http://www.vnbc.org/TTPG/chi_tiet.aspx?id=1016
Printable View
Chùm ảnh khai mạc Đại lễ kỷ niệm 900 năm dòng truyền thừa của Đức Karmapa
23/07/2013 03:55
Như tin đã đưa, trong 2 ngày, 8 và 9-12, Đại lễ kỷ niệm 900 năm dòng truyền thừa của Đức Karmapa đã diễn ra trọng thể tại Bodh Gaya, Ấn Độ, với sự tham dự của hàng ngàn Lạt-ma và Phật tử Tây Tạng đến từ khắp nơi trên thế giới.
Đức Karmapa đời thứ I, còn gọi là Karma Kamstang Kagyu là Sơ Tổ sáng lập Tông phái Karma Kamtsang Kagyu, một trong tám dòng truyền thừa lớn trong truyền thống Kagyu của Phật giáo Tây Tạng. Ngài sinh năm 1110 tại tỉnh Dokham, Tây Tạng.
Phát biểu tại đại lễ kỷ niệm, Đức Gyalwang Karmapa đời thứ 17, thế danh Ogyen Trinley nói: “Điều mà chúng ta đang tưởng nhớ và suy niệm về 900 năm của Đức Karmapa là lòng đại từ đại bi của Đức Karmapa đời thứ I, Dusum Khyenpa. Ngài không chỉ cho thấy lòng từ bi vô hạn đối với chúng sinh qua việc sáng lập dòng truyền thừa Karmapa và dòng đại truyền thừa Karma Kagyu mà còn là điểm khởi nguồn của suốt 900 năm yêu thương chúng sinh.”
Đức Karmapa đời thứ 17 hiện nay sinh năm 1985 tại miền Trung Tây Tạng. Ngài là hiện thân của Đức Karmapa đời thứ 16 được cả Đức Dalai Lama và Chính phủ Trung Quốc công nhận.
Dịp này, Đức Dalai Lama cũng đã gửi thư chúc mừng đến Đức Gyalwang Karmapa đời thứ 17 và Tăng Ni, Phật tử Tây Tạng.
Trong thư, lãnh tụ tinh thần của nhân dân Tây Tạng nhấn mạnh: “Cách tốt nhất để tưởng nhớ vị thầy tâm linh của quý vị là hành trì những giáo huấn của ngài. Đây là đề nghị khiêm tốn của tôi mà mọi người cần nên chú ý lắng nghe, suy nghĩ, và nghiên cứu tất cả các tông phái Phật giáo Tây Tạng cũng như cống hiến đời mình để bảo tồn và thúc đẩy các giá trị mà Đức Phật đã dạy với hy vọng rằng thông điệp tuyệt vời về lòng từ bi của Ngài sẽ được truyền đi khắp thế giới.”
Giác Ngộ Online xin giới thiệu bạn đọc chùm ảnh đại lễ kỷ niệm này:
http://giacngo.vn/UserImages/2010/12...aryu%20(1).jpg
http://giacngo.vn/UserImages/2010/12...aryu%20(2).jpg
http://giacngo.vn/UserImages/2010/12...aryu%20(7).jpg
http://giacngo.vn/UserImages/2010/12...aryu%20(8).jpg
http://giacngo.vn/UserImages/2010/12...ryu%20(18).jpg
http://giacngo.vn/UserImages/2010/12...aryu%20(9).jpg
http://www.suoinguontinhthuong.vn/23...c-karmapa.html
http://vietrigpamila.org/wp-content/...-1-820x410.jpg
Khóa nhập thất ba năm sáu tuần
Posted on Tháng Bảy 29, 2017
Các trung tâm nhập thất: Môi trường vật lý của chúng
Trong hệ thống Phật giáo về sự phát triển tâm linh, việc nghiên cứu và quán chiếu được hoàn thành trong thiền định. Trong khi một nối kết gần gũi giữa việc nghiên cứu và thiền định được coi là lý tưởng trong lý thuyết thì hai tu tập thường bị tách rời về mặt tổ chức. Các học giả mầm non bị hút về các học viện; các thiền sư tương lai vào các trung tâm nhập thất, là tổ chức được dự kiến truyền đạt một sự tu tập thiền định triệt để.
Trong các truyền thống của Dòng Giáo huấn Cổ truyền (Nyingma) và Dòng Giáo huấn Khẩu truyền (Kagyu), chương trình tu tập thiền định miên mật kéo dài ba năm và sáu tuần. Cẩm nang Nhập thất của Jamgong Kongtrul được biên soạn như một hướng dẫn cho kiểu nhập thất này. Không có kiểu mẫu tiêu chuẩn cho cấu trúc vật lý của những trung tâm nhập thất này. Mô tả dưới đây được đặt nền trên các trung tâm nhập thất mà tôi đã viếng thăm trong vùng Hy mã lạp sơn – Tây Tạng, Ấn Độ, và Nepal – và ở ngoại quốc – Pháp, Canada, và Đài Loan.
Một trung tâm nhập thất thiền định thường biệt lập với khu đất chính của một tu viện, chùa chiền, hay trung tâm thiền định công cộng. Các ẩn thất là những cộng đồng tự túc cực nhỏ được phục vụ và bảo hộ bởi một tổ chức rộng lớn hơn mà các ẩn thất này liên kết.
Nhìn từ bên ngoài, các trung tâm nhập thất là những hòn đảo tĩnh lặng: chúng không thu hút sự chú ý của người khác. Những người nhập thất bỏ lại ngoài cửa mọi bổn phận và trách nhiệm với gia đình, sinh kế, hay xã hội, để rồi được nhận lại sau khi hoàn tất thời gian dành cho việc tu tập. Suốt trong chương trình nhập thất này, công chúng không được phép vào khu nhập thất. Những người duy nhất được ra vào khu nhập thất trong thời gian này là người phục vụ việc bếp núc và những cố vấn thiền định đã được chỉ định.
Trong khuôn viên nhập thất có một số gian nhà bao quanh một cái sân. Mỗi người nhập thất có một gian phòng riêng và chính ở nơi đó thiền giả trải qua gần hết một ngày. Gian nhà lớn nhất là một ngôi chùa, nơi toàn thể cộng đồng tụ họp hai lần trong ngày – sáng và tối – để cầu nguyện và thiền định theo nhóm. (Bữa điểm tâm và bữa tối được phục vụ vào những lúc này trong các khu nhập thất ở vùng Hy mã lạp sơn). Trong khuôn viên cũng có một gian phòng lớn dành cho những bài tập du già. Những cấu trúc khác trong nhà nhập thất là bếp, phòng rửa mặt, và nhà vệ sinh. Toàn vùng được đóng lại trước những cặp mắt của công chúng bằng những bức tường hay hàng rào.
Mỗi phòng của người nhập thất chỉ đủ để đặt một bàn thờ nhỏ, vài kệ sách, một bàn đọc sách và một chỗ để người nhập thất nằm dài trên sàn nhà trong việc lễ lạy. Cửa sổ mỗi phòng mở ra sân bên trong. Thay cho một chiếc giường, các phòng được cung cấp một “ghế thiền định,” một vật hỗ trợ bằng gỗ có ba mặt thấp và một lưng ghế cao. Ghế này được dùng làm chỗ thiền định và một cái giường: những người tham dự những khóa nhập thất miên mật dài hạn (chẳng hạn như khóa nhập thất sử dụng cẩm nang này) phải tự làm quen với việc ngủ trong tư thế ngồi thẳng lưng.
Các trung tâm nhập thất thường là những cộng đồng nhỏ, gồm mười hai thiền giả hay ít hơn cư trú. Các tu viện và học viện trong vùng Hy mã lạp sơn chịu chút ít tai tiếng vì có chiều hướng phát triển quy mô. Các trung tâm nhập thất thì không thế: tỉ lệ hợp lý giữa vị Thầy và đệ tử luôn luôn được coi là điều thiết yếu trong những cộng đồng như thế. Chẳng hạn như chỉ có tám người tạo thành cộng đồng nhập thất trong khóa nhập thất của Jamgong Kongtrul: một Đạo sư, năm người nhập thất, một người nấu bếp, và một người đốn củi.
