Printable View
http://img.pcstore.com.tw/~prod/M076...c&P=1400207776
PChome Online 商店街- 真心呵護TAKE CARE - 祈福招財金紙/祭拜土地公&迎 ...
PChome商店街
PChome Online 商店街- 真心呵護TAKE CARE - 祈福招財金紙/祭拜土地公&迎財神&新春開運/拜拜用品系列
http://www.pcstore.com.tw/wintin/M07657413.htm
https://cbu01.alicdn.com/img/ibank/2...31.220x220.jpg
五色龙衣
拜财神纸_拜财神纸价格_优质拜财神纸 批发/采购- 阿里巴巴
阿里巴巴
五色龙衣宗教用品地主烧纸土地财神 拜祈福祭祀拜祭拜
https://www.1688.com/chanpin/-B0DDB2C6C9F1D6BD.html
hần Đất (Thổ Địa) – vị thần hộ mệnh của xóm làng, cai quản vùng trời
mới hỏi người làng: “Đền thờ thần gì”, người làng thưa: “đây là đền thờ thần thổ địa”.
Lịch sử đền Mây[sửa | sửa mã nguồn]
Các ghi chép để lại đều cho rằng đền Mây được xây dựng từ thời nhà Đinh. Tương truyền đền thần rất linh thiêng. Cuốn “Việt điện u linh” khi nói đến thần thổ địa ở Đằng Châu - Hưng Yên có chép: xưa Vua Lê Long Đĩnh khi chưa lên ngôi, có thực ấp ở Đằng Châu, thường bơi thuyền dạo chơi. Một hôm thuyền đang trên sông bỗng mây kéo đến tối sầm, gió thổi rất mạnh, mưa to sắp đổ xuống, Long Đĩnh tìm nơi trú ẩn, thấy trên bờ sông có đền, mới hỏi người làng: “Đền thờ thần gì”, người làng thưa: “đây là đền thờ thần thổ địa”, Vương hỏi “có thiêng không?” thưa rằng “đây là chỗ dựa của một châu, lễ cầu mưa, cầu tạnh đều rất ứng”. Vương bèn nói to lên rằng: "Nếu thần khiến được mưa gió thì nay thử khiến cho bên này sông tạnh, bên kia sông mưa. Thế mới thật là thiêng!”. Nói xong quả nhiên nửa sông bên kia mưa rất to, nửa sông bên này chỉ có gió mát. Long Đĩnh không bị ướt, lấy làm lạ mới sai tu bổ đền thờ.
Trải qua thời gian, Đền Mây đã được trùng tu, tu sửa nhiều lần. Ngày nay, kiến trúc ngôi đền vẫn mang đặc trưng nghệ thuật chạm khắc thời Hậu Lê và thời Nguyễn.
https://vi.wikiquote.org/wiki/C%C3%A...%E1%BB%87t_Nam
Pc: Như lai giáo hữu an úy thổ địa long thần chân
ngôn cẩn đương trì tụng
P. Nhạc độc sơn xuyên chư linh huống. Thế gian thổ
địa chúng long thần.
T. Tài văn tuyên diễn diệu chân ngôn, các chấn
phương ngung sinh hoan hỷ.
Nam mô sinh hoan hỷ địa bồ tát ma ha tát (3)
https://www.facebook.com/thayquycoct...6532485168093/
Kiến Thức Tâm Linh & Khoa Học Huyền Bí
11 tháng 4, 2016 ·
Có bạn hỏi về khoa cúng thần tài thổ địa hàng ngày
Phong Kỳ vi
Kim long như ý chính nhất long hổ huyền đàn chân quân tổng quản tài nguyên .
Tịnh lệnh chân quân suất tam thập lục thiên quan
Kiêm lĩnh thất thập nhị địa sát
Bộ hạ lục độc đại thần.
Ngũ phương tướng binh
Ngũ phương lôi thần
Tứ lộ tài thần
Phụng thiên môn chi mệnh
Đề điểm cửu châu
Chuyên ti chức trách:
Nhất:truy đào
Nhị:bộ vong
Tam:nghênh thần
Tứ:nạp phúc
Chuyên ti từ ôn nhương tai
Chủ trì công đạo
Cố tiền tài giao dịch cập công chính
Diệc thuộc Kỳ sở ty
Kim cứ Việt Nam quốc,.........( tỉnh).............(huyện)......( xã ).....(thôn). Kim vì tín chủ .......(tên)......tự trần bản mạnh sinh ư ........( năm sinh ,vd : ất mão ) niên......hành canh.......(tuổi,vd: 27 là nhị thập thất ) tuế.
Xin phép làm lễ nghinh tài .
Chí Tâm quy mệnh lễ
Tấu rằng:
An thổ địa thần chú
“Nguyên thủy an trấn
Phổ cáo vạn linh
Nhạc độc chân quan
Thổ địa kỳ linh
Tả xã hữu tắc
Bất đắc vọng kinh
Hồi hướng chính đạo
Nội ngoại trừng thanh
Các an phương vị
Bị thủ cung đình
Thái thượng hữu mệnh
Sưu bổ tà tinh
Hộ pháp thần vương
Bảo vệ tụng kinh
Quy y đại đạo
Nguyên hanh lợi trinh
Cấp cấp như luật lệnh”
Khải thánh thỉnh văn
“Phục dĩ: Hương thấu lăng tiêu
Nãi nhân uân ư tinh viên chi nội
Tâm thông Tử cực
Nhất tâm thượng thỉnh:
Nam Quốc Hùng Vương Tổ Thiên Tôn.
Nam Quốc Trần Triều Cửu Thiên Vũ Đế , Hưng Đạo Đại Vương Thiên Tôn .
Tản Viên Sơn Thánh Thiên Tôn.
Phù Đổng Thiên Vương Thiên Tôn.
Chử Đồng Tử Đế Quân.
Liễu Hạnh Thần Tiên Chiếu Kiến Thiên Tôn.
Thành Hoàng Đại Vương
Phúc Đức Chính Thần
Thần Tiên Nam Quốc Thiên Tôn
Nhất Tâm Thượng Thỉnh .
Thần Tiên Thượng Giới.
Đẩu Phụ Long Hán Tổ Phượng Chu Ngự Quốc Vương Thiên tôn.
Thánh Đức Cự Quang Thiên Hậu Viên Minh Đạo Mẫu Thiên tôn.
Câu Trần Thượng cung
Thiên Hoàng đại đế.
Nam Cực Thái Vi
Trường Sinh đại đế.
Tinh Chúa Tử Vi
Bắc Cực đại đế.
Đông đẩu ngũ cung
Chủ toán hộ mệnh Tinh quân.
Tây đẩu tứ diệu
Ký danh hộ thân Tinh quân.
Trung đẩu tam thần
Đại khôi diên sinh giáng phúc Tinh quân
Nam Đẩu lục ty Diên thọ Tinh quân.
Bắc Đẩu cửu hoàng Tứ phúc tinh quân
Tam thai Hoa cái Tinh quân.
Kình Dương Đà La thánh
Đương sinh bản mệnh
Nguyên thần Tinh quân
Trường sinh tập phúc Tinh quân.
Tiêu tai giải ách Tinh quân.
Thượng cung Cửu diệu Tinh quân
Nội viên nhất thiết chúng tinh.
Thiên luân chưởng độ
Nhị thập bát tú Tinh quân.
Địa trục phân dã
Thập nhị cung thần Tinh quân.
Thiên can Địa chi
Lục thập Nguyên Thần tinh quân
Lưu niên vận hạn
Chính chiếu bang lâm Tinh quân
Thượng Thanh tam cực
Phúc lộc thọ lão Tinh quân
Trị niên Thái tuế Tinh quân.
Chu thiên vô lượng thần chân.
Đốc tài phủ trung đại nguyên suất kim ngân
Thiên môn khai lai:
Địa môn khai :
Bát thập nhất lộ
Tài thần lai
Nhất tứ phúc lai
Nhị tứ tài
Tài nguyên cổn cổn
Tiến môn lai
Văn tài thần lai
Lai hiển linh
Thiêm kim tăng ngân
Bối bối hành
Vũ tài thần lai
Lai bang công
Khư tà hàng ma
Tài vận thông
Bát phương Tài thần
Bát phươngcông
Bát phươngkim ngân
Nhập môn đình
Tứ lộ tài thần
Tứ lộ thông
Tứ lộ tài thần
Lai hiển linh
Chiêu tài tài thần
Hiển nhất công
Tiến bảo tài thần
Công nhất linh
Tăng phúc tài thần
Thông thượng hành
Chúng vị tài thần
Lạc phàm đình
Độ hạ chúng sinh
Lai hiển công
Hiển công hiển công
Hiển thánh danh
Thiên thu vạn đại
Bối bối hành
Lai hiển linh lai
Độ hạ sinh
Tài thần kinh
Thiên địa hữu tài
Tài môn khai
Cổn cổn tài nguyên
Hạ phàm lai
Thiện môn khai lai
Thiện môn khai
Thiện tâm đả động
Chúng thần lai
Nhĩ hữu thiện tâm
Hữu công đức
Hiếu song thân lai
Kính thần lai
Thiện quả thiện nhân
Tiến môn lai
Nhược tố ác lai
Vô tiễn tài
Vô hữu tiễn tài
Mệnh thái hại
Hữu tâm cầu tài
Tài bất lai
Tâm bất thành lai
Thiện bất lai
Vi đắc tiễn tài
Truyền bất lai
Thiện báo thông lai
Thiện báo danh
Tuệ nhãn quan khán
Thế gian trung
Nhật nguyệt đăng lai
Tố quả kính
Thanh trà lưỡng biên
Hành nhất hành
Mỗi thiên thượng hương
Cầu thần linh
Tài thần lai lai
Lai bang công
Tài thần lai lai
Lai hiển linh
Thiên địa hữu linh
Đại hiển thông
Thành tâm thành ý
Hướng thiên minh
Thành tâm khấu bái
Chúng sinh linh
Tiêu tai miễn nan
Vãng tiền hành
Văn vũ thần lai
Lai bang công
Đại bang công lai
Đại hiển linh
Cổn cổn tài nguyên
Tự thủy hành
Thiên môn hồng lai
Địa môn hồng
Thiên môn địa môn
Cộng nhất thông
Thông tài nguyên lai
Thông tài hành
Tài thần tài thần
Chân hữu linh
Bang thế nhân lai
Độ thế công
Công đức thiên thu
Thế đại hành
Lai bang trợ lai
Lai hiển linh
Công đức vô lượng
Thế gian bình
Cầu cầu bái bái
Bái bái thành
Bái thần cầu lộ
Lộ môn bình
Hữu bình an lai
Tri lộ hành
Vãng tiền hành lai
Vãng tiền hành
Vãng tiền hữu lộ
Vi nhất công
Công trọng sơn lai
Công đức trọng
Công đức hoán lai
Hiếu tâm trọng
Nhân quả thành lai
Nhân quả thành
Hữu nhân kết hạ
Thạc quả thành
Thạc quả luy luy
Hưởng bất thanh
Tăng tài nguyên lai
Tài nguyên trọng
Tài nguyên cổn cổn
Vãng hạ hành
Thế nhân lai lai
Khán bất thanh
Chỉ hội cầu tài
Bất vi thông
Khán tự tiễn tài
Hoa bất thành
Hữu ác danh lai
Ác quán hành
Ác quán mãn doanh
Chiêu thân trung
Vãng hạ hành lai
Vãng hạ hành
Công viên quả mãn
Vãng thiên trung
Tây linh sơn thượng
Thượng thiên đình
Thất sắc tường vân
Nhiễu đương trung
Thiên hạ vị bình
Độ thế hành
Giá tường vân lai
Vãng hạ hành
Khán hạ thế nhân
Đa bất hành
Bi bi thảm thảm
Đa khả trữ
Tam truyền hạ giới
Bất an trữ
Khiêu long môn lai
Hồi thiên đình
Nhất môn tâm tư
Đối thần hành
Kim ngân châu bảo
Dụng bất thanh
Chúng thần linh lai
Tài thần công
Bát thập nhất lộ
Tài thần linh
Thông tài lộ lai
Tài lộ thông
Tài nguyên cổn cổn
Vãng hạ hành
Dụng tâm cầu lai
Dụng tâm bái
Thiên địa chúng thần
Bảo hữu hành
Hữu đích bình an
Tài lộ thông
Ngũ lộ tài thần xưng chi vi .Cấp tài .
