-
Đại cương Kim Cương Thừa
Gỉang viên Đ.Đ.THÍCH GIÁC HIỆP)
Học Viện Phật giáo Việt Nam tại TP.Hồ Chí Minh
http://phatgiao.vn/dataphatgiao/User.../06/madala.jpg
madala.jpg
1. GIỚI THIỆU
Tantra của Phật giáo sử dụng thuật ngữ và tư tưởng Phật giáo Đại thừa, đặc biệt là của Trung luận và Du-già tông hoặc đôi khi của A-tỳ-đàm. Kim cương thừa còn được gọi với những tên khác nhau tên thông dụng là Mật tông. Tantra có nghĩa là sợi giây, còn có nghĩa là gồm thâu tất cả mọi vật. Tantra còn chỉ cho cách thức thực hành thiền định và nghi lễ. Trung quốc dịch có 2 nghĩa: 1) bí mật: nói lên tính bí truyền của giáo lý này. Giáo lý không thể diễn đạt bằng ngôn từ bình thường. 2) chân ngôn: dịch từ: dhāraṇīhay matra.
2. LỊCH SỬ:
Ở Ấn độ khi đề cập đến Mật tông ta phải hiểu rằng có 2 loại, một là của Ấn độ giáo, hai là của Phật giáo.
2.1 Mật tông của Ấn độ giáo:
Tư tưởng Mật tông bắt nguồn từ thời cổ đại Ấn độ. Trước khi Phật giáo ra đời, nó đã trở thành hình thức tôn giáo và chiếm vị trí quan trọng trong xã hội Ấn độ cổ. Khi nó kết hợp vào Phật giáo, nó đạt được sự phát triển hoàn thiện. Giới tu sĩ hình thành giai cấp thượng đẳng, Brāhmaṇas. Các tu sĩ, thực hành chú thuật, tụng Phệ-đà mantras theo hình thức phát âm rất khó. Người thường không bao giờ có thể phát âm đúng được.
2.2 Mật tông Phật giáo:
Một trong những điểm ưu việt của Tantra Phật giáo là sự tổng hợp các yếu tố đa dạng của văn hoá Ấn độ. Bất cứ một phong trào tôn giáo nào ở Ấn độ Mật tông Phật giáo cũng rút ra được một vài điểm có giá trị.
Người thầy mới có đủ tư cách truyền khẩu, giải thích trình tự và ấn chứng cho học trò. Người Thầy giống như một vị Phật. Do vậy, Mật tông khẳng định tầm quan trọng của khẩu truyền từ thầy cho trò. Nếu người thầy thấy họ trò không hợp căn cơ thì sẽ không truyền. Các tông phái Phật giáo khác cho rằng nhiễm ô là chướng ngại chính đối với Bồ-đề, và chúng ta phải hoàn toàn chế ngự chúng.
Tāntras và mantras được thực hành từ thời đức Phật, nhưng chúng ta không có sử liệu về các sự kiện này. Đến bây giờ chúng ta có một vài dữ liệu về thái độ của đức Phật đối với việc thực hành Tāntra, chỉ có một vài đều cập trong văn chương Pāli, cho nên chúng ta không biết thời gian chúng được giới thiệu vào Phật giáo. Chúng ta chỉ biết một số tác phẩm nói về Dāraṇīs ắt hẳn tồn tại đầu kỷ nguyên Tây lịch. Trong Phật giáo chúng ta biết đức Phật cấm việc thực hành Dāraṇīs và bùa. Thế nhưng trong một số tác phẩm Đại thừa, mantras và Dāraṇīs được nói đến, như kinh Pháp hoa, Hoa nghiêm, Bát-nhã. Trong một số kinh khác chúng được đề cập với số lượng lớn.
Vào khoảng giữa thế kỷ thứ 7 Mật giáo đã trở thành dòng truyền chính của Phật giáo Ấn độ.Trong giai đoạn đại đế Pāla (thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12 TL.), Tantra Phật giáo phát triển mạnh, đến khi Hồi giáo xâm lăng trong thế kỷ 12 chúng đã tiêu diệt tông này. Mật tông phát triển sang đông nam Á và Tây tạng.
Giới Phật giáo thường phân biệt 2 loại Mật tông trong Phật giáo: 1) Thuần Mật (純 密): Thuần Mật là Mật tông theo lời dạy trong pháp thân của Đại Nhật Phật và trong kinh Đại Nhật (Mahāvairocana-sūtra) và kinh Kim Cương Đỉnh (Tattvasamgraha) 2) Tạp Mật (雜 密): Là Mật tông trộn lẫn những trường phái Mật giáo với nhau.
3. THÁNH ĐIỂN:
Thánh điển Mật giáo có 2 khuynh hướng: chú trọng đến chân đế và tục đế (1) Chân đế: dạy những phương pháp giúp phát khởi tâm Bồ-đề. (2) Tục đế: dạy chúng ta làm thế nào để đạt được những ước muốn thế tục như: an toàn, thịnh vượng v.v. Thực sự mục đích chân thật của Mật tông là bản tính siêu việt, tức chân đế còn những khuynh hướng khác chỉ là phương tiện để đưa chúng sanh bình thường đến giáo lý Phật giáo. Thánh điển Tantra Phật giáo có thể được viết vào thế kỷ thứ 2 TL hoặc sớm hơn. Kinh Bí Mật Tập Hội (Guhyasamāja) được viết vào thời ngài Vô Trước, thế kỷ thứ 3. Ở Trung quốc và Nhật bản kinh Đại Nhật, và kinh Kim cang Đảnh được xem là nền tảng của Mật tông thuần túy. Kinh Đại Nhật theo bản dịch Hán ngữ có 36 chương và 7 quyển, bao gồm 2 phần, (1) phần giáo lý, chương một, giới thiệu giải thích đầy đủ giáo lý quan trọng. và (2) Phần thực hành, chương 2 và những chương còn lại. Có thể nói nội dung chính yếu của giáo lý là biết được tâm thật của mình. Tâm của chúng ta là tâm Bồ-đề thanh tịnh. Mật tông tuyên bố thẳng tất cả những ai chưa ngộ đều là Phật. Chủ đích của kinh Đại Nhật là bày tỏ giá trị tuyệt đối của các pháp.
4. TRIẾT HỌC VÀ BIỂU TƯỢNG:
Phong trào Tantra tiêu biểu cho sự sửa đổi toàn diện giá trị thực hành, và biểu tượng của Phật giáo. Là một mô hình mới, Tantra thúc đẩy các hoạt động như nghệ thuật, văn chương. Mật giáo chủ trương thành Phật trong đời này. Thực hành của Mật tông bắt buộc hành giả phải thấy bản chất mọi vật và kinh nghiệm là thanh tịnh và hoàn thiện. Một số phương pháp thực hành của Mật tông ngay tức khắt phá vỡ tư tưởng nhị nguyên. Những phương pháp này đôi khi tạo ra những cú shock tinh thần, mọi khía cạnh của tâm đều được chiếu khai. Do vậy, Mật tông thường được gọi là phương pháp tu hành nhanh (tức thân thành Phật). Mật tông có thể thực hành trong mọi khung cảnh. Mặc dù Mật tông đưa ra nhiều phương pháp thực hành, không có một phương pháp duy nhất nào được quy định một cách chính thức.
