http://kienthucgioitinh18.blogspot.com/?view=magazine
Printable View
Sâu răng tự hết nhờ loại nước này, đảm bảo 10 năm sau không bị sâu nữa
https://www.youtube.com/watch?time_c...&v=KkczRJDZzG4
Nghi Thức Tụng Niệm
Image
Nghi Thức Tụng Niệm
CHÚ ĐẠI BI
Image
Niệm Hương
( Thắp ba cây hương , quỳ ngay ngắn ,
cầm hương ngang trán niệm bài cúng hương )
Cúng Hương
Nguyện thử diệu hương vân,
Biến mãn thập phương giới,
Cúng dường nhứt thế Phật
Tôn pháp chư Bồ tát
Vô biên Thanh Văn chúng,
Cập nhứt thế Thánh Hiền ,
Duyên khởi quang minh đài
Xứng tánh tác Phật sự
Phổ huân chư chúng sanh
Giai phát Bồ Đề tâm
Viễn ly chư vọng nghiệp
Viên thành vô thượng đạo
( Xá ba xá rồi đọc bài Tán Phật )
( Đứng dậy cắm hương lên lư rồi
chắp tay đứng thẳng và niệm Tán Phật )
Tán Phật
Pháp Vương vô thượng tôn
Tam giới vô luân thất
Thiên nhơn chi đạo sư
Tứ sanh chi từ phụ
Ư nhứt niệm quy y
Năn diệt tam kỳ nghiệp
Xưng dương nhược tán thán
Ức kiếp mạc năng tận
Quán Tương
Năng lễ sở lễ tánh không tịch
Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
Ngã thử đạo tràng như Đế châu
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền
Đầu diện tiếp túc quy mạn lễ
Chí tâm đảnh lễ :
Nam mô
tận hư không biến Pháp giới ,
quá , hiện , vị lai thập phương chư Phật ,
Tôn Pháp Hiền , Thánh Tăng,
thường trú Tam bảo
( 1 lạy )
Chí tâm đảnh lễ :
Nam mô
Ta bà Giáo chủ Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật ,
Đương lai hạ sanh Di Lạc Tôn Phật ,
Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát ,
Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát ,
Hộ Pháp Chư Tôn Bồ tát ,
Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ tát
( 1 lạy )
Chí tâm đảnh lễ :
Nam mô
Tây phương Cực lạc
thế giới đại bi A Di Đà Phật,
Đại bi Quán thế âm Bồ tát,
Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ tát,
Thanh Tịnh Đại Hải chúng Bồ tát
( 1 lạy )
Image
Tán Dương Chi
Dương chi tịnh thủy
Biến sái tam thiên
Tánh không bát đức lợi nhơn thiên,
Pháp giới quảng tăng diên
Diệt tội tiêu khiên,
Hỏa diệm hóa hồng liên
Nam mô Thanh lương địa Bồ tát ( 3 lần )
Image
ÐẠI BI CHÚ
Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát
( 3 lần )
Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da, Nam mô a rị da, bà lô yết đế thước bát ra da, Bồ đề tát đỏa bà da, Ma ha tát đỏa bà da, Ma ha ca lô ni ca da, Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa
Nam mô tất kiết lật đỏa , y mông a lị gia , bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà
Nam mô na ra cẩn trì , hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng , a thệ dựng tát bà tát đa , na ma bà già , ma phạt đặt đậu , đát điệt tha. Án , a bà lô hê , lô ca đế , ca ra đế , di hê rị , ma ha bồ đề tát đỏa , tát bà tát bà , ma ra ma ra , ma hê ma hê , rị đà dựng , cu lô cu lô kiết mông , độ lô độ lô , phạt xà da đế , ma ha phạt xà ra đế , đà la đà la địa rị ni , thất Phật ra da , dá ra dá ra , mạ mạ phạt ma ra mục đế lệ , y hê y hê , thất na thất na , a ra sâm Phật ra xá lợi , phạt sa phạt sâm , Phật ra xá da , hô lô hô lô ma ra , hô lô hô lô hê rị , ta ra ta ra , tất rị tất rị , tô rô tô rô , bồ đề dạ , bồ đề dạ , bồ đà dạ , bồ đà dạ , di đế rị dạ , na ra cẩn trì địa rị sắt ni na , ba dạ ma na , ta bà ha. Tất đà dạ , ta bà ha. Ma ha tất đà dạ , ta bà ha. Tất đà dũ nghệ thất bàn ra dạ , ta bà ha. Na ra cẩn trì , ta bà ha. Ma ra na ra , ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da , ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ , ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ , ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ , ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ , ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ , ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na , đa ra dạ ha
Nam mô a rị da bà lô kiết đế , thước bàn ra dạ , ta bà ha
Án Tất Điện Đô Mạn Đa Ra. Bạt Đà Dạ , Ta Bà Ha
( 3 lần )
A Di Đà Phật thân kim sắc
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân
Bạch hào uyển chuyển ngũ tu di
Cám mục trừng thanh tứ đại hải
Quang Trung hóa Phật vô số ức
Hóa Bồ tát chúng diệt vô biên
Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn
Nam mô Tây Phương Cực lạc thế giới
Đại từ đại bi A Di Đà Phật
Nam mô A Di Đà Phật ( niệm ít nhiều tùy ý )
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát ( 3 lần )
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát ( 3 lần )
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát ( 3 lần )
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải chúng Bồ tát
( 3 lần )
Hồi Hướng
Cầu an công đức thù thắng hạnh, vô biên thắng phước giai hồi hướng , phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh , tốc vãng vô lượng quang Phật sát
Nguyện tiêu tai tam chướng trừ phiền não , nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu , phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ , thế thế thường hành Bồ tát đạo
Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu , hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh , bất thối Bồ tát vi bạn lữ
Nguyện dĩ thử công đức , phổ cập ư nhứt thiết , ngã đẳng dữ chúng sanh , giai cộng thành Phật đạo
Tam Quy Y
Tự quy y Phật , đương nguyện chúng sanh , thể giải đại đạo , phát vô thượng tâm
( 1 lạy )
Tự quy y Pháp , đương nguyện chúng sanh , thâm nhập kinh tạng , trí huệ như hẳi
(1 lạy )
Tự quy y Tăng , đương nguyện chúng sanh , thống lý đại chúng , nhứt thiết vô ngại
( 1 lạy )
Image
Image
Nghi Thức Tụng Niệm
SÁM HỐI ĐỊA MẪU
Cúng Hương
Đốt hương trầm thấu đến Diêu cung
Thành tâm khẩn nguyện Đức Mẫu từ
Trên khói hương này xin Mẫu ngự
Cảm ứng chứng minh tất lòng thành
Xưng Tán Địa Mẫu
Địa Mẫu đấng tối cao giác ngộ
Điển linh quang tế độ chúng sanh
Hỡi ai chớ có lạc lầm
Lời vàng châu ngọc chỉ rành nẻo tu
Cõi trần thế mịt mù tâm tối
Phải nghe lời Mẹ thuyết chơn kinh
Chớ ham vật chất lụy phiền
Sớm mau thức tỉnh Mẹ ban phước lành
Nam mô vô thượng hư không Địa Mẫu dưỡng sanh
bảo mạng chơn kinh , bảo mạng con thơ ( 3 biến )
Con nhất tâm đảnh lễ Địa Mẫu , cứu độ chúng sanh
( 1 lạy )
Con nhất tâm đảnh lễ Phổ Đà Sơn Nam Hải chứng minh
( 1 lạy )
Nam mô Hội Thượng Phật chứng minh ( 1 lạy )
Nam mô Tao Bảo Đạo Tràng chứng minh ( 1 lạy )
Nam mô con nhất tâm đảnh lễ Tổ Thầy chứng minh
( 1 lạy )
Lễ Phật
Kính lạy Phật từ bi quảng đại
Vì chúng sanh muôn loại đảo điên
Luân hồi khổ não triền miên
Mới dùng phương pháp giải phiền nơi tâm
( 1 lạy )
Lễ Pháp
Kính lạy Pháp nguồn an chưa trả
Nèo quang minh mô tả rò ràng
Vì đời lắm kẻ lầm thanh
Nên thuyền Bát nhã sẵn sàng đợi đưa
( 1 lạy )
Lễ Tăng
Kính lạy Tăng là người cao cả
Thay Thế Tôn hoằng hóa đạo mầu
Vô minh nên mới lo âu
Rọi đường cứu khổ dẫn đường chúng sanh
( 1 lạy )
Phục Nguyện cầu an , Địa Mẫu chơn Kính
Con xin cầu nguyện Tam cõi cộng đồng Phật Thánh Tiên nghe nguyện
Nay , con xin vui hỷ lạc thanh tịnh , trang nghiêm
Cầu cho quốc thới dân an , thế giới thái bình an lạc xứ
( 1 lạy )
Cầu cho chúng sah nhơn loại được ấm no. Phước lộc
đủ đầy , thoát ách tiêu tai. Khổ nạn tật bịnh tiêu trừ
( 1 lạy )
Cầu nguyện cho Phật tử nam nữ trẻ già trên non dưới thế được gieo Bồ Đề tâm theo chân Mẹ tu hành tinh tấn , tâm lành sáng suốt , căn lành tăng trưởng , hiếu đạo vẹn toàn với Mẹ tu cho đến ngày thành Phật đạo bất thối tâm
( 1 lạy )
Cầu nguyện cho Cửu Huyền Thất tổ , ông bà cha mẹ lục thân quyến thuộc , âm siêu dương thới. Đặng nghe lời của Mẹ dứt tâm mê muội xa lìa tội ác , hồn linh siêu thoát sớm nơi Tây Phương Cực Lạc , an vui mùi Phật Đạo ( 1 lạy )
Thành tâm khẩn nguyện nhờ ơn oai linh nhiệm mầu của Địa Mẫu , vận chuyển cho bá gia trăm họ mười phương ức cõi sáu đường lục đạo quyến thuộc tăng phước hoàn viên Phước - Lộc - Thọ miên trường , sở nguyện sở cầu như ý
( 1 lạy )
Nam mô Diêu Trì Địa Mẫu chứng minh ( 1 lạy )
Nay đệ tử họ: _______, tên: _________
Pháp danh: _____________________
Tuổi : _____________________
Con nguyền cải lỗi, dốc làm lành,
Hối ngộ tiền phi, dứt dục sanh.
Sám-Hối tụng thường hằng sửa tánh,
Cầu xin Trời Phật chứng lòng thành.
TỀ-THIÊN ÐẠI-THÁNH
Image
Cúi đầu con đảnh lễ mười phương
Nguyện cầu bá tánh an khương muôn đời
Lễ trên Ngọc Đế cha trời
Diêu Trì Địa Mẫu , mẹ thời chứng minh
Các con tội lỗi muôn nghìn
Hôm nay sám hối tội tình tiêu tan
Lễ trên tam giáo đạo tràng
Già Lam cổ Phật kỳ quan con chờ
Lâu năm lạc hố xa bờ
Níu theo chân Mẹ cuộc đời an vui
Từ nay đạo lý thêm mùi
Sửa tâm tu niệm lau chùi thành hay
Lễ trên bàn cỗ sơ khai
Vô thủy về Mẫu , Mẹ thời chứng minh
Độ con hồn xác nhẹ mình
Từ đây con sửa đổi tu hành đạo nhơn
Nay con dẹp giận bỏ hờn
Dứt điều phiền nảo , kéo đờn từ bi
Lễ trên Đức Mẹ Diêu Trì
Muôn ngàn tội lỗi , Mẹ thì thứ tha
Các con tội lỗi hà sa
Nào là lỗi Mẹ , lỗi Cha
Lỗi chồng , lỗi vợ vậy mà qua vay
Lỗi trong huynh đệ hàng ngày
Nay con sám hối tội tình tiêu tan
Vì con trìu mến giàu sang
Cho nên cực khổ gian nan đủ điều
Nay con nguyện bắt cầu kiều
Đưa đời giải thoát dắt dìu từ bi
Lễ trên Mẫu Mẹ Cung Ly
Tội chi Mẹ cũng hỷ xã cùng là thứ tha
Lễ trên Từ Phụ Thích Ca
Pháp lành ban rãi con mà lục thông
Từ đây con mở trói lòng
Nguyện con thoát khỏi các vòng bào thai
Lễ trên Hội Đồng Chư Phật Bồng Lai
Chứng minh nam nữ , gái trai tu hiền
Tu cầu Thất Tổ Cữu Huyền
Ông Bà Cha Mẹ chầu miền Tây Phương
Muôn ngàn cực khổ gió sương
Con nay cũng nguyện ăn tương trọn đời
Lễ trên Ba Mươi Sáu tầng trời
Bảy Mươi Hai tầng địa phủ Mẹ thời chứng minh
Tu cầu cho thế giới hòa bình
Vạn dân an lạc sửa mình lo tu
Nguyện đời thả hêt tội tù
Nguyện trong nhơn loại thiên thu an nhàn
Nguyện trong khắp cả Nam Bang
Quan quân lớn bé lo toan tu hành
Nay con lánh dữ làm lành
Tránh xa muôn điều tội ác sẳn dành từ bi
Từ nay con dứt bỏ : Tham , Sân , Si
Dứt điều phiền nảo quy y tấm lòng
Nguyện cầu trong xóm trong làng
Nguyện ai cũng biết lên thoàng Tây Phương
Lạy cùng Ngọc Đế xót thương
Thứ tha con trẻ khỏi tai ương hồng đời
Nguyện tâm chẳng đổi chẳng dời
Ra tay cưu thế , giúp đời Hạ Ngươn
Dẫu mà cực khổ khó sờn
Nguyện cầu thế giới bảo hồn lo tu
Nay con dứt bỏ phàm phu
Nhất tâm theo Mẹ ngao du Niết Bàn
Nguyện con hồn xác nhẹ nhàng
Ra đời cứu thế dẫn đàng Đệ Huynh
Nguyện trên lòng : Hộ Pháp oai linh
Ủng hộ các con nguyện giác ngộ Kỳ Ba
Lạy trên Phật Tổ Di Đà
Giúp con ra khỏi hố sình trầm kha
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca
Ta bà điều ngự chứng mà các con
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát , Phật chứng minh
Nam Mô A DI ĐÀ PHẬT ( 3 lần )
Hồi Hướng
Phần kinh con mới đọc rồi
Nguyện xin phước đức vun bồi chúng sanh
Cho người thức tỉnh tu hành
Bến mê phút chốc biến thành ao sen
Lý kinh sáng suốt như đèn
Rọi vào tâm trí tối đen sáng ngời
Tụng kinh Địa Mẫu có duyên
Gặp người tri thức bạn hiền đồng tu
Ngày ngày tinh tấn công phu
Điển quang Mẹ chiếu linh căn sáng ngời
Cúi xin Địa Mẫu chứng lòng
Tâm nguyền quyết chí gắng công tu trì
Tam Qui
Quy y Địa Mẫu cứu trần thế
Nguyện xin phước đức vun bồi chúng sanh
Trần gian biết nẻo tu hành
Nhờ đèn trí huệ biết đường Phật Tiên
( 1 lạy )
Quy y Pháp là phương giải thoát
Điển huyền linh bủa khắp trần gian
Sửa tâm chứng đắc kịp thời
Linh căn Mẹ điểm hội kỳ Long Hoa
( 1 lạy )
Quy y Tăng nhơn truyền Mẫu dạy
Phải ăn chay giới luật nghiêm trang
Hữu hình gia tạm luân hồi
Vô vi thượng cảnh trở về Thiên cung
( 1 lạy )
Image
Image
Thiện Tâm
Sun Nov 26, 2006 3:26 pm
http://www.bensongmay.net/viewtopic.php?t=6296#
https://books.google.com.vn/books?id...page&q&f=false
https://uphinhnhanh.com/images/2018/...itled5236e.png
Hoi Tho Tinh Khoi - Trang 184 - Kết quả Tìm kiếm Sách của Google https://books.google.com.vn/books?isbn=0557529999 Minh Thanh - 2010 Chào cờ, nguyện xây dựng và bảo vệ đất nước. ... Thiền niệm Phật Thở vào, Nam Mô Phật Pháp Tăng Tam Bảo Thở ra, Nam Mô Phật Pháp Tăng Tam Bảo. ... Thở vào, Nam Mô Bồ Tát Quan Thế Âm Thở ra, Nam Mô Bồ Tát Quan Thế Âm. Thở vào, Nam Mô Bồ Tát Địa Tạng Vương Thở ra, Nam Mô Bồ Tát Địa Tạng Vương.
Kinh Mẫu Thượng Thiên cùng với Thiện Duyên và 35 người khác.
9 Tháng 12 2014 · ·
Dâng Tặng Kinh Mẫu Thượng Thiên các Đền, các thày, các đệ tử nhà Thánh - Đạo Mẫu :
File in Kinh Mẫu :http://www.mediafire.com/…/nx7pl…/Ki...ong__Thien.rar
Tụng đọc, in ấn, truyền bá, công đức vô lượng. Địa chỉ thỉnh : http://tinyurl.com/thinhKinhmauthuongthien
MẪU ĐỆ NHẤT THIÊN TIÊN- THANH VÂN CÔNG CHÚA:
Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên còn có các danh hiệu khác như Mẫu Thượng Thiên, Thiên Thanh Công Chúa, Thanh Vân Công Chúa, Cửu Trùng Thánh Mẫu (Mẫu Cửu), Lục Cung Vương Mẫu, Mão Dậu Công Chúa….,.Nhiều ý kiến cho rằng Cửu Trùng Thánh Mẫu được đồng nhất với Cửu Thiên Huyền Nữ (bên Trung Hoa). Cửu Thiên Huyền Nữ bên Trung Hoa được xây dựng với một hình tượng nữ thần Linh thiêng với các sự tích kì bí. Còn trong tâm linh người Việt, đơn giản Mẫu Cửu Trùng Thanh Vân là vị Thánh Mẫu ngự nơi chín tầng mây, là vị nữ thần quyền hành cai quản tiên cung, cai quản lục cung sáu viện (Lục Cung Vương Mẫu). Ngoài ra Mẫu Cửu Trùng Thanh Vân còn có danh hiệu khác là Bán Thiên Công Chúa (Mẫu Bán Thiên). Hầu hết các đền phủ hay những điện thờ tại gia đều có ban thờ Mẫu Bán Thiên ngoài trời.