Tựu thị hiện tại yêu cầu hiện kim.
Mã thượng năng bất năng tứ ngã tài
Đích thống xưng vi ngũ lộ tài thần.
Tài thần hữu ngận đa chủng.
Hữu chính tài thần.vũ tài thần.
Thiên tài thần đẳng đẳng.
Ngũ lộ:ngũ vị tài thần.
Mỗi nhất lộ tối thiểu hữu thập vạn quân.
Vũ tài thần -triệu nguyên soái.
Chuyên môn tố vũ thị như:trao đổi y phục.
Thổ trạch đất đai , tòa nhà cao ốc , đầu tư chiêu khách, mua bán trao đổi, tiền vàng ngoài tệ .
Kiến trúc nghiệp đẳng tỉ giảo lao lực đích.
Văn tài thần.Tài danh,học vị.Bằng cấp,ngọc ngà, khoáng sản. Văn tài thần thị xí nghiệp gia bái đích. như:mậu dịch công ti.hàng không công ty đẳng.
Văn tài thần .Tài bạch tinh quân: sơn lâm mộc vị.
Mật ngọt hương hoa. Nấm trà thảo dược.
Bắc Đẩu Thất Tinh chi nhất. thường quản phúc.lộc.thọ.hỷ đẳng thần tịnh liệt.
Xuất ngoại, thăng tiến, hữu duyên, ngoại giao,cấp bậc.
Sinh sôi nảy nở, đinh tài lưỡng vượng.
Hoặc xưng ngũ phúc lâm môn chi thần.
Kỳ hội tượng ôn văn nho nhã.
Tá thủ chấp ngọc như ý.Ngũ cốc, thủy tửu, hải sản tàu bè đắc lộ lộ thông.
Hữu thủ phủng tụ bảo hợp
Kỳ thượng thư hữu .Chiêu tài tiến bảo .
https://www.facebook.com/banthienlin...2164513500786/
Cung kính nghĩ rằng thần linh Thổ địa sẽ tùy duyên ứng biến phù hộ cho gia đình chúng con
Môn Khấu Thổ Địa Tiếp Dẫn Tài Thần: Thần Thổ Địa trực ở cổng để tiếp dẫn Thần Tài vào nhà.
Thần tài thuộc mạng kim và hành kim; Thổ địa thuộc mạng thổ, đại trạch thổ.
Ly kỳ chuyện kẻ cướp nhờ Thổ Địa phá két sắt
02/05/2018 05:00
(NLĐO) – Phá két sắt không được, kẻ cướp xuống thắp nhang khấn Thổ Địa nhờ tiếp sức cho mình phá được két sắt của gia chủ.
Là một người có tính tình cởi mở, thân thiện và thích làm quen với nhiều người bạn mới nên anh K.H.B. (ngụ quận 10, TP HCM) lên mạng Zalo kết bạn với một số người.
Trong số những người bạn trên thế giới ảo, anh B. nói chuyện và thân thiết với nickname Long Nguyễn. Mặc dù chưa bao giờ gọi điện trò chuyện hay thấy mặt Long Nguyễn qua webcam nhưng anh B. nghĩ mình đã kết giao với một người chân tình.
Tâm giao trên mạng
Sau một thời gian hàn huyên trên mạng, anh B. được Long Nguyễn giới thiệu một người khác có nick name Tư Hiếu. Anh B. cũng chỉ nói chuyện với Long Nguyễn và Tư Hiếu trên mạng chứ chưa được diện kiến.
Vào một ngày đẹp trời đầu tháng 3-2018, Long Nguyễn nhắn tin qua điện thoại rủ anh B. ra quán nhậu ở kênh Tân Hóa (quận Bình Tân) đồng thời nói sẽ có Tư Hiếu ra cùng.
Thấy Thổ Địa và Thần Tài linh nên kẻ cướp xin mang về thờ
Anh B. vui vẻ nhận lời vì nghĩ mình sắp gặp được hai người bạn mới quen trên zalo để nói chuyện "quên trời đất". Sau khi ăn mặc tươm tất, anh B. chạy xe ra quán nhậu thì Tư Hiếu nhắn đã trễ nên hẹn anh B. và Long Nguyễn hôm sau.
Tối hôm sau, anh B. nhắn cho Tư Hiếu và Long Nguyễn rủ đi nhậu nhưng Long Nguyễn nhắn nói rằng đi công tác ở Bình Thuận nên chúc anh B. nhậu vui cùng Tư Hiếu.
Anh B. cho Tư Hiếu địa chỉ nhà mình và ít phút sau Tư Hiếu đến nhà chở anh B. đi nhậu.
Sau chầu nhậu bí tỉ, Tư Hiếu gợi ý mua nghêu về nhà anh B. nấu cháo ăn rồi ngủ qua đêm. Mặc dù chỉ mới quen trên mạng và lần đầu gặp mặt nhưng anh B. vẫn vui vẻ nhận lời.
Trong lúc chế biến món cháo nghêu, Tư Hiếu đã âm thầm cho thuốc mê vào nồi cháo. Khi mang cháo lên bàn, Tư Hiếu khéo léo hớt phần cháo có thuốc mê còn phần mình thì vẫn ăn bình thường.
Ăn xong tô cháo nghêu do bạn nấu, anh B. thấy toát mồ hôi nên lên lầu 2 nằm ngủ mê man.
Thổ Địa rất linh!
Thấy anh B. đã ngấm thuốc đúng ý đồ của mình, Tư Hiếu vờ lên lay gọi anh B. để hỏi một số chuyện nhưng anh B. mê man.
Tư Hiếu dạo một vòng trong nhà để nghía tài sản của gia chủ. Phát hiện két sắt, Tư Hiếu dùng vật chuyên dụng cạy két sắt nhưng cạy hoài vẫn không được trong khi trời lại sắp sáng.
Tư Hiếu xuống tầng trệt đốt 3 cây nhang rồi khấn Thần Tài, Thổ Địa linh thiêng thì phò trợ cho mình đập được két sắt. Sau lời khấn, Tư Hiếu lên lầu và dường như lời khấn hiển linh nên đập được két sắt.
Tư Hiếu sáng mắt khi bên trong két sắt có tới 5 lượng vàng SJC, vàng nữ trang, ngoại tệ, 15 triệu đồng. Tư Hiếu lấy ba lô cho tất cả tài sản này vào và không quên cuỗm luôn điện thoại, máy tính đắt tiền của người bạn mới quen.
Sau đó, Tư Hiếu xuống thắp thêm 3 cây nhang tạ ơn Thổ Địa, Thần Tài đã giúp mình. Tư Hiếu nguyện lấy số tài sản này đem bán để đổi đời, dùng làm vốn mưu sinh nên đã khấn xin mang Thần Tài, Thổ Địa về quê thờ phụng, làm ăn.
Ly kỳ chuyện kẻ cướp nhờ Thổ Địa phá két sắt - Ảnh 2.
Tư Hiếu tại công an
Sáng hôm sau, gia đình gọi anh B. không được nên đến nơi thì thấy cửa mở toang. Chạy lên lầu 2 gọi thì lúc này anh B. mới tỉnh giấc, phát hiện mất tài sản nên cùng người nhà đi trình báo công an.
Tiếp nhận tin báo "động trời" của nạn nhân, Công an quận 10 đã khám nghiệm hiện trường, lấy lời khai và trích xuất camera nhưng vẫn không nhìn rõ mặt Tư Hiếu.
Bằng nhiều biện pháp nghiệp vụ, Công an quận 10 xác định Tư Hiếu sau khi gây án đã trốn về Quảng Nam. Một tổ công tác đặc biệt gồm 4 trinh sát đã được cử ra Quảng Nam xác minh đối tượng Tư Hiếu.
Sau nhiều ngày dò la, đeo bám địa bàn, Tổ Công tác Công an quận 10 đã lần ra Tư Hiếu ở một nhà hàng trên địa bàn Quảng Nam nên đã nhờ lực lượng địa phương hỗ trợ, đưa về trụ sở công an xác minh.
Bất ngờ nhưng Tư Hiếu biết không thể trốn thoát nên đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Tư Hiếu thừa nhận Long Nguyễn cũng chính là mình và chỉ muốn dụ anh B. để chiếm đoạt tài sản. Tư Hiếu khai nhận tên thật là Nguyễn Hoàng T. (SN 1994, quê Quảng Nam) không có nghề nghiệp ổn định nên nảy sinh tà ý.
Ly kỳ chuyện kẻ cướp nhờ Thổ Địa phá két sắt - Ảnh 3.
Ly kỳ chuyện kẻ cướp nhờ Thổ Địa phá két sắt - Ảnh 4.
Tang vật thu hồi được
Khám xét nhà riêng của Tư Hiếu, tổ trinh sát chỉ thu giữ được một số vàng nữ trang, máy tính và hai ông Thổ Địa, Thần Tài được thờ phụng rất trang trọng. Riêng số vàng và một số tài sản khác Tư Hiếu đã mang bán để ăn chơi, tiêu xài.
Anh B. khai hai ông Thổ Địa, Thần Tài được anh thỉnh từ Đà Nẵng về thờ phụng. Vì được chế tác từ đá non nước nên hai vị thần này có giá khoảng 10 triệu đồng.
Tài sản mà Tư Hiếu chiếm đoạt được định giá khoảng 250 triệu đồng, riêng hai ông Thần Tài, Thổ Địa được định giá khoảng 2 triệu đồng.
Sau khi xác định Tư Hiếu là kẻ đánh thuốc mê để cướp tài sản, tổ trinh sát Công an quận 10 đã di lý Tư Hiếu về TP HCM bằng tàu lửa.
Sau khi tiếp nhận đối tượng, Công an quận 10 lấy lời khai ban đầu và chuyển hồ sơ lên Công an TP HCM điều tra, xử lý theo thẩm quyền.
Bài và ảnh: Phạm Dũng
https://nld.com.vn/phap-luat/ly-ky-c...1153120757.htm
Không thờ thần tài nữa thì làm thế nào? Giải ban thờ thần tài đúng cách
10940
ban thần tài
Trong nhiều trước hợp quý khách không thờ thần tài nữa và chưa biết phải làm thế nào. Câu hỏi này được Kiến Vàng gặp phải khá nhiều trong quá trình cung cấp dịch vụ vận chuyển của mình.
Đặc biệt các gia đình sử dụng dịch vụ chuyển nhà bắc nam và các cửa hàng không còn kinh doanh nữa. Kiến Vàng, đã tìm hiểu kỹ càng và thu thập các ý kiến từ nhiều chuyên gia nổi tiếng hàng đầu trong ngành tại Việt Nam hiện nay. Và đưa ra câu trả lời thích đáng nhất cho câu hỏi: Không thờ thần tài nữa thì làm thế nào?
Bài viết liên quan: Chuyển đồ trước khi nhập trạch có được không?
Giải pháp cho việc không thờ ban thần tài nữa
Việc không còn thờ ban thần tài nữa, đươc gọi là ” giải ban thần tài“. Đây là một nghi lễ mời thần tài chuyển nhà đến nhà mới, nhận nhiệm vụ mới tại địa chỉ mới, tại một gia đình mới.