Trung tâm nhập thất của Jamgong Kongtrul khởi hành từ kiểu mẫu quy ước trong một ít cách thức thứ yếu. Có hơn một ngôi chùa trong khuôn viên và hai chương trình thiền định được theo đuổi đồng thời trong một cộng đồng nhập thất. Người nhập thất theo chương trình thứ hai là người chịu trách nhiệm về ngôi chùa thứ hai, là chùa được dành cho các vị bảo hộ Phật giáo. Không giống như hầu hết các trung tâm thiền định hiện đại, những người cư ngụ trong khu nhập thất này phải bỏ lại mọi vật sở hữu cá nhân tại nhà kho trong thời gian nhập thất. Về sau điều bắt buộc này đã bao gồm tất cả, từ những vật phẩm tôn giáo (chẳng hạn như những pho tượng và tranh ảnh) cho đến quần áo: trong những khóa nhập thất sau này, ngay cả những bộ y tu sĩ cùng một kích thước dành cho tất cả mọi người cũng được trung tâm cung cấp. Sự tuân thủ bắt buộc này dường như để tăng cường cho khẳng định của Jamgong Kongtrul rằng các thiền giả trong trung tâm của ngài phải thấy mình được đối xử bình đẳng, cho dù ở ngoài ẩn thất họ giàu có hay có địa vị xã hội ra sao.
Thời gian nhập thất
Chương trình khóa nhập thất của Jamgong Kongtrul đầy ắp trong thời gian ba năm, sáu tuần. Điều này có vẻ độc đoán và phiền phức, tuy nhiên, nó tuân theo một truyền thống bắt đầu từ lâu trước thời của Kongtrul.
Một năm trước khi thị tịch, Đức Phật đã dạy Tantra Thời Luân (Bánh Xe Thời gian, Kalachakra), được cho rằng để trình bày về tột đỉnh các giáo huấn của Ngài. Trong tantra này Đức Phật mô tả mối liên hệ giữa vũ trụ, thời gian và thân thể của ta. Trình bày của Ngài mang lại cơ sở hợp lý để xác định độ dài thuận lợi nhất cho việc nhập thất thiền định là ba năm và sáu tuần.
Tóm lại, mối liên hệ nền tảng nhất của chúng ta với thế giới bên ngoài sau khi sinh ra là qua hơi thở. Chúng ta thở: chúng ta sống. Hơn nữa, theo Tantra Thời Luân, sự hô hấp của ta nối kết tự nhiên với vũ trụ và thời gian. Trong Tự điển Bách khoa Phật giáo, Kongtrul nói:
Ở bên ngoài có hai mươi ngàn sáu trăm phút trong một năm (360 ngày), trong khi ở bên trong thì đây là số hơi thở ta dùng mỗi ngày. (Quyển 2, trang 639)
Không khí ta (hít) thở vào thân ta và duy trì sinh lực mà ta cũng như tất cả chúng sinh đều có, được gọi là năng lực nghiệp. Theo quan điểm Mật thừa, một phần nhỏ của hơi thở cũng duy trì năng lực tâm linh của ta, được gọi là năng lực trí tuệ, Kongtrul nói:
Một phần trong ba mươi hai phần của mỗi hơi thở là năng lực trí tuệ… Bản tánh của nó là tâm giác ngộ bất hoại. (sách đã dẫn, Quyển 2, trang 639-40)
Theo định nghĩa, một phần trong ba mươi hai phần của mỗi hơi thở này nuôi dưỡng năng lực tâm linh của ta là phần thứ yếu của đời sống bình thường. Ảnh hưởng của nó bị cắt bớt bởi việc ta chú tâm đến “đời sống thực sự,” có nghĩa là năng lực nghiệp. Thời gian được dùng trong ẩn thất thiền định làm giảm đi rất nhiều sức mạnh của năng lực nghiệp. Một cách lý tưởng, mọi công việc, nỗ lực, cảm xúc, và những tập quán hay lối sống chi phối đời ta trong thế giới được để lại bên ngoài ẩn thất và được thay thế bằng năng lực trí tuệ – kinh nghiệm về sự tĩnh lặng, hỉ lạc, và sự trong sáng rộng lớn tự nhiên của tâm. Phần hơi thở được dùng để duy trì nghiệp lực càng ngày càng ít đi, thay vào đó năng lực trí tuệ được tăng trưởng. Tiến trình này lên đến tột đỉnh trong sự giác ngộ, sự chuyển hóa toàn triệt năng lực nghiệp thành năng lực trí tuệ.
Trong Phật giáo Mật thừa, thọ mạng của con người trong thời hiện tại được cho là một trăm năm. Điều đó có nghĩa là thân thể ta có khả năng tồn tại trong thời gian đó. Một phần ba mươi hai của mỗi hơi thở tức là năng lực trí tuệ, được tích tập trong th ời gian đó, thì tương đương với những hơi thở được dùng trong ba năm và sáu tuần. Đây được coi là thời gian cần thiết tối thiểu để hoàn thành việc chuyển hóa năng lực nghiệp thành năng lực trí tuệ, tức là để thành tự u giác ngộ viên mãn. Trạng thái này được tượng trưng bởi một thân tướng của Đức Phật được gọi là Kim Cương Trì (Vajradhara). Như Kongtrul đã nói:
Mọi năng lực trí tuệ lưu thông với hơi thở trong một trăm năm thì tương đương ba năm và sáu tuần. Khi mọi năng lực nghiệp được chuyển hóa thành năng lực trí tuệ thì ta đạt được giác ngộ. Đây là lý do tại sao ta được nói rằng trạng thái c ủa Đức Phật Kim Cương Trì được thành tựu trong thời gian ba năm và sáu tuần. (sách đã dẫn, Quyển 2, trang 640)
Trong Anh ngữ, các khóa nhập thất chẳng hạn như khóa được mô tả trong cẩm nang này thường được ám chỉ là các khóa nhập thất ba năm, ba tháng. Từ “hai tuần” có thể không được sử dụng bởi nó có vẻ quá rắc rối đối với cách dùng Anh ngữ hiện đại, hoặc bởi nó không thực sự là cách dịch chính xác. Từ Tây Tạng để chỉ hai tuần (chok, phyogs ) có nghĩa cụ thể là nửa tuần trăng, từ lúc trăng non cho đến khi trăng tròn, hay từ lúc trăng tròn đến trăng non.
Mặc dù trong suốt tác phẩm này, thời gian nhập thất được ám chỉ là ba năm và sáu tuần, ta có thể gọi nó một cách hợp lý là một khóa nhập thất ba năm ba tháng. Âm lịch mà chương trình nhập thất căn cứ phải được điều chỉnh lại trong nhữ ng khoảng thời gian đều đặn để thay thế số ngày – tối thiểu là năm ngày – bị mất đi mỗi năm trong sự liên hệ với dương lịch. Cứ vài năm thì lịch Tây Tạng l ại có mười ba tháng chứ không phải mười hai tháng, đôi khi mỗi tháng ít hơn chứ không bao giờ hơn ba mươi ngày mỗi tháng. Những tháng nhuận này được tính trong chương trình thiền định để khóa nhập thất được bảo đảm là kéo dài ít nhất ba năm và hai tháng r ưỡi, nếu không hơn. Ví dụ nh ư bởi hai năm 1989 và 1991 là những năm có mười ba tháng, một khóa nhập thất như thế bắt đầu vào tháng Giêng năm 1989 sẽ kéo dài ba năm và ba tháng rưỡi.
Các trung tâm nhập thất và giới tính
Hầu hết các khóa nhập thất thiền định miên mật dài hạn đều được cách ly về mặt tính dục. Những người tham dự các khóa nhập thất như thế chấp nhận một thời gian sống độc thân như một cách làm giản dị hóa cuộc đời, nó cho họ cơ hội dành toàn bộ thời gian và sự chú tâm cho đời sống tâm linh.
Ẩn thất của Jamgong Kongtrul, Trụ xứ Phổ Hiền của Đại Lạc Chói Lọi, là một trung tâm thiền định cho phái nam. Các phụ nữ được tính chung trong số đệ tử thân cận của ngài – ngài đã đề cập đến ở cuối vài quyển sách được soạn theo lời khẩn cầu của một hay các nữ đệ tử – mặc dù có vẻ không chắc là ngài đã lập ra một trung tâm song hành cho phái nữ, bởi điều đó không được đề cập đến trong những tác phẩm của ngài theo sự hiểu biết của tôi.
Trước tiên Jamgong Kongtrul là một thiền giả và một tác giả, chứ không phải là một nhà thiết kế thể chế (tổ chức). Bản thân ngài dường như đã trải nghiệm trong những thể chế tôn giáo trong thời đại của ngài, như sẽ được giải thích dưới đây.