Theo các tài liệu nghiên cứu về quá trình tam sinh tam hóa của Thánh Mẫu Liễu Hạnh vào các thế kỷ XV, XVI, XVII thì Mẫu Liễu Hạnh vừa có thực với cuộc sống trần gian, có cha mẹ, chồng con, là biểu tượng về tấm gương đức hạnh Trinh – Hiếu – Từ cùng công, dung, ngôn, hạnh. Đồng thời, Mẫu Liễu Hạnh lại là Tiên, là Thánh, là Phật, là Đại vương luôn thương yêu, che chở giúp đỡ, cứu khổ, cứu nạn cho muôn dân, trừng trị những kẻ độc ác.
Vì vậy, Thánh Mẫu Liễu Hạnh được nhân dân tôn thờ làm thần chủ của tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Tứ phủ, là “Tứ bất tử”, là “Mẫu nghi thiên hạ”, là “Thiên Bản lục kỳ chi đệ nhất".
Vũ trụ được chia làm ba miền ứng với Tam phủ gồm Thiên (Trời), Địa (Đất), Thủy (Nước) hoặc Tứ phủ thì có thêm Nhạc (núi rừng). Thánh Mẫu Liễu Hạnh thường được đồng nhất hóa là Mẫu Thượng Thiên và Mẫu Địa (còn gọi là Mẫu Bán Thiên), công chúa La Bình, con gái đức Tản Viên Sơn Thánh được tôn vinh là Mẫu Thượng Ngàn và công chúa Tam Giang, con gái vua Động Đình Long vương là Mẫu Thoải.
Trong một khoa cúng Thánh Mẫu có đoạn cung thỉnh Mẫu
Cung thỉnh đệ nhất thiên tiên cửu trùng thiên thanh công chúa,
Lục Cung Vương Mẫu Công Chúa Ngọc Bệ Hạ
Trong bản văn Công Đồng có đoạn
Cửu Trùng Thánh Mẫu thiên đình
Bán Thiên Công Chúa quế quỳnh đôi bên
Hội bạn tiên khăn điều áo thắm
Chốn Quảng Hàn cung cấm vào ra
Hay trong văn Cửu Trùng Thánh Mẫu có đoạn
Lưng ong tóc phượng rà rà
Áo xông hương xạ hài hoa chân giày
Cửu trùng ngự chin tầng mây
Quản cai các bộ tiên nay thượng đình
KINH MẪU THƯỢNG THIÊN
Nay Đức Mẫu truyền kinh cứu khổ
Hỡi chúng sanh bớt chút thời gian
Muốn cho khỏi vận cơ hàn
Muốn cho bớt cả ức oan ở đời
Hỡi chúng sanh nghe lời Mẫu dạy
Hãy sống cho đúng đạo làm người
Đừng tham của cải chơi vơi
Ăn rồi phải trả gấp mười không sai
Tham rồi giàu chỉ nhất thời
Đời này chưa hết trả mười đời sau
Ta khuyên bảo cùng nhau hôm sớm
Sống chính chuyên đạo lý làm người
Hay chỉ những kẻ ăn lười
Làm không ăn có để rồi hại dân
Đó là những kẻ bất nhân
Nợ này phải trả đồng lần con ơi
Nay kinh Mẫu dạy truyền đời
Ăn ở đức độ Phật Trời chứng tâm
Thấy người khổ ải trầm luân
Con ơi bớt chút lương tâm cho người
Thấy người điên dại chớ cười
Người cần giúp đỡ con thời sẵn tay
Thấy người già yếu qua cầu
Sẵn tay đón rước ơn đâu sánh bằng
Dù cho gian khó nhọc nhằn
Ta vẫn chính đạo đừng tham của người
Thấy người đói rách tơi bời
Dù một lưng gạo cho người cũng hay
Đó là số phận ăn mày
Chẳng ai mong muốn ăn mày, ăn xin
Giúp họ là của để dành
Sau này Trời Phật để dành phần cho
Giúp người như của để kho
Mai kia vận hạn Phật cho lại mình
Ở đời có nghĩa có nhân
Mới hòng có phúc được ăn lộc Trời
Đừng như những kẻ vô loài
Bất nhân, bất nghĩa Trời đày xuống hang
Ơn vàng sẽ được trả vàng
Vô nhân đừng có than van kêu trời
Của làm phải đổ mồ hôi
Làm không ăn có là người hôi tanh
Vậy nên con phải tu nhanh
Đừng như những kẻ hôi tanh lỗi lầm
Sau này có phúc có phần
Phật Bà chứng giám, Mẫu dành phần cho
Đừng như những kẻ giả đò
Miệng thì niệm Phật, tâm thì hiểm sâu
Như vậy ý nghĩa gì đâu
Thà rằng dốt nát Phật Trời xá cho
Hương trầm thơm ngát mười phương
Con ơi! hãy chọn mùi thơm hương trầm
Đừng nên sa ngã lỗi lầm
Dù rằng nghèo đói, cũng không sai đường
Thấy người xơ xác phải thương
Rách thường cho mặc, đói thời cho ăn
Thương người như thể thương thân
Người ta lỡ bước, khó khăn đến nhà
Đồng tiền, bát gạo mang ra
Của tuy bé tí nhưng mà nghĩa sâu
Hỡi các con hãy tu mau
Kiếp này cực nhọc, kiếp sau thành tài
Hãy nhẫn nhịn, bao dung độ lượng
Đừng tranh giành quên cả nghĩa thân
Mười phần phải nhịn chín phần
Còn một phần nữa Phật Trời xá cho
Đừng như những kẻ đưa đò
Ở đời đâu có thước đo được lòng
Đó là đối với người trần
Phật Trời đo được cả lòng con ơi
Trên thiên đã có Phật Trời
Ác lại ác báo là nơi sự thường
Làm người ta phải biết thương
Đừng như những kẻ khinh thường làm kiêu
Lộc thì muốn vét cho nhiều
Nhưng mà báng nhạo mọi điều chê bai
Muốn cho con cái thành tài
Tu nhân tích đức mới nên ngai vàng
Tu thời tu ở tại tâm
Phật khắp mọi miền, Phật ở quanh ta
Không phải khoác áo cà sa
Miệng niệm Di Đà mới gọi là tu
Hoa thơm, thơm ở nhụy vàng
Hương thơm một nén, thơm đà khắp nơi
Người thơm để lại tiếng đời
Lộc thơm tuy ít nhưng mà no lâu
Văn thơm dù có một câu
Nhưng mà truyền lại kiếp sau vẫn còn
Con ơi đừng có tham lam
Bớt ra một chút để mà tu tâm
Bao nhiêu lộc ở xa gần
Rồi đây Mẫu sẽ giành phần cho con
Những ai mà đã có công
Phật Bà Bồ Tát chấm công rành rành
Sau này con cái nên danh
Tức là Phật đã giành phần cho con
Dù cho cung cấm lầu son
Tâm vẫn héo mòn, sung sướng gì đâu
Vậy nên đừng có tham giàu
Nghèo mà tâm vẫn bình an hơn người
Hoa kia không sắc vẫn thơm
Có nhụy vẹn toàn một đóa hoa trinh
Con ơi cố gắng truyền kinh
Để cho muôn vạn chúng sinh được nhờ
Việc Thánh con chớ hững hờ
Truyền kinh cứu khổ Mẫu thời độ cho
Chọn người có đức, có tâm
Mẫu gửi tấm lòng truyền dạy chúng sinh
Mẫu khuyên, Mẫu dạy tỏ tường
Để cho con trẻ chúng sinh biết đường
Kinh này truyền khắp mười phương
Thập phương Tam bảo chúng sinh độ trì
Làm người cần nhất lương tri
Có nghĩa, có nghì trung hiếu mẹ cha
Kính trên nhường dưới thuận hòa
Cùng nhau xây dựng vinh hoa tỏ tường
Hương này thơm ngát mười phương
Con ơi hãy chọn con đường mà đi
Đừng như những kẻ vô tri
Giả vờ câm điếc làm gì nên thân
Có nghĩa thì mới có nhân
Cái nợ đồng lần không tránh được đâu
Thương con Mẫu nặng tâm sầu
Mong sao con trẻ tu mau lỗi lầm
Con ơi một nén hương trầm
Phật Trời chứng giám đâu cần mâm to
Thương con Mẫu mới dặn dò
Truyền kinh cứu khổ đến cho muôn người
Kinh này truyền khắp mọi nơi
Kinh của Phật Trời truyền cứu nhân dân
Hỡi chúng sinh khắp xa gần
Nghe kinh Mẫu dạy muôn phần gắng ghi
Bây giờ khánh hội kì thi
Các con cố gắng Mẫu thời chấm cho
Trên thiên đã có Phật Trời
Dưới trần Thổ Địa chứng cho lòng người
Ai mà ăn ở bất nhân
Thổ Công, Thần Táo tấu lên Thiên đình
Vậy nên con phải học kinh
Để cho biết được luật trời phép thiên
Dù ai ăn ở đảo điên
Con cứ thảo hiền Phật Mẫu chứng minh
Canh bốn thức dậy dâng kinh
Tam tòa Tứ phủ anh linh độ trì
Con ơi tu ở tại gia
Vẫn được Phật bà chấm điểm dự thi
Cũng như khánh hội khóa kì
Mẫu duyệt, Mẫu lại chấm bài cho con
Mẫu đã trao hẳn bút son
Thì con cố gắng cho lòng Mẫu vui
Bây giờ lọc của, lọc người
Mẫu chọn một người truyền bút giáng kinh
Không phải kinh học một mình
Mà kinh truyền đến chúng sinh muôn loài
Kinh ứng tâm Mẫu đã cho phép
Cứ truyền đi không phải ngại ngần
Con ơi cầm mực nẩy cân
Nếu con ngại ngần kinh lại tồn kho
Sớ kia có hóa thành tro
Sớ có bay đến tận tay Ngọc Hoàng
Kinh kia Mẫu đã duyệt xong
Truyền đi cho khắp mới hòng phúc lai
Thương con Mẫu mới sang tai
Con muốn thành tài làm đúng lời khuyên
Đây là Đức Mẫu Thượng Thiên
Giáng kinh cứu khổ xuống miền trần gian
Hương thơm tấu tới tòa vàng
Cho nên Đức Mẫu chứa chan lệ đầy
Thương con Mẫu giáng về đây
Trao kinh cứu khổ tận tay con trần
Một là con phải ăn năn
Chuộc hết lỗi lầm từ trước đến nay
Sau này thoát cảnh đọa đày
Mấy tầng địa ngục ai thay cho mình
Phụ nữ không được ái tình
Bất lương, bất chính là mình nhuốc nhơ
Đàn ông không được phụ tình
Chữ “hiếu” tôn thờ nhiều nhất trong tâm
Chữ “nhân” nhắc lại nhiều lần
Con phải ân cần không được làm sai
Chữ “phúc” cùng với chữ “lai”
Hai chữ cộng lại ai ai cũng cần
Chữ “nhục” là chữ lỗi lầm
Con ơi xa lánh muôn phần được khen
Con ơi tôn kính tòa sen
Là con ghi nhớ kinh này trong tâm
Phật Bà Quan Âm soi tâm
Là hết lỗi lầm từ trước đến nay
Con ơi kinh sách đêm ngày
Bút son Mẫu lại trao tay con làm
Bầu trời có mấy vì sao
Bút son bao chữ Mẫu đà cho con
Rồi đây mọi việc vuông tròn
Truyền kinh cứu khổ Mẫu cho mở đường
Dù cho muôn dặm đường trường
Hào quàng sáng tỏ ngỏ đường con đi
Bây giờ khánh hội kì thi
Các con cố gắng được ghi sổ vàng
Thương con giọt lệ chứa chan
Mẫu phải tìm đường giải thoát cho con
Mẫu tuy ở chốn lầu son
Nhưng Mẫu sáng suốt những con ở trần
Con nào khổ ải trầm luân
Con nào bất nghĩa, bất nhân Mẫu tường
Mẫu thương Mẫu sẽ mở đường
Dù con có vội dặm đường đâu thông
Đời người như một dòng sông
Lúc trong, lúc đục, lúc vơi, lúc đầy
Các con tụng niệm lâu ngày
Để cho xá hết đẵng cay nỗi niềm
Tấu lên Đức Mẫu chép biên
Nay Mẫu giáng xuống nơi miền trần gian
Chọn người tâm ngọc lòng vàng
Lòng tin Mẫu gửi bút son tay cầm
Con ơi một nén hương trầm
Không cần nghi lễ đầy mâm đâu mà
Tấu lên đền mẹ, phủ cha
Con sẽ cố gắng để mà học kinh
Tấu lên Phật Bà Quan Âm
Con sớm tu thành khỏi lẫm trầm luân
Sau này có phúc có phần
Rồi con sẽ được mười phân vẹn mươi
Mẫu cho hoa lá tốt tươi
Rồi con rạng nở nụ cười như hoa
Bao nhiêu nạn khỏi tai qua
Không còn giọt lệ nhạt nhòa trần gian
Các con tâm ngọc lòng vàng
Để cho Đức Mẫu bình an tấm lòng
Thương con Mẫu giáng đôi dòng
Truyền kinh cứu khổ để lòng Mẫu yên
Van xin tấu tới Thượng Thiên
Động lòng Thượng Mẫu, Vua cha Ngọc Hoàng
Độ con thượng lộ bình an
Mẫu sẽ tìm đường cứu khổ cho con
Tuy Mẫu ở chốn lầu son
Lòng Mẫu héo mòn bởi vì chúng sinh
Vậy nên con phải học kinh
Luyện tâm tu tính để mình được tha
Thứ nhất kinh của Chúa Ba
Thứ hai kinh Mẫu, kinh Cha phải tường
Học kinh là lệ sự thường
Học rồi phải luyện, phải rèn theo kinh
Không phải luyện chỉ một mình
Mà còn phải luyện những người xung quanh
Chim khôn đâu tụ một cành
Người khôn đâu lỡ bỏ anh một mình
Mẫu thương muôn vạn chúng sinh
Mẫu muốn quây quần xum họp bên nhau
Học kinh phải thuộc làu làu
Ngày mai sum họp cùng nhau ăn làm
Thứ nhất quên hẳn lòng tham
Thứ hai trung hiếu, ba là nghĩa nhân
Thứ tư kế nghĩa tri ân
Phải nhất một lòng không được đổi thay
Thứ năm tính nết thẳng ngay
Dù có vận hạn cũng không thay lòng
Thứ sáu làng xóm xung quanh
Cùng nhau giúp đỡ dưới trên khiêm nhường
Thứ bảy con phải biết thương
Những người đói rách, những người bơ vơ
Những người ốm dắt trẻ thơ
Con ơi bớt chút lương tâm cho người
Thứ tám con chớ có cười
Những người điên dại, những người lầm than
Chín là phải biết họ hàng
Cùng chung một giọt máu đào sinh ra
Mười là ăn nói thật thà
Chính chuyên trọn đạo, tránh xa ái tình
Những ngày Đông chí, Thanh minh
Một nén hương trầm khắp chốn nghĩa trang
Để cho bày tỏ tấm lòng
Trách nhiệm người trần đối với người âm
Dù cho nghi lễ đầy mâm
Sắp ra rồi lại đầy mâm mang về
Thương con Mẫu dạy mọi bề
Mong sao con trẻ bốn bề thuận vui
Mẫu thương giọt lệ đầy vơi
Con ơi ghi nhớ những lời Mẫu khuyên
Đây là Đức Mẫu Thượng Thiên
Truyền kinh cứu khổ khắp miền xa xa
Mẫu về tâu với Phật Bà
Xin cho con được hải hà tấm thân
Rồi đây quả đất xoay vần
Cái nợ đồng lần con phải tu mau
Dù cho cách mấy nhịp cầu
Con không quản ngại, kiếp sau con mừng
Mặt trời còn mọc phương Đông
Cái nợ đồng lần không tránh khỏi đâu
Thương con Mẫu nặng tâm sầu
Con ơi ghi nhớ những câu Mẫu truyền
Mẫu đây giáng khắp mọi miền
Hương thơm Mẫu gửi bút tiên tay cầm
Con ơi chuộc hết lỗi lầm
Bao đời, bao kiếp lỗi lầm từ xưa
Dù có dãi nắng dầm mưa
Trời không cho phép chẳng thừa đâu con
Để cho lòng dạ héo mòn
Bao ngày, bao tháng vẫn còn lo âu
Dù cho mấy dặm sông sâu
Con ơi cố gắng truyền mau kinh này
Hoa thơm chỉ có một ngày
Văn thơm để lại kiếp sau vẫn còn
Dù cho sông cạn đá mòn
Lời văn muôn kiếp vẫn còn được ghi
Con ơi mau chuyển kinh đi
Đức Mẫu độ trì con được bình an
Trên thiên lệ Mẫu tuôn trào
Vì thương con dại hai hàng lệ rơi
Bút son Mẫu đã trao rồi
Con ơi bớt chút nghỉ ngơi Mẫu nhờ
Để Mẫu giáng mấy vần thơ
Các con tôn thờ đừng có lãng quên
Chữ “tình”, chữ “hiếu” đè lên
Hai vai gánh nặng lên con héo mòn
Một tay con cầm bút son
Một tay con vẫn phải còn hiếu trung
Lòng con nôn nóng như nung
Làm sao cho được vẹn toàn cả hai
Thức đêm mới biết đêm dài
Nằm trong cảnh ấy biết ai đau lòng
Thương con giọt lệ ròng ròng
Rồi đây Đức Mẫu sẽ giành phần cho
Lộc trời như nước biển Đông
Chỉ sợ đói lòng con chẳng muốn xin
Tam tòa Thánh Mẫu vạn linh
Lỡ để con mình sống cảnh đau thương
Con ơi muôn dặm đường trường
Mẫu phải tìm đường cứu khổ cho con
Dù ở cung cấm, lầu son
Mẫu vẫn nhung nhớ các con ở trần
Những khi mưa bão ầm ầm
Biển dâng nước lớn sóng thần con ơi
Thương con giọt lệ tuôn rơi
Con ở hạ giới con thời biết không
Mẫu sợ con trẻ đói lòng
Sông sâu nước lớn theo dòng cuốn đi
Mẫu thương, Mẫu vẫn độ trì
Nhưng mà mưa bão định kì không sai
Dặm đường con vẫn còn dài
Con ơi cố gắng tu mau sớm chiều
Thương con Mẫu dạy mọi điều
Để con biết được bao đời mà tu
Mẫu là làn gió vi vu
Thổi cho con mát những trưa sớm hè
Mẫu là chiếc áo chở che
Mỗi khi đông giá ở ngay bên mình
Mẫu là tòa sáng Thiên đình
Để Mẫu thắp sáng quang minh soi đường
Mẫu là tiếng hát yêu thương
Ru cho con ngủ đêm trường canh thâu