4.1 MANTRAS
Mantras thường là một cụm từ không có nghĩa, mang những âm tiết huyền bí, tạo nên xương sống của Tantra Phật giáo. Chúng có nhiều loại. Mantra của Kim cương thừa dường như là một sự phát triển của Dhāraṇīs. Theo H.Kern, Dhāraṇīs dường được giới thiệu vào Phật giáo cho lợi ích những người căn cơ thấp. Mật tông cho rằng mantra có những thần lực kỳ diệu, thông qua việc hành trì mantra, năng lực được tạo ra có thể làm kinh ngạc thế giới. Năng lực của mantra có thể đạt quả vị Phật. Công đức trì mantra vô lượng, chư Phật không thể đo lường. Nó có thể làm trong sạch ngũ nghịch tội.
Mantra có được hiệu nghiệm chỉ khi nào áp dụng đúng với những luật lệ. Thật sự, các luật lệ này rất nghiêm khắc, chi tiết, và nhiều. Một người bình thường khó có thể thực hành đúng. Ví dụ, Mantra không được tụng nhanh hoặc chậm. Tâm hành giả lúc hành trì phải lìa hết vọng niệm nhiễm ô và phải hoàn toàn tập trung vào từng chữ của mantra, phải tụng đến lúc không còn cảm thấy mỏi mệt. Mục đích của Tantra là để đạt được sự giải thoát và hoàn thiện (siddhi), thịnh vượng và an lạc ở đời này.
4.2 KIM CƯƠNG XỬ (Vajra)
Tiêu biểu cho bất hoại, đôi lúc còn được so sánh với chất kim cương. Trong nghi lễ Mật tông, Vajra thường được cầm bằng tay phải và khánh ở tay trái. Trong sự kết hợp này, vajra tượng trưng cho phương pháp, an lạc, và tính dương và khánh tượng trưng cho trí tuệ, tánh không, và tính âm.
4.3 ẤN KHẾ (MUDRā):
Để hoàn thiện việc tu tập, hành động thân, khẩu, ý của hành giả phải được chuyển biến. Ví dụ tiêu biểu nhất của hành động của thân là việc thực hành mudrā. Mudra là bắt ấn, quyết. Đây là những cử động và vị trí của tay và ngón tay có những ý nghĩa tượng trưng cao siêu. Ví dụ bắt nhiều kiểu ấn tiêu biểu cho nhiều loại như: cúng dường, thuyết pháp hay thiền định. 10 ngón tay tiêu biểu cho 10 lực (đàn tức bố thí, nhẫn, tấn, giới, thiền, tuệ, nguyện, tiện, lực, trí). Ấn tiêu biểu cho thể của pháp giới. Cho nên đôi khi chúng ta nói 10 ngón tay biểu thị cho toàn thể pháp giới. Sự di chuyển và biến đổi vị trí của 10 ngón tay nói lên thiên sai vạn biệt.
4.4 CHUỖI:
Chuỗi dùng trong Tantra Phật giáo có nhiều mục đích. Tuỳ theo mỗi mục đich và câu mantra mà số lượng hạt và chất liệu khác nhau. Chuỗi làm bằng hạt Bồ-đề hay gỗ có thể sử dụng cho mọi mục đích, tụng mọi loại mantra, và mọi loại cầu nguyện. Giây xâu chuỗi phải 9 giây, tượng trưng cho Kim Cương Tát-đỏa và 8 vị Bồ-tát. Hạt chuỗi đứng cuối tiêu biểu cho trí tuệ nhận rõ vô minh và hạt hình trụ phủ trên nó là tính không, cả hai tượng trưng cho đánh bại mọi đối thủ.
5. CÁC LOẠI MẠN ĐÀ/TRÀ LA maṇḍala
Trọng tâm trong nghi lễ và biểu tượng của Mật tông là maṇḍala. Maṇḍala là một vòng tròn huyền bí hoặc hình cầu được vẽ trên đất hoặc sơn trên bệ của cột hay bục để tiêu biểu cho vũ trụ tâm lý và vật lý. Nó thường tiêu biểu cho một thành trì, pháo đài chống lại sự xâm nhập và chỗ chứa đựng sự thịnh vượng và quyền lực. Mandala tượng trưng cho cung điện thanh tịnh, một khoảng không tâm linh thanh tinh không chướng ngại, không nhiễm ô.
Trong thiền định, maṇḍala là một sự chiếu tỏa của thế giới nội tâm, sự soi sáng của vũ trụ làm cho những chuyển động của hành động thực tế hàng ngày vào một điểm thiền định và sự soi sáng của khả năng vô tận của sự giác ngộ. Nó cũng có thể chuyển tải dòng giác ngộ thâm nhập vào mọi khía cạnh của thế giới. Mandala không phải chỉ có lý thuyết mà còn là thực hành. Như vậy nó là công cụ (yantra). Có rất nhiều loại mandala tuỳ thuộc vào bản tánh của vị thần trung tâm. Phần lớn các loại mandala là ngũ Phật. Loại này xuất hiện trong Tantra xưa nhất.
5.1 Nhị Mạn đà la (Kim, Thai lưỡng bộ):
5.1.1 Thai tạng thế giới mạn đà la:
Nó tiêu biểu Đại nhật (Mahāvairocara) như lý thân. Nó tiêu biểu cho lòng từ, sự phát triển và khả năng giác ngộ. Mỗi chúng sanh được tin tưởng rằng có tiềm năng hay hạt giống Phật nó có thể được nuôi dưỡng trong thai tạng từ bi này để giúp cho sự giác ngộ.
5.1.2 Kim cang giới mạn trà la
Nó biểu thị cho trí đức của Như lai không bị bất cứ vật gì làm tổn hoại, có công năng phá trừ tất cả phiền não.
5.2 Tứ mạn đà la:
5.2.1 Đại mạn đà la: Đại có nghĩa là thù thắng, viên mãn. Còn gọi là Đại ấn, Đại trí ấn. Vũ trụ do Lục đại (tức 6 đại: đất, nước, gió, lửa, không, thức) hình thành. Tất cả sắc tướng, pháp trần gọi là Đại mạn đà la.
5.2.2 Tam muội da mạn đà la: còn gọi là Tam muội da ấn, Tam muội da trí ấn.
5.2.3 Pháp mạn trà la: Còn gọi là Pháp trí ấn, chủng tử mạn trà la. Nói chung, tất cả các pháp đều gọi là pháp mạn đà la.