Địa điểm này đã giới thiệu cho ngài một trụ xứ tâm linh và một ốc đảo lành mạnh. Tham vọng chính yếu của Jamgong Kongtrul trong cuộc đời dường như là được mọi người hiểu biết về đời sống tâm linh của thế giới và thời đại của ngài, thâu thập mọi điều có giá trị trong quá khứ, bảo tồn những kho tàng đang có nguy cơ bị mai một, và làm cho các thế hệ tương lai có thể sử dụng được những kho tàng ấy qua việc biên soạn của riêng ngài. Nói rằng ngài đã thành công rực rỡ trong tham vọng đó là không để ý đến sự kiện là dường như ngài đã tán thành những quy tắc của thời đại ngài và không chú ý đến việc tạo ra những cơ cấu tổ chức cho việc nhập thất của phái nữ.
Có phải điều này gợi ý rằng Kongtrul không chấp nhận sự tham dự và đóng góp của phụ nữ vào đời sống tâm linh một cách nghiêm túc? Dường như có quá ít luận cứ để chứng minh cho một quan điểm như thế và dồi dào bằng chứng cho điều ngược lại. Đặc biệt là Kongtrul có rất nhiều thiền định để chọn lựa cho chương trình nhập thất của ngài nhưng ngài đã dành gần một nửa số đó cho các thiền định có nguồn gốc từ hai phụ nữ Ấn Độ trong thế kỷ thứ mười. Cũng thế, một trong những thực hành được thực hiện hàng ngày suốt khóa nhập thất là cảm hứng của một phụ nữ Tây Tạng, và đề cao bà như trọng tâm của việc thiền định.
Hầu hết những khóa nhập thất ba năm hiện đại ở ngoài vùng Hy mã lạp sơn đã tạo điều kiện thuận lợi cho cả nam lẫn nữ. Hai nhóm theo cùng một chương trình và nhận được sự chăm sóc như nhau từ các thầy trợ giáo. Tuy nhiên, trong vùng Hy mã lạp sơn, hoàn cảnh hoàn toàn khác biệt. Dường như phụ nữ thường được coi là những công dân hạng nhì của thế giới Phật giáo. Các tu viện và học viện rộng lớn tốn kém nhiều ngàn đô la trong việc xây dựng và hoạt động tiếp tục gia tăng. Hiếm có năm nào mà không có thêm đề án đầy tham vọng được khánh thành. Trong số những đề án này, hầu như không có các tổ chức chấp nhận phụ nữ. Theo sự hiểu biết của tôi, trong những chương trình nhập thất ba năm cho phụ nữ trong vùng Hy mã lạp sơn, chỉ có hai Đạo sư Tai Situpa của Dòng Kagyu và Chadral Rinpochay của Dòng Nyingma là đã thiết lập và duy trì các khóa nhập thất cho phụ nữ có tiêu chuẩn giáo huấn tương đương với các khóa nhập thất của nam giới.
Tu tập thiền định trong khóa nhập thất
Mặc dù những dị biệt đáng kể trong các chương trình thiền định được theo đuổi tại các trung tâm nhập thất được liên kết với các Đạo sư hay tu viện khác nhau, nhưng tất cả đều có chung một vài điểm đặc trưng.
Một ngày của người nhập thất được chia làm bốn thời kỳ thiền định cá nhân (sáng sớm, cuối buổi sáng, chiều và tối) và hai thời khóa tập thể (vào buổi sáng và cuối buổi chiều). Thời giờ rỗi rảnh là một điều hi ếm có: lúc tạm nghỉ dài nhất trong ngày trùng với bữa ăn trưa. Cường độ của việc tu tập dường nghẹt thở trừ phi ta quán chiếu rằng những người tham dự thường phải trải qua nhiều năm chuẩn bị thật hăm hở mới có được cơ hội đằm mình trong một chương trình như thế.
Bốn thời khóa trong ngày được dành cho các thiền định đặc biệt thay đổi ở những khoảng cách không đều; một vài thiền định được thực hiện trong nhiều ngày, một số thì trong nhiều tháng. Chương trình nhập thất bắt đầu với những thiền định sơ đẳng nhất của một truyền thống đặc biệt và tiến triển dần dần qua mọi giai đoạn phát triển cho đến giai đoạn sâu xa nhất. Tất cả những người nhập thất được trông đợi là sẽ theo đuổi chương trình thật trung thực mặc dù mọi sở thích họ có thể có trong nhiều thiền định được hiến tặng. Hầu hết các khóa nhập thất sẽ giới thiệu cho những người nhập thất một truyền thống các kỹ thuật nhập thất. Trong khóa nhập thất của Jamgong Kongtrul, những đòi hỏi của chương trình rất nặng nề: ngài đã hướng dẫn một chuyến đi được chỉ dẫn đầy đủ bằng ba loại thiền định Mật thừa hết sức khác biệt và đã bổ túc cho những thực hành này bằng các giáo huấn từ bốn dòng truyền thừa khác.
Các thời khóa tập thể hàng ngày và những nghi lễ đặc biệt theo thời khóa biểu đều đặn bao gồm một số lượng công việc đáng kể: tụng các bài nguyện, sử dụng nhạc khí, trì tụng thần chú, chuẩn bị các lễ cúng dường khác nhau, và nhiều hơn nữa, lúc nào cũng có thêm các bài nguyện cần trì tụng. Đối với nhiều người, chương trình thiền định của khóa nhập thất có vẻ quá tải mà không có những sự giải trí. Tuy nhiên trong thực tế, đối với những người tham dự hiểu biết ngôn ngữ của các bản văn và quen thuộc với những quán tưởng được thực hiện đồng thời, các nghi lễ t ập thể có thể là những nguồn mạch đầy cảm hứng và phấn chấn cho sự hồi phục cá nhân.
Điều gì tạo nên việc tu tập thiền định Mật thừa trong một khóa nhập thất như thế? Không thể trả lời một câu hỏi như thế mà không cung cấp một giải thích ngắn về lý thuyết thiền định Phật giáo.
Nói chung, một người thực hành thiền định Phật giáo là để làm an định tâm thức và phát triển sự quán chiếu vào bản tánh của tâm. Nội quán đó lên đến tột đỉnh trong sự tỉnh giác và giác ngộ. Nhưng tỉnh giác (trí tuệ) không phải là một sản phẩm của thiền định – Phật giáo không tạo ra giác ngộ cũng như tấm gương không tạo ra khuôn mặt. Giáo huấn hiệu quả trong thực hành Ph ật giáo được nối kết với một tấm gương cho phép một người nhìn thấy khuôn mặt của chính mình, Phật tánh cố hữu của chúng ta. Rất nhiều tu tập thiền định Phật giáo Mật thừa bao gồm sự hoàn thiện tuyệt đối cái nhìn của tâm.
Phật giáo dạy rằng bản tánh sâu xa nhất của tất cả chúng sinh là một nguồn mạch vô tận của trí tuệ, từ bi, và năng lực sáng tạo. Cái ngăn cản không cho ta nhận thức một cách rõ ràng điều này, bản tánh c ủa riêng ta, là “bốn ngăn che.” Ngăn che thứ nhất là sự thất bại nền tảng của ta trong việc nhận thức thấu triệt bản tánh này, được gọi là ngăn che của vô minh. Do thiếu sự tỉnh giác nội tại này, ta tiếp tục tạo ra những tính cách đối với bản thân ta (một cái tôi, một cái ngã) và những người khác, được gọi là ngăn che của tập quán, là ngăn che thứ hai. Ta lấy một ví dụ: khuynh hướng của ta là tạo ra một cái ngã và một thế giới và sau đó tin tưởng những phóng chiếu của riêng ta là thật có, đó là sự tạo tác tự nhiên và trùm khắp của ta về ngã và tha (ta và người) trong những giấc mộng. Khi ta đã tạo ra một cái ngã, dù trong khi thức hay trong giấc mộng, ta trở thành đối tượng cho vô số cảm xúc được đặt nền trên kinh nghiệm của ta. Đây là ngăn che thứ ba, ngăn che của nhữ ng cảm xúc. Trong lý thuyết Phật giáo một cảm xúc được đánh giá là tiêu cực nếu nó có khuynh hướng ngăn cản việc tự biết mình hay dẫn đến những hành vi ích kỷ và có hại về mặt vật lý hay tinh thần. Những hành vi tác hại hay ích kỷ này tạo thành ngăn che cuối cùng, ngăn che của các hành vi tiêu cực.
