liệt vị thổ thần
==========
Printable View
liệt vị thổ thần
==========
Lễ tạ Thổ Công cuối năm, các gia đình nên biết
Ngày 15/01/2019 10:26 AM (GMT+7)
Tết nguyên đán
Theo phong tục của người Việt Nam, những ngày cuối năm có khá nhiều nghi lễ quan trọng và lễ cúng tạ đất cuối năm là một trong số đó. Việc tri ân các vị thần cai quản đất đai là nét đẹp truyền thống ý nghĩa nên được giữ gìn.
Ý nghĩa cúng tạ đất cuối năm, nhất định nên biết
Theo ông Tam Nguyên (Giám đốc Công ty TNHH Kiến trúc phong thủy Tam Nguyên), Thổ Công là vị thần quan trọng nhất trong gia đình, đó là lý do khi sắp xếp bát hương khi đứng ở ngoài nhìn vào thì: Bát hương thờ Thổ Công ở giữa, bên trái là bát hương bà Cô Tổ, bên phải là bát hương Gia tiên.
Khi cúng lễ, đều phải khấn thần Thổ Công trước để xin phép cho tổ tiên về. Trong nhà mỗi khi làm việc có đụng chạm đến đất đai như xây cất, đào ao, đào giếng, mở vườn, mở ruộng, đào huyệt… đều phải cúng xin phép vị thần Thổ Công (còn gọi là thần Thổ Địa, Thổ thần) - vị thần cai quản vùng đất đang ở.
Nhiều chuyên gia tâm linh cho rằng, lễ tạ Thổ Công là lòng thành của gia chủ, không bắt buộc nên sau này nhiều người bận không có thời gian làm nên đã nhập lễ tạ thần vào lễ tạ Táo nên buổi lễ tạ ơn thần linh nhiều người không còn nhớ. Xưa các cụ làm lễ tạ Thần linh trước, rồi mới làm lễ tạ Táo - là 2 nghi thức khác nhau. Ngày nay nghi thức lễ tạ Thần có 2 cách làm: Một là, làm trùng vào lễ tạ Táo cho đỡ phức tạp. Người dân mua 3 bộ quần áo Táo Quân, 1 bộ quần áo Thần linh (bộ cần hóa cho thần Thổ Công dịp lễ tạ thần).
Trong lễ tạ Thần mới có việc cắt tỉa, hóa chân nhang. Nếu nhà nào có dâng vàng hoa đỏ mua bày trên bàn thờ dịp Tết trước, thì trong lễ tạ Thần này hóa hết, tất cả kim bài thái tuế, lệnh phù, tranh ảnh, bài vị, bùa chú bình an, tài lộc, chữ xin đầu năm… của các vị thần theo niên vận như Thái tuế phù, các chữ xin đầu năm có ghi niên vận của năm đó… kể cả nhà mới có trấn trạch hổ phù đều hóa luôn dịp lễ này.
Mỗi vùng miền có cách cúng khác nhau, ở miền Nam và các Hoa kiều khi cúng Thổ Công thường ăn trước một miếng trước bàn thờ Thổ Công (theo tích thần Thổ Công bị đầu độc chết, nên ai cúng phải ăn một miếng trước thì thần mới dám ăn), còn người miền Bắc vẫn cúng như bình thường.
Cách sắm lễ cúng tạ đất cuối năm theo dân gian
le ta tho cong cuoi nam, cac gia dinh nen biet - 1
Ông Tam Nguyên hướng dẫn: Trong ban thờ gia đình có 3 lư hương thờ quan đương xứ Thổ Địa chính Thần, Hội đồng gia tiên và bà cô Tổ dòng họ. Lễ tạ thần làm ngay tại ban thờ nhà mình, nghi thức cúng ở gia đình, lễ vật gồm: Hương thơm, hoa tươi (cúc vàng, hoặc bình hoa ngũ sắc, hoa hồng đỏ) 10 bông chia ra hai lọ hai bên (nếu là ban thờ lớn); Trầu 3 lá, cau 3 quả dài đẹp, đĩa ngũ quả gồm 5 loại quả, 5 màu hoa, quả 2 đĩa bày ở hai bên, xôi trắng 2 đĩa to bày hai bên.
Lễ mặn gồm:
Gà luộc nguyên con bày vào 1 đĩa (gà giò, gà trống thiến), hoặc 1 cái chân giò lợn luộc (chân giò trước, trái hay phải đều được), cút rượu trắng (với 3 chén đựng rượu), 10 lon bia, 6 lon nước ngọt bày ở hai bên ban thờ; Thuốc lá, chè, bánh kẹo… bày vào 1 đĩa to. 1 chén rượu, 1 chén trà khô, 1 chén nước, 1 chén gạo, 1 chén muối.
Một số gia đình thường có đèn thờ thì không cần phải dùng nến cốc, nếu không có đèn thờ thì phải dùng đôi nến khi thắp hương làm lễ.
Phần mã thì tùy từng gia đình, có thể tham khảo như sau:
Bộ Ngũ phương gồm: 5 ông ngựa 5 màu (đỏ, xanh, trắng, vàng, tím, kèm theo 5 bộ mũ áo (loại nhỏ), cờ lệnh, kiếm, trên lưng mỗi ông ngữa đặt 10 lễ tiền vàng.
Bộ Thần linh gồm 1 ông ngựa đỏ, cùng kèm theo mũ, áo hia, cờ kiếm.
1 cây vàng hoa đỏ (1000 vàng), 1 cây vàng ngũ phương.
1 đĩa đựng 50 lễ vàng tiền (để dâng gia tiên).
Cúng tạ thần cuối năm theo đạo Phật
Theo sư thầy Thích Trí Hóa (chùa Bằng A, Hà Nội), nhà chùa không khuyến khích cúng mã, vì tốn kém. Khuyên người dân không nên tổ chức tiệc tùng linh đình, giết nhiều gà vịt để cúng cho thần linh, như thế là sát sinh.
Nhiều gia đình theo đạo Phật đã lễ tạ Thần bằng tụng kinh Địa Tạng, lợi lạc và lễ nghĩa không cầu kỳ, cụ thể:
Hoa tươi, trái cây, các món đồ chay, hương đèn trên ban thờ Phật, hoặc trên chiếc bàn nhỏ đặt ở gần cửa đi, hay giữa nhà - nơi sạch sẽ. Gia chủ ăn mặc chỉnh tề (quần dài, áo dài tay), sạch sẽ.
Kinh Địa Tạng dù là giấy hay trong điện thoại nên kê đặt, chứ không nên để dưới nền nhà để đọc. Sau khi lên hương thì ngồi bán già, khoanh chân đọc nghi thức kinh Địa Tạng, quá trình đọc cần giữ tâm thái cho trang nghiêm, thành kính vì theo quan niệm đạo Phật như thế mới có nhiều lợi lạc, bởi trong lúc trì tụng kinh sẽ có nhiều chư Thiên, Long Thần, Hộ Pháp đến dự lễ.
Cách lễ tạ Thần này cần nhiều thời gian hơn cách thông thường khác (vì 1 bộ kinh Địa Tạng 3 cuốn Thượng, Trung, Hạ) và phải đọc 3 giờ mới hết, nhưng lợi lạc thì rất lớn, các thiện thần và thần Thổ Công sẽ bảo hộ nơi đất sinh sống của gia chủ bình an, may mắn, âm phù, dương trợ đến với gia đình. Nhưng để được các thiện thần bảo hộ, thì người sống trên mảnh đất đó cần sống hướng thiện, phù hợp với tâm chí của các ngài.
Lễ tạ thần năm Mậu Tuất nên làm vào ngày nào
Theo ông Tam Nguyên, tháng Chạp năm Mậu Tuất có 4 ngày làm lễ tạ Thần đẹp là ngày 12, 13, 15, 24 tháng Chạp.
Ngày 12 tháng Chạp kị tuổi Thân.
Ngày 13 tháng Chạp kị tuổi Dậu.
Ngày 15 tháng Chạp kị tuổi Hợi.
Ngày 24 tháng Chạp kị tuổi Thân.
Nên làm lễ tạ thần trước Rằm tháng Chạp.
https://eva.vn/tin-tuc/le-ta-tho-con...73a379818.html
Nam mô Liệt vị Tổ sư các thời đại từ Thiên Trúc đến Việt Nam
https://dieulinh.weebly.com/giao-l432u/cc-bi-khn-cng
tín ngưỡng Thần Tài - Kubera hết sức rộng lớn, tới mức, hầu hết các tôn giáo hình thành trong ...
THẦN TÀI: Nguồn gốc và những biến đổi trong văn hóa Việt Nam ...
http://www.academia.edu/.../THẦN_TÀI...ng_biến_đ...
Translate this page
Bên cạnh tín ngưỡng thờ Thần Tài, nhiều loại hình tín ngưỡng khác cũng phát triển ..... sự phổ biến của tín ngưỡng Thần Tài - Kubera hết sức rộng lớn, tới mức, hầu hết các tôn giáo hình thành trong văn hóa Ấn Độ đều có biểu tượng Kubera.
http://www.academia.edu/6498802/TH%E...amese_Culture_
PHẬT THUYẾT AN THỔ ĐỊA LONG THẦN KINH
Nhĩ thời Thế Tôn dữ Át Nan du vãng Thiên Trúc Quốc Hoa cái Sơn trung. Kiến nhất Lão nhân Thân trường cửu xích. Đầu đới tam sơn chi mạo. Phát mi thương lang. Yếu triền tào điều. Túc đạp tào phục. Thủ chấp khô mộc chi trượng. Đại chúng hàm kinh
Nhĩ thời Thế Tôn vấn lão nhân viết : Hà phương Thánh giả ? Cư thử sơn trung. Như hà đạo đức.
Lão nhân đáp viết: Ngã thị Hoa cái Sơn Thần Thổ địa. Cửu cư sơn trung. Thượng thông Thiên Cơ. Hạ sát Địa giới trung. Tri nhân tình Thượng hạ giới trung Sài lang mãnh hổ điểu thú Côn trùng xích quán Đế vị. Cư quốc Cư gia
Nhân dân trú trạch Vị chi Ngũ phương Long Thần Thổ địa Thổ quỷ Thổ công Thổ kị Thổ phụ Thổ mẫu Nhị thập tứ phương. Vị chi nhị thập tứ hướng. Nhị thập bát Tướng Thổ địa chi Thần.Thị Ngổ sở quản.
Tại sơn trung Vị chi Sơn Thần thổ địa .
Tại nhân gian. Vị chi Trú trạch Thổ địa.
Tại Tự quan Vi chi Già Lam thổ địa.
Tại Châu phủ Vi chi Thành Hoàng thổ địa. Quán nhân thiện ác Chư hữu tình trai giới bố thí phần hương điền đăng. Trì tụng thử kinh Hoạch Phúc vô lượng. Hựu vu Giáp Tý Canh Thân nhật.Ngộ đồng Ngũ ôn Sứ giả tuần du Sao trát thân trượng Thiên tào định kỳ thiện ác Bộ thư Chi sự. Thành Ngã thệ nguyện cứu khổ chúng sinh.
Thế Tôn đáp viết: Thiện tai Thiện tai! Nhược hữu Thiện nam Tín nữ Chướng trĩ mộng trung điên đảo. Kinh cầu bất lợi. Tửu Thố xâm bại. Đa tao thương tổn. Khách tử lưu vong.Trầm thi phục thắc. Quỷ thần não loạn. Tụng trì thử kinh Kỳ tai tức diệt. Nhược nhân năng đọc tụng thử kinh Hoạch phúc vô lượng. Nhiễm tàm bội trạng. Tửu thố hương nồng. Tiền tài mãn quí. Hòa cốc phong nhiêu. Ngưu Trư Kê Khuyển Dương mã Lục súc thành đàn. Thương mại thuận lợi. Mua bán hưởng thông. Sở cầu như ý. Sở nguyện tòng tâm.
Ngã thuyết thị ngữ. Chân thực bất hư. Nhữ đẳng chúng sinh Tín thụ Phụng hành. Tức thuyết chân ngôn viết : Nam mô tam mãn đá Một đà mẫm Úm Độ rô độ rô Địa vĩ Tát bà ha.
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phât. 3 biến
Đăng phụng hiến biến chiếu hướng Nhân gian
Đạt Ma truyền lai Khai ngũ diệp
Đăng đăng tương tục Bất hội nhàn tòng
Thử phá U quan. Chư Tôn nạp thụ thử vi thành
Nhất điểm tam phong Suy bất diệt
Thốn tâm Vạn Kiếp trấn trường minh
Tứ chúng bảo An ninh
Đại Thánh Phổ Quang Vương Bồ Tát
Đăng quang biến chiếu Nguyệt tam canh.
Mãn thụ Ngân Đăng triệt dạ minh.
Trản trản lưu quang lăng Bạch thư.
Chi chi thổ vựng xán Kim Tinh
Lan cách viễn chiếu thông Vô gián
Hạc diệm cao dương Trúc hữu tình.
Nhậm thị bát phong suy Bất diệt.
Kim tương nhất điểm phá U minh.
Phục dĩ Nhị khí sơ phân minh. Tam tài định vị. Điển phương ngung chi Bát quái. An thượng hạ chi Tứ duy. Đảo dĩ toại thông. Cầu chi tất ứng.