Mẫu là muôn vạn nhịp cầu
Bắc cho con bước sông sâu đêm ngày
Mẫu là liều thuốc thật hay
Để cho con uống những ngày ốm đau
Mẫu là chiếc nhẫn vàng thau
Tô thêm vẻ đẹp bao ngày con mong
Mẫu là ánh sáng đêm rằm
Để cho đôi trẻ thong dong trên đường
Mẫu là chiếc nón yêu thương
Chở che dãi nắng dầm sương trên đầu
Muốn cho hạnh phúc bên nhau
Đọc kinh cứu khổ thảm sầu vơi đi
Dù cho gian khó hiểm nguy
Đọc kinh cứu khổ bước đi nhẹ nhàng
Dù cho dòng lệ chứa chan
Đọc kinh cứu khổ an khang thuận hòa
Phật cho hưởng phúc hà sa
Con ơi ghi nhớ kinh này trong tâm
Hỡi chúng sinh khắp xa gần
Thương con Mẫu gửi tấm lòng bay đi
Bây giờ khánh hội kì thi
Các con cố gắng vậy thì Mẫu thương
Dù cho cách trở trăm đường
Con phải tìm cách để mà truyền kinh
Đêm khuya vắng vẻ một mình
Mẫu về truyền bút giáng kinh con hiền
Mẫu đây ở chốn Thượng thiên
Vì thương con hiền Mẫu mới về đây
Bởi vì con trẻ thơ ngây
Nên chưa hiểu biết Mẫu đây tâm phiền
Giờ đây kinh Mẫu dạy truyền
Con hiền thức trắng bút thiên tay cầm
Lòng son giấy trắng mực hồng
Để cho Mẫu giáng mấy dòng kinh thiên
Hương thơm một nén tấu lên
Con quỳ, con tấu, con cầu, con xin
Xin cha, xin mẹ Thiên đình
Các tòa các cấp Thiên âm độ trì
Bởi con trót dại ngu si
Con xin các cấp muôn phần xá cho
Con xin được chữ “ấm no”
Con xin phúc thọ cho thì mẫu thân
Con xin gia trạch bình an
Con xin ún nhỏ học hành hanh thông
Bởi con lắm lỗi nhiều lầm
Con xin Đức Phật muôn phần xá cho
Cơm cha con vẫn chưa no
Áo mẹ chưa đủ Mẫu cho con nhờ
Hương thơm tấu đến mọi tòa
Lỗi lầm Mẫu xá, lộc hồng Mẫu ban
Từ nay con đổi tính xưa
Con xin ghi nhớ dòng kinh Mẫu truyền
Mẫu tuy ở chốn Thượng thiên
Thương con lệ nhỏ xuống miền trần gian
Rưng rưng lệ nhỏ hai hàng
Mẫu về quỳ tấu Phật Bà Quan Âm
Xin cho xá hết lỗi lầm
Để cho thoát khỏi trầm luân ở đời
Mẫu khuyên con trẻ mấy lời
Con hãy nhớ lấy những lời thơ kinh
Giúp ai con phải nhiệt tình
Đừng dắt giữa dòng con lại đánh rơi
Con vứt họ ở giữa vời
Lênh đênh biển lớn biết thời nhờ ai
Con muốn có phúc, có tài
Giúp họ thành tài con mới an tâm
Nuôi con đủ cánh, đủ lông
Biết bay, biết chạy hết công mẹ hiền
Đừng như những kẻ tham tiền
Giàu thì vàng ngọc, nghèo thì cỏ cây
Thương con Mẫu giáng về đây
Dậy cho hết lẽ, tầng mây Mẫu về
Vợ chồng hết lẽ phu thê
Răng long, đầu bạc lời thề đừng quên
Giữ cho tình cảm vững bền
Trăm năm kết tóc đến khi suối vàng
Dù cho vận hạn cơ hàn
Cùng nhau đùm bọc đừng mà quên nhau
Đến khi có ốm có đau
Ta cũng chăm sóc với nhau tận tình
Trung thành giữ dạ thủy chung
Không được thay lòng đổi dạ con ơi
Ái tình bất chính nợ đời
Chết xuống âm phủ về nơi đọa đày
Dù cho kinh sách đêm ngày
Một phút bất nghĩa phúc lai đâu còn
Thà rằng mù mịt tối tăm
Ngu si dốt nát Phật Trời xá cho
Ăn cơm con phải biết no
Đọc kinh con phải đắn đo cho tường
Đọc kinh là lệ sự thường
Đọc rồi phải biết kỷ cương thế nào
Không phải học lấy phong trào
Học rồi chẳng biết thế nào là kinh
Uổng công Đức Mẫu giáng linh
Con trẻ một mình ngồi viết đêm khuya
Con ơi cố gắng miệt mài
Ngày nay kinh sách, ngày mai kinh vàng
Rồi Mẫu sẽ khoác tấm màn
Cho con nhìn thấy bao la chân trời
Dù cho giọt lệ có rơi
Cũng không uổng phí cuộc đời con đâu
Bàn tay đã cầm bút son
Cọp beo chẳng sợ, sóng thần chẳng kinh
Đức Mẫu nay đã giáng linh
Ở trên cây bút anh linh đêm ngày
Bút son con đã cầm tay
Đêm ngày kinh sách Mẫu rày độ cho
Dù con cách mấy chuyến đò
Đọc xong con phải chuyển cho bạn mình
Đèn Mẫu soi sáng lung linh
Để cho con trẻ mang kinh đi truyền
Con truyền cho khắp mọi miền
Năm châu, bốn bể ở miền trần gian
Bao nhiêu vận hạn cơ hàn
Truyền kinh đi khắp an khang thuận hòa
Mẫu về tấu đối Phật Bà
Cho con được hưởng phúc Bà Như Lai
Thức đêm mới biết đêm dài
Tay con cầm bút miệt mài sớm khuya
Con ơi đãi cát lọc vàng
Cát kia trôi hết vàng còn trên tay
Công kia kinh sách đêm ngày
Cũng như vàng ấy trên tay con cầm
Cũng như một vỉ hương trầm
Đốt xong tro vẫn còn mùi trầm hương
Con ơi dãi nắng dầm sương
Dù cho sương vẫn vấn vương trên đầu
Con ơi cố chịu đừng sầu
Rồi con sẽ được một màu tốt tươi
Dạy con hết lẽ con ơi
Các con ở lại mà ngồi học kinh
Mẫu phải về chốn Thiên đình
Lo cho trăm vạn chúng sinh trên tòa
Bao nhiêu dòng sớ thiên hoa
Tấu lên tới cửa Tam tòa Thượng thiên
Vậy nên Mẫu phải về thiên
Để Mẫu xét duyệt chấm bài dự thi
Duyệt rồi sớ mới được ghi
Con nào có đức được ghi sổ vàng
Các con ở lại trần gian
Tu nhân tích đức sớm nhanh thành người.
Hình thức : giáng bút theo thơ lục bát - Sưu tầm: Vũ Ngọc Đức
Thời điểm giáng kinh: Đêm 6 - 3 - 2006, Xuân Bính Tuất
Chắc chắn nhiều người sẽ được lợi lạc do Thanh Đồng, con của Cha Mẹ Đình Thần Tam Tứ Phủ chia sẻ ( khuyên người tụng đọc, thực hành tu sửa theo kinh)
Mong mọi người sẽ hiểu thêm về Đạo Mẫu Việt Nam - Bản sắc Văn hoá Dân tộc
Nam mô Phật Bà Quan Thế Âm Bồ Tát!
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát.
Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng
Nam mô Chư Thánh, Cha Mẹ Đình Thần Tam Tứ Phủ Vạn Linh.
TỤNG ĐỌC, IN ẤN, TRUYỀN BÁ, CÔNG ĐỨC VÔ LƯỢNG
Rất mong được các thày, các cung văn chuyển thành đĩa nhạc, video giúp các cụ già, người ốm, bệnh có thể nghe được
– Mọi góp ý, chia sẻ cảm ứng xin gửi về: dulieugoc@gmail.com – 0947924696 – Facebook: Kinh Mẫu Thượng Thiên
XUẤT THỦ TRÌNH ĐỒNG
Người ơi nếu đúng là đồng,
Nếu là bóng Thánh thì không trá hình.
Tiền bạc thực sự coi khinh,
Không phải mọi tiền - tham của nhân gian.
Trình đồng đủ mười hai năm,
Được ăn lộc Thánh mới ra làm thầy.
Có quyền có phép trong tay,
Mới giúp được người hầu Thánh hộ Thân.
Lề luật đạo Thánh nước Nam,
Ba năm thành lính - chín năm Thành đồng.
Muốn thành Thanh Đồng đạo Quan,
Nếu không Thánh thiện - khó hơn lên Trời.
Đừng nghĩ đủ năm mười hai,
Là Thanh Đồng của đạo Trời nước Nam.
Ba năm huấn luyện trước tiên,
Giúp người hiểu biết đạo Tiên - Thánh - Thần.
Chín năm tung vó đạp chân,
Đi khắp xa gần trình Thánh khắp nơi.
Kết duyên - học bạn làm người,
Chín năm gian khổ - người ơi thành tài.
Còn lại ba năm Thiên khai,
Thánh thiện thế nào để giúp được dân.
Khai thông cho những giác quan,
Học ít biết nhiều việc của Thiên Cung.
Giúp đời chớ có xưng danh,
Thiên cơ tiết lộ họa mang cho đời.
Đến khi Trời hỏi tới nơi,
Giúp người được một họa mười đến ta.
Tiền của đừng tham - khổ mà,
Của Thánh gai góc - đừng hoa mắt người.
Giúp đời giúp đạo người ơi,
Của Trời ban phát tự dưng đến tìm.
Nếu vì của cải giúp liền,
Người nghèo xa lánh Trời liền quật cho.
Tiền vào cửa trước lại ra,
Cửa sau tháo cống xổ ra gấp mười.
Đừng cười chế diễu người ơi,
Dại khờ lại được Thánh thương phù trì.
Tinh đời - xảo trá - tinh vi,
Gạt trần thì được, gạt chi Thánh Thần.
Dối lừa ích kỷ khổ thân,
Giầu chết vì bệnh - nghèo hèn cháu con.
Làm người giữ tấm lòng son,
Ăn ở Thánh thiện - Trời ban phước lành.
Trình đồng - người phải biết căn,
Thỉnh Thánh về nhận - chắc ăn mới làm.
Đừng có luận đoán sai lầm,
Có tội với Thánh - chuốc oan cho người.
Lễ mọn - mã, làm vì thôi,
Ném tiền tung của - Thánh xơi được gì.
Tâm thành mã họa xưa kia,
Đồng linh bóng hiển - dành dành đức tin.
Lỡ khờ - lỡ dại - sai lầm,
Lại tham danh tiếng - lừa dân theo mình.
Gây bao khổ sở tội tình,
Mang tiếng Thánh ác, Thánh hành - bắt theo.
Tổ Cô mới thực bắt chèo,
Bắt con bắt cháu phải theo Thánh mà.
Để người Thánh thiện chan hòa,
Triết học Tam Giáo mang ra giúp đời.
Tổ Cô hầu cận nhà Trời,
Hầu cận Thượng - Thoải, ở nơi cửa đền.
Mát mày mát mặt với Thiên,
Vì có con cháu thiện lành đức tin.
Thầy dìu đệ tử tu Tiên,
Theo đường hầu bóng - Thánh hiền tại gia.
Đến đúng căn số người ta,
Mới khăn phủ diện - đưa lên đầu đồng.
Giờ đây thời thế - loạn âm,
Thất truyền đạo pháp - đồng ra tanh bành.
Nghi lễ vẽ kiểu lưu manh,
Chẳng hiểu Thánh đạo, lại hành dân ngu.
Vẽ vời là để tiền thu,
Bịp lừa đủ kiểu - dân ngu quá rồi.
Loạn âm Ma - Quỷ đến chơi,
Mượn lối hầu bóng - xưng Trời độ dân.
Người tu tâm đức thì không,
Thánh Thần chán quá - nhường sân ma vầy.
Thầy trò bịp bợm thối thây,
Đồng ma là xứng - Thánh này bỏ rơi.
Người mang tâm đức giúp Trời,
Chẳng cần khăn áo - Thánh ban phước lành.
Giúp đời giúp đạo Việt Nam,
Cứu dân độ thế - Thánh Thần phù cho.
Y PHÁP BẤT Y NHÂN
************************************************** ********************************
CON NHÀ THÁNH PHẢI TU NHƯ THẾ NÀO?
Xuất phát từ chế độ mẫu hệ, nhân dân Việt Nam (nhất là miền Bắc Việt Nam) có tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ Tam Phủ từ lâu đời. Sau khi nền giáo dục Phật-đà được truyền bá vào Việt Nam thì tín ngưỡng thờ Mẫu liền tích hợp với giáo lý và quan điểm nhà Phật để trường tồn cho tới ngày nay. Vốn dĩ tín ngưỡng thờ Tam, Tứ Phủ không hề có giáo lý cũng như nghi lễ, sách vở chính thống, mang nặng tính chất dân gian địa phương tự phát. Trong các bài văn thỉnh Mẫu đều bắt đầu bằng việc niệm danh hiệu Phật và kết thúc bằng niệm danh hiệu Bồ-tát. Đặc biệt, ở trên đỉnh của tòa Sơn Trang luôn là Đại Bi Quán Thế Âm Bồ-tát. Nhiều sự tích kể rằng chư Mẫu giáng trần được sự điểm hóa của Bồ-tát Quán Thế Âm, đối với Tam Bảo rất mực cung kính. Tất cả đều cho thấy sự tôn trọng đặc biệt của chư Thánh đối với Phật, Pháp, Tăng.
Tam Phủ, Tứ Phủ kết hợp với chư Thánh Trần Triều và các vị Thánh hiền, oai dũng, có công với nước hợp thành hệ thống Thần Thánh bảo hộ của nước Việt Nam. Một mặt họ Hộ Pháp Phật, mặt khác họ phù dân giúp nước.
Tích rằng Mẫu Liễu Hạnh là con Vua Ngọc Hoàng (đây là tiếng Hán để chỉ Vua Trời Đao Lợi là Ngài Thích-đề-hoàn-nhân). Vị Vua cõi Trời 33 này là đại hộ pháp của Phật môn. Khi Phật còn tại thế, Ngài thường theo hộ vệ và nghe pháp. Cùng với tượng Vua Trời cõi Sơ Thiền là Đại Phạm Thiên Vương, Ngọc Hoàng thường được sắp đặt ở hai bên của Phật Thích-ca, biểu trưng cho khía cạnh hộ pháp của chư Thiện Thần. Ngọc Hoàng cũng cai quản các cõi thấp hơn, cùng với Diêm Vương duyệt xét tội phúc nhân gian. Giúp việc cho Ngọc Hoàng có văn võ bá quan và Tứ Đại Thiên Vương cai quản bốn phương của Diêm-phù-đề.
Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh tương truyền là con Ngọc Hoàng Đại Đế, giáng sinh xuống Thủy Cung làm con Vua Thủy Tề, sau đó mới giáng hạ nhân gian. Quan Tam Phủ được cho là con trai của Vua Cha Bát Hải. Cho nên Quan và Mẫu đều là Người Trời.
Chư Mẫu giáng hạ trần gian, đều thị hiện là những người nết na, có đức, có trí, trong sáng như nhật nguyệt, thủy chung như nhất. Chư Mẫu đều quy y Phật Pháp, sau hiển linh, hiện thần thông tế thế, cứu đời.
Các vị Tôn Quan giáng hạ thế nhân đều uy dũng, hỉ xả, sắc son không đổi. Sau khi hóa, được Vua Cha giao trách nhiệm cùng với chư Mẫu hóa độ thế gian.
Ngày nay, đệ tử cửa Thánh rất đông. Tất thảy đều muốn gần Mẫu, gần Quan, gần Thiện Thần, Hộ Pháp. Nhưng làm sao để gần chư Thánh? - Tâm ta phải khế hợp với tâm họ. Bởi vì có câu "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu" - Có giống nhau thì mới tìm tới nhau, mới gần nhau. Chư Mẫu, chư Quan là Người Trời. Muốn về Trời gần họ thì mình phải gieo cái nhân để sinh về Trời. Cái nhân đó được Phật chỉ bày rất rõ trong Kinh Phật thuyết Thập Thiện Nghiệp:
1/ Không sát sinh
2/ Không trộm cướp, chiếm đoạt của người
3/ Không tà dâm (Không quan hệ bất chính với người không phải vợ/chồng mình, không đắm đuối ái dục)
4/ Không nói lời sai (Không nói dối, nói nửa sự thật)
5/ Không nói lời thô ác
6/ Không nói lời đâm thọc gây chia rẽ, kích động, nói lời đôi chiều
7/ Không nói thị phi, vô nghĩa
8/ Không tham lam
9/ Không tà kiến
10/ Không sân hận.
Tu thập thiện nghiệp này tới bậc thượng phẩm thì vãng sinh các cõi Trời Dục giới. Tu thập thiện nghiệp hạ phẩm cho tới trung phẩm thì có thể sinh về cõi Người. Nếu tu thập thiện nghiệp trung phẩm nhưng lại thường mang tâm sân hận, tật đố, ganh ghét thì có thể sinh về cõi A-tu-la (Quỷ thần).
Người đệ tử cửa Thánh chân chính đích thực phải tu 10 thiện nghiệp trên bởi lẽ tâm thiện là tâm chư Thiên. Thiện thiện theo nhau. Ác ác tìm nhau. Người có tâm thiện mới được về cảnh giới thiện. Những điều trái ngược với 10 điều trên là ác.
Nếu không tu thiện nghiệp, mà còn tạo 10 ác nghiệp (trái ngược với 10 thiện nghiệp) thì phải đọa 3 đường ác khổ (Địa ngục, quỷ đói và súc sinh). Tạo ác nghiệp thượng phẩm thì đọa địa ngục, chịu thống khổ cực hình trải qua ngàn vạn triệu năm. Tạo ác nghiệp trung phẩm thì đọa quỷ đói, lang thang, đói khát, ăn không biết no, hoặc thức ăn vừa tới miệng liền hóa than đỏ, dơ bẩn, xấu xí, tuổi thọ cũng ngàn vạn triệu năm. Tạo ác nghiệp hạ phẩm thì đọa súc sinh, mặc người cắt cổ, nhổ lông, hoặc bị loài khác lớn mạnh hơn ăn nuốt, lại ngu si, tuổi thọ thường ngắn ngủi, luân hồi nhiều kiếp như vậy mãi không thôi.