5.2.4 Yết mạn trà la: Còn gọi là yết ma trí ấn, nghĩa là đức nghiệp, công năng tạo tác hay hoàn thành công việc. Đây là oai nghi, oai đức của chư Phật và Bồ tát, như hiện ngàn vạn ức thân, thực hành nhiều việc công đức, tuỳ căn cơ hoá độ chúng sinh.
6. TỨC THÂN THÀNH PHẬT:
Mật tông chủ trương tức thân thành Phật (即身成佛), tức thành Phật trong đời này. Tông này chủ trương nhờ tam mật gia trì cho nên có thể thành Phật ngay trong đời này. Có 3 loại thành Phật (三種成佛)
6.1 Lý cụ thành Phật (理具成佛): Nghĩa là tất cả chúng sanh thân, tâm là bổn thể Kim cang thai tạng. Phàm phu xưa nay tuy luân hồi trong lục đạo nhưng đều có đủ bản giác bồ đề. Chúng sanh cùng với Phật đồng một Pháp thân
6.2 Gia trì thành Phật (加持成佛): Nghĩa là tất cả chúng sanh có đủ bản giác công đức, lại tu tập Du-già, cùng chư Phật hỗ tương cảm ứng. Đây là tam mật gia trì. Do vậy ngay thân trong đời này đạt được diệu hạnh của Phật, lại đem diệu hạnh này để khai hiển chúng sanh.
6.3 Hiển đắc thành Phật (顯得成佛): Nghĩa là tu hành thành mãn, chứng nhập vô thượng bồ-đề. Xưa nay chúng sinh có đủ lý trí, vạn đức, đến giai đoạn này các công đức hoàn toàn khai hiển, nghĩa là hiển đức thành Phật
6.4 Tam Mật
6.4.1 Thân mật: Bất cứ hình tướng gì cần thiết làm cho chúng sanh thuần phục. Thân, tay bắt ấn (mudrā)
6.4.2 Khẩu mật: Lời nói đúng chính xác với từng loài chúng sanh. Khẩu, miệng đọc thần chú (mantra)
6.4.3 Ý mật: Biết tất cả thật tướng của các pháp. Tâm, nhập định (samādhi).
7. NGŨ PHẬT:
5 vị Phật tiêu biểu cho sự diệt trừ 5 loại phiền não.
1) Đại Nhật (Vairocana)- trừ- vô minh
2) A-súc-bệ Phật, dịch nghĩa là Bất động Phật (Akṣobhya)- trừ -thù hận
3) A-di-đà Phật (Amitābha)-trừ-tham ái
4) Bảo Sinh Phật (Ratnasambhava)-trừ-phỉ báng
5) Bất Không Thành Tựu Phật (Amoghasiddhi) -trừ-đố kỵ.
8. HÀNH TRÌ và QUẢ CHỨNG:
8.1 Quán đỉnh:
Tức dùng nước rưới trên đỉnh đầu. Ấn độ cổ đại vua lên ngôi hoặc khi lập thái tử, quốc sư dùng nước tứ hải để trong bình báu rải lên đầu người sắp nhậm chức, biểu thị chúc phúc. Căn cứ theo kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập địa, có ghi rằng Bồ tát ở địa thứ 9 bước vào địa thứ 10, chư Phật trí thuỷ để quán đỉnh để chứng minh. Mật tông dùng nghi thức quán đỉnh để xác chứng địa vị truyền thừa của đệ tử. hành giả trước phải hành Tứ quy y, thọ pháp quán đỉnh mới chính thức nhập môn.
8.1.1 Sự nghiệp quán đỉnh: Trước lễ pháp quán đỉnh 7 ngày người thọ pháp phải chí thành lễ bái, sám hối. Vị thầy trong 7 ngày cũng phải trì tụng mật chú, thiết lập đàn tràng quán đỉnh, cúng dường rộng rãi sau đó mới tiến hành lễ quán đỉnh.
8.1.2 Bí ấn quán đỉnh: Đệ tử học pháp tâm niệm kiên cố, tin tưởng mật hạnh, truyền trao mật ấn.
8.1.3 Tâm thọ quán đỉnh: Vị thầy thành tựu Tam muội, trong tâm tưởng kiến lập đàn tràng lấy tâm tưởng quán đỉnh.
8.1.4 Quang minh quán đỉnh: Chư Phật, Bồ-tát phóng hào quang để gia trì cho hành giả.
8.1.5 Cam lồ quán đỉnh: Kiết ấn, tụng thần chú trong nước, rải nước trên người hành giả.
8.2 Ngũ tướng thành thân quán:
8.2.1 Thông đạt Bồ-đề tâm: Trước tiên tu tập điều phục tâm, sau đó tu quán tính không, hoặc tu thập duyên câu sinh quán, và cuối cùng thông đạt được tự tánh vốn có đủ tâm Bồ-đề.
8.2.2 Tu Bồ-đề tâm: Do tâm Bồ đề bị phiền não che phủ, nên quán lìa bỏ các loại phiền não cấu nhiễm, đến mức độ quang minh hiển hiện, như mây trôi trăng sáng.
8.2.3 Thành Kim cương tâm: Để cho tâm Bồ đề kiên cố, hành giả quán tưởng mặt trăng tròn đầy, trong đó quán tưởng có hoa sen và chày kim cang. Quán tưởng chày kim cang lớn dần đồng với vũ trụ, và lại quán chày kim cang nhỏ dần. Quán chày kim cang lớn dần gọi là ngã nhập vũ trụ. Quán chày kim cang nhỏ dần là vũ trụ nhập ngã.
8.2.4 Chứng kim cương thân: Hành giả quán tất cả các pháp trong vũ trụ thâu nhiếp vào tâm, Tam muội của tự thân và Phật hoà hiệp thành một.
8.2.5 Phật thân viên mãn: Đây tiêu biểu cho ý nghĩa tức thân thành Phật. Nghĩa là thành Phật ngay nơi thân này, trong đời này. Thân của mình và thân của Phật hoà hợp thành một.
8.3 Thành tựu 4 loại thân:
4 loại thân này bao gồm pháp thân của Phật Đại Nhật và 10 phương pháp giới. Chư Phật, thiên long, quỷ thần, hữu tình, vô tình đều gồm nhiếp trong pháp thân của Phật Đại Nhật, Tỳ Lô Giá Na Như lai.