Kim vi Đệ tử mỗ đẳng Cung bằng sám tạ. Vọng tứ hộ trì. Tì bách phúc dĩ biền trăn. Sử chư tai chi điển liệt.
Phục nguyện: Long Thần mật hựu. Thổ Địa khuông phù. Bảo hương ấp dĩ an ninh. Hộ đàn na nhi lợi lạc. Ngưu Trư ích tráng. Hòa cốc phong đăng. Niên niên Pháp giới hưng long. Thế thế Thiền môn đỉnh thịnh. Phàm tâm ngưỡng vọng. Thánh Đức diêu thông. Chiêm đối Thần Minh kiền thành tán hiến.
Cẩn nhiên Đông phương Thần Đăng chiếu triệt Chấn cung Mão vị. Cúng dưỡng Bản tự thập bát Long Thần. Hộ giáo Già Lam Chân Tể nhất thiết Uy Linh đồng thùy chiếu giám.
Phục nguyện : Thập bát Long Thần tùy Vị Thứ
Ngũ phương Thánh Đức trấn duy ngung
Thủy tiêu hoành họa dữ tai truân
Nội tập Phúc tường tinh Cát khánh.
Đăng chúc dĩ nhiên Kiền thành bái hiến
Cẩn nhiên Nam phương Thần Đăng chiếu triệt Li cung Ngọ vị. Cúng dưỡng Bản tự thập bát Long Thần. Hộ giáo Già Lam Chân Tể nhất thiết Uy Linh đồng thùy chiếu giám.
Phục nguyện : Xán xán đăng quang huy Hỏa đức
Hoàn hoàn Chính khí Diệu Li cung
Chư tai chúng khổ Tận tiềm tiêu.
Bách Phúc thiên tường tăng tứ tập
Đăng chúc dĩ nhiên Kiền thành bái hiến.
Cẩn nhiên Tây phương Thần Đăng chiếu triệt Đoài cung Dậu vị. Cúng dưỡng Bản tự thập bát Long Thần. Hộ giáo Già Lam Chân Tể nhất thiết Uy Linh đồng thùy chiếu giám.
Phục nguyện : Tạp như huân chưng câu đãng địch
Tinh đàn cấu uế Tất quyên trừ
Khuông phù giáo Pháp vĩnh xương long.
Hội tập Thiền môn tăng đỉnh thịnh.
Đăng chúc dĩ nhiên Kiền thành bái hiến.
Cẩn nhiên Bắc phương Thần Đăng chiếu triệt Khảm cung Tí vị. Cúng dưỡng Bản tự thập bát Long Thần. Hộ giáo Già Lam Chân Tể nhất thiết Uy Linh đồng thùy chiếu giám.
Phục nguyện : Bát Nhã thiện căn hưng Phúc quả.
Bồ Đề trí chủng Kết lương duyên
Tứ thời Bát tiết Tập trinh tường
Vạn tải thiên xuân Mông Phúc lợi
Đăng chúc dĩ nhiên Kiền thành bái hiến.
Cẩn nhiên Trung Ương Thần Đăng chiếu triệt Tứ duy Thượng hạ. Cúng dưỡng Bản tự thập bát Long Thần. Hộ giáo Già Lam Chân Tể nhất thiết Uy Linh đồng thùy giám cách
Phục nguyện : Pháp giới trang nghiêm Tăng tráng lệ
Hương dân hưởng mĩ Vĩnh xương long.
Niên niên Nguyệt nguyệt tống chư tai.
Tuế tuế Thời thời nghênh bách Phúc.
Đăng chúc dĩ nhiên Kiền thành bái hiến.
Thị nhật nhiên thử Ngũ phương đăng giả Thượng triệt Thiên cung Bảo Điện. Hạ cùng Địa phủ U quan. Phàm hữu hôn mê Tất giai lãng diệu. Viên bằng Thánh giáo. Nhiên điểm Minh đăng. Khả dĩ khứ ách nạn hung ương. Khả dĩ trợ Phúc tường Cát khánh. Do lự quang minh biến chiếu U hiển nan thông. Bất bằng Ngã Phật chi Chí Linh Hạt sử mê đồ chi Phổ chiếu. Giáo hữu Phổ cúng dưỡng chân ngôn cẩn đương trì tụng : Úm nga nga nẵng Tam bà phạ phiệt Nhiệt la hộc
Nguyện Hoàng đồ củng cố. Đế đạo hà xương. Phật nhật tăng huy. Pháp luân thường chuyển. Phong điều vũ thuận. Quốc thái dân an. Gia gia Nhân nhân đắc an khang. Xứ xứ hưởng Thái bình an ổn.
Nguyện Thành Hoàng Thổ Địa Long Thần Già Lam Chân Tể Thính tụng chân ngôn.
Nguyện Chúng Phật tử Thân cung tráng kiện Mệnh vị diên trường. Tảo thành Phật đạo.
Nguyện Việt Nam quốc Địa Linh Nhân kiệt. Bách Phúc biền trăn. Chư tai tiêu diệt.
Nguyện nhất thiết Vong linh Cô hồn Ngạ quỷ đẳng chúng Côn trùng Thảo mộc Thấp hóa Loãn thai Xuẩn động hàm linh. Thính Pháp văn Kinh. Vãng sinh Tịnh thổ.
Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát tiêu tai giáng Phúc
佛說安土地龍神經
PHẬT THUYẾT AN THỔ ĐỊA LONG THẦN KINH
爾時世尊 與阿難遊往天竺國 華蓋山中 見一老人身長九尺 頭戴三山之帽 鬢眉蒼浪 腰缠皂絛 足踏皂履 手執枯木之仗 大眾咸驚
爾時世尊問老人日:何方聖者 居此山中如何道德。
老人答曰我是華蓋山 山神土地久居山中 上通天機 下察地界中 知人情上下界中豺狼猛虎鳥獸昆蟲赤 帝位 居國居家人民住宅 謂之五方龍神土地土鬼土府土公土忌 父土母。二十四方謂之二十四向。二 八將土地之神是吾所管。在山中謂之 山神土地. 在人間謂之住宅土地。在寺觀謂之伽 土地。在州府謂之城隍土地。觀人善 若諸有情齋戒布施焚香燃燈持誦此經 獲福無量。又於甲子庚申日。吾同五 使者巡遊 抄扎申扙天曹定其善惡簿書之事,成 誓願救苦眾生
世尊讚曰:善哉 善哉 若有善男信女瘴痔夢中顛倒 經求不利 酒醋侵敗 多遭傷損客死流亡 沉屍伏忐 鬼神惱亂 誦持此經其災卽滅 若人能读颂此經 獲福無量 冉蠶倍妝 酒醋香濃 錢財滿柜禾穀豐饒 牛豬鷄犬羊馬六畜成群 商賈順利 買賣享通 所求如意所願从心。我說是語。真實 虛。汝等眾生 。信受奉行。卽說真言曰。南無三滿 沒馱喃 唵度嚕度嚕 地尾薩婆訶。
南無釋迦牟尼佛 三称
燈奉獻徧照向人間 達摩傳來開五葉。燈燈相續不會閑從 此破幽關。諸尊納受此微誠。一點八 吹不滅。寸心萬劫 鎮長明。四眾保安寧。大聖普光王菩 燈光遍照月三更。滿樹銀燈徹夜明 盞盞流光夌白書。枝枝吐暈粲金星蘭 遠照通無間。鶴焰高揚燭有情 任是八風吹不滅。今將一點破幽冥。 以二氣初分明 三才定位 奠方隅之八卦 安上下之四維 檮以遂通 求之必應
今為弟子某等恭憑懺謝 望賜護持。俾百福以駢臻。使諸災之 滅。伏願龍神密佑。土地匡扶。保鄕 以安寧。護檀梆而利樂。牛豬益莊。 禾穀豐登。年年法界興隆。世世禪門 盛。凡心仰望。聖德遙通。 瞻對神明。虔誠讚獻。
謹燃東方神燈。照徹震宮卯位。供養 寺十八龍神護教伽藍真宰一切威靈同 照鑒。伏願十八龍神隨位次。五方聖 德鎮維隅。水消橫禍與災屯 內集福祥并吉慶。燈燭己燃虔誠拜獻
謹燃南方神燈。照徹离宮午位。供養 寺十八龍神。護教伽藍真宰一切威靈 垂照鑒。伏願燦燦燈光輝火德。桓桓 正氣耀離宮。諸災眾苦盡潛消 百福千祥增錫集 燈燭已然虔誠拜獻
謹燃西方神燈 照徹兌宮酉位。供養本寺十八龍神。 教伽藍真宰一切威靈同垂照鑒。伏願 茹葷蒸俱蕩滌。 腥壇垢穢悉蠲除。匡扶教法永昌隆。 集禪門增鼎盛 燈燭已燃虔誠拜獻
謹燃北方神燈 照徹坎宮子位。供養本寺十八龍神。 教伽藍真宰 一切威靈同垂照鑒。伏願般若善根興 果。菩提智種結良因。四時八節集禎 萬載千春蒙福利 燈燭巳燃 虔誠拜獻
謹燃中央神燈 照徹四維上下。供養本寺十八龍神。 教伽藍真宰 一切威靈同垂鑒格。
伏願法界莊嚴增壯麗。鄕民享美永昌 。年年月月送諸災。歲歲時時迎百福 灯燭己燃 虔誠拜獻
是日燃此五方燈者 上徹天宮寶殿 下窮地府幽關。凡有昏迷 悉皆朗耀 爰憑聖教 燃點明燈 可以去厄難凶殃 可以助福祥吉慶猶慮光明不遍 幽顯難通 不憑我佛之至靈 曷使迷途之普照 教有普供養真言谨当持颂: 唵 俄俄曩三婆 缚伐日啰斛
願皇圖鞏固 帝道遐昌 佛日增輝 法轮常轉。風調雨順 國泰民安家家人人得安康 處處享太平安稳
願當境城隍土地龍神伽藍真宰 聽誦真言
弟子住持本寺 願身躬壯健 命位延長 早成佛道。願全国地靈人傑 國泰民安 百福駢臻,諸災消滅。願一切亡灵恶 孤魂等众昆蟲草木 濕化卵胎蠢動含靈 聽法聞經 往生淨土。
南无阿弥陀佛 南无观世音菩萨消灾降福
Kỉ niệm ngày QUAN ÂM BỒ TÁT THÀNH ĐẠO 19 / 6/ GIÁP NGỌ 2014
PHẬT TỬ CHÙA AN ĐÀ HẢI PHÒNG* DIỆU HIỀN KÍNH PHỤNG
Dịch
37 tuần
Ảnh hồ sơ của Hien Dieu
Hien Dieu
BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Quan Tự Tại Bồ Tát. Hành thâm Bát Nhã ba la mật đa thời.
Chiếu kiến ngũ uẩn giai không. Độ nhất thiết khổ ách
Xá Lợi Tử ! Sắc bất dị không Không bất dị sắc Sắc tức thị không Không tức thị sắc Thụ tưởng hành thức Diệc phục như thị
Xá Lợi Tử ! Thị chư Pháp không tướng. Bất sinh bất diệt Bất cấu bất tịnh Bất tăng bất giảm Thị cố không trung vô sắc Vô thụ tưởng hành thức Vô nhãn nhĩ tị thiệt thân ý Vô sắc thanh hương vị xúc pháp Vô nhãn giới Nãi chí vô ý thức giới Vô vô minh Diệc vô vô minh tận Nãi chí vô lão tử Diệc vô lão tử tận Vô khổ tập diệt đạo Vô trí diệc vô đắc Dĩ vô sở đắc cố Bồ Đề tát đóa Y Bát Nhã ba la mật đa cố Tâm vô quải ngại Vô quải ngại cố Vô hữu khủng phố Viễn li điên đảo mộng tưởng Cứu kính Niết Bàn Tam Thế Chư Phật Y Bát Nhã ba la mật đa cố Đắc A nậu đa la tam miệu tam Bồ Đề Cố tri Bát Nhã ba la mật đa. Thị Đại Thần Chú. Thị Đại Minh Chú. Thị Vô Thượng Chú Thị vô đẳng đẳng chú Năng trừ nhất thiết khổ Chân thực bất hư Cố thuyết Bát Nhã ba la mật đa chú.
Tức thuyết chú viết : Yết Đế Yết Đế Ba la yết đế Ba la tăng yết đế Bồ Đề tát bà ha Ma ha Bát Nhã ba la mật đa 7 biến
https://upanh1.com/images/Untitled82de9cef91a41de9.png
https://plus.google.com/105333146765...ts/KoBRYQ4BgHb
THỔ ĐỊA THẦN
Thổ Địa Thần 土地神 dân gian gọi là Thổ Địa Công 土地公, Thổ Địa Gia 土地爺, vị phối ngẫu bên cạnh gọi là Thổ Địa Bà 土地婆, Thổ Địa Nãi Nãi 土地奶奶. Thổ Địa Thần là một trong những vị thần được thờ phụng phổ biến nhất ở Trung Quốc, miếu Thổ Địa có ở khắp nơi trong cả nước, nhà nhà cũng thường thờ Thổ Địa Thần. Lai lịch của Thổ Địa Thần bắt nguồn từ sự sùng bái đất đai của người dân. Khởi đầu của Thổ Địa Thần là một vị thần trừu tượng, theo sự phát triển của xã hội, Thổ Địa Thần cũng ngày càng được nhân cách hoá, đồng thời cũng có hình tượng của riêng mình. Nhìn chung, tượng Thổ Địa Thần trong các miếu là một lão ông tóc trắng, mặc bào, đội khăn đen, lão bà ngồi bên cạnh chính là Thổ Địa Nãi Nãi.