Thiền định Mật thừa và chương trình nhập thất có ý định chống lại và vô hiệu hóa bốn ngăn che này. Khóa nhập thất bắt đầu với những thực hành chuẩn bị – các thiền định để tịnh hóa ngăn che của các hành vi tiêu cực và để vun trồng công đức và trí tuệ, để sử dụng biệt ngữ Phật giáo. Bằng ngôn ngữ khá đơn giản, các thực hành này làm tươi mới và phong phú kinh nghiệm về thân, ngữ và tâm của thiền giả.
Giai đoạn thứ hai của thiền định Mật thừa liên quan đến điều được gọi là các thiền định thuộc giai đoạn phát triển, nó vô hiệu hóa sự ngăn che của các cảm xúc. Trong những thực hành này, thiền giả noi theo việc tự nhận thức về bản thân của các bậc giác ngộ, để nhân cách hóa một tâm thái tỉnh giác và sống động. Những cảm xúc che chướng phát khởi từ mảnh đất màu mỡ của ý thức thông thường của ta về sự hiện thân (embodiment) và tương tác với thế giới (enworldment). Các thiền định thuộc giai đoạn phát triển đưa ra trong cương vị của nó một sự tạo tác toàn diện một cái ngã và môi trường xung quanh. Những sự tạo tác, phải, nhưng là những tạo tác rất thiện xảo. Có thể thực sự đồng nhất với chúng? Tâm thức của chúng ta trả lời câu hỏi đó mỗi đêm khi chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào các giấc mộng của ta trong khi ta ngủ, cho dù chúng lạ lùng ra sao. Giống như một vài giấc mộng có thể tác động đến tâm ta rất sâu xa cho dù ta tự nhủ bao nhiêu lần chăng nữa: “Đó chỉ là mộ t giấc mộng,” vì thế những tạo tác này dần dần chống lại những cảm xúc tiêu cực của ta bằng cách cung cấp một kinh nghiệm về sự rộng lớn và sống động của tâm giác ngộ.
Giai đoạn thứ ba của thiền định Mật thừa, giai đoạn thành tựu, chống lại sự ngăn che của tập quán, khuynh hướng trùm khắp của ta để tạo ra ta và người. Không giống như những tạo tác bận rộn của giai đoạn phát triển, các thiền định này mở ra những cánh cửa dẫn đến một cái thấy của tâm như nó là. Chúng cho phép thiền giả trực tiếp kinh nghiệm tính sáng tạo tự nhiên của tâm, cách ta liên tục tạo ra điều gì đó – một cái ngã và một thế giới – không hề có gốc gác, căn cứ. Thiền giả cũng học tập để hiểu được cách tâm thức quay trở lại nguồn mạch của nó, sự chói lọi vô biên và không có trung tâm. Trong tiến trình, những khuôn khổ ta-người quen thuộc mất đi sự bám chấp kiên cố trước đây của chúng vào tâm của thiền giả.
Giai đoạn cuối cùng của thiền định Mật thừa là thiền định trực tiếp về bản tánh của tâm. Đây là cách đối trị sự ngăn che của vô minh. Các thực hành này không tạo nên bản tánh giác ngộ. Để nhìn thấy gương mặt ta, ta cần một chiếc gương; để thấy được bản tánh thâm sâu của ta, ta cần chiếc gương giáo huấn của Đạo sư tâm linh. Các giai đoạn trước của việc tu tập thiền định quét sạch những đám mây khỏi bầu trời tâm thức. Giai đoạn này không tạo ra một mặt trời nhưng nhận ra rằng nó – một sự tỉnh giác chói lọi – luôn luôn hiện diện, và để cho ánh sáng và hơi ấm của nó tràn ngập toàn thể không gian. Sự tỉnh giác này xua tan mọi dấu vết của việc thiếu hiểu biết về bản tánh của riêng ta.
Bốn giai đoạn thiền định này được lập lại ba lần trong khóa nhập thất của Jamgon Kongtrul; các thực hành chuẩn bị, thiền định thuộc giai đoạn phát triển, thiền định thuộc giai đoạn thành tựu, và thiền định về bản tánh của tâm được giảng dạy và thực hành trong ba cách riêng biệt. Những hình thức và thuật ngữ thay đổi trong các truyền thống khác nhau của Phật giáo Mật thừa, nhưng bốn giai đoạn này được tất cả những truyền thống này chia sẻ.
Đức Ngawang Zangpo
Trích trong Cẩm nang nhập thất
http://vietrigpamila.org/2017/07/29/...-nam-sau-tuan/
https://www.youtube.com/watch?v=wFV3Q20U-iw
Bích họa Mật Tông trong ngôi đền bí mật Lukhang, Lhasa, Tây Tạng
Bích họa Mật Tông trong ngôi đền bí mật Lukhang, Lhasa, Tây Tạng ...
ryanjohnmusic.com/watch/wFV3Q20U-iw - Translate this page
Video for chùa nào ở Viêtnam tu tập theo truyền thừa Karmapa Kargyu▶ 19:41
Dec 11, 2018 - Uploaded by Thông Bùi Huy
Bí ẩn những ngôi đền bằng hang động trên vách đá ở Tây Tạng - Thuyết minh · KP HD. 3 год назад ... MẬT TÔNG PHẬT GIÁO VÀ ...
https://ryanjohnmusic.com/watch/wFV3Q20U-iw
https://upanh1.com/images/Untitled9a5d1d685b97d1a8.png
( https://wisdomofcompassionblog.files...-hien-2013.pdf / http://tshulzang.blogspot.com/ )
============
Lá Thư Dharamsala
Thư của Sư Chú Giới Hiền ...
http://vietnalanda.org/Chuky_GioiHan...trimZangpo.JPG
Từ khi đặt chân lên xứ Ấn vào tháng 6 năm 2008 để nhập học tại một học viện Phật Giáo theo truyền thống Tây Tạng, Sư Chú Giới Hiền Ngawang Tsultrim Zangpo, vị tăng sinh người Việt đầu tiên được Đề Án Zangpo bảo trợ, đã thường xuyên gửi cho chúng tôi những bức điện thư cập nhật tin tức và trình bày về đời sống, sinh hoạt tu học của Chú tại Sarah College, Ấn Độ. Đây là những lá thư mộc mạc, chân tình, chứa chan hy vọng, đồng thời cũng tràn đầy những câu chuyện, hình ảnh, chi tiết sống động về cuộc đời tu học tại Dharamsala -- thủ đô tỵ nạn của người dân Tây Tạng và cũng là trú xứ của đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14.
Tài liệu do Thầy Ngữ Lực Giới Hiền (Ngawang Tsultrim Zangpo) trước tác
và chuyển dịch từ Tạng sang Việt ngữ
http://www.vietnalanda.org/dhe-an/zangpo/thu-dharamsala
Thọ Quán Đảnh Với Đức Karmapa, Điệu Buồn Phương Nam và Thọ Pháp Với Khangser Rinpoche (23/12/2008)
https://drive.google.com/file/d/0Bwq...RIeEFZVG8/edit
https://scontent.fsgn5-5.fna.fbcdn.n...06&oe=5C924112
https://viengiac.de/wp-content/uploa...anhTan120x.jpg
http://www.amitayus.net/vn/wp-conten...3/bild_abt.jpg
Thích Hạnh Tấn
Đệ tử HT Phương Trượng | Schönfeld 104 – 01762 Schmiedeberg | http://www.amitayus.net
TU VIỆN VÔ LƯỢNG THỌ
Schönfeld 104
01744 Dippoldiswalde.
Tel: 035052-292235
Email: info@amitayus.net
Website: http://www.amitayus.net
http://www.voluongtho.com
THƯỢNG TỌA THÍCH HẠNH TẤN
Tu viện trưởng
2. Tỳ kheo Thích Hạnh Tấn
Thế Danh: Lữ Thành Nghĩa
Pháp Danh: Thiện Tín
Pháp Tự: Hạnh Tấn
Pháp Hiệu: Giác Hoa
Xuất gia: Năm 1987
Thọ Sa Di: Ngày 5.5.1988
Thọ Tỳ Kheo: Ngày 4.9.1993. Là đệ tử truyền thừa đời thứ 42 Thiền Phái Lâm Tế Chúc Thánh đã được HT Bổn Sư Thích Như Điển tấn phong chức Trụ trì Tổ đình Chùa Viên Giác (nhiệm kỳ 2003 – 2008). Kể từ năm 2008 ĐĐ Thích Hạnh Giới được HT Bổn Sư Thích Như Điển tấn phong chức quyền Trụ trì Tổ đình để thay thế cho ĐĐ Thích Hạnh Tấn. Hiện nay ĐĐ Thích Hạnh Tấn đã xây dựng thêm một ngôi Tam Bảo lấy tên Vô Lượng Thọ (Amitayus). Nhân khóa tu học Phật Pháp Âu Châu kỳ thứ 25 (2013) tại Phần Lan, được tấn phong lên hàng giáo phẩm Thượng Tọa.
