-
Để tìm ra Địa Điểm Phóng Sanh tại TP.HCM; tôi phải cầu nguyện đến Đức A DI ĐÀ NHƯ LAI, thế rồi đủ duyên, thì tôi mới được 1 Vị bằng hữu trong Đạo Tràng Mật Tông của mình dẫn đến nơi có thể PHÓNG SANH - THẢ CÁ rất là OK ! Vì nơi đây un đúc hội tựu đủ mọi điều kiện cho việc thực hành PHÓNG SANH các bạn à ! Các bạn thật là hội đủ duyên, mới biết được địa điểm như thế này. Còn tôi thì vất vả lắm mới biết được nơi này. Các bạn có thể tới địa điểm này để thực hành việc PHÓNG SANH:
- Địa điểm: Chùa Diệu Pháp - 188 Nơ Trang Long (nối dài), P. 13 ( cầu Bình Lợi), quận Bình Thạnh.
- Hướng đẫn đường đi: từ chợ Bà Chiểu rẽ vào Nơ Trang Long, đi thẳng qua khỏi đường ray xe lửa khoảng 500m, rẽ phải (vào hẻm tìm quán ăn Gió Sông - và vào cổng chùa Diệu Pháp ngay cạnh quán)
Vài điều chia sẻ cùng các bạn Kính chúc mọi người luôn an lạc
NA MÔ A DI ĐÀ NHƯ LAI
Phồ Quảng
thân
-
-
.MINH Y - KIM NGÂN - TÀI MÃ = 冥衣 - 金銀 - 財禡
.MINH Y - TÀI MÃ = 冥衣 - 財禡
.MINH - TÀI MÃ = 冥 - 財禡
.MINH Y: 冥衣
.MINH TÀI: 冥財
.KIM NGÂN: 金銀
.TÀI MÃ: 財禡
.KIM NGÂN - TÀI MÃ = 金銀 - 財禡
-
*MINH Y: 冥衣
.Minh Y: Áo Giấy / Giấy Áo / Giấy Áo Đất
.Minh Y: Áo Quần / Quần Áo / Quần Áo Giấy / Quần Áo Chúng Sinh
*KIM NGÂN: 金銀
.Kim Ngân: Vàng và Bạc, chỉ Tiền Bạc.
.Kim Ngân: Tiền Giấy, Vàng Mã / Tiền Vàng / Giấy Tiền Vàng Bạc.
*TÀI MÃ: 財禡
.Tài Mã: Nói lên sự thăng tiến về “ Tài ”.
.Tài Mã: Ngựa Tiền / Đồ Mã.
*KIM NGÂN - MINH Y: 金銀 - 冥衣
.Kim Ngân - Minh Y: Đồ Mã, Tiền Vàng
*KIM NGÂN - TÀI MÃ = 金銀 - 財禡
.Kim Ngân - Tài Mã: Tiền Vàng / Giấy Tiền Vàng Mã
-
Pham dung
22:18 - Ngày 11/8/2014
( Nguồn: http://motthegioi.vn/xa-hoi/doi-song...-ma-93459.html )
Mình thì cũng không ủng hộ vụ đốt vàng mã lắm. Nhưng mà mấy năm gần đây nhà mình có tìm được mộ ông bác liệt sỹ, từ đó nhà có việc gì là gọi bác lên(bác nhập vào một bà chị họ).Mọi việc từ làm nhà, cưới xin, đến việc vợ mình vừa chửa chưa siêu âm, hỏi bác đẻ con gì bác cũng nói đúng hết..nói tóm lại là trừ lô đề bác không nói, còn mọi việc trong nhà có vấn đề gì lớn bác đều nói cho biết trước mà làm,..nói chung là cũng đúng đến 90%,,thật sự không tin không được..mà quả thật từ lúc tìm được bác, họ hàng nhà mình làm ăn có vẻ thuận lợi..riêng bà chị mình được bác nhập thì 2 năm đã kiếm được vài tỷ mua nhà Hà Nội,..bà ý cũng chỉ bình thương, làm ăn gặp nhiều may mắn, cơ duyên là chính..mình cũng hỏi thử bác là nhà cháu đốt vàng mã..ở dưới đó bác có nhận được không? bác bảo là có..nó cũng giống như ở trên trần vậy, những thứ trên này đốt cho ai ở dưới đó, sẽ có một người đúng ra nhận, và người đó sẽ phát cho những người có tên(không phải đốt phát là dưới nhận được ngay đâu, mà là sau mọt time mới nhận được).Nói chung là có nhiều điều thật khó giải thích, mình thuộc thế hệ trẻ, trước giơ cũng chẳng mê tin lám, đến tận bây giờ, có ông Bác thiêng thế nhưng thinh thoảng có việc cần bác giúp, hay hứng lên ngày đầu tháng.. mới chiu mua cân hoa quả ,thắp nén hương...thấy cũng kì kì nhưng mà thật sự không tin không được hic
-
Võ Thuý Quỳnh
12:14 - Ngày 11/8/2014
( Nguồn: http://motthegioi.vn/xa-hoi/doi-song...-ma-93459.html )
Mình dc một người quen khuyên, bác ấy lên được Thiên và khuyên rằng không nên đốt vàng mã, mà cúng bằng tiền thật, quàn áo thật và vải vóc thật,có như nào thì dâng lên như thế, và cúng xong thì xin lại để thụ lộc, mình thất rất hợp lý, sau khi nghe bài phân tích của thầy Thích Tịnh Giác
-
Theo sư thầy Thích Tịnh Giác, bản chất của việc đốt vàng mã không phải là xấu, không phải mê tín, nhưng nếu đốt mà hiểu.
-
“Giấy tiền vàng mã thuộc về văn hóa dân gian Trung Hoa. Nếu có thể thì nên đốt ít lại, không đốt thì càng tốt” - thầy Thích Phước Niệm nói.
-
Loài người đó bước vào thế kỷ thứ 21 được một thập niên với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin, dịch vụ chăm sóc sức khỏe… Cuộc sống của mọi người cũng đủ đầy, sung túc hơn rất nhiều.
Nhưng dường như sự dư thừa về vật chất vẫn không bù đắp nỗi bất an, lo lắng sợ hói về tinh thần. Xã hội càng hiện đại, mọi người càng quan tâm đến đời sống tâm linh nhiều hơn. Đến chùa ngày nay không chỉ là các cụ già. Quý vị chỉ cần lướt qua vài chùa lớn ở các thành phố vào ngày mồng một hoặc ngày rằm và đặc biệt vào ngày Tết thì số lượng đông hơn rất nhiều và đủ mọi tầng lớp, thành phần trong xó hội. Mọi người đến chùa là hướng tâm đến ngôi Tam Bảo và ai cũng thấy lòng nhẹ nhàng thanh thản với cảm giác bình an như được che chở.
Nhưng bên cạnh đó, việc đi chùa lễ Phật vẫn cũn tồn tại những vấn đề khá nan giải là hiện tượng đốt vàng mã để cúng và cầu nguyện may mắn…. Hầu như mọi người đều làm theo thói quen, hễ “ai làm thế nào mình cũng làm theo như vậy”, mà không biết rừ nguồn gốc của sự việc ấy. Việc đốt vàng mã khi ở chùa, cho đến ở nhà, trong các đám cúng…. đó trở thành tập tục và ai cũng nghĩ không làm thì thiếu sót, sợ không có “lộc”, sợ có lỗi với người quá cố, sợ ông bà tổ tiên quở trách…. Nhưng cũng có nhiều người biết việc đốt vàng mã là không có lợi ích mà họ vẫn làm để giảm bớt đi nỗi bất an trong lòng.
Bản thân tôi 10 năm trước đây cũng đó từng làm như rất nhiều người: Dùng tiền thật mua tiền vàng giả trong mỗi lần đi chợ, ngày ông công, ông táo (23 tháng chạp…) ngày rằm, ngày mồng một ở nhà, cũng hình nhân thế mạng… Nhưng thực sự “lộc” đâu chưa thấy mà chỉ thấy mất tiền và cũng không giải quyết được đau khổ của chính mình.
Thật may mắn và hạnh phúc khi tôi gặp được pháp môn của Hòa thượng Thích Thanh Từ. Sư Ông và quý Thầy đó chỉ dạy cho tụi con đường chuyển hóa nội tâm để bớt đau khổ, trong đó có việc chấm dứt hoàn toàn việc đốt vàng mã. Tôi cùng hàng ngàn Phật tử Thủ đô đó thực hành theo lời dạy quý báu đó và một điều kỳ diệu, cuộc sống của chúng tôi ngày càng đầy đủ hơn và bình an hơn.
Đến nay, hội đủ duyên lành và với lòng từ bi thương xót chúng sanh, quý thầy - Tỉnh Thiền TVTL Sùng Phúc đó bỏ công sức, thời gian sưu tầm và biên tập lại bài báo “Bàn về đồ mã” của báo “Đuốc Tuệ” (Phụng sao lục: Khánh Anh) *, cho những ai cũng mờ mờ chưa nhận rõ được lẽ thực. Cầm cuốn sách trên tay lòng tôi rưng rưng xúc động khi nội dung cuốn sách quá đầy đủ rừ ràng về việc vàng mã. Và những ai có đủ duyên lành đọc tập sách mỏng này sẽ tự quyết định cho mình có nên tiếp tục sử dụng đồ vàng mã hay không một cách sáng suốt, đầy trí tuệ.
Vũ trụ tuần hoàn, một mùa xuân mới nữa lại về! Xin trân trọng giới thiệu với quý độc giả gần xa món quà Xuân thật bình dị cùng lời chúc một Năm mới an lành, ngập tràn niềm vui và may mắn!
Cư sĩ
Huệ An
BÀN VỀ ĐỒ MÃ
(của báo đuốc tuệ)
Giở xem thế giới sử, sẽ thấy cả toàn cầu vạn quốc, nước nào cũng vậy, hễ văn minh tiến lên bao nhiêu thì dã man phải tụt xuống bấy nhiêu; đó cũng là một cái công lệ bởi trò đời thiên diễn. Những sinh vật giữa vũ trụ đều có sức mạnh vô hình, nó cạnh tranh phấn đấu với nhau, hễ mạnh thì được, yếu thì thua, khôn sống bống chết. Sự cạnh tranh đó dẫn đến bước đường tiến thủ, để thành lập trên trường thiên nhiên tiến hoá, nên gọi là thiên diễn.
Dân tộc Việt Nam ta đã gần trăm năm lại đây (khoảng năm 1967), đã hấp thụ được những phong hoá trào lưu mới, từ bên Âu Mỹ truyền sang, cho nên dân trí ngày một mở mang, tục lệ ngày càng sửa đổi. Đối với giấc mộng mê muội nghìn xưa, hiện nay cũng đã đôi ba phần cắt đứt được bức màn vô minh, mà đưa tầm mắt mở rộng trên con đường tỉnh hồn giác ngộ. Việc các nhà trí thức đồng tình, nhất trí về chuyện hô hào tẩy chay đồ mã, là một ví dụ để đủ làm cho chúng ta thấy rõ sự sự thay đổi đó.
Kìa như bên Trung Hoa, từ dân quốc cách mạng, chính phủ ra huấn lệnh cho nhân gian biết, nên bỏ cái hủ tục đồ mã ấy đi. Nước ta, tại Huế, triều đình đã ra lệnh bỏ tục đồ mã trong việc tế tự. ngoài Bắc, tỉnh Thái Bình, cụ Thượng thư Văn Đinh đã thi hành bỏ đồ mã (cách nay khoảng 50 năm). Giới báo chí suốt trong nam ngoài Bắc cũng tham gia tích cực vào việc bài trừ đồ mã. Vậy nguồn gốc và lợi hại của đồ mã thế nào? Và vì sao những người có học thức lại phản đối việc dùng đồ mã?
NGUỒN GỐC CỦA ĐỒ MÃ
Từ phong hoá, chính trị, cho đến tôn giáo của nước ta đều chịu ảnh hưởng của Trung Hoa cả; nên bàn đến việc gì đã có trong nước ta, khi phăng cho tận gốc, xét cho thấu nguồn thì phần lớn đều từ Trung Hoa truyền sang cả, điều này hầu như không thể phủ nhận được.
Nước Trung Hoa về đời Thượng cổ(1), khi người chết thì lấy cây củi bó giát lại rồi khiêng ra để ngoài đồng không mông quạnh, chứ không chôn, không dựng bia; thấy trong Kinh Dịch nói như vậy. Đến đời vua Hiên Viên Hoàng đế (2.697 trước DL), cử ông Xích Tương làm chức Xuân quan Mộc chính; ông này mới phát minh chế tạo ra quan quách. Sách Sử Ký nói như vậy.
Về sau, cái lễ đối với người chết ngày càng thêm hậu, nên nhà Hạ (2.205 trước DL) nắn đất ra làm cổ, bàn..., lấy tre, gỗ làm các đồ khí cụ như: đàn, địch, kèn, bồng (trống kiểu cổ, hai đầu bịt da, giữa eo lại), trống, phách, chung, khánh v.v... gọi là đồ Minh khí để chôn theo người chết. Những đồ này cũng gọi là Quỷ khí, nghĩa là đồ để dùng của Thần minh ma quỷ (trong sách Lễ Ký). Cái nguyên lai dùng đồ mã là từ đấy.
Đến nhà Ân (1.765 trước DL) đối với người đã từ trần, thì không chôn theo Minh khí mà lại chôn theo Tế khí (các món hào soạn toàn là đồ thiệt dụng trong khi cúng quảy) là đồ thật dụng cả. Đó là sách Lễ Ký ghi như vậy.
Số người sinh sản càng ngày càng nhiều, các thứ vật dụng là đồ thiệt (Tế khí, Tế phẩm), phải để cung cấp cho người sống mà hạn chế bớt đi, nên nhà Châu (1.122 trước DL) lại phải chia ra làm hai bậc, nghĩa là bậc quới (phú quý) và bậc tiện: Quới là từ quan Đại Phu, lên đến Thiên Tử thì được dùng cả Quỷ khí (đồ giả) và Tế khí (đồ thiệt); bực tiện là từ sỹ phu xuống đến thứ dân thì được dùng một thứ Quỷ khí mà thôi. Đó là lời chép trong sách Châu Lễ.
Đến chính thể độc quyền áp chế của quân chủ nhà Châu thì sự cúng tế đối với người chết, nhất là những người thuộc hàng vua chúa, quý tộc, lại trở nên xa hoa tàn nhẫn! Thậm chí những người mà vua yêu dấu như: Vợ, con, tôi hầu thì sau khi vua chết, bọn họ đều bị chôn sống theo vua cả, thế gọi rằng Tuẫn tán. Cái ác tục này, chẳng riêng gì một thiên tử, các vua chư hầu cũng phải làm như thế cả.