Các bước giải ban thần tài theo đúng nghi lễ thờ phụng
Bước 1: Chọn ngày phù hợp để giải ban thần tài. Có hai ngày đẹp và phù hợp nhất là ngày mùng một hoặc ngày rằm hàng tháng để tiến hành.
Bước 2: Chuẩn bị tờ sớ hay nội dung bài khấn giải.
Bước 3: Sắm lễ vật cần thiết.
Bước 4: Hóa đồ thờ và ban thần tài.
Bước 5: Hóa hoặc chuyển bát hương thờ.
Nội dung bài sớ cúng giải ban thần tài
Nam mô A Di Đà Phật ( đọc 3 lần)
Con lạy chín phương Trời, mười phương Phật
Hôm nay là ngày … tháng … năm ….
Tín chủ con là: … ( Họ tên đầy đủ) sinh năm: ….
Tín chủ con xin kính cáo: Chư vị Thổ địa mạch long thần, Tài thần cho phép con sửa soạn lễ vật: Nhục kê quí tửu, phù lưu thanh chước, kim ngân hương đăng, hoa, quả, tiền đinh cùng thứ phẩm chi nghi xin làm lễ hoá ban thờ Thần tài cũ về miền sông nước vĩnh hằng.
Con là người trần, việc thưa gửi có bề chưa được thấu tỏ, con có tờ giấy cánh sớ xin kính cẩn tấu bày. Kính xin chư vị tôn thần cho con được thành tâm kính lễ.
Nam mô A Di Đà Phật ( đọc 3 lần)
Thiên di bản gia linh vị thần đài lễ (chắp tay vái lạy 3 lạy)
Phục dĩ (chắp tay vái lạy 1 lạy)
Phúc lộc thọ khang ninh, nãi nhân tâm chi kỳ nguyện, Thiên di bản gia linh vị thần đài lễ đắc hanh thông phát đạt, tai ương hạn ách bằng. Thánh lực dĩ giải trừ. Nhất nhiệm chí thành, thập phương cảm cách.
Viên hữu (chắp tay vái lạy 1 lạy)
Thượng phụng (chắp tay vái lạy 3 lạy)
Thiên thánh hiến cống, Hạ thiên tiến lễ bái thánh thần Thiên di hoá bản thần tài ban thờ đắc bình an thông thuận, gia đình đắc phát đạt hưng vượng (chắp tay vái lạy 1 lạy)
Kim thần tín chủ: … tuổi: … ( năm sinh hoặc năm tuổi) Ngũ thập tứ tuế.
Chủ Lễ: Tiến lễ bái thánh thần thiên di Thổ địa long mạch Tài thần
Đầu thành ngũ thể, tịnh tín nhất tâm, cụ hữu sớ văn chí tâm.
Thượng phụng – Cung duy (chắp tay lễ 3 lễ)
Đương xứ Thành Hoàng, Hành khiển thổ địa – Phúc đức chính thần vị tiền. Ngũ phương long mạch, Tiền hậu địa chủ, tiếp dẫn Tài thần vị tiền. Tôn thần động thừa, chiếu giám phục nguyện.
Trích: Văn khấn cổ truyền Việt Nam.
Các vật phẩm cần chuẩn bị để làm lễ giải ban thần tài
Các vật phẩm cần có để tiến hành nghi lễ, được chu toàn:
Hoa tươi.
Mâm ngũ quả tươi.
Hương đèn hoặc nến.
Giấy đinh giấy tiền.
Một đĩa gạo, muối, rượu trắng.
Nếu bạn thờ bà Cô ông Mãnh cần có thêm cau trầu cần chuẩn bị thêm: Cau trầu và nước. Nhưng bạn vẫn có thể có vật phẩm này, nếu không thờ bà Cô ông Mãnh.
Cách hóa đồ thờ và ban thờ
Vào ngày mùng một hoặc hôm rằm, gia đình cần dọn dẹp sạch sẽ ban thần tài trước ngày mùng một hay hôm rằm.
Lễ vật chuẩn bị đầy đủ. Khi tiến hành, quý gia đình vái lạy ba lễ trước ban thần tài. Và xin các ngài cho con được giải ban thần tài. Kính cẩn mời các ngài về thụ lễ và xin được mời các ngài đến địa chỉ mới và nhận nhiệm vụ mới.
Sau khi hương tàn, hóa giấy tiền giáy đinh. Quý chủ mang đồ lễ và ban thờ đến hồ hoặc sông hóa giải thả trôi. Các đồ vật bằng gỗ hoặc có thể đốt cháy, nên đốt cháy là điều cần thiết.
Hóa hoặc chuyển bát hương thờ ban thần tài
Trong quá trình hóa giải bát hương, xin quý chủ lưu ý. Đây là bát hương được thờ phụng tại ban thần tài. Tránh trường hợp nhầm với bát hương ở nhưng nơi thờ cúng khác.
Khi hương cháy hết, chân hương có thể được hóa cùng giấy đinh giấy tiền sau khi hành lễ. Và bát hương được mang theo thả trôi theo đồ thờ ban thần tài ở trên.
Kiến Vàng, kính chúc gia dình về nhà mới, tới địa chỉ kinh doanh mới. An khang thịnh vượng gặp nhiều tài lộc, sức khỏe dồi dào.
https://tongcongtykienvang.com/khong...i-lam-the-nao/
Cách đặt bàn thờ thổ công, thổ địa
Thổ Công (còn được gọi là Thổ Địa hay Thổ thần), là một vị thần trong tín ngưỡng Châu Á, cai quản một vùng đất nào đó. đặc biệt với những người làm kinh doanh thì việc thờ cúng thổ công càng trở nên quan trọng
Bàn thờ Thần tài chỉ được lập ở những nơi góc nhà, xó nhà chứ không phải nơi sạch đẹp, trang trọng như bàn thờ Tổ Tiên hay bàn thờ Thổ Công.
Play
Unmute
Progress: 0%
Remaining Time -0:02
Fullscreen
Bản chất Trường Khí phòng thờ (hay bàn thờ) thuộc tính Âm, không ưa sự phô trương, mang tính đối nội (ngay cả trong ngày giỗ hay Tết thì thờ cúng cũng là việc riêng của gia đình đó, người ngoài đến muốn thắp nén nhang phải xin phép gia chủ). Về Ngũ Hành thì bàn thờ thuộc hành Hỏa và Mộc là 2 hành hướng lên cao và cần sự chăm sóc mỗi ngày. Trừ bàn thờ Ông Địa Thần Tài là tín ngưỡng dân gian mọi nhà giống nhau, đặt gần cửa để nghinh tiếp tài lộc, còn lại bàn thờ gia tiên và tôn giáo riêng của mỗi gia đình (thờ Phật, thờ Chúa…) nên mang tính hướng nội, không cần phải đặt ngay trong phòng khách. Ngoài bàn thờ gia tiên, ở Nam bộ, người ta còn có trang thờ, bàn thờ ông Táo, thờ ông Địa, ông Thần Tài. Trang thờ được bố trí ở trên cao, nơi gian giữa. Trên trang thờ có đôi chân đèn nhỏ, lư hương, bình bông, mâm dĩa trái cây, chung rượu, tách nước. Bàn thờ ông Táo được đặt ở sau bếp. Đây cũng chính là vị “nhất gia chi chủ”, có nhiệm vụ coi sóc việc gia cư, định họa phước, trừ ma diệt quỷ. Riêng các vị Thần Tài, Ông Địa chỉ thờ dưới đất, trong góc hẹp, được lý giải bởi một truyền thuyết sau: Ngày xưa, có một người lái buôn tên là Âu Minh khi đi qua hồ Thanh Thảo được Thủy Thần cho một con hầu tên là Như Nguyệt. Âu Minh đem Như Nguyệt về nuôi, trong nhà làm ăn phát đạt, chỉ vài năm là giàu to. Về sau, đúng vào một hôm ngày tết, Âu Minh giận, bèn đánh Như Nguyệt. Sợ hãi, Như Nguyệt chui vào đống rác rồi biến mất. Từ đó, nhà Âu Minh sa sút dần, chẳng mấy lúc nghèo kiết. Người ta bảo Như Nguyệt là Thần Tài và người ta lập bàn thờ Như Nguyệt. Từ đó, ngày tết ta có tục kiêng hốt rác ba ngày đầu năm vì sợ hốt mất Thần Tài ẩn trong đống rác đổ đi, sự làm ăn sẽ không phát đạt, tiến tới được. Cũng có quan niệm cho rằng Thần Tài là một phiên bản của Thần Đất (Thổ Địa) – vị thần hộ mệnh của xóm làng, cai quản vùng trời, đất đai, phù hộ con người và gia súc trong xóm làng, mùa màng bội thu. Khi những cư dân từ miền Trung vào khai khẩn vùng đất Nam bộ, họ gặp phải rất nhiều khó khăn (thiên nhiên khắc nghiệt, thời tiết thất thường, thú dữ hoành hành…) và ý niệm trông mong vào các vị thần bắt đầu hình thành để giúp họ trấn an trên con đường mưu sinh. Thần Đất cũng là một trong các vị thần bản địa được họ mang vào phương Nam để thờ phụng, cầu mong cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Dần dà về sau, thương nghiệp phát triển, kinh tế hàng hóa phổ biến, nhu cầu mua bán, trao đổi phát triển, người ta cần vàng và tiền bạc hơn. Lúc đó, vàng, tiền bạc là thước đo của cuộc sống sung túc và nghèo hèn nên Thần Tài xuất hiện. Thần Tài chẳng qua là một dạng thức khác của Thần Đất. Nếu Thần Đất là vị thần bảo hộ cây trái, hoa màu, thể hiện tính lý nông nghiệp thì Thần Tài là vị thần trông coi tiền tài, vàng bạc, là dấu ấn của thời kỳ kinh tế thương nghiệp. Qua các thời kỳ, hình tượng của Thần Tài có ít nhiều thay đổi. Có lúc tượng Thần Tài đầu đội mũ cánh chuồn, hai tay để trên gối, mặc áo thụng, chân đi hài đảo sen, tay cầm túi vải để đựng tiền. Lại có lúc tượng Thần Tài ngồi với tư thế chân co, chân xếp, tay cầm bó lúa và đầu để trần. Sau này có loại tượng Thần Tài cầm xâu tiền hoặc cầm một thoi vàng xuồng. Mặc dù Thần Tài được xem là một hình tượng khác của Thần Đất, nhưng tựu trung, cả hai vị thần vẫn có quyền uy giúp cho con người làm ăn phát đạt, tài lai lộc tấn. Vì vậy, cư dân Nam bộ hiếm khi thờ cúng Thần Tài một mình, mà thường thờ cúng chung với Thổ Địa – vị thần cai quản đất đai, nhà cửa. Người ta không chỉ cúng Thần Tài vào ngày tết, mà cúng quanh năm, nhất là những gia đình chuyên nghề buôn bán. Người ta tin rằng chỉ khi nào lo cho vị thần này chu đáo thì ông mới phù hộ. Sáng sớm, khi mở cửa bán hàng người ta thắp hương cầu khẩn Thần Tài “độ” cho họ mua may bán đắt, cúng cho Ông Địa một ly cà phê đen kèm theo một điếu thuốc để ông “độ” cho trong ấm ngoài êm. Vào ngày tết, vai trò của Thần Tài càng được xem trọng hơn. Người ta lo trang hoàng nhà cửa, sửa soạn cho ông sạch sẽ, nếu vị thần này đã quá cũ hay bị hư thì sẽ thỉnh vị mới về. Họ tin rằng năm mới, mọi thứ đều ngăn nắp và Thần