8.3.1 Tự tính pháp thân
8.3.2 Thọ dụng pháp thân
8.3.3 Biến hoá pháp thân
8.3.4 Đẳng lưu pháp thân
9. KẾT LUẬN:
Ba yếu tố quan trọng trong Kim Cương thừa: tính không (śūnyatā), thức (vijñāna), và Đại lạc (mahāsukha). Mỗi tâm cá nhân là tâm Bồ-đề. Tính không là tinh thần cao nhất và kho tàng năng lực vô tận, tạo nên sự chuyển động cả vũ trụ. Do vậy, mục đích của Bồ-tát là hòa nhập với tính không (śūnyatā) và thành tựu trí (vijñāna) và hạnh phúc bất diệt (mahāsukha).
SÁCH THAM KHẢO:
1. Bhattacharyya, B. An Introduction to Buddhist Esoterism, Delhi: Motilal Banarsidass Publishers, 1989.
2. Jansen, Eva Rudy., The Book of Buddhas: Ritual Symbolism used on Buddhist Statuary and Ritual Objects, New Delhi: New Age Books, 2001.
3. Kern, H. Manual of Indian Buddhism, Varanasi: Indological Book House, 1972.
4. Matsunaga, A. & D. Foundation of Japanese Buddhism, Vol I, Tokyo: Kenkyusha Printing Co., 1974.
5. Wayman, Alex & R. Tajima, The Enlightenment of Vairocana, Delhi: Motilal Banarsidass Publishers, 1998.
6. Shaw, M. Pasionate Enlightenment: Women in Tantric Buddhism, New Delhi: Munshiram Manoharlal Publishers, 1994.
7. Wayman, A. Yoga of the Guhyasamajatatantra: The Arcane Lore of Forty Verses,Delhi: Motilal Banarsidass Publishers, 1999.
8. Wayman, A. The Buddhist Tantras: Light on Indo-Tibetan Esotericism, Delhi: Motilal Banarsidass Publishers, 1996
9. Yoshinori, T. (ed.) Buddhist Spirituality: Indian, Southeast Asian, Tibetan, Early Chinese, Delhi: Motilal Banarsidass, 1995.
10. 何仕騰, 密宗綱要, 香港, 浸信出本社:1990
11. 山口瑞鳳,西藏的佛敎, 台灣, 法爾出本社: 2003
Đ.Đ.THÍCH GIÁC HIỆP
http://www.phatgiao.vn/bai-viet/dai-...-thua_964.html
-
-
南无大宝法王噶玛巴上师
NAMÔ ĐẠI BẢO PHÁP VƯƠNG - CÁC-MÃ-BA - THƯỢNG SƯ
( / http://list.youku.com/albumlist/show/id_51107208.html? )
===========
南无大宝法王噶玛巴上师- 播单- 优酷视频
list.youku.com/albumlist/show/id_51107208.html?
Translate this page
Oct 3, 2017 - 17世大宝法王噶玛巴领僧众唱诵《二十 一度母赞》(贵贵美珠珠); 上传者:阿弥陀佛念念从心发; 1,249次播放. 大寶法王領僧眾唱誦大悲咒_(贵贵美珠 .
-
-
「大寶法王心咒~噶瑪巴千諾」
大寶法王心咒 ─ 噶瑪巴千諾
分類:噶瑪巴相關知識 點擊數:20281 列印 Email
大寶法王心咒 ─ 噶瑪巴千諾
第十七世大寶法王噶瑪巴開示:
『噶瑪巴』不只是戴黑寶冠的那位噶 巴,『噶瑪巴』所代表的是十方一切 佛事業者,所以『噶瑪巴』是一切諸 佛菩薩的稱號。持誦『噶瑪巴千諾』 是向十方諸佛菩薩的祈請。
相關影片
https://www.kagyuoffice.org.tw/kaguy...karmapa-khenno
-
-
-
-
-
-
Bốc thăm lọ vàng
(Tôn giáo)
05-04-2017 | China.org.cn
Bốc thăm lọ vàng
Bốc thăm lọ vàng là phương thức nhận định linh đồng đại Phật sống truyền thếđẳng cấp cao nhất trong Phật giáo Tây Tạng của dân tộc Tạng, là chếđộđược chính thức thiết lập vào năm 57 Càn Long nhà Thanh (năm 1792). Kể từ nhà Thanh cho đến nay, linh đồng truyền thế của Phật sống Đạt Lai và Ban Thiền trong Phật giáo Tây Tạng phải qua bốc thăm lọ vàng mà nhận định dưới sự giám sát của người đại diện Trung ương. Theo quy định trong lịch sử, linh đồng truyền thế của đại Phật sống trong Phật giáo Tây Tạng phải qua bốc thăm lọ vàng mà nhận định ngoài Phật sống Cát Mã Ba của giáo phái Cát Mã Cát Cử, linh đồng truyền thế của Cát Mã Cát Cử chủ yếu là do di chúc của Cát Mã Ba đời trước để nhận định, nhưng cần phải được sự phê chuẩn của chính quyền Trung ương. “Biện pháp về việc quản lý Phật sống truyền thế trong Phật giáo Tây Tạng” đã quy định, những Phật sống đã qua bốc thăm lọ vàng nhận định trong lịch sử, linh đồng truyền thế của họđược nhận định theo phương thức bốc thăm lọ vàng; trường hợp xin miễn trừ bốc thăm lọ vàng, phải do cơ quan quản lý hoạt động tôn giáo của chính quyền nhân dân tỉnh, khu tự trịđệ trình Cục Sự vụ Tôn giáo Quốc gia phê duyệt, trường hợp có ảnh hưởng quan trọng đặc biệt, đệ trình Quốc vụ viện phê duyệt.
金瓶掣签
金瓶掣签是藏族认定藏传佛教最高等 大活佛转世灵童的方式,是清王朝乾 五十七年(1792年)正式设立的制度 自清朝以来,藏传佛教活佛达赖和班 转世灵童需在中央代表监督下,经金 瓶掣签认定。按历史定制,藏传佛教 活佛的转世灵童须经金瓶掣签认定, 独噶玛噶举派的活佛噶玛巴例外,其 转世灵童主要是由上一世噶玛巴的遗 来认定,但必须经过中央政府的批准 《藏传佛教活佛转世管理办法》规定 ,历史上经金瓶掣签认定的活佛,其 世灵童认定实行金瓶掣签;请求免予 瓶掣签的,由省、自治区人民政府宗 教事务部门报国家宗教事务局批准, 特别重大影响的,报国务院批准。
http://vietnamese.china.org.cn/china...t_40561602.htm
-
Tôi muốn diễn một vỡ kịch Phật Pháp trên sân khấu của thế giới này
Pháp sư Diệu Dung
24/02/2011 06:24 (GMT+7)
Năm 2005, Đức Đại Bảo Pháp Vương mở thời khai thị “Tông môn Thực Tu” dành cho Phật tử người Hoa tại chùa ngôi chùa Sáng Cổ ở Wanarasi (Ấn Độ). Từ khâu lo lắng và sắp xếp hết sức chu đáo, đích thân ra kế hoạch của ngài cho đến giây thời khắc tiễn năm cũ đón chào năm mới (2006) đã kết thúc trong sự trang nghiêm và long trọng. Trong quá trình diễn ra thời khai thị ấy, có không biết bao nhiêu việc, từ trước đến sau, từng chút từng chút, quả thật phải đợi đến khi pháp hội viên mãn kết thúc, khoảng thời gian từ Bồ-đề Ca Da rồi trở ngược về Wanarasi, mới có thể tĩnh tâm hồi tưởng lại những gì đã hiện ra trước mắt và những cảnh tượng cứ ngỡ như đã ăn sâu vào tiềm thức.