Sách Tả truyện chép rằng: “Năm Văn Công thứ sáu, vua Tần Mục Công tên là Háo Nhâm chết; ba anh em họ Tử Xa đều bị chôn sống theo vua, vì nhà vua lúc sanh tiền yêu thương ba người ấy. Nhân dân trong nước tỏ lòng thương tiếc, nhơn đó làm ra bài thơ “Huỳnh Điểu”. Thư Huỳnh Điếu thUỘC về Tần Phong, trong thơ đại ý nói : “Thùy tong tuẫn hề Tử Xa tam nhơn, như khả thục hề, nhơn bách kỳ thân”: Nghĩa là ai chết theo Mục Công, ba anh em họ Tử Xa là Yêm Lức, Trọng Hành, Châm Hổ, ba người mà tài trí đức hạnh gấp trăm nghìn người, trời đất quỷ thần ôi! Sao nỡ giết sống, nếu mà chuộc đặng thì ba trăm người như chúng tôi xin vui lòng chết thế cho.
Chao ôi! Dã man tàn khốc còn gì bằng! Nhân dân đã biết cái tục chôn sống là một cái thói vô nhân đạo, nên đến nỗi phải kêu gào Trời đất như thế, lẽ tất nhiên là phải tìm vật khác để thay vào. Nhân đó mới tạo ra Sô linh là một thứ người làm bằng cỏ. Bằng cỏ(1) thì không có chi là mỹ thuật, nhân đó lại chế tạo ra bằng gỗ gọi là Mộc ngẫu hay gọi là Dõng (bồ nhìn). Trong sách Liệt Tử, Thiên Khang Vân chép rằng: Mộc ngẫu có từ đời Chu Mục Vương (1.001 trước DL) do ông Yến Sư phát minh(2)
Rất ác cảm với người gỗ nên Đức Khổng Tử bảo rằng: “Kẻ nào tạo ra Bồ nhìn, là kẻ bất nhân.” Lời đó chép trong sách Lễ Ký. Thầy Mạnh nói: “Thỉ tác dũng giả kỳ vô hậu hồ”: Nghĩa là ai tạo tác ra Bồ nhìn là kẻ tuyệt tự. Vì bởi, do có ác tục từ chôn sống người thật, đến thay người giả bằng cỏ thiêng (Sô linh), và người gỗ Dõng, nó cũng có tai, mắt, mày cử động hẳn hoi, nên nói: “ Kẻ khởi đầu tác Dõng kia, chắc sau này con cháu không khá nổi”!
Từ đời Hán về sau, những người thượng lưu trí thức, ai cũng công nhận Khổng Tử, Mạnh Tử là thầy hướng đạo về nho giáo đối với việc làm Mộc ngẫu để cúng cho người chết, mà hai Ngài đã cự tuyệt bằng lời đau đớn thảm thiết như thế kia, thì ai lại còn dùng đến cái xấu xa đã bất nhân và tuyệt tự ấy nữa!?
Đã thủ tiêu đồ Mộc ngẫu rồi, thì người ta trở lại dùng toàn đồ thiệt cả, nghĩa là từ thằng tôi tớ, con hầu, đến nhà cửa, trâu ngựa, xe cộ, đồ ăn, thức chơi, nhất thiết đều là đồ thiệt, sau khi cúng tế rồi đem hết ra mộ, nhưng không chôn sống theo nữa, mà cho lưu cư ở tại mộ phần.
Đời Hậu hán, vua Hòa Đế, hiệu Nguyên Hưng năm đầu (105 sau kỷ nguyên), có ông Thái Luân(1) bắt đầu chế ra giấy. Đó là Sách Hán Ký chép như vậy. Từ đó đã có giấy rồi, sau đó lại có ông Vương Dư chế ra giấy tiền vàng bạc, để thay cho tiền bạc thiệt trong lúc tang ma tế tự(2).
Sách Pháp Uỷên Chu Lâm chép rằng: Vàng bạc giấy tiền sản xuất ra là từ quan trưởng sử tên là Vương Dư đời Đường, dùng trong việc tang ma tế tự. Trong truyện Vương Dư chép rằng: Từ đời Hậu Hán, trong việc tang ma vẫn dùng tiền bạc thiệt, để chôn theo người chết; đến đời Đường, ông Vương Dư mới dùng tiền bạc bằng giấy thay vào hoặc tẩn liệm, hoặc rải bỏ dọc đường, hoặc đốt đi. Đời Tống, ông Vương Viêm nói: “Đến ngày Thanh Minh, tu tảo phần mộ rồi, dùng giấy tiền vàng bạc và các thứ giấy mầu, để treo hay chôn nơi mộ phần, hoặc dùng áo mão, giày, cùng các thứ khác bằng giấy để cúng, hay thờ quỷ thần. Những lối dùng các thứ đồ bằng giấy đó, mới có từ đời Hậu Hán. Sách Thông Giám Cương mục chép: Đời Đường, Vua Huyền Tôn khai nguyên 26 (737 sau kỷ nguyên), vì nhà vua mê tín theo thuật quỷ thần, dùng người Vương Dư làm chức Thái Thường bác sĩ, để coi việc đốt giấy tiền vàng bạc trong khi cúng tế.
Giấy tiền vàng bạc cùng các thứ giấy khác đã có, thì những cái lốt bóng hình như vợ hầu, con cái, tôi tớ, cửa nhà, xe cộ, đồ đạc, vật dụng, áo quần, lục súc, cho đến tất cả thứ có như trước kia đã nói, để thay thế cho người gỗ hay người sống, kêu bằng hình nhân thế mạng. Lại nữa, trăm nghìn vật khác làm bằng giấy cũng gọi là Minh Khí đồng thời xuất hiện liên miên, thành thử người Trung Hoa thời đó đua nhau chuộng đồ mã.
Lúc đó, Phật giáo đương thịnh hành ở Trung Hoa, người Trung Hoa tìm cách lợi dụng đồ mã cho phổ cập nhân gian. Nhân đó, ngày rằm tháng bảy, phong tục trong nước làm lễ “Trung nguyên” có nhà Đạo sĩ tên là Đạo Tạng, vào triều yết kiến vua Đường Đại Tông (762 sau kỷ nguyên), y tâu rằng: “Hạ thần nghe nói hôm nay Diêm Vương dưới âm phủ xét định tội phước cho các tội phạm và ân xá mở ngục, tha tù; vậy xin Bệ hạ xuống lời thông sức cho nhân dân phải dùng Minh Cụ là các đồ mã, khấn rồi đốt đi, đặng cho vong nhân dùng”. Lời ấy xuất trong kinh “Đạo Tạng” của Đạo Tiên, thế là đồ mã chiến thắng cả hai tông giáo mà đưa chân lý vùi xuống vực sâu vô để(1)!
Không bao lâu, đối với đồ mã, người Trung Hoa lại có ý chán, những hàng đồ mã không tiêu thụ được mấy vì ế ẩm. Cái nghề chuyên môn gia truyền của họ Vương phải gần bị thất nghiệp. Do đó, con cháu họ Vương cố sức tìm cách để chấn hưng trở lại. Sách Trực Ngôn Cảnh Giáo chép: Ông Vương Luân là dòng dõi của Vương Dư, là nhà làm nghề đồ mã và giấy tiền bạc, đương đời vua ẩn Đế nhà Hán (một trong Ngũ quý, 948 sau kỷ nguyên), Vương Luân vì muốn cái nghề của tổ phụ di truyền khỏi phá sản, liền lập mưu với một người bạn thân, cùng nhau thiết kế rất bí mật. Nghĩa là người bạn kia giả đò đau ốm cho ai nấy đều biết, chừng bốn, năm bữa có tin “cáo phó” rằng đã chết và hiện đã tẩm liệm vô quan tài rồi, chỉ đợi đến ngày giờ tốt là di linh cửu táng an phần mộ. Nhưng kỳ thật, người ấy vẫn còn sống và mạnh khoẻ như thường, tuy ở trong quan tài, nhưng vẫn có lỗ trống dưới đáy, để thở và đút đồ ăn uống. Đến ngày khởi hành cất đám, lễ nhạc linh đình, phúng điếu nườm nượp, ông Vương Luân đem đối lụy, giấy tiền vàng bạc, hình nhân thế mạng, cả đồ mã đến làm lễ Tam phủ (thiên phủ, thần phủ, địa phủ) (1), cầu cho người bạn may ra hoàn hồn sống lại. Uý chà chà, linh thay! Quan tài tự nhiên rung động, làm cho ai nấy mười mắt trông vào, cùng nhau dỡ quan tài, người bạn quả nhiên sống lại, cám ơn Vương Luân, và thuật chuyện cho công chúng nghe rằng: “Chư vị Âm thần đã nhận được bạc vàng đồ mã, rồi liền thả ba hồn bảy vía cho về. Do đó, ai nấy đều tin phăm phăm mà đồ mã và giấy tiền vàng bạc lại thêm nức tiếng.
Tìm xét tận nguồn gốc, khám phá thấu kế mưu thì biết đó là cái hủ tục tập quán của Trung Quốc, cái thủ đoạn gian hùng của Vương Luân. Như cái cơ mưu đã bại lộ, cái hủ tục rõ ràng rồi, phàm là người có trí thức, lại dại gì còn bị lừa gạt mà lãng phí một cách vô lý vậy?
Nước Việt Nam ta từ đời ông Khúc Thừa Dụ, Khúc Thừa Thảo (906 sau kỷ nguyên) về trước vẫn ở dưới quyền nội thuộc (1) và đô hộ của Trung Hoa. Nghĩa là bắt đầu từ Tây Hán, Vũ Đế sai người là Lộc Bá Đức, Dương Bộc làm tướng, đem binh qua lấy An Nam... cho đến đời Ngũ quý, bấy giờ nước ta có ông Ngô Quyền đuổi quân Nam Hán về Trung Hoa. Từ đời Tây Hán đến đời Nam Hán, thỉ chung tính được 1.050 năm. Bởi nội thuộc trong khoảng thời gian đó nên hễ phong tục Trung Hoa có những gì, bất luận hay dở, phải trái, nước ta cũng phải bị quyền lực bắt buộc mà học tập tiêm nhiễm theo cả.
THỬ XÉT TRONG VIỆC CÚNG QUẢI ĐỐT ĐỒ MÃ CÓ NGHĨA LÝ GÌ KHÔNG
Những người đốt đồ mã để dâng cúng cho Phật, Thánh, Thần, Tiên, sự dâng cúng đó phải chăng cung kính hay khinh mạn? Chúng ta thử nghĩ coi, xét như Phật khi còn làm Thái Tử, sẵn có cái sự nghiệp phú hữu tứ hải mà Phụ vương sắp giao phó cho, không thiếu một vật gì quý báu, thế thì Ngài là một ông vua cực kỳ giàu sang rồi. Đối với con mắt phàm tục của nhân gian, thì ai cũng cho cái sự nghiệp đó là bậc duy nhất trên cõi đời thật tế. Nhưng Ngài lại cho sự nghiệp đó là món hữu hình, hữu hoại, không sao bền chắc thường còn được. Ngài liền vứt bỏ đi như giũ bụi trần, mà quyết chí giải thoát để tìm chân lý bất sanh bất diệt.
Sau khi tìm đặng rồi, thì hiển nhiên Ngài đã hoàn toàn một ngôi “Phú hữu vạn đức” cho đến thần thông, trí huệ, thảy đều viên mãn một cách cứu cánh vô thượng.
Còn như các vị Bồ Tát, Thánh Hiền, Thiên, Tiên, Long Thần cũng là những bậc lớp đã tu nhân tích đức tuỳ theo mỗi địa vị, đều có phước đức trí huệ thần thông diệu dụng, không thiếu một món nào cả.
Xét lại chúng ta đây, còn là phàm phu, đem so với các Ngài thì nào là của quý báu, phước đức, trí huệ, thần thông phép lạ ức triệu phần mà chúng ta đã kịp được phần nào chưa? Thế mà chúng ta dám cả gan đem toàn những đồ mã giả dối, xấu xa hèn mạc bởi giấy má, hồ thiêu, a giao thúi làm ra, để dâng cúng cho các Ngài, sao mà vô lễ lắm thế. Nếu các Ngài có thâu nhận đồ mã thì để làm gì? Mấy người làm áo mão giầy vớ đó, đã có so vừa cái thân, cái đầu, cái chân của các Ngài chưa? Nếu không vừa, hoặc nhỏ quá, hay ngắn quá thì các Ngài xử dụng sao đặng? Đã không vừa thì các Ngài bỏ đi, hay để vào đâu? Chúng ta đã biết mấy anh làm đồ mã không so đầu, mình, chân của các Ngài, nên không vừa, các Ngài xài không đặng mà phải bỏ đi thì chúng ta mua chi cho tốn tiền, dâng cúng chi cho thất lễ! Đối với các Ngài, thì chúng ta đây khác nào như kẻ: Nhà dột cột xiêu, thiếu sau hụt trước, cơm không khẳm miệng, áo chẳng kín thân, hàng ngày vật lộn với công ăn việc làm, đầu tắt mặt tối, bỏ con nhỏ khóc đỏ bong bóng mũi, cả ngày chưa có cơm sữa vào mồm, trong nhà đã là nghèo sát đất, khổ tận mạng đến thế mà lại dám đi làm phách với ông nhà giàu sang (Phật, Thánh, Thần, Tiên), đem tiền của vật dụng giúp cho ông, tưởng rằng ông chẳng bằng mình. Đó, chư thính giả thử coi xem, có quả sự thật như vậy không? Đối với chư Phật và các Thánh, Thần chúng ta khác nào người nghèo khổ (vì không phước đức, trí tuệ) kia, đối với ông nhà giàu nọ. Chúng ta tưởng làm như vậy là cung kính các Ngài, nhưng thực ra làm như vậy lại hóa thành khinh dễ các Ngài, và bêu tiếng xấu cho các Ngài. Vì chúng ta cho các Ngài là keo kiệt lắm, cháy túi không có tiền xài, trắng tay chẳng có vật dụng, phải nhờ chúng ta mới có tiền bạc đồ dùng, nên gọi là khinh dễ. Tưởng cho các Ngài cũng như bọn quan tham ô lại, thi vị tố xan, đối với kẻ tốt lễ dễ kêu, đa kim ngân phá luật lệ. Thế thật ra là bêu xấu mà thôi chứ nào phải cung kính. Đó chư thính giả xét cho rõ ràng như thế, thì không còn lẽ nào dùng giấy tiền vàng bạc đồ mã để cúng Phật Thánh, Thần, Tiên nữa vì vô nghĩa lý, quá ư phi lễ.
Trái lại, nếu chúng ta muốn được các Ngài thương tưởng phù hộ thì chúng ta phải giữ tâm thành thật, mở lượng nhân từ, thương xót người ngay, khuyến hoá kẻ ác, chẩn bần cứu nạn, cùng làm các điều thiện phước đức, làm như vậy chẳng những hiện tiền đây được người gần mến xa trông, quan dân yêu chuộng, mà còn được Thần khâm quỷ phục, danh thơm tiếng tốt, bia truyền miệng thế đến mãi đời sau. Nhất là chúng ta noi theo cái thành tích đại công, đại đức bởi tấm lòng chính đại quang minh của các Ngài, nếu chúng ta tâm thể lực hành theo thì có lẽ một ngày kia còn có thể theo được cái địa vị như các Ngài là khác, chứ chẳng những chỉ được các Ngài thương tưởng phù hộ trong đời hiện tiền mà thôi.