Chư Thánh không để lại văn tự răn đời nhưng dùng chính tấm gương thị hiện chốn trần gian để dẫn đạo đệ tử, con cháu đời sau. Người ở cửa Thánh phải thấu hiểu rằng chư Thánh đều là Người Trời. Tâm họ là tâm thiện, hành của họ là hành thiện. Chỉ có những người thiện lương, tu 10 thiện nghiệp mới khế hợp với tâm chư Thánh, mới được chư Thánh phù hộ.
Những kẻ tạo ác mà được gặp may mắn thì phải hiểu rằng do phước báo của họ vẫn còn, họ lại được các thế lực quỷ thần, ma tà phù giúp, quyết chẳng phải được Thiên Long Bát Bộ gia hộ.
Nếu như chùa, đền, đình, miếu nào đó có các vị ở đấy tu hành không nghiêm chỉnh thì Thiện Thần liền bỏ đi, ác thần, ma quỷ liền tới. Họ ngày ngày lạy Phật, Bồ Tát, Thánh chúng nhưng thực ra đang lạy tà ma ngoại đạo. Cái lý này nhất định phải thông.
Hiểu được rằng từ Phạm Thiên, Ngọc Hoàng, chư Thiên, chư Mẫu cho tới các vị Thiện Thần Hộ Pháp đều là đệ tử Phật, Bồ-tát thì những người ở cửa Thánh sẽ hiểu họ nên tu gì, tu như thế nào để có được sự chân thật lợi lạc. Đó chính là phải quy y Tam Bảo, tìm học chính pháp, tuân theo giáo giới, hết lòng tu trì, nhất tâm chuyên hướng, cụ thể nhất là tu Thập thiện nghiệp. Được như thế tất sẽ cảm ứng với chư Thiên, chư Mẫu mà được gần Mẫu, gần Cha.
Namo A-mi-đà Phật
TỤNG ĐỌC, IN ẤN, TRUYỀN BÁ, CÔNG ĐỨC VÔ LƯỢNG
Rất mong được các thày, các cung văn chuyển thành đĩa nhạc, video giúp các cụ già, người ốm, bệnh có thể nghe được
– Mọi góp ý, chia sẻ cảm ứng xin gửi về: dulieugoc@gmail.com – 0947924696 – Facebook: Kinh Mẫu Thượng Thiên
Địa chỉ thỉnh : http://tinyurl.com/thinhKinhmauthuongthien
Page rất mong được Dâng tặng các đền, điện, được các Thày, các Thanh đồng đạo quan, góp ý chỉ dẫn, và chia sẻ cho các đệ tử nhà Thánh .
Địa chỉ thỉnh Kinh Mẫu Thượng Thiên :
1. Hà Nội:
A Minh Nhân hotline: 0908446886 và 0936490499
https://www.facebook.com/muxiut
Vân Trần- cuốn HN 0936658066
https://www.facebook.com/mstrankimvan?ref=ts&fref=ts
Nam Định Cậu Trần Bé - c Thủy 0912454387
https://www.facebook.com/vu.thuy.9699?fref=hovercard
12.Bắc Ninh: 200 c
a Sinh Đức Dương: 01688166999 admin chính
https://www.facebook.com/profile.php…
Chùa Thanh Lương Tự: thày Thích Minh Trang 0937563999
https://www.facebook.com/minhtrang.thich?fref=ts
HÀ NAM https://www.facebook.com/hue.tran.79069323
Huệ Trần : 01205398221
2. Hải Phòng:a Ngũ Bộ Chú :0949201386
3. Sài Gòn:
4.TỤNG ĐỌC, IN ẤN, TRUYỀN BÁ, CÔNG ĐỨC VÔ LƯỢNG
Rất mong được các thày, các cung văn chuyển thành đĩa nhạc, video giúp các cụ già, người ốm, bệnh có thể nghe được
– Mọi góp ý, chia sẻ cảm ứng xin gửi về: dulieugoc@gmail.com – 0949201386 Facebook: Kinh Mẫu Thượng Thiên.
https://www.facebook.com/kinhmauthuo...351432010492:0
[PDF]Chánh Biên 04 - tinhtonghochoi.org
tinhtonghochoi.org/kinhSach/dsAnQuang/AnQuangVanSaoChanhBien_Quyen4.pdf
Bi ký trùng tu miếu Địa Mẫu của chùa. Đông Chiếu ở Loa ..... Nguyên. Vua thống nhất Ấn Độ, là người nhiệt thành ủng hộ Phật giáo. Khi còn nhỏ, hoàng tử rất hung bạo, vua cha không ưa. Đến khi nước chư hầu. Taksaśīla làm ..... Độ, Vô. Thượng Thâm Diệu Thiền Môn Truyền Tập Pháp Bảo, Thệ Vãng Sanh Tịnh. Độ Văn.
Thiên Xá Nhật bao gồm các Ngày :
Xuân : Mậu Dần ...
Hạ : Giáp Ngọ ...
Thu : Mậu Thân ...
Đông : Giáp Tý ...
Thông thường trong dân gian các Thầy xem ngày thường chọn dùng Thiên Xá làm cát nhật. Một năm thường có từ 4 - 8 ngày Thiên Xá mà thôi. Bởi Lục Thập Giáp Tý 60 ngày là một vòng, một mùa thì có độ 90 ngày. Như vậy mùa nhiều thì có 2 ngày, mùa ít thì chỉ có 1 ngày. Trong thuật Trạch Cát (Chọn Ngày)được coi là ngày Ngọc Đế tha thứ tội trạng của chúng sinh, lấy Đạo Trời - Đức Đất mà hóa dục quần sinh. Lợi dụng điều này, cầu phúc, xá tội, hóa sát, tiêu tai đều lợi cả. Thông Thư có luận về Thiên Xá như sau: "Ngày Thiên Xá nên tế lễ, cầu phúc, cầu chức, ăn chay, kết hôn, sửa mộ, tạo mộ Tốt Lành. Con người ta sống ở đời, khó có được việc gì toàn vẹn không ít thì nhiều đều sẽ làm phương hại đến sự vật khác, từ đó dễ chịu hậu quả xấu. Cho nên cách tốt nhất nên mỗi mùa chọn lấy ngày Thiên Xá, bày đồ chay cũng lễ, sám hối tội lỗi, như vậy sẽ giảm được Chướng Nghiệp, tăng trưởng Phúc Đức, mọi việc sẽ như ý.
A Tư Tiểu Khang - www.phongthuy123.com
Được sửa bởi a tư tiểu khang ngày 25/2/2016, 5:43 pm; sửa lần 2.
Về Đầu Trang Go down
Xem lý lịch thành viên
a tư tiểu khang
Thừa Tướng
Thừa Tướng
avatar
Tổng số bài gửi : 709
Join date : 12/12/2008
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Xá Nhật - Ngày Tha Thứ Tội Lỗi ... ! 28/5/2013, 8:55 am
Phi Thiên Xá - Bí Mật Pháp
Bất luận âm hay dương trạch , nếu đã phạm vào các hung sát , tất nhiên hung họa sẽ đến ngay , các loại hóa giải thần sát đều là nên né tránh , người hiểu biết không phạm đến các loại thần sát , nên tránh nên né , được vậy cầu phúc đắc phúc , cầu tài đắc tài , cầu quan đắc quan , cầu nhân duyên đắc nhân duyên , tâm tưởng sự thành , hữu cầu tất ứng . Còn nếu bất hạnh phạm phải thần sát , mà bắt buộc phải làm thì có một phương pháp có thể giải trừ các loại hung thần ác sát , đó là : “ Phi Thiên Xá Pháp” .
Thông Thư luận bàn ngày Thiên Xá như sau : “ NgàyThiên Xá Nhật mà tế tự , cầu phúc , cầu tự , trai đàn , kết hôn , giá thú , sửa mộ , chôn cất , Tốt .”
Thiên Xá nhật mùa xuân là ngày Mậu Dần , mùa hạ là ngày Giáp Ngọ , mùa thu là ngày Mậu Thân , Đông là ngày Giáp Tý .
Đạo nói : “ Trời sinh dưỡng vạn vật , mà tha thư cho các tội lỗi , Giáp Mậu là Thiên Can Chi Đức , Tý Ngọ là Âm Dương Chi Thành , Dần Thân là Âm Dương Chi Lập , từ đó can phối chi mà thành Thiên Xá , mở ngục xóa oan , ban ơn , tha tội , cầu phúc , tất cả đều rất tốt lành . Cũng tốt khi khởi công tu tạo , nhập trạch , làm trăm sự đều cát tường . Người đời thường lấy ngày đó để tu tạo mộ mả cực tốt .
Phong Thủy Địa Lý tham khảo lựa chọn thời gian , phối hợp các nhân tố ngày với phương vị loan đầu bằng cách dùng phép “Phi Thiên Xá Pháp” , nguyên tắc là để phối hợp ngày tốt và phương vị tốt . Nguyên lý như sau : Lấy phú nguyệt can chi độn nhập trung cung phi theo cửu cung bát quái , được ngày thiên xá thì gọi là “Thiên Xá Đáo Phương” . Dùng hướng đó làm hướng tu tạo , xây sửa mộ , cầu phúc , xuất hành đều rất tốt .Có thể khống chế các hung sát . Một năm 365 ngày - 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông chỉ có được 6 ngày Thiên Xá các bạn nên khéo dùng vậy . Được như thế mới gọi là kẻ Trí Giả thông hiểu lẽ trời đất vậy !
Ngọc Hoàng Đại Đế Thiên Tôn Bảo Cáo (Mi La Bảo Cáo)
Chí Tâm Quy Mệnh Lễ
Thái Thượng Mi La Vô Thượng Thiên
Diệu Hữu Huyền Chân Cảnh
Diểu Diểu Tử Kim Khuyết
Thái Vi Ngọc Thanh Cung
Vô Cực Vô Thượng Thánh
Khoát Lạc Phát Quang Minh
Tịch Tịch Hạo Vô Tông
Huyền Phạm Tổng Thập Phương
Trạm Tịch Chân Thường Đạo
Khôi Mạc Đại Thần Thông
Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn
Huyền Khung Cao Thượng Đế !
Tam Quan Chú
Tam Quan Tụng
Khể thủ quy y Thiên Địa Thủy. Tam Quan Đại Đế Từ Bi Chủ. Thần Công Diệu Đức Bất Tư Nghì. Cẩn Vận Nhất Tâm Quy Mạng lễ.
Thượng Nguyên Tứ Phúc Thiên Quan Đại Đế Thần Chú:
Chân đô nguyên dương, Tử Vi chi Tôn, tự nhiên đại thánh, Tứ Phúc Thiên Quan, thống nhiếp Thiên Tướng, khu sử Quỷ Thần, minh chung kích cổ, thừa xa tử vân, đội trượng thiên vạn, tổng lĩnh Thiên Binh, địch trừ hung uế, khu trọc Thần Thanh, Ngọc Đế Hữu Sắc.
Trung Nguyên Xá Tội Địa Quan Đại Đế Chú:
Trung Nguyên Xá tội, Thất Nguyên Khí Quân, Thái Dương Động Diệu, Chủ Địa Chi Tôn, Linh Quân Đại Thánh, Xã Tắc chi Thần, tư sinh vạn vật, trưởng dưỡng quần sinh, địch trừ hung ác, tảo đãng ma tinh, thừa long kỵ hổ, du biến Càn Khôn, cứu hộ quần luân, khiển tà quy chính, bảo mệnh trường tồn, quyên tiêu cửu hoành, quắc diệt ngũ ôn, lưu tường giáng phúc, dữ Đạo hợp Chân.
Hạ Nguyên Giải Ách Thủy Quan Đại Đế Chú
Hạ Nguyên giải ách, Thủy Phủ chi Tôn, Động Âm Đại Đế, Dương Cốc Thần Quân, Phù Tang Cung Chủ, Thanh Lãnh chi Thần, thừa Long hư Khí, sưu tróc Tà Tinh, khu lôi xiết điện, dịch xử Phong Vân, bình ba phục lãng, hải yếu hà thanh, cảm hữu Yêu Quỷ, chiếp nhiễu sinh linh, thốn thi vạn đoạn, bất đắc lưu đình, cấp cấp như luật lệnh.
Tam Quan Tổng Cáo:
Chí Tâm Quy Mạng Lễ !
Duy Tam Thánh Nhân. Nãi Nhất Thái Cực. Phổ Thụ Hạo Kiếp Gia Chi Mệnh. Đỉnh Ưng vô lượng phẩm chi bao. Tử Vi thanh hư động âm. Tổng lãnh công quá. Tứ phúc xá tội gải ách. Phổ tế tồn vong. Đạo Quan chư Thiên. Ân đàm Tam Giới. Đại Ni Đại Nguyện. Đại Thánh Đại Từ. Tam Nguyên Tam Phẩm Tam Quan Đại Đế. Tam Cung Cửu Phủ, Cảm Ứng Thiên Tôn.
Tán Thán:
Tam Nguyên ủng hộ. Vạn Thánh đồng minh. Xá tội giải ách. Tiêu tai chướng công. Đức quảng vô biên. Phúc thọ tăng diên. Tứ phúc giáng cát tường. Tam Quan Xá Tội Thiên Tôn.
Được sửa bởi a tư tiểu khang ngày 20/2/2017, 10:28 pm; sửa lần 3.
Về Đầu Trang Go down
Xem lý lịch thành viên
a tư tiểu khang
Thừa Tướng
Thừa Tướng
avatar
Tổng số bài gửi : 709
Join date : 12/12/2008
Bài gửiTiêu đề: Cụ Thể Lễ Cúng Chân Thiên Xá Nhật 6/3/2014, 5:59 pm
Đồ Lễ:
Hoa Quả Bánh Kẹo ! Đồ Chay ! Rau Luộc ! Sữa ! Mật Ong ! Đường Cục ! Bỏng ! Gạo Muối ! Trà Nước Rượu mỗi thứ 3 chén (Ly) tượng trưng Tinh - Khí - Thần ! Có Thể Dùng Chút Tiền Vàng Bố Thí Âm Hồn Cô Nhỡ !
Năm Cây Nến Đỏ ! Chín Cây Nhang (Cửu Ngũ Chí Tôn) xoay mặt về hướng Thiên Xá Đáo phương (Mỗi Ngày Chân Thiên Xá sẽ khác nhau )
Đọc Kinh Văn Sau 7 lần Toàn Bài :
Nam Mô A Di Đà Phật ! (3 lần)
Nam Mô Cam Lồ Vương Bồ Tát ! (3 lần)
Phật Đạo Hoan Duyệt An Thần Vị !
Gia Đường Trù Tác Tất An Ninh !
Thổ Địa Long Thần Vô Cấm Kỵ !
Thiên Địa Giáng Phúc Bất Tư Nghì !
Nam Mô Tiêu Tai Giáng Kiết Tường Bồ Tát Ma Ha Tát ! (3 Lần)
Chân Thiên Xá Nhật Niệm Phần Hương ! Tạ Thiên Tạ Địa ! Tạ Chư Phật ! Tạ Bồ Tát, Thanh Văn Duyên Giác ! Tạ Chư Tiên ! Chư Thánh ! Chư Thần ! Tạ Chư Thiên Long Quỷ Thần cập các Quyến Thuộc ! Tạ Lục Tạ Sư Tạ Á Rặc ! Tạ Cửu Huyền Thất Tổ Nội Ngoại Thân Bằng Quyến Thuộc Nhiều Đời Nhiều Kiếp ! Hôm nay ngày Chân Thiên Xá ... Chúng Con ...(Tên Họ Tuổi Địa Chỉ) Đồng Đẳng Hợp Gia ! Cụ Biện Vật Phẩm Chi Nghi ... Lễ Tuy Bất Túc ! Thành Kính Hữu Dư ! Cầu Xin Sám Hối ! Xá Tội Cầu Phúc (Hoặc Cầu gì tùy mình ...) Cẩn Cáo !
Cẩn Thỉnh Thiên Thanh ! Phụng Thỉnh Địa Linh ! Hương Yên Trầm Phù Ứng Càn Khôn ! Hương Yên Ngũ Thái Phù Vân Thượng Thiên Đình ! Hương Thần Phần Yên Thần Thông Vạn Lý ! Phần Hương Khí Phụng Thỉnh Tam Quan Đại Đế ! Thiên Quan Tử Vi Đại Đế Lai Tứ Phúc ! Địa Quan Thanh Hư Đại Đế Lai Xá Tội ! Thủy Quan Động Âm Đại Đế Lai Giải Ách ! Bái Thỉnh Tam Quan Đại Đế Giáng Lai Lâm ! Cứu Thế Cứu Dân Cứu Đệ Tử (Tín Nữ) ... Tứ Phúc Giải Ách Xá Tội Đại Quang Minh ! Quan Lộ Phong Quang Thất Tinh Hành ! Đại Bi Đại Nguyện ! Đại Thánh Đại Từ ! Đại Hiển Oai Linh ! Cấp Như Tinh Hỏa Luật Lệnh Sắc !
http://www.phongthuy123.com/t524-topic
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ BỬU CÁO
04/08/2013 · by thanhthattrungchinh · in Kinh Sách, Kinh Thiên Đạo. ·
Kinh NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
經 玉 皇 上 帝
Nguồn gốc bài Kinh:
Kinh Ngọc Hoàng Thượng Ðế, còn được gọi là Ngọc Hoàng Thiên Tôn Bửu Cáo, hay vắn tắt là Ngọc Hoàng Bửu Cáo, do Ðại Tiên Lữ đồng Tân, thường gọi là Lữ Tổ, tước hiệu Phu Hựu Ðế Quân, một vị trong Bát Tiên, giáng cơ ban cho ở bên Trung Hoa, sau đó mới truyền sang VN.
Bài Ngọc Hoàng Bửu Cáo có in trong quyển Kinh: “Quan Thánh Ðế Quân Cứu Kiếp Vĩnh Mạng Kinh”, và có cho biết xuất xứ của bài Kinh nầy như sau:
“Quang Tự Tân Mão, cửu ngoạt, sóc, Quan Ðế thỉnh Phu Hựu Ðế Quân giáng tác thử cáo, phú tụng dĩ kính Thiên Ðế”.
Nghĩa là: Niên hiệu Quang Tự (nhà Thanh), năm Tân Mão, tháng 9, ngày mùng 1, Ðức Quan Thánh thỉnh mời Ðức Phu Hựu Ðế Quân giáng cơ viết ra lời cáo nầy, để cho người tụng kinh biết mà tôn kính Ðấng Thượng Ðế.
Ðối chiếu niên lịch, năm giáng cơ ban cho Kinh Ngọc Hoàng Bửu Cáo là năm thứ 17 đời vua Ðức Tông nhà Thanh, niên hiệu Quang Tự, ngày 1-9-Tân Mão, tương ứng với dương lịch là ngày 3-10-1891.
