-
The Dhārani of Yellow Jambhala from the Guhyāsamaja
The Dhārani of Yellow Jambhala from the Guhyāsamaja
SER-NAY LAY KYI ME YII DUNG-WA DAK
Those who are scorched by the fire of the karma of stinginess,
KYE-WA KYE-WAR KHYÖ LA KYAP SU CHHI
Go for refuge to you in lifetime after lifetime;
RIN-CHHEN TER GYI DÜ-TSI’I CHHAP GYÜN GYII
With the cleansing stream of ambrosia from your treasury of riches,
SEM-CHEN ÜL-WAY DUK-NGEL ZHI-WAR DZÖ
Please pacify the suffering of sentient beings’ poverty!
OM ĀH JA HŪM
Saying that, then recite:
OM JAMBHALA JALENDRAYE SVĀHĀ
Recite this dhārani as much as possible.
KHYEY LA TÖ CHING SÖL-WA-TAP-PAY T’HÜ
Through the power of praising and supplicating you,
DAK SOK GANG-DU NAY-PAY SA-CHHOK DER
For myself and all others, in whatever places we live,
NAY DANG ÜL-P’HONG T’HAP-TSÖ ZHI-WA DANG
May sickness, poverty, and fighting be pacified,
CHHÖ DANG TRA-SHII P’HEL-WAR DZAY DU SÖL
And may Dharma and auspiciousness increase, I pray.
With that, make wishes and aspirations.
From the forthcoming book, The Compendium of Daily Name-Recitation and Dhārani Practices, by the 7th Panchen Lama.
https://buddha-nature.com/2012/05/02...e-guhyasamaja/
-
-
That' sounds like a different mantra than the one posted on day 17 for the Yellow Jambhala. (???)
OM JAMBHALA JALANDRAYE SVAHA
Om Jambhala Jalandraye svāhā!
(Pronunced: aum jam ba la ja len dra ya so-ha)
I'm very much enjoying learning about what Ellen has shared with us in each lesson. I found some interesting history and descriptions of the Yellow Jambhala:
https://en.m.wikipedia.org/wiki/Jambhala
http://www.geocities.ws/mahayanazengong/wealth.html I
Have a blessed day! :)
http://www.dailyom.com/cgi-bin/discu...=100&did=16210
-
Om Kurukulle Hrih Svaha(咕嚕咕咧佛母)
Om Vajra Ayuse Svaha(據說是健康與長壽的咒)
Om Jambhala Jalendraye Svaha(黃財神咒)
Om Kuberaye Svaha(北方夜叉主 - 與錢財有關)
Om Ah Hum Vajra Guru Padma Siddhi Hum(蓮花生大士 - 據說可幫助自身的事業順利,也與招 有關)
Om Marichi Mam Svaha(摩利支天 - 避災/防小人)
Om Tare Tuttare Ture Svaha(綠度母 - 消災/祈福)
Om Ekajati Hum(一髻佛母咒 - 招財)
Om Arapacana Dhih(文殊菩薩心咒 - 智慧)
Om Vajra Amrita Kundali Hana Hana Hum Phat(軍荼利明王咒)
https://soundcloud.com/janus-ng-902330934/ekihstlwal4b
-
-
-
http://justshutupandblog.blogspot.co...la-part-2.html
Java in the 14th Century: A Study in Cultural History
https://books.google.com.vn/books?isbn=9401187762
Theodore G.Th. Pigeaud - 2013 - History
Jambhala is also called Pürwayaksa, Yaksa and Manibhadra. ... OM, the homage of the protectorless may be noticed by the Relief of the Three Worlds. External ...
https://books.google.com.vn/books?id...mbhala&f=false
-
2007-02-14Jambhala - Welcome to Henan Museum
english.chnmus.net/Exhibitions/200702/14/content_52779.htm
Feb 14, 2007 - (ii) om Chilikundali svaha;. (iii) om Vaisrama(va)naya svaha;. (iv) om Kelimali svaha;. (v) om Danadaya svaha;. (vi) om Jambhala-Mukhendraya ...
-
-
-
-
-
KHÔNG NÊN XEM THƯỜNG CÁC VỊ HỘ PHÁP🙏
Rinpoche cảnh cáo điều tối nguy hiểm là xem thường các vị Hộ Pháp. Chư Hộ Pháp là lực lượng mạnh mẽ, thường là chư thần đã được các đại sư cao cả thuần hóa. Các ngài khiến cho những chúng sanh hung bạo này thệ nguyện bảo hộ giáo pháp của Đức Phật (Pháp) và các hành giả chân thành tu tập giáo pháp thoát khỏi sự nguy hại và chướng ngại.