ĐỐT ĐỒ MÃ CHO VONG NHÂN CÓ NGHĨA LÝ GÌ KHÔNG
Lối thường tình thương cảm của người đời: Vì lòng tương thân tương ái, vì nỗi sanh ly tử biệt, vì niềm thương tiếc nhớ nhung với nhau, thành thử muốn tỏ tấm lòng báo đáp cùng nhau, song không biết xét suy làm việc chính đáng; lại làm theo lối mê tín dị đoan như là: Đi khoa bói, cầu vía hồn, tin theo Bóng chàng, mưu thần chước quỷ, nào sát sanh để tâu rỗi lo lót, nào là đặt mã để gởi nạp thế cho, cứ nhắm mắt đi theo lối “xưa bày nay làm” không chịu xét điều phải lẽ trái.
Xin hỏi: Nếu quả ở dưới âm phủ có dùng các thứ đồ mã thì các dân tộc ở trong vạn quốc khắp thế giới từ thuở chưa tạo đồ mã, cho đến ngày nay đã biết bao là người chết, mà chỉ có nước Trung Hoa và nước Việt Nam mấy nhà có người đốt đồ mã gửi xuống cho, thì vong giả của nhà ấy mới có mà xài dùng; còn các vong giả đời Thượng cổ là đời chưa có đồ mã, và các vong của mọi nhà trong các nước kia, dùng bằng thứ gì? Lại, đốt đồ mã, chỉ đốt nội trong tuần tự ba năm; đến bốn, năm năm về sau, không ai đốt cho nữa, thì vong giả phải dùng bằng thứ gì? Lại, đốt thì chỉ đốt những đứa ở, con đòi, cả lục súc, chứ không đốt cơm, mắm muối, dưa, rau, cỏ, rơm rạ, thì người thế và sáu vật đốt thế xuống đó, chúng nó lấy gì ăn uống? Lại, dẫu có gửi vật thực đốt theo, mà những hình nhơn súc vật đó chúng nó lấy gì ăn uống? Lại, dẫu có gởi vật thực đốt theo, mà những hình nhơn súc vật đó, trong thân nó không có hai hàm răng, cuống họng, ruột non, ruột già, cả ngũ tạng lục phủ là bộ máy tiêu hoá thì làm sao chúng ăn được sống được? Dầu có ăn được, rồi làm sao chứa được và xuất sở? Vì không có bao tử và đường đại tiểu tiện, chắc phải chịu bí rồi chết mà chớ!
Lầu, kho, nhà Minh khí làm chừng bấy cao, cửa chừng bấy rộng, mà làm quần áo thì chừng bấy to bấy dài, giả như bận bộ quần áo lớn thế đó, làm sao lọt vào cái cửa nhỏ như thế kia? Nếu vào không đặng, phải ở mãi ngoài trời để chịu nắng mưa mãi sao? Nhà khi ấy đem xuống để vào đâu? Đã mua được vạt ruộng đất nào chưa? Vậy, có phải làm thêm chuyện rắc rối, nhọc lòng khó liệu định cho vong giả không? Vì nhà không ở được, đất chưa khẩn đến, biết để chỗ nào?
Giấy tiền vàng bạc gởi cho vong nhân đó đã có chữ ký của hai chính phủ (âm phủ dương gian) chưa? Như có chữ ký rồi thì lẽ tất nhiên chúng ta đem giấy tiền, bạc ấy ra chợ mua chác và đem đóng thuế cho nhà nước được, vì đã có chữ “âm dương ngân hàng”. Còn như dương gian xài không đặng thì âm phủ làm sao mà xài được ? Vì không có hai chính phủ nhận thật cho thông hành, vong nhân tất phải ở tù vì xài giấy bạc giả. Còn nếu nói “tiền ma gạo quỷ” ở dưới âm phủ xài đặng, thì ra cho ông bà cha mẹ đã quá vãng đó thành quỷ rồi sao? Thế ra gởi tiền bạc xuống để làm tội làm nghiệp cho vong nhân rồi! Vì phải ở tù, đọa ma quỷ. Phàm là người có tấm lòng hiếu để biết tưởng đến ân nghĩa của ông bà cha mẹ mà nỡ nào làm vậy sao?
Vả lại, làm tuần truy điệu là ý muốn báo đáp cho vong linh, cúng Phật tụng kinh là cốt để cầu siêu về Tịnh độ, mà đã được siêu về Tịnh độ rồi thì mỗi món gì cần dùng, muốn chi có nấy, vì là cảnh rất thanh tịnh, người toàn Thánh hiền, khoái lạc vô biên, không một tý gì thiếu sót, nên gọi là an lạc và an dưỡng Tịnh độ. Thế mà lễ cúng thì dâng sớ cầu siêu về Tịnh độ, còn gởi đồ thì buộc vong nhân phải xuống âm ty, để dùng đồ mã đó, thật là mâu thuẫn hết chỗ nói, vì nói một nơi mà làm một ngả, có phải trống đánh xuôi, kèn thổi ngược đó không? Như vong nhân được siêu sanh về Tịnh độ thì đồ mã dưới âm phủ ai xài? Tất nhiên bỏ đi chứ gì? Hay là đem luôn về Tịnh độ? Vô lý, vì trong kinh A Di Đà, đức Thích Ca nói như vầy: “Bên nước ấy, hẳn không địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, đến đỗi cái Danh của ba thứ ấy cũng không có, huống chỉ có cái Thật”. Thế mà nay chúng ta gửi súc vật ấy cho vong nhân đem về Tịnh độ, có lẽ Phật, Bồ Tát, Thánh hiền, đều lấy làm ngạc nhiên, lạ lùng lắm! Mà lại gây giống súc vật về bên nước ấy thì ra uế độ rồi chứ đâu phải Tịnh độ, vì cũng có súc sanh, không đúng như lời của đức Thích Ca nói. Lại nữa, ở Cực lạc Tịnh độ mà còn phải nhờ của chúng ta ở cõi khổ Ta bà gởi qua cho, mới có mà dùng thì đâu phải là An Dưỡng quốc Cực lạc giới, vì còn thiếu thốn vật dụng như mấy cõi phàm phu. Những lầu, kho, nhà, Minh khí, cho đến tiền bạc giấy đó, nếu đem về Tịnh độ thì có coi ra cái quái gì? Vì kinh nói: “Trong nước ấy, lầu, đài, cung điện, đất cát, cây cối, nhất thiết toàn là vàng ngọc châu báu làm thành ra cả”; chứ đâu phải như cây lá, ngói gạch, sắt đá làm ra nhà cửa cảnh vật như ở cõi này, huống lại làm bằng giấy, thì có ra chi so với cõi “huỳnh kim vi địa”.
Lại một điều đặc biệt này nữa, khi làm lễ phần mã, ông “thầy cúng” hay huơ cây hương, miệng đọc thần chú, rằng: “án A án á, biến thiểu thành đa, hoá vô vi hữu, sa số hằng hà”. Nghĩa là biến ít ra nhiều, hoá không ra có. Mới nghe qua, chắc ai cũng cho ông thầy cúng ấy là một đại Tổ sư của nhà hóa học, có phép tài huyền diệu lắm chứ chẳng vừa. Vậy, đương buổi kinh tế khó khăn này, chúng ta đem một đồng bạc nhờ ông làm phép thư phù, đọc chú khiến cho một đồng biến hóa ra ức triệu đồng, cho đến hằng hà sa số đồng đều được như chơi, vì “không” còn hoá ra “có” đặng, như lời ông đọc thần chú đó, huống hồ “ít” hoá ra “nhiều”? Nếu hoá được như vậy thì toàn cầu nhân loại đều nhờ ông, từ đây không còn ai phải làm thân vất vả trên đường sinh hoạt eo hẹp nữa, thần kinh tế sẽ bị đầy Côn lôn chung thân. Nhất là ông thầy ấy kiến trúc một cái lầu cao nhất thế giới, gần đụng cái nhà dưới của Ngọc Hoàng, chớ chẳng như cái lầu chọc trời mà thôi; để phòng khi ông đi cúng đám về, có mệt mỏi, muốn lên lầu nghỉ ngơi chơi thì ông đứng ngoài sân làm phép: Nào hút gió vo vo, nghiến răng trệu trệu, bắt ấn cái chách, dậm chân cái thịch, nhún mình xít một cái là đã vọt tuốt lên đến tận từng lầu cao tít mù. Ôi! Khoái biết chừng nào, chứ đâu chịu lục tục, lẩn quẩn, chung lộn với chúng ta sát mặt đất cái này. Vì lời xưa đã nói: “Có tiền mua tiên cũng được”, huống là ông lại có tiền một cách biến hoá vô cùng, hằng hà sa số thì làm chi chẳng được, huống chi một cái lầu.
Đáng khâm phục lắm, vì mới nghe qua ai cũng tưởng ông thầy cúng đám này đủ quyền pháp linh thiêng, bởi có tài thiên biến vạn hóa sẽ làm một đức Chúa tạo vật thứ nhì, xuất thân giữa đời thật tế khoa học vạn năng này, thì từ đấy về sau chúng sinh trong thế giới sẽ nhờ ông mà được đại đồng hạnh phúc biết chừng nào! Nhưng khốn nỗi, xét lại thì biết ông thầy cúng ấy chỉ có cái tài nói dóc láo, vì nói có không hữu danh vô thật, bởi không biến hoá được nhất điếu nhất xu nào cả. Xưa nay các chủ đám đều vì mấy ông ấy mà hao tài tốn của chẳng ít!
Về Nhân thừa Phật học, đại khái Phật dạy rằng: Phàm là người hiếu tử thuận tôn, có lòng nhiệt thành, muốn làm phước độ vong thì phải làm thế này: “Tuỳ lực làm việc từ thiện, như là chẩn bần, cứu khổ, giúp người tàn tật, ốm đau, kẻ mồ côi, già yếu mà không ai cấp dưỡng, bắt cầu, đắp đường, thí thuốc, thí nước, làm nhà nghỉ mát giữa đường, trồng cây trái theo lộ, thí thực cô hồn...”. Đó là bề ngoài, còn bên trong thì, cả nhà trai giới, niệm Phật tụng kinh, tọa thiền, tu tập để đem công đức ấy hồi hướng cho vong giả được phần tế độ, thế là báo ân báo hiếu mà âm siêu dương thới. Trái lại, nếu miệng nói một đàng, tay phan một nẻo, khác nào trồng giống Bồ hòn, muốn thành Cam mật thì thành thế nào được.
Để số tiền lãng phí vào đồ vàng mã của một người, cho đến ức triệu người, từ một năm đến nhiều năm đó, dự trữ vào kho cứu tế hội phước thiện, phòng khi có xẩy ra thiên tai nhơn họa thì xuất khoản tiền đó ra đặng chẩn cấp cho đồng bào trong khi ngặt nghèo khốn khổ, một miếng khi đói bằng một gói khi no, há chẳng phải là việc vừa thiện lương vừa ích lợi đó sao?
Lại nữa, số tiền dự trữ trong công quỹ cứu trợ đó, ước chừng năm năm, đã có hàng trăm hàng nghìn, hàng triệu đồng, vì số người 25 triệu (khoảng năm 1.960), trừ ra phần ít người đạo:Thiên chúa, Tin lành, Tân học) còn phần nhiều nếu có đốt vàng mã, mỗi nhà một năm ít nhất cũng tốn bốn năm đồng bạc. Vậy thì lấy số quân bình, một người một đồng góp lại chừng năm năm, thành ra số lớn nói trên, đem số lớn đó ra, hoặc mua ruộng, lập trường, lập xưởng công nghệ, rước thầy thợ chuyên môn dạy học nghề này, nghiệp nọ, ước chừng mười năm, đồng bào ta nhơn đó mà mở mang nghề nghiệp, phát đại hiền tài, quốc phú dân cường, cho đến chi chi nữa là khác.
Việc lợi ích chung lớn lao trước mắt như thế mà chúng ta không chịu làm, lại làm chi cái lãng phí vô ích thì bảo sao đồng bào ta không nghèo mạt, không nô lệ, không chịu vày đạp dưới gót phú cường. Hỡi ai là người có lòng biết suy nghĩ, xin mở rộng con mắt ngó xa, xét kỹ coi lại có thật vậy không?!
ĐIỀU THIỆT HẠI VỀ VIỆC ĐỐT ĐỒ MÃ
Tuỳ theo mỗi trường hợp công tác và thụ dụng, bất luận việc chi, hễ làm chỉ có ích cho phần mình hay có ích cả mình lẫn người đều gọi là có lợi. Trái lại, làm việc đã tổn cho mình, lại tổn đến người thì gọi là có hại. Xét như đồ mã đây, cả người làm ra và người mua đốt đều thiệt hại cả. Nghĩa là, người làm đồ mã không phải sẵn có nguyên liệu, tất phải mua các màu, giấy cùng các thứ phẩm..., nhưng mấy vật liệu ấy phần nhiều là của ngoại quốc nhập cảng (khoảng thập niên 60), bởi thuế nhập cảng mắc thì họ phải giá cao, người thợ đã mua về mới có nguyên liệu để làm đồ mã. Vậy cả 3 miền - Nam, Trung, Bắc biết bao là thợ mã, số tiền mua các màu, giấy, phẩm… mỗi năm ước có bạc triệu lọt ra ngoại quốc. Vì thế mà thêm một phần nghèo cho nước nhà của đồng bào! Vậy có phải thiệt hại không?
Các nhà thợ mã ấy đã không làm được các vật thật dụng tinh xảo của đời thực tế này để giúp thêm kiến thức về tinh thần, đỡ vớt đói khát về vật chất cho đồng bào thì chớ, mà lại cứ duy trì mãi cái thói hủ tục nhảm nhí, làm những đồ giả dối khiến cho tàn rụi tinh thần, hư hỏng vật chất của giống nòi Việt Nam như vậy, có thiệt hại không?
Vả lại, hàng năm cả tàu nọ, tàu kia chở đầy giấy tiền bạc đem bán cho nước ta; rồi chở đầy nhóc lúa gạo về nước người, mặc dù đổi chác với nhau, kêu bằng tiền trao cháo múc, nhưng xét kỹ ra thì đổi chác một cách quá ư khờ dại, vì thứ nuôi sống đặng thì về người, thứ không ăn được thì về mình, vậy có thiệt hại không?
Về phần người mua đồ mã: Các nhà giàu có, không chịu suy cùng xét cạn, bàn phải luận đúng, chỉ vì cái quan niệm sanh ly tử biệt, chỉ theo cái tập quán xưa bày nay làm, thành thử trong gia sản có những vật dụng gì thì đặt làm đồ mã cho đủ những vật dụng ấy, ước chừng tốn phí có bạc trăm, tiền nghìn chớ chẳng ít. Còn mấy nhà nghèo, cũng chỉ vì cái quan niệm, lối tập quán đó thì đặt làm vài cái lầu kho, đôi ba bộ quần áo, ít ra cũng tốn năm, sáu đồng bạc, mà sau khi đốt rồi, không thấy vong giả về đem đi một món nào cả, thì đã chẳng giúp ích chi cho người vong, lại tổn hại cho người sống, vậy có thiệt hại không?
Đem số tiền thật dụng đó mua lấy đồ giả dối kia, đã không đỡ đói khát gì được, lại rốt cuộc thành đống tro tàn, bụi bay cùng sân; rất nguy nữa là, như bị gió bốc lửa lên cháy rụi cả chùa Minh Tịnh ở Quy Nhơn vào bữa cúng vía Quan Âm tháng 6 năm trước (cách nay hơn 40 năm). Vậy có thiệt hại không!
