎。
SỐ 3 TRUNG CÁT
Y thực tự nhiên sanh xứ hữu
Khuyến quân bất dụng khổ lao tâm
Đản năng hiếu đệ tồn trung tín
Phúc lộc lai thời họa bất xâm
Dịch
Áo ấm cơm no sẳn xứ này
Không cần lao khổ đến ngày mai
Trung tín giữ gìn cùng hiếu đệ
Phúc lộc tới liền chẵng họa tai
Tích : Gỉa Nghi gặp Hán văn đế
Thánh ý : Hỏi danh lợi , Phải có thời , Tụng hòa tốt ,
bệnh trị dứt ,cầu tài bình , hôn chưa hợp ,
Nên cẩn phòng , tránh ưu phiền .
Tô đông pha giải : Phú quí tiền định , sao cần nghỉ suy ,
cố mà phí sức , ngược lại u sầu , phải đợi quí nhân ,
giúp thời hợp lý , Trời cao phò trì , hữu hỷ vô bi .
Thơ Bích tiên
Tùy duyên an phận
Trực đạo nhĩ hành
Tâm trung vô quí
Tự nhiên hòa bình
Dịch
Thời phận phải tùy
Đường thẳng mà đi
Lòng không hổ thẹn
An bình tức thì
https://wkdfestivalsaijiki.blogspot..../label/January
http://lotuschef.blogspot.com/2015/0...-votarist.html
http://www.pictame.com/tag/zhenfozhong
http://lotuschef.blogspot.com/2016/0...to-jin-mu.html
https://www.pinterest.com.au/jackson...s-pottery-etc/
http://lotuschef.blogspot.com/2015/0...teach-you.html
http://lotuschef.blogspot.com/2015/0...jakarta-a.html
https://www.summitlighthouse.org/wp-...e-Songbook.pdf
[PDF]Download - The Summit Lighthouse
https://www.summitlighthouse.org/wp-...e-Songbook.pdf
in any form or by any electronic or mechanical means, including ...... Melody: hymn “Spirit of the living God” by Daniel Iverson, arranged by Herbert G. Tovey ...... 5. OM AH MAITREYA NATHAYA. OM AH MY-TRAY-UH NOT-EYE-UH. HUM. PHAT‡. SVAHA. HOOM PUH HUT SWAH-HAH. This mantra invokes Maitreya as a ...
giai tru thu yem
1. KHATI KHATI KHAVITI HẠMCU HAMCU TATI PATI (108 biến)
2. KHATI KHATI KHAVITI HAMCU HAMCU TATI PATI 'SUTE AMITE A'SUTE (108 biến)
Hai câu chú trên trích từ Lục tự chú vương kinh. Nếu bạn bị thư ếm các vật lạ vào cơ thể , bị bùa ngải như ngãi mê ,bùa ngãi yêu ;bị ếm cho phá sản, cho tan nhà nát cửa, cho bịnh tật ,ngớ ngẩn..v.v..bị ếm, trù rủa bằng bất cứ tà thuật nào,ếm từ bất cứ nơi nào,từ đất,nước,từ trong nhà hoặc ngoài ngỏ v.v..khi tụng chú trên tất cả đều bị tiêu diệt.
Bạn có thể tụng một trong hai chú trên, mổi lần tụng nhớ tụng ít nhất 108 biến và nhớ tụng chú an thổ địa trước 7 biến.
Và câu chú thứ ba cũng trong Lục tự chú vương kinh là:
3. ADDHALE PADDHALE KARATÏI CUMETÏI TEJAPATE LETOPATE
DHADHULE TELEDHAKUMATE MATE ‘SUMATE ADDHARA
PADDHARA DADHARA DEDHURA ANAYAMÏ DDHAMA DDHAPATE _
ANA ANAYA MADO MAPA TEJAPATE VIDDHOMATE ARAPADO
PATOVIDE DESATÏI VIDENA _ SVAHA (21 biến)
Bạn đọc chung với một trong hai câu chú trên ,các chú này rất linh nhiệm và linh nghiệm tức khắc ngay ở lần đọc đầu tiên. Đọc đến đâu thấy khoẻ người đến đó.
CHÚ AN THỔ ĐỊA :
NAMHA SAMANTA BUDDHANAM PRTHIVIYE SVAHA
ĐỌC :
Na ma , sa măn ta , bút đa năm , bơ rít thi vi dê , sờ wa ha .
Hai câu chú trên đọc là :
1. Kha ti , kha ti , kha wít ti , hăm chu , hăm chu , ta ti , bắt ti .
2. Kha ti , kha ti , kha wít ti , hăm chu , hăm chu , ta ti , bắt ti , sút(1) tê , a mi tê , a sút tê .
(1) chữ sút đọc như là sús ,không đọc như là : súc (chữ c ở cuối )
http://adatfa.blogspot.com/2012/07/g...u-thu-yem.html
Bổn xứ thành hoàng đại vương tôn thần.