Bởi nhờ sức “Gia trì”
Trước khóa khai thị, chúng tôi dự tính số người tham gia không thể quá 500 người. Đây quả thực là vì kinh nghiệm bao năm qua cùng với thực tế trắc nghiệm có được kết quả. Chúng tôi đã thử sắp xếp qua bao nhiêu cách bài trí nệm ngồi, thảm trải…thế nhưng chỗ ngồi vẫn không thể vượt ra ngoài con số 500 cho dù chúng tôi cố sắp xếp bằng cách nào.
Gần đến ngày khai pháp hội, chúng tôi bắt đầu luýnh quýnh cả lên, bởi con số thính chúng đăng ký tham dự đã vượt ngoài con số 500 người, đó là chưa tính số 50 người Hàn quốc và gần 100 người Phương Tây đăng ký vào giờ chót. Chúng tôi lại thử sắp đặt thêm lần nữa thì kết quả số chỗ ngồi cũng không có gì thay đổi, không thể xếp ra được con số 500. Các pháp sư và các vị Lạt Ma phụ trách mệt mỏi ngồi phệt trên nền đại điện rộng lớn, ai cũng đang bắt đầu mang trên mình một chút “Gia trì” của đất thánh – cảm mạo, mũi thì hít đầy bụi bậm của những tấm trải.
Thế rồi chúng tôi đành nói với những đệ tử người Tây Phương rằng, trong khóa khai thị này không phiên dịch tiếng Anh, họ sẽ không hiểu gì đâu, mong là với lý do đó mà giảm đi phần nào số người tham dự. Nào ngờ họ vẫn không thoái tâm còn mời gọi thêm bạn bè đến cùng tham dự pháp hội. Một vị đệ tử người Tây Phương còn quả quyết rằng: “Chỉ cần nghe tiếng nói, đó cũng là sự gia trì rồi.”
Chúng tôi đành phải bắt đầu dự tính đến một vài trường hợp có thể xãy ra, có thể là đặt thêm một màn ảnh rộng phía ngoài điện chứ? Phải để người đến muộn ngồi phía ngoài điện sao? Ai lại tự nguyện ngồi ngoài như thế? Bên ngoài nắng chói chang, màn ảnh có nhìn được gì không?...bao nhiêu là dự định toan tính lần lượt đưa ra trong các cuộc họp khẩn, người đưa ý kiến, người thảo luận, rồi có người phản đối, rồi bị hủy bỏ. Muốn tổ chức gì đó tại Ấn Độ là một thể nghiệm mà tất cả như không thể nắm được trong tay. Tiền nhiều cũng khó mà khiển ma sai quỉ.
Những việc lo toan nhỏ nhặt này vốn không nên để đến tai Pháp Vương Kamapa. Bởi ngài đã phải xữ lý không biết bao nhiêu việc, thực sự là rất nhiều rất nhiều, không cần phải để những việc tạp này làm ngài bận lòng. Tuy nhiên, việc nhỏ ấy cuối Pháp Vương Kamapa cũng biết được. Khi ngài hỏi sự tình, chúng tôi chỉ biết thưa: “Số người đã vượt qua số lượng dự tính, trong đại điện e là không thể chứa hết. Có cần ai đó chuẩn bị thêm màn ảnh rộng không, bạch Pháp Vương?”
Nghe xong, Pháp Vương nói: “Không cần đâu.” – Vừa nghe lời này chúng tôi ai nấy đều ngẫn người ra, cũng không biết phải nói sao bây giờ. Pháp Vương nói tiếp: “500 người cũng ngồi được.” Chúng tôi còn chưa kịp định thần, vẫn mơ hồ chưa hiểu câu nó của Pháp Vương có ý gì. Thế rồi Pháp Vương tiếp lời: “600 hay 700 người cũng ngồi đủ”. Trong phút chốc chúng tôi không cách nào nghĩ ra, chỉ còn duy nhất một câu hỏi: “Vì sao?”. Pháp Vương mỉm cười: “Bởi vì có sự gia trì đó thôi.”
“Gia trì”, đúng rồi, việc Phật Pháp không chỉ nhìn vào nhân tố của con người, tính toán của con người, bao nhiêu sự chuẩn bị cũng chưa hẳn có được sự hoàn hảo như được sự gia bị của oai lực chư Phật. Tuy vậy, không thể hiểu câu nói ấy thành “chẳng cần phải chuẩn bị gì cả, chỉ cần ngồi đợi sự gia trì là tốt thôi”. Thế nhưng, có lúc phải nhìn bằng một tầng cảm nhận và tư duy khác. Tóm lại, lời nhắc nhở của Pháp Vương, đúng là đã đánh động vào tim và sự nhận thức của chúng tôi, nhớ lại trước đây đã từng đưa ra những kế hoạch như thế nào, và chưa từng nhớ đến có mặt của sự gia trì, nên mới nhiều phiền não và lo âu đến thế.
Qua lời nói này của Pháp Vương Kamapa, chúng tôi ai nấy đều cảm thấy lòng dạ nhẹ nhàng. Dốc hết sức mình vào công việc chuẩn bị, nhưng không hề mang một tâm trạng phiền não nào. Ngày giảng đầu tiên, chúng tôi biết được rằng có đến gần 700 người đã ngồi trong giảng đường. Còn có không ít số khác không nhận được số thứ tự cuối cùng cũng được vào trong. Có thể, có người sẽ nghĩ, đó là vì mọi người chịu chen lấn nên mới chứa được con số nhiều như thế. Nhưng, điều này đối với những người làm công tác chuẩn bị như chúng tôi mà nói, từng cố nát ốc để nghĩ ra làm sao để sắp xếp giải quyết tình thế cho thỏa đáng, lại thêm lo học viên dù vào được cũng không thể cảm thấy thoải mái, hoặc có người không thể nào vào được giảng đường rồi sinh phiền não, ảnh hưởng tâm cầu đạo, thì đây quả là một sự “gia trì” vô thượng.
Pháp Vương Kamapa ký tên.
Tất cả những ai đến tham gia thời khai thị vào ngày 01.02.2006 đều nhận được một cuốn sách nhỏ có chữ ký do chính tay Pháp Vương ký vào. Đây là một tập “Nghi Thức Cúng Dường Thượng Sư” do Pháp Vương Kamapa biên soạn.