Phải chi để số tiền lãng phí đó mua bánh trái cùng những đồ thật dụng, trước đã cúng được, sau lại ăn được; hoặc mua thứ chi có thể còn sanh lợi ra được mãi, như mua cây trái, ruộng đất để thường năm có trái, huê lợi, cúng đặng nhiều năm, chẳng là có ích, cái này lại mua đồ vô dụng, thành ra đem số tiền ấy bỏ vào lửa, liệng xuống sông, vậy có thiệt hại không?
Nay đã xét rõ ra cái lẽ giả chơn, lợi hại rồi, thì người làm ra đồ mã bán, người đem về đốt, cả hai đàng đều bị thiệt hại cả, vì một đàng thì cứ bo bo giữ mãi cái thói mê tín cho giống nòi, một đàng thì cứ luôn luôn làm tổn hao cho gia sản, vậy thì ai lại khờ gì còn làm, còn mua đồ mã nữa, nếu các Ngài là bực trí thức!!!
Còn như lo rằng: Thôi làm đồ mã, e các anh thợ ấy phải thất nghiệp? Hồi trước nhiều nhà nấu rượu đế để sanh nhai, đến lúc nha đoan (nhà nước) cấm chỉ, vậy các nhà nấu rượu kia có thất nghiệp đâu, vì họ đổi qua nghề khác ... Lại nữa, các anh chỉ làm nghề bài bạc và các anh ăn trộm ăn cướp sanh nhai nay bị cấm hẳn, thì mấy anh đổ bác, đạo tặc ấy có thất nghiệp không? Nước ta công nghệ hiếm hoi lắm, nếu Nam, Trung, Bắc các anh thợ mã ấy hợp tác với nhau chế tạo ra giấy, mực in thì cả Đông dương các nhà in đều mua giấy mực của các anh, mối lợi ấy, mỗi năm có mấy trăm triệu đồng bạc chứ chẳng ít, chúng tôi cũng mua, để in kinh sách, đặng truyền bá Phật học. Vậy các anh thợ ấy, không những đã làm một việc lợi dân, ích quốc cho đồng bào, lại còn được cao môn phú hộ cho gia đình nữa. Làm được như vậy, có phải công nghệ đã phát đạt, mà sự sống của các anh có chánh đáng không?
GỬI KHO ÂM PHỦ TRẢ NỢ TÀO QUAN
Cái tục này, cũng bởi bên Trung Hoa đem vào nước ta. Sách Liêu Chí chép: “Tục lệ nước Liêu, đến tháng 10 cả quan, dân trong năm Kinh đem nạp các thứ lầu kho vàng mã hội lại kinh sư. Đến ngày rằm, nhà Vua với quan nước Phiên, sắm sanh rượu thịt lễ vật, tả một tờ trạng bảng thứ chữ của nước Phiên mà dâng cúng cho ông Thần ở núi Mộc Diệp, rồi đốt kho vàng mã ấy kêu bằng “ký khố”.”
Đời sau người ta bắt chước theo đó, lúc sanh tiền cúng lễ “điền hườn” gởi kho Minh phủ, hoặc là để sau khi chết xuống đó lấy tiêu xài, hoặc là trả nợ Tào quan, để sau khỏi tù tội. Đó là tục lệ của nước Liêu bên Trung Hoa. Xét ra nước Liêu ở vào khoảng 996 năm trước Dân quốc bây giờ.
Trong sách dạy về chuyện Điền Hườn Thiên Khố nói như vầy: “Người sanh năm Giáp Tý, nguyên kiếp trước là người nước Lỗ, làm quan phụ tá,... phàm người sanh năm Giáp Tý đều thiếu nợ hai vạn ba nghìn quan tiền và ba chục quyển kinh, nay phải trả vào kho thứ ba, giao cho ông chủ kho họ Đoài nhận. Người sanh năm Ât Sửu... cho đến những người sanh năm Quí Hợi, mỗi tuổi, đời trước ở mỗi nước khác nhau, như Tề, Sở, Ngụy, Ngô... đời trước làm sỹ, nông, công, thương, tăng, ni, đạo tục... thiếu nợ, thiếu kinh mỗi tuổi mỗi khác, gởi trả nợ vào mỗi thứ mỗi kho, mỗi ông Tào quan khác họ với nhau, nhưng quanh đi quẩn lại cũng chỉ nội trong sáu chục năm là từ Giáp Tý, chí Quý Hợi mà thôi”.
Tào quan, thì lấy 12 chi, những chữ tương tự với chữ Tý, chữ Sửu cho đến chữ Tuất, chữ Hợi mà làm họ của ông Tào Quan. Như: “Người sanh năm Dần thì ông Tào Quan họ Huỳnh, vì chữ Huỳnh tương tự chữ Dần; sanh năm Sửu thì Tào quan họ Điền, vì chữ Điền tương tự chữ Sửu, sanh năm Mùi thì Tào quan họ Chu, vì chữ Chu tương tự chữ Vị (mùi) ; sanh năm Mão, Tào quan họ Liễu, vì chữ Liễu giống với chữ Mão; sanh năm Tuất, Tào quan họ Thành, vì chữ Thành giống chữ Tuất, sanh năm Hợi, tào quan họ Viên, vì chữ Viên giống chữ Hợi, v.v.”. Rõ là ngụy bịa, lừa gạt.
Tỷ như cái lối trá hàng, nhứt thiên đường, nhị thiên đường, bổn lập trai, mộc lập trai... là nhãn hiệu tương tự nhau.
Thử hỏi, chúng ta là người nước Việt Nam, nếu theo tục lệ nước Liêu bên Trung Hoa mà gởi kho, thì gởi kho cho ông Thần ở nước nào? Vì nước Việt Nam không có núi Mộc Diệp và viết lời trạng để dâng kho ấy, phải viết bằng chữ nào? Vì chúng ta không ai biết viết chữ của nước Phiên. Còn nhân dân bên Trung Hoa ở vào khoảng mấy đời trước nước Liêu, không có cái tục lệ gởi kho đó thì cát hung thế nào? Còn cứ thêm mỗi tuổi Tý, Sửu, Dần... phải trả nợ Tào quan thì chỉ có người An nam và người Trung Hoa mới có chữ Nho kêu bằng tuổi Giáp Tý, Ât Sửu.... Còn các dân tộc ở các nước bên Âu, bên Mỹ chẳng hạn, không có thứ chữ kêu bằng tuổi Giáp Tý, Ât Sửu... đó; người ta chỉ nói rằng; tên A sinh nhằm năm thứ mấy trước Chúa giáng sinh; tên B sinh nhằm năm thứ mấy sau kỷ nguyên. Như thế, thì biết đâu tính số thiếu nợ là mấy? Tào quan họ gì? Gởi trả vào kho thứ mấy ở đâu? Vì các nước ấy không có thứ chữ Giáp Tý, Ât Sửu... thì lấy gì định dẹo, đặt điều như ở bên Trung Hoa? Cả các dân tộc ấy, không trả nợ Thiên khố, Điền hườn, Đại hườn chi hết, thì sao? Toàn cầu nhân loại, ai sanh năm Giáp Tý thì cũng đều là đời trước làm quan phụ tá, đều ở nước Lỗ cả hay sao? Vô lý, vì cả nhân số nước toàn là làm quan phụ tá, không ai làm dân sao? Trước khi chưa có nước Lỗ thì người ta ở đâu? Vì chưa có nước Lỗ mà cũng lắm người sanh năm Giáp Tý? Và kiếp trước làm chức nghiệp gì? Bên Trung Hoa, từ Phục Hy về trước, chưa có văn tự kêu bằng Tý, Sửu, Dần, Mão... thì lấy chi kể số nợ của tuổi kia? Mà những người sanh trong khoảng đời đó, không gởi kho trả nợ thì thọ yểu thế nào?
Số nợ ấy, ai là người đứng cho vay? Cho vay có giấy tờ chi không? Người vay để làm gì? Giả như có mười người đồng sanh năm Giáp Tý, như có vay thì cũng có kẻ vay ít, người vay nhiều, cớ sao lại cũng chỉ thiếu nợ đồng một con số như nhau là sao? Còn cho vay, tất phải có kỳ hạn bao nhiêu năm? Mỗi năm lấy lời mấy phân? Có gì làm bằng cứ? Giả như, người vay mà ở vào nước văn minh không tin sự đốt mã trả nợ Thiên khố thì đòi vào đâu? Bọn thực dân Pháp như các ông chủ hãng giàu có ở xứ này, mấy ổng cũng sanh năm Giáp Tý, Quý Hợi... mà không trả nợ nạp kho chi cả, sao không thấy sở Tào quan nào đến đòi? Hay là Tào quan mướn mấy anh thầy bói cúng làm Trưởng toà để đòi giùm cho chăng? Còn đòi, sao không đòi mấy người chánh tín đã tiến hoá, lại cứ đòi lẩn quẩn mấy người mê tín và còn hủ cựu là sao? Người nào có túi tiền còn nặng, trả được thì chẳng nói chi; thoảng như kẻ nghèo tận mạng đi ăn xin, nằm đình ngủ chợ, hào bao rách đáy, không thể trả được, có phải thất công đi đòi không?
Người trả rồi có lấy biên lai của ông chủ kho không? Nếu không, hoặc như ông quên đi, cho là chưa trả thì sao? Những người đã gởi kho xuống âm phủ, vậy sở kho ấy có biên nhận không? Có biên lai cho không?
Người ta thường nói: “Âm dương đồng nhất lý”. Nghĩa là ở đâu cũng theo lẽ phải là công bình chính trực. Cũng như ở dương gian, người ta gởi của vô nhà Băng (ngân hàng), cũng phải có hình ảnh, chữ ký tên, giấy chứng nhận hẳn hoi, về sau mới lấy được chớ đâu phải dễ lấy. Nếu không chi làm bằng thì sau khi xuống làm sao nhận được? Hoặc gởi vào kho nợ dưới âm phủ, sau khi chết lại sanh về cõi khác trên dương gian thì làm sao lãnh đặng? Nếu ở dưới không lãnh được, trên này con cháu tin rằng đã có gởi của trước rồi, không đốt gởi cho nữa thì vong nhân lấy gì tiêu xài?
Còn một lẽ này lại rõ hơn. ễÛ các nước văn minh không một ai trả nợ Thiên khố mà nước họ vẫn giàu mạnh, dân họ vẫn hùng cường, người họ vẫn sang trọng, nhất nhất sự gì cũng lẫy lừng cả. Còn Việt Nam có số người - không phải là ít - gởi của cho “điển hườn”, thế mà họ có giàu sang hơn người ngoại quốc đâu, đôi khi còn thấy họ quê hèn, khiếp nhược và thua sút hơn nhiều so với người các nước Âu Mỹ, là tại sao vậy?
Xét những câu hỏi trên đó, hẳn không thể trả lời nổi, vì không một lý do nào có căn cứ để biện chứng. Thế đủ biết rằng, cái tục gởi kho trả nợ là bởi lòng mê tín thần quyền của nước Liêu bên Trung Hoa thủ xướng. Gia dĩ các nhà nghệ sĩ làm tiểu thuyết, phụ hoạ, bịa đặt chuyện ly kỳ, hoang đàng, cổ động, quảng cáo ra. Thậm chí có một ít anh gian đạo sĩ lại biểu diễn vọng hành, để lợi dụng những người tham cầu mê muội, lâu ngày tập dở thành hay, nhiều đời quen tục theo lệ, lần hồi lan rộng truyền sang Việt Nam, mấy cậu tin ma sợ quỷ, bán thánh buôn thần, in sâu vào óc, cùng nhau hô hào hoạt động, làm đại lý cho cái tà thuyết của nước Liêu, mà hù nhát rủ ren làm hướng đạo cho đồng bào nước Việt. Ôi! Một xẩm dắt bọn mù, đi quanh quẩn mãi trong vòng âm u chưa khai hóa. Rất khốn hại! Ai là người có tai mắt, nghe thấy đồng loại như thế, lại nỡ nào chẳng thương tâm!?
Nay muốn cải cách cái hủ tục ấy, tưởng các Ngài nên làm việc chính đáng. Nghĩa là nếu các Ngài có hy vọng để của và phước qua đời sau thì xin làm như thế này: Người nào nghèo túng lắm, không tiền làm phước, thì dùng lời hay lẽ phải, chuyện tốt điều hay mà giảng diễn khuyến hóa, chỉ vẽ cho những kẻ đương hung hoang, lầm lạc, để họ hồi tâm hướng thiện, yên vui với nhau, thì kết quả thiện cảm sau này kết sao cho xiết. Người mà trước kia mỗi năm gởi vào cái kho đó; từ đây để số tiền ấy cho mấy kẻ đương lúc đói không cơm ăn, đau không thuốc uống, thế cũng là phước lắm rồi, vì khó với khó giúp nhau mới thảo. Người có thế lực, mỗi năm về sự đốt kho vàng mã, tốn có hàng nghìn hàng trăm; nay có số tiền ấy làm các việc phước thiện, mở mang các công nghệ, để cho đồng bào có việc làm ăn, kẻ lao động bần khổ có chỗ nuôi sống. Vả lại, số tiền ấy đã không mất vốn, mà lại còn nảy nở mãi lời lãi ra nữa thì quả phước sau này hưởng sao cho hết. Đó là cái lẽ trồng cây để sau ăn trái, là việc thiệt hiện mà sao không làm, lại làm việc của đốt ra tro; khác nào đem giống đổ vào lửa, trút xuống sông thì làm sao để có cây trái để sau này hưởng.
KẾT LUẬN
Tóm lại, những cái thuyết “Chôn đồ, đốt mã, gởi kho là cái hủ tục bởi bệnh mê tín của nước Trung Hoa truyền nhiễm sang Việt Nam, chứ nguyên lai đạo Phật, đạo Nho không bao giờ có.
Xét như Kinh Vu Lan Bồn thì Phật dạy sám hối những điều thật dụng, trước cúng Tam Bảo sau dâng chúng Tăng để cầu siêu cho “thất thế phụ mẫu”; chứ không nói đến một đồ vật giả gì hoặc chôn, hoặc đốt.
Trong Kinh Lễ thì đức Khổng Tử quở rằng: “Ai bày ra hình nhơn thế mạng để chôn theo người chết đó là kẻ bất nhân”.
Thầy Mạnh cũng nói: “Ai làm ra Bồ nhìn con gỗ bởi cái lệ chôn sống người, là kẻ tuyệt tự”.
Ông Vương Nhựt Hưu là tiến sĩ, làm quan đến chức Quốc học sĩ cũng nói: “Đã khảo cứu hết Kinh sách không thấy chỗ nào có sự gởi kho và trả nợ trong đạo Phật”.
Vậy hiện nay chúng ta đây, người thì giữ đạo nho là một đạo thờ kính ông bà, cha mẹ; người thì học đạo Phật là một đạo tự giác giác tha, phải hóa độ chúng sinh, có lẽ nào lại làm những cái ác tục mà Đức Thích Ca và Khổng Tử không làm?.
Phụng sao lục
Khánh Anh.