Trong chư thần ở dân gian, Thổ Địa Thần là vị tiểu thần có địa vị cực thấp, chỉ quản lí một vùng nào đó và sự việc ở một khu vực nào đó, vì thế mọi người đã xem Thổ Địa Thần là vị thần bảo hộ thôn xã. Đồng thời, nhân vì tuổi cao mặt mày phúc hậu cho nên trong nhà của bách tính bình thường, Thổ Địa Thần được xem là gia thần. Ở Trung Quốc, Thổ Địa Thần là vị thần cát tường không chỉ nhận được sự sùng bái của Hán tộc, mà cũng còn nhận được sự sùng bái của các dân tộc thiểu số. Trong các dân tộc thiểu số cũng lưu truyền các dạng Thổ Địa Thần.
Ngoài ra miếu hội ở Trung Quốc, một hoạt động dân tục đậm màu sắc dân tộc và nhận được sự hoan nghinh của quần chúng lưu truyền cả ngàn năm nay là một hoạt động không thể tách rời Thổ Địa Thần, ở đây đã ngưng kết công tích của Thổ Địa Gia, vị thần cát tường.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 01/3/2015
Nguyên tác Trung văn
THỔ ĐỊA THẦN
土地神
Trong quyển
CÁT TƯỜNG ĐÍCH TRUNG QUỐC
吉祥的中國
Bản công ti biên tập bộ biên soạn
Ngọc thụ đồ thư ấn loát hữu hạn công ti, năm Dân Quốc thứ 90.
http://www.chuonghung.com/2015/03/di...o-ia-than.html
https://upanh1.com/images/Untitled45debd56de944df0.png
[DOC]地基主牌位THỔ ĐỊA THẦN - 土地神
vietnam.amtb-germany.de/.../Bai-vi-cau-sieu-tho-dia-than-地基主...
Translate this page
地基主牌位THỔ ĐỊA THẦN - 土地神.
当境土地。后土尊神福德天尊
http://taoist-sorcery.blogspot.com/2...f-tua-pek.html
南无大灵土地神
福德正神咒
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 54, Số 4C (2018): 126-136
126
DOI:10.22144/ctu.jvn.2018.078
TÍN NGƯỠNG THỜ THẦN Ở ĐÌNH LÀNG ĐỒNG THÁP
Đỗ Thị Hà Thơ*
Khoa Sư phạm Ngữ văn, Trường Đại học Đồng Tháp
*Người chịu trách nhiệm về bài viết: Đỗ Thị Hà Thơ (email: dothihatho@gmail.com)
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 17/10/2017
Ngày nhận bài sửa: 28/12/2017
Ngày duyệt đăng: 20/06/2018
Title:
Godlike worshiping beliefs in
Dong Thap village’s
communal houses
Từ khóa:
Đình làng Đồng Tháp, thờ
thần ở đình Đồng Tháp, tín
ngưỡng thờ thần, tín ngưỡng
thờ thần ở đình làng, tín
ngưỡng thờ thần ở Đồng Tháp
Keywords:
Dong Thap village’s
communal houses, godlike
worshiping beliefs, godlike
worshiping beliefs in Dong
Thap, godlike worshiping
beliefs in the village communal
houses, worship in Dong Thap
village’s communal houses
ABSTRACT
Dong Thap village’s communal houses retain the traces of worshiping
beliefs of the local people in the past. The ranks of the gods were
conferred and protected according to the secular style. Accordingly other
gods - results from the needs of the localization of Vietnam people, the
cultural exchange with the Chinese, the Campanagara, the Chenla - all
gathered at the village communal houses to shetter and enjoy of ferings
together with the main god - the Deity. After making a survey, this article
presents basic introduction of gods being worshiped in the village
communal houses, providing basis for the promotion of the local
culture in planning, embellishing written evidence of the village
communal houses in the morden time.
TÓM TẮT
Đình làng Đồng Tháp hiện vẫn còn lưu giữ dấu vết tín ngưỡng thờ tự
một thời của cư dân địa phương. Vị trí cấp bậc của thần được “bảo vệ”
và “thiết đặt” chính bằng sự phong cấp của thế tục. Theo đó, các vị thần
khác – kết quả từ nhu cầu địa phương hoá phúc thần của người Việt, sự
giao thoa văn hoá với người Trung Quốc, người Chiêm Thành, người
Chân Lạp – đều quy tụ về đình để trú ngụ và hưởng tế lễ bên cạnh vị
thần chủ soái: Thần Thành Hoàng. Qua khảo sát thực tế, bài viết xin giới
thiệu về cơ bản tập hợp thần linh được thờ tự ở đình, làm cơ sở phát huy
văn hóa địa phương trong việc hoạch định và tôn tạo tự tích đình thời
hiện đại.
Trích dẫn: Đỗ Thị Hà Thơ, 2018. Tín ngưỡng thờ thần ở đình làng Đồng Tháp. Tạp chí Khoa học Trường
Đại học Cần Thơ. 54(4C): 126-136.
1 VÀI NÉT VỀ ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH ĐỒNG THÁP
Đình ở Đồng Tháp đa phần được xây dựng vào
thế kỷ XIX để đảm bảo và phục vụ nhu cầu tín
ngưỡng cho dân địa phương. Qua điền dã 11 đơn vị
hành chính cấp huyện của tỉnh Đồng Tháp, có thể
thống kê được 84 ngôi đình.
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 54, Số 4C (2018): 126-136
127
Bảng 1: Số lượng đình và đối tượng được ban sắc phong hiện còn ở đình trên địa bàn tỉnh Đồng Thápi
Tp/huyện Số đình Số lượng sắc phong Đối tượng ban tặng
Tp. Cao Lãnh 6 15 - Thành Hoàng
- Đại Càn
Tp. Sa Đéc 6 13
- Thành Hoàng
- Đại Càn
- Nhân Hòa hầu Tống Phước Hòaii
- Khâm sai Chưởng cơ Nguyễn Văn Thốngiii
Huyện Cao Lãnh 14 42
- Thành Hoàng
- Thân phụ, thân mẫu của Công Bộ Tả Tham tri
Bùi Đức Minhiv
Huyện Châu
Thành 13 14 - Thành Hoàng
- Đại Càn
Huyện Lai Vung 12 12 - Thành Hoàng
Huyện Lấp Vò 12 12 - Thành Hoàng
Huyện Tam Nông 5 2 - Thành Hoàng
- Đại Càn
Huyện Thanh Bình 5 9 - Thành Hoàng
- Đại Càn
Huyện Hồng Ngự 6 6 - Thành Hoàng
Huyện Tân Hồng 2 2
Huyện Tháp Mười 3 0
Đình ở Đồng Tháp ngày trước chủ yếu được
xây cất ven các con sông, đường giao thông chính
của địa phương bấy giờ. Từ thực tế khảo sát, một
số đình hiện nay tọa lạc ở chỗ rất hẻo lánh, đường
đi ngoằn ngoèo, một số đình nằm ngay trục lộ
chính do sông được bồi đắp. Nhiều ngôi đình có
sắc phong được ban vào năm Thiệu Trị thứ 5
(1845), với số lượng mỹ tự ban cho thần Thành
Hoàng là 保安正直之神 Bảo an Chính trực chi
thần, khẳng định nhiều đình ở Đồng Tháp có niên
đại gần 200 năm. Từ dữ liệu này có thể tạm đi đến
kết luận những thôn làng này được khai phá từ khá
sớm. Bảng thống kê trên cho thấy mật độ phân bố
đình trong cả tỉnh không đều nhau, huyện Cao
Lãnh với 18 đơn vị hành chính cấp xã có nhiều
đình nhất. Sự chênh lệch về mật độ phân bố đình
ghi nhận sự quần cư tụ hội của cư dân buổi đầu
khai hoang lập ấp và phát triển cho đến ngày nay
trên đất Đồng Tháp, trên hết là việc chinh phục
thiên nhiên cùng sự giao thương kinh tế giữa các
vùng với nhu cầu cần được bảo trợ của lớp người
di dân.
Nhìn chung, kiến trúc cũng như cách bày trí
khu thờ tự ở các đình trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
gần như giống nhau. Về đại thể, đình làng Đồng
Tháp xây dựng đầy đủ ba khu: Khu thờ tự, khu võ
ca, khu võ quy. Trong đó, khu thờ tự là nơi được
trang trí cầu kỳ và đẹp mắt nhất với các bức hoành
phi, câu đối, bài vị được chạm trổ tinh xảo, sơn son
thếp vàng. Một số đình ở tỉnh Đồng Tháp được tu
sửa những năm trở lại đây cũng mô phỏng lại kiến
trúc cổ và tạo tác hoành phi, câu đối trên chất liệu
bê tông ở khu chánh tẩm, tạo nên không gian trang
nghiêm cho khu thờ tự và sự bề thế của ngôi đình.
Theo đó, cả một hệ thống thần linh sinh động được
địa phương hoá đã đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tâm
linh của làng xã. Sự phối hợp của thần linh trong
khuôn viên ngôi đình ở tỉnh Đồng Tháp từ thế kỷ
XIX ghi nhận sự nâng cao ý thức khu vực của
người dân. Trên tinh thần này, các hoạt động cầu
đảo xin chứng giám của cõi linh được hình thành
mang tính duy lý có hệ thống hơn của cư dân
phương Nam. Những hình thức lễ tín ngưỡng dân
gian, lễ nông nghiệp và lễ tết cổ truyền cũng được
kết thành trên quan niệm về vị thần được thờ tự ở
đình.
2 HỆ THỐNG THẦN LINH ĐƯỢC THỜ
TỰ TRONG ĐÌNH
Khi ngôi đình thiên di theo bước chân di dân
của cư dân Bắc và Trung, ngôi đình đã không còn
giữ vai trò thống soái trong sinh hoạt làng xã đối
với cư dân phương Nam. Thêm vào đó, các bản sắc
phong cho thần Thành Hoàng và thần Đại Càn của
triều đình Huế một mặt minh chứng cho tính “âm
phù” của thần, mặt khác gián tiếp khẳng định chức
năng thờ cúng của đình bên cạnh ý đồ chính trị
khác. Đến đây “chức năng thờ cúng hoàn toàn lấn
áp chức năng thế tục” (Tạ Chí Đại Trường, 2011).
Tín ngưỡng thờ thần ở đình làng Đồng Tháp nói
riêng và khu vực Tây Nam Bộ nói chung được hình
thành và kế thừa từ thành quả tư duy Việt trong
chặng đường Nam tiến. Tuỳ từng nơi cư trú, ngôi
đình hiện lên với một tập hợp thần linh phối thờ
riêng, phản ánh sự cầu đảo của cõi tục đối với cõi
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 54, Số 4C (2018): 126-136
128
thiêng vừa cụ thể nhưng cũng rất chung chung.
Khảo sát cách bày trí khu thờ tự các đình ở tỉnh
Đồng Tháp hiện nay, có thể thấy tập hợp thần linh
được quy tụ thờ ở đình có thể phân thành các nhóm
đối tượng: Vị thần thờ chính, vị thần phối thờ theo
tín ngưỡng dân gian, vị thần phối thờ qua giao thoa
văn hoá và nhân vật lịch sử.
2.1 Vị thần thờ chính
Tính chất cởi mở trong quan niệm của cư dân
phương Nam nói chung và người Đồng Tháp nói
riêng đã tạo nên vị thế mới cho các vị thần được
thờ tự ở đình. Sự phân cấp không tranh chấp vị
thần Thành Hoàng của nhóm di dân buổi đầu đã
gián tiếp định hình thứ bậc cho các vị thần được
phối thờ sau này. Dựa vào nguồn tư liệu dân gian
và qua kết quả thống kê cho thấy triều đình
Nguyễn ban tổng cộng 65 đạo sắc phongv
cho thần
Thành Hoàng vào các triều vua Thiệu Trị, Tự Đức,
Khải Định, Bảo Đại. Trong đó tập trung nhiều nhất
ở niên hiệu vua Thiệu Trị thứ 5 (1845) và Tự Đức
thứ 5 (1852), với số lượng mỹ tự đầy đủ vào năm
Thiệu Trị thứ 5 là 保安正直佑善之神 Bảo An
Chính trực Hựu thiện chi thầnvi, năm Tự Đức thứ 5
là 廣厚正直佑善敦凝之神 Quảng hậu Chính trực
Hựu thiện Đôn ngưng chi thần. Chính tính chất tập
trung quyền lực của thần Thành Hoàng, cộng thêm
sự phong cấp của thế tục càng làm tăng thêm uy
thế cho vị thần này để quản lý dân ở những vùng
xa trung ương như ở Đồng Tháp. Và nghĩa là, vị
thần hào luỹ của Trung Quốc (城 thành: hào, 隍
hoàng: luỹ) khi vừa đến Việt Nam lập tức hoá
thành vị thần chung chung đầy quyền bính ở cõi
linh thiêng trừ tai giáng phúc cho cư dân trên các
vùng đất mới. Với tính chất chung này, nên dù hữu
danh vô thực, vị thần Thành Hoàng ở Đồng Tháp
đã phát huy vai trò thống nhất thần linh và hợp
thức hóa việc thờ tự ở địa phương.