Tài có sạch sẽ thì làm ăn mới phát tài. SẮP ĐẶT BÀN THỜ THẦN TÀI – ÔNG ĐỊA Theo sơ đồ trên ta thấy : Trong cùng bàn thờ , dán trên vách là một tấm Bài vị như đã nói ở phần trên . Hai bên , bên trái ( từ ngoài nhìn vào ) là ông Thần tài , bên phải là Ông Địa . Ở giữa hai ông là một hũ gạo , một hũ muối và một hũ nước đầy . Ba hũ này chỉ đến cuối năm mới thay . Giữa bàn thờ là một bát nhang , bát nhang này khi bốc phải theo một số thủ tục nhất định ( sẽ nói rõ ở phần sau ) . Để tránh động bát nhang khi lau chùi bàn thờ , các bạn nên dùng keo 502 dán chết bát nhang xuống bàn thờ. Khi đang làm ăn tốt mà xê dịch bát nhang gọi là bị động bát nhang , mọi chuyện trở nên trục trặc liền . Theo nguyên lý ” Đông Bình – Tây Quả ” , các bạn đặt lọ hoa bên tay phải , đĩa trái cây bên tay trái ( Nhìn từ ngoài vào ) . Thường nên cắm hoa hồng , hoa cúc , hoa đồng tiền . Trái cây nên xắp ngũ quả ( 5 loại trái cây ) . Thường ở ngoài nơi bán đồ thờ cúng , người ta có một cái khay xếp 5 chén nước hình chữ Nhất – , các bạn nên bỏ khay và xếp 5 chén nước thành hình chữ thập , tượng trưng cho ngũ phương , và cũng là tương trưng cho Ngũ Hành phát sinh phát triển . Ông Cóc để bên trái ( Từ ngoài nhìn vào ) , sáng quay Cóc ra , tối quay Cóc vào . Ngoài cùng trên mặt đất , các bạn nên chọn một cái tô sứ thật đẹp , nông lòng , đổ đầy nước và ngắt những bông hoa trải trên mặt nước ( Cái này làm Minh Đường Tụ Thủy – Một cách giữ tiền bạc khỏi trôi đi . Một số người trong miền Nam , khi cúng Thần Tài – Ông Địa , thường cúng kèm theo một đĩa tỏi có 5 củ tươi nguyên đẹp đẽ hay nhiều khi là cả một bó tỏi . Họ cho rằng : ông địa thích tỏi lắm nên ta đặt trước mặt ổng là đúng cách , cho ổng có phương tiện để bài trừ ” các đạo chích vong binh ” ám muội . Người âm chớ cũng có người tốt kẻ xấu như thường , giống y người dương mình vậy . Tuy nhiên , qua nghiên cứu , dienbatn cho rằng , họ dùng bó tỏi đó để phòng chống các Tà sư làm ác , phá hoại bàn thờ nhà người ta bằng Bùa , Ngải . Tỏi có tác dụng tránh được điều đó ( Các người luyện Bùa , Ngải thường kiêng ăn Ngũ Vị Tân : Hành , Hẹ , Tỏi ,nén , Kiệu ) . CÁCH ĐẶT BÀN THỜ : Nguyên tắc đặt bàn thờ Thần Tài – Ông Địa là phải từ bàn thờ , ông Địa và Thần Tài phải quán được hết sự vào ra của khách . Có thể đặt theo hướng tốt của chủ nhà , có thể đặt theo cách hứng lấy dòng Khí bên ngoài khi vào nhà . Có thể dùng phương pháp Điểm Thần Sát để tính , chọn lấy các cung THIÊN LỘC ,QUÝ NHÂN để đặt vị trí bàn thờ . HƯỚNG BÀN THỜ THEO CUNG TỐT CỦA GIA CHỦ. 1/ THIÊN LỘC : Lộc là phương Lâm quan của Tuế Can , tính của Ngũ hành , Lâm quan tới cát . Lâm quan là thời đương thịnh , đang lên phơi phới , là đúng Đạo sinh thành , gần tới Vượng mà là Lộc , bởi đã Vượng thì Thái quá . Lộc là cách có Lộc ra chính môn . Nhà có cách này là cát khánh , rất tốt . Lộc ra chính Môn sẽ đem lại nhiều may mắn về tiền bạc , gia sản thăng tiến , điền trang vượng .Thường sinh người béo tốt , thông minh , tuấn tú lại khéo léo , tài năng Kinh doanh giỏi , làm ăn tiến phát . Tuy nhiên cũng cần phải lánh xa Sinh – Vượng Lộc , tránh không vong tử , tuyệt . Nếu Mộ , Không vong , Tử , Tuyệt thì Khí tán , không tụ , là vô dụng . Có Lộc cũng như không . Tài sản dù có như nước , rồi cũng tiêu tan hết . Đó gọi là Tuyệt Lộc . Nếu gặp Thai Khí thì mặc dù vẫn phát đạt , nhưng con trai tài hoa mà kiêu ngạo , con gái nhỏ thì khả ái nhưng ngỗ nghịch . Trong gia đình hay sinh nội loạn , cãi vã , cả ngày ồn ào khiến mọi người bất yên .Lộc cung là Cát cung , vì vậy ngoài cách đặt cửa chính ra , còn có thể đặt cửa phụ , nhà bếp , phòng khách , phòng làm việc , bàn thờ , giường ngủ . Tất cả được Lộc đều tốt . Tuy nhiênLộc phải cư đúng cung tài , là Lộc cư Lộc , mới thật là đắc cách , mới thật sự tốt đẹp . 2/ QUÝ NHÂN : Quý Nhân Thiên Ất là vị Thần đứng đầu cát Thần , hết sức tĩnh mà có thể chế ngự được mọi chỗ động , chí tôn mà có thể trấn được phi phù .
Nhà có chính môn ra Quý là Đại cát khánh , Gia đạo bình an , hòa thuận , hỉ Khí đầy nhà , luôn gặp may mắn . Quý nhân là sao cứu trợ , là Thần giải tai ách , nên nhà ra Quý nhân là gặp việc có người giúp đỡ , gặp ách có người giải cứu , gặp hung hóa cát. Sự nghiệp hiển vinh , công danh thành đạt , dễ thăng Quan , tiến chức , học hành thi cử nhất nhất đều tốt đẹp . Quý nhân gặp sinh , Vượng , thường sinh người hiếu lễ, khôi nguyên , tướng mạo phi phàm , tính tình nhanh nhẹn , lý lẽ phân minh , không thích mẹo vặt , thẳng thắn mà ôn hòa , khôi ngô tuấn tú . Nếu ngộ Không vong , Tử , Tuyệt thì nguồn Phúc giảm đi nhiều , hoặc nếu có mắc nạn cũng khó tránh , bởi nguồn cứu giải kém hiệu lực , người và gia súc bị tổn thất , kiện cáo , thị phi . Lại hay sinh người tính tình cố chấp , bảo thủ mà suốt đời vất vả , không nên người . Quý nhân ra Thai Khí , nếu lại ngộ Đào hoa thì nam , nữ tuy thông minh , tuấn tú , nhưng nam thì hiếu sắc , nữ thì dâm đãng , làm bại hoại Gia phong , lại hay mắc bệnh tật và trong nhà dễ có người tự ải , tự vẫn vì tình . Quý nhân là Cát Khí rất tôn quý , nên gia vào cung nào cũng rất tốt , ngoài cách đặt cửa chính ra còn có thể đặt cửa phụ , nhà bếp , phòng khách , phòng làm việc , bàn thờ , giường ngủ đều tốt . Đặc biệt bàn thờ đặt trên cung có Âm Quý nhân là đại cát khánh , như vậy sẽ được âm Linh phù trợ . Không được để phòng tắm , nhà vệ sinh vào cung Quý nhân , vì như vậy sẽ bị họa hại liên miên , nữ nhân thiếu máu , động thai , sinh con dù có đẹp đẽ nhưng cũng dấn thân vào con đường ô nhục , làm điếm , cuối cùng phải tự vẫn . Tài sản tiêu tan , yêu ma hoành hành , gia đình có người bị cướp bóc , chém giết máu me thảm khốc , bệnh tật đau khổ triền miên . Nếu để nhầm WC vào cung Âm Quý nhân thì tai họa khủng khiếp khó lường . Nhưng muốn đặt như thế nào thì trước mặt bàn thờ phải quang đãng , sạch sẽ ( Không như nhiều người nghĩ và đặt bàn thờ vào gầm , vào chỗ tối tăm ) . Ông Địa và Thần tài tuy thờ dưới đất nhưng tính rất thích thơm tho , sạch sẽ . Thường nên để sẵn một lọ nước hoa , lâu lâu lại xịt vào bàn thờ cho thơm SINH TÀI VƯỢNG VỊ VÀ VIỆC ĐẶT THẦN TÀI Hôm nay tôi muốn bàn về vấn đề mà có lẽ từ nhà thường cho đến cơ sở kinh doanh mua bán đều quan tâm : Đó là phương Sinh Vượng và cách đặt Tài Thần.
Phương vị này còn được gọi là ” TÀI VỊ ” , nó khác với phương Chính Thần trong Huyền Không học. Có 3 thuyết nói về phương vị này khác nhau :
_ Thuyết thứ nhất là theo trường phái Huyền Không , chọn phương Chính Thần làm phương của TÀI VỊ
_ Thuyết thứ hai là theo Phi Tinh của Huyền Không , cho rằng phương của Tam Bạch phi đến mới là phương của TÀI VỊ. Tam Bạch chính là : Nhất Bạch , Lục Bạch và Bát Bạch
_ Thuyết thứ ba là chọn phương chéo với cửa ra vào làm phương TÀI VỊ.
Riêng bản thân NCD thì chọn theo thuyết thứ 3. Hai thuyết trên nói cũng có lý nhưng không thích hợp lắm. Nếu 1 lúc nào đó Vương Khí Chính Thần hay Tam Bạch Tinh phi đến phương vị Cửa , chẳng lẽ đem Tài Thần ra đặt ở đấy à ? Huyền Không Phi Tinh có nhiều điểm rất hay , nó có thể giải thích các hiện tượng động đất , sụp lỡ , hỏa hoạn , trộm cướp , chết người , đau bệnh , làm ăn thua lỗ…vv…mà các trường phái Bát Trạch Minh Cảnh và Dương Trạch Tam Yếu không thể giải thích thỏa đáng. Vì các trường phái kia thuộc TĨNH , các phương vị , an sao đều cố định nên gặp nạn tai thì không thể nói được khi nhà và Sao đều vẫn tốt so với mạng gia chủ như lúc đầu. Còn trường phái Huyền Không thì các Phi Tinh luân chuyển , khó có được năm tháng ngày giờ trùng Sao lại như nhau ( năm và tháng còn có thể nhưng thêm ngày và giờ thì rất hiếm hoi ). Lại thêm khi các sao đi đơn lẻ thì khác , đi kèm với Sao khác thì có thể ý nghĩa biến đổi , hoặc còn ảnh hưởng với Sao của Trạch Vận khác nhau mà cho kết quả khác nhau , Thiên hình Vạn trạng. Sự huyền diệu của Phi Tinh là vậy , nhưng không phải lúc nào cũng cứng nhắc các Vượng Khí , Phi Tinh vào Dương Trạch , phải biết lúc nào áp dụng PP nào cho thích hợp. Không phải vô tình mà người ta bố trí bàn làm việc nơi góc chéo với cửa ra vào , bởi nó là nơi tập trung Quyền lực trong 1 căn phòng .