(1) Trong từ điển văn học Việt Nam của nhà xuất bản Đại Học Quốc Gia xuất bản năm 2001 nói: Việc thờ Mẫu ở Việt Nam đã có vào thế kỷ 3 từ nhân vật Man Nương, mãi cho đến thế kỷ 16-17 mới phát triển phổ biến rộng bởi nhân vật Liễu Hạnh. Và cũng do tiếp nhận tín ngưỡng thờ nữ thần, thờ mẫu trước đó vốn có trong xã hội dân cư nông nghiệp, cũng là một sự nương tựa tinh thần mẫu hệ của dân chúng thời ấy nên trở thành tín ngưỡng Tam phủ (Thiên phủ - trời, Nhạc phủ - rừng, Thoải phủ - nước) trong dân gian, lần hồi biến thành Tứ phủ, trong đó Mẫu Liễu Hạnh thêm vào hệ thống các thần tượng; lúc thì như Mẫu Địa cai quản địa phủ, lúc như hóa thân Mẫu Cửu Thiên. Đồng thời, việc tích hợp các tín ngưỡng bản địa đã đem lại cho Tứ phủ như một thần linh được gọi bao quát là Tứ Phủ Công Đồng, xem Mẫu Liễu Hạnh như là Mẫu Thượng Thiên (cai quản cõi trời, vừa là Địa Tiên Thánh Mẫu (cõi đất), tồn tại bên cạnh Mẫu Thoải (cõi nước) và Mẫu Thượng Ngàn - nhạc phủ (cõi rừng). Từ truyền thuyết đó thâm nhập đã làm thành tín ngưỡng Tứ phủ trong dân gian, cũng được gọi là Đạo Mẫu
-
Năm nay, 1969, mà nói về giấy tiền vàng bạc, thì ắt có nhiều bạn thanh niên lấy làm lạ, không hiểu nó ra làm sao, và sự công dụng của nó như thế nào, chớ người lớn tuổi, ở vào thời kỳ 1930 trở về trước đều hiểu rành rẽ và nhiều người đã có dùng nó.
Tục đốt giấy tiền, vàng bạc (vàng mã) nay sắp cáo chung. Tôi xin ghi sơ lược lại đây, để các bạn trẻ hiểu một tục xưa.
Trước thời kỳ Pháp thuộc, ở nước Việt Nam và Trung Hoa có đúc tiền kẻm, vàng thoi, bạc nén để buôn bán, đổi chác. Thông dụng là đồng kẻm hay là tiền ta (sapèques en zinc). Sáu chục (60) đồng kẻm là một tiền; 10 tiền là một quan (ligature).
Giàu có thì tích trữ bạc nén, vàng thoi, tính theo lượng (37gr 5). Đến thời kỳ Pháp thuộc, có đúc thêm đồng nửa xu, đồng 1 xu, 1 cắt bạc, 2 cắt bạc, và một đồng bạc. Mỗi một xu giá bằng 5 đồng kẻm.
Đồng kẻm hay đồng tiền ta tròn và nhỏ hơn đồng xu, bề dày 1 ly và đường kính lối 25 ly; ở giữa là lỗ vuông chớ không phải lỗ tròn như đồng xu; bề mặt có chữ Hán ghi tên hiệu của vị vua đương thời cho phép đúc tiền đó, như Gia Long thông bửu, Minh Mạng thông bửu, Tự Đức thông bửu, v.v. . . Đến sau đồng kẻm hay tiền ta không xài nữa, vì nó dễ bể và nặng nề, mang đi rất bất tiện.
GIẤY TIỀN là những tờ giấy súc mỏng, khổ 2 tấc và 3 tấc, in hình đồng kẻm đầy khắp hết một mặt giấy, mặt sau để trống. GIẤY VÀNG BẠC có hai thứ: Thứ nhỏ (vàng bạc tiểu), khổ giấy là một tấc và một tấc rưỡi, một đầu in bằng chất kim loại màu vàng lá và đầu kia in chất kim loại màu bạc, cũng chỉ in một mặt giấy. Thứ lớn (vàng bạc đại) thì khổ giấy bằng tờ giấy tiên, chỉ in toàn một màu vàng lá, hoặc in toàn một màu bạc.
Những đám cúng kiến, đám tang, làm tuần, đám giỗ, ngày Tết, người ta đều có đốt giấy TIỀN, giấy VÀNG BẠC khi cuối đám cúng, càng nhiều càng tốt. Nếu cúng tế nhiều ngày thì mỗi ngày đều có đốt giấy tiền, vàng bạc. Các chùa am thuở đó đều có đốt giấy tiền, vàng bạc, vì người ta tin rằng: người chết, người khuất mặt, cũng xài tiền bạc như ta. Nếu không đốt thì thân nhơn sẽ bị túng thiếu. Khi đốt, hễ vái van tên họ người nào thì người đó lãnh, kẻ khác không lãnh được. Lúc khiên quan tài đi chôn, người ta cũng rải giấy tiền vàng bạc theo dọc đường, với ý tưởng bố thí tiền bạc cho các vong linh mồ xiêu, mả lạc, không có ai cúng kiến, bị đói khát, thiếu thốn, để họ không phá phách vong linh người mới chết, vì người ta nói: ma cũ ăn hiếp ma mới.
Thời kỳ đó, người ta cũng đốt một loại giấy màu mỏng, láng bóng, có in đủ thứ bông hoa như hàng, lụa, gọi là giấy quần áo, để người chết cắt may y phục tùy ý.
Do đó, có những thợ mã là người chuyên môn làm những ngôi nhà ngói bằng giấy (gọi là nhà minh-khí), giống hệt nhà ngói thật, trong có đủ phòng khách, phòng ngủ, giường, tủ, bàn ghế, đủ vật dụng thật đẹp; ngoài ra còn kèm theo kho vàng, kho bạc, để gởi xuống cho người chết. Lúc sau, người ta còn làm xe hơi bằng giấy để cho người chết dùng nữa.
Nhà minh-khí và kho vàng bạc chỉ làm và đốt trong mấy kỳ làm tuần 49 ngày, 100 ngày, giáp năm hay mãn tang; còn ngày giỗ, ngày Tết thì đốt giấy tiền, vàng bạc và giấy quần áo mà thôi.
Tục lệ đốt vàng mã, nhà minh khí, lầu, kho nầy từ Trung Hoa truyền sang, không biết đã có từ hồi nào, vì không có sách nào ghi chép. Người ta chỉ thấy trong truyện Tây Du của Tàu ghi chuyện đời Đường, vua Lý Thế Dân bị bệnh, hồn đi xuống âm phủ (cõi Trung Giới), gặp vua Diêm-Vương, nhờ Phán quan gian lận, giúp cho ông được sống lại, trở về Dương gian; nhưng đi giữa đường gặp hồn anh là Ngươn Kiết và em là Kiến Thành đòi thường mạng; thêm hồn các quân sĩ chết oan trong các trận giặc đã qua, bị đói rét, tựu lại bao vây, niếu kéo kêu oan.
Hồn vua Đường Lý Thế Dân không biết làm sao đi được. Phán quan biểu vua vay tiền của một lão tiều, vẫn còn sống, tuy không giàu, nhưng thường thường mua giấy tiền vàng bạc đốt nên bây giờ dự trữ được mấy kho vàng bạc ở cõi Âm-Ty. Vua hãy mượn đỡ để phân phát cho các oan hồn, rồi chừng về Dương gian sẽ bồi hoàn cho ông ấy. Nhờ vậy nên Lý Thế Dân mới đi thoát khỏi vòng vây của oan hồn, yểu tử.
Ngoài mẫu chuyện nầy thì toàn là khẩu truyền, nhưng người ta quá tin việc đốt vàng mã, nên thời kỳ đó có người tính thử và thấy mỗi năm ở Việt Nam đã đốt ra tro cả mấy triệu bạc một cách vô ích.
Ngày nay, thỉnh thoảng cũng còn thấy người đốt vàng mã, nhưng có thể nói là đã bớt đến tám chục phần trăm rồi, vì chúng sanh đã biết đó là việc làm tốn tiền vô ích.
Thật sự, khi chết rồi, hồn con người lìa bỏ xác thịt và Phách, Hồn ở trong thể Vía, sanh hoạt tại cõi Trung-giới, cũng giống như khi còn ở Trần gian, sinh hoạt trong xác thịt.
Cõi Trung-giới sáng rỡ luôn luôn như ban ngày, không có ban đêm như ta lầm tưởng, nên người chết ở trong thể Vía không ngủ bao giờ, không đau ốm bệnh tật, không bị nắng mưa, nóng rét, cũng không đói khát nên không cần ăn uống, nhà cửa, y phục, thuốc men.
Muốn đi đến nơi nào, dầu ở xa vạn dặm, cũng chỉ trong nháy mắt là đến đó rồi, không cần tàu bè, xe ngựa hay máy bay. Linh hôn nào đã học hỏi lúc sanh tiền, có ý thức về cõi Trung-giới rồi, khi bỏ xác thịt sẽ thấy sung sướng, thong thả, tự do vô cùng, không còn bị hạn chế như hồi ở Trần gian nữa.
Nhưng hầu hết người chết chưa hiểu và chưa tin như vậy, nên khi sang qua cõi Trung-giới, cũng cặm cụi lo làm lụng, để kiếm tiền như ở cõi Trần, lo xây nhà cửa để ở, v.v. . . Còn người sống thì hiểu lầm, sợ người chết thiếu thốn, đói khát, nên lo cúng kiến và đốt vàng mã để cho vong- linh được ấm no. Sự thật thì trái ngược lại.
Việc đốt giấy tiền, vàng bạc, đồ mả tuy tốn tiền vô ích, nhưng không có nguy hại bằng thí giàn.
-
.CƠM: thì gọi là Thực ( "Thực Phạn" 食飯: ăn Cơm )
.XÔI: thì gọi là Tư Thành
.CHÁO: thì gọi là Trúc
.CHÁO TRẮNG: thì đọc là Bạch Trúc
.CHÈ NGỌT: thì đọc là Đàm Chúc
.BÁNH TÉT: thì đọc là Thiên Bỉnh
.BÁNH TRÁNG: thì đọc là Càn Bỉnh
.CHUỐI: thì đọc là Ba Tiêu Quả
.VÀNG, BẠC, NHANG, ĐÈN: thì đọc là Kim, Ngân, Hương, Đăng
.ĐỒ THẦN: thì đọc là Quan Ngoa
.GIẤY ÁO Đất: thì đọc là Minh Y
.GẠO MUỐI Sống: thì đọc là Diêm Mễ ( Diêm: là Muối / Mễ: là Gạo )
.TRẦU CAU: thì đọc là Phù, Lang ( Trầu: là Phù Lưu / Cau: là Tân Lang )
.RƯỢU TRẮNG: thì đọc là Bạch Tửu
-
.Cẩn dĩ 謹以: kính cẩn dâng lên (lễ vật:…).
.Vị tiền 位前: trước linh vị.
.Viết 曰: kính thưa.
.Vì dĩ 以: nhân có việc.
.Duy 惟: Lời dạo đầu trong một bài khấn.
.Cung duy tiên tổ 恭惟先祖: Kính dâng tiên tổ.
.Cảm kiền cốc vu 敢虔告于: dám thành khẩn trình với.
.Cảm chi cốc vu 敢祇告于: dám kính trình với.
.Cảm chiêu cốc vu 敢昭告于: dám trình rõ với.
.Cảm điện vu 敢奠于: Dám đặt lễ.
.Bạc điện hiến cao 泊奠献高: Lễ mọn dâng lên nhớ đến tiên tổ.
.Phục vị 復位: trở lại ngồi trên ngôi vị của mình.
.Phục duy giám cách 伏惟鑒格: cúi nhớ mong xét lòng thành.
.Đồng lâm hưởng tự 同临饗祀: cùng hưởng lễ vật.
.Nhất thành thượng hưởng 一誠尚饗: một lòng thành mong hưởng.
.Cẩn cốc 謹覺, Cẩn cáo 謹告: kính trình.
.Phục duy cẩn cốc 伏惟謹告: cúi nhớ kính trình.
.Cẩn sớ 謹疏: kính trình.
.Thượng hưởng 尚享: mong hưởng.
.Thượng giám 尚鑒: mong xét.
.Thành ý cẩn cáo 誠意謹告: Thành ý kính trình.
.Hạnh giám vi thành cẩn cáo 幸鑒微誠謹告: Cầu mong xét lòng thành, kính trình.
.Kiền cáo cẩn cáo 虔告謹告: Kính trình, kính trình.
.Kiền yết hạnh giám vi thẩm 虔謁幸鑒為忱: kính cáo cầu mong xét làm thành thực.
-
Ngày 12/11 UBMTTQ Việt Nam thành phố Huế tổ chức buổi tọa đàm về “Hiện tượng vàng mã-lịch sử và những vấn đề quan tâm hiện nay”.
Buổi tọa đàm đã thu hút đông đảo nhân dân, trí thức, các tu sĩ bàn về nhiều vấn đề tài nóng liên quan đến “vàng mã” như : Câu chuyện giấy tiền vàng mã hôm nay: lần tìm từ yếu tố nguồn cội; hay vấn đề vàng mã nên nhìn vào khía cạnh tích cực; Phật giáo với tục đốt vàng mã trong tín ngưỡng thờ cúng và rải vàng mã khi đưa tang….
Tập tục từ ngàn xưa
Tục đốt vàng mã là tập tục ảnh hưởng đến đời sống tinh thần, ăn sâu vào tâm thức mọi tầng lớp nhân dân, là nghi lễ dựa trên tín ngưỡng thờ cúng của người Việt Nam từ nhiều đời nay. Tập tục này ảnh hưởng từ Trung Quốc.
Thượng tọa Thích Huệ Phước - Phó trưởng ban trị sự kiêm Chánh thư ký Giáo hội Phật giáo VN tỉnh Thừa Thiên- Huế khẳng định, tục đốt, rải vàng mã bắt nguồn từ Trung Quốc, nó không thuộc về văn hóa Việt Nam và càng không phù hợp với tinh thần từ bi trí tuệ của Phật giáo.
Bởi lẽ đạo Phật là con đường đi lên của trí tuệ giác ngộ giải thoát. Không có bóng dáng mê tín dị đoan trong giáo lý nhà Phật. Quan điểm của đạo Phật luôn bác bỏ những tục lệ mê tín có phương hại đến thuần mong mỹ tục.
Ở Việt Nam, cho đến cuối thế kỷ XIX tập tục đốt áo giấy và đồ vàng mã vẫn hình thành và còn di lưu đến ngày nay. Từ các lễ cúng thành của phụ nữ, lễ trai tiếu bạt độ đến lễ trai đàn chẩn tế đều dùng nhiều loại phẩm phục giấy, vàng, bạc nén giấy, giấy tiền.
Tất cả đều bắt nguồn từ sự mê tín về các linh hồn thần thánh, ma quỷ. Từ sự hoang tưởng rằng có đốt vàng mả, áo giấy, quỷ thần và vong linh mới phù hộ con cháu ở dương gian.
TS Trần Đình Hằng - Giám đốc Phân viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam tại Huế - cho biết: Tục đột vàng mã có căn nguyên từ tín ngưỡng phồn thực và nghi lễ hiến sinh.