Jackpot 1 Trùng 6 số
Jackpot 2 Trùng 5 số + số đặc biệt
Thành phố Hội An hiện chưa có ga đường sắt. Hầu hết du khách đến Hội An bằng tàu hỏa phải dừng lại ở nhà ga Đà Nẵng hoặc Tam Kỳ. Ga Đà Nẵng là một trong những nhà ga lớn của Đường sắt Việt Nam nằm trong nội thị thành phố. Đây là một trong những ga quan trọng nhất trên tuyến đường sắt Bắc – Nam. Ga Đà Nẵng với các dịch vụ tiện nghi, hiện đại, lại nằm ngay trung tâm thành phố, thuận tiện trong việc di chuyển của du khách. Từ Đà Nẵng, du khách có thể đi xe buýt, thuê xe riêng hoặc taxi về thành phố Hội An. Trạm xe buýt không nằm trong nhà ga tàu hỏa, vì thế du khách cần di chuyển đến trạm để đón xe về thành phố. Còn nếu muốn di chuyển bằng taxi về Hội An, quý khách có thể đón xe tại nhà ga, chi phí dao động khoảng từ 100 – 200.000 ngàn đồng.
http://www.vietfuntravel.com.vn/blog...g-tau-hoa.html
==========
2. Cách đi du lịch Hội An từ Tp. Hồ Chí Minh:
Xe du lịch tự lái, có lái: Bạn có thể chủ động đến Hội An bằng cách thuê xe du lịch tự lái hoặc có lái xe phục vụ. Tuy nhiên với quãng đường trên dưới 900km, các bạn nên lựa chọn di chuyển từ Tp. Hồ Chí Minh tới Đà Nẵng sau đó tiếp tục xuống Hội An.
Cách đi từ Tp. Hồ Chí Minh tới Đà Nẵng:
- Máy bay: Nếu muốn tiết kiệm thời gian tử Tp. Hồ Chí Minh đi Đằ Nẵng, bạn có thể lựa chọn phương thức đi máy bay với hành trình sân bay Tân Sơn Nhất - sân bay Đà Nẵng. Thời gian bay khoảng 1h.
- Xe khách: Từ Hà Nội với 500.000đ - 700.000 tùy chất lượng nhà xe, thời gian 18 đến 20 tiếng bạn dễ dàng mua được vé xe đi Đà Nẵng. Bạn cũng có thể đi xe khách Bắc- Nam và xuống xe tại thành phố Đà Nẵng
- Tàu lửa: Đi xe lửa từ Hà Nội hoặc Sài Gòn đến Đà Nẵng mất khoảng 14 – 20 tiếng tùy thuộc vào chuyến tàu chậm hay nhanh. Giá vé từ Tp. Hồ Chí Minh đi Đà Nẵng: 500.000 – 1.000.000 VNĐ tùy thuộc vào các loại ghế
Cách đi từ Đà Nẵng tới Hội An:
- Xe du lịch tự lái, có lái, taxi: Nếu đi theo nhóm và muốn di chuyển nhiều địa điểm du lịch khác, bạn có thể sử dụng dịch vụ cho thuê xe du lịch tại Đà Nẵng. Giá thuê xe tùy thuộc vào từng loại xe. Giá thuê xe 4,5 chỗ khoảng 500.000-600.000 đồng/ngày; từ 700.000-1.000.000 đồng/ngày đối với xe 7 chỗ, 1.500.000-1.800.000 đồng/ngày đối với xe 29 chỗ,...
- Xe buýt: Để thúc đẩy du lịch Đà Nẵng - Hội An, tuyến xe bus số 1 từ Đà Nẵng đi Hội An được đưa vào sử dụng từ năm 2015. Với mức giá chỉ 25.000 đồng cả tuyến. Thời gian đi từ Đà Nẵng đến Hội An hoặc ngược lại mất khoảng 70-80 phút. Lộ trình xe bus Đà Nẵng - Hội An như sau:
+ Lượt đi: Bến xe Trung tâm Đà Nẵng - Tôn Đức Thắng - Điện Biên Phủ - Lê Duẩn - Trần Phú - Trưng Nữ Vương - Duy Tân - Cầu Nguyễn Văn Trỗi - Ngũ Hành Sơn - Lê Văn Hiến - Bến xe Hội An.
+ Lượt về: Bến xe Hội An - Lê Văn Hiến - Ngũ Hành Sơn - Cầu Nguyễn Văn Trỗi - Bạch Đằng - Phan Đình Phùng - Yên Bái - Lê Duẩn - Điện Biên Phủ - Tôn Đức Thắng - Bến xe Trung tâm Thành phố Đà Nẵng.
- Xe máy: Xe máy là phương tiện di chuyển được rất nhiều người lựa chọn khi du lịch tại Đà Nẵng. Bạn cũng có thể di chuyển từ Đà Nẵng đi Hội An bằng xe máy để khám phá thêm các điểm du lịch khác trên đường đi.
http://diemthamquan.com/cach-di-du-l...h-NDH3530.html
NGUYỄN NGOC THƠ - DƯƠNG HOÀNG LỘC
VIẾT BỞI
VĂN HÓA DÂN GIAN 20 THÁNG 4 2017 LƯỢT XEM: 596
Tìm hiểu lễ vía Thiên Hậu Thánh Mẫu ở cộng đồng ngư dân Sông Đốc (Cà Mau)[1]
TS Nguyễn Ngọc Thơ
ThS Dương Hoàng Lộc
Tóm tắt:
Bài viết này giới thiệu về diễn trình cùng những chức năng chính của lễ vía Thiên Hậu Thánh Mẫu ở cộng đồng ngư dân Sông Đốc (Cà Mau). Diễn trình lễ vía này diễn ra trong hai ngày 22 và 23 tháng Ba âm lịch, thu hút khá đông người dân địa phương tham gia, đặc biệt nhiều nhất là các chủ ghe tàu đang đánh bắt tại ngư trường Sông Đốc, tạo nên nét đặc trưng riêng cho lễ hội này. Mặt khác, lễ vía Thiên Hậu Thánh Mẫu tại đây còn có chức năng ổn định tâm lý cho ngư dân khi ra khơi đánh bắt,đồng thời là kênh để giữ gìn và trao truyền các giá trị văn hóa truyền thống người Hoa địa phương, kết nối cộng đồng lại với nhau.