Theo khoa PT thì tại phương TÀI VỊ này , người ta thường đặt các cây xanh lá to hay các tượng Tài Thần . Phương TÀI VỊ này có 1 số điều nên và không nên như sau : 1/. Các điều NÊN ở TÀI VỊ :
_ Nơi phương TÀI VỊ nên sáng sủa , quang minh , không thể để tối ám. Sáng là năng lượng Dương , thích Hợp với Dương Khí. Sinh Khí không ưa nơi tối tăm , nên phương này tuyệt đối không nên để tối , nếu thiếu ánh sáng tự nhiên thì nên lắp thêm đèn
_ Nơi phương TÀI VỊ nên có Sinh Cơ , tức là chỉ nơi đây thiết bày cây xanh là tốt , phải nhớ là trồng loại cây luôn luôn xanh tươi. Nhất là các loại cây trồng bằng đất bùn ( nê thổ ) , không thích hợp các loại cây trồng trong nước. Nên kiếm các loại cây lá to , dầy , lá xanh mãi như cây Vạn Niên Thanh chẳng hạn
_ Nơi phương TÀI VỊ tốt nhất nên đặt bàn ngồi ở đấy , để cả nhà thường xuyên ngồi ở đó , hít thở không khí của TÀI VỊ hay nói cách khác là được thấm nhuần nguồn TÀI KHÍ nơi đó , sẽ giúp ích cho Tài Vận ngườitrong nhà
_ Nơi phương TÀI VỊ nên đặt giường ngủ là rất thích hợp. Đến đây thì có lẽ chúng ta đã hiểu vì sao các sách bày bán trên thị trường luôn khuyên ” đặt giường chéo góc với cửa phòng ” , có điều họ không nói rõ ra nguyên ủy bên trong thôi. 1/3 thời gian trong ngày con người nằm ngủ nghĩ nơi đó , thường xuyên hít thở nguồn TÀI KHÍ nơi đó cũng rất tốt cho Tài Vận vậy.
_ Nơi phương TÀI VỊ nên đặt vật hay biểu tượng Cát lành. Bởi phương này là nơi VƯợng Khí ngưng tụ , nếu ta đặt thêm 1 biểu tượng Cát Lành thì tốt càng thêm tốt , như gấm thêu thêm hoa vậy. 2/. Các điều KỴ của TÀI VỊ :
_ Nơi phương TÀI VỊ tối kỵ đặt các vật nặng như tủ sách , kệ sắt , máy móc nặng sẽ làm tổn hại đến Tài Vận của phòng đó
_ Nơi phương TÀI VỊ tối kỵ THỦY. Đấy cũng là lý do vì sao ở trên kia lại bảo nơi đây không thích hợp cho các loại cây trồng trong nước. Vì nơi đây là Cát Thần tọa vị , nay ta đem nước đến là Cát Thần lạc Thủy , khéo hóa ra vụng đấy !
_ Nơi phương TÀI VỊ phía sau nên có tường che chắn , không thể trổ cửa , trổ cửa sổ, có vậy mới hợp cách cục ” Tàng phong Tụ khí ” trong PT , Tài Vận mới tụ được
_ Nơi phương TÀI VỊ tối kỵ bị các vật nhọn xung xạ đến như cạnh bàn , cạnh tủ….vv..sẽ làm tổn hại Tài Khí nơi đó
_ Nơi phương TÀI VỊ là nơi Cát Thần tọa vị nên ĐẠI KỴ ô uế , dơ bẩn. Vì vậy không thể để vật ô uế , bụi bậm nơi đây
_ Nơi phương TÀI VỊ không nên để tối tăm , vì u tối thì Sinh Khí không sinh sôi được , sẽ ảnh hưởng đến Tài Vận , sinh kế 3/. Tài Thần
Nói đến Tài Thần thì có lẽ không ai không biết đấy là vị Thần ban phước lộc , tiền tài , của cải cho mọi người. Thần Tài mà hôm nay NCD đề cập đến không phải là Địa Chủ Tài Thần mà mọi người hay thờ. Địa Chủ Tài Thần là 1 khuôn bài vị với 2 dòng chữ ở giửa là : NGŨ PHƯƠNG NGŨ THỔ LONG THẦN TIỀN HẬU ĐỊA CHỦ TÀI THẦN mà mọi người hay thờ , 2 bên có 2 câu đối ( ” Kim chi sơ phát diệp _ Ngân thụ chánh hoa khai ” , hay là ” Thổ vượng nhân tòng vượng _ Thần an trạch tự an ” , hay là ” Thổ năng sinh Bạch ngọc _ Địa khả xuất Hoàng kim ” ). Ngày xưa người ta thường thờ Địa Chủ Tài Thần bên trong , bên ngoài thờ Môn Thần ; ngày nay do nhiều nơi không cho thờ cúng bên ngoài nên chỉ còn thờ mỗi Địa Chủ Tài Thần bên trong , coi như vị Thần này kiêm luôn việc bảo hộ cho Trạch Chủ , không cho tà ma xâm nhập.
Tài Thần mà NCd đề cập ở đây là tượng Văn-Võ Tài Thần theo quan niệm người Hoa ( vì vốn dĩ thuật PT truyền từ TQ sang đây nên NCD cũng soạn theo tư liệu gốc của người Hoa vậy ). a/VĂN TÀI THẦN :
Chia làm 2 là Tài Bạch Tinh Quân và Tam Đa Tinh
_ Tài Bạch Tinh Quân : Ngoại hình như 1 vị trưởng giả giàu có , mắt trắng râu dài , người mặc áo gấm thắt đai ngọc , tay trái ôm 1 thỏi Kim Nguyên Bảo ( thỏi vàng mả người ta hay để chưng nơi Thần Tài , nó cũng là 1 dụng cụ hóa sát trong PT đó chứ ) , tay phải ôm tờ giấy cuốn lại có in dòng chữ ” Chiêu Tài Tiến Bảo ”
Theo truyền thuyết ông vốn là Thái Bạch Kim Tinh trên thượng giới , chức tước là ” Đô Thiên chí phú Tài Bạch Tinh Quân ” chuyên quản tiền tài vàng bạc của thiên hạ. Nên người ta hay đặt tượng ông nơi TÀI VỊ , có người còn thờ ông nữa (TƯỢNG DI LẶC PHẬT VƯƠNG Ảnh) Di-Lac-Bouddha-a-venir-1.jpg _ Tam Đa Tinh : Nghe tên thì thấy lạ , nhưng thật ra đó là Phước Lộc Thọ Tam Tinh đấy thôi.
Phúc Tinh tay ôm đứa bé tượng trưng có con thì vạn sự đủ phúc khí. Lộc Tinh mặc triều phục sặc sỡ , tay ôm Ngọc Như ý , tượng trưng thăng quan tiến chức , thêm tài tăng lộc. Thọ Tinh tay ôm quả đào thọ , mặt lộ vẻ hiền hòa , hạnh phúc tượng trưng cho an khang trường thọ. Trong 3 vị chỉ có Lộc Tinh mới là Tài Thần , nhưng do xưa nay Tam vị nhất thể đi chung không rời , nên người ta luôn làm chung tượng của 3 vị. Nếu đặt cả Tam Tinh vào TÀi VỊ thì cả nhà an vui , hạnh phúc , phúc lộc song thu
Những người giữ chức văn , những người làm công nên đặt tượng Văn Tài Thần nơi TÀI VỊ , hay thờ Văn Tài Thần
Các tượng Văn Tài Thần nên đặt quay mặt vào b/ VŨ TÀI THẦN :
Cũng chia làm 2 là : Triệu Công Minh miệng đen mặt đen , và Quan Thánh Đế ( còn gọi là Quan Công ) mặt đỏ râu dài
_ Triệu Công Minh : Vị thần này nếu quý vị nào có xem qua truyện Phong Thần ắt biết tiểu sử ông. Sau khi tử trận lên bảng Phong Thần , ông được Khương Tử Nha sắc phong làm ” Chính Nhất Long Hổ Huyền Đàn chân quân ” thống lĩnh 4 vị Thần : Chiêu Bảo , Nạp Trân , Chiêu Tài , Lợi Thị
Ông vừa giúp tăng tài , tiến lộc vừa có thể hàng ma phục yêu , nên 1 số người Hoa cũng thích thờ ông , hay đặt tượng ông nơi TÀi VỊ , vừa giúp vượng tài , vừa giúp bình an.
_ Quan Thánh Đế : Nói đến Ngài , có lẽ không cần xem truyện Tam Quốc thì ai cũng từng nghe và biết. Gần như 99% người Hoa đều có thờ Quan Thánh Đế trong nhà cả ! Ông không không chỉ tượng trưng chio Chính Khí sáng lòa , mà còn có thể giúp cho người chiêu tài , tiến bảo , làm ăn thuận lợi , tai qua nạn khỏi , trừ tà hộ thân.
Những người làm quan võ , theo nghiệp lính , những ông chủ kinh doanh nên thờ Vũ Tài Thần hoặc đặt tượng Vũ Tài Thần nơi phương TÀI VỊ.
Các tượng VŨ Tài Thần nên đặt hướng ra cửa. Trên nóc bàn thờ Thần Tài – Ông Địa , người ta thường đặt tượng của Di Lặc Phật Vương hay các câu chú Phạn tự ( tượng trưng cho cơ quan chủ quản các Thần ). Mục đích là để có sự quản lý , không cho các vị Thần làm điều sai trái .
Nguồn xem thêm: Cách đặt bàn thờ thổ công, thổ địa (http://kientrucsuvietnam.vn)
https://www.webtretho.com/forum/f112...o-dia-1832366/
Con lạy chân linh quan thần linh, chân linh quan thổ địa, chân linh quan táo quân, chân linh chư vị thần tài, ông tiền chủ, bà tiền chủ. Điền thổ tại đất- số nhà….
http://phongthuynhatnam.com/article/...l#.XD7o1m-LSUk
Chúng con lại sai các tiểu quỷ có uy lực lớn cùng thần thổ địa mà hộ vệ họ
LIỆT VỊ TÔN THẦN
https://upanh1.com/images/Untitledff16b4282ae82162.png
Hiệu hiệu Kim ba hàm Ngọc trản – Phi phi Bạch lộ sái Quỳnh tương
Kim bằng Bí ngữ lực gia trì – Cấu uế Đàn tràng tất Thanh tịnh.
Ôm. Ba tê tra sThi tha ra na đi stra. Sva ha. (3 lần)
(Úm. Bắc đế tra, thiên thần la na, địa tra. Sa bà ha)
Nam mô Ly cấu Địa Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)
https://taaonamtri.wordpress.com/201...cho-vong-linh/
https://www.wattpad.com/37699523-kho...BB%A3p/page/12
VIỆC TỘC, ĐÔI ĐIỀU GHI NHẬN 13
Về bài “Văn cúng đất đai”
Sàigòn ngày 3/11/2016 (4/10 Bính thân)
Phan Bá Lương (2/16)
Thần linh Việt Nam: Quan Âm và các vị thần linh Tứ Phủ
Thần linh Việt Nam: Quan Âm và các vị thần linh Tứ Phủ
Đây thực chất là bài văn “cúng thần linh” trong các dịp tế lễ Tổ tiên ở gia đình hay dòng tộc. Theo nguyên tắc thì “cúng thần linh” phải được cúng trước và khi nào xong việc “cúng thần linh” mới được cúng Tổ tiên (không phải vừa mới đốt nhang khấn vái thần linh xong thì xoay sang đốt nhang và khấn vái Tổ tiên như nhiều nơi vẫn thường làm). Lý do phải cúng thần linh trước là vì những vị thần linh này có những uy lực nhất định mà không không linh hồn thường nào dám lại gần, nếu cúng thần linh chưa “lễ tất” mà cúng tiếp Tổ tiên thì không có Tổ tiên nào dám bước vào dự, và như vậy lễ cúng Tổ tiên thành vô nghĩa.