Bài vị thờ thần Thành Hoàng ở các đình của
tỉnh Đồng Tháp đều thờ bức đại tự chữ 神 Thần
bằng chữ Hán được sơn son thếp vàng, riêng đình
Mù U (huyện Châu Thành) thờ bức đại tự chữ Hán
với bốn chữ 城隍大王 Thành Hoàng Đại vương.
Khánh thờ được đặt ở vị trí tối tôn nơi chánh tẩm,
hộ vệ cho thần còn có hai ban Tả, Hữu.
Thần Thành Hoàng trở thành biểu tượng tâm
linh của các đình khu vực miền Tây. Việc thờ tự vị
thần này cũng giống như đình ở Đồng Tháp. Điểm
đặc biệt của tín ngưỡng thờ thần Thành Hoàng ở
tỉnh đều mang tính bất biến theo thời gian và
không gian. Quan niệm về ông thần “hộ quốc tí
dân” mang biểu tượng của sức mạnh tự nhiên là
như nhau và tồn tại mãi mãi. Với bước đầu khảo
sát, trường hợp tại đình thần Nguyễn Trung Trực
(Kiên Giang), đây là đình vốn dĩ thờ thần Thành
Hoàng bổn cảnh, được ban sắc phong vào ngày 29
tháng 11 năm Tự Đức 5 (1852), không phải ban
cho Nguyễn Trung Trực. Nhưng do biến cố lịch sử
dân làng đã đổi tên thành đình thần Nguyễn Trung
Trực tồn tại đến nay và người dân nơi đây vẫn ngỡ
rằng sắc phong được ban cho và vị thần được thờ
tự chính là anh hùng Nguyễn Trung Trực. Như
vậy, sự hỗ trợ về mặt pháp lý với những bằng sắc
của triều Nguyễn còn lưu lại ở các đình thuộc tỉnh
miền Tây trực tiếp khẳng định địa vị độc tôn nhằm
tăng thêm quyền bính ở cõi linh thiêng cho thần
Thành Hoàng để quản lý dân ở những vùng xa
trung ương, gián tiếp cùng với thần dân nơi đây
nêu cao ý thức bảo vệ và phân biệt văn hoá dân tộc
trước thách thức thời đại. Theo đó, tục thờ cúng
thần Thành Hoàng ở Đồng Tháp nói riêng và Tây
Nam Bộ nói chung đã góp phần minh chứng cho ý
thức cũng như nếp sống tập thể của người dân trên
bước đường khai phá vùng đất mới với đủ mọi thử
thách từ thiên nhiên. Đây chính là nét văn hóa đặc
trưng thống nhất của cộng đồng người Việt trong
cả nước.
2.2 Vị thần phối thờ theo tín ngưỡng dân
gian
Xuất phát từ cơ tầng của nền nông nghiệp lúa
nước, cư dân Đồng Tháp tiếp nhận thờ vị thần bảo
trợ cho nông nghiệp, Thần Nông, ở khuôn viên sân
đình. Thông thường mỗi đình đều lập bệ gạch giữa
sân, bệ gạch này là đàn Xã tắc (社 Xã: thần đất, 稷
tắc: thần lúa nếp), chỉ Thần Nông. Mặt sau đàn Xã
tắc thường đắp hình “long bàn hổ cứ” tượng trưng
cho sự hoà hợp âm dương, cầu mùa màng tươi tốt.
Đình Tân Hòa (huyện Thanh Bình), đình Tân
Dương (huyện Lai Vung) đắp nổi hình lân mã cũng
cùng ý nghĩa trên. Ngoài ra, đình Mỹ Long (huyện
Cao Lãnh) còn thờ tượng Thần Nông trên đàn Xã
tắc, đình Tịnh Thới (Tp. Cao Lãnh) đề chữ Thần
Nông bằng Quốc ngữ ngay trên đàn Xã tắc. Riêng
đình Phú Hựu (huyện Châu Thành) còn lập miếu
thờ cho thần Thần Nông, bài vị được viết bằng chữ
Hán. Tuy nhiên, miếu thờ Thần Nông không còn
đảm bảo được tính chất thờ phụng Thần Nông
nguyên thuỷvii. Sự bảo trợ nông nghiệp của thần
Thần Nông được thần Ngũ hành tiếp sức đủ sức
hấp dẫn bước chân dân khai hoang trên vùng đất
mới.
Mặc dù vậy, thiên nhiên phương Nam cụ thể ở
Đồng Tháp vốn mang sẵn tính đe doạ con người
bởi “rừng thiêng nước độc”. Quá trình khẩn hoang
của cư dân đã sản sinh nên tín ngưỡng thờ thần Hổ.
Nhiều nơi miếu thờ Sơn Quân đặt liền kề với miếu
thờ Ngũ hành như đình Xẻo Vạt, đình Bình Tiên,
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 54, Số 4C (2018): 126-136
129
đình An Nhơn (huyện Châu Thành) và đình An
Phong (huyện Thanh Bình), đình Bình Hàng Tâyviii
(huyện Cao Lãnh)… Bài vị thường là viết bằng
chữ Hán, riêng đình Mỹ Long (huyện Cao Lãnh),
đình Tân Xuân (huyện Châu Thành) thờ Sơn Quân
bằng cốt tượng. Gần đây nhiều đình chuyển ghi bài
vị bằng chữ Quốc ngữ.
Đến đây, khuôn viên sân đình đã quy tụ tập hợp
thần linh cơ bản gắn liền với nhu cầu thiết thân của
con người. Và sự cộng hưởng của vị thần Chúa Xứ
(xem thêm mục 2.3) ở khuôn viên sân đình giúp
tăng cường niềm tin của dân địa phương về sự bảo
trợ của thần linh. Biến đổi xã hội cùng với yêu cầu
ngày càng cao của cõi tục về một cuộc sống phồn
phú ở những vùng xa trung ương đã thúc đẩy quá
trình địa phương hoá của vị phúc thần khác là thần
Thổ Địa/Thổ Thần, cùng hội tụ ở sân đình. Phạm
vi quản lý của thần Thổ địa nhỏ hẹp hơn so với vị
Chúa Xứ và cấp bậc càng thấp hơn thần Thành
Hoàng. Thần Thổ địa được phối thờ ở sân đình là
những nỗ lực đáng kể của người dân địa phương
trước vị thần đại diện cho triều đình phong kiến
cũng như vị thần chủ đất cũ của người Chiêm
Thành và người Chân Lạp. Tính chất gần gũi của
thần Thổ Địa theo thời gian trở thành vị gia thần
ban phúc cho mỗi gia đình người Việt.
Trong tương quan với các đình khu vực Tây
Nam bộ, tùy phạm vi cũng như quy mô của đình
mà hệ thống thần linh trong khuôn viên sân đình
được tập hợp đầy đủ, hoặc chọn một trong số
những vị thần đã kể trên, nhưng điểm chung nhất là
đình nào cũng có thờ Thần Nông. Tuy nhiên, cách
thờ vị thần này cũng không nhất quán trong cùng
một huyện hoặc một tỉnh như tỉnh Đồng Tháp.
Tình hình chung này diễn ra ở hầu khắp các đình
cùng khu vực, có thể kể đến các đình Mỹ Hội
Đông, đình Tầm Du, đình Tú Tề (An Giang), đình
Bình Thủy, đình Thới Bình – Tân An (Cần Thơ),
đình Hòa Khánh, đình Rừng Muỗi (Long An), đình
thần xã Mỹ Hương (Sóc Trăng)... đều lập hẳn miếu
có mái nóc nhọn. Hạn hữu có đình thần Phan
Thanh Giản (Cần Thơ), đình Hòa Minh (Vĩnh
Long)... xây miếu mái bằng. Đặc biệt hơn đình
Nhơn Ái và đình Mỹ Khánh (Cần Thơ), ban thờ
Thần Nông được lập như bàn thiên bên hông đình.
Đình Bình Lương (Vĩnh Long) thờ cả bài vị của
thần Hậu Tắc và Thần Nông ngay trong chánh tẩm.
Ngoài Thần Nông, thần Hổ và thần Ngũ Hành là
hai vị thần xuất hiện nhiều ở các đình Tây Nam Bộ,
riêng đình Hòa Ninh (Trà Vinh) còn lập thêm hai
ban tả hữu thờ Mãnh thú. Trong khi đó, một số
đình tân lập hay những đình xây dựng lâu năm lại
không có vị thần nào ngự trị trong khuôn viên sân
đình, chẳng hạn đình Phú Hội, đình thần Chùa Ông
(Vĩnh Long), đình Mỹ Quý, đình Bến Kinh, đình
Long Hậu Hạ, đình Mỹ Thập, đình Phú Thứ, đình
Mỹ Hiệp, đình Tân Lập (Trà Vinh)... vấn đề thờ tự
càng đơn giản hơn. Phần vì nằm ở nơi hẻo lánh
chưa thực sự nhận được sự quan tâm của người dân
địa phương cũng như các cấp chính quyền sở tại,
phần vì một số nơi cũng muốn làng mình có đình
để chứng tỏ với làng bên cạnh về bề dày lịch sử
nên lớp người sau đành chú trọng theo kiểu “cho
có”. Với tập hợp thần linh theo tín ngưỡng dân
gian, bộc lộ tính thực tế, sự dung dị, hài hòa trong
cách sống và quan niệm của người Đồng Tháp
cũng như người miền Tây. Họ mưu cầu cuộc sống
yên bình, ấm no trước sức mạnh của thú dữ, họ sẵn
sàng tôn cọp lên hàng thần linh và cũng sẵn sàng
thể hiện sức mạnh muốn chinh phục thiên nhiên
của mình. Nhìn chung, sự lựa chọn vị thần thờ tự
khuôn viên sân đình phần nào lý giải cho nhu cầu
cần được bảo trợ nơi rừng thiêng nước độc trên
bước đường khai phá vùng đất mới. Theo đó, tính
tương cận về mặt địa lý của vùng đồng bằng chiêm
trũng góp phần hình thành diện mạo tín ngưỡng thờ
thần chung giữa các tỉnh miền Tây.
Cùng với hệ thống thần linh ở khuôn viên sân
đình, hệ thống nghi lễ vụ mùa được triển khai
quanh năm, ghi dấu sự vận hành và ảnh hưởng của
tứ thời đối với nghề nông. Lễ hội nông nghiệp ở
các đình tỉnh Đồng Tháp thống nhất theo tên gọi
chung của cả nước: Lễ Hạ điền (xuống đồng gieo
hạt), Thượng điền (mừng mùa màng bội thu). Thời
gian tổ chức cụ thể từng lễ phụ thuộc vào từng
đình, về cơ bản lễ Hạ điền tổ chức vào mùa xuân,
lễ Thượng điền tổ chức vào mùa hạ. Ngoài ra các
đình còn tổ chức lễ Kỳ yên như hình thức cầu xin
sự bảo trợ của thần linh sau công đoạn gieo hạt của
lễ Hạ điền. Và đây cũng là các kỳ lễ chính yếu của
các đình cùng khu vực. Theo đó, sinh hoạt tín
ngưỡng của cư dân tỉnh Đồng Tháp và các tỉnh
miền Tây chiêm trũng mang đậm yếu tố văn hóa
nông nghiệp.
2.3 Vị thần phối thờ qua giao thoa văn hoá
Tất cả các đình trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
đều thờ vị Bạch Mã Thái giám/ Thái giám/Bạch
Mã. Theo nghiên cứu của một số học giả cho rằng,
vị thần Bạch Mã không có cái chỉ cái giống là vị
thần dùng cho thần Thành Hoàng di chuyển. Vì
vậy, vị thần Bạch Mã Thái giám mang tính chất
hướng nội hơn, là sản phẩm tư duy của con người
đối với nhu cầu trần tục ở cõi thiêng. Tuy nhiên
truy về gốc, vị thần Bạch Mã nguyên là biến dạng
của vị thần biển mà nghiên cứu của Tạ Chí Đại
Trường cho biết việc thu nhận, chuyển đổi và biến
dạng thần linh của người Việt với người Chiêm
Thành, Chân Lạp và Trung Quốc đã tạo nên diện
mạo và danh xưng hiện tại cho thần. Ở đình làng
tỉnh Đồng Tháp, bài vị của thần thường là bức đại
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 54, Số 4C (2018): 126-136
130
tự chữ Hán: 白馬太鑑 Bạch Mã Thái giám, 白馬
Bạch Mã, 太鑑 Thái giám. Hạn hữu ở đình Tân
Dương (huyện Lai Vung) vừa thờ bài vị vừa thờ
cốt tượng. Đặc biệt với sự cộng cư của lưu dân
Trung Quốc ở Đồng Tháp đã thần hoá một nhân
vật lịch sử cụ thể, Thái giám Trịnh Hoà với công
trạng mở con đường tơ lụa cho Trung Quốc, tạo
nên lai lịch cho vị thần Thái giám gắn liền tên tuổi
với danh nhân nước này.