Trong việc giải thích chi tiết bài Kinh Ngọc Hoàng Thượng Ðế , có viết Hán văn kèm theo, soạn giả căn cứ phần chánh vào bản Kinh Hán văn in trong quyển “TỨ THỜI NHỰT TỤNG KINH” xuất bản năm 1928 của Nhị vị Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt, và có sự phối hợp đối chiếu với bản Hán văn in trong quyển 大 道 三 期 普 度 經 (ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ KINH) của Bà Nữ Ðầu Sư Lâm Hương Thanh.
Phần Giải Nghĩa
1. Ðại La Thiên Ðế,
2. Thái Cực Thánh Hoàng.
大 羅 天 帝
太 極 聖 皇
GIẢI NGHĨA
Câu 1-2: Ðại La Thiên Ðế,
Thái Cực Thánh Hoàng.
Ðại: Lớn. La: Tấm lưới. Ðại La là tấm lưới lớn. Thiên: Trời. Ðế: Vua. Thiên Ðế là vua Trời. Thái Cực: Ngôi của Ðấng Chí Tôn Thượng Ðế. Thánh: Thiêng liêng mầu nhiệm. Hoàng: Vua. Thánh Hoàng là vua Thánh.
TNHT. II. 62: “Thầy đã nói với các con rằng: Khi chưa có chi trong CKTG thì Khí Hư Vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực. Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi phân ra Tứ Tượng, Tứ Tượng biến Bát Quái, Bát Quái biến hóa vô cùng, mới lập ra CKTG. Thầy lại phân Tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là: Vật chất, Thảo mộc, Côn trùng, Thú cầm, gọi là chúng sanh.”
Bài Thánh ngôn trên của Ðức Chí Tôn là nền tảng Triết lý về Vũ Trụ Quan của Ðạo Cao Ðài.
Trước khi tạo dựng CKVT thì trong khoảng không gian bao la, chỉ có một khí Hồng Mông Hỗn Ðộn mờ mờ mịt mịt gọi là Hư Vô chi Khí (Khí Hư Vô). Khi tới ngày giờ thì trong Khí ấy nổ ra một tiếng dữ dội, sanh ra một Ðấng gọi là Ngọc Hoàng Thượng Ðế mà ngôi của Ngài là Thái Cực.
Ðấng ấy là Ðấng Tuyệt đối, duy có một, huyền diệu vô cùng, trọn lành trọn tốt, toàn tri toàn năng. Ðấng ấy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi: Âm Quang và Dương Quang. Ngài làm chủ Dương Quang, rồi Ngài hóa thân ra Ðức Phật Mẫu để làm chủ Âm Quang.
Khi đã có đủ Âm Dương rồi, Ngài cho Âm Dương chuyển động, biến hóa ra Tứ Tượng: Thái Dương, Thái Âm, Thiếu Dương, Thiếu Âm. Tứ Tượng biến hóa ra Bát Quái: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Ðoài. Bát Quái tiếp tục biến hóa tạo thành CKVT và vạn vật.
CKVT của Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế về phần hữu hình gồm có: Tam thiên Thế giới (3000 Thế giới) và Thất thập nhị Ðịa (72 Ðịa cầu), cộng lại là 3072 ngôi sao. Mỗi ngôi sao có một vị Thiên Ðế cai quản. (Thiên đế cũng là hóa thân của Thượng Ðế). Các ngôi sao ấy được ví như những mắc lưới của một tấm lưới lớn (Ðại La) bao trùm CKVT, nên Ðấng chưởng quản toàn cả tấm lưới lớn ấy được gọi là Ðại La Thiên Ðế. Ðấng ấy là vị vua thiêng liêng ngự tại ngôi Thái Cực, nên cũng gọi Ðấng ấy là Thái Cực Thánh Hoàng.
Ðấng ấy hóa sanh ra vạn vật và nhơn loại, là CHA chung của chúng sanh, nên còn gọi Ðấng ấy là Ðại Từ Phụ.
Ðấng ấy là Ðấng duy nhứt, được tôn kính nhứt trong CKVT, nên gọi Ðấng ấy là Ðại Thiên Tôn.
(Ðấng Thiên Ðế cai quản Ðịa cầu 68 của nhơn loại chúng ta được Phật giáo gọi là Phạm Thiên Vương hay Ðế Thích).
Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế thường ngự trên một cái đài cao nơi Linh Tiêu Ðiện Ngọc Hư Cung để họp Thiên triều của Ngài, nên Ngài tự xưng là Ðấng Cao Ðài, và Ngài đặt ra Câu Chú riêng của Ngài trong thời ÐÐTKPÐ gồm 12 chữ là: “Nam mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma ha Tát”.
ÐÐTKPÐ được gọi là Ðạo Cao Ðài là vì tôn giáo nầy do Ðấng Cao Ðài giáng cơ lập ra và làm Giáo chủ. Ngài giáng cơ dạy đạo, xưng mình là Thầy và gọi các tín đồ là Môn đệ.
Nhơn loại thường gọi Ðấng Cao Ðài là Ðức Chí Tôn, đôi khi cũng gọi là Ðấng Chí Linh, Ðấng Chí Công.
Tóm lại, trong CKVT nầy, có một Ðấng duy nhứt tạo dựng ra CKVT và hóa sanh vạn vật. Ðấng ấy được người đời gọi bằng nhiều danh từ khác nhau tùy theo trường hợp, kể ra:
Ðấng Ðại La Thiên Ðế.
Ðấng Thái Cực Thánh Hoàng.
Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế, hay vắn tắt là Ðấng Thượng Ðế.
Ðấng Huyền Khung Cao Thượng Ðế Ngọc Hoàng.
Ðấng Ðại Thiên Tôn.
Ðấng Ðại Từ Phụ.
Ðấng Cao Ðài.
Ðấng Chí Tôn, Ðấng Chí Linh, Ðấng Chí Công.
Ðấng ấy tự xưng là Thầy và gọi Tín đồ là Môn đệ.
C.1-2: Có một Ðấng tạo dựng ra CKVT, hóa sanh vạn vật, được người đời gọi là Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế và nhiều danh hiệu khác nữa, trong đó có 2 danh hiệu là: Ðại La Thiên Ðế, Thái Cực Thánh Hoàng.
3. Hóa dục quần sanh,
4. Thống ngự vạn vật.
化 育 群 生
統 御 萬 物
GIẢI NGHĨA
Câu 3: Hóa dục quần sanh.
Hóa: Sanh ra. Dục: Nuôi dưỡng. Quần: Nhiều, tụ họp đông đảo. Sanh: Sống. Quần sanh: đồng nghĩa với Chúng sanh, chỉ tất cả các loài có sự sống như: Thảo mộc, Côn trùng, Thú cầm và Nhơn loại.
C.3: Ðấng Thượng Ðế hóa sanh và nuôi dưỡng các loài sanh vật.
Câu 4: Thống ngự vạn vật.
Thống: Tóm lãnh hết cả. Ngự: Cai trị.
C.4: Ðấng Thượng Ðế cai trị toàn cả vạn vật.
5. Diệu diệu Huỳnh Kim Khuyết,
6. Nguy nguy Bạch Ngọc Kinh.
渺 渺 黃 金 闕
巍 巍 白 玉 京
GIẢI NGHĨA
Câu 5: Diệu diệu Huỳnh Kim Khuyết.
Diệu: Còn được đọc là Diêu, Diểu, Miểu, nghĩa là xa tít mù. Diệu diệu: Ở mù mù rất xa.
Huỳnh: Màu vàng. Kim: Vàng, một thứ kim loại rất quí, là vua của các kim loại. Huỳnh Kim là vàng ròng. Khuyết: Cái cổng vào đền vua.Huỳnh Kim Khuyết: Cái cổng làm toàn bằng vàng ròng để đi vào Ðền của Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế. Phía trong Huỳnh Kim Khuyết là nơi họp Triều đình của Ðức Thượng Ðế .
C.5: Cái cổng lớn Huỳnh Kim Khuyết ở mù mù rất xa.
Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo “Con đường Thiêng liêng Hằng sống” có nói như sau:
“Trên hết, chúng ta ngó thấy Ðức Chí Tôn ngự với cái triều nghi của Ngài là Huỳnh Kim Khuyết. Nơi Huỳnh Kim Khuyết, trên đầu của Ngài nơi xa xa, chúng ta thấy vọi vọi, xa nữa chúng ta thấy 3 vị Phật mà hiện giờ ta thấy tượng hình nơi nóc BQÐ là: Brahma Phật, Civa Phật, và Christna Phật, ngự trên nữa, xa hơn nữa, coi vọi vọi xa xăm hơn nữa, chúng ta không thế gì tưởng tượng được, con mắt mình ngó thấy như một đạo hào quang chớp nhoáng mà không có hình ảnh gì hết, chiếu diệu trên cái triều nghi của Ngài là Huỳnh Kim Khuyết, mà dưới Huỳnh Kim Khuyết là Cửu phẩm Thần Tiên đang ngự triều với Ðức Chí Tôn, chúng ta không thế gì tưởng tượng được, oai nghiêm huyền bí làm sao!”
Câu 6: Nguy nguy Bạch Ngọc Kinh.
Nguy: Dáng núi cao lớn đồ sộ. Nguy nguy: Ðồ sộ cao vòi vọi. Bạch Ngọc: Loại đá quí màu trắng trong rất đẹp. Kinh: Tòa lâu đài to lớn dùng làm nơi đóng đô của vua.
Vàng là vua loài kim, Ngọc là vua loài đá, cho nên 2 thứ quí báu nầy được dùng làm các vật dụng của vua hay để trang trí trong đền vua.
Bạch Ngọc Kinh là tòa lâu đài đồ sộ làm toàn bằng ngọc trắng, làm nơi ngự của Ðức Chí Tôn Thượng Ðế.
C.6: Ðền Bạch Ngọc Kinh đồ sộ cao vòi vọi.
Có bài thơ trong TNHT. I. 112 mô tả Bạch Ngọc Kinh:
Tân tả Bạch Ngọc Kinh
Một tòa Thiên các ngọc làu làu,
Liền bắc cầu qua nhấp nhóa sao.
Vạn trượng then gài ngăn Bắc Ðẩu,
Muôn trùng nhiếp khảm hiệp Nam Tào.
Chư Thần chóa mắt màu thường đổi,
Liệt Thánh kinh tâm phép vẫn cao.
Dời đổi chớp giăng đoanh đỡ nổi,
Vững bền muôn kiếp chẳng hề xao.
Bạch Ngọc Kinh là tòa lâu đài quí báu nhứt, đồ sộ đẹp đẽ nhứt, huyền diệu nhứt nơi cõi TL. Lâu đài nơi cõi trần còn bị hư sập hay bị hủy hoại theo thời gian, nhưng Bạch Ngọc Kinh thì tồn tại vĩnh viễn. Tất cả các Chơn linh , khi đã đắc đạo, đều phải đến Bạch Ngọc Kinh bái lễ Ðức Chí Tôn.
Tòa Thánh Tây Ninh được Ðức Phạm Hộ Pháp xây cất theo kiểu vở do Ðức Lý Giáo Tông giáng cơ vẽ ra, căn cứ theo hình ảnh của Bạch Ngọc Kinh. Do đó, Tòa Thánh Tây Ninh được xem là Bạch Ngọc Kinh tại thế.
Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo về Con đường Thiêng liêng Hằng sống có mô tả Bạch Ngọc Kinh như sau:
“Lại gần tới, còn thấy một vật khác thường quái lạ, nhưng nó là một tòa Thiên các đẹp đẽ lắm, màu sắc thay đổi sáng rỡ, mà cả Thoại khí bao quanh, làm như thể vận chuyển hình trạng của nó vậy. Lâu đài chớn chở mà nó là con vật sống chớ không như gạch đá chúng ta làm đây, nó vận hành như con vật sống vậy, thay đổi màu sắc vô cùng vô biên.
Bí pháp ấy không thế gì tả đặng, ngó thấy đặc sắc lắm!
Nhà cửa ở thế gian nầy là con vật chết, Bạch Ngọc Kinh là con vật sống, biến hóa thay đổi như thể vận hành, xung quanh Thoại khí bao trùm, từ Nam chí Bắc, từ Ðông qua Tây. Khối lửa ánh sáng ấy, chúng ta ngó thấy như mặt trời vậy, mà ánh sáng mặt trời thì nóng nực bực bội, còn ánh sáng nơi tòa Bạch Ngọc Kinh lại dịu dàng và huyền bí lắm, sung sướng khoái lạc lắm!
Tại sao đài các là con tử vật mà nó sống? Sống là do nơi đâu? Nếu biết thì không lạ gì!
Bạch Ngọc Kinh là do Hỗn Nguơn Khí biến hình ra. Hỗn Nguơn Khí là Khí Sanh Quang của chúng ta đã thở, đã hô hấp, khí để nuôi cả sanh vật sống. Ta sống cũng do do nơi nó xuất hiện, mà biểu nó làm sao không sống?
Khi Bần đạo ngồi trên Pháp xa đến, thấy các Chơn linh hằng hà sa số, bao vây trước cửa la liệt không thể đếm. Pháp xa vừa ngừng, Bần đạo bước xuống thấy 3 cửa nơi Bạch Ngọc Kinh có 12 vị Thời Quân mặc khôi giáp, tay cầm Bửu pháp, đứng cản đường không cho thiên hạ vô. Bần đạo thấy 3 cửa ấy xa nhau, mỗi cửa có 4 người giữ. Bần đạo muốn nói chuyện thì 3 cửa ấy gom lại, 12 người hiệp lại đứng trước mặt Bần đạo. Bần đạo hỏi, vì cớ nào không cho người ta vô?
Vừa hỏi thì họ bỡ ngỡ nói người ta biểu đừng cho vô. Nói người ta biểu thì Bần đạo biết là Kim Quang Sứ biểu xúi đừng cho các Chơn linh vào Bạch Ngọc Kinh. Giận quá, day mặt ra ngoài biểu các Chơn linh vô. Họ tràn vô nghe một cái ào, dường như nước bể bờ chảy vào Bạch Ngọc Kinh vậy. Tới chừng các Chơn linh vô hết, liền biểu 12 vị Thời Quân vô, rồi đứng dòm cùng hết thảy coi còn ai ở ngoài nữa không? Bần đạo cầm cây Giáng Ma Xử đi vô Bạch Ngọc Kinh sau hết.
Bạch Ngọc Kinh chia làm 3 căn, cửa chính giữa các vị Phật cao siêu, mình đứng day vô, phía bên tả là phái nữ, phía bên hữu là phái nam. Bần đạo nghe đi rần rần rộ rộ, bên kia thì thấy hình bóng chiếu qua vách mà thôi, tấm vách thật lạ lùng, trong trắng giống như sương sa vậy.
Buổi đầu, Bần đạo không để ý, đi tới nữa, thấy cả thảy đều có ngôi vị của họ sẵn. Bần đạo vô cửa thấy họ ngồi có chỗ hết, còn mình thì bơ thờ, cầm cây Giáng Ma Xử đi vô, không biết đi đâu. Nói sao người ta có chỗ ngồi, còn mình không có? Vừa nói rồi thì thấy có người đứng gần bên mình mà không hay, họ trả lời: Cái ngai của Ngài kia. Bần đạo dòm lên thấy cái ngai tốt lắm, thấy rồi mà trong bụng hồ nghi nói không biết họ có gạt mình không. Bần đạo sợ, vừa sợ thì có người nói: Chính cái ngai đó là của Ngài.
Từ thử đến giờ, dầu vạn kiếp sanh chịu khổ để tạo vị nơi mặt thế gian nầy cũng không bằng ngồi được trên đó. Nơi đó sung sướng lắm, sung sướng làm sao đâu! …”
7. Nhược thiệt nhược hư,
8. Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa.
若 實 若 虛
不 言 而 默 宣 大 化
GIẢI NGHĨA
Câu 7: Nhược thiệt nhược hư.
Nhược: Nếu như, ví bằng. Thiệt: Thực, có hình ảnh cụ thể thấy được. Hư: Trống không, không thấy gì cả.
C.7: Như là có thật, nhìn thấy được; như là trống không, không thấy gì cả.
Ðó là Ðạo Trời huyền diệu không lường, hư hư thực thực, biến hóa mầu nhiệm vô cùng, lúc có lúc không, không thể nào lấy trí phàm mà biết hết được.
Câu 8: Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa.
Bất: Không. Ngôn: Lời nói. Bất ngôn: Không lời nói. Nhi: Mà. Mặc: Yên lặng. Tuyên: Bày tỏ cho người khác biết. Ðại: Lớn. Hóa: Biến đổi. Ðại hóa: Cuộc biến hóa lớn.
C.8: Không nói ra mà cứ yên lặng tỏ bày cuộc biến đổi rộng lớn trong khắp CKVT.
Sách Luận Ngữ: Thiên hà ngôn tai! Tứ thời hành yên? Vạn vật sanh yên? Nghĩa là: Trời có nói gì đâu! Bốn mùa há không vận chuyển sao? Muôn vật há không sanh hóa sao?
9. Thị không, thị sắc.
10. Vô vi nhi dịch sử quần linh.
是 空 是 色
無 為 而 役 使 群 靈
GIẢI NGHĨA
Câu 9: Thị không, thị sắc.
Thị: Là, ấy là. Không: Trống rổng, mắt phàm không thấy chi cả. Sắc: Những thứ có hình tướng, mắt phàm thấy rõ.
C.9: Là trống không, là có hình tướng.
SẮC thì có hình tướng nên thuộc vật chất hữu hình.
KHÔNG thuộc vô vi, không hình tướng, mắt phàm không thể thấy được. Nói như thế là đối với người phàm, với mắt phàm; nhưng đối với con mắt thiêng liêng thì không có gì là KHÔNG, không có gì là SẮC, tức là không còn phân biệt SẮC và KHÔNG.
Bát Nhã Tâm Kinh của Phật giáo có câu:
“SẮC tức thị KHÔNG, KHÔNG tức thị SẮC,
SẮC bất dị KHÔNG, KHÔNG bất dị SẮC.”
Nghĩa là:
SẮC tức là KHÔNG, KHÔNG tức là SẮC,
SẮC không khác với KHÔNG, KHÔNG không khác với SẮC.
Trong Ðạo Ðức Kinh, Ðức Lão Tử cũng có nói: “Hữu xuất ư Vô”. Nghĩa là: Cái CÓ từ cái KHÔNG mà ra.