Ở miền nam lễ cúng này thường được gọi là “cúng đất đai”; khác với miền trung “cúng đất đai” là cúng người khai khẩn đầu tiên mãnh đất mà ta đang ở theo tinh thần uống nước nhớ nguồn, việc cúng này miền nam lại gọi là “cúng tiền chủ”.
Có một chuyện vui là vì được gọi là “cúng đất đai” nên có người cho rằng “phải để mâm cúng này ở dưới đất” mới đúng.
Thần linh ở đây bao gồm cả “thần ngoại, tức thần ở ngoài phạm vi nhà” và “thần nội, tức thần ở trong nhà”. Thần ngoại thì thật là rộng lớn, vô cùng (chúng ta không thể nào biết hết được), còn thần nội chỉ có “Ông táo” (gồm ba thần hiệu Đông trù tư mạng táo phủ thần quân, Thổ địa long mạch tôn thần, Ngũ phương ngũ thổ phúc đức chính thần) và “Thần tài” (có thần hiệu Ngũ phương ngũ thổ long thần, Tiền hậu địa chủ tài thần).
Tôi vừa tìm được một bản “Văn cúng đất đai” có nội dung như sau (không ghi lại phần đầu về lý do, ai tổ chức, địa điểm, ngày tháng v.v…):
KỈNH THỈNH TẾ VU
1-Khai hoàng đại đế, hậu thổ nguyên quân bổn sứ thành hoàng đại vương tôn thần, đương canh Thổ Địa phước đức chánh thần.
2-Đông Trù Tư Mạng Táo Phủ Thần Quân đương niên tôn thần.
3-Đương niên Hành Kiến, Hành Binh tôn thần.
4-Thái Giám Bạch Mã lợi vật tôn thần.
5-Kiêm niên thái tuế chí đức tôn thần.
6-Ngũ phương, Ngũ đế, Ngũ thổ Long thần.
7-Ngũ hành tiên nương huyền vũ tôn thần.
8-Hậu thổ nguyên quân tôn thần.
9-Ốc tiêu sơn hạTiêu diện đại sĩ Diệm, khẩu quỷ vương tôn thần.
10-Cửu tiên Huyền Nữ tôn thần.
11-Tả ban bổn sứ Thần Quang chư tôn thần.
12-Chánh Đức Tài Thần, Hỉ thần chi Thần.
13-Đại hạng, tiểu hạn chi thần.
14-Thủy long ngọc nữ chi thần.
15-Cao Sơn chi thần.
16-Cung thỉnh Bản gia tiên sư bản viên thổ công Chư vị tôn thần.
KỴ CẬP
Tả ban chư dương hữu ban chư âm. Chư tam thập lục thổ. liệt vị thổ thần, nội gia viên trạch, ngoại gia viên cư. Đồng lai lâm hưỡng.
Phục Duy Bái Thỉnh
Trước hết, thử tìm xem các thần hiệu được nêu ở trên thuộc về những vị thần nào, trong dân gian được thờ cúng ra sao …:
1-Khai hoàng đại đế, hậu thổ nguyên quân bổn sứ thành hoàng đại vương tôn thần, đương canh Thổ Địa phước đức chánh thần. Không biết đây là mấy vị thần, nhưng có thể suy đoán là ba vị thần, đó là:
1a.Khai hoàng đại đế. Không tìm thấy thần hiệu này, mà chỉ thấy có thần hiệu Ngọc hoàng thượng đế, là vị vua tối cao của bầu trời, là chủ của Thiên đình theo quan niệm của Trung Hoa và Việt Nam. Tùy theo các triều đại, vị vua thần này được gọi dưới nhiều danh hiệu khác nhau như Hoàng thiên, Hạo thiên, Thiên đế, Thái nhất, Thái vi ngọc đế, Tinh chủ thái vi viên, Phạm thiên ngọc đế, Tử vi ngọc đế, Ngọc hoàng đạo quân, Thiên Đế, Ngọc Đế, Đế Tề…
Ngọc hoàng thượng đế
Ngọc hoàng thượng đế
1b.Hậu thổ nguyên quân bổn sứ thành hoàng đại vương tôn thần. Ở đây viết sai “bổn xứ = đất của ta” thành “bổn sứ = sứ giả của ta”. Tương tự như trên, cũng không tìm thấy thần hiệu này, mà chỉ thấy có thần hiệu Bản cảnh Thành hoàng hay Thành hoàng Bản cảnh, là vị thần trông coi một khu vực nào đó. Thành hoàng xuất phát từ chữ Hán: Thành là cái thành, hoàng là cái hào bao quanh cái thành; khi ghép chung lại thành một từ dùng để chỉ vị thần coi giữ, bảo trợ cho cái thành. Bản cảnh là cõi đất nơi mình được thờ. Trong nhiều trường hợp, thần không phải là con người bằng xương bằng thịt, nên đa phần không có tượng mà chỉ thờ một chữ “thần” và thường cũng chỉ có mỹ hiệu chung chung là “Quảng hậu, chính trực, đôn ngưng” (tức rộng rãi, ngay thẳng, tích tụ)[1].
Bổn cảnh thành hoàng
Bổn cảnh thành hoàng
1c.Đương canh Thổ Địa phước đức chánh thần. Ở đây viết sai “đương cảnh = cõi đất đang được thờ” thành “đương canh = cõi đất đang có”. Thổ địa là vị thần thủ hộ về đất đai, nhà ở, có thần hiệu là Phúc đức chính thần, còn được gọi là Hậu thổ, Xã thần, Xã công, Thổ địa … Ngày xưa lấy nông nghiệp làm gốc, có đất mới có thể sản xuất ra lương thực để sinh sống, vì thế mà có sự sùng bái và biết ơn rất lớn, rồi dần dần con người sáng tạo nên một vị thần để thờ phụng, đó chính là Thổ địa phúc đức chính thần.
Thổ địa phước đức chính thần
Thổ địa phước đức chính thần
2–Đông Trù Tư Mạng Táo Phủ Thần Quân đương niên tôn thần. Đây là ba vị Táo quân trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, được hóa thành “2 ông 1 bà”, dân gian quen gọi là Táo Quân hoặc Ông Táo, hay Định phúc Táo quân [2], gồm thần Thổ công trông coi việc bếp (có thần hiệu là Đông trù tư mệnh táo phủ thần quân); thần Thổ địa trông coi việc nhà cửa (có thần hiệu là Thổ địa long mạch tôn thần); và thần Thổ kỳ trông coi việc chợ búa (có thần hiệu là Ngũ phương ngũ thổ phúc đức chánh thần). Ba vị Táo quân xưa nay vẫn trấn nhậm một chỗ không có thay đổi, vì vậy mà không cần nêu “đương niên = đang ở năm nay”. Ngoài ra, như đã nêu trên, đây là ba vị với thần hiệu riêng biệt nhưng luôn đi chung với nhau; nêu và thỉnh mời chỉ một vị là thiếu sót lớn.
Táo quân
Táo quân
3-Đương niên Hành Kiến, Hành Binh tôn thần. Ở đây viết sai “Hành khiển = văn quan cao cấp phụ tá cho Tướng quốc, hoặc cầm đầu một đạo” thành “Hành kiến = ? (không có nghĩa)”. Đây là những vị thần trông coi việc nhân gian trong một năm, xem xét mọi việc hay dở của từng người, từng gia đình, từng thôn xã cho đến từng quốc gia để định công luận tội, tâu lên Thượng đế. Thượng đế, căn cứ vào bản công tội đó để chỉ thị cho người mới xuống cai trị biết để định công, tội; hết năm thì những vị thần cũ bàn giao lại công việc cho những vị thần mới, cúng giao thừa ở ngoài trời là nhằm tiển đưa các vị cũ và đón các vị mới. Ba vị thần này có thần hiệu là Thái tuế chí đức tôn thần (đứng đầu, thường gọi tắt là Hành khiển, dưới đây viết tắt là Hk), Hành binh chi thần (Phụ tá về võ, dưới đây viết tắt là Hb), và Phán quan (Phụ tá về văn, dưới đây viết tắt là Pq). Cụ thể 36 vị thần được phân công trông coi trong 12 năm là:
-Năm Tý: Thái tuế chí đức tôn thần Chu vương Hành khiển (Hk), Thiên ôn Hành binh chi thần (Hb), Lý tào Phán quan (Pq).
-Năm Sửu: Triệu vương Hk, Tam thập lục thương Hb, Khúc tào Pq.
-Năm Dần: Ngụy vương Hk, Mộc tinh Hb, Tiêu tào Pq.
-Năm Mão: Trịnh vương Hk, Thạch tinh Hb, Liễu tào Pq.
-Năm Thìn: Sở vương Hk, Hoả tinh Hb, Biểu tào Pq.
-Năm Tị: Ngô vương Hk, Thiên hao Hb, Hứa tào Pq.
-Năm Ngọ: Tần vương Hk, Thiên mao Hb, Ngọc tào Pq.
-Năm Mùi: Tống vương Hk, Ngũ đạo Hb, Lâm tào Pq.
-Năm Thân: Tề vương Hk, Ngũ miếu Hb, Tống tào Pq.
-Năm Dậu: Lỗ vương Hk, Ngũ nhạc Hb, Cự tào Pq.
-Năm Tuất: Việt vương Hk, Thiên bá Hb, Thành tào Pq.
-Năm Hợi: Lưu vương Hk, Ngũ ôn Hb, Nguyễn tào Pq.
Có 36 vị thay phiên trấn nhậm cõi trần, nên năm nào phải ghi thần hiệu của năm đó, không nên ghi chung là Cựu niên (= năm cũ) hay Đương niên (= năm nay) được. Ngoài ra, mỗi năm có ba vị, một vị chánh và hai vị phó, bài văn cúng chỉ nêu có hai thần hiệu (bỏ mất vị phán quan) là thiếu sót lớn.
4-Thái Giám Bạch Mã lợi vật tôn thần. Về thế tục, Thái giám bạch mã lợi vật tôn thần, gọi tắt là Bạch mã thái giám, được thờ ở đình làng và được hiểu như là con vật cỡi (Bạch mã) và là thuộc hạ hầu cận (Thái giám/hoạn quan) của thần Thành hoàng. Còn trong Phật giáo, ngựa trắng/bạch mã được coi là Bồ tát (Balaha) hay chính là Phật. Cụm từ “Thái giám” được hiểu do người lưỡng tính là một thực thể mang những dấu hiệu của hai giới, nhưng còn ở thể hợp nhất chưa phân khai thành hai có thuộc tính đối lập. Người lưỡng tính mang dấu hiệu của sự toàn vẹn tinh thần, bất phân tự nguồn cội. Nói chung, Bạch mã thái giám là mỹ hiệu được tạo thành từ tâm thức lưỡng tính, biểu thị sự vẹn toàn.
Trang trí hình ngựa ở Minh hương phật tự Hội An (Quảng Nam)
Trang trí hình ngựa ở Minh hương phật tự Hội An (Quảng Nam)
5-Kiêm niên thái tuế chí đức tôn thần. Ở đây viết sai “kim niên = năm nay” thành “kiêm niên = gấp đôi năm”. Thật ra Thái tuế chí đức tôn thần chính là thần hiệu đầy đủ của các vị Hành khiển đã nêu ở 3- bên trên. Vì vậy không cần phải nêu phần thần hiệu này vì trùng lắp.