Học lực: Cao học triết học Phật Giáo
Địa chỉ liên lạc: Buddhistisches Klausurzentrum Amitayus – Schönfeld 104 – 01744 Dippoldiswalde.
Tel.Nr.: 035052-292235 – Email: info@amitayus.net
Website: http://www.amitayus.net – http://www.voluongtho.com
https://viengiac.de/testimonial/thich-hanh-tan/
https://www.facebook.com/hanhtan.thich
==========
Tu viện Vô Lượng Thọ
Trụ Trì: TT Thích Hạnh Tấn
Schönfeld 104, 01744 Dippoldiswalde, Deutschland
+49.35052.292235
info@amitayus.net
http://www.amitayus.net/vn/contact/
https://upanh1.com/images/Untitlede5919f1f9fd1018e.png
Đạo Sư Karmapa 17th - Ogyen Trinley Dorje
Người của công chúng
https://www.facebook.com/Karmapa17th.vn/?ref=py_c
Tôn sư Khangser Rinpoche sinh năm 1975, Pháp tự là Tenzin Tsultrim Palden, dịch tiếng Việt là Pháp Trí Giới Hạnh Cát Tường. Tên thường gọi Khangser Rinpoche nghĩa là ngôi nhà vàng.
http://phatdaoonline.com/hoang_phap/...rinpoche/4451/
ĐÂY CÓ PHẢI HÌNH ẢNH ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI KHÔNG?
Bình Anson
có phải đức thế tônThỉnh thoảng tôi thấy hình này truyền bá trên Internet. Đây có phải hình Đức Phật không? Có người giải thích đây là do Ngài Phú Lâu Na vẽ khi Đức Phật còn tại thế (41 tuổi), được lưu giữ tại viện bảo tàng Anh quốc.
Tôi đã biết đến hình này khoảng 20 năm trước. Một đạo hữu ở Bắc Mỹ gửi cho tôi bản photocopy kèm lời giải thích. Về sau, tình cờ tôi thấy được hình nầy trong trang cuối của một cuốn sách Phật học cũ, xuất bản tại Việt Nam trước 1975 (tôi không nhớ tên cuốn sách này). Như thế, có thể nói tấm hình và lời giải thích về xuất xứ đã được truyền bá trong 30, 40 năm qua.
Tôi có vài nhận xét riêng - cá nhân, như sau:
1) Gương mặt giống như người Tàu, người Mông Cổ, không có vẻ là người Ấn Độ.
2) Râu tóc xồm xoàm, không giống như các tỳ-khưu Phật giáo phải cạo râu tóc.
3) Đeo bông tai, một loại trang sức, trái nghịch với giới luật tỳ-khưu.
4) Trong kinh điển, mặc dù có đề cập đến Ngài Phú Lâu Na, nhưng không thấy nói Ngài có tài hội họa, vẽ chân dung.
5) Ấn Độ vào thời đức Phật chưa chế ra giấy để viết hay vẽ (giấy là do người Tàu sáng chế).
6) Vào thời Đức Phật cho đến khoảng 500 năm sau khi Ngài nhập diệt, người Ấn Độ không có truyền thống vẽ hay tạc tượng các vị đạo sư. Để tưởng nhớ hay để tôn kính Ngài, họ chỉ nắn, tạc hoặc khắc vào đá hình bánh xe Pháp hoặc hình cây và lá bồ đề. Đến khi đoàn quân Hy Lạp xâm lăng và định cư tại miền Tây Ấn, nghệ thuật tạc hình của Hy Lạp mới được truyền vào Ấn Độ, và từ đó, có hình tượng đức Phật.
7) Tôi tìm tòi trên mạng, về các cổ vật Phật giáo trưng bày tại các viện bảo tàng Anh quốc, chưa bao giờ tìm thấy hình vẽ này. Thật ra, tôi chưa bao giờ tìm thấy một hình vẽ nào của đức Phật – trên giấy hay trên vải – trong thời kỳ cổ xưa đó tại Ấn Độ.
😎 Nếu quả thật đây là hình vẽ đức Phật, lại được lưu giữ tại viện bảo tàng Anh quốc, ắt hẵn đây phải là một di tích quan trọng mà nhiều học giả Phật giáo trên thế giới biết đến. Tuy nhiên cho đến nay, qua những sách báo tài liệu về lịch sử và văn hóa Phật giáo (bằng tiếng Anh) của các học giả Phật học và các chuyên san Phật học có uy tín, tôi chưa thấy ai đề cập đến tấm hình này.
Vì thế, cho đến khi nào tôi có được những bằng chứng, hay kiến giải, có tính thuyết phục, tôi vẫn cho rằng đây là một bức hình có xuất xứ nguồn gốc chưa rõ ràng, giải thích chưa có căn cứ. Chúng ta không nên tiếp tục truyền bá những thông tin chưa được kiểm chứng.
Bình Anson
Thư Viện Hoa Sen
https://upanh1.com/images/40139902_2...73671168_n.jpg
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
========
Johnny Do ADiDa Phật. Bức hình này của bạn là bản được chép lại , không phải bản gốc. Chắc chắn nó được người trung hoa chép nên mắt ngài mới ti hí kiểu người trung hoa như vậy. Tôi có bản gốc, khuôn mặt của ngài đặc trưng Ấn Độ, đôi mắt ngài nhìn rất kỳ lạ, nó xa xăm vời vợi toát lên hình ảnh của 1 triết gia lỗi lạc nhưng có phần cô đơn.
Quản lý
12 tuần
Lê Nguyễn Quỳnh
Lê Nguyễn Quỳnh Lúc nhập thất, các vị hành giả không được cắt tóc, không cạo râu, thậm chí không tắm để không làm mất năng lực trên thân. Chuyện có râu tóc là bình thường. Đeo bông tai thì ai học kim cương thừa sẽ thấy có rất nhiều vị Đạo Sư đeo bông tai giống Bổn Tôn Mật tông. Và từng có câu chuyện Đức Phật giảng Đại Thừa, Mật thừa hơn 1250 các vị Tỳ kheo bịt tai, bỏ đi trong pháp hội nên không nhất thiết phải lấy giới Tỳ Kheo làm chuẩn với 1 vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác. Ngài Phú Lâu Na ko cần đề cập biết hội họa hay không vì các hành giả thời xưa đẳng cấp đều biết Ngũ Minh: văn võ, đàn hát, kinh điển nội giáo, ngoại giáo, hội họa... các vị đều tinh thông. Ai thiền định sâu tự não bộ khai mở, các năng lực như thiên nhãn, thiên nhĩ còn khai thông, việc vẽ đẹp là rất bình thường. Nên việc tìm hiểu kĩ là cần. Nhưng cũng phải lưu ý lại là Phật có 3 thân: Pháp thân, Báo Thân và Hóa Thân. Báo Thân luôn có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp, các thân đó ở trong các cảnh giới Tịnh Độ bằng ánh sáng. Khi nhập định hay thuyết pháp, các vị đó sẽ hiện thân đó. Còn Hóa thân ở cõi người, các vị cũng giống như con người, có tướng đẹp do công đức viên mãn nhưng không thể giống hệt hình xã hội loài người vẫn vẽ trong tranh ảnh có 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp được. Lịch sử các vị Tổ, các vị sau này còn tại thế không ai giống trong các tranh vẽ cả, các vị cũng như người bình thường. Vì các hình đó là ở các cõi Tịnh Độ, mô tả Báo Thân của các Ngài. Bổ sung vài ý kiến cá nhân vậy, còn mình ko quan tâm lắm bức tranh này có vẽ Ngài hay không bởi học Phật là tu tâm dưỡng tánh, Kiến nhập Phật tánh. Mọi đức hạnh, lời Pháp Ngài dạy để mình và cuộc đời tốt lên, giải thoát tam giới. Phật vốn vô tướng và tại tâm! Sửa mình, hiểu Tánh viên giác của mình là thấy Phật thật!