Kết quả khảo sát cho biết, tỉnh Đồng Tháp
không còn/không xuất hiện sắc phong cho vị thần
Bạch mã Thái giám với tư cách bảo vệ cư dân trên
vùng biển. Theo thời gian, vai trò của thần Bạch
mã Thái giám bắt đầu mờ nhạt trong đời sống tín
ngưỡng của cư dân Đồng Tháp. Nhất là tên gọi
Thái giám của thần chỉ được hiểu như chức vụ
trong nội cung của triều đình phong kiến.
May mắn hơn vị thần Bạch Mã Thái giám, vị
thần Đại Càn Quốc Gia Nam Hải được biết đến
nhiều hơn ở vùng đất Đồng Tháp với số lượng lớn
các bằng sắc của nhà Nguyễn ban tặng. Vị thần Đại
Càn Quốc Gia Nam Hải Tứ Vị Thánh Nương được
phủ lên truyện tích về sự trung trinh của Hoàng hậu
và ba công chúa nhà Triệu Tống trong trận truy
bức của quân Nguyên. Bước chân Nam tiến của cư
dân Việt đã đưa vị thần này theo cuộc hành trình
của mình và sự pha trộn với văn hoá Chàm khiến
vị thần Po Riyak hay Po Yan Nưga hay Po Yan
Dari Việt hoá thành Tứ Vị Thánh Nương và được
thờ khắp nơi dọc biển. Tính chất biển của vị thần
Đại Càn được ứng dụng nhiều hơn trong đời sống
của người Đồng Tháp với lễ Cầu ngư vào mùa
nước nổi diễn ra vào tháng 9, tháng 10 âm lịch
hằng năm. Tuy nhiên, số lượng tự tích thờ vị thần
Đại Càn ở tỉnh Đồng Tháp hiện nay không nhiều.
Theo khảo sát gần đây, tỉnh Đồng Tháp chỉ có một
miếu thờ thần Đại Càn duy nhất nằm trong khuôn
viên đình Mỹ Hội (huyện Cao Lãnh). Mặc dù số
lượng sắc phong ban cho vị thần Đại Càn tương
đối nhiều, 28 văn bản, nhưng sự ít ỏi về số lượng
tự tích thờ vị thần này phản ánh sức giảm sút mức
ảnh hưởng của vị thần Đại Càn đối với đời sống
tâm linh cư dân Đồng Tháp. Tình hình này buộc vị
thần Đại Càn phải thiên di vào đình cho hợp thời.
Theo đó, dù được ban sắc, được phong lên hàng
Thượng đẳng thầnix song vị thần Đại Càn ở tỉnh
Đồng Tháp chỉ được thờ trong đình với tư cách
phối tự, thậm chí còn không có ban/ khánh thờ. Và
đây cũng là hiện tượng phổ biến diễn ra ở các đình
cùng khu vực. Riêng hai trường hợp khảo sát được
nằm ở đình thần Nguyễn Trung Trực (Kiên Giang)
có lập ban thờ Chánh soái Đại Càn ngay gian giữa
chánh tẩm, đình Phú Khương (Bến Tre) thờ chính
là thần Đại Càn.
Hầu hết các đình ở tỉnh Đồng Tháp đều lập
miếu thờ Bà Chúa Xứ, vị thần đất cấp cao với vai
trò chủ xứ sở của đất Chiêm Thành và Chân Lạp.
Vị trí miếu thờ thường được lập ngoài sân đình
cùng với các vị thần: Thần Nông, Ngũ hành, Thổ
địa, Sơn Quân. Bài vị của thần được viết bằng chữ
Hán. Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ ở tỉnh Đồng
Tháp mang tính chất phổ biến, nhiều nơi dân địa
phương còn lập riêng miếu thờ Bà với quy mô lớn.
Điều này ít nhiều cho thấy sức ảnh hưởng của
“trung tâm” thờ tự Chúa Xứ ở Châu Đốc (tỉnh An
Giang) chi phối mạnh mẽ tín ngưỡng thờ Bà ở các
tỉnh Tây Nam Bộ nói chung và ở khu vực Đồng
Tháp nói riêng.
Nói đến vị chúa đất, xin nói thêm về vị thần có
tên Chúa Ngung Ma nương. Văn tế một số đình
tỉnh Đồng Tháp có kêu cầu đến vị thần này nhưng
không thấy xuất hiện bài vị của thần trong hệ thống
thần linh thờ tự của đình. Vị thần với tên chữ Hán
là 主隅嬤娘 Chúa Ngung Ma nương trực tiếp cho
biết tầng cấp quản lý của thần, chủ ở từng mảnh
ruộng nhỏ. Vị thần này được tiếp nhận ở mức độ
đồng nhất sinh hoạt nông dân Việt với nông dân
Chiêm Thành và Chân Lạp, đưa đến một sự thờ
cúng thần đất địa phương trong chặng đường khai
khẩn. Lâu dần vị thần này của hai vương quốc bị
thay thế bằng thần Tiền Hiền và thần Hậu Hiền của
người Việt. Trường hợp duy nhất khảo sát được ở
đình thần Hòa Long (huyện Lai Vung) có miếu thờ
thần Chúa Ngung phía sau đình.
Hạn hữu đình An Phong (huyện Thanh Bình)
có thờ Cửu Thiên Huyền Nữ trong khu vực chánh
tẩm, ban thờ được bày trí tranh hình đơn giản. Vị
thần này vốn là một nữ thần nổi tiếng của Đạo giáo
Trung Quốc, sau khi vào Việt Nam, được Đạo Cao
Đài gọi là Đức Diêu Trì Phật Mẫu hay Kim Bàn
Phật Mẫu. Bà được rước vào đình phối thờ như
người mẹ sanh, mẹ độ theo tín ngưỡng dân gian
của người Việt.
Vị thần Chúa Xứ, Chúa Ngung, Cửu Thiên
mang dáng dấp của một nữ thần cùng với thần Đại
Càn, thần Ngũ hành (Kim Đức nương nương, Mộc
Đức nương nương, Thủy Đức nương nương, Hỏa
Đức nương nương, Thổ Đức nương nương) từ lâu
được người dân Đồng Tháp đưa vào đình thờ, ghi
nhận sự chấp nhận của giới Nho sĩ bấy giờ về hiện
tượng song tồn của nữ thần bên cạnh các nam thần
chi phối toàn bộ đình trung. Đặc biệt ở khu vực
Tây Nam Bộ, qua khảo sát sơ bộ, ghi nhận thêm
trường hợp thờ nữ thần là bà Nam Hải, bà Địa Mẫu
ngay khu vực chánh tẩm ở đình Tân Hạnh và đình
Định Thới (Vĩnh Long), bài vị viết bằng chữ Hán
lẫn chữ Nôm. Đây là hiện tượng phổ quát diễn biến
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 54, Số 4C (2018): 126-136
131
trong nội dung ngôi đình suốt tiến trình lịch sử của
cả nước.
Ngoài ra, đình Tân Dương (huyện Lai Vung)
hiện nay còn nghi thờ Thanh Long, Bạch Hổ đắp
nổi hình, đình Tân Khánh Tây (huyện Lấp Vò) lập
bệ thờ đắp nổi hình ở sân đình, đình Mỹ Long
(huyện Cao Lãnh) lập miếu thờ với bài vị chữ Hán,
được bố trí theo ý niệm của phong thủy Tả Thanh
Long – Hữu Bạch Hổ, cho thấy sự ảnh hưởng của
Nho học đối với cư dân địa phương. Đình Thượng
Văn (huyện Cao Lãnh) gần đây còn thiết trí thêm
nghi thờ Phúc Lộc Thọ mang ý nghĩa của sự chúc
tụng nhiều hơn là tín ngưỡng.
Thêm vào đó, ngay trong chốn đình trung của
một số đình như Thượng Văn, đình Mỹ Long
(huyện Cao Lãnh), đình Mỹ Thạnh (Tp. Cao Lãnh),
đình Tân Phước (huyện Lai Vung), đình Phú
Thuận (huyện Hồng Ngự), đình Tân Hòa (huyện
Thanh Bình), đã đưa tập hợp một số thần linh vốn
ở khuôn viên sân đình vào khu vực chánh tẩm với
bài vị gọi chung là Bàn thờ Hội đồng. Hình thức
thờ cúng này chỉ diễn ra ở một số đình cùng khu
vực như đình Tân Lộc Tây (Cần Thơ), đình Mỹ
Trang, đình Phú Long (Tiền Giang), đình Bình
Tịnh, đình Bình Chánh (Long An), đình thần Vĩnh
Hòa (Bến Tre), đình Vĩnh Ngươn, đình thần Vĩnh
Tế, đình thần Hòa Thạnh, đình thần Vĩnh Thạnh
Trung (An Giang)... Điều này giải quyết được nhu
cầu thờ phụng của người dân địa phương trước hệ
thống thần linh phong phú; đồng thời tái khẳng
định sức ảnh hưởng của những vị thần này trong
đời sống thường nhật ở bản xứ.
Tựu trung, các vị thần phối thờ ở đình qua giao
thoa văn hóa giữa các dân tộc biểu hiện rõ thái độ
tôn trọng, nếp sống hòa đồng của lớp người di dân
cầu mong nhận sự bảo trợ từ những vị thần này
như những vị thần theo tín niệm của mình. Đây trở
thành đặc điểm chung trong sinh hoạt cộng đồng
của người Tây Nam Bộ.
2.4 Thờ nhân vật lịch sử
Các vị thần như đã trình bày là những vị thần
thường trực ở tất cả các đình trên địa bàn tỉnh
Đồng Tháp. Hoà vào hệ thống thần linh trên và tuỳ
theo đặc điểm lịch sử từng vùng, các đình còn phối
thờ thêm những vị nhân thần khác là hiện thân cho
cốt cách và chính khí của người Việt trước biến
động lịch sử.
Theo số liệu thống kê, trong tổng số 84 đình
trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp chỉ có vài đình có thờ
nhân vật lịch sử như: Nguyễn Văn Thống ở đình
Tân Khánh (TP Sa Đéc), Nguyễn Trung Trực ở
đình Định Hoà và đình Phong Hoà (huyện Lai
Vung), đình Mỹ Ngãi (TP Cao Lãnh) thờ ba vị đại
thần họ Nguyễn là Thống Linhx
, Thống Bình và
Thống Chiếuxi. Đặc biệt các đình Phú Thọ, Phú
Đức, Phú Hiệp, Phú Cường (huyện Tam Nông) và
ba đình Hưng Thạnh, Tân Kiều, Trường Xuân
(huyện Tháp Mười) đều thờ Thiên hộ Võ Duy
Dươngxii và Đốc binh Nguyễn Tấn Kiềuxiii hoặc
một trong hai vị. Một số đình tôn xưng những vị có
công khai sáng vùng đất, hiến đất dựng đình như:
Bốn ông Nguyễn Khắc Minh, Nguyễn Hoàng Đạo,
Bùi Văn Giang, Bùi Văn Lược ở đình Mỹ Ngãi
(Tp. Cao Lãnh), Cẩm địa Nguyễn Văn Ân, Tiền
Hiền thờ ông Nguyễn Văn Cận, Hậu Hiền thờ ông
Nguyễn Văn Xứ ở đình Tân Thành (huyện Lai
Vung), Tiền Hiền thờ ông Nguyễn Văn Phấn, Hậu
Hiền thờ ông Trần Văn Quận ở đình Tân An Trung
(huyện Lấp Vò)… Khánh thờ các vị thường bài trí
hình chân dung hoặc bài vị bằng chữ Hán. Tinh
thần trung nghĩa chống giặc ngoại bang của các vị
tướng được nhân dân địa phương mặc nhiên tôn
làm thần và rước vào đình phối thờ như nét son giá
trị của lịch sử. Việc thờ những con người thực có
công trạng với dân với nước phù hợp với triết lý
sống của cư dân nông nghiệp (cũng như trường
hợp thờ các vị Tiền Hiền - Hậu Hiền, Tiền Vãng -
Hậu Vãng). Theo đà phát triển của xã hội, nhiều
nơi đã lập đền thờ riêng cho những vị anh hùng
này.