Trong ngày đầu năm mới, sau thời khai thị của Pháp Vương Kamapa kết thúc, trở lại pháp tòa Pháp Vương thông báo cho hội chúng từng người từng người lần lượt bước lên nhận cuốn sách nhỏ có chữ ký của ngài từ chính tay Pháp Vương ban tặng. Một đội ngũ gần 700 người, phải mất không ít thời gian mới hoàn tất việc tự tay trao tặng cho mỗi người một món quà xuân trong niềm vui sướng và hoan hỷ.
Pháp Vương Kapama nói: “Trong năm mới này, tôi chúc mỗi người khi nhận được chữ ký của tôi thì cũng giống như hóa thân của tôi, cùng theo cạnh với mọi người, và được phục vụ mọi người.” Ngài lại bảo: “Trong lúc ký tên, thì mỗi chữ ký đều được gởi vào một lời chú nguyện, chứ chẳng phải vừa lăng xăng vừa ký tên đâu nhé!” (Nghe đến đây, cả hội chúng bật cười).
Ngày 31.02.2006 cũng là ngày đầu tiên của năm mới (Âm lịch), Pháp Vương Kapama vội vàng kết thúc giờ tiếp khách buổi trưa đồng thời tranh thủ dùng xong rất sớm bữa cơm trưa qua loa, ngài sai người mang đến thư phòng ở phòng nghỉ hơn hai ngàn cuốn “Nghi thức cúng dường Thượng sư”. Trong thư phòng nhỏ hẹp chất đầy những thùng sách. Trong không gian bấy giờ bay đầy bụi sách mới. Ánh mặt trời chiếu từ bên ngoài vào, soi rõ những làn bụi hắt lên mỗi khi những trang sách được lật ra. Có phải do tâm không chánh niệm hay bởi bụi quá nhiều, ai vào phòng cũng đều bị hắt xì nhảy mũi.
Khi tôi đi lấy khẩu trang trở lại, trước mắt mình một vị lạt-ma ngồi cạnh Pháp Vương Kamapa, từng cuốn từng cuốn chuyển sang cho Pháp Vương ký tên vào. Nhìn Pháp Vương lúc này, mang khẩu trang, rất chuyên chú ký vào từng cuốn một.
Trạng thái chuyên chú ấy, có gì đó khác thường. Pháp Vương Kamapa mỗi khi đã làm việc gì thì hoàn toàn chuyên tâm nhất ý vào đó, những việc diễn ra chung quanh hầu như không hề để tâm, cũng không cho phép người bên cạnh làm ồn. Lần này thì cho dù thị giả, thư ký hay bất cứ ai vào báo cáo điều gì đó, hoặc có người mang vật gì đó đến nhờ ngài gia trì, hoặc là người ngồi bên xầm xì nói chuyện, ngài đều dùng ánh mắt nghiêm nghị và đưa tay ra hiệu tất cả phải dừng lại. Chỉ mỗi việc ký tên vào sách không thôi, ngài cũng làm việc với thái độ vô cùng chuyên chú và nghiêm túc, khiến cho cả không gian hầu như dừng lại, bao nhiêu người bên cạnh ngài cũng bị ảnh hưởng ngài trong trạng thái đó, một tiếng tằng hắng cũng im bặt, người không phận sự thì im lặng lui ra, người có việc từ từ lặng lẽ ra ngoài.
Thực tế thì Pháp Vương Kamapa chỉ nói rằng ngài muốn ban tặng cho mỗi người một cuốn cách nhỏ “Nghi thức cúng dường Thượng Sư” có chữ ký của ngài nhân dịp đầu năm mới, nhưng ngài không hề cho ai biết ra rằng để có chữ ký ấy ngài đã làm việc thận trọng như thế nào. Suốt buổi chiều không nghỉ tay, không uống nước, và hoàn toàn tĩnh lặng. Trong hoàn cảnh không một ai được phép làm ồn, trải qua một buổi chiều, Pháp Vương đã ký tên mình, ba chữ truyền thừa quí báu “噶玛巴” Kamapa hết sức trang nghiêm lên hơn 700 cuốn sách.
Tôi cũng có mặt trong ngày đầu xuân này, mới hiểu được rằng tuy chỉ là chữ ký thôi những đã mang trong ấy lời cầu chúc an lành hết sức chân thành dành cho mọi người. Khi Pháp Vương Kamapa nói rằng, mỗi chữ ký chính là bản thân ngài, đồng hành cùng mọi người, phụng sự mọi người, thì trong long tôi bổng nhớ lại hình ảnh hôm qua một mình ngài trong thư phòng, mang khẩu trang và dụng tâm chuyên chú không hề nghỉ ngơi, suốt cả buổi chiều trước đóng sách để ký tên. Lòng tôi chợt nhận ra, nhất thiết chư Phật như đang tụ hội, sự hiện thân của đức từ bi Quán Thế Âm chỉ nằm trong một chữ ký ấy, chữ ký “Kamapa”
Lời cuối.
Vài mẫu chuyện nhỏ ấy tôi tự đặt cho nó với tựa đề “Đến và Đi”. Một phần là vì đây là những góp nhặt từ nhiều câu chuyện phát sinh sau những lần hoạt động đón xuân của Pháp Vương Kamapa. Mặt khác, Pháp Vương Kamapa cũng từng nói với chúng tôi rằng: “Thế giới này là một sân khấu, thế gian là vỡ tuồng, vỡ tuồng Phật pháp cũng ở nơi sân khấu ấy biễu diễn. Nếu không có sân khấu ấy, thì cũng không có vỡ tuồng nào diễn xuất được. Thế nên tôi rất trân quí sân khấu thế giới ấy, muốn lau chùi và làm sạch nó.” Ngài lại nói: “Tôi muốn diễn một vỡ kịch Phật Pháp thật hoành tráng, kinh thiên động địa trên sân khấu của thế giới này.”
Đời người như vỡ tuồng, như mộng ảo, tất cả đều là huyển mộng. Thế nhưng, đã là vỡ tuồng chưa kết thúc, giấc mơ dài chưa tỉnh mộng, thì xin nguyện cầu cho khắp pháp giới chúng sinh trong cuộc sống như mộng như huyễn ấy được dự vào đạo tràng thủy nguyệt, làm việc Phật sự trong cảnh mộng, hàng phục quân ma trong kính và thành tựu quả vị Phật từ hoa đốm hư không!