Hiến tế là nghi lễ làm cho một người, một vật trở thành linh thiêng để chứng tỏ sự lệ thuộc, phục tùng để cầu mong, khát vọng bình an, hạnh phúc, ấm no…
Vì vậy thứ gì trân quý nhất, phải dùng để hiến cho thần linh, thế lực siêu nhiên. Ban đầu từ việc hiến tế trinh nữ, hài đồng (trẻ nam và nữ còn trinh nguyên nhất) sau đó đã được thay thế bằng tù binh, kẻ thù.
Khi văn minh nhân loại phát triển thêm một bước nữa thì việc dùng mạng sống con người để hiến tế trở nên man rợ, vật hiến tế được thây thế bằng những con vật quý như voi trắng, trâu trắng, dê trắng… và cuối cùng từ con vật đã chuyển sang đồ vật, đó là những hình nhân thay thế, những vật dụng thay thế và vàng mã ra đời.
Dưới thời nhà Nguyễn, tục đốt vàng mã điển hình nhất cũng đã được sử sách chép lại, đó là vào năm 1925, vua Khải Định băng hà. Triều đình đã làm nguyên một ngôi điện Kiến Trung bằng giấy thật lớn để đốt cúng cho vua.
Ý nghĩa của việc đốt vàng mã là mong muốn cung cấp cho người đã khuất những vật dụng cần thiết để sử dụng ở cõi âm như lúc còn sống.
Nên hay không nên “ cổ súy” đốt vàng mã ?
Theo ý kiến của các nhà chuyên môn tại buổi tọa đàm, ngày nay tục đốt vàng mã đã biến tướng đến mức khôi hài đáng báo động. Các cơ sở sản xuất vàng mã đã “năng động” đến mức đã làm ra các sản phẩm thời thượng từ ô tô, xe máy, điện thoại thông minh (Iphone, Ipad, smatphone), tiền đồng dolar, tiền ngân hàng địa phủ cho đến cả các người mẫu, ca sĩ, diễn viên nổi tiếng…để phục vụ cho nhu cầu của người dùng.
Trong các lễ nghi tang ma, hiếu nghĩa, người ta không chỉ đốt vàng mã truyền thống mà còn phung phí hàng chục, có khi đến hàng trăm triệu cho việc đốt các vật dụng vàng mã.
Qua thống kê chưa đầy đủ hiện trên địa bàn thành phố Huế có 226 có cơ sở sản xuất và kinh doanh vàng mã. Thu hút khoảng 356 lao động, doanh thu hàng năm ước tính khoảng 50 đến 60 tỷ đồng.
Vì là một trong những địa phương tiêu thụ hàng mã lớn của cả nước do đó có nhiều ý kiến tranh cãi xung quanh “câu chuyện vàng mã”. Một số người cho rằng đốt vàng mã là hủ tục mê tín dị đoan, không có ích cho xã hội.
Một số khác cho rằng đó là chuyện bình thường, thể hiện mối quan hệ cung cầu tất yếu xảy ra trong cơ chế thị trường và chắc sẽ không thể ngăn cấm được.
Tục đốt vàng mã nếu hiểu theo gốc độ văn hóa, chúng ta có thể nhìn nhận đó là một tập tục mang tính đạo lý của người phương Đông và Việt Nam nói riêng.
Việc đốt đồ mã xuất phát từ ý nghĩa lễ thể hiện lòng thành kính của người sống đối với người chết. Trên quan niệm “kẻ chết sống vô hình bên cạnh người sống” và “ở thế giới bên kia, mọi thứ ngược lại với người sống…” đã trở thành hoạt động không thiếu trong các nghi lễ cúng tế. Và dĩ nhiên đồ mã cũng từ đó được sử dụng như là phương tiện để biểu lộ danh phận và thực lực cá nhân trước thế lực siêu hình.
Việc ngăn chặn hoàn toàn tục đốt đồ mã cũng không thể thực hiện được. Chúng ta chỉ có thể đưa ra những biện pháp nhằm ngăn chặn triệt để các thành phần lạm dụng việc đốt đồ mã.
Nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh thì cho rằng: “Việc hạn chế đi đến chấm dứt, bài trừ hủ tục rải đốt vàng mã trong tang tế hoàn toàn không phương hại gì đến tìn ngưỡng thời cúng tổ tiên, vong linh của người Việt. Bởi vì hạt nhân của tín ngưỡng này là tôn trọng, phụng thờ, tưởng nhớ người đã khuất.
Tôn trọng, thờ cúng, tưởng nhớ người đã khuất đòi hỏi phải dâng cúng những gì thanh khiết như hoa quả phẩm, thực hiện các động tác lễ bái trang trọng. Chứ không phải dâng cúng vật thực linh đình, đốt minh khí, áo giấy, vàng mã chất chồng”.
Cũng theo lời nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh để hạn chế việc đốt vàng mã các cơ quan chức năng cần tổ chức tốt việc tuyên truyền giải thích, vận động nhân dân hưởng ứng nếp sống mới, giảm việc đốt vàng mã khi cúng tế và rải vàng mã khi đưa tang,
Ngoài ra cần quản lí các cơ sở sản xuất nhất là việc cấm chỉ việc in và buôn bán tiền giấy mô phỏng tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam hay mô phỏng tiền đô của các nước khác.
Đặc biệt mọi người dân càng phải ý thức rõ rải vàng mã khi đưa tang, cúng và đốt vàng mả, đồ giấy là hủ tục không phải của người Việt Nam mà chỉ là hủ tục của người Hoa từ thời phong kiến xa xưa.
-
-
Sau khi Phattuvietnam.net đăng lại bài trả lời của Thượng tọa Thích Thanh Quyết từ trang Bee.net.vn về vấn đề đốt vàng mã, nhiều ý kiến trái ngược nhau về vấn đề này đã nối tiếp nhau xuất hiện trên Phattuvietnam.net. Có ý kiến chỉ trích. Cũng có ý kiến bênh vực.
Trước sự quan tâm của bạn đọc, chúng tôi, nhận thấy đây là cơ hội để khái quát hóa vấn đề, đi từ một hiện tượng riêng lẻ, đơn nhất, là việc đốt vàng mã trong nhà chùa, đến tìm hiểu một vấn đề có tính phổ biến, bao quát hơn, là cách mà Phật giáo Việt Nam chúng ta đối xử với những yếu tố truyền thống, nhưng ít nhiều có tính chất tiêu cực, mà có thể gọi gọn bằng từ “hủ tục”.
Thành tố “tục” thể hiện tính chất truyền thống. Trong khi thành tố “hủ” trong từ nói trên thể hiện tính chất tiêu cực.
Chúng tôi xin được có mấy nhận định như sau:
1. Rất mừng là khoảng hơn 50 ý kiến, có lẽ gần phân nửa là ý kiến dài, cho cả 2 bài có liên hệ đến vấn đề, gồm bài trả lời phỏng vấn của Thượng tọa Thích Thanh Quyết, và bài chia sẻ những quan điểm của Thượng tọa do tôi viết, đều:
- Thống nhất với nhau trong nhận thức.
- Chỉ khác biệt nhau về cách xử lý. Một bên chủ trương Phật giáo nên cấm đốt vàng mã. Còn một bên thì tán thành cách xử lý của thượng tọa Thanh Quyết, mang tính chất trung dung: “Tôi không cổ suý cho việc lạm dụng quá mức vàng mã, nhưng tôi nghĩ vẫn nên duy trì hình thức đốt vàng mã mang tính kỷ niệm, vì ý nghĩa nhân văn của nó”.
Theo tôi, khác biệt nhau về nhận thức thì khó mà cùng nhau giải quyết vấn đề, nhưng nếu đã thống nhất cơ bản về mặt nhận thức, chỉ khác biệt về hướng xử lý, thì việc tiến đến giải quyết vấn đề đã trở nên dễ dàng.
Điều thống nhất về mặt nhận thức, là tất cả các ý kiến đều xác định như Thượng tọa Thích Thanh Quyết: “Nhà Phật không có nghi lễ đốt mã”.
Thống nhất được nhận thức trong một cuộc trao đổi ý kiến như thế là điều rất tốt. Giờ thì chúng ta bàn đến cách xử lý vấn đề ở tầm bao quát hơn: cách xử lý với những hiện tượng truyền thống, mang tính dân gian, nhưng ngoài đạo Phật, có thể có tác dụng tiêu cực.
2. Đã nói đến việc xử lý, thì tất yếu phải xét tới tính khả thi của biện pháp xử lý. Không thể đưa ra cách xử lý không khả thi. Phật giáo không phải là một tôn giáo có giáo quyền mạnh và điều đó càng hết sức rõ nét ở Phật giáo Việt Nam. Đối với những yếu tố truyền thống, nhưng được xác định là không phải từ Phật giáo và mang tính chất tiêu cực, thì tất nhiên phải loại trừ.
Vấn đề ở chỗ là loại trừ như thế nào, tức thời hay có quá trình, hoặc chấp nhận có tính hình thức, với ý nghĩa tượng trưng, kỷ niệm.
Theo tôi, thì cách xử lý trước hết phải mang tính thực tế, tính khả thi, không duy ý chí, không ngắt ngang, phủ nhận căng thẳng, đạp đổ tức thời như “Hồng vệ binh” với những yếu tố được gọi là “tàn dư phong kiến” trong “Đại Cách mạng Văn hóa” ở Trung Quốc.
Tức là, chỉ có thể giải quyết như cách mà thượng tọa Thích Thanh Quyết đã nêu, tức là trung đạo, trung dung, có quá trình, không nóng vội, cực đoan, chủ quan, duy ý chí.
Nếu không như thế, thầy nói cấm, còn số Phật tử muốn đốt vàng mã vẫn cứ đốt. Thầy nói không đốt, thì cứ để thầy nói. Đốt ở chùa này không được, thì người ta mang sang chùa khác, hay bỏ chùa tụ tập nhau mà đốt ở đình, đền, miếu, phủ… nào đó, chẳng cần đến chùa, đến thầy nữa!
Như thế, chẳng những có lợi gì trong việc hoằng hóa, mà còn gián tiếp đuổi một số Phật tử đi ra nơi khác, xa rời Tam Bảo.
Còn cái cảnh, nếu thầy nói không, còn Phật tử vẫn chen nhau đốt vàng mã phừng phừng, thì có khác chi một cảnh tấu hài, “trống đánh xuôi kèn thổi ngược”.
Do vậy, theo tôi, đối xử với những yếu tố truyền thống dân gian ngoài Phật giáo, ở đây là đốt vàng mã và các việc khác như cúng sao, giải hạn, xin xăm…, việc nào có mức tiêu cực giới hạn, vẫn tạo cơ duyên cho tín đồ đến chùa, lễ Phật, thì nên loại trừ từng bước một, khoan dung, trung đạo, có quá trình, giữ mặt tích cực, hạn chế phần tiêu cực, tránh việc nói được mà không làm được.
3. Còn đối với những yếu tố có thể ảnh hưởng đến việc hoằng hoá làm ảnh hưởng đến việc quy tụ Phật tử, nhất là Phật tử trẻ, như trường hợp chúng tôi vẫn thường nhắc đến, như “triển lãm” quan tài trước cửa chùa (chùa Linh Phước, xã Thanh Phú, huyện Bến Lức, Long An) mà việc dẹp bỏ nằm trong tầm tay nhà chùa, thì cần phải dẹp bỏ ngay lập tức.
Cũng vậy, đối với việc cúng bia lên Phật, dùng bia trong các buổi trai tăng, Phật tử trực tiếp giết gia súc tế lễ người quá vãng, tạo tác phạm giới… Đây là những hủ tục tai hại cho sự phát triển Đạo pháp hơn nhiều so với chuyện đốt vàng mã.
Đừng nên quá tập trung vào các tiểu tiết mà quên đi chuyện đại sự. Đốt vàng mã quá lắm là việc tốn kém, không mang tính chất liên hệ đến giới luật như cúng bia lên Phật rồi uống đến say xỉn, chẳng những là phạm giới, mà còn ảnh hưởng oai nghi, cũng như việc phạm giới sát sinh khi cúng tế hay việc duy trì quan tài gây âm khí cửa chùa, làm trở ngại việc thanh niên đến cửa Phật...
Đó là những việc lớn cần tập trung xử lý và có thể xử lý khả thi đạt kết quả nhanh chóng, nếu quyết tâm.
Cuốn hút vào mối “ưu tư” vàng mã sẽ là tình trạng lạc hướng trong vấn đề xử lý những yếu tố truyền thống dân gian, không phải của đạo Phật, mang tính tiêu cực, bỏ quên chuyện lớn mà vướng víu chuyện nhỏ, quên cái có thể giải quyết ngay, vướng víu vào những chuyện chưa khả thi.
Vì vậy, không nên xem xét tách rời, phi biện chứng, phi nhân duyên, khi chỉ thấy, chỉ lo vấn đề vàng mã, “thấy cây mà không còn thấy rừng”, thấy cái riêng lẻ, mà không thấy cái chung, cái bao quát.
4. Hoà thượng Thiện Hoa có nói một câu có tính chất đúc kết tinh hoa Phật pháp rất có ý nghĩa, mà tôi vẫn thường ghi nhớ: “Phàm làm việc gì cũng nghĩ đến hậu quả của nó”.
Chúng ta thử áp dụng lời khuyên trên vào vấn đề đang thảo luận. Phát biểu hay thậm chí nhân danh giáo quyền ban hành một lệnh cấm đốt vàng mã, tuyệt đối cấm cửa vàng mã với chùa chiền…, một vị lãnh đạo Giáo hội như thầy Thuợng tọa Thích Thanh Quyết có thể làm. Nhưng như đã bàn, có cấm được không? Hay rồi diễn ra cái cảnh “ai cấm mặc ai, thuận tay cứ đốt”. Có tầm nhìn hơn, trí tuệ hơn, thì cần phải thấy trước những việc phản tác dụng đối với một việc cấm đoán triệt để như vậy đưa ra.
Trong số những ý kiến phản hồi mang tính chất thảo luận, có ý kiến của bạn đọc Đào Văn Hoàng rất đáng chú ý:
“Quý vị hãy thức tỉnh trong tình hình tôn giáo hiện nay để trải nghiệm thêm. Thiên chúa giáo hiện nay đã cho giáo dân của mình lập bàn thờ tổ tiên, thắp hương tưởng niệm người thân, cho phép con chiên được kết hôn với người tôn giáo khác rồi đó và nhiều tín ngưỡng tâm linh khác nữa. Và cứ đà này là họ sẽ cho phép con chiên của họ cúng ông bà tổ tiên và đốt vàng mã đó”
Độc giả Minh Ngọc cũng bổ sung: “TCG đã cho phép thắp hương, làm giỗ, lác đác vài nơi còn thờ Ông Địa, Thần Tài, đốt vàng mã…”
Thực ra, nói cho đúng, thì khi Đạo Catô La Mã cho phép con chiên đốt hương, thì về cơ bản, họ cũng cho phép con chiên đốt vàng mã, vì đốt hương hay đốt vàng mã đều là những nghi thức tín ngưỡng bản địa, rải rác ở các địa phương khác nhau trên thế giới. Những văn kiện dẫn đến việc cho phép đó, chỉ nói nguyên tắc chung, không phân biệt đâu là đốt hương, đâu là đốt vàng mã. Đốt cái gì, thì đối với họ cũng là nghi lễ ngoại đạo.