Trên nguyên lý này, hầu hết các đình tỉnh Đồng
Tháp đều lập ban thờ Bác Hồ. Vị trí ban thờ tuỳ
theo sắp xếp của từng đình. Ngoài ra, một số đình
còn lập ban thờ những vị nhân thần có công với
dân tộc và quê hương qua tấm bài vị ghi 百林官舊臣
Trăm Quan Cựu thần. Đặc biệt ở đình Tân Hòa
(huyện Thanh Bình) còn thờ đức Phật Thầyxiv phía
sau khu vực chánh tẩm. Theo luận thuyết trên, thờ
Phật Thầy là thờ nhân vật lịch sử mang tính chất
điển hình, tuy nhiên ở đây còn cho thấy sự dung
hòa giữa tín ngưỡng – tôn giáo trong khuôn viên
ngôi đình. Một hình thức thờ cúng đặc biệt khác ở
đình Tân Quy Tây (Tp. Sa Đéc), đình Phong Hòa
(huyện Lai Vung) là thờ cúng Cửu huyền thất tổ,
thể hiện lòng tôn trọng, nhớ ơn ông bà cha mẹ
nhiều đời nhiều kiếp được người dân nơi đây đưa
vào đình nhằm răn dạy bản thân về việc làm, sự
được mất của mình ở hiện tại đối với ông bà cha
mẹ trong quá khứ, con cháu trong tương lai, ít
nhiều mang tính nhân quả. Ban thờ thiết trí đơn
giản bằng tranh thờ chữ Hán. Hình thức thờ cúng
này xuất hiện không nhiều ở các đình cùng khu
vực. Theo đó, đình dần trở thành nơi tựu trung của
những giá trị hiện sinh tốt đẹp của cư dân địa
phương. Hiện nay số ít đình còn khánh/ ban thờ 先
師 Tiên Sư ở khu chánh tẩm, như trường hợp đình
Tân An (Tp. Cao Lãnh), đình Mù U (huyện Châu
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 54, Số 4C (2018): 126-136
132
Thành), đình Mỹ An Hưng B (huyện Lấp Vò), đình
Tân Long (huyện Thanh Bình). Qua tìm hiểu, rất
tiếc không có thêm thông tin gì về ông thầy dạy
nghề của vùng này. Hay tập hợp người được chính
quyền truy phong Liệt sĩ/ Liệt sĩ trận vong được
thờ ở hầu khắp các đình trên địa bàn tỉnh Đồng
Tháp, đã xúc tác thêm cho sự thần hóa những nhân
thần ngự trị trong cõi tục. Qua đây tái minh chứng
cho tính cởi mở trong tâm thức tín ngưỡng của
người Đồng Tháp về thế giới ngoài con người chốn
đình trung.
Tình hình này cũng diễn ra tương tự ở các đình
cùng khu vực. Điều đặc biệt ghi nhận được từ thực
tế khảo sát, hầu hết các đình ở tỉnh Hậu Giang đều
thờ anh hùng Nguyễn Trung Trực như đình Rạch
Còi, đình liên xã Hòa An – Phương Bình, đình xã
Xà Phiên, đình xã Tân Bình... bên cạnh những đình
được lập thờ riêng ông ở xã Long Trị, xã Long Mỹ,
xã Vĩnh Diễn. Xuất phát từ cùng quan niệm thờ
cúng ông bà, nhớ ơn tiền nhân vài đình cũng tôn
thần cho cá nhân có ảnh hưởng nhất định đối với
địa phương, trường hợp này xuất hiện ở đình Bình
Thủy (Cần Thơ), khánh thờ chính thờ chung thần
Thành hoành và ông Đinh Công Chánhxv bằng hình
chân dung. Từ cơ sở này cho thấy tính tương cận
về mặt nhận thức trong quan niệm của cư dân
phương Nam về thang giá trị trong việc thần hóa
nhân vật tại chỗ.
Ngoài ra, một số đình cùng khu vực thể hiện sự
dung hòa giữa tôn giáo và tín ngưỡng như đình
Thới Thạnh (Cần Thơ) thờ bài vị Ngọc Hoàng
ngay khu vực chánh tẩm, đình thần thị trấn Trần
Hữu Nghĩa (Sóc Trăng) lập hẳn đài Quan âm trước
sân đình và hình Hộ pháp ngay cửa vào chánh tẩm,
đình Long Hanh (Trà Vinh) có đài thờ ngài Địa
Tạng ngay lối cổng vào.
Theo các bài vị và tượng thờ hiện còn trong các
đình tỉnh Đồng Tháp cho thấy mức độ ảnh hưởng
sâu đậm của Nho giáo trong tâm thức tín ngưỡng
của người dân địa phương trong quá khứ. Gần đây
nhiều ngôi đình đã phối thờ thêm các vị Khổng Tử,
Khổng Minh, Quan Công cũng là biểu hiện ý niệm
Nho giáo được thần thánh hoá. Như vậy, tập hợp
thần linh như đã trình bày bên trên cho thấy sự trân
trọng giá trị điển hình của những con người có
thực. Chính tính chất tương đồng gần gũi trong
quan niệm của người dân địa phương, các vị thần
này được tôn sùng ngay trong chánh tẩm của đình.
Dù đối tượng thờ ở mỗi nơi nhiều ít khác nhau,
song cũng đủ đáp ứng cho nhu cầu tâm linh ngày
càng mở mang, theo thời gian và theo sự mở rộng
đất đai mà họ khai phá. Với dẫn liệu ít ỏi trên phần
nào cho thấy nét văn hóa, nếp sống đặc trưng của
người miền Tây trong tổng hòa nét chung của
người Nam Bộ: cởi mở, phóng khoáng và hội nhập.
Các vị thần được thờ tự trong đình làng Đồng
Tháp như đã kể trên phần nào giúp tái hiện lại một
thế giới vượt thường trong tâm thức tín ngưỡng của
người dân Đồng Tháp bấy giờ. Theo đó, những
nghi thức tế lễ là con đẻ cho cả quá trình tư duy
không ngừng nghỉ của người Đồng Tháp trước
những đổi thay thời cuộc. Văn tế Hán Nôm còn lưu
lại của một số đình cho biết quy định nghiêm ngặt
của chuỗi hành động “hưng”, “bình”, “chước/hiến
tửu”… khi tiến hành lễ thần của viên Chánh bái.
Hiện nay, một số đình vẫn còn lưu lại tập tục tế bái
này với phần nghênh thỉnh thần và sắc thần rất
trịnh trọng. Cũng trong văn tế đình vào các kỳ lễ
trong năm cho biết thêm danh sách các vị thần
“đồng lai phối hưởng” của từng đợt cúng tế. Đây
là cứ liệu rất quan trọng làm căn cứ cho việc tái
hiện lại một cách đầy đủ và hệ thống tập hợp thần
linh được thờ tự trong quá khứ cũng như giúp cho
việc tôn tạo tu bổ đình thời hiện đại. Qua khảo sát,
có thể thấy nhiều vị thần chưa thực sự được “chính
danh” trong đình dù xuất hiện trong văn tế. Như
đình Mỹ Hiệp (huyện Cao Lãnh)xvi với các vị thần
trong lễ Lạp miếu (Lạp miếu chánh tế văn) gồm:
美合敕大乾國家南海敦凝正直尊神。
本境城隍祐善正直尊神。
敕大乾國家南海四位上尊神。
願神含弘光大至德溥博,加贈含弘光 至德
溥博顯化莊徽上等尊神。
左班列位尊神,右班列位尊神。
本境本處土地福德正神,暨今年所值 譴行
兵曹判官之神。
白馬太監之神,五方土地土祇土公土 土府
之神。
左廟五行仙娘之位,右廟主處木佬山 之
位。
東廚司命灶君之神。
東南察海狼獺二大將軍及木柱石柱。
本處尊神等諸陽神。
前賢開墾,後賢開基之神。
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 54, Số 4C (2018): 126-136
133
五方主隅嬤娘之位,先師度進,山川 瀆,
河伯水官之神。
前往員官,後往員職並部下等眾同來 格,
及本社列貴先靈同來配享。
(Mỹ Hiệp sắc Đại Càn Quốc Gia Nam Hải Đôn
ngưng Chánh trực tôn thần.
Bổn cảnh Thành Hoàng Hựu thiện Chánh trực
tôn thần.
Sắc Đại Càn Quốc Gia Nam Hải Tứ Vị thượng
tôn thần.
Nguyện thần Hàm hoằng Quang đại Chí đức
Phổ bác, gia tặng là Hàm hoằng Quang đại Chí đức
Phổ bác Hiển hoá Trang huy thượng đẳng tôn thần.
Tả ban liệt vị tôn thần, Hữu ban liệt vị tôn thần.
Bổn cảnh bổn xứ Thổ Địa phúc đức chánh thần,
kỵ Kim niên sở trị Hành khiển Hành binh Tào phán
quan chi thần.
Bạch Mã Thái giám chi thần, Ngũ phương Thổ
Địa Thổ Kỳ Thổ Công Thổ Chủ Thổ Phủ chi thần.
Tả miếu Ngũ Hành Tiên Nương chi vị, Hữu
miếu Chúa Xứ Mộc Lão Sơn Quân chi vị.
Đông Trù Tư Mệnh Táo Quân chi thần.
Đông Nam Sát Hải Lang Thát Nhị Đại Tướng
Quân, cập Mộc Trụ Thạch Trụ.
Bổn xứ tôn thần đẳng chư dương thần.
Tiền Hiền khai khẩn, Hậu Hiền khai cơ chi
thần.
Ngũ phương Chúa Ngung Ma Nương chi vị,
Tiên Sư Độ Tiến, Sơn Xuyên Nhạc Độc, Hà Bá
Thuỷ Quan chi thần.
Tiền Vãng viên quan, Hậu Vãng viên chức với
các bộ hạ cùng đến chứng lòng thành, cùng liệt quý
tiên linh bổn xã chung đến hưởng.)
Qua bài văn tế, có thể thấy tín ngưỡng thờ thần
cây, thần đá, thần Hà Bá, Sơn Xuyên Nhạc Độc
của cư dân Việt, phản ánh rõ ước vọng được bảo
trợ từ thiên nhiên trong chặn đường Nam tiến đến
Đồng Tháp. Tuy nhiên, so với khánh thờ hiện hữu
của đình Mỹ Hiệp, những vị thần: Thạch Trụ, Mộc
Trụ, Sơn Xuyên Nhạc Độc, Hà Bá Thuỷ Quan,
Chúa Ngung Ma Nương, Đông Nam Sát Hải Lang
Thát Nhị Đại Tướng Quân... không xuất hiện trong
đình, lại dồn tụ về đình vào các kỳ tế lễ tạm xem
như sự “vỗ về” của người trần thế đối với cõi siêu
linh (Tạ Chí Đại trường, 2006). Trường hợp duy
nhất ở đình Mù U (huyện Châu Thành) có lập hẳn
ban thờ vị thần núi 高阁大王 Cao Các Đại
vươngxvii với tấm bài vị màu đỏ, dòng chữ Hán màu
vàng. Điều này lý giải cho những xáo trộn của lịch
sử, sự tàn phá của chiến tranh và sự trì kéo của bộ
phận người muốn đả phá “tàn dư” của phong kiến
trong quá khứ đã dẫn đến sự mất mác bài vị thờ
thần, sự thay hình đổi dạng của một số di vật tại
đình đã và đang diễn ra ở đình Tân Xuânxviii (tỉnh
Đồng Tháp), đình An Bình (tỉnh Vĩnh Long) (Đỗ
Thị Hà Thơ và Lý Vĩnh Thuận, 2017) ghi nhận
được. Nhưng đây cũng là tình trạng phổ biến ở các
đình trong các tỉnh miền Tây, họa may trường hợp
duy nhất ở đình Hòa Minh (Trà Vinh) là còn bài vị
thờ thần Hải nhật Hà bá bằng chữ Hán.
Nhìn chung, với hệ thống thần linh được thờ
cúng ở đình làng Đồng Tháp nói riêng và các tỉnh
Tây Nam Bộ nói chung đã lý giải cho việc hiện
thực hóa khát vọng được che chở của người dân
đến khai phá vùng đất mới. Theo thời gian, họ đã
giữ lại những vị thần có quyền năng đủ mạnh để
làm điểm tựa tinh thần cho mình, đồng thời tổng
hợp thần linh vào chung ngôi đình trong bối cảnh
cụ thể của điều kiện tự nhiên và dung hòa với tín
ngưỡng cũng như tôn giáo bản địa. Chính điều này
đã tạo nên tính cách mở, thực tế của con người và
vùng đất miền Tây. Họ sống bao dung, chan hòa
với các dân tộc nơi mình đặt chân đến (trường hợp
thờ thần Chúa Ngung, Chúa Xứ), tri ân tiền nhân
hay những người đã xây dựng, bảo vệ làng (trường
hợp thờ Tiền Hiền, Hậu Hiền, Liệt sĩ trận vong,
anh hùng được thần hóa, chủ đất, người bỏ tiền
dựng làng, tổ nghề...), tính chịu khó chinh phục thử
thách, vượt qua cản trở bằng niềm tin của chính
mình (trường hợp thờ thần Hổ, thần Mãnh thú),
tính hào sảng tin tưởng và thờ bất kể vị thần nào
che chở cho mình (trường hợp thờ thần độ mạng,
Ngũ Hành). Tất cả tạo nên bức tranh sinh động về
thần, đất và con người miền Tây. Từ đây cung cấp
thêm cơ sở lý giải về vũ trụ và về cuộc sống của
người nam bộ trong quá khứ và hiện tại.
Tính cách vượt thường của nghi lễ tế thần chính
là cách con người giao tiếp với thần linh. Quan
niệm về sự liên kết cõi tục – cõi thiêng vẫn còn rất
đậm sâu trong tư tưởng của người dân Đồng Tháp
trong quá khứ và hiện tại. Chính vì vậy, việc cất
giữ sắc phong, vốn được xem như linh vật của
thần, mặc dù đây chỉ là tấm bằng sắc của một ông
vua phong kiến trần tục ban cho, trở thành trọng
trách thiêng liêng của cả làng, có ảnh hưởng
nghiêm trọng trực tiếp đến nhóm người giữ và dân
toàn vùng. Theo đó hàng loạt nghi lễ được nảy nở
để thực thi xoay quanh tấm bằng sắc ấy vào những
dịp tế lễ định kỳ của địa phương (thường lệ mỗi
năm đều khai sắc nhưng cũng có đình quy định 3
năm hay 5 năm mới khai mở một lần. Thậm chí có
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 54, Số 4C (2018): 126-136
134
đình chỉ thực hiện rước sắc chứ không khai sắc).