QUÁN ĐẢNH YANGZAB SHITRO VÀ DUYÊN LÀNH KHÓ GẶP
(English below)
Pháp Bảo tạng Yangzab Shitro được khai bởi vị Khai Mật tạng (Terton) Drikung Rinchen Phuntsok. Quán đảnh cộng đồng của pháp Yangzab Shitro rất hiếm khi được trao truyền, và Thành Phố Hồ Chí Minh sẽ là nơi duy nhất được nhận quán đảnh Shitro trong chuyến hoằng pháp của Đại Lão Hòa Thượng Garchen Rinpoche tại Việt Nam. Lễ quán đảnh Shitro là sự gia trì và truyền khẩu của “ Một trăm bổn tôn an bình và phẫn nộ” trong thân trung ấm (Bardo). Đây là nền tảng của 3 gốc thực hành ( Bổn Sư, Bổn Tôn và Dakini), và cũng là nền tảng của cuốn "Tử thư Tây Tạng". Shitro, được dịch là các Bổn Tôn An Bình và Phẫn nộ, được xem như là một mật điển. Quán đảnh Shitro là một bước khởi đầu làm quen với 100 Bổn Tôn biểu tượng của an bình và hung nộ là nhân cách hóa các Skanast của mỗi hành giả (tập hợp các hình thức, nhận thức, cảm xúc, ý thức về tinh thần và tâm thức) và các yếu tố ( gió, lửa, nước, đất). Vào thời điểm lâm chung, các đại tan dã và bản thể tự nhiên của chúng sẽ khởi hiện qua các hình ảnh ta gặp sau khi chết. Những hướng dẫn về Bardo (thân trung ấm) cung cấp cho chúng ta các kỹ thuật và thực hành mà nhờ đó ta nhận được bản tâm tự nhiên và đạt giải thoát. Ai nhận ra được giai đoạn thân trung ấm khi nó xảy đến, người đó sẽ không bị đọa tái sinh vào các cõi thấp hơn, sẽ đạt được giải thoát khỏi vòng luân hồi và thậm chí đạt được Phật quả.
_______
Terma Yangzab Shitro, was revealed by the great Terton Drigung Rinchen Phuntsok . The extensive empowerment of the Yangzab Shitro is rarely given, and Hochiminh will be the only place where the extensive empowerment will be given on Garchen Rinpoche's Vietnam tour. This empowerment is a blessing and transmission of the "one hundred peaceful and wrathful deities" of the Bardo. It is the basis for the Three Roots Practice (Guru, Yidam, and Dakini), and is the foundation of the Tibetan Book of the Dead. Shitro, which translates as the Peaceful and Wrathful Bardo Deities , is considered part of the inner tantra. The Shithro empowerment is an initiation into the 100 Peaceful and Wrathful symbolic deities that personify each practitioner's skandhas (aggregates of form, perception, feeling, mental volitions and consciousness) and the great elements (wind, fire, water and earth). At the moment of death, the elements dissolve and their nature arises as after-death visions. The Bardo instructions provide us with a body of techniques and practices by which we can recoginize mind's true nature and achieve liberation. The benefits of receiving the empowerment, practicing it and reciting the mantra are many. One will recognize the stages of the Bardo as they occur, will not fall into lower existences, will attain liberation from cyclic existence and will eventually attain Buddhahood.
Ảnh: Tam căn Yangzab (Đạo sư- Bổn tôn- Không hành)
Photo: Yangzab three roots (Lama- Yidam- Khandro)
*** Chi tiết chương trình vui lòng xem post trước.
https://scontent.fsgn5-4.fna.fbcdn.n...f4&oe=5CD9ADF6
https://www.facebook.com/12169489983...type=3&theater
Hành Giả Kim Cương Thừa
27 tháng 5, 2017 ·
Đây là Kho Tàng Mật Điển được khám phá bởi Đạo Sư Tôn Quý Dilgo Khyentse.Trong thời đại mạt Pháp 360 loại bệnh hiểm nghèo sẽ xuất hiện.Nếu các con thực hành nghi quỷ này thì bệnh tật sẽ được đẩy lùi.Thực hành nghi quỷ này có thể giúp đỡ các bệnh nhân trong giai đoạn cuối và một số trường hợp sẽ biến mất hoàn toàn căn bệnh.Thực hành này giúp chuyển hóa sân hận và ái dục.Cuối cùng sẽ đạt được Giác Ngộ.Nếu muốn thực hành nghi quỷ này bạn phải thọ nhận Quán Đảnh trực tiếp từ một Đạo Sư thuộc truyền thừa Thanh Tịnh
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
======
།ཅེས་པའང་འཇམ་དབྱ ས་མཁྱེན་བརྩེ་དབང པོས་སོ།། །སརྦ་མདྒ་ལཾ།། །སངསརྒྱས་སྨན་བླའ ་རྒྱུན་ཁྱེར་ནི།
Padmasambhava's Short Daily Practice in the form of the Medicine Buddha
Nghi Quỷ Ngắn Đức Dược Sư Liên Hoa Sanh
Must receive empowerment and instruction from a pure lineage to practice.
Phải thọ nhận Quán Đảnh Liên Hoa Sanh trực tiếp từ một Đạo Sư thuộc truyền thừa Thanh Tịnh để thực hành.
https://static.wixstatic.com/media/8..._2048_s_2.webp
https://scontent.fsgn5-2.fna.fbcdn.n...e7&oe=5CBEAD5D
ཨོ་རྒྱན་སྨན་བླ་འ ི་ནི་ སྐྱབས་རྗེ་མཁྱེན་ རྩེ་རིན་པོ་ཆེའི་ ཀའ་འབུམ་ཐ་བའི་ནང ་ལ་བཞུགས་ཡོད།
Padmasambhava in the form of the Medicine Buddha, text received in a pure vision by H.H. Dilgo
Kyentse Rinpoche.
Sự hợp nhất của Đạo Sư Liên Hoa Sanh và Đức Phật Dược Sư, bản thảo được nhận dưới sự chứng
minh thuần khiết của Đức Pháp Vương Dilgo Kyentse Rinpoche.
Guru Rinpoche of Medicine
Tibetan: Orgyen Menla ཨོ་རྒྱན་ སྨན་བླ
Orgyen Menla photo courtesy of Mala Ḍākinī Shop in Vietnam.
Hình tượng Ngài Orgyen Menla từ Mala Dakini Shop, Việt Nam.
་
Nyingma Text in Tibetan, English with Vietnamese translation below.
Bản văn dòng truyền thừa Nyingma bằng tiếng Tạng, Anh với dịch tiếng Việt dưới đây.
Download PDF file version here:
Download bằng file PDF ở đây:
Vietnamese translation by Lama Konchog Shanphen on May 2017.
Dịch từ Tiếng Anh sang tiếng Việt: Lạt Ma Lợi Tha, Tháng Năm, Năm 2017.
Compiled by Karma Dorje ཀརྨ་རྡོ་རྗེ། on May 2017.
Karma Dorje ཀརྨ་རྡོ་རྗེ། biên soạn Tháng Năm, Năm 2017.
Original Sādhanā in Tibetan and English only can be downloaded from Welcoming Buddhist.
This is a Treasure revealed by Dilgo Khyentse Rinpoche. In this degenerate age 360 various illnesses are coming. If you do this practice it will help to stop these illnesses. This practice can also help those with terminal illness and in some cases heal them completely. This practice can also treat the illness of anger and too much desire. The ultimate result of this practice is enlightenment. If you wish to practice this you must receive transmission and instruction from a pure lineage master.
Đây là Kho Tàng Mật Điển được khám phá bởi Đạo Sư Tôn Quý Dilgo Khyentse. Trong thời đại mạt Pháp 360 loại bệnh hiểm nghèo sẽ xuất hiện.Nếu các con thực hành nghi quỷ này thì bệnh tật sẽ được đẩy lùi.Thực hành nghi quỷ này có thể giúp đỡ các bệnh nhân trong giai đoạn cuối và một số trường hợp sẽ biến mất hoàn toàn căn bệnh.Thực hành này giúp chuyển hóa sân hận và ái dục.Cuối cùng sẽ đạt được Giác Ngộ. Nếu muốn thực hành nghi quỷ này bạn phải thọ nhận Quán Đảnh trực tiếp từ một Đạo Sư thuộc truyền thừa Thanh Tịnh.