Thuở tạo dựng Trời Ðất, Ðức Chí Tôn dùng 2 Khí Dương quang và Âm quang, là 2 chất khí không hình ảnh (tức là KHÔNG) để phối hợp sanh ra CKVT và vạn vật có hình thể (tức là SẮC). Như vậy, Ðức Chí Tôn đã lấy KHÔNG mà tạo thành SẮC. Khi đã có sắc tướng rồi thì phải chịu luật Thành Trụ Hoại Diệt, sắc tướng chỉ tồn tại một thơì gian rồi phải bị tiêu diệt để trở về KHÔNG, tức là trở về nguồn cội Vô Vi.
Câu 10: Vô vi nhi dịch sử quần linh.
Vô: Không. Vi: Làm. Nhi: Mà. Dịch: Sai khiến làm việc. Sử: Sai khiến. Quần linh: Quần là nhiều, Linh là chơn linh, Linh hồn. Quần linh đồng nghĩa Vạn linh, chỉ tất cả chơn linh trong CKVT gồm đủ Bát phẩm chơn hồn: Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn và Phật hồn.
Vô Vi: Nghĩa đen là không làm, nghĩa thường dùng là không hình ảnh, thuộc vô hình. Trái với Vô Vi là Hữu Vi, là có hình ảnh thấy được, thuộc hữu hình sắc tướng.
Ðạo Ðức Kinh viết rằng: “Ðạo thường vô vi nhi vô bất vi”. Nghĩa là: Cái Ðạo thường thì không làm gì nhưng không việc gì không làm được.
Ðạo là Hư Vô chi Khí, mà Hư Vô chi Khí sanh ra Ðức Chí Tôn, nên Ðức Chí Tôn cũng chính là Ðạo. Ngài không làm gì nhưng sai khiến được Vạn linh trong CKVT vì Ngài là Ðạo.
C.10: Ðức Chí Tôn ở trạng thái vô vi mà sai khiến toàn cả vạn linh trong CKVT.
11. Thời thừa lục long,
du hành bất tức.
時 乘 六 龍
遊 行 不 息
GIẢI NGHĨA
Thời: Thường thường. Thừa: Cỡi. Lục long: Sáu con rồng. Du hành: Ði khắp nơi. Bất tức: Không ngừng nghỉ.
Lục long là 6 con rồng, tượng trưng 6 vạch liền của quẻ CÀN trong Kinh Dịch.
Vương Bật, thuộc phái Huyền học thời Nam Bắc Triều bên Tàu, chú giải tượng của quẻ Càn trong Kinh Dịch như sau:
“Thời thừa lục long dĩ ngự Thiên, Càn đạo biến hóa, các chánh tánh mạng.” Nghĩa là: Luôn luôn cỡi 6 rồng để ngự trị Trời, đạo Càn biến hóa, mỗi vật giữ ngay ngắn vận mạng của bản tánh.
Càn tượng trưng Trời. Thời thừa lục long là chỉ cái sức mạnh mẽ của Ðấng Thượng Ðế bao trùm CKVT như 6 con rồng vùng vẫy trong không trung.
Du hành bất tức là chỉ sự vận chuyển và sự biến hóa luôn luôn, và vô cùng tận của Ðấng Thượng Ðế.
Nơi nóc Plafond dù ở 9 cấp Cửu Trùng Ðài của Tòa Thánh Tây Ninh, có tạc hình 6 con rồng đoanh nhau theo 3 màu đạo: 2 rồng vàng, 2 rồng xanh, 2 rồng đỏ, để tượng trưng cho Câu kinh 11 ở trên.
C.11: Nghĩa đen là: Thường cỡi 6 rồng đi khắp nơi không ngừng nghỉ. Nghĩa bóng là: Cái sức mạnh to lớn và sự chuyển vận biến hóa vô cùng tận của Ðấng Thượng Ðế.
12. Khí phân Tứ Tượng.
13. Oát triền vô biên.
氣 分 四 象
斡 旋 無 邊
GIẢI NGHĨA
Câu 12: Khí phân Tứ Tượng.
Khí: Chất khí, ở đây chỉ khí Lưỡng Nghi: Âm quang và Dương quang. Phân: Chia ra. Tứ Tượng: Bốn Tượng gồm: Thái Dương, Thái Âm, Thiếu Dương, Thiếu Âm.
Theo phần Giải nghĩa nơi Câu 1 và Câu 2 thì: Khí Hư Vô biến sanh Thái Cực, ngôi của Ðức Chí Tôn và đó cũng là một Khối Ðại Linh Quang của Ðức Chí Tôn. Ðức Chí Tôn phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi: Âm quang và Dương quang. Hai khí nầy xây chuyển và phối hợp với nhau để sanh ra Tứ Tượng. Rồi Tứ Tượng biến hóa tiếp tục để tạo ra Bát Quái. Bát Quái biến hóa vô cùng để tạo thành CKVT và vạn vật.
Như vậy, nguồn gốc phát khởi là Khí Hư Vô.
Thái Cực, Lưỡng Nghi, Tứ Tượng đều là thể khí với nguồn năng lực là ánh sáng linh thiêng vô cùng tận. Tới khi Bát Quái biến hóa thì bắt đầu có Trời Ðất và vạn vật hữu hình.
C.12: Khí phân Tứ tượng là 2 khí Dương quang và Âm quang phối hợp để hóa sanh ra Tứ Tượng.
Câu 13: Oát triền vô biên.
Oát: Chuyển xoay đi. Triền: Xoay trở lại. Oát triền là xoay chuyển qua lại. Vô biên: Không biên giới, không giới hạn.
CHÚ Ý: Chữ Hán 斡 旋 phải phiên âm ra tiếng Việt là OÁT TRIỀN thì mới đúng chánh tả, theo Từ Ðiển Hán Việt của Ðào Duy Anh quyển II, trang 87 và 490.
C.13: Xoay chuyển qua lại, rộng ra không giới hạn.
14. Càn kiện cao minh.
15. Vạn loại thiện ác tất kiến.
乾 健 高 明
萬 類 善 惡 悉 見
GIẢI NGHĨA
Câu 14: Càn kiện cao minh.
Càn: Quẻ đầu tiên trong Bát Quái, tượng trưng Trời. Kiện: Mạnh mẽ. Cao: Ở trên cao. Minh: Sáng tỏ.
C.14: Ngôi Càn mạnh mẽ, cao vọi, sáng tỏ.
Trong quyển “Châu Dịch Huyền Giải” của Minh Lý Ðạo ấn tống, nói về sự mạnh mẽ của ngôi Càn như sau:
“Kiền (Càn) là cương kiện. Nói rõ hơn, Kiền là cương kiện bất khuất chi nghĩa. Thế của nó có 6 hào đều dương, tượng của nó là thuần dương (nên nói 6 rồng, rồng thuộc về Dương). Mạnh không chi bằng Trời, Trời là Ðạo, một khí lưu hành, tuần hoàn không giáp mối, trải bao nhiêu thời gian, không gian, không ngằn mé (vô biên). Vạn vật không có một vật nào mà không đặng nó che chở, mà cũng không vật nào làm hại nó được.”
Câu 15: Vạn loại thiện ác tất kiến.
Vạn loại: Muôn loài sanh vật trong CKVT. Thiện ác: Lành và dữ. Tất: Ðều, biết rõ. Kiến: Thấy, biết.
C.15: Việc lành, việc dữ của muôn loài vật đều biết và thấy rõ.
Do đó, trong Ðạo Cao Ðài, Ðức Chí Tôn dạy thờ Thiên Nhãn là thờ THẦY. Thầy là Trời, là Thượng Ðế, mà theo lời nói thông thường là Trời cao có Mắt, cái gì cũng thấy rõ hết, dầu giấu giếm kín đáo đến đâu cũng không thể che được con Mắt thiêng liêng của Trời được.
16. Huyền phạm quảng đại.
17. Nhứt toán họa phước lập phân.
玄 範 廣 大
一 算 禍 福 立 分
GIẢI NGHĨA
Câu 16: Huyền phạm quảng đại.
Huyền: Sâu xa kín đáo, huyền diệu. Phạm: Khuôn mẫu để người ta bắt chước làm theo, phép tắc. Quảng: Rộng lớn. Ðại: Lớn. Quảng đại là rộng lớn.
C.16: Cái khuôn phép huyền diệu và rộng lớn.
Phạm vi khuôn phép của Trời Ðất rộng lớn mênh mông vô cùng, nhưng cũng rất huyền diệu, dầu một mũi kim nhỏ cũng không qua lọt, một mảy cũng không bỏ sót. Cho nên có câu: Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu. Nghĩa là: Lưới Trời lộng lộng, thưa mà không lọt.
Câu 17: Nhứt toán họa phước lập phân.
Nhứt: Một. Toán: Ðếm số mà tính ra nhiều ít, làm toán, tính toán. Họa: Tai vạ lớn. Phước: Ðiều may mắn tốt lành. Lập: Tạo nên, lập thành.Phân: Chia ra.
C.17: Chỉ một cái tính toán mà Ðức Chí Tôn tạo lập và chia ra một cách rành rẽ cái nào là họa, cái nào là phước.
Cái tính toán của Ðức Chí Tôn thể hiện bằng Cây Cân Công Bình thiêng liêng, để cân họa phước, trong nháy mắt thì biết rõ kết quả: Phước nhiều thì thăng, tội nhiều thì đọa.
Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo về Con đường Thiêng liêng Hằng sống, có mô tả Ðức Chí Tôn cầm Cây Cân Công Bình thiêng liêng như sau:
“Vừa nói rồi thì thấy Ổng (Ðức Chí Tôn) bước ra đứng ngay chính giữa, ngó ngay Bần đạo, dường như thể biểu con coi đây, ngó ngay lên Ổng, thấy đạo hào quang chiếu diệu ra, tay cầm cây gậy coi đẹp lắm. Cây gậy của Ổng quảy cái bầu, bên mình Ổng mang một cái bị, mặc bộ đồ Ngọc Hoàng Thượng Ðế, nắm ngang cây gậy trên tay thành cây đòn cân, Ổng kéo cái bầu ra thành cái giá cân, Ổng kéo cái bị ra thành trái cân. Ba món báu ấy hiệp lại thành Cây Cân Công Bình thiêng liêng mà chính mình đã thấy Ổng nơi Linh Tiêu Ðiện.”
18. Thượng chưởng Tam thập lục Thiên,
Tam thiên Thế giới.
上 掌 三 十 六 天
三 千 世 界
GIẢI NGHĨA
Thượng: Ở trên, phần trên. Chưởng: Nắm giữ, cai quản . Tam thập lục: 36. Thiên: Ở đây có nghĩa là từng Trời. Tam thập lục Thiên là 36 từng Trời.
Tam thiên: 3000. Thiên là một ngàn. Thế giới: Ðịa cầu. Khi nhìn lên bầu trời vào đêm, chúng ta thấy những vì sao lấp lánh sáng, đó là những Thế giới. Những Thế giới thanh nhẹ thì ở trên cao, những Thế giới ít thanh nhẹ hơn thì ở dưới thấp. Tam thiên Thế giới là 3000 Thế giới, tức 3000 Ðịa cầu.
C.18: Ở phần trên của Vũ trụ, Ðức Chí Tôn chưởng quản 36 từng Trời và 3000 Thế giới.
Ðức Cao Thượng Phẩm giáng cơ dạy Luật Tam Thể, có đoạn nói về Tam thiên Thế giới và Thất thập nhị Ðịa như sau:
“Mấy em thử phân lại Tam thiên Thế giới và Thất thập nhị Ðịa coi thử? Bạch: Tam thiên Thế giới là ở từng trên bao phủ mà Thất thập nhị Ðịa ví như bàn cờ ở dưới. Ðức Cao Thượng Phẩm nói: Phải đó vậy. Tam thiên Thế giới là ngôi vị, còn Thất thập nhị Ðịa là Trường thi Công quả, hiểu chưa?”
Theo lời dạy của Ðức Cao Thượng Phẩm thì bên trên của vũ trụ hữu hình là 3000 Thế giới, chỉ gồm có những ngôi vị của chư Thần Thánh Tiên Phật, còn bên dưới của vũ trụ là 72 Ðịa cầu có nhơn loại ở, nơi đó dùng làm Trường Thi Công Quả, tức là để cho nhơn loại tu hành, lập công bồi đức mà đắc đạo, đoạt được quả vị và được thăng lên ở trên 3000 Thế giới.
19. Hạ ốc Thất thập nhị Ðịa,
Tứ Ðại Bộ Châu.
下 握 七 十 二 地
四 大 部 洲
GIẢI NGHĨA
Hạ: Ở dưới, ở phần dưới. Ốc: còn đọc là Ác, nghĩa là: Nắm lấy, cầm giữ. Thất thập nhị: 72. Ðịa: Ðịa cầu. Thất thập nhị Ðịa: 72 quả Ðịa cầu. Các Ðịa cầu nầy được đánh số từ cao dần xuống thấp, tức là từ thanh khiết xuống trọng trược, và Ðịa cầu của nhơn loại chúng ta đang ở là Ðịa cầu số 68.
Tứ: 4. Ðại: Lớn. Bộ: Ngành, môn. Châu: Vùng đất lớn có biển bao bọc chung quanh.
Tứ Ðại Bộ Châu là 4 Bộ Châu lớn được phân chia theo 4 hướng: Ðông, Tây, Nam, Bắc , có tên là:
Ðông Thắng Thần Châu,
Tây Ngưu Hóa Châu,
Nam Thiệm Bộ Châu,
Bắc Câu Lư Châu.
Thất thập nhị Ðịa (72 Ðịa cầu) được chia ra ở trong Tứ Ðại Bộ Châu nầy. Ðịa cầu 68 của nhơn loại chúng ta thuộc Nam Thiệm Bộ Châu.
C.19: Ở phần dưới của vũ trụ, Ðức Chí Tôn chưởng quản 72 Ðịa cầu và 4 Bộ Châu lớn.
Tóm tắt 2 Câu 18 & 19:
Phần trên của vũ trụ là Tam thập lục Thiên và Tam thiên Thế giới; phần dưới của vũ trụ là Tứ Ðại Bộ Châu và Thất thập nhị Ðịa. Tất cả trên dưới đều do Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế tạo dựng và chưởng quản. Như vậy CKVT của Ðức Chí Tôn gồm có 2 phần: Hữu hình và Vô hình.
Phần Vô hình gồm: Tam thập lục Thiên và Tứ Ðại Bộ Châu (36 từng Trời và 4 Bộ Châu lớn).
Phần Hữu hình gồm: Tam thiên Thế giới và Thất thập nhị Ðịa (3000 Thế giới và 72 Ðịa cầu).
Ðức Chí Tôn dạy Ông Phối Sư Thái Bính Thanh làm một Trái Càn Khôn tượng trưng CKVT thờ nơi BQÐ TTTN:
TNHT. I. 45: “Bính! Thầy giao cho con lo một Trái Càn Khôn, con hiểu nghĩa gì không? Cười … Một trái như trái đất tròn quay, hiểu không? Bề kính tâm 3 thước 3 tấc, nghe con! Lớn quá, mà phải vậy mới đặng, vì là cơ mầu nhiệm Tạo Hóa trong ấy, mà sơn màu xanh da trời, Cung Bắc Ðẩu và Tinh tú vẽ lên Trái Càn Khôn ấy.
Thầy kể, Tam thập lục Thiên, Tứ Ðại Bộ Châu, ở không không trên không khí, tức là không phải Tinh tú, còn lại Thất thập nhị Ðịa và Tam thiên Thế giới thì đều là Tinh tú. Tính lại 3072 ngôi sao. Con phải biểu vẽ lên đó cho đủ.
Con giở sách Thiên văn Tây ra coi mà bắt chước. Tại ngôi Bắc Ðẩu, con phải vẽ 2 cái bánh lái cho đủ và sao Bắc Ðẩu cho rõ ràng. Trên vì sao Bắc Ðẩu, vẽ Con Mắt Thầy.”
20. Tiên Thiên, Hậu Thiên,
Tịnh dục Ðại Từ Phụ.
先 天 後 天
並 育 大 慈 父
GIẢI NGHĨA
Tiên: Trước. Hậu: Sau. Thiên: Trời.
Tiên Thiên là trước khi tạo dựng Trời Ðất. Thời kỳ Tiên Thiên nằm trong khoảng thời gian từ khi xuất hiện ngôi Thái Cực cho đến khi Thái Cực phân ra Lưỡng Nghi Âm Dương. Dương nhẹ nổi lên thành Trời, Âm nặng chìm xuống thành Ðất. Thời kỳ Tiên Thiên còn ở trạng thái Vô vi, vô hình.
Hậu Thiên là sau khi tạo dựng Trời Ðất. Thời Hậu Thiên nằm trong khoảng thời gian sau khi xuất hiện Lưỡng Nghi, tức là sau khi có được Trời Ðất, tức CKVT và vạn vật. Thời kỳ nầy thuộc về Hữu hình sắc tướng.
Thái Cực Lưỡng Nghi Trục thời gian
——————–O————————— —————X—————————— >>
Hồng mông (Hỗn Ðộn) Tiên Thiên Hậu Thiên
Tịnh: Cùng, đều. Dục: Nuôi dưỡng. Tịnh dục là nuôi dưỡng đồng đều như nhau. Ðại: Lớn. Từ: Lòng thương yêu chúng sanh. Phụ: Cha. Ðại Từ Phụ là người Cha lớn hơn hết các người cha, có lòng lành thương yêu chúng sanh, vì chúng sanh đều là con cái của Ngài. Ðấng ấy là Ngọc Hoàng Thượng Ðế, nay gọi là Ðấng Cao Ðài.
C.20: Trước khi tạo dựng Trời Ðất, sau khi tạo dựng Trời Ðất, Ðức Chí Tôn là Ðại Từ Phụ của toàn cả chúng sanh, nuôi dưỡng chúng sanh đồng đều như nhau.
Ðấng Thượng Ðế nuôi sống chúng sanh bằng không khí để thở, bằng ánh sáng mặt trời để sưởi ấm, nước để uống và các loại thực phẩm. Không vì người đạo đức mà Thượng Ðế ban cho nhiều hơn, hay không vì kẻ hung bạo gian tà mà ban cho nó ít hơn, không ban cho nó sống. Còn các vật, không vì loài hữu ích mà ban cho nó nhiều, không vì loài độc hại mà lấy bớt. Thượng Ðế nuôi dưỡng chúng sanh mọi loài đều như nhau. Tình thương của Thượng Ðế chan hòa đồng đều khắp cả.
Mặt khác, Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế là Thầy mà cũng là Cha (Ðại Từ Phụ). Ðức Phạm Hộ Pháp thắc mắc điểm nầy nên có cầu Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, hỏi:
– Phàm là Cha thì làm Cha, còn Thầy thì làm Thầy, chớ sao Ðại Từ Phụ lại xưng là Thầy, rất nên khó hiểu?