Từ khóa: Lễ vía, Thiên Hậu Thánh Mẫu, ngư dân, Sông Đốc
1. Dẫn nhập
Đối với cư dân Nam bộ, đặc biệt trong cộng đồng người Hoa, Thiên Hậu là vị thánh mẫu có vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa của họ. Niềm tôn kính Thiên Hậu Thánh Mẫu được thể hiện qua nhiều phương diện và dễ nhận thấy nhất đó là lễ vía Thiên Hậu Thánh Mẫu, được tổ chức trọng thể ở khá nhiều địa phương từ Đồng Nai, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh cho đến các tỉnh cực Nam của nước ta như Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau. Bài viết này đi vào giới thiệu và phân tích một trường hợp cụ thể: Lễ vía Thiên Hậu Thánh Mẫu tại thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Thị trấn Sông Đốc là một cộng đồng ngư dân đánh bắt thủy hải sản xa bờ với ghe tàu đông đúc và phát triển sầm uất, thu hút ngư dân nhiều tỉnh, thành đến đây khai thác. Văn hóa trước giờ vốn có mối quan hệ chặt chẽ với đặc điểm môi trường cùng kinh tế, xã hội ở từng địa phương. Cho nên, lễ vía Thiên Hậu Thánh Mẫu tại đây còn gắn liền với đời sống và sinh hoạt, nhu cầu lẫn ước vọng của một cộng đồng ngư dân đánh bắt sôi động, phát triển ở vùng biển cực Nam tổ quốc.
2. Lễ vía Thiên Hậu Thánh Mẫu: Thời gian và diễn trình
Lễ vía Thiên Hậu Thánh Mẫu được diễn ra tại Thiên Hậu Cung, thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Hiện tại, miếu tọa lạc tại khóm 1, thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời. Người địa phương còn gọi miếu này là Chùa Bà Thiên Hậu Sông Đốc.
Lệ vía Thiên Hậu chính thức diễn ra vào ngày 23/3 âm lịch hằng năm. Đây là lệ cúng quan trọng nhất của Thiên Hậu cung tại thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau[2], cũng như toàn bộ những ngôi miếu thờ Thiên Hậu của người Hoa trên địa bàn tỉnh Cà Mau. Nhìn chung, lễ vía Thiên Hậu Thánh Mẫu ở đây là một lễ hội thu hút khá đông người tham gia, được tổ chức chu đáo, bài bản theo đúng nghi thức truyền thống của người Hoa địa phương.
Từ sáng ngày 22 cho đến chiều ngày 23/3 âm lịch, Ban quản trị Thiên Hậu cung tập hợp đầy đủ để tiến hành chuẩn bị tổ chức ngày vía Bà thật trang trọng. Người ta dọn dẹp sạch sẽ các bàn thờ, chưng trái cây, bông hoa, treo nhang vòng và nhất là trưng bày áo và mão của Bà trong khu vực chánh điện. Buổi chiều hôm đó, họ chuẩn bị những lễ vật truyền thống dâng cúng Thiên Hậu Thánh Mẫu và chư thần trong miếu gồm: Bánh thọ, bánh bò, chè ỷ, hoàng bửu. Đến tối, khi người dân đã tụ họp đông đúc thì đến tiết mục múa lân do đội lân Hưng Nghĩa Đường phụ trách đã tạo nên không khí rộn rã cho miếu. Lúc này, tất cả các thành viên của ban quản trị trang nghiêm tề tựu trước bàn thờ Thiên Địa Phụ Mẫu ở trước sân miếu dâng hương tế lễ, còn toàn bộ những người khác thì đứng phía sau. Tiếp đến, họ dâng hương cúng tại bàn thờ Quan Âm Nam Hải. Cúng xong, mọi người di chuyển vào trong chánh điện, thành kính khấn nguyện Thiên Hậu Thánh Mẫu và chư thần (Thành Hoàng Bổn Cảnh, Phước Đức Chánh Thần, Thiên Soái Hổ Gia). Sau đó, tất cả trở ra miếu Hỏa Đức Nương Nương (nằm ở bên phải miếu) và cuối cùng là dâng hương ở bàn thờ Tiên Hiền Chi Vị. Sau khi thức dâng hương thánh mẫu và chư thần, ông Hội trưởng quì xin keo để thực hiện nghi thức tắm Bà. Trong thời gian tắm, toàn bộ đàn ông đi ra bên ngoài sân miếu, còn những người phụ nữ thì được phép quì lạy và chờ đợi bên trong. Người ta che màn trước bàn thờ Bà và chuẩn bị nước có hoa tươi để một số phụ nữ người Hoa có tuổi tắm tượng và thay áo cho thánh mẫu. Sau khi kết thúc nghi thức tắm Bà, mọi người được ăn chè ỷ và cùng trò chuyện với nhau, còn một số người khác thì tập trung bên trong để xin nước tắm Bà mang về nhà.