Thông Trường (dịch)
(Những hình ảnh đức Đại bảo Pháp Vương Kamapa sưu tầm từ Internet)
http://www.chuabuuminh.vn/mobile/def...ntentID=5F4451
-
-
Karmapa có nghĩa là "bậc thực hành Phật hạnh” hay "hiện thân tất thảy Phật hạnh”.
https://thuvienhoasen.org/a23990/dai...7-doi-hoa-than
==================
Karmapa là một chức vị của Tây Tạng, có nghĩa là "bậc hoằng hoá công hạnh của chư Phật" hay là "hiện thân cho các công hạnh của chư Phật".
http://www.khanhanh.fr/bantin/bt0210/bt2105.htm
-
-
https://cdnvn.truyenfull.vn/cover/eJ...a-sen-xanh.jpg
ĐỨC PHẬT VÀ NÀNG: HOA SEN XANH
Đức Phật Và Nàng: Hoa Sen Xanh
Tác giả:Chương Xuân Di
Thể loại:Ngôn Tình, Huyền Huyễn
Nguồn:Nhà xuất bản: Văn học - Đinh Tị
Trạng thái:Full
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Đánh giá: 9.1/10 từ 16 lượt
Dịch giả: Lương Hiền
Ngày xuất bản: 23 - 5 - 2013
Giới thiệu
Tiểu thuyết này không dành tặng những ai muốn nhanh chóng tìm kiếm một chuyện tình bay bổng, lãng mạn. Chúng ta buộc phải nhẩn nha thưởng thức chầm chậm những dòng tri thức văn hóa, lịch sử, tôn giáo rất dày, rất sâu chảy cuồn cuộn trong cuốn sách, buộc phải có một cái nhìn thật sự nghiêm túc về tình thân, tình yêu, tình người trong sự hỗn mang của thời cuộc, để từ đó thêm thấu hiểu, thêm yêu thương và trân trọng những gì ta có.
…
Tiểu hồ ly với bộ lông màu xanh lam tuyệt đẹp mắc bẫy người thợ săn, được một tiểu hòa thượng Tây Tạng cứu giúp trên đường đến Trung Nguyên. Từ đây số phận của hồ ly xinh đẹp gắn liền với cuộc đời của vị đại sư tuổi trẻ tài cao, lừng danh trong lịch sử Phật giáo Tạng truyền – Bát Tư Ba, người đã khiến cho Lạt ma giáo trở thành quốc giáo của các triều đại nhà Nguyên – Mông Cổ và bản thân Bát Tư Ba cũng là vị quốc sư được sùng bái rất mực vào triều đại Hốt Tất Liệt.
Nàng hồ ly Tiểu Lam sau 300 năm tu luyện đã nghe hiểu được tiếng người, nàng trở thành bạn tâm giao của hai anh em Bát Tư Ba và Kháp Na thuở thiếu thời. Tiểu Lam đã chứng kiến số phận “phi thường” của hai anh em Bát Tư Ba trong chuỗi những biến động lớn lao của thời cuộc, của lịch sử, của gia tộc và tôn giáo.
Một ngày nọ, nàng hồ ly hóa thành một cô gái xinh đẹp lạ thường với mái tóc và đôi mắt màu xanh lam kỳ ảo.
Kháp Na chôn chặt tình yêu trong lòng, cúi đầu trước vận mệnh trở thành vật hy sinh của hai cuộc hôn nhân sắp đặt, vì lợi ích của gia tộc.
Bát Tư Ba thông minh trác tuyệt, gánh vác trên vai trọng trách nặng nề của người đứng đầu giáo phái Sakya trong cuộc xung đột tôn giáo khốc liệt trên vùng đất tuyết Tây Tạng bao la.
Tiểu Lam trải đời và thấu hiểu, luôn lặng lẽ đi bên cạnh Bát Tư Ba và Kháp Na, ra sức giúp họ, hy sinh vì họ. Tình yêu sâu đậm dành cho vị đại sư tài ba như ngọn lửa ấm cứ len lỏi và âm thầm lớn dần trong tim nàng.
Thế rồi, Kháp Na kiên quyết chối bỏ trách nhiệm nối dõi tông đường sau hai cuộc hôn nhân thất bại thảm hại. Trách nhiệm đó, giờ đây sẽ thuộc về Bát Tư Ba.
Cuốn sách Đức Phật Và Nàng - Hoa Sen Xanh ngồn ngộn những tri thức quý báu và hiếm có về lịch sử triều đại nhà Nguyên, Mông Cổ, về lịch sử phật giáo Tây Tạng và những biến động to lớn của thời cuộc.
Tiểu thuyết này không dành tặng những ai muốn nhanh chóng tìm kiếm một chuyện tình bay bổng, lãng mạn. Chúng ta buộc phải nhẩn nha thưởng thức chầm chậm những dòng tri thức văn hóa, lịch sử, tôn giáo rất dày, rất sâu chảy cuồn cuộn trong cuốn sách, buộc phải có một cái nhìn thật sự nghiêm túc về tình thân, tình yêu, tình người trong sự hỗn mang của thời cuộc, để từ đó thêm thấu hiểu, thêm yêu thương và trân trọng những gì ta có.
https://bachngocsach.com/reader/duc-...-sen-xanh/jzva
https://truyenfull.vn/duc-phat-va-nang-hoa-sen-xanh/
-
. . o o O o o . .
Pháp Vương KARMAPA Thứ 17
được trông đợi đến thăm Châu Âu vào tháng 6 năm 2010
Pháp Vương Karmapa thứ 17, Ogyen Trinley Dorje, được trông đợi sẽ đến vân du Châu Âu lần đầu tiên vào tháng 6 năm 2010. Ngài Karmapa đã chấp thuận lời mời liên tục và từ lâu năm của các trung tâm ở Châu Âu và đang thông qua quá trình phê chuẩn chính thức. Đáp lại lời mời của Uỷ Ban Tổ Chức Châu Âu, do một số trung tâm Phật Giáo cũng như các tổ chức phi tôn giáo và các trường đại học hợp thành, bậc lãnh đạo tông phái Karma-Kagyü của Phật Giáo Tây Tạng sẽ đến thăm chín quốc gia. Chương trình của chuyến du hành sẽ kéo dài năm tuần, bao gồm các cuộc họp mặt mang tính cách tâm linh, văn hóa, liên tôn giáo, khoa học và các cuộc gặp gỡ chính thức với một công chúng rộng lớn mong mỏi muốn gặp ngài, cũng như với một số nhân vật và các học viện ở Đức, Thụy sĩ, Đan mạch, Ba Lan, Pháp, Anh, Bỉ, Tây Ban Nha và Hà Lan. Khẩu hiệu cho chuyến đi du hành Châu Âu của vị Karmapa 24 tuổi này là "TƯƠNG LAI LÀ HIỆN TẠI - lời nhắn nhủ của Đức Phật cho Thế giới Ngày nay".
Pháp vương Gyalwang Karmapa thứ 17 được coi là một trong số các Lama Tây tạng quan trọng nhất sau Đức Dalai Lama thứ 14 và được xem như niềm hy vọng đầy hứa hẹn cho sự tồn tại của Phật Giáo và Văn hoá Tây tạng.