Ðức Nguyệt Tâm trả lời bằng bài thơ Pháp văn, dịch ra thơ song thất lục bát như sau: (Ðức Phạm Hộ Pháp dịch)
Người cũng vẫn Cha Thầy luôn một,
Cả chơn linh, hài cốt, tay Người.
Nuôi mình dùng vật thanh tươi,
Tạo hồn lấy phép tột vời Chí Linh.
Nơi Người vốn quang minh cách trí,
Tấn hóa hồn phép quí không ngưng.
Vật hèn trước mắt thành trân,
Hồn hèn Người lại dành phần Phật Tiên.
Luật Thương yêu, quyền là ngay chánh,
Gần thiện căn, xa lánh phàm tâm.
Làm Cha nuôi sống âm thầm,
Làm Thầy lại nhượng phẩm Thần ngôi Tiên.
21. Kim ngưỡng, cổ ngưỡng.
22. Phổ tế Tổng Pháp tông.
今 仰 古 仰
普 濟 總 法 宗
GIẢI NGHĨA
Câu 21: Kim ngưỡng, cổ ngưỡng.
Kim: Thời nay. Cổ: Thời xưa.
Ngưỡng: Ngửa mặt nhìn lên với lòng kính mến.
C.21: Thời nay cũng như thời xưa, đều được kính mến.
Câu 22: Phổ tế Tổng Pháp tông,
Phổ: Khắp nơi, rộng lớn. Tế: Giúp đỡ.
Tổng: Gom lại. Pháp: Pháp có nghĩa rất rộng, ở đây, Pháp có nghĩa là Giáo lý của một nền tôn giáo. Tông: còn đọc là Tôn: Tôn giáo. Pháp tông là giáo lý của một tôn giáo.
Tổng Pháp tông là gom tất cả Giáo lý của các nền tôn giáo lại thành một mối.
C.22: Giúp đỡ chúng sanh, gom tất cả Giáo lý của các nền tôn giáo có từ trước tới nay thống nhứt thành một mối dưới sự chưởng quản của Ðức Chí Tôn.
Xưa kia, Ðức Chí Tôn cho khai mở riêng rẽ nhiều nền tôn giáo khác nhau nơi các vùng dân cư khác nhau trên mặt Ðịa cầu nầy, để giáo hóa và cứu giúp dân chúng vùng đó, vì thuở ấy, con người còn kém văn minh, việc đi lại và thông tin từ nơi nầy đến nơi khác rất khó khăn. Các tôn giáo chỉ hành đạo nơi địa phương riêng của mình mà thôi. Bởi thế, nhơn loại bị phân chia đối nghịch nhau, cho đạo mình là chánh, đạo khác là tà.
Ngày nay, nhơn loại tiến đến một nền văn minh rất cao, nhơn loại đã hiệp đồng, và cũng đúng vào thời kỳ Hạ nguơn Mạt kiếp, một cuộc Tận thế sắp xảy ra, để chuyển sang Thượng nguơn Thánh đức, nên Ðức Chí Tôn mở lòng Ðại từ Ðại bi, khai sáng ÐÐTKPÐ để gom tất cả Giáo lý của các nền tôn giáo đã có từ trước tới nay, qui về một mối duy nhứt là Ðạo Cao Ðài, không còn chia rẽ phân biệt nhau, cùng nhau có chung một tín ngưỡng, cùng thờ một Ðấng Duy Nhứt Tối Cao, Chúa Tể CKVT, và cũng là Ðại Từ Phụ của nhơn loại. Ðó chính là tôn chỉ của Ðạo Cao Ðài: Qui nguyên Tam giáo, Phục nhứt Ngũ Chi.
Ðây là thời kỳ mà Ðức Chí Tôn làm một cuộc Tổng Pháp tông, thống hợp các tôn giáo, cứu độ toàn chúng sanh trong buổi đời Mạt kiếp của Hạ Nguơn Tam Chuyển nầy.
23. Nãi Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần chi quân,
24. Vi Thánh, Thần, Tiên, Phật chi chủ.
乃 日 月 星 辰 之 君
為 聖 神 仙 佛 之 主
GIẢI NGHĨA
Câu 23: Nãi Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần chi quân.
Nãi: Bèn, hóa ra là, ấy là. Nhựt: Mặt trời. Nguyệt: Mặt trăng. Tinh: Ngôi sao, tinh tú. Thần: Ngày giờ, chỉ về thời gian. Chi: Tiếng đệm.Quân: Vua.
Nhựt, Nguyệt, Tinh là Tam bửu trên bầu trời, chỉ về Không gian. Thần là ngày giờ, chỉ về Thời gian.
Câu 23: Ấy là vua của Mặt trời, Mặt trăng, Ngôi sao, và ngày giờ, tức là vua của Không gian và Thời gian.
Ðức Chí Tôn có giáng cơ dạy rằng:
“Thập nhị Khai Thiên là Thầy, Chúa cả Càn Khôn Thế Giới, nắm trọn Thập nhị Thời Thần vào tay. Số 12 là số riêng của Thầy,” (TNHT. I.12)
Theo Bài Thánh ngôn nầy, Ðức Chí Tôn là Chúa của Càn Khôn Thế Giới, tức là Chúa của Nhựt Nguyệt Tinh; và Ðức Chí Tôn cũng là Chúa của Thập nhị Thời Thần, tức là Chúa của Thời gian.
Câu 24: Vi Thánh Thần Tiên Phật chi chủ.
Vi: Là. Thánh, Thần, Tiên, Phật: Bốn cấp phẩm vị thiêng liêng dành cho những người đạo đức tu hành đắc quả, tùy theo công đức nhiều ít mà được phẩm vị cao thấp tương xứng. Phẩm thấp nhứt là Thần, cao hơn chút là phẩm Thánh, cao hơn nữa là phẩm Tiên, và cao nhứt là phẩm Phật.
Chi: Tiếng đệm. Chủ: Người làm chủ, làm Chúa, tức là người làm ra sự vật và có toàn quyền quyết định số phận của sự vật ấy.
C.24: Là người chủ của chư Thần, Thánh,Tiên, Phật.
Người chủ đó là Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế. Ðức Chí Tôn, chẳng những là chủ của các Ðấng ấy, mà còn là Cha sanh ra các Ðấng ấy nữa.
TNHT. I. 52: “Khai Thiên Ðịa vốn Thầy, sanh Tiên, Phật cũng Thầy. Thầy nói một Chơn thần mà biến Càn Khôn Thế Giới và cả nhơn loại.
Thầy là chư Phật, chư Phật là Thầy.
Các con là chư Phật, chư Phật là các con.
Có Thầy mới có các con, có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Thầy khai Bát Quái mà tác thành Càn Khôn Thế Giới, nên mới gọi là Pháp. Pháp có mới sanh ra Càn Khôn Vạn vật, rồi mới có người, nên gọi là Tăng.
Thầy là Phật, chủ cả Pháp và Tăng, lập thành các Ðạo mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy,”
Nhiều người mê chấp cho rằng, chỉ có Phật là lớn, còn Thượng Ðế là Ông Trời thì nhỏ hơn Phật. Họ dẫn chứng bằng Truyện Tây Du, khi Tề Thiên Ðại Thánh loạn Thiên Cung, Thượng Ðế cũng phải thua chạy, phải cầu cứu Phật Tổ. Phật Tổ qua mới bắt được Tề Thiên, đem đè dưới Ngũ Hành Sơn.
Ðầu truyện thì nói Tề Thiên tài giỏi như thế, song về sau thì Tề Thiên rất dở, đánh không lại nhiều con yêu, phải đi cầu cứu thầy của chúng xuống bắt về. Xét như thế để thấy rằng Truyện Tây Du trước sau không thống nhứt, không đáng tin.
Mặt khác, chúng ta thử hỏi: Phật Tổ do đâu mà có? Trả lời: Do Thái tử Sĩ Ðạt Ta đi tu thành Phật. Thái tử Sĩ Ðạt Ta chỉ là một người nơi thế gian. Thể xác của Thái Tử do vua cha và hoàng hậu, mẹ của Thái tử sanh ra, nhưng Linh hồn và Chơn Thần của Thái tử do đâu mà có?
Chúng ta biết rằng, tất cả đều do Thượng Ðế sanh ra. Ðó là Ðấng Ðại Từ Phụ của toàn cả chúng sanh. Dù con người có tu thành Phật thì Phật đó cũng vẫn là con của Thượng Ðế, mà con thì không thể lớn hơn cha.
Ðây là một Chơn lý không thể chối cãi được. Nó có tính cách khoa học hợp lý, chớ không phải do mê tín đặt ra.
25. Trạm tịch chơn đạo.
26. Khôi mịch tôn nghiêm.
湛 寂 眞 道
恢 漠 尊 嚴
GIẢI NGHĨA
Câu 25: Trạm tịch chơn đạo.
Trạm: Nước sâu, sâu dày. Tịch: Yên lặng. Trạm tịch: Sâu dày và yên lặng. Chơn: Thật, thường nói Chơn thật.
Ðạo: Nguyên lý đầu tiên tạo thành CKVT và vạn vật.
(Xem giải nghĩa chi tiết chữ Ðạo trong Kinh Tiên giáo). Ở đây, chữ Ðạo có nghĩa là nền Ðại Ðạo của Ðức Chí Tôn.
C.25: Nền Ðại Ðạo của Ðức Chí Tôn chơn thật, sâu dày và yên lặng.
Câu 26: Khôi mịch tôn nghiêm.
Khôi: To lớn. Mịch: còn đọc là Mạc, nghĩa là yên lặng. Tôn: Ðáng kính. Nghiêm: Vẻ oai nghi đáng nể sợ.
C.26: Nền Ðại Ðạo của Ðức Chí Tôn to lớn, lặng lẽ, đáng kính, oai nghiêm.
Nền Ðại Ðạo của Ðức Chí Tôn mở ra bao gồm các Giáo lý của Tam giáo và Ngũ Chi, nên nó là một nền Ðại Ðạo chơn chánh, vĩ đại, sâu xa, cao quí, tôn nghiêm, và huyền diệu vô cùng. Có được như vậy mới độ được 92 ức nguyên nhân còn đang bị đọa lạc nơi cõi trần, đồng thời tận độ toàn cả chúng sanh, trong thời kỳ Mạt Kiếp Hạ Nguơn, để chuyển qua thời kỳ Thượng Nguơn Thánh đức.
27. Biến hóa vô cùng.
28. Lũ truyền bửu kinh dĩ giác thế.
變 化 無 窮
屢 傳 寶 經 以 覺 世
GIẢI NGHĨA
Câu 27: Biến hóa vô cùng.
Biến hóa: Thay đổi thành cái khác, hay đổi sang trạng thái khác, hình thức khác. Vô cùng: Không có chỗ cuối cùng, không giới hạn.
C.27: Biến hóa không cùng tận.
Câu 28: Lũ truyền bửu kinh dĩ giác thế.
Lũ: Nhiều lần. Lũ truyền: Nhiều lần truyền ra khắp nơi. Bửu: còn đọc là Bảo, nghĩa là quí báu. Kinh: Kinh sách. Bửu kinh: Kinh sách quí báu. Dĩ: Ðể mà, dùng để.
Giác: Tỉnh ra mà biết rõ, trái với Mê. Giác và Mê, tỷ như người thức với kẻ ngủ, thức là Giác, ngủ là Mê. Giác là Phật, Mê là chúng sanh.Thế: Ðời, người đời. Giác thế: Giác ngộ người đời, làm cho người đời tỉnh ra mà biết rõ, đâu là tạm bợ, đâu là vĩnh cửu, đâu là thật, đâu là giả, vv…
C.28: Nhiều lần truyền bá kinh sách quí báu để giác ngộ người đời.
Từ xưa đến nay, Ðức Chí Tôn đã nhiều lần cho các Ðấng Phật Tiên giáng trần mở Ðạo cứu đời: Ðức Phật Thích Ca mở Phật giáo ở Ấn Ðộ, Ðức Chúa Jésus mở Thánh giáo ở nước Do Thái; Ðức Lão Tử, Ðức Khổng Tử mở Tiên giáo và Nho giáo tại Trung Hoa, vv… Các Ðấng Giáo chủ ấy đã thuyết giảng biết bao giáo lý cao siêu, ghi lại thành kinh sách quí báu, truyền bá trong dân chúng, hầu thức tỉnh người đời bỏ mê tìm giác, lo việc tu hành mà trở về ngôi xưa vị cũ.
29. Linh oai mạc trắc.
30. Thường thi Thần giáo dĩ lợi sanh.
靈 威 莫 測
常 施 神 敎 以 利 生
GIẢI NGHĨA
Câu 29: Linh oai mạc trắc.
Linh: Thiêng liêng. Oai: Cái vẻ trang nghiêm khiến người khác phải nể sợ. Mạc: Không. Trắc: Ðo lường. Mạc trắc là không thể đo lường để biết được.
C.29: Cái oai quyền thiêng liêng của Ðức Chí Tôn không thể đo lường để biết hết được.
Người thời nay, nơi các nước văn minh tối tân Âu Mỹ, Nhựt, đã chế tạo được máy bay, tàu lặn, hỏa tiển, phi thuyền, năng lượng nguyên tử, người máy, vv… tưởng như vậy là giỏi lắm, có thể cướp được quyền Tạo Hóa.
Chúng ta phải nói rằng, họ hoàn toàn sai lầm trong tư tưởng, vì họ chưa biết rõ cái oai quyền thiêng liêng của Thượng Ðế. Họ không thể tạo ra được sự sống, họ chỉ tạo ra được sự chết mà thôi. Chừng nào mà các nhà khoa học chế tạo được một người máy Nam và một người máy Nữ, cho phối hợp với nhau như vợ chồng, đẻ ra được một người máy con, thì họ mới gọi là cướp được quyền của Tạo Hóa.
Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế là Ðấng duy nhứt tạo ra được sự sống và làm chủ sự sống đó.
Ngài là chủ tể của 2 nguyên lý Âm Dương và Ngũ Hành (Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ). Ðức Chí Tôn chỉ dùng cái oai linh của Ngài để xoay chuyển Ngũ Hành cho đảo lộn một chút thôi, thì chúng ta tưởng tượng sẽ xảy ra như thế nào?
– Súng đạn không có lửa nẹt ra đúng lúc để nổ.
– Tàu bè, xe cộ, không có xăng lửa (Thủy Hỏa) điều hòa thì máy móc làm sao chuyển động được.
– Ðiện tử, điện trường, từ trường bị xáo trộn, làm sao tạo ra được các phản ứng vật chất.
– Ngũ tạng, Lục phủ trong thân thể con người sẽ rối loạn, làm cho con người mê loạn và chết thảm.
Vậy thì, con người dù khôn ngoan đến đâu cũng không thể bằng Trời, mà cũng không thể chống lại Trời.
Người khôn ngoan là người biết nương theo các định luật của Tạo Hóa để mau tiến hóa.
Câu 30: Thường thi Thần giáo dĩ lợi sanh.
Thường: Luôn luôn, hằng có. Thi: Sắp đặt mà làm ra, thi hành. Giáo: Dạy. Dĩ: Ðể mà, dùng để. Lợi: Có ích. Sanh: Sống, ý nói nhơn sanh, chúng sanh.
Thần: Có 2 nghĩa tùy theo trường hợp: Thần là thiêng liêng; Thần là một trong Tam Bửu Tinh, Khí, Thần, nên Thần là Chơn linh, Linh hồn.
Do đó, Câu kinh trên có thể được giải thích bằng 2 cách tùy theo nghĩa của chữ Thần:
1. Thần là thiêng liêng: Thần giáo là lời giáo huấn thiêng liêng của chư Tiên, Phật. Thần giáo đồng nghĩa với Thánh giáo.
C.30: Thường đặt ra các lời giáo huấn thiêng liêng để làm ích lợi cho nhơn sanh.
2. Thần là Chơn linh. Thi Thần là sắp đặt cho các Chơn linh.
C.30: Thường sắp đặt cho các Chơn linh giáng trần mở đạo giáo hóa nhơn sanh để làm lợi ích cho nhơn sanh.
Cách giải thích nầy phù hợp với Câu kinh 28: Lũ truyền bửu kinh dĩ giác thế: Nhiều lần truyền bá kinh sách quí báu để giác ngộ người đời.
Ðức Chí Tôn đã nhiều phen sắp đặt cho các Chơn linh cao trọng giáng trần lập Ðạo, giáo hóa nhơn sanh tu hành, tức là làm lợi ích cho nhơn sanh. Nhưng, nhơn sanh u mê tăm tối, lại bị Quỉ Vương xúi giục, cám dỗ, nên lần lần các mối Ðạo quí báu bị sửa cải Chơn truyền, qui phàm, mất hết giá trị.
31. Hồng oai, hồng từ.
32. Vô cực, vô thượng.
洪 威 洪 慈
無 極 無 上
GIẢI NGHĨA
Câu 31: Hồng oai, hồng từ.
Hồng: To lớn, rộng lớn. Oai: Vẻ trang nghiêm đáng nể sợ. Thường nói: Oai quyền. Từ: Lòng thương yêu của người trên đối với kẻ dưới, lòng thương yêu chúng sanh.
1) Hồng oai: Cái oai quyền to lớn do lòng thương yêu mà có, chớ không phải do sức mạnh vũ lực đè nén người, nhờ đó mà làm cho người ta phải tâm phục.
Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo có kể lại một câu chuyện để chúng ta hiểu cái Hồng Oai của Ðức Chí Tôn:
“Bần đạo đã đọc sự tích đó hồi còn đi học. Có 2 anh em bạn học ở chung một trường với nhau. Tới kỳ thi Tú Tài thì người bạn thi rớt, về thất chí đến nước muốn hủy mình, mà may có một điều, người bạn tâm tình kia đem cả sự đau khổ tâm hồn mình tỏ cho bạn mình. Người bạn an ủi khuyên lơn chi cũng không được hết.
Hôm nọ, người thất chí đó nhứt định đi ra đón xe lửa đặng nhào đầu vô xe lửa chết, mà không dè là người bạn của mình đi theo bén gót, đi theo xa xa, giữ gìn mà không hay. Ông ta mới vừa đi lại gần xe lửa, người bạn chạy theo níu, năn nỉ giữ lại đó. Người kia vùng vẫy, đổ quạu lên nói: “Mầy tưởng đâu mầy thương tao mà mầy kéo dài sự đau khổ của tao, chớ không phải mầy thương tao.”