Sáng ngày chánh lễ, tức ngày 23/3 âm lịch, các thành viên trong ban quản trị tề tựu khá sớm để chuẩn bị nghi thức tế lễ. Nhưng có lẽ quan trọng nhất là tính chu đáo, cẩn trọng khi bày biện các lễ vật truyền thống lên bàn thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu. Lễ vật gồm 12 thứ: Rượu, trà, hương đăng, hoa lài, ngũ quả, phước cốm, bánh thọ, mì sụa, một dĩa đồ chay, hoàng bửu, đại phước tiền, ngũ sanh (khô mực, trứng vịt, trứng gà, heo luộc, tôm), heo quay. Đến khoảng 9g sáng, mọi người tập trung lại ở trước bàn thờ Thiên Địa Phụ Mẫu bắt đầu dâng hương, thành tâm khấn nguyện hết sức trang nghiêm và lần lượt đến các bàn thờ như đêm hôm qua. Điều hành nghi thức cúng là một ông hội phó và khi đọc văn tế, xướng lễ đều bằng tiếng Hoa. Nhưng nghiêm trang nhất là nghi thức dâng hương và lễ vật cho Thiên Hậu Thánh Mẫu trong chánh điện ngôi miếu. Theo thứ tự, ông hội trưởng quì dâng hương cầu nguyện, dâng trà và hoa rồi đến dâng các món lễ vật truyền thống cho thánh mẫu hết sức thành kính nhằm tri ân, tưởng nhớ công đức to lớn của Bà. Sau khi kết thúc, mọi người ngồi uống trà, nói chuyện với nhau và cuối cùng là cùng dự buổi tiệc mặn trong khuôn viên sân miếu. Trong khoảng thời gian này cho đến tối ngày 23/3 âm lịch, đông đảo người dân địa phương vẫn tiếp tục đến miếu dâng hương cầu nguyện. Họ mang rất nhiều thứ như: Hoa quả, nhang đèn, vàng bạc, xôi, heo quay và gửi cúng tiền cho miếu. Trong đó, nhiều lễ vật mang tính truyền thống của người Việt như xôi, trầu cau cũng được sắp xếp lên bàn thờ để cúng cho Bà.
3. Chức năng của Lễ vía Thiên Hậu Thánh Mẫu trong đời sống văn hóa-xã hội của cộng đồng ngư dân Sông Đốc
Quan sát tại lễ vía này năm 2015, chúng tôi thấy rằng tham gia lễ có khá nhiều thành phần trong cộng đồng như buôn bán, làm nông, nuôi tôm,...Đặc biệt, không chỉ có người Hoa mà còn có đông đảo người việt đến miếu cúng bái. Mục đích cầu nguyện của họ là nhằm có được một đời sống bình an, sức khỏe và tài lộc, vạn sự hanh thông và may mắn,... Nhưng nhiều nhất là các chủ ghe tàu đang khai thác tại ngư trường Sông Đốc. Qua quan sát cũng như tìm hiểu của chúng tôi, các chủ ghe địa phương cũng như các tỉnh, thành khác mang lễ vật (bông hoa, trái cây, vàng bạc, nhang đèn,…) đến đây thắp hương cúng bái và thậm chí có những trường hợp trả lễ Thiên Hậu Thánh Mẫu bằng một con heo quay, khi một ước vọng nào đó của họ được thánh mẫu phù trợ thành tựu. Họ đến miếu cúng ngay từ chiều 22 cho đến tối 23/3 âm lịch, hầu hết đều có cúng thêm tiền cho miếu. Đặc biệt, vào tối 22/3, ban quản trị tổ chức nghi thức tắm Bà do một số phụ nữ người Hoa thực hiện. Nước tắm Bà được nhiều người xin về uống để chữa bệnh, cầu bình an và sức khỏe. Tuy nhiên, một chủ ghe, khi tham gia nghi thức này, đã cho biết chị xin nước này về rửa cái lô ghe cho ghe được sạch sẽ, giải trừ tai họa, xui rủi khi ra khơi đánh bắt. Lá bùa của Thiên Hậu Thánh Mẫu tại Thiên Hậu cung, thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời có màu vàng và được đóng dấu ấn đỏ, trên bùa có ghi chữ Hán: “Ngọc ấn Thiên Hậu Thánh Mẫu sắc lệnh linh phù trấn chúng sanh tha bình an”. Có hai loại bùa: Bùa lớn có chiều ngang khoảng một tấc và dài độ hai tấc, bùa nhỏ thì chỉ khoảng phân nữa lá bùa lớn. Khi thỉnh về treo trong nhà, thông thường lá bùa lớn treo trước cửa chính, còn lá bùa nhỏ treo ở cửa sau. Nhiều chủ ghe, tàu ở Sông Đốc còn thỉnh lá bùa này về treo trên ghe, tàu của họ. Cũng giống như treo ở nhà, lá bùa lớn được treo ở bàn thờ và lá bùa nhỏ thì treo ở sau buồng lái.