Và chỉ có như thế thì thần mới tán trợ cho những
hành động của con người trong thực tế. Quan niệm
về sự “ban ân bố trạch” của thần đôi khi còn mang
tính chất đe doạ đối với người dân trong vùng. Do
đó, sắc phong càng được giữ kỹ, càng ít người biết
lại càng huyền bí và linh thiêng, nhờ vậy phần nào
mới tránh được thần “quở trách”. Tuy nhiên trên
thực tế, “số phận” của một số bản sắc phong ít
nhiều bị hư hại nặng như trường hợp ghi nhận
được tại đình Phú Thành A huyện Tam Nông. Và
“vật thiêng” của thần đã hoàn toàn biến mất khỏi
cõi tục. Đây cũng là tình trạng chung ở các ngôi
đình trong các tỉnh cùng khu vực.
3 KẾT LUẬN
Đời sống tín ngưỡng của người Đồng Tháp nói
riêng và người miền Tây nói chung rất phong phú
và đa dạng, chung quy cũng nhằm đáp ứng nhu cầu
tâm linh của họ trên vùng đất miền Tây. Ngoài
những vị thần cơ hữu của tín ngưỡng truyền thống,
họ còn tìm kiếm và sáng tạo thêm những vị thần
thích ứng với điều kiện môi trường sống mới ở
miền Tây. Đây là thành tựu quý giá, sản phẩm tư
duy không ngừng nghỉ của người Việt trên bước
đường chinh phục tự nhiên. Với nếp sống tâm linh
này, tạo nên nếp văn hóa cũng như tính cách cởi
mở, hào sảng, thực tế, dung hòa của người miền
Tây trong bối cảnh hội nhập và giao lưu văn hóa;
đồng thời bộc lộ giá trị tinh thần cũng như ý thức
lưu giữ để nhớ lại cội nguồn mình. Từ góc độ tín
ngưỡng cho thấy, tính chất mở, tích hợp và đa
nguyên của ngôi đình Đồng Tháp cũng như các
ngôi đình ở miền Tây Nam Bộ thể hiện giá trị dân
tộc được tái khẳng định bằng tinh thần yêu nước,
trở thành điểm đặc biệt trong tín ngưỡng thờ thần
và quy tắc ứng xử trong văn hóa tâm linh của
người miền Tây trong quá khứ, rất cần được duy trì
và tiếp nối. Trong đó, tính bất biến là cơ sở nhận
diện tín ngưỡng thờ thần. Nghĩa là dù không gian,
thời gian, chính sách... đổi khác thì những thần linh
vốn được dân tôn thờ vẫn không thay đổi, được
truyền tụng và tồn tại từ đời này sang đời khác.
Hệ thống thần linh được thờ ở tự tích đình trên
địa bàn tỉnh Đồng Tháp và các tỉnh miền Tây ghi
nhận hiện tượng cộng tồn văn hoá của người Việt
với người Hoa, người Chiêm Thành và người Chân
Lạp. Việc trùng tu đình ở tỉnh Đồng Tháp chủ yếu
bắt đầu từ những năm thế kỷ XXI. Trải qua buổi
tang thương dâu bể, ngôi đình vẫn trầm mặc chứng
kiến bao đổi thay thế sự và rồi cũng thay đổi theo
sức ép của những chuyển đổi. Đến nay, chức năng
thờ cúng hiện còn của đình là sợi dây duy nhất kết
nối quá khứ và hiện tại, đảm bảo tâm thức tín
ngưỡng và phong tục tế lễ địa phương. Tuy nhiên,
việc thực hành lễ của các đình hiện nay chủ yếu chỉ
có các vị cao niên tập lễ, trai gái địa phương lại
không được tham dự, chỉ lẩn quẩn các công việc
tạp vụ khác, hoạ may được đứng nhìn một phân lễ
nào đó trong chuỗi nghi lễ ấy. Điều này vô hình
trung tạo nên sự xa cách thậm chí tách rời các thế
hệ trong cùng một vùng. Vấn đề càng trở nên
khuôn sáo hơn khi lớp người sau muốn biết nghi lễ
tiết chế địa phương lại phải tìm hiểu qua sách vở
mà không có cơ hội được chính những vị đang làm
nên những nghi tiết ấy chỉ dẫn. Thái độ này đối với
văn hoá được thời gian xúc tác đã làm mờ hoá cái
văn hoá cổ truyền vốn có của người Việt. Việc giới
trẻ cố gắng tìm lại nếp xưa tục cũ cơ hồ bị chặn
đứng bởi yếu tố tâm lý tâm linh và định kiến khắt
khe của đại đa số các bậc cao niên hữu trách ở đình
sở tại.
Xuất phát từ tập hợp thần linh thờ cúng ở đình
cùng nghi thứ giao tiếp cõi tục – cõi thiêng giúp tái
hiện lại diện mạo tín ngưỡng Đồng Tháp trong quá
khứ, tạo tiền đề cho việc kế thừa thành quả văn hoá
tín ngưỡng của người Đồng Tháp để tránh sa vào
hiện tượng mê tín dị đoan trong việc gìn giữ bản
sắc văn hoá dân tộc thời hội nhập. Vào các kỳ lễ
đình trong năm, các cấp chính quyền địa phương
nên phối hợp với ban quý tế tổ chức buổi tập và
giảng lễ trước cho dân cùng biết. Một mặt giúp phổ
biến và lưu giữ nét văn hoá nghi lễ. Mặt khác để
tập tục địa phương trở thành chiếc nôi nuôi dưỡng
tâm hồn văn hoá và tinh thần dân tộc của những
người con được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất
này; như vậy vừa có thể phát huy yếu tố nội sinh
để quảng bá văn hoá địa phương, vừa khai thác
tiềm năng du lịch lễ hội phục vụ đời sống kinh tế
người dân sở tại.
Chú thích
i
Số liệu chúng tôi thống kê vào tháng 10 năm 2016. Do
điều kiện khách quan, nên ở một số đình chúng tôi không
được mở sắc phong nên không rõ đối tượng được ban
tặng là ai.
ii Đình Vĩnh Phước hiện đang lưu giữ 5 đạo sắc phong
ban cho Nhân Hòa hầu Tống Phước Hòa.
iii Đạo sắc phong này là bản sao, do con của ông là
Nguyễn Văn Lộc vâng mệnh sao lại, hiện lưu giữ ở đình
Tân Khánh.
iv Đình Thượng Văn hiện lưu giữ 2 đạo sắc phong ban
cho thân phụ và thân mẫu của Công Bộ Tả Tham tri Bùi
Đức Minh.
v Số lượng sắc phong trên chúng tôi thống kê ở những tự
tích là đình, riêng tự tích đền, miếu và các tư gia không
thuộc đối tượng nghiên cứu ở bài viết này.
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 54, Số 4C (2018): 126-136
135
vi Năm 1845, vua Thiệu Trị ban sắc hai lần cách nhau
một tháng, cụ thể vào ngày 27 tháng 11, ban mỹ tự cho
thần Thành Hoàng các thôn ở tỉnh Đồng Tháp bấy giờ là
保安正直之神 Bảo an Chính trực chi thần, đến ngày 26
tháng 12 tiếp tục gia tặng mỹ tự cho thần là 保安正直佑
善之神 Bảo an Chính trực Hựu thiện chi thần.
vii Câu chuyện dân gian về lời phát thệ của Thần Nông
chỉ ở ngoài sân đình, quyết không vào kiểu nhà bà Cửu
thiên Huyền nữ dạy dân làm (mô phỏng theo thế đứng
chống nạnh của bà), vì như thế là “nấp dưới nách đàn
bà”, lý giải cho việc miếu thờ Thần Nông phải xây theo
kiểu nhà nóc bằng (kiểu nhà do chính ông dạy dân làm)
mới “hợp” nguyên tắc thờ vị thần này của dân gian.
viii Đình hiện còn giữ được 6 đạo sắc phong, trong đó 3
đạo ban cho thần Thành Hoàng và 3 đạo ban cho thần
Đại Càn cùng vào ngày 27/11 và ngày 26/12 năm Thiệu
Trị 5, ngày 8/11 năm Tự Đức 3. Nội dung văn bản sắc
phong ở đình cho biết danh tự chính thức của địa phương
được triều đình Nguyễn phê chuẩn việc thờ tự là thôn 平
翰西 Bình Hàn Tây thuộc huyện 建豐 Kiến Phong.
Nhưng nay địa danh này đều được viết là Bình Hàng
Tây.
ix Bản sắc phong ở đình Mỹ Ngãi, đình Tân An, đình Mỹ
Xương, đình An Phong đều cùng được ban vào ngày 27
tháng 11 năm Thiệu Trị 5 với mỹ tự đầy đủ của thần là
合弘光大至德溥博上等神 Hàm hoằng Quang đại Chí
đức Phổ bác Thượng đẳng thần. Đến ngày 26 tháng 12
năm Thiệu Trị 5, thần Đại Càn được ban sắc gia tặng
thêm mỹ tự là 合弘光大至德溥博顯化上等神 Hàm
hoằng Quang đại Chí đức Phổ bác Hiển hóa Thượng
đẳng thần. Ngày mồng 8 tháng 11 năm Tự Đức 3, lại
tiếp tục gia tặng là 合弘光大至德溥博顯化莊徽上等神
Hàm hoằng Quang đại Chí đức Phổ bác Hiển hóa Trang
huy Thượng đẳng thần.
x Thống Linh: Tức Nguyễn Văn Linh (1815 – 1865):
Người tỉnh Đồng Tháp, được phong chức Thống Lãnh
binh, phụ tá đắc lực cho Thiên hộ Võ Duy Dương chiêu
mộ nghĩa quân và xây dựng căn cứ chống Pháp ở Đồng
Tháp Mười.
xi Thống Bình và Thống Chiếu: Cũng như Thống Linh,
hai ông Nguyễn Văn Thống và Nguyễn Văn Chiếu được
phong chức Thống Lãnh binh, cùng hợp sức với Thống
Linh giúp Thiên hộ Võ Duy Dương chống Pháp. Về sau
ba ông cùng bị Pháp bắt và xử tử vào ngày 28 tháng 8
năm 1865.
xii Thiên hộ Võ Duy Dương (1827 – 1866): Người ở
huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định, được vua Tự Đức
phong hàm Chánh bát phẩm Thiên hộ vào năm 1860.
Ông có công huy động nhân dân lập căn cứ chống Pháp
ở Đồng Tháp Mười những năm 1864 -1866.
xiii Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều (? – 1866): Phó tướng của
Thiên hộ Võ Duy Dương, được phong chức Đốc binh,
cùng hợp sức với Thiên hộ Dương chống Pháp ở Đồng
Tháp Mười.
xiv Đức Phật Thầy: Tức Phật Thầy Tây An Đoàn Minh
Huyên (1807 – 1856), là người sáng lập ra giáo phái Bửu
Sơn Kỳ Hương ở An Giang. Lúc sinh thời, ông vừa trị
bệnh cứu người, vừa quy tụ dân khai hoang và phổ biến
giáo lý mầu nhiệu của đạo Tứ ân.
xv Theo nghiên cứu của Trần Phỏng Diều cho hay: “Ngày
15 tháng 8 năm 1913, làng Long Tuyền dịch bệnh tràn
lan. Một số nhân sĩ trong làng thỉnh chư nho đến cầu cơ
xin thuốc cho đồng bào trị bệnh thời khí. Đinh Công
Chánh tôn thần giáng cơ cho thuốc cứu người mắc, sẵn
dịp ra cuốn “Hiếu Để Liêm Tiết” khuyên đời. Vì ông cho
thuốc cứu độ nhân dân, làm sách khuyến thiện, nên trong
làng làm bài vị thờ tại đình từ năm 1913”. (Trần Phỏng
Diều, 2018).
xvi Bài văn tế trích trong Gia lễ nghi văn quyển hiện được
ông Tư Nghĩa cất giữ. Quyển nghi văn này là tập tư liệu
tổng hợp tự soạn 4 bài văn tế của đình, gồm: 獵廟正祭
全文儀省牲之禮 Lạp Miếu chánh tế toàn nghi tỉnh sinh
chi lễ, 獵廟正祭文 Lạp miếu chánh tế văn, 先師正祭文
Tiên sư chánh tế văn, 文祭廟關帝 Văn tế miếu Quan
Đế, không đánh số trang và không có rốn sách, được viết
tay trên chất liệu giấy dó, viết bằng chữ Hán, theo lối
chữ Chân, rõ ràng, dễ đọc. Hiện trạng văn bản còn rất
tốt, bìa ngoài là giấy cậy, viết tên quyển nghi văn kèm
theo dòng chữ ghi ngày tháng bằng chữ Hán. Cụ thể: 嘉
禮儀文卷美協乙未年四月初十日 Gia lễ nghi văn
quyển, Mỹ Hiệp Ất Mùi niên tứ nguyệt sơ thập nhật.
xvii Kết quả khảo cứu của các nhà nghiên cứu cho biết,
thần Cao Các còn được gọi là thần Cao Sơn Cao Các, là
vị thần núi nổi tiếng linh ứng, phù trợ dân chống được tai
họa, được thờ khắp đất nước.