6-Ngũ phương, Ngũ đế, Ngũ thổ Long thần. Không tìm thấy thần hiệu này mà chỉ thấy có danh hiệu chung là Ngũ phương Ngũ đế tức là năm vị (ngũ lão) cai quản năm phương bảo hộ cho các sinh linh trên thế gian; khi nêu Hành khiển, Hành binh, Phán quan đều phải nêu Ngũ phương Ngũ đế. Ngũ phương là Đông phương thủy lão, Nam phương chân lão, Trung ương nguyên lão, Tây phương hoàng lão, Bắc phương huyền lão. Ngũ đế là Đông phương thanh đế, Nam phương xích đế, Trung ương hoàng đế, Tây phương bạch đế, Bắc phương hắc đế. (Lưu ý trong bài văn chỉ cần ghi chung Ngũ phương Ngũ đế là đủ).
7-Ngũ hành tiên nương huyền vũ tôn thần. Không tìm thấy thần hiệu này mà chỉ thấy có thần hiệu Ngũ hành nương nương. Ngũ hành là năm loại vật chất căn bản, gồm: Kim (kim loại), Mộc (gỗ), Thủy (nước), Hỏa ( lửa) và Thổ (đất), năm vật chất ấy vận động, phát triển theo hướng “tương sinh” và “ tương khắc”, biểu thị quy luật sinh thành/vận động của toàn vũ trụ và cả trong cuộc sinh tồn của nhân loại. Lần hồi thuyết Ngũ hành được tín ngưỡng hóa thành sự thờ phượng “vạn vật linh thiêng”. Tại nước ta, tục thờ Ngũ hành nương nương xuất hiện muộn, và mãi đến năm Duy Tân thứ 5 (1911), nhà Nguyễn mới có sắc phong chung là “Tự hóa Mạc vận Thuận thành Hòa tự Tư nguyện Trang huy Dực bảo Trung hưng thượng đẳng thần”, và nêu tên năm Bà là Thổ đức thánh phi, Kim đức thánh phi, Thủy đức thánh phi, Mộc đức thánh phi và Hoả đức thánh phi. Dân gian tin rằng năm vị nữ thần Ngũ hành có những quyền năng nhứt định đối với các nghề liên quan đến đất đai, củi lửa, kim khí, nước nôi và cây gỗ, nói chung là hầu hết tầng lớp thứ dân trong xã hội. Lúc đầu, Ngũ hành nương nương thường được thờ trong những “miếu Ngũ hành”. Ngày nay, những ngôi miễu Bà xuất hiện khắp nơi, người ta thờ Bà bằng bài vị chữ Nho, nhưng lần hồi bài vị được thay bằng tượng đúc, rồi từ màu sơn thân tượng cho đến y áo, khăn choàng khoác ngoài … đều có màu riêng biệt: Kim bà thì mặc áo trắng, Mộc bà áo xanh, Hỏa bà áo đỏ, Thủy bà áo đen (hoặc tím), và Thổ bà áo vàng.
Ngũ hành nương nương
Ngũ hành nương nương
8-Hậu thổ nguyên quân tôn thần. Đây là vị thần của đất nước Nam. Khi xưa vua Lý Thánh Tông đi thuyền chinh nam đến cửa biển bỗng nhiên trời mưa to gió lớn, sóng cuộn trùm lên, xa trông như những dãy núi, đoàn thuyền không thể qua được. Thần đã báo mộng sẽ giúp vua vượt qua. Nhà vua tỉnh dậy sai những người thân cận tìm khắp các ngọn đồi trên bờ thì thấy một khúc gỗ có nét như người mà nhà vua nằm mộng đã gặp. Vua liền sai mang đặt ở thuyền rồng, đốt hương cầu đảo, ban hiệu là Hậu thổ phu nhân. Chỉ trong giây lát gió lặng sóng yên, đoàn thuyền khởi hành thuận lợi. Sau khi thắng trận trở về, vua đem tượng về kinh đô thờ cúng. Năm Trùng Hưng thứ nhứt (1285), sắc phong là Hậu Thổ thần Địa kỳ Nguyên quân, sang năm thứ tư được gia phong hai mỹ tự Nguyên Trung. Đến đời Trần Anh Tông, gặp lúc hạn hán, nhà vua bèn dựng đàn để cầu đảo, thần bèn thác mộng báo với vua rằng trong đền có Câu mang thần quân có thể làm mưa được. Nhà vua tỉnh dậy, sai quan Hữu ty đến làm lễ, quả nhiên mưa lớn lan tràn. Nhà vua bèn ban sắc phong cho thần là Ứng thiên hậu thổ phu nhân. Sau lại tôn phong là Ứng thiên Hóa dục Nguyên trung Hậu thổ Địa kỳ Nguyên quân.
9-Ốc tiêu sơn hạ Tiêu diện đại sĩ Diệm, khẩu quỷ vương tôn thần. Không tìm thấy thần hiệu này mà chỉ thấy thần hiệu Tiêu diện đại sĩ (còn gọi là Tiêu diện đại quỷ vương, Diện nhiên đại sĩ, Diện nhiên quỷ vương, Diện nhiên, Ông Đại sĩ, Đại sĩ vương, Diệm khẩu quỷ vương) là vị thần của Phật giáo và Đạo giáo, có thân hình gầy ốm, miệng luôn bốc cháy lửa và cổ họng nhỏ như cây kim, do vì đời trước tham lam, keo kiệt, bỏn xẻn nên bị quả báo như vậy. Vị này thống lãnh tất cả chúng Ngạ quỷ và người ta cho đó là hóa thân của Bồ tát Quán thế âm. Vào dịp tiết Trung nguyên (rằm tháng bảy), trước khi vái lạy tổ tiên, người ta thường bái tế Diện nhiên Đại sĩ. Mọi người đều tin rằng vào dịp này, các vong linh trên dương thế đều do vị thần này quản lý; chuyện kể rằng có một đêm nọ trong khi đang hành thiền, vào canh ba tôn giả A Nan chợt nhìn thấy một con quỷ đói thật hung tợn tên là Diệm khẩu có thân hình gầy ốm, miệng rực cháy lửa và cổ họng nhỏ như cây kim. Con quỷ ấy đến trước mặt tôn giả thưa rằng ba ngày sau mạng của tôn giả sẽ hết và sanh vào thế giới Ngạ quỷ (ma đói). Nghe vậy, tôn giả A Nan vô cùng ngạc nhiên. Con quỷ cho biết nếu tôn giả có thể cúng dường thức ăn và nước uống cho trăm ngàn ức chúng Ngạ quỷ, cho vô số đạo sĩ Bà la môn, cho chư thiên và các vị thần cai quản việc làm của con người, cho quá cố các vong linh, dùng cái hộc của nước Ma Kiệt Đà để cúng dường cho họ 49 hộc thức ăn và nước uống, và vì họ mà cúng dường cho Tam Bảo, như vậy tôn giả sẽ được tăng thêm tuổi thọ, cùng lúc sẽ làm cho chúng tôi thoát khỏi cảnh khổ đau của Ngạ quỷ và sanh lên cõi Trời. Sau khi A Nan bạch lên đức Thế tôn, Ngài bèn chỉ cho nghi thức hành trì và thiết cúng thí thực. Từ nguồn gốc này, lễ cúng Thí thực hay Chẩn tế cho âm linh cô hồn ngạ quỷ ra đời cho đến ngày nay, và trong các đàn tràng chẩn tế thường có thiết bàn thờ Tiêu diện Đại sĩ.
Tiêu diện đại sĩ
Tiêu diện đại sĩ
Đạo giáo gọi vị này là U minh Giáo chủ Minh ty Diện nhiên Quỷ vương Giám trai Sứ giả Vũ lâm Đại thần, tôn xưng là Phổ độ Chơn quân; thường gọi là Ông Phổ độ. Tiêu diện Đại sĩ được xem như là hóa thân của Thái ất Cứu khổ Thiên tôn, chủ tể thống lãnh các quỷ, hộ trì hai cõi âm dương. Vị này thường trú duới núi Ốc Tiêu, làm thống soái các loài quỷ ở cõi âm, được hưởng hương hỏa cúng cấp của con người. Hình tượng của Ngài thường được vẽ với trên đỉnh đầu có hai sừng, mặt xanh, răng nanh nhọn hoắt, cao lớn uy vũ; trên đầu lại có hình tượng Quan Thế Âm Bồ Tát.
10-Cửu tiên Huyền Nữ tôn thần. Ở đây viết sai “cửu thiên = 9 tầng trời [3]” thành “cửu tiên = 9 vị tiên”. Cửu thiên huyền nữ (Huyền nữ, Cửu thiên nương nương) là một vị thần trong thần thoại, theo đó, Cửu thiên huyền nữ là người đã chỉ dạy cho Hoàng đế đánh bại Xi Vưu. Trong trận Trác Lộc, quân Hoàng đế bị quân Xuy Vưu vây chặt, không nhận định được phương hướng, nên mỗi khi đánh ra giải vây thường bị Xuy Vưu đánh bại phải tháo lui. Lúc bấy giờ, Cửu thiên huyền nữ hiện ra dạy Hoàng đế chế ra xe hai bánh có bộ phận chỉ rõ hướng Nam, để phân định phương hướng và vị trí tiến quân, lại dạy cho binh pháp. Nhờ vậy, Hoàng đế củng cố binh mã, từ trong đánh ra làm cho quân Xuy Vưu thảm bại, Xuy Vưu bị bắt sống. Sau đó, Cửu thiên hHuyền nữ cũng thường ứng hiện giúp vua Hoàng đế và nhiều người như giúp Hoàng hậu Nguyên Phi chế ra nghề nuôi tằm lấy tơ dệt lụa, giúp ông Dung Thành chế ra máy “Cai thiên” để xem thiên tượng, giúp ông Thương Hiệt chế ra chữ viết tượng hình để thay cho việc thắt nút ghi nhớ các sự việc. Cửu thiên huyền nữ còn truyền khoa Lục nhâm độn giáp và phép bói 64 quẻ Dịch để đoán kiết hung.
Cửu thiên huyền nữ
Cửu thiên huyền nữ
11-Tả ban bổn sứ Thần Quang chư tôn thần. Ở đây viết sai “bổn xứ” thành “bổn sứ”; “thần quân (hay thần quan)” thành “thần quang”; chỉ có “tả ban” mà không có “hữu ban” là thiếu sót lớn [4]. Cách nêu chính xác trong trường hợp này phải là Tả ban liệt vị tôn thần và Hữu ban liệt vị tôn thần, có thể hiểu đó là những vị thần cấp dưới đứng vào bên trái và phải của vị thần đứng đầu.
12-Chánh Đức Tài Thần, Hỉ thần chi Thần. Đây là các vị thần tạo việc tốt, và không có thần hiệu “chánh đức” đi kèm.
13-Đại hạng, tiểu hạn chi thần. Đại hạn (viết sai thành đại hạng, nhưng lại viết đúng tiểu hạn), Tiểu hạn, Nguyệt hạn, Mệnh hạn… được dùng trong việc giải đoán là số tử vi của một người nào, không phải là thần linh để nêu trong văn cúng.
14-Thủy long ngọc nữ chi thần. Ở đây chỉ có thần hiệu “Thủy long thần nữ” và “Thủy long thánh mẫu” mà không có “Thủy long ngọc nữ chi thần”.
14a.Thủy long thần nữ là vị thần cai quản dưới thủy cung, là một trong hai đệ tử của bà Thiên Y A Na là thần nước và thần núi, cả 2 đều là nữ. Thần có công bảo vệ đất nước, che chở muôn dân, được phong tặng là Trung đẳng thần với các cặp mỹ tự: Uông nhuần, Dực bảo, Trung hưng. Cư dân vùng sông nước lập miếu thờ Thủy long thần nữ với niềm tin có được sự che chở bảo bọc, gặp điều thiện tránh điều ác để có một cuộc sống ấm no hạnh phúc, an cư lạc nghiệp. Dân gian còn cho rằng Thủy long thần nữ chính là mẹ của hai cậu là cậu Tài và cậu Quý (cũng là hai vị phúc thần bảo hộ cho vùng sông nước) nên từ đây đã hình thành tín ngưỡng “thờ Bà Cậu” (Bà là bà Thủy long; cậu là cậu Tài, cậu Quý).