།གསོལ་འདེབས་ལེའུ བདུན་མ་ལས། སྣང་སྲིད་དབང་དུ་ ྔུད་པའི་བརྒྱུད་འ ེབས་བཞུགས་སོ།
Guru Rinpoche's Seven-Chapter Supplication. In the Lineage Prayer (gyud deb)
Thất Nguyện Bảy Chương Đạo Sư Liên Hoa Sanh. Trong dòng truyền thừa (Gyud Deb)
༄༅། པདྨ་ཧེ་རུ་ཀ་ཡི་ད ོངས་པ་ཡིས༔ དབང་གི་ལྷ་མོ་ནྰ་ ་རྫུ་ན་དང༔
PADMA HERUKAYI GONG PAYIY WANG GI LHA MO NAGARJU DA DANG
Throught the enlightened intent of Padma Heruka, through Wang-gi Lhamo, through Nagarjuna,
Nương năng lực Giác Ngộ Hoạt Bi Liên Hoa, thấu xuốt Wang Gi Lhamo, Long Thọ Bồ Tát,
པདྨ་འབྱུང་གན་བར་ ྱིན་བརླབས་ཏེ༔ འདས་དང་མ་བྱོན་ད་ ྟ་དུས་གསུམ་གྱི༔
PADMA JUNG NAY BAR DU JIN LAB TEY DAY DANG MA JON DA TA DU SUM GYI
And down through Padmasambhava, the blessings have been maintained. I supplicate the lama three times, past, future, and present.
Xuống tận Đạo Sư Liên Hoa Sanh, Xin gia hộ con. Con khẩn nguyện chư Đạo Sư trong ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai.
གསུང་གི་བརྒྱུད་པ ི་བླ་མ་ལ་གསོལ་བ་ དེབས༔ ཨོ་རྒྱན་པདྨ་འབྱུ ་གནས་ལ་གསོལ་བ་འད བས།
SUNG GI GYUD PAI LA MA LA SOL WA DEB ORGYEN PADMA JUNG NAY LA SOL WA DEB
The lineage of enlightened speech; I supplicate Orgyen Padma Jungnay
Extracted from the "Supplication in Seven Chapters" that derives from the terma discovered by Tulku Zangp Dragpa.
Nguyện dòng truyền thừa Giác Ngộ; Con khẩn nguyện Orgyen Padma Jungnay
Được cô động từ "Thất Nguyện trong Bảy Chương" phát xuất từ kho tang mật điển khai phá bởi bậc Chuyển Thế Zangp Dragpa.
།སྒྱབས་གནས་ཀུན་འ ུས་ཨོ་རྒྱན་རིན་པ ་ཆེ། བཟོད་མེད་གདུང་ཤུ ས་དྲག་པོས་་གསོལ་ ་འདེབས།
KYAB NAY KUN DU ORGYEN RINPOCHHE RZOD MED DUNG SHUK DRAK PO SOL WA DEB
Embodiment of all sources of refuge, Orgyen Rinpoche, to you we pray with a yearning so strong it is hard to bear.
Hiện thân của cội nguồn Quy Y, Orgyen Tối Tôn Quý, chúng con khẩn nguyện đến ngài bằng tín tâm mãnh liệt.
།ཕྱི་ནང་གསང་བའི་ ར་ཆད་དབྱིངས་སུ་ག ོལ། །བསམ་དོན་ཆོས་བཞི ་འགྲབ་པར་བྱིན་གྱ ས་རློབས།
CHHI NANG SANG WA'I BAR CHHED YING SU SOL SAM DON CHHO ZHIN DRUB PAR J IN GYIY LOB
Dispel all outer, inner and secret obstacles into space and grant your blessings so that our aims and wishes are fulfilled.
Xin ngài xua tan các chướng ngại bên ngoài, bên trong và bí mật vào không gian và gia hộ chúng con thành tựu mọi ước nguyện.
།ཅེས་པའང་འཇམ་དབྱ ས་མཁྱེན་བརྩེ་དབང པོས་སོ།། །སརྦ་མདྒ་ལཾ།། །སངསརྒྱས་སྨན་བླའ ་རྒྱུན་ཁྱེར་ནི།
Padmasambhava's Short Daily Practice in the form of the Medicine Buddha
Nghi Quỷ Ngắn Đức Dược Sư Liên Hoa Sanh
སྐྱབས་སེམས་ནི།
Refuge and Bodhicitta:
Quy Y và Phát Bồ Đề Tâm:
སངས་རྒྱས་ཆོས་དང་ ོགས་ལ། བྱང་ཆུབ་བར་དུ་བད ་སྐྱབས་མཆི།
SANG GYE CHÖ DANG TSOK LA CHANG CHUB BAR DU DAG GYAP TCHI
In the Buddha, Dharma and Sangha, I take refuge until enlightenment.
Phật bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo con xin nương tựa cho đến khi Giác Ngộ.
།རང་གཞན་དོན་གཉིས རབ་བསྒྲུབ་ཕྱིར རྫོགས་པའི་སངས་རྒ ས་མྱུར་ཐོབ་ཤོག
RANG SHIN DÖ NYI RAB DRUP CHIR ZOG PI SANG GYE NYUR TOP SHOG
For the benefit of myself and others, may I achieve enlightenment for the benefit of all sentient beings.
Vì lợi lạc cho con và vô lượng hữu tình, nguyện con thành Phật độ chúng sanh.
ལན་གསུམ།
(Repeat it three times )
(Lập lại 3 lần)
།རང་ཉིད་སྐད་ཅིག་ ྲན་རྫོགས་སུ། ཨོ་རྒྱན་སྨན་གྱི་ ླ་མ་ནི།
RANG NYI KED CHIG TREN DZOG SU URGYEN MEN GYI LA MA N
In a second I am transformed into the deity Urgyen Menla (Guru Padmasambhava in the form of the Medicine Buddha).
Trong sát na con hóa thành Bổn Tôn Orgyen Menla (Sự hợp nhất của Đạo Sư Liên Hoa Sanh và Đức Phật Dược Sư).
མཐིང་གསལ་སྨན་མཆོ ་ལྷུང་བཟེད་བསྣམས སྙན་ཞུ་གསང་གོས་ཕ ས་བེར་གསོལ།
TING SAL MEN CHOG LUNG TSE NAM NYEN SHU SANG GOA PÖFER SO
His color is a very clear blue, in his left hand there is a bowl full of medicine, and in his right hand there is a vajra. He is wearing a Saor king's hat and a red and yellow robe.
Ngài có màu xanh lưu ly thanh tịnh, trên tay trái cầm bát Thánh Dược và tay phải kết ấn Kim Cương. Ngài đội mũ Liên Hoa Giải Thoát, khoát trên mình ý đỏ và vàng.
བྱིན་རླབས་གཟི་བར ིད་ལྔན་པར་གསལ།
CHIN LAP ZIG CHID DEN PAR SAL
The energy of the blessings, which comes as one thousand suns, are absorbed in you
Năng lượng gia trì đến từ một ngàn mặt trời chiếu thẳng đến con
ཨོཾ་ཨཱཿཧཱུྃ་བཛྲ་ ུ་རུ་སཾ་བྷ་ཝ་བྷཻ ཥ་ཛྱེ་ས་མུཏྐ་ཏེ་ སྭཱ་ཧཱཿ
OM AH HUNG VAJRA GURU PAMA SAMBAWA BEKANZE RADZA SAMUGATE SO HA
Vietnamese Transliteration:
Phiên Âm Việt:
Ốm, A, Hung, Va Troa, Gu Ru, Pa Ma, Săm Ba Va, Bê Kan Giê, Ran Gia, Sam Mut Ga Tê, Sô Ha
(Repeat the mantra as long as you can and then make the dedication).
(Trì tụng càng nhiều càng tốt và sau đó hồi hướng).
སེམས་ཅན་ནད་པ་ཇི་ ྙེད་པ མྱུར་དུ་ནད་ལས་ཐར གྱུར་ཅིག
SEM CHEN NED PA Jl NYED PA. NYUR TU NED LEY THAR GYUR CHIG
All the beings who are sick, may they swiftly be freed from their diseases
Tất cả các chúng sanh bệnh khổ, nguyện cho họ nhanh chóng thoát khỏi bệnh tật
འགྲོ་བའི་ནད་ནི་མ ལུས་པ རྟག་ཏུ་འབྱུང་མེད པར་ཤོག
DROWE NED NI MA LUA PA.TAK TU JUNG WA MED PAR SHOG
All the sicknesses of beings, without exception, may they never occur (again).