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 54, Số 4C (2018): 126-136
136
xviii Đình Tân Xuân (huyện Châu Thành) đã bị phá dỡ
toàn bộ và xây dựng mới hoàn toàn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trần Phỏng Diều, 2018. Tín ngưỡng thờ danh nhân ở
các đình tại Cần Thơ, 18/03/2018.
http://bantuyengiao.cantho.gov.vn
Đỗ Thị Hà Thơ, Lý Vĩnh Thuận, (2017). Di văn Hán
Nôm và việc tái lập lịch sử đình thần An Bình,
huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Tạp chí Khoa
học Trường Đại học Cần Thơ. 48c: 27-32.
Tạ Chí Đại Trường, 2006. Thần người và đất Việt,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 384 trang.
Tạ Chí Đại Trường, 2011. Những bài dã sử Việt,
Nxb Tri thức, Hà Nội, 448 trang.
==========
viễn xứ năm xưa. Mẹ tiễn tôi đi ..... Nghĩ mà chua xót bạn tôi.
[PDF]tín ngưỡng thờ thần ở đình làng đồng tháp - Tạp chí khoa học Trường ...
https://sj.ctu.edu.vn/.../02-XHNV-DO...%20HA%20THO(12...
Translate this page
by ĐTH Thơ
Chúa Xứ và cấp bậc càng thấp hơn thần Thành. Hoàng. .... miếu thờ Bà Chúa Xứ, vị thần đất cấp cao với vai ..... 左廟五行仙娘之位,右廟主處木佬山 之. 位。
https://www.youtube.com/watch?v=cVHp3pEYw-w
2015越南福建廟二府會館福德正神寶誕
3. An Thổ Địa Chân Ngôn
Nam mô tam mãn đa, một đa nẩm, Án độ rô độ rô, địa rị ta bà ha. ( 3 lần )
An Thổ Địa chơn ngôn:
Nam Mô tam mãn đa một đà nẫm. Án, độ rô độ rô địa rị tát bà ha
AN THỔ-ĐỊA CHƠN NGÔN
NAM MÔ TAM MÃN ĐA MỘT ĐÀ NẪM. ÁN ĐỘ RÔ ĐỘ RÔ ĐỊA RỊ TA BÀ HA. (3lần)
=====
An Thổ-Ðịa chơn ngôn:
Nam mô tam mãn đa, một đà nẫm, án độ rô độ rô, địa vị ta bà ha. (Ðọc 3 lần)
( http://www.hoalinhthoai.com/buddhist...h-Tinh-Do.html / http://kyniem.easyvn.com/_easyweb/id...O_TAT_GIOI.htm / http://conduongthiendao.com/DamThien...-Q02-Index.htm )
DHURU DHURU: Ôm giữ, bảo giữ.
Phật Thuyết Liên Hoa Nhãn Đà La Ni Kinh - Buddha Mountain
www.buddhamountain.ca/VT1411.php
Translate this page
DHIRI DHIRI: Cầm nắm giữ gìn. DHURU DHURU: Ôm giữ, bảo giữ. CALA CALA: ... MUKSA ABHAYA SVÀHÀ: Quyết Định thành tựu sự giải thoát không sợ hã
dhiri (người gia trì không kể nam nữ)
dhuru dhuru (Lóe sáng, gom giữ đề ...
https://stardesign888.files.wordpres...ndantruong.pdf
===========
"địa lợi" 地利 lợi đất.
địa lợi 地利 ích lợi của đất.
https://ngoisaomaiyeu.violet.vn/entr...try_id/5325464
hương châm của chánh trị gọi là "quốc thị" 國是. ② Ấy thế, lời ...
[DOC]GIÁO ÁN DẠY HÁN CỔ - Học viện Phật giáo
http://www.vbu.edu.vn/application/up..../BPP-TANG.doc
Translate this page
Như: tu thân tề gia 修身齊家 tu sửa phẩm hạnh, yên trị gia đình. 治國平天下trị ... Như: thủy lợi 水利 ích lợi của nước, địa lợi 地利 ích lợi của đất. 不利 bất lợi ..
改变命运最直接的法门--安土地真言
分类:入世佛法
2007-03-23 09:55 阅读(3337)评论(0)
關於「安土地真言」 2007-02-21 19:00:18
有網友問「安土地真言」是否可標註 音以利誦持,因此我將完整的句子跟 音詳列於下,以利大家。
念誦「安土地真言」可令誦持者自身 於各種災難,尤其是身處在任何環境 會全身而退,如果還能迴向娑婆則自 己身處的國境無任何的橫禍天災,福 雙全,與眾生結善緣。
南無(ㄇㄛˊ)三滿哆 沒(moˋ)馱(tuoˊ)喃 嗡(ㄨㄥˋ) 度嚕度嚕 地(zhaiˋ)尾 薩婆訶(ㄏㄜ)
南na无mo三满哆duo 母驮tuo喃 唵ong 噜度噜 地zhai\尾萨婆诃
-------------------------------------------------------------------
我常常教人家念一个咒語,这个咒 ,不是大咒,不是秘密咒,不是放大 明咒,不是无等等咒,不是无上咒。
而是普通的小咒語。
在任何经典上均可看見,很平凡的 平凡到令人会忽略它。
它就是「安土地真言」
此咒如下:
「南摩三滿多。母驮喃。嗡。度鲁 鲁地尾。梭哈。」
我实实在在的告訴大家,就是这个 語,就可以改变命运,这不是普通的 土地真言吗?不錯,但是它具有改变 命运的大力量,真正不可忽视。
有人持安土地真言,其十年的皮肤 疾,全癒。
有人面有楣气,一生贫困,久持安 地真言,福光照命,命运全改,由贫 富。
有人持安土地真言,十年不孕竟然 子。
有人持安土地真言,一生健康无病
有人持安土地真言,得好姻緣,其 上现紅光。
有人持安土地真言,原本事事不順遂 最后样样順利,沒有一件事不如意
有人持安土地真言,中大奖。
我还告訴大家一个秘密,這个秘密 來不可說的,但,忍不住不得不说, 只要常持安土地真言,到「拉斯維加 斯」去,汝会特別如意。
這个咒語的久持,根本沒有人提倡 只有我提倡。
這是我发现的:
在一次禅定中,我发觉身旁坐著一 白发红颜的老者。
「你是什么人?」
「地神。」
「你在人间都喜欢做些什么事?」
「跟隨有福的人。」
「你对灵界有什麼心得吗?」
「圣界﹝指佛界﹞空无,天界﹝指 仙﹞清淨,地神界吉凶禍福,就是這 道理。」
我问地神:
「每个人命运如何?」
「命运全是因果业报,其中错终复 ,凡夫不得不如,但离不开因果两字 一切皆是命,万般不由人。」
「你讲得不錯,但如何改变命运?」
我再问:
「求佛?」
「不合契机,佛不可求。」
「求神仙?」
「也不合契机。」
「求地神?」
「对了,吉凶禍福可以拔命。」
「如何改?」
「念真言。」
「那个真言?」
「安土地真言。」
那位老者帶著我,乘著鹿车,飞上空 ,到了一山,山间有一座大城,也是 璧輝煌的,大城之中,全是白发紅顏 的老者,上萬上千,而白发紅顏老者 有的归來,有的騰空而去。
「这是什么国?」
「地居神国。」
「地神忙些什么?」
「去护持,去拔命,去改运。」
最后,我領悟到一个原理,学佛, 然可以改变命运,学仙,也可以改变 运,但,直接念「安土地真言」,其 改变命运更直接。
要改变自己的命运,掌握造化的钥匙 的确任何一种法术,均要合於「契机 ,契合机缘。
只要念「安土地真言」,上千上万上 ,一心奉持,地神福光照命,就可改 ,这是真实的。
http://56421064.blog.sohu.com/38887841.html
土地公招財法「南無三滿哆,母度南 嗡,度魯度魯地尾,梭哈。」轉運, ...
www.coco02.net/post/402165
Translate this page
轉運,增福報,取財富的咒語,今天 走最靈驗! 「土地公招財法「南無三滿哆,母度 ,嗡. 安土地真言─「南無三滿哆,母度南 嗡,度魯度魯地尾,梭哈。」 nan mo san ...
http://www.coco02.net/post/402165
安土地真言-正確發音
安土地真言的正確發音 如何結手印 任何時間都可以唸嗎? 請大大幫忙解說
最佳解答: 梵語發音:namo samanta buddhanam om duru duru divi svaha
用漢字模擬的音:拿摩 撒滿搭 不打南 唵 度嚕度嚕 地尾 司哇哈
這個咒語沒有特別需要搭配手印,可 用來祈求安宅。
https://tw.answers.yahoo.com/questio...3&guccounter=1
=============
Chân Phật Mật Pháp đã thêm 2 ảnh mới vào album: An Thổ Địa Chân Ngôn.
28 tháng 9, 2017 ·
Hán văn: chỉnh lý Nhiên Đăng tạp chí biên tập bộ
Việt dịch: HUYỀN THANH
Nguồn: Kinh Mật Giáo
Liên Sinh Hoạt Phật (Phật sống Liên Sinh) thường thường dạy bảo Đại Gia niệm một Chú Ngữ ấy. Chú Ngữ ấy chẳng phải là Đại Chú, chẳng phải là Bí Mật Chú, chẳng phải là Phóng Đại Quang Minh Chú, chẳng phải là Vô Đẳng Đẳng Chú, chẳng phải là Vô Thượng Chú, mà là Tiểu Chú Ngữ phổ thông, ngay trên bất kỳ Kinh Điển nào đều có thể nhìn thấy rất bình thường. Bình thường đến độ khiến cho nhiều người xem thường điều ấy. Điều ấy chính là “An Thổ Địa Chân Ngôn”
Chú này như bên dưới: “Nam ma tam mãn đa mẫu đà nam. Ông, độ lỗ độ lỗ, địa vĩ, thoa cáp”
NAMAḤ SAMANTA BUDDHANĀ_ OṂ DHURU DHURU DHIVI SVĀHĀ
(Theo người dịch thì câu Chú này là: NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ OṂ DHURU DHURU DEVĪ SVĀHĀ)
Liên Sinh Hoạt Phật trung thực mách bảo cho Đại Gia chính là Chú Ngữ ấy, thuận theo có thể dùng cải biến vận mạng, cái ấy chẳng phải là An Thổ Địa Chân Ngôn ư? Chẳng sai lầm, chỉ là cái ấy có đủ lực lượng lớn để cải biến vận mạng, chân chính chẳng phải đột nhiên nhìn thấy
Có người trì An Thổ Địa Chân Ngôn thời da dẻ bị bệnh tật đã lâu rất khó chữa trị, đều được khỏi
Có người, khuôn mặt có My Khí một đời nghèo khó, do lâu dài trì An Thổ Địa Chân Ngôn được ánh sáng Phước chiếu mệnh, nên mạng vận sửa đổi hoàn toàn, chuyển nghèo thành giàu có.
Có người trì An Thổ Địa Chân Ngôn trọn mười năm chẳng mang thai, lại có con
Có người trì An Thổ Địa Chân Ngôn mà một đời mạnh khỏe không có bệnh.
Có người trì An Thổ Địa Chân Ngôn được nhân duyên tốt, trên sắc mặt (hoặc gò má) của người ấy hiện ánh sáng màu hồng.
Có người trì An Thổ Địa Chân Ngôn, mọi việc xưa nay chẳng thuận lợi, cuối cùng mỗi mỗi loại đều thuận lợi, không có một việc nào chẳng như ý.
Có người trì An Thổ Địa Chân Ngôn, trong sự khen thưởng lớn, quay trở lại mách bảo cho Đại Gia một bí mật ấy. Bí Mật ấy xưa nay chẳng thể nói, chỉ cần nhẫn chịu chẳng trụ, chẳng đắc được, chẳng nói… anh chị chỉ cốt yếu thường trì An Thổ Địa Chân Ngôn, đầy đủ “Lạp Tư Duy Gia Tư” gắng sức thì anh chị gặp được sự đặc biệt như ý.
Trì lâu dài Chú Ngữ ấy, căn bản không có người đề xướng, chỉ có Liên Sinh Hoạt Phật đề xướng. Liên Sinh Hoạt Phật lãnh ngộ đầy đủ một nguyên lý: học Phật đương nhiên có thể dùng cải biến mạng vận. Học Tiên cũng có thể dùng cải biến mạng vận. Chỉ cần trực tiếp niệm An Thổ Địa Chân Ngôn thì sự cải biến mạng vận ấy liền thay đổi trực tiếp.
Điều thiết yếu cải biến mạng vận của chính mình là nắm giữ then chốt của Tạo Hóa, đích xác dùng một loại Pháp Thuật nào, đều cần thiết phải hợp với Khế Cơ, khế hợp với Cơ Duyên. Còn chỉ cốt yếu niệm An Thổ Địa Chân Ngôn thì hơn hẳn ngàn lần, hơn hẳn vạn lần, hơn hẳn ức lần. Một lòng phụng trì thì ánh sáng Phước của Địa Thần chiếu mạng, ắt có thể cải vận. Điều ấy là chân thật vậy.
17/01/2014
https://www.facebook.com/chanphatmat...0302751524532/