14b.Thủy Long Thánh Mẫu (hay thần nữ Kim Giao) được xem là người có công khai phá huyện đảo Phú Quốc. Tương truyền, bà thuộc dòng dõi vua chúa Cao Miên, do bị lật đổ, nên đã trốn sang Phú Quốc để sống. Tại đây, bà thiết lập một đồng cỏ rộng lớn cho đàn trâu mà bà mang theo, đồng thời tuyển mộ người đi khai khẩn đất đai để trồng trọt. Ngày nay, những cánh đồng trồng lúa ấy vẫn còn vết tích (dân địa phương gọi là đồng Bà), trên đồng còn nhiều cột cây trai, vết tích của những chuồng trâu thuở nọ; dọc theo sông Cửa Cạn còn một vũng nước sâu gọi là búng Dinh Bà (đây là nơi bà lập dinh trại ngày xưa). Có thuyết nói bà chết ở Cửa Cạn (Phú Quốc), sau đó vua Cao Miên cho đem hài cốt về nước. Thuyết khác cho rằng bà chết ở đảo Phú Dự. Lại có thuyết nữa cho rằng, khi dòng họ bà khôi phục lại đế nghiệp, bà trở về Cao Miên. Truyền thuyết cũng kể rằng, bà đã từng cưu mang chúa Nguyễn Phúc Ánh trong những ngày lưu lạc trên đảo. Người dân Phú Quốc rất tôn kính bà, coi bà như người tiên phong khai phá đảo, tôn bà là Thủy Long Thánh Mẫu. Hằng năm, dân chúng tổ chức lễ cúng tế bà vào ngày rằm tháng Giêng âm lịch. Hiện nay, huyện đảo Phú Quốc có hai ngôi đền thờ bà, một ở xã Cửa Cạn, gọi là Dinh Bà Trong, một ở thị trấn Dương Đông, gọi là Dinh Bà Ngoài .
15-Cao Sơn chi thần. Thần Cao Sơn hay Cao Sơn đại vương là tên gọi của nhiều vị thần núi khác nhau trong truyền thuyết Việt Nam, bao gồm:
-Cao Sơn đại vương ở núi Tản Viên trong tam vị Tản Viên sơn thánh, tên là Hiển, sống ở thời Hùng Vương thứ 18, có công giúp vua Hùng đánh thắng quân Thục.
-Cao Sơn đại vương là một trong năm mươi người con theo mê Âu Cơ lên núi, được phong chức Lạc tướng cai quản vùng núi phía tây Ninh Bình, sau được dân làng Kim Liên ở Hà Nội rước về thờ và được phong trấn phía nam kinh thành (Thăng long tứ trấn).
Chính điện đình Kim Liên (đền Cao Sơn), trấn nam của Thăng Long tứ trấn
Chính điện đình Kim Liên (đền Cao Sơn), trấn nam của Thăng Long tứ trấn
16-Bản gia tiên sư bản viên thổ công Chư vị tôn thần.
-Tiên sư (còn gọi là Tổ sư, Thánh sư, Nghệ sư) là ông tổ của một nghề nào đó, nói cách khác, đây là người đã khai phá ra nghề và truyền lại cho đời sau. Những người cùng làm chung một nghề hay cùng buôn bán một thứ họp nhau thành phường hội lập miếu thờ Tổn sư; đồng thời lập bàn thờ Tổ sư tại nhà riêng. Như vậy, vị Tiên sư này không phải là thần (trừ trường hợp được phong thần).
-Bản viên thổ công tức là vị thần đất được nêu ở phần trên.
17-Tả ban chư dương hữu ban chư âm. Chư tam thập lục thổ. liệt vị thổ thần, nội gia viên trạch, ngoại gia viên cư. Không hiểu đây lả các vị thần nào vì “Tả ban chư dương hữu ban chư âm” có nghĩa là “bên trái là các vị nam, bên phải là các vị nữ”; “Chư tam thập lục thổ. Liệt vị thổ thần” có nghĩa là “ba mươi sáu vị thổ thần = không biết là vị nào”, cách viết cũng không đúng vì thừa chữ “chư” (đã có chữ “liệt vị” ở sau); lại có dấu chấm ở trước chữ liệt vị v.v…. “Nội gia viên trạch, ngoại gia viên cư” cũng không biết là vị thần nào.
Từ “bài văn cúng đất đai” nêu trên, cho ta thấy:
1-Đây là văn “cúng thần linh” thì ghi rõ là “cúng thần linh”, không nên ghi là “cúng đất đai”, thần quản lý đất đai chỉ là một số nhỏ trong toàn bộ các thần linh mà ta kính báo và mời hâm hưởng lễ vật.
2-Thần hiệu là quan trọng, nêu sai thần hiệu là một sơ sót rất lớn, mà muốn nêu đúng thần hiệu thì khó có cách nào biết chắc chắn được (trừ một số ít vị), bài văn cúng chỉ nêu có vài chục vị thần linh thì hầu hết đều nêu sai hoặc thiếu ở thần hiệu; vì vậy, cách tốt nhất là chỉ cần nêu chung “Hoàng thiên hậu thổ chư vị tôn thần” là đủ.
3-Trong một đám như giỗ gia tiên hay tế dòng tộc, không cần thiết phải kính báo những vị thần linh cao xa như Ngọc hoàng đại đế, Cửu thiên huyền nữ, Tiêu diện đại sĩ, Cao Sơn chi thần v.v…, còn những vị khác (trừ một số vị sẽ nêu bên dưới) thì chỉ cần nêu chung “Hoàng thiên hậu thổ chư vị tôn thần” là đủ.
4-Thần linh, nhất là thần ngoại, là vô cùng (không ai có thể biết được số lượng cụ thể) vậy mà chỉ mời có bao nhiêu vị nêu trên thì chắc chắn không đủ, mặt khác cần lưu ý tránh trường hợp những vị hung thần (ác thần) không được kính báo sẽ tức giận gây ra những hậu quả xấu…. Vì vậy ở đây, chỉ cần nêu chung “Hoàng thiên hậu thổ chư vị tôn thần” là đủ.
5-Cần lưu ý, nếu là cúng Tiên thường tức là “lễ cẩn cáo”, thì các chữ “Kỉnh thỉnh tế vu” được thay bằng “Cẩn cáo vu” và trong câu cuối không được ghi câu “đồng lai hâm hưởng = mời hưởng lễ vật”, hôm nay có mời vị thần nào dự đâu mà mời hâm hưởng, hâm hưởng là vào ngày mai, ngày chánh kỵ, không phải là hôm nay, ngày tiên thường. (Chữ “Kỉnh” ở đây là chữ của người Quảng Nam, trong nam là “Kính”).
6-Tóm lại, theo tôi, chỉ cần ghi như thế này là đủ:
KỈNH THỈNH TẾ VU
-Hoàng thiên hậu thổ chư vị tôn thần [5].
-Thái tuế chí đức tôn thần …. vương hành khiển, …… hành binh chi thần, …… phán quan [6].
-Thành hoàng bổn cảnh [7].
-Các vị thần linh bản xứ [8].
-Đông trù tư mạng táo phủ thần quân, Thổ địa long mạch tôn thần, Ngũ phương ngũ thổ phúc đức chính thần [9].
-Ngũ phương ngũ thổ Long thần, Tiền hậu địa chủ Tài thần [10].
Như vậy, lời kính báo nầy đầy đủ các vị thần liên quan từ trên xuống dưới, tránh được thiếu sót bất cứ một vị nào, và không sợ nêu sai thần hiệu.
Cuối cùng, xin được nói rõ, bài viết này được thực hiện khi nhận được bài “văn cúng đất đai” như đã nói ở trên, nếu vì lý do gì mà có phần giống như các văn cúng tại các gia đình, các tộc họ khác, thì xin hiểu đây chỉ là sự ngẫu nhiên, không cố ý của người viết.
Chú thích
[1] Từ đường tộc Phan (Bảo An) hiện ở Hiệp Bình Chánh, Thủ Đức, TP.Hồ Chí Minh nên trong văn cúng cần ghi rõ thần hiệu Thành hoàng (bằng cách liên hệ với Ban quý tế đình Bình Triệu).
[2] Bài vị thờ “ông Táo” trong nhà chúng ta có 4 chữ Hán, đó chính là 4 chữ “Định phúc Táo quân” này.
[3] 9 tầng trời (hay 9 phương trời) gồm: Quân Thiên (quân = đều đặn, quân bình; ở trung ương); Thương Thiên (thương = màu xanh biếc; ở phương đông); Biến Thiên (biến = thay đổi; ở phương đông bắc); Huyền Thiên (huyền = màu đen huyền; ở phương bắc); U Thiên (u = tối tăm, kín đáo, sâu xa, ở phương tây bắc); Hạo Thiên (hạo = sáng trắng; ở phương tây); Chu Thiên (chu = màu đỏ như son; ở phương tây nam); Viêm Thiên (viêm = nóng, ngọn lửa; ở phương nam); Dương Thiên (dương = trái với âm; ở phương đông nam).
[4] Một số tộc họ, một số làng viết văn tế với chữ “thần quan” thay vì “thần quân” như: Ngũ phương long thần thổ địa trú trạch thần quan; Long Thần Trụ Trạch Thần Quan; Đông Trù Tư Mạng Táo Phủ Thần Quan, Lai Sơn Khứ Thủy Long Mạch Thủy Đạo Thần Quan, Môn Thừa Hộ Úy Bát Quái Cửu Cung Thần Quan, Thanh Long Bạch Hổ Châu Tước huyền Võ Câu Trần Đằng Xà Thần Quan …
[5] Đây là toàn bộ các vị thần trên trời và dưới đất, không sợ thiếu một vị nào, và cũng không sợ sai thần hiệu.
[6] Đây là ba vị thần trông coi cõi nhân gian trong 1 năm (phạm vi cai quản nhỏ hơn trường hợp trên), nêu thần hiệu theo năm cai quản.
[7] Đây là vị thần trông coi lãnh thổ nơi ta cúng (phạm vi cai quản lại nhỏ hơn 2 trường hợp trên). Trong trường hợp nơi ta cúng có thành hoàng có thần hiệu thì phải nêu rõ thần hiệu như:
-Làng Bát Tràng (huyện Gia Lâm, Hà Nội) thờ sáu vị thành hoàng đã có công giúp dân đánh giặc giữ nước là Lưu Thiên Tử đại vương, Đức Thánh bà – Lã Đệ tam Đại vương, Bạch Mã Đại vương, Phan Đại tướng Đại vương, Hộ Quốc Đại vương và Cai Minh Tự Đại vương.
-Thôn Thường Lạc huyện Đông Xuyên (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp), thần Thành hoàng bổn cảnh là Quảng hậu Chính trực Hựu thiện Đôn ngưng…”.
-Thôn Phú Nhuận huyện Bình Dương (nay thuộc TP. HCM), thần Thành hoàng Mala Cẩn, được phong là Quảng hậu Chính trực Hựu thiện Đôn ngưng…”.
[8] Đây là toàn bộ thần linh ở lãnh thổ nơi đang cúng (trong phạm vi Thành hoàng cai quản), không sợ thiếu vị nào, và cũng không sợ sai thần hiệu.
[9] Bên trên là thần ngoại, bây giờ đến thần nội, mà thần nội thì Táo quân là “nhất gia chi thần” phải nêu thần hiệu trước các vị thần nội khác.
[10] Thần tài.
https://hophanblog.wordpress.com/201...u-ghi-nhan-13/