Phần nhiều những ngư dân đến miếu để cầu nguyện Thiên Hậu Thánh Mẫu phù hộ độ trì cho hoạt động đánh bắt được thuận lợi, ghe tàu ra khơi lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió và tôm cá nặng đầy khoang, nhờ vậy mà ngư nghiệp không ngừng phát triển. Đó là ước vọng của nhiều chủ ghe, tàu mà chúng tôi có dịp tiếp xúc, phỏng vấn. Điều này cho thấy được niềm tin rất lớn của họ vào thánh mẫu, vì nghề nghiệp của họ vốn chứa đựng nhiều rủi ro, bất trắc mà không thể lường trước được khi phải lênh đênh dài ngày giữa biển cả mênh mông. Tại vùng biển Sông Đốc, việc khai thác nguồn lợi thủy, hải sản không chỉ có ghe tàu địa phương, mà còn thu hút ngư dân từ nhiều nơi khác đến khai thác như Bình Thuận, Bà Rịa- Vũng Tàu, Bến Tre, Tiền Giang, Sóc Trăng,…từ nhiều năm nay với các hình thức đánh bắt chủ yếu là ghe cào, ghe lưới đèn, ghe câu mực. Nghề đánh bắt thủy hải sản ở đây phát triển mạnh vào những năm đầu thập kỉ 80 của thế kỉ trước, do có nhiều ngư dân từ miền Trung vào đây đánh bắt. Từ đó, các hình thức đánh bắt như lưới đèn, câu mực mới được ngư dân địa phương học hỏi và nhất là tiến dần khai thác xa bờ, thay thế được những hình thức đánh bắt truyền thống gần bờ như: Nò xiêm, chà chim, xiệp….Đặc biệt, sau cơn bão Linda số 5 (1997), ngư dân địa phương được hỗ trợ vay vốn để đóng tàu có mã lực lớn ra khơi xa đánh bắt, thu hoạch nguồn lợi thủy hải sản phong phú, dồi dào hơn trước[3]. Do vậy, ngày nay, Sông Đốc là vùng biển đánh bắt lớn của ngư dân nhiều nơi trong cả nước hội tụ về, góp phần làm cho nơi đây trở thành một thị trấn ven biển sầm uất và đời sống kinh tế không ngừng phát triển, đa dạng. Tuy nhiên, qua thảo luận với nhiều chủ ghe tàu thì được biết có nhiều vấn đề mà ngư dân Sông Đốc hiện nay phải đối mặt là: Ngoài nguyên nhân thời tiết biến động, gió bão làm cản trở công việc đánh bắt, hiện tại họ còn lo sợ mỗi khi ghe thả cào, thả lưới chẳng may gặp vật cản làm rách cào, rách lưới, hay không thu hoạch được nhiều vì chi phí đầu tư cho mỗi chuyến ra khơi là khá lớn, sẽ dẫn đến tình trạng bị lỗ. Ngoài ra, tại Sông Đốc, một số chủ ghe, tàu ở nhiều tỉnh, thành đến đây khai thác lại còn lo lắng về tình trạng bạn tàu sau khi đã nhận tiền của chủ đã bỏ việc trên tàu, trở vào bờ, làm cho công việc ngoài khơi gặp cản trở, chủ ghe hoàn toàn mất hẳn số tiền đã ứng trước cho họ. Mặt khác, nhiều chủ ghe cho biết nếu càng có nhiều tàu đi đánh bắt ngoài khơi thì càng lo lắng, vì đó là nguồn tài sản lớn nhất của họ và gia đình. Và không thể không nhắc đến nhiều trường hợp ghe tàu của ngư dân vượt qua hải phận nước khác đánh bắt đã bị bắt giữ và tịch thu toàn bộ, dẫn đến nhiều người bị phá sản sự nghiệp. Cho nên, nhiều chủ ghe, tàu ở Sông Đốc cũng như các tỉnh thành khác đã cho biết rằng họ thường xuyên đến Thiên Hậu cung để cầu nguyện, vái van Thánh Mẫu phù hộ, che chở cho ghe tàu mỗi khi ra khơi. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến việc ngư dân sùng kính thánh mẫu này cũng như các vị thần khác (Nam Hải Tướng quân, Bà Cậu, Thủy Long Thánh Mẫu,…). Cho nên, sự có mặt của họ trong lễ vía Thiên Hậu Thánh Mẫu ngày 23/3 âm lịch hằng năm tạo nên nét đặc trưng trong sinh hoạt tín ngưỡng tại ngôi miếu này so với những miếu Thiên Hậu khác trên địa bàn tỉnh Cà Mau thường gắn với nhu cầu tinh thần của cư dân đô thị và nông nghiệp. Điều này cho thấy cho thấy tín ngưỡng vốn nảy sinh từ nhu cầu của hiện thực đời sống con người ở mỗi địa phương vốn có hoàn cảnh kinh tế, xã hội và văn hóa khác nhau. Vì thế, Ngô Đức Thịnh đã nhận định như sau: ”Tất cả những niềm tin, thực hành và tình cảm tôn giáo tín ngưỡng trên đều sản sinh và tồn tại trong một môi trường tự nhiên, xã hội và văn hóa mà con người đang sống, theo cách suy nghĩ và cảm nhận của nền văn hóa đang chi phối họ”[4].
Ngoài ra, tín ngưỡng Thiên Hậu Thánh Mẫu ở thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau còn là một kênh để cộng đồng người Hoa địa phương giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống của họ. Mặt khác, là một thức tín ngưỡng ở phạm vi cộng đồng, cho nên tín ngưỡng Thiên Hậu còn nối kết các thành viên trong cộng đồng lại với nhau, mang yếu tố cộng mệnh và cộng cảm. Lễ hội vía Thiên Hậu Thánh Mẫu vào ngày 23/3 âm lịch hằng năm là một biểu hiện sinh động và rõ nét cho điều này. Bởi lẽ, lễ hội chính là một bức tranh phản chiếu ước vọng của cộng đồng, thể hiện đời sống kinh tế và xã hội của địa phương, là dịp để cộng đồng gặp gỡ, nối kết và biểu hiện một cách sống động những giá trị văn hóa truyền thống, thăng hoa những cảm xúc và tăng cường sức mạnh trước những thách thức đang chờ đợi phía trước. Lê Hồng Lý đã nhận định: “Lễ hội truyền thống đã đóng góp một phần không nhỏ vào đời sống văn hóa-xã hội, đời sống tâm linh của con người. Nó thỏa mãn nhu cầu đa dạng của đông đảo cư dân bùng nổ cùng một lúc: Niền tin và ngưỡng vọng sức mạnh tổ tiên, hòa đồng giao cảm với mọi người, thưởng ngoạn, hưởng thụ và nhập cuộc sáng tạo văn hóa, du ngoạn danh thắng, di tích, mua sắm, thưởng thức của ngon vật lạ, vui chơi giải trí, tự soi mình để thấy nét riêng tài sắc trong cộng đồng rộng lớn....”[5].