Bây giờ chẳng thế gì can gián được, nên phải dùng chiến lược khác, phát gây lộn, nói: “Cái thân thể mầy đã dở, mầy ngu, mầy thi rớt, rồi mầy muốn hủy mình. Mầy mà có chết đi nữa, linh hồn mầy xuống Ðịa ngục là thằng tù ngu, dầu có được Ðức Chí Tôn tức nhiên Ðức Chúa Trời ban cho mầy thành Ông Thánh đi nữa, mầy cũng là Ông Thánh ngu.”
Mắng, 2 đàng đánh lộn, ôm vật với nhau, đánh thẳng tay, mà cái Ông kia, mình làm mưu không nỡ đánh lắm, đánh sợ đau bạn. Còn Ông bạn kia đổ quạu thật, đánh thôi mình mẩy sưng tùm lum túa lua, rồi đem vô nhà thương nằm. Vô đó, người bạn đó mới nói: Mầy ơi! Tao cốt yếu cố tâm đặng cứu mầy, mầy làm tao thân thể như thế nầy, thôi hết sức nói.
Tới chừng người kia nằm kế bên mới động lòng khóc mướt, rồi ôm người bạn khóc mướt đó vậy. Cứu được, từ đó anh ta theo mãi, tới thi đậu ra trường thôi.
Ðó, Hồng Oai đó. Bây giờ mình mới nghĩ coi Hồng Oai mà làm được như vậy cũng nên làm chớ.”
Cái oai quyền của một người Cha đối với đàn con có được là do đâu? Có phải là do lòng thương yêu của Cha đối với Con, và của Con đối với Cha. Chính 2 sự thương yêu tương liên đó tạo ra oai quyền của Cha đối với Con.
Còn Hồng Oai của Ðức Chí Tôn là đối với toàn thể vạn linh trong CKVT, là con cái thương yêu của Ngài. Ðức thương yêu của Ðức Chí Tôn vô cùng tận thì Hồng Oai của Ðức Chí Tôn cũng vô cùng tận.
2) Hồng từ: Lòng thương yêu to lớn, không vì lợi ích riêng cho mình mà vì lợi ích cho xã hội nhơn quần. Ðó là lòng thương yêu cao cả, vượt trên ích kỷ nhỏ nhen để đem lại lợi ích chung.
Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo giảng về Hồng từ của Ðức Chí Tôn như sau:
“Hồng từ, ta thử kiếm hiểu, phải có cái tinh thần Ðại từ bi, Ðại bác ái, nghĩa là mọi điều nó phải do nơi Luật Tương đối hiện tượng, bây giờ là cái tình đời thì ta phải khoan hồng dung thứ. Muốn làm cho không lầm, phải có tinh thần lịch lãm và khoan dung.
Nắm được tánh đức Hồng từ của Ðức Chí Tôn, lịch lãm, ta phải biết mình biết người.
Một cái gương lịch lãm từ cổ chí kim, chưa hề có một lần thứ nhì nữa là Vua Nghiêu, có 9 người con: 7 trai, 2 gái, mà đi tìm Ông Thuấn đặng truyền ngôi vua lại. Còn mấy người con trai kia, ta thử nghĩ thế nào đã? Khi tìm đặng Ông Thuấn, đem 2 người con gái gả hết, Nga Hoàng và Nữ Anh (gả hết cho Ông Thuấn), mà ta thử nghĩ Ông Thuấn là gì? Một tên ít học, cày ruộng, cha là Cổ Tẩu, em là Tượng ghét đáo để, nhứt là bà kế mẫu. Ngài (Ông Thuấn) bị hiếp bức. Ta thử nghĩ vì lẽ gì Vua Nghiêu chọn Ông Thuấn làm vua kế nghiệp cho Ngài (vua Nghiêu), chỉ vì Ông Thuấn là người hiếu mà thôi.
Với cái tánh lịch lãm, vua Nghiêu cho tánh đức hiếu nghĩa là đủ hết rồi. Hễ hiếu cùng cha mẹ, nghĩa cùng anh em, 2 tánh đức đó đủ cả tinh thần đặng trị thiên hạ. Ngài đoán rồi chọn Ông Thuấn. Ngài không lầm, quả nhiên Ông Thuấn đã thành một vị Hoàng Ðế, từ cổ chí kim, chưa hề có một người thứ nhì nữa.
Ấy là lịch lãm, nhờ cái tinh thần lịch lãm của vua Nghiêu, mà cả sự hèn hạ của Ông Thuấn kia nó mất hết. Ông chỉ lấy có Hiếu với Nghĩa mà thôi. Ấy là cái gương lịch lãm khoan dung, mà cái cử chỉ của vua Nghiêu truyền ngôi cho Ông Thuấn là một cái Hồng Từ mà tự thử tới giờ, chưa có ai làm một lần thứ nhì nữa.”
Qua lời thuyết đạo của Ðức Phạm Hộ Pháp, chúng ta thấy vua Nghiêu cũng thương con lắm, nhưng Ngài lại yêu dân hơn yêu con, vì Ngài thấy rõ, con của Ngài không thể làm cho dân hạnh phúc bằng Ông Thuấn, nên Ngài dẹp bỏ lòng thương yêu ích kỷ, truyền ngôi cho Ông Thuấn. Do đó, Ðức Hộ Pháp mới cho vua Nghiêu có Hồng Từ vậy.
Chúng ta xét trong CKVT nầy, có ai oai quyền hơn Ðức Chí Tôn không? Ðó là cái oai quyền của một ông chủ sáng lập ra cái gia tài đồ sộ là CKVT và vạn vật. Ðó là cái oai quyền của một ông vua đối với các bề tôi là chư Thần Thánh, Tiên, Phật.
Ðức Chí Tôn có sử dụng cái oai quyền to lớn ấy để trấn áp ai không? Ðức Chí Tôn chỉ dùng tình thương yêu bao la mà ban phát cho tất cả con cái của Ngài, để mong cải hóa họ trở về nẻo chánh đường ngay; cả những đứa con hung bạo, ngỗ nghịch, phản Ngài mà Ngài cũng vẫn thương yêu, cố đem tình thương đến những đứa con nầy để mong chúng hồi tâm. Ðấng nào muốn trừng phạt những đứa con phản nghịch ấy cũng đều bị Ðức Chí Tôn ngăn cản đến phút chót, làm cho các Ðấng ấy phải lên tiếng kêu nài.
Câu 32: Vô cực, vô thượng.
Vô: Không. Cực: Cái đầu cùng. Thượng: Trên.
Vô cực là không có gì ở ngoài cái đầu cùng, ý nói tột bực rồi. Vô thượng là không có gì ở trên hơn nữa, ý nói cao hơn hết, cao hơn tất cả.
C.32: Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế là Ðấng vô cực vô thượng. Nghĩa là: Trong CKVT nầy, không ai lớn hơn hay cao hơn Ðức Chí Tôn.
33. Ðại Thánh, Ðại Nguyện,
Ðại Tạo, Ðại Bi.
大 聖 大 願
大 造 大 悲
GIẢI NGHĨA
Câu 33: Ðại Thánh, Ðại Nguyện, Ðại Tạo, Ðại Bi.
Ðại: Lớn. Ðại Thánh: Ðức Thánh lớn. Nguyện: Mong muốn và quyết tâm thực hiện. Nguyện cũng là lời thề hứa chắc đối với bản thân mình để mình cố gắng thực hiện cho kỳ được mới nghe, nên thường nói là Thệ nguyện.
Ðại nguyện: Lời nguyện lớn của các Ðấng từ Bồ Tát đổ lên, muốn cứu độ tất cả chúng sanh. Lời nguyện đó phổ cập đến toàn cả chúng sanh, nên gọi là Ðại nguyện.
Tạo: Dựng nên, làm ra. Ðại tạo: là Ðấng Tạo Hóa lớn mà công trình của Ngài là toàn cả CKVT và vạn vật.
Bi: Lòng trắc ẩn thương cảm các cảnh khổ não của chúng sanh, lúc nào cũng muốn cứu vớt chúng sanh khỏi phiền não và tai họa. Ðại bi:Ðức bi lớn.
Lời nói của Ðức Chí Tôn được gọi là Thánh ngôn, lời dạy của Ðức Chí Tôn gọi là Thánh giáo, ý kiến của Ðức Chí Tôn được gọi là Thánh ý. Ðức Chí Tôn thường dùng chữ Thánh để chỉ về mình, biểu thị một tánh đức khiêm tốn tối đa, để làm gương cho nhơn sanh noi theo. Cho nên, từ ngữ Ðại Thánh là chỉ Ðức Chí Tôn.
Ðức Chí Tôn là Ðấng Ðại Từ Bi, thấy trong buổi Hạ Nguơn Mạt kiếp, chúng sanh mê muội đi vào con đường hắc ám, tội lỗi chồng chất, nên Ðức Chí Tôn mở ÐÐTKPÐ, ban cho nhơn loại một cuộc Ðại Ân Xá cuối cùng, cứu vớt chúng sanh lần chót để chuyển qua Thượng Nguơn Thánh đức.
“Mỗi phen Thầy đến lập Ðạo là phải cam đoan và lãnh các con, chẳng khác nào kẻ nghèo lãnh nợ. Các con làm tội lỗi bao nhiêu Thầy đều lãnh hết.” (TNHT. I. 108)
Lời nói đó được xem là Ðại nguyện của Ðức Chí Tôn khi lập ÐÐTKPÐ (tức Ðạo Cao Ðài).
34. Huyền Khung Cao Thượng Ðế Ngọc Hoàng
35. Tích phước hựu tội,
36. Ðại Thiên Tôn.
玄 穹 高 上 帝 玉 皇
錫 福 宥 罪
大 天 尊
Lạy 3 lạy, mỗi lạy 4 gật, mỗi gật niệm Câu Chú của Thầy:
Nam mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát
南 無 高 臺 仙 翁 大 菩 薩 摩 訶 薩
GIẢI NGHĨA
Câu 34: Huyền Khung Cao Thượng Ðế Ngọc Hoàng
Huyền: Sâu xa kín đáo, huyền diệu. Khung: To lớn cao rộng như vòm trời. Cao: Ở trên cao. Thượng Ðế Ngọc Hoàng: tức là Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế.
C.34: Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế huyền diệu, to lớn, cao tột.
Ðấng ấy là Chúa tể CKVT, là vua của Nhựt, Nguyệt, Tinh và Thời gian, là chủ của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, là Ðại Từ Phụ của toàn cả chúng sanh, và hiện nay, trong thời ÐÐTKPÐ, Ngài được gọi là Ðức Chí Tôn, Ðấng Cao Ðài.
Sách “Tứ Thời Nhựt Tụng Kinh” của nhị vị Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt, giải câu kinh nầy:
“Huyền Khung Cao Thượng Ðế: chữ Huyền là sắc đen, màu huyền. Sách Thiên Tự Văn: Thiên huyền Ðịa huỳnh là Trời đen Ðất vàng. Còn chữ Khung là cao. Có câu: Thiên hình khung long kỳ sắc thương thương, nên chữ Huyền Khung là xưng gọi vị Thượng Thiên cao vọi sắc xanh đen.”
Câu 35: Tích phước hựu tội.
Tích: Cho, ban cho. Với nghĩa nầy còn đọc là Tứ. Phước: Ðiều tốt lành. Tích phước là ban cho điều tốt lành.
Hựu: Rộng lòng tha thứ. Tội: Tội lỗi, việc làm trái với pháp luật và đạo đức. Hựu tội: Tha tội.
C.35: Ðức Chí Tôn ban phước và tha tội cho chúng sanh (miễn là biết ăn năn sám hối tội tình, cải tà qui chánh).
Câu 36: Ðại Thiên Tôn.
Ðại: Lớn. Thiên: Trời, cõi Trời. Tôn: Kính trọng.
C.36: Ðấng lớn nhứt, đáng tôn kính nhứt nơi cõi Trời gọi là Ðại Thiên Tôn.
Chỉ có Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế mới được gọi là Ðại Thiên Tôn; còn các Ðấng khác đều nhỏ hơn Ðức Chí Tôn nên chỉ được gọi là Thiên Tôn (không có chữ Ðại phía trước). Thí dụ như:
Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.
Nhiên Ðăng Cổ Phật Vô Vi Xiển Giáo Thiên Tôn.
Thái Thượng ÐạoTổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.
Câu Chú của Thầy: đã được giải chi tiết nơi phần cuối của bài Kinh Niệm Hương.
———————————————— ———————————————— ————————
TÓM TẮT GIẢI NGHĨA KINH NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
KINH: GIẢI NGHĨA:
1. Ðại La Thiên Ðế. Ðấng Ðại La Thiên Ðế.
2. Thái Cực Thánh Hoàng. Ðấng Thái Cực Thánh Hoàng.
3. Hóa dục quần sanh. Sanh ra và nuôi dưỡng các loài sanh vật.
4. Thống ngự vạn vật. Ðấng Thượng Ðế cai trị vạn vật.
5. Diệu diệu Huỳnh Kim Khuyết. Cửa Huỳnh Kim Khuyết ở mù mù rất xa.
6. Nguy nguy cao Bạch Ngọc Kinh. Ðền Bạch Ngọc Kinh đồ sộ vòi vọi.
7. Nhược thiệt nhược hư. Như là thật nhìn thấy được, như trống không, không thấy gì cả.
8. Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa. Không nói mà cứ yên lặng tỏ bày cuộc biến đổi rộng lớn.
9. Thị không thị sắc. Là trống không, là có hình tướng.
10. Vô vi nhi dịch sử quần linh. Ở trạng thái vô vi mà sai khiến vạn linh trong khắp CKVT.
11. Thời thừa lục long du hành bất tức. Thường cỡi 6 rồng đi khắp nơi không ngừng nghỉ.
12. Khí phân Tứ Tượng. Hai khí Dương quang và Âm quang phối hợp sanh ra Tứ Tượng.
13. Oát triền vô biên. Xoay chuyển qua lại, rộng ra không giới hạn.
14. Càn kiện cao minh. Ngôi Càn mạnh mẽ, cao vọi,sáng tỏ.
15. Vạn loại thiện ác tất kiến. Việc lành việc dữ của muôn loài đều biết và thấy rõ.
16. Huyền phạm quảng đại. Cái khuôn phép huyền diệu và rộng lớn.
17. Nhứt toán họa phước lập phân. Một cái tính toán, Ðức Chí Tôn tạo lập, phân chia rành rẽ điều họa và điều phước.
18. Thượng chưởng Tam thập lục Thiên, Tam thiên Thế giới. Ở phần trên của vũ trụ, Ðức Chí Tôn chưởng quản 36 từng Trời và 3000 Thế giới.
19. Hạ ốc Thất thập nhị Ðịa, Tứ Ðại Bộ Châu. Ở phần dưới của vũ trụ, Ðức Chí Tôn chưởng quản 72 Ðịa cầu và 4 Bộ Châu lớn.
20. Tiên Thiên,
Hậu Thiên,
Tịnh dục Ðại Từ Phụ. Trước khi tạo dựng Trời Ðất,
Sau khi tạo dựng Trời Ðất,
Ðấng Ðại Từ Phụ nuôi dưỡng chúng sanh đồng đều như nhau.
21. Kim ngưỡng, cổ ngưỡng. Thời nay cũng như thời xưa đều được kính mến.
22. Phổ tế Tổng Pháp Tông. Giúp đỡ chúng sanh, gom tất cả Giáo lý các tôn giáo qui về một mối.
23. Nãi Nhựt, Nguyệt,
Tinh, Thần chi quân. Là vua của Mặt trời, Mặt trăng,
Tinh tú và Thời gian.
24. Vi Thánh, Thần, Tiên, Phật chi chủ. Là người chủ của chư Thần, Thánh Tiên Phật.
25. Trạm tịch chơn đạo, Ðạo chơn thật,sâu dày, yên lặng.
26. Khôi mịch tôn nghiêm. To lớn, lặng lẽ, tôn kính, oai nghiêm.
27. Biến hóa vô cùng. Biến hóa không cùng tận.
28. Lũ truyền bửu kinh dĩ giác thế. Nhiều lần truyền bá kinh sách quí báu để giác ngộ người đời.
29. Linh oai mạc trắc. Cái oai quyền thiêng liêng của Ðức Chí Tôn không thể đo lường để biết rõ được.
30. Thường thi Thần giáo dĩ lợi sanh. Thường sắp đặt cho các Chơn linh giáng trần mở Ðạo giáo hóa làm lợi ích cho nhơn sanh.
31. Hồng oai, Hồng từ. Oai quyền lớn do lòng thương yêu và đức thương yêu lớn.
32. Vô cực vô thượng. Cao hơn tất cả, trên tất cả.
33. Ðại Thánh, Ðại nguyện, Ðại Tạo, Ðại Bi. Ðức Thánh lớn, Lời nguyện lớn, Ðức tạo hóa lớn, Ðức bi lớn.
34. Huyền Khung Cao Thượng Ðế Ngọc Hoàng, Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế huyền diệu, to lớn, cao tột,
35. Tích phước hựu tội. Ban phước và tha tội.
36. Ðại Thiên Tôn. Ðấng lớn nhứt, được tôn kính nhứt trong CKVT.
(Lạy 3 lạy, mỗi lạy 4 gật, mỗi gật niệm Câu Chú của Thầy: Nam mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát)
Advertisements
https://thanhthattrungchinh.wordpres...ng-de-buu-cao/
https://www.youtube.com/watch?v=EMB-sYC7rU0
105/8/13k六唸地母經出神入化篇
土地神的英文翻译(translate 土地神to english) - 汉英- 词典- 英语人 ...
www.englisher.net/dict/zh/土地神/
Dịch trang này
他们所崇拜的一种神或多种神控制和 管着一种生态因子或一种方法手段, 太阳神、水神、土地神、山神、牛神 、羊神、树神等等。 更多网络解释与土地神相关的网络解 [注:此内容来源于网络,仅供参考]. Earth Deity:(土地神). Earthly-type (民間神祇) | Earth Deity (土地神) | Cheng Huang (城隍尊神). gnome:土地神. 包括2 台备用50 ...
Gyalwang Prukpa (Gen-oang Đờ-rúp-pa)
http://dangcongsan.vn/preview/newid/240442.html
Om Bengia Krôta Gioa La Ra Cha Tít Tra Hung.
Tiếng Sankrit: Om Vajra Kradha Jvala Raja Tista Hùm.
http://www.chuadainhatnhulai.org/pdf..._Hanh_Phap.pdf
(Chú nguyện những đồ cúng bằng cách đọc ba lần :)
OM AH HUM HA HO HRI
http://kilopad.com/Ton-giao-Tu-tuong...n-phu-luc-ti11