Tất cả bệnh khổ của vô lượng hữu tình, không xót nguyện không trở lại.
དགེ་བ་འདི་ཡིས་མྱ ར་དུ་བདག ཨོ་རྒྱན་སྨན་བླ་འ ྲུབ་གྱུར་ནས།
GE WA DI Yl NYURDU DAG URGYEN MENLA DRUP GYUR NEY
འགྲོ་བ་གཅིག་ཀྱང་ ་ལུས་པ དེ་ཡིས་ས་ལ་འགོད་ ར་ཤོག
DRO WA THIGKYANGMA LCJPA DE Yl SALA GÖ PAR SHOG
Through this merit may I quickly realize the Tathāgata and through this may all beings with no exception reach and realize such a state.
Thông qua công hạnh này nguyện con nhanh chóng thành tựu quả vị Chánh Giác và nương theo công đức này nguyện cầu cho tất cả chúng sanh đồng thành Phật Đạo.
ཅེས་པའང་མངྒ་ལས་ས །
This was written by Mangala (The name Mangala was given to Dilgo Kyentse Rinpoche by Mipham Rinpoche )
Biên soạn bởi Mangala (Mangala là cái tên của Đạo Sư Dilgo Kyentse Tôn Quý được đặc bởi Đức Mipham Rinpoche )
Tất cả sự thiếu xót xuất phát từ ngu dốt của cá nhân con, con xin đê đầu Sám Hối. Mọi công hạnh con tích lũy được xin hồi hướng cho vô lượng hữu tình khổ não.
Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
Cẩn bút Lama Lợi Tha
https://www.wisdomcompassion.org/guruorgyenmenla
LỊCH SỬ CỦA BÀI NGUYỆN VAJRA BẢY DÒNG
Người ta nói rằng những dòng này là bài nguyện cầu thỉnh Guru Rinpoche (Padmasambhava) đến tập hội của bữa tiệc cúng dường bởi Dorje Khandroma (Sanskrit: Vajra Dakini).
Có lần, những vị thầy ngoại đạo uyên bác về ngôn ngữ và lý luận đã tìm đến tu viện Nland và phỉ báng Giáo Pháp. Những học giả đạo Phật không đủ sức bác bỏ họ. Sau đó, phần lớn các vị học giả đều có cùng một giấc mộng. Trong mộng, DakiniZhiwa Chog (An bình Siêu phàm) tiên tri như sau:
"Các người không thể đánh bại những kẻ ngoại đạo. Nếu không mời thỉnh đến đây người anh trai của Ta, Dorje Thothreng Tsal (Năng lực Tràng hoa Sọ người Vajra, Guru Rinpoche), sống tại Hắc Mộ địa, thì Giáo Pháp có thể bị hủy diệt."
"Làm sao chúng tôi có thể mời được Ngài, khi chỗ đó quá khó đến?" Những học giả hỏi.
Vị Khandroma trả lời: "Hãy bày một lễ cúng dường lớn trên mái nhà của tu viện, với âm nhạc và trầm hương, và tụng niệm bài nguyện vajra cùng một giọng." Và bà ban cho họ Bài nguyện Vajra bảy dòng.
Những học giả cầu nguyện theo đó, và trong chốc lát Guru Rinpoche từ bầu trời hiện đến một cách kỳ diệu. Ngài chủ trì các học giả đạo Phật đánh bại những thầy dị giáo bằng những lập luận trí tuệ và trích dẫn từ kinh điển. Khi Ngài bị đe dọa bởi năng lực huyền thuật của những kẻ dị giáo, Ngài mở tráp mà vị Ḍkinỵ Mặt Sư Tử đã cho, và Ngài tìm thấy trong đó mantra "mười bốn chữ". Nhờ tụng niẹm mantra, Ngài loại trừ kẻ xấu trong những người dị giáo với một trận mưa sấm chớp. Người ta nói rằng bài nguyện này có nguồn gốc từ sự kiện đó.
Sau này, khi Guru Rinpoche đến Tây Tạng vào thế kỷ tám, Ngài ban nó cho nhà vua và các thần dân. Với ý định dành cho những đệ tử có khả năng tu tập trong tương lai, Ngài chôn giấu bài nguyện này trong nhiều Ter. Sau này, Bài nguyện Vajra bảy dòng được phát hiện nhiều lần trong hầu hết những Ter của một trăm vị đại Terton trong mười thế kỷ qua của dòng truyền Nyingma, như trọng tâm của các bài nguyện, giáo lý, và thiền định.
Với niềm tin không dao động, hãy quán tưởng Guru Rinpoche trên đỉnh đầu của hành giả, hiện thân của tất cả sự quy y. Hãy cầu nguyện mạnh mẽ đến Ngài bằng Bài nguyện Vajra bảy dòng. Nhờ cam lồ rót xuống từ thân Guru, mọi tật bệnh, ác nghiệp, và đau khổ của thân, khẩu, và ý hành giả đều được tẩy sạch trong dạng máu, mủ, côn trùng, muội khói và rác rưởi. Vào lúc cuối, chính thân thể hành giả tan hòa, giống như muối tan trong nước, và sau đó chất lỏng này chảy vào miệng của Yamaraja, Tử Thần, và các chủ nợ nghiệp khác bị chôn dưới đất. Tin tưởng rằng nó đã thỏa mãn tất cả bọn họ và mọi nghiệp đã được xóa sạch. Vào lúc cuối, hành giả nên xem tất cả đều biến mất vào hư không.
Một lần nữa, hãy quán tưởng chính thân thể bạn trong dạng thân ánh sáng rực rỡ của một thần thánh – bất cứ dạng nào mà bạn thích. Nơi ngực của vị thánh, tại trung tâm của một hoa sen tám cánh, vị Lama đi xuống đỉnh đầu bạn và trở thành một với tinh chất bất hoại (bindu), trí tuệ bổn nguyên. Sau đó hành giả nên trụ trong cực lạc của trí tuệ bổn nguyên.
Giai đoạn hậu thiền định phải được ứng xử như sau: mọi hình tướng đều được thấy như một tịnh độ và như các thần thánh, thực phẩm và nước uống như sự cúng dường, và các hoạt động được thấy như đi, ngồi, đảnh lễ và đi nhiễu quanh. Khi ngủ, bạn nên quán tưởng Guru trong ngực bạn. Trong tất cả hoạt động hằng ngày, bạn phải cố gắng chuyển hóa mọi sự vào các thực hành đạo đức không gián đoạn. Việc quán tưởng Lama trong bầu trời phía trước bạn và bày tỏ cúng dường, dâng cúng tán thán, cầu khẩn tâm Ngài, và tiếp nhận sự ban phước thân, khẩu, và ý của Ngài là điều quan trọng. Nói chung, đây là vì các phẩm tánh thiện của cảnh giới cao của sự giải thoát, và nhất là sự phát triển nhận biết của con đường thâm sâu, chỉ tùy thuộc sự ban phước của Guru đi vào tâm của chính hành giả.
Để đạt được trí tuệ bổn nguyên tuyệt đối trong chính tâm hành giả, hành giả phải được quen thuộc với các giáo lý đã cho trong sutra và tantra nói chung, và nói riêng là với sự giới thiệu trực tiếp (Ngo 'Phrod) đến trí tuệ bổn nguyên xác thực (Don Gyi Ye Shes). Và, tùy theo kinh nghiệm, nhận biết và khả năng, hành giả nên thiền định về bất cứ con đường giải thoát hoặc phương tiện thiện xảo nào thích hợp với chính hành giả. Nhờ làm điều này, hành giả sẽ đủ điều kiện đạt được cả hai thành tựu thông thường và tối thượng.https://m.youtube.com/watch?v=wj4VT37jDTk
Trích Hành trình giác ngộ
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
Orgyen Menla 鄔金藥師/藥師蓮師
檔案:Dudjom orgyen Menla.jpg
Orgyen Menla
Orgyen Menla (Tib. ཨོ་རྒྱན་ སྨན་བླ་, Wyl. o rgyan sman bla), Guru Rinpoche of Medicine, is a form of Guru Rinpoche manifesting as a Buddha of Medicine.
In the Dudjom Tersar lineage, Orgyen Menla is the outer form of the Lama, and the practice is called Orgyen Menla Dütsi Bum Zang.