Thông qua lễ vía Thiên Hậu Thánh Mẫu hằng năm, bên cạnh việc thể hiện thái độ ngưỡng vọng, thành kính của cộng đồng đến vị thánh mẫu có nhiều quyền năng bảo vệ cuộc sống con người, đã cho thấy đây là một hình thức để người Hoa tại thị trấn Sông Đốc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của họ. Đầu tiên, đó là những lễ vật vừa mang tính truyền thống của cộng đồng vừa là biểu tượng văn hóa, thể hiện ước vọng của họ. Món chè ỷ dâng cúng gồm những viên bột được vo tròn, có màu đỏ, khi ăn có vị ngọt ngào biểu hiện cho sự may mắn, viên mãn và hạnh phúc trong cuộc sống. Mặt khác, ở mỗi bàn thờ, người ta cúng bốn chén và được cho biết rằng con số này tượng trưng cho bốn mùa trong năm. Còn món phước cốm được làm từ nếp rang thành từng thỏi và phía trên có dán chữ “Phước” màu đỏ được xem như phước báu vô lượng của Bà ban cho chúng sinh thụ hưởng, khi họ ăn thì cầu được phước đức đầy đủ, cuộc sống may mắn. Món bánh thọ được làm giống hình quả đào tiên, có màu phơn phớt hồng, trông rất đẹp mắt và nó tượng trưng cho sự trường thọ của con người. Món bánh bò nổi, được người Hoa gọi là “phát cúi”, mang ý nghĩa phát đạt, giàu có. Trên tấm đại phước tiền dâng cúng Thiên Hậu Thánh Mẫu đã thể hiện được khát vọng bình an, cuộc sống viên mãn của cộng đồng thông qua những dòng chữ Hán: “Phước như đông hải, thọ tỷ nam sơn, hợp gia bình an, đáp tạ thần ân”. Hằng năm, trong dịp lễ vía Bà, người ta mới dâng cúng Thánh Mẫu những lễ vật truyền thống và thông qua những thứ này đã biểu hiện được những ước vọng của đời sống thực tại, cũng như nhân sinh quan và thế giới quan của họ, nhắc nhở thế hệ sau về truyền thống xưa nay của cha ông họ. Mặt khác, phong tục xin xăm, xin keo, vay lộc Bà, phát bùa, phát gạo cho người nghèo,...là những hình thức gắn liền với các cơ sở tín ngưỡng của người Hoa, được họ thường xuyên thực hành, là nét văn hóa riêng của cộng đồng nhằm thể hiện sự gắn bó, giao cảm giữa con người với thần thánh, trong đó có Thiên Hậu cung tại thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Trong lễ vía Thiên Hậu tại đây, qua quan sát, chúng tôi thấy rằng, điều hành nghi thức tế lễ cho ban quản trị và cộng đồng là ông hội phó, một người Hoa thuộc nhóm ngôn ngữ Triều Châu lớn tuổi. Ngôn ngữ mà ông sử dụng trong nghi lễ cũng như bài văn Tế Thánh Mẫu đều được đọc bằng tiếng Hoa. Việc sử dụng ngôn ngữ riêng của cộng đồng trong nghi lễ truyền thống cho thấy ý thức giữ gìn ngôn ngữ, văn hóa truyền thống của người Hoa địa phương. Mở rộng hơn nữa, qua tìm hiểu của chúng tôi, việc tế lễ Thiên Hậu Thánh Mẫu ngày 23/3 âm lịch được ban quản trị cung học hỏi trực tiếp từ nghi thức ở Thiên Hậu cung tại phường 2, thành phố Cà Mau[6].Ngoài ra, hầu như những ngôi miếu thờ Thiên Hậu ở tỉnh Cà Mau đều có nhiều sự giống nhau trong việc phối thờ (Thành Hoàng Bổn Cảnh, Phước Đức Chính Thần,Hỏa Đức Nương Nương, Thiên Soái Hổ Gia,...), thời gian tổ chức các lệ cúng trong năm và kể cả kiến trúc, nghi lễ, cơ cấu tổ chức, thần phù,... với ngôi miếu Thiên Hậu tại thành phố Cà Mau. Qua đây chứng tỏ Thiên Hậu cung tại thành phố Cà Mau giữ một vai trò trung tâm, quan trọng trong hoạt động tín ngưỡng Thiên Hậu Thánh Mẫu trên toàn tỉnh Cà Mau và điều này còn thể hiện tính đoàn kết, ý thức giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng người Hoa trên mảnh đất cực Nam của tổ quốc. Đây cũng là một đặc điểm văn hóa nổi bật của cộng đồng người Hoa ở Nam bộ qua hàng trăm năm.