Đó là các văn kiện của “Công đồng Vatican II”, gọi tắt là Vaticano II, mà bạn đọc có thể dễ dàng tìm thấy trên mạng. Hai trong số năm nguyên tắc cơ bản của Công đồng Vatican II là: cởi mở với thế giới, từ tâm hơn là khắt khe (diễn văn khai mạc Công đồng Vatican II, do Giáo hoàng Gioan XXIII đọc ngày 11/10/1962 tại Vatican). Những nguyên tắc này đưa đến những văn kiện tương ứng chỉ có tính chất tổng quát giống như “nghị quyết” của ta, nhưng có giá trị lâu dài, không xác định thời gian theo nhiệm kỳ.
Các đơn vị cơ sở của đạo Catô La Mã, tuỳ những hoàn cảnh cụ thể, vấn đề cụ thể, mà áp dụng các văn kiện của Vaticano II. Điều đó dẫn đến việc cho phép đốt hương, và trên tinh thần của các văn kiện, thì đốt vàng mã cũng được phép, vì như đã nói đốt cái gì đó cũng là hình thức tín ngưỡng ngoài đạo Ca tô La mã.
Sở dĩ đạo Ca tô La Mã có chuyển đổi trong quan điểm như vậy, vì qua thực tế họ đã thấy được những hệ quả bất lợi của việc thù địch, khắt khe, đối kháng với tín ngưỡng dân gian. Điều này họ đã nghiên cứu kỹ, đã tổng kết và đi tới kết luận.
Thái độ chung được chỉ đạo từ Vatican bây giờ lại không khác gì ý của thầy Thanh Quyết: không khuyến khích nhưng cũng không cấm.
Nay không lẽ, Phật giáo chúng ta lại làm cái việc ngược lại với tinh thần cởi mở, khoan dung, vốn là ưu điểm của Phật giáo, các tôn giáo khác phải học tập gián tiếp (không nói ra), mà đi làm theo cái mà họ đã cho là sai lầm, khắt khe, nhỏ hẹp, cần dẹp bỏ, thay đổi bằng sự cởi mở, rộng rãi hơn.
Trong đạo Ca tô La Mã, sau khi các văn kiện của Vaticano II được công bố, kết thúc Công đồng này, thì có một thiểu số chống đối kịch liệt, phủ nhận và bất tuân Vaticano II, mà chức sắc Ca tô La Mã người Việt Nam điển hình cho xu hướng này là Tổng Giám mục Ngô Đình Thục. Dĩ nhiên, ông ta đi vào những điểm cụ thể như cấm cửa việc con chiên đốt hương (có thể hiểu cũng có giá trị tương đương với đốt vàng mã). Các tài liệu của đạo Ca tô La Mã ở Việt Nam cũng ghi nhận việc một số giáo xứ, một số chức sắc cũng như giáo dân phản đối thụ động Công đồng Vatican II, bằng cách trì hoãn việc thực hiện nội dung văn kiện Công đồng, hoặc vẫn áp dụng các quan điểm cũ, kể như không hề có các văn kiện của Vaticano II (1).
Bây giờ, lẽ nào, Phật giáo chúng ta lại có thể đối xử với những yếu tố tín ngưỡng dân gian La Mã theo cách của một thiểu số tín đồ đạo Catô La Mã cực đoan và lạc hậu đã nói ở trên hay sao?
Hãy cẩn trọng, “Phàm làm việc gì cũng nghĩ đến hậu quả của nó”. Có thể có một cái bẫy ở đây!
Thượng toạ Thích Thanh Quyết phát biểu như thế, theo tôi là có chừng mực, vì nhích hơn một tí nữa, là cấm. Như vậy, là Phật giáo chúng ta, một tôn giáo mang tính chất truyền thống, lại xử sự với tín ngưỡng bản địa theo cách của một tôn giáo ngoại lai, mà như đã nói, cách mà họ đã thấy là sai lầm và đã điều chỉnh.
5. Cũng xin phép trao đổi về ý kiến đặt vấn đề “lập trường chính pháp” và “tuỳ thuận với cái mê”
Tôi thấy tất cả các ý kiến trên diễn đàn đều thống nhất với nhau ở khâu nhận thức, xác định rõ Phật không dạy đốt vàng mã và vô ích trong việc siêu độ, trợ giúp cho các vong linh. Vì vậy, không có ai có vấn đề về “lập trường chính pháp” cả.
Còn cái mê, thì tiêu chí để xác định trong trường hợp này, nên lấy tiêu chí về giới để xác định đánh giá, cái mê nào trái với giới luật (như có yếu tố sát sinh, liên hệ với rượu và các chất say…) thì nên coi là trọng điểm giải quyết.
Còn nếu nói chỉ là yếu tố ngoại lai, vô hại đối với Phật giáo và nhân sinh, nếu không đi quá đà (như cúng sao giải hạn, đốt vàng mã, cúng cô hồn…) thì nên từng bước giải quyết, không nên làm “Đại cách mạng văn hoá”.
Tôi không biện bạch cho Thượng toạ Thích Thanh Quyết, vì Thượng toạ nói chừng mực như thế, thì không cần gì đến ai biện bạch. Tôi chỉ có ý kiến vì thấy có sự cần chia sẻ. Nay, đã có quá nhiều ý kiến thảo luận, nên tôi thấy cần phải nói thêm cho đầy đủ, cho rõ ràng hơn.
Cách ứng xử của Phật giáo Việt Nam đối với các yếu tố tín ngưỡng truyền thống ngoài đạo Phật có thể có tính chất tiêu cực là một đề tài thú vị và bổ ích cho việc hoằng hóa và tu tập. Vì vậy, việc bạn đọc quan tâm đến vấn đề này là rất đáng mừng và rất đáng hoan nghênh.
Tôi xin đề nghị các ý kiến, vốn đã viết dài, có nhiều ý tưởng, chi tiết trong diễn đạt, thì nên đầu tư thêm một chút nữa để thành bài viết hoàn chỉnh, để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, thảo luận của bạn đọc, cũng như làm phong phú hơn số lượng bài viết của Phattuvietnam.net, từ những ý kiến vốn đã có chất lượng và tâm huyết trước sự phát triển của Đạo pháp.
6. Về đề xuất cụ thể đối với việc đốt vàng mã, thì
- Không nên đốt trong kiến trúc chùa, tuyệt đối không đốt trong chính điện, trong khoá lễ. Chỉ đốt ngoài sân chùa, ở một góc sân (nếu Phật tử thấy cần thiết phải mang đến đốt ở chùa).
- Nhà chùa treo bảng nhắc nhở: Không nên đốt vàng mã, “Nhà Phật không có nghi lễ đốt mã”.
- Số lượng đốt giới hạn 1 xấp giấy/lần (trị giá khoảng 5.000đồng/lần), có tính chất tượng trưng, kỷ niệm.
- Không cho bán vàng mã trong chùa.
- Trong các buổi thuyết pháp, chư tăng nên luôn yêu cầu không đốt vàng mã.
MT
----------------------------------------------------
(1) “Công đồng” (không phải “cộng đồng”) là một dạng hội nghị đặc biệt quan trọng của đạo Ca tô La Mã, với sự tham dự của các chức sắc từ Giám mục trở lên và một số quan chức trong Giáo hội Ca tô La Mã, nhóm họp chính thức để bàn luận những vấn đề thuộc giáo lý và luật lệ của đạo Ca tô La Mã.
Công đồng giữ vai trò nắm quyền tối thượng đối với Giáo hội Ca tô La Mã.
Công đồng Vatican II không chỉ là một hội nghị, mà là một chuỗi hội nghị và hoạt động nghiên cứu, đệ trình các nghiên cứu, xem xét và thông qua các văn bản tổng kết quá trình nghiên cứu bắt đầu từ tháng 5/1959 kết thúc vào cuối năm 1965.
Các hoạt động thảo luận hội nghị chính thức và nghiên cứu liên quan được thể hiện qua số lượng giấy in là 150 tấn, 56 triệu trang giấy, dùng 284.000 mét băng từ ghi âm các cuộc họp.
Con chiên tại Việt Nam bắt đầu có thể đốt hương và làm nghi lễ tín ngưỡng dân gian khác ngoài đạo Ca tô La Mã sau khi Vaticano II kết thúc, với hàng loạt văn kiện thể hiện các quan điểm mới, phục vụ cho việc truyền đạo và hành đạo của tôn giáo này trong bối cảnh mới, nhằm mục tiêu tăng số lượng con chiên, đưa đạo Ca tô La Mã vào vị trí thích nghi hơn với bản sắc dân tộc nơi nó truyền đến.
-
Nhân đọc bài viết: “Loại bỏ tục kiêng phong long- việc làm góp phần giữ gìn sự trong sáng của văn hóa Việt ” của tác giả Thanh Kim.Tôi chợt ngộ ra rằng quê mình còn lắm hủ tục cần được loại bỏ, trong bài viết này xin được nói về hủ tục đốt vàng mã.
Không biết có từ khi nào, chỉ biết là từ rất lâu con người có thói quen đốt vàng mã khi cúng kị, ma chay, đưa người quá cố đến nơi an nghỉ cuối cùng thường dùng rất nhiều các loại giấy ở giữa quyét nhụ vàng hoặc trắng tượng trưng cho vàng hoặc bạc, giấy có in hình đồng tiền cổ tượng trưng cho tiền tệ để gọi là đào lộ (mua đường). Ngày nay, trong điều kiện kinh tế phát triển, việc dùng vàng mã được nhân lên bằng nhiều hình thức , nhiều loại khác nhau thể hiện sự giàu sang phú quý. Không chỉ có vàng, bạc mà các loại xe hơi, xe máy, ti vi, vi tính , điện thoại v.v…rồi đến tiền giấy giả có đủ loại mệnh giá còn có cả Dola nữa. Việc đốt vàng mã là sự tốn kém vô ích trong khi ai nấy cũng còn đang ra sức tiết kiệm để có cái để dành, và còn biết bao nhiêu những hoàn cảnh khó khăn ốm đau bệnh tật đang cần giúp đỡ. Còn về môi trường thì mỗi lần có đám tang đi qua, con đường trở thành nơi chứa rác thải, các loại giấy vương vãi khắp nơi. Trong lúc nắm bắt tâm lý và lợi dụng sự mê tín của người dùng, các cơ sở sản xuất hàng mã đã “thiết kế” thêm nhiều mặt hàng mới, phong phú hơn theo từng ngày và họ lại tự đặt ra cách dùng vàng mã vào từng loại lễ nghi, rồi họ lại bán kèm đủ thứ chẳng khác mấy so với việc bán kèm dược phẩm hoặc thuốc bảo vệ thực vật miễn sao cái hầu bao của họ cứ mãi phải đầy còn người mua thì như bị thôi miên, cứ bỏ tiền ra và nghĩ rằng đó là lòng thành kính trong mê muội. Quan niệm của nhiều người là “sống sao thác vậy” thiết nghĩ khi sống thì dùng đồ thật, còn khi thác đi sao lại phải dùng đồ giả? quan niệm ấy đúng sai đã rõ, vậy tại sao lại không nghĩ ra?.. phải chăng vì mê muội mà quên mất việc mình làm chẳng có ý nghĩa gì chỉ tội tốn kém vô ích lại còn làm dơ bẩn thêm cái môi trường sống đang từng ngày được con người vất vã làm cho trong lành, sạch đẹp, văn minh. Để tìm hiểu xem người sản xuất vàng mã nghĩ gì và họ nói gì. Tôi có quen biết với một cơ sở sản xuất vàng mã tôi đã được tận mục sở thị cái gọi là những mặt hàng linh thiêng ấy. Nhiều lần lân la đến chơi nhìn cái cách làm các loại giấy vàng bạc tôi giật mình, những loại giấy đó được nhập về từng lô toàn là giấy tái chế từ giấy vụn đủ loại thải ra nên rất rẻ, người sản xuất thì lấm lem, chồng từng xấp giấy vàng bạc thành phẩm làm ghế ngồi… có lần tôi hỏi N: - Anh sản xuất vàng mã mà sao hôm cúng giổ tôi thấy anh không dùng? N trả lời ngay:- Thiệt tình là vì mưu sinh mới phải làm cái nghề này ông ạ! Như ông thấy đó, các loại vàng mã thì có sạch sẽ chi đâu, mà đã nói đến cúng bái thì là việc làm linh thiêng lắm, mà một khi đã linh thiêng thì phải sạch sẽ mới gọi là sự tôn kính từ trong tâm, hơn nữa tôi làm ra nó nhưng tôi lại thấy nó vô nghĩa quá. Vì thế tôi đâu có sử dụng, tôi lại là phật tử mà Phật thì dạy rằng:- “Đốt vàng mã là một hủ tục do lai căng từ thời nào lâu lắm ở phương Bắc, đã là phật tử thì không được đốt vàng mã”. Để chắc chắn hơn, tôi lại lần mò đi tìm lời Phật dạy đạo hữu nhà Phật, có một bài viết cách đây 50 năm của Hòa thượng Tố Liên trong bài viết có đoạn ( trích nguyên văn): - “…Xin hỏi giới trí thức Việt Nam hiện tại đã tìm thấy Phật giáo và Nho giáo dạy về thuyết đốt vàng mã ở kinh sách nào?
Nếu các ngài tìm thấy, bần Tăng này xin can tâm vào địa ngục để chịu lấy tội vong hữu…Nay chúng ta cùng nhau triệt để bài trừ mê tín đốt vàng mã, quyết nhiên giữa dân tộc Việt Nam này để dành cho chúng ta viên thành một công nghiệp kiến quốc vậy”.
Xin được trở lại với những luận bàn. Nếu nói đến địa phủ phải chăng là một thế giới vô hình chỉ có trong tưởng tượng mà thôi, vậy thì tại sao cái gọi là “tiền của Ngân hàng địa phủ” lại là hữu hình? Ngân hàng ấy tọa lạc ở đâu mà lại sản xuất ra tiền tệ cho con người trên dương gian này dùng…Phải chăng đây là một sự lừa dối từ chính lương tâm…Biết rằng, thói tục đốt vàng mã đã có từ rất lâu đời, mặt dầu do ảnh hưởng cái lề thói cũ xưa nhưng khó lòng ngày một ngày hai có thể xóa bỏ . Bởi nó đã ăn sâu vào tâm tưởng con người, rằng đây là lòng thành kính, là sự sẻ chia giữa người còn sống và người đã khuất, là cái gì đó sâu xa về tâm linh. Cùng nhìn lại cái nét văn hóa rất Việt là hằng năm cứ đến ngày Tết cổ truyền của dân tộc, tuy “Phong tục Bắc Nam cũng khác” nhưng đối với ngày Tết ấy - cái ngày mà trong quan niệm là ông bà, tổ tiên sẽ về cùng vui Tết với cháu con thì cả nước ta lại có cách làm chung đó là chiều 30 rước ông bà, trên bàn thờ có một ít giấy vàng mã, con cháu tụ họp sẽ thấy bàn thờ thêm trang trọng, đây được xem như là một cách trang trí về hình thức cho gian thờ cho đẹp mắt tăng thêm sự thiêng liêng, khi trên bàn thờ tổ tiên còn giấy vàng mã cũng có nghĩa là còn Tết. Sau những ngày vui Tết đón Xuân, thường là mùng Ba hoặc mùng Bốn sẽ làm lễ đưa ông bà và cái lễ ấy được gọi chung là lễ “đốt giấy”, làm như vậy mọi thành viên trong gia đình sẽ cảm thấy thanh thản, ấm cúng và hạnh phúc. Đây được cho là một nét văn hóa riêng biệt, nhưng nó là một điều kiện chấp nhận được không đến mức độ lãng phí hay ô nhiễm môi trường sống. Nhưng hiện nay, việc sử dụng vàng mã đã thái quá đến mức không thể không lên tiếng, việc dùng vàng mã không còn được suy nghĩ là tâm linh mà nó đã biến thể thành sự thể hiện giàu nghèo một biểu hiện của sự phân tầng xã hội, người giàu có và người bình thường có cách sử dụng khác nhau. Ở các làng quê đã có không ít người đốt đi mỗi lần cúng hơn nữa sào lúa khô. Đó là những cái không mấy tốt đẹp đang lấn át dần cái đẹp vốn có đang được tôn tạo và đáng phải báo động.