Karmapa là ai ? Phật giáo được truyền bá ở Tây Tạng lần đầu tiên vào thế kỷ thứ bảy, dưới triều đại của Vua Songsten Gampo và bắt đầu bám rễ ở thế kỷ thứ tám. Hai đại sư Ấn Độ vĩ đại, Padmasambhava (Liên Hoa Sinh) và Shantarakshita (Tịch Hộ) đã giúp nhà vua Trisong Detsen hoằng truyền giáo pháp và phiên dịch Pháp của Phật sang Tạng văn. Qua nhiều thế kỷ, Phật giáo Tây Tạng đã phát triển thành bốn dòng truyền thừa, tức là bốn tông phái Phật học cơ bản của nước này : dòng Kagyu, dòng Nyingma, dòng Sakya và dòng Gelukpa. Nguồn gốc tất cả các tông phái cũng như các truyền thống tu tập của Tây Tạng đều trực tiếp bắt nguồn từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Thêm vào đó, mỗi tông phái lại được thành lập bởi một vị tổ sư, và mỗi vị tổ sư cũng lại có liên hệ với một truyền thống cụ thể ở Ấn Độ.
Dòng truyền thừa Karma Kagyu và các đức Karmapa
Tông phái Kagyu của Phật Giáo Tây Tạng Kagyu cũng bắt nguồn từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thông qua hành giả Du già (Yogi) vĩ đại Tilopa (988-1069). Ngài Tilopa lại là thầy của một vị pháp sư lừng danh người Ấn Độ là ngài Naropa. Đệ tử của ngài Naropa là ngài Marpa - vị dịch sư lỗi lạc của Tây Tạng - và ngài Marpa sau đó đã truyền thừa cho ngài Milarepa, vị hành giả Du già nổi tiếng nhất Tây Tạng. Học trò xuất sắc nhất của ngài Milarepa là ngài Gampopa, người đã truyền thừa cho ngài Dusam Khyenpa (1110-1193) - đức Karmapa đầu tiên.
Karmapa là một chức vị của Tây Tạng, có nghĩa là "bậc hoằng hoá công hạnh của chư Phật" hay là "hiện thân cho các công hạnh của chư Phật". Trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng, những thượng sư chứng ngộ, còn gọi là các vị Tulku (Hóa Thân), thường tái sinh trở lại theo nguyện lực với mục đích truyền dạy [Phật Pháp]. Cơ chế của các vị Lạt ma (lama) tái sinh và kế thừa tu viện và pháp tòa của chính tiền thân mình đã được khởi xướng bởi đức Karmapa đầu tiên, và liên tục tiếp nối nhau trên 800 năm tại Tây Tạng. Trong truyền thống này, cho tới nay các đức Karmapa đã tái sinh 17 (mười bảy) đời, tất cả đều giữ vai trò lãnh đạo trong công cuộc bảo tồn và truyền bá Phật Giáo Tây Tạng.
Lừng danh khắp lãnh thổ Tây Tạng, với giáo pháp, trí huệ uyên thâm và sự chứng đắc rạng ngời, các đức Karmapa đã là hiện thân cho lý tưởng cao cả nhất của Phật Giáo - một cuộc sống dâng hiến tuyệt đối để lợi ích tất cả chúng sinh. Trải qua hàng trăm năm, các đức Karmapa đã quên mình để tiếp nối việc truyền bá một cách thiện xảo con đường dẫn đến sự giác ngộ viễn mãn, như Đức Phật đã từng làm mấy ngàn năm trước.
Vai trò của đức Karmapa. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng Guru Rinpoche (Liên Hoa Sanh), người mang Phật giáo từ Ấn Độ qua Tây Tạng, đều đã tiên tri về sự xuất hiện của một vị thượng sư, người sẽ được biết đến dưới tên "Karmapa". Qua nhiều thế kỷ, các đức Karmapa đã thực hiện các công hạnh của bậc giác ngộ. Các ngài đã xoa dịu, xua tan khổ đau và mang hạnh phúc, mãn nguyện cho tất cả chúng sinh. Mục đích của các đức Karmapa là thể hiện "vô duyên từ bi" một cách trực tiếp và dễ tiếp cận.
Trong nhiều thế kỷ, các đức Karmapa luôn được cả thường dân lẫn các tu sĩ ở các tu viện khắp các vùng Tây Tạng tìm đến như một chỗ dựa tinh thần, người che chở và vị đạo sư tối cao. Người ta cho rằng đức Karmapa, từ nhiều a tăng kỳ, đã giác ngộ thành Phật có tên là Shenphen Namrol. Hiện nay, đức Karmapa thứ 17, Ogyen Trinley Dorje, là một bậc thượng sư có vai trò lãnh đạo trong lịch sử Tây Tạng hiện đại. Vì thế, đức Karmapa đã làm việc không biết mệt để phát triển của Phật Giáo cả trong và ngoài Tây Tạng. Tạm thời, đức Karmapa sống tại tu viện Gyuto ở Dharamsala. Ở đây, ngài đang lãnh thọ trọn vẹn các giáo pháp của dòng truyền thừa Karmapa. Hàng ngàn người Tây Tạng, Ấn Độ, Nepal, Miến Điện, người Á đông, người Âu tây đến bái kiến ngài quanh năm. Ngài ban các cuộc tiếp kiến cộng đồng cũng như riêng tư, đồng thời dành cho các vị Lạt Ma cao cấp những buổi tham vấn đặc biệt về vấn đề tu tập.
http://www.khanhanh.fr/bantin/bt0210/bt2105.htm
-
Vai trò của đức Karmapa. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng Guru Rinpoche (Liên Hoa Sanh), người mang Phật giáo từ Ấn Độ qua Tây Tạng, đều đã tiên tri về sự xuất hiện của một vị thượng sư, người sẽ được biết đến dưới tên "Karmapa". Qua nhiều thế kỷ, các đức Karmapa đã thực hiện các công hạnh của bậc giác ngộ. Các ngài đã xoa dịu, xua tan khổ đau và mang hạnh phúc, mãn nguyện cho tất cả chúng sinh. Mục đích của các đức Karmapa là thể hiện "vô duyên từ bi" một cách trực tiếp và dễ tiếp cận.
http://www.khanhanh.fr/bantin/bt0210/bt2105.htm
-
Trong nhiều thế kỷ, các đức Karmapa luôn được cả thường dân lẫn các tu sĩ ở các tu viện khắp các vùng Tây Tạng tìm đến như một chỗ dựa tinh thần, người che chở và vị đạo sư tối cao. Người ta cho rằng đức Karmapa, từ nhiều a tăng kỳ, đã giác ngộ thành Phật có tên là Shenphen Namrol.
http://www.khanhanh.fr/bantin/bt0210/bt2105.htm
-