Qua quan sát lễ hội vía Bà 23/3 âm lịch, chúng tôi thấy rằng, hầu như các thành viên trong ban quản trị Thiên Hậu cung đều tham gia đầy đủ. Những ngày này, họ túc trực tại miếu để dọn dẹp, trưng bày lễ vật, áo mão của Bà, xếp đặt bàn ghế và tổ chức công việc nấu nướng, tiếp khách. Phần nhiều các thành viên trong ban quản trị đều cho biết việc tham gia giúp cho lễ vía thành công là trách nhiệm của họ và quan niệm rằng đây là một công việc mang lại nhiều phước đức, nhất là sẽ được Bà thường xuyên phù hộ. Nét đặc biệt trong ban quản trị này là có một thành viên người Việt tham gia làm thư ký. Điều này cho thấy tính linh hoạt trong cơ cấu tổ chức ban quản trị tại đây, một biểu hiện về tính hội nhập văn hóa của tộc người Hoa vào bối cảnh văn hóa-xã hội của cư dân Nam bộ.
Bên cạnh đó, một số thanh niên người Hoa thường xuyên đến Thiên Hậu cung khấn vái và tham gia vào những công việc chung của miếu thông qua sự hướng dẫn của các thành viên cao tuổi trong ban quản trị, nhất là dịp lễ vía Bà, ngày Tết Nguyên đán. Họ xem đó là nhiệm vụ của mình, sự kế tục công việc của người đi trước để mai này có thể gánh vác trách nhiệm tế lễ của miếu. Và như vậy, điều này đã góp phần trao truyền các giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng giữa các thế hệ người Hoa địa phương.
6. Kết luận
Nét độc đáo của tục thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu tại thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau chính là gắn liền với nhu cầu tâm linh của ngư dân, một thành phần chủ đạo và giữ vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế-xã hội địa phương. Thiên Hậu là vị thần che chở, bảo vệ họ cho những chuyến ra khơi được bình an, tránh được những điều không may và rủi ro bất ngờ ập đến. Vì thế, Thiên Hậu cung là một chỗ dựa tinh thần của ngư dân không chỉ của địa phương mà còn từ nhiều tỉnh, thành khác đến đây đánh bắt. Cho nên, trong sinh hoạt tín ngưỡng ở Thiên Hậu cung có thể thấy vai trò của ngư dân là rất lớn, nhất là lễ vía 23/3 hằng năm. Ở tại thị trấn Sông Đốc, giữ vai trò chính cho hoạt động kinh tế địa phương chính là ngành đánh bắt thủy hải sản xa bờ, còn một số ngành nghề khác thì có vai trò phụ trợ. Nguồn thu của ngành đánh bắt thủy hải sản gia tăng hay suy giảm sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tình hình kinh tế địa phương, đời sống của người dân.
Tài liệu tham khảo
1. A.R.Radcliffe-Brown (1965), Structure and function in primitive society ( Cấu trúc và chức năng trong xã hội nguyên thủy), Colier Macmillan Publishers, London.
2. Robert Layton ( Phan Ngọc Chiến dịch, Lương Văn Hy hiệu đính) (2007), Nhập môn lý thuyết Nhân học (An Introdution to the theory anthropology), Nxb.Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Đinh Hồng Hải (2014), Nghiên cứu biểu tượng một số hướng tiếp cận lý thuyết, Hà Nội, Nxb Thế Giới.
4. Dương Hoàng Lộc (2015), Tục thờ Quan Âm Nam Hải ở hai cộng đồng ngư dân Sông Đốc và Trần Đề.Báo Giác Ngộ,. số 805, ngày 24/7/2015.
5. Phan Thị Hoa Lý (2014), Tín ngưỡng Thiên Hậu ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ ngành Văn hóa học, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
6. Lê Hồng Lý (2008), Sự tác động của kinh tế thị trường vào lễ hội tín ngưỡng, Nxb.Văn hóa thông tin, Hà Nội.
7. Trịnh Xuân Tuyết (2015), Tín ngưỡng Thiên Hậu ở Cà Mau, Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học, Trường Đại học KHXH&NV, Thành phố Hồ Chí Minh.
8. Ngô Đức Thịnh (2007), Về tín ngưỡng lễ hội cổ truyền, Viện Văn hóa-Nxb.Văn hóa thông tin, Hà Nội.
Nguồn: Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một, số 4, tháng 8/2016
[1] Bài viết này được tài trợ bởi Quĩ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) trong đề tài mã số IV5.2-2012.20
[2][2] Bên cạnh lễ vía Bà 23/3 âm lịch hằng năm, Thiên Hậu cung còn tổ chức cúng nhiều lệ vía khác: Nghênh tiếp Thánh Mẫu hồi cung (ngày mùng 3 tết), Chư thánh thần hạ thế (ngày mùng 4 tết), Vía Ngọc Hoàng (mùng 9 tháng giêng), Lễ Nguyên tiêu (Rằm tháng giêng), Vía Hổ thần (16 tháng giêng), Vía Phật Bà Quan Âm Nam Hải (19 tháng 2), Tiết Thanh minh (không nhất định), Vía Phước Đức Lão gia (ngày 29 tháng 3), Tiết Đoan dương (mùng 5 tháng 5), Đại lễ Vu lan thắng hội (Rằm tháng bảy), Tiết Trung thu (Rằm tháng 8), Tiết Hạ ngươn ( Rằm tháng 10), Tiết Đông chí (không nhất định), Chư thánh thần triều Thiên (ngày 24 tháng 12), Cúng đón giao thừa (ngày 29-30 tháng 12).