Trong khuôn khổ bài viết này xin khoan nói nhiều đến thói tục kể trên mà chỉ bó hẹp lại trong một nội hàm là việc sử dụng vàng mã rải đầy đường khi đưa tang cần được xem là một hủ tục phải giảm và đi đến loại bỏ, phải vận động tuyên truyền mạnh hơn, việc biểu dương những địa phương làm tốt cuộc vận động được nêu gương nhiều hơn. Những gia đình cán bộ, đảng viên phải là những tấm gương thực hành triệt để hơn. Để quần chúng nhìn mà noi theo, phải hiểu đây là việc làm khó nhưng không có nghĩa là không thể. Có như thế thì việc thể hiện nếp sống văn minh trong phong trào TDĐKXĐSVH mới thật sự được gọi là đang khởi sắc, mới thật sự gắn liền với việc xây dựng một hệ thống nông thôn đổi mới. Sự thay da đổi thịt của làng quê mới đủ đầy ý nghĩa.
Văn Lý
-
*LƯU ẢNH CỦA LỚP NGƯỜI TIỀN TRÚ Ở MIỀN TRUNG VIỆT NAM QUA LỄ TỤC CÚNG ÐẤT -TÁ THỔ:
-
-
*NHÌN NHẬN ĐÚNG VỀ TỤC LỆ ĐỐT VÀNG MÃ CỦA NGƯỜI VIỆT: tamlinhviet.org
-
Khi chúng ta nói rằng số mệnh con người là đã được định sẵn từ trước, không phải chỉ nói đến công danh bổng lộc, giàu có hay nghèo đói, sống thọ hay chết yểu là đã được định trước, mà còn có một số người cả đời không thể ăn một loại đồ ăn nào đó, đều là có nguyên nhân. Trong cuốn sổ về đồ ăn ở không gian khác đều đã có ghi chép, dưới đây đưa ra hai trường hợp được ghi chép tại hai thời đại khác nhau nhưng đều nói về vấn đề đồ ăn tại nhân gian.
Thời ngũ đại thập quốc (907 – 960), học trò của quan Chu Trung Nhân ở Biện Châu là Hứa Sinh đột nhiên chết đi, âm phủ phái đoàn tùy tùng và sứ giả đến dẫn Hứa Sinh đi vào âm phủ, những địa phương và các thành phố ở nhân gian nơi mà Hứa Sinh đi qua, ông đều nhìn thấy trên mặt đất chồng chất hàng mấy vạn tạ lương thực, ở chính giữa cắm một cái cây có đề biển hiệu bằng gỗ: “Lương thực bổng lộc của kim ngô tướng quân Chu Trung Nhân”, Hứa Sinh vô cùng kinh ngạc.
Đợi đến lúc đi vào đến quan phủ, sứ giả dẫn Hứa Sinh tới công đường, viên quan chủ quản (quan chịu trách nhiệm việc chính) vừa tra cứu sổ sách vừa nói: “Người này bị bắt sai rồi”, rồi lại nói với Hứa Sinh: “Ngươi có thể ở đây đợi một lát, ta đi gặp Diêm Vương để nói rõ sự tình. Nhưng ngươi phải chú ý, không được lật xem sổ sách của ta”. Ông ta nói xong liền đi ra ngoài.
Hứa Sinh ngẩng đầu nhìn lên kệ thấy một biểu nhãn có ghi “Sổ ghi chép đồ ăn ở nhân gian”, Hứa Sinh nhớ tới chủ nhân Chu Trung Nhân không ăn được tương, muốn biết xem nguyên nhân vì sao, liền cầm quyển sổ xuống đọc qua, nhưng phần lớn không hiểu được chữ viết trong cuốn sổ đó.
Một lát, viên quan chủ quản quay lại, phát hiện Hứa Sinh đã nhìn lén cuốn sổ nên vô cùng tức giận, trừng mắt quát mắng Hứa Sinh, Hứa Sinh sợ hãi thừa nhận lỗi lầm của mình và nói với viên quan: “Tôi thường ngày nhận được ân điển của Chu Trung Nhân, biết rõ ông ấy không ăn tương, cho nên mới nhìn trộm cuốn sổ để kiểm chứng, xin quan tha thứ cho tỗi lỗi của tôi”.
Vẻ giận giữ của viên quan giảm đi chút ít rồi cầm cuốn sổ ghi chép tìm tên Chu Trung Nhân viết và chú thích “gia tăng đậu tam hợp”, sau đó lệnh cho sứ giả lúc trước dẫn Hứa Sinh quay trở về nhân gian.
Họ đi theo một con đường nhỏ, Hứa Sinh cùng với Sứ Giả đang đi, bỗng nhiên gặp một người phụ nữ, khuôn mặt tiều tụy, quần áo rách tả tơi, còn ôm theo một đứa bé, đứng ở bên đường chào hỏi họ rồi nói với Hứa Sinh: “Tôi là người vợ đã chết của Chu Trung Nhân, năm đó vì khó sinh mà chết, lại không được siêu thoát, hiện giờ vừa đói vừa rét, hy vọng ông có thể giúp đỡ tôi mấy ngàn quan tiền”.
Hứa Sinh bởi vì không có tiền, nên không thể đáp ứng được thỉnh cầu của người phụ nữ đó, người phụ nữ nói: “Tôi chỉ cần tiền vàng, ông chỉ cần đem tiền vàng đốt cháy là được rồi. Mặt khác, cũng muốn nói với Chu Trung Nhân hãy vì tôi mà sao chép bộ “Kim quang minh kinh” bày tỏ sám hối, có thể cầu khấn cho tôi một đường siêu thoát”.
Họ tiếp tục đi về phía trước, đi vào Tướng Quốc Tự, Hứa Sinh vừa muốn vượt qua cánh cửa, Sứ Giả ở phía sau liền đẩy Hứa Sinh một cái khiến ông ngã nhào trên mặt đất.
Chu Trung Nhân vừa thương xót vừa vui mừng hỏi Hứa Sinh về những chuyện ở âm phủ, Hứa Sinh nói: “Ngài không lâu nữa có thể làm Kim Ngô tướng quân”. Hứa Sinh lại đem chuyện nhìn thấy bảng nhãn ghi bổng lộc của Chu Trung Nhân và chuyện người vợ đã chết của ông ra kể, tướng mạo theo như lời Hứa Sinh tả thì một điểm cũng không sai.
Sau này khi Hứa Sinh ăn cơm cùng Chu Trung Nhân, Chu Trung Nhân nói: “Từ sau khi ngươi từ cõi chết trở về, ta đột nhiên cảm thấy ăn tương rất thơm, hiện tại ăn được rất nhiều”, điều này chính là kiểm nghiệm của lời chú thích “gia tăng đậu tam hợp” đây chăng!
Chu Trung Nhân viết xong “Kim quang minh kinh”, Hứa Sinh đốt mấy ngàn quan tiền vàng, vợ của Chu Trung Nhân sau đó xuất hiện trong giấc mơ cáo từ mà đi, về sau quả nhiên Chu Trung Nhân làm tới Kim Ngô tướng quân. Những điềm ở âm phủ báo trước, mọi tình huống sự việc đều không sai chút nào.
Từ trong bản ghi chép này cho thấy, có một số người từ bé không thể ăn được đồ ăn gì, đều là có nguyên nhân, tại “Sổ ghi chép đồ ăn ở nhân gian” của âm phủ đều đã ghi lại. Chu Trung Nhân sau này quả nhiên lên làm Kim Ngô tướng quân giống với điều mà Hứa Sinh đã nhìn thấy lúc ở âm phủ.
Có thể thấy, chức vị hay bổng lộc của một người đều đã được định sẵn từ trước rồi, sự tranh quyền đoạt lợi của con người ở nhân gian hỏi có tác dụng gì không? Cái gì nên có đều sẽ có, những cái không nên có mà bạn đi cưỡng ép để đạt được nó, thì là tạo nghiệp mà tổn đức, cuối cùng chẳng phải tự mình lại phải đi hoàn trả sao?
Phía dưới là một câu chuyện khác:
Tại Cô Tô (nay là Tô Châu) thời nhà Tống, có người tên Lâm Nghệ, tự là Tài Thần, là người chính trực, kiên cường, là bạn tốt của mọi người trong thôn, mọi người trong thôn đều xem ông là Lâm Vô Sai, điều này là do tên của ông giống với chữ “Nghĩa”. Lúc cuối đời nhờ thượng tấu đặc biệt mà được một chức quan, được điều đến Gia Hưng (nay thuộc Chiết Giang) nhậm chức chủ bộ, sau khi hoàn thành chức vụ lại quay trở về nhà.
Một ngày nọ, ông nằm mơ, có một sai dịch tới đón ông đi, đưa ông vào một quan phủ, mời Lâm Nghệ thăng đường, ngồi chính diện có mười mấy quan quân sai dịch, có người mặc quan phục kim hoa màu tím, đeo trang sức bằng bạc, ở trước đình mà hành lễ bái kiến.
Một sai dịch phụng mệnh cầm ra một cuốn hồ sơ, lật đến trang cuối cùng mời Lâm Nghệ ký tên vào, Lâm Nghệ nhìn chức quan ghi trong hồ sơ, tất cả đều bị che bởi một con dấu kích thước khoảng 3 tấc, đa phần không thấy ro, chỉ vẻn vẹn nhận ra năm chữ cuối cùng gọi là “Phong đô cung Lâm Nghệ” – liên tiếp mấy trang giấy đều là viết như thế.
Lâm Nghệ cả đời đọc sách Đạo gia, rất ao ước được làm thần tiên theo như những câu chuyện trong sách. Ông hướng tới sai dịch nói: “Người học đạo giáo, đều nên trở thành thần tiên trên trời, mà đây lại là chủ bộ ở âm tào địa phủ, nếu như không phải vì phạm tội mà bị giáng chức xuống đây thì bản thân ta không tới đây, huống hồ ta nghe nói đảm nhận chức quan này, phải 240 năm mới thăng chức một lần, cũng không phải là một vị trí tốt, ta không nguyện ý tiếp nhận”.
Sai dịch kia lại nói: “Đây là mệnh lệnh của ngọc đế trên thiên thượng, ông có thể kháng cự sao? Nếu ông không tiếp nhận, chỉ sợ phải tội với Ngọc Đế sẽ bị đem giáng xuống tầng thấp nhất mà chịu khổ, ngay cả chức quan này ông cũng không có được”. Lâm Nghệ bất đắc dĩ, mới phải ký tên vào đó. Ông chợt tỉnh dậy.
Ông biết rõ bản thân mình sống không còn được bao lâu, ông liền đem chuyện này nói với một người đạo sĩ rất thân với mình là Lữ Sơn Hữu.
Vợ của em trai Lâm Nghệ – Ngu Thị là con gái của thượng thư đương triều Ngu Sách, Ngu Thị không ăn thịt heo, Lâm Nghệ thường hay nói đùa với em dâu rằng: “Nhà chúng tôi nghèo khổ, cuộc sống sinh hoạt thường ngày là không thể sánh bằng với nhà mẹ nàng được, làm sao có thịt dê cho nàng ăn đây? Nàng hãy thuận theo điều kiện sinh hoạt của nhà chúng tôi, gắng gượng ăn đi!”
Ngu Thị vội vã nói lời xin lỗi: “Thiếp làm sao dám tự cao tự đại như vậy chứ, thiếp chỉ là từ nhỏ ngửi thấy mùi thịt heo thì đau đầu không chịu được, bây giờ nhìn thấy thịt heo thì sợ hãi, chứ không phải là kiêng ăn đâu!” Lâm Nghệ nói: “Ta nếu như làm quan ở âm tào địa phủ, nhất định phải làm cho em dâu ăn được thịt heo”.
Ngu Thị cười nói: “Nếu như thiếp thực sự được hưởng ân điển đó của anh chồng, có thể ăn được loại thức ăn này, thì đó là tâm nguyện lớn nhất của thiếp rồi.”
Trải qua một khoảng thời gian dài, Lâm Nghệ lại chuyển đến kinh thành, lúc quay về đi ngang qua Tứ Châu (nay thuộc Giang Tô), bị chết ở trên thuyền. Lúc trước, mẹ của Lâm Nghệ dẫn cả nhà đi ngang qua Tứ Thủy, mẹ của Lâm Nghệ đã sinh Lâm Nghệ trên thuyền, đến lúc Lâm Nghệ chết cũng lại giống như vậy.
Tin Lâm Nghệ chết còn chưa truyền tới Tô Châu, nhưng khi người trong nhà làm thịt heo, Ngu Thị liền hỏi: “Cái gì mà lại làm thành một món ăn thịnh soạn và hương vị thơm ngon như vậy?”, người trong nhà liền nói:“là thịt heo”. Ngu Thị nói: “Chàng lấy cho thiếp thử ăn một chút”, lúc này Ngô Thị ăn hết một bát, từ nay về sau nàng có thể ăn thịt heo rồi. Lúc ấy Lâm Nghệ đã chết được nửa tháng rồi.
Hai câu chuyện được ghi chép lại này, xuất phát từ hai niên đại khác nhau, câu chuyện thứ nhất được ghi chép trong cuốn “Ngọc Đường Nhàn Thoại” của Vương Nhân Dụ (880 – 956) thời ngũ đại nhà Đường. Nội dung chủ yếu của cuốn ghi chép đó liên quan đến những sự việc và những lời đồn của thời ngũ đại nhà Đường, thời kỳ Trung Nguyên, Tần Lũng, khu vực đất Thục. Đa phần đều là do Vương Nhân Dụ tự mình trải qua hoặc là ghi chép lại theo những lời tự thuật của những người trong cuộc.
Câu chuyện thứ hai xảy ra ở Hồng Mại vào thời Đại Tống (1123 -1202), hai sự tình này được ghi chép lại không ở cùng một thời đại nhưng đều liên quan đến sổ sách ghi chép của âm phủ vấn đề đồ ăn tại nhân gian, một số người không thể ăn được một loại đồ ăn nào đó, nếu như có thể sửa đổi trong sổ ghi chép ở âm phủ thì liền ăn được ngay, có thể thấy đều là đã được định trước rồi
Theo NTDTV
Biên dịch: Mai Trà