[3] Tư liệu PVS ông M.H, người Hoa Triều Châu, chủ ghe ở thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. . Người phỏng vấn: Dương Hoàng Lộc.
[4] Ngô Đức Thịnh (2007), Về tín ngưỡng lễ hội cổ truyền, Viện Văn hóa-Nxb.Văn hóa thông tin, Hà Nội, trang 14.
[5] Lê Hồng Lý (2008), Sự tác động của kinh tế thị trường vào lễ hội tín ngưỡng, Nxb.Văn hóa thông tin, Hà Nội, trang 60-61.
[6] Tư liệu PVS ông Q.T.D, thành viên Ban Quản trị Thiên Hậu cung tại thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Người phỏng vấn: Dương Hoàng Lộc. Ngày phỏng vấn: 11/5/2015
http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/ngh...%A0-mau-1.html
丐冷 協天宮 Hiệp Thiên Cung Cái Răng > Quan Thánh Đế linh xăm 關聖帝君靈簽 >
Xăm số 3 第三號簽
( việt Ngữ phía dưới )
第3簽 中吉 古人占驗:賈誼遇漢文
衣食自然生處有。勸君不用苦勞心。
但能孝悌存忠信。福祿來成禍不侵。
聖意:
問名利。自有時。訟和吉。病瘥遲。
求財平。婚未宜。宜謹守。免憂疑。
病平=產尚遲。病可治
功名:一次未中 再接再厲 不可餒 三次即中
六甲:吾身自重 本不甚硬 己身健
求財:雖用心苦 時之不與 莫可奈 今春即轉
婚姻:合之始也 如同路人 久而久
農畜:春夏防疫 秋則見效 循環之 救爾一時
失物:一時不慎 遺落於西 半回半
生意:初沈大海 一時靈感 起死回 出乎意外
丁口:丁旺口盛 唯身必健 方得幸
出行:出之可行 唯勿勉強 強行招 不可不慎
疾病:原因出己 悔不當初 所幸遇
官司:本是芝麻 延伸大火 可收拾 先冷靜己
時運:早春之時 令人寂寞 夏至即
東坡解:
富貴前定。何須強求。徒勞心力。反 傷憂。
事親待人。動合循理。天必佑之。有 無否。
碧仙註:
隨緣安分。直道而行。
心中無愧。自然和平。
解曰:
此籤只宜守舊。不可貪求。但存中直 卻得兩平。
謀事遲。求財阻。婚姻可。風水更。 將生。宜早保。免憂驚。
釋義:
生處有者。戒人凡事依本分。不可貪 。
處家孝悌。則內無怨。處人忠信。則 無怨。毒害消矣。
交財未穩。婚姻主遲。是非口舌。主 為宜。
修身待時。不可徒勞心力。成字或作 字。
故事及記載:
■賈誼遇漢文帝
漢。賈誼。洛陽人。文帝時河南守。 薦之石為博士。年二十餘。
超遷歲中至大中大夫。請改正朔。興 樂。上治安策。降灌等。毀之。
出為長沙王太傅。誼既適去。渡湘水 賦。弔屈原。論者謂賈生。
王佐才遇漢文明主。終不大用。卒悲 而死。豈非天(意)乎。
SỐ 3 TRUNG CÁT
Y thực tự nhiên sanh xứ hữu
Khuyến quân bất dụng khổ lao tâm
Đản năng hiếu đệ tồn trung tín
Phúc lộc lai thời họa bất xâm
Dịch
Áo ấm cơm no sẳn xứ này
Không cần lao khổ đến ngày mai
Trung tín giữ gìn cùng hiếu đệ
Phúc lộc tới liền chẵng họa tai
Tích : Gỉa Nghi gặp Hán văn đế
Thánh ý : Hỏi danh lợi , Phải có thời , Tụng hòa tốt ,
bệnh trị dứt ,cầu tài bình , hôn chưa hợp ,
Nên cẩn phòng , tránh ưu phiền .
Tô đông pha giải : Phú quí tiền định , sao cần nghỉ suy ,
cố mà phí sức , ngược lại u sầu , phải đợi quí nhân ,
giúp thời hợp lý , Trời cao phò trì , hữu hỷ vô bi .
Thơ Bích tiên
Tùy duyên an phận
Trực đạo nhĩ hành
Tâm trung vô quí
Tự nhiên hòa bình
Dịch
Thời phận phải tùy
Đường thẳng mà đi
Lòng không hổ thẹn
An bình tức thì
https://sites.google.com/site/hiepth...m-ong/xam-so-3
有 財 以 與 貧 也
hữu tài dĩ dữ bần dã
có của nả để tặng kẻ nghèo.
Đa ngôn vô ích - Vietsciences; Lê Anh Minh ; Le Anh Minh ; ; science ...
vietsciences2.free.fr/sinhngu/hannom/tuhochanngu/.../hancd-04.ht...
Translate this page
thánh nhân tích đức bất tích tài, hữu đức dĩ giáo ngu, hữu tài dĩ dữ bần dã 聖 人 積 德 不 積 財 , 有 德 以 教 愚 , 有 財 以 與 貧 也 : thánh nhân tích đức chứ không tích trữ của nả; có đức để giáo hoá kẻ ngu, có của nả để tặng kẻ nghèo. 3. hồ 乎: chăng? ư? – vi quý hồ 為 貴 乎 : xem là quý chăng? – khả hồ? 可 乎 : có thể được ...
http://vietsciences2.free.fr/sinhngu...d/hancd-04.htm