Rinpoche thường kể chuyện về một vị Hộ Pháp đã thệ nguyện gìn giữ pháp tu chuyên về biện luận của một tu viện nọ. Vị Hộ Pháp này phải gây trở ngại, chẳng hạn như tạo ra bệnh tật và tai nạn cho bất cứ người nào cố gắng hành trì Mật điển trong khuôn viên của tu viện, trong khi họ nên biện luận về giáo pháp. Chỉ các nhà sư nào đã hoàn tất lớp biện chứng và tu học thêm tại một trong hai học viện mật điểnmới được phép tu tập Mật điển, nhưng thậm chí ở thời điểm đó, họ cũng không được hành trì giữa bốn bức tường của tu viện này.
Một vị Geshe, lúc còn là tăng sinh, đã cúng dường lễ đốt lá tùng liên hệ đến pháp tu Mật điển, và ông đã liên tục gặp chướng ngại. Sau đó, ông tu học ở một trong hai học viện Mật điển và sau khi ra trường, đã tiếp tục làm lễ cúng dường này, nhưng ở ngoài tu viện, trên một sườn núi gần đó. Vài năm sau đó, khi vị Geshe này trực tiếp chứng ngộ tánh Không vô niệm, vị Hộ Pháp đã hiện ra trong một linh kiến. Vị thần hung tợn đã xin lỗi ngài và nói rằng, “Tôi xin lỗi là trước đây đã làm hại ngài, nhưng đó là một trong những điều cam kết của tôi đối với vị sáng lập tu viện của ngài. Giờ thì ngài đã chứng ngộ tánh Không, dù có muốn, tôi cũng không thể nào làm hại ngài được nữa.”.
Rinpoche nhấn mạnh tầm quan trọng của ví dụ này. Đùa giỡn với các lực lượng ngoài tầm kiểm soátcủa mình có thể dẫn đến tai họa. Ngài thường trích dẫn lời Đức Dalai Lama luôn nói rằng hãy nhớ các vị Hộ Pháp là hầu cận của các Bổn Tôn. Chỉ những hành giả nào có đẩy đủ khả năng trong giai đoạn phát khởi của Tối Thượng Du Già Mật Điển và có quyền ra lệnh như một Bổn Tôn mới nên liên hệ với các Hộ Pháp. Nếu không, việc liên hệ quá sớm sẽ giống như đứa bé gọi một con sư tử to lớn đến bảo vệ nó. Con sư tử có thể ăn tươi nuốt sống đứa bé. Đức Dalai Lama khuyên rằng nghiệp do ta tạo ra là hộ pháptốt nhất đối với mình. Hơn nữa, còn việc quy y Tam Bảo – Phật, Pháp. Tăng (tăng thân đã đạt chứng ngộ cao cả) thì sao?
-- Nguyên tác: Lời Khuyên Của Rinpoche Dành Riêng Cho Hành Giả Mật Tông --
Trích từ 'CHÂN DUNG CỦA TSENZHAB SERKONG RINPOCHE' - Lozang Ngodrub chuyển Việt ngữ | Võ Thư Ngân hiệu đính
https://www.facebook.com/pg/Mandala-...5702081/posts/
-
ĐẠI HỘ PHÁP ĐEN MAHAKALA – VỊ THẦN TỪ BI VỚI VẺ NGOÀI DỮ TỢN
Vị Thầy Phật giáo vĩ đại thế kỷ mười một, Machik Labdron, từng nói: “Trong các truyền thống khác, quỷ bị tống ra ngoài. Nhưng trong truyền thống của ta, quỷ được chấp nhận với sự từ bi.” Vì vậy con quỷ dữ tợn và có nhiều thần thông này đã được chuyển hoá bằng sức từ bi và được đưa đến với Phật pháp. Vị thần ấy màu đen, với khuôn mặt đáng sợ, nhìn Mahakala, bạn sẽ nghĩ chẳng có thứ gì trên đời như thế lại là biểu hiện của từ bi.
Nhưng nếu nhìn kỹ, bạn sẽ thấy có rất nhiều biểu tượng từ bi trong mô tả Mahakala bốn tay. Một trong các tay trái của ngài cầm một sọ người đựng AMRITA, tiên dược của thần linh. Loại rượu tiên amrita này là một phương tiện để xoa dịu các cảm xúc mạnh.
Một trong các tay phải cầm một con dao quằm, biểu tượng cho việc bồi đắp và mở rộng các tác động tích cực cũng như những phẩm giá tôn quý tới người khác.
Tay phải còn lại cầm một thanh kiếm. Thanh kiếm không phải được dùng như một vũ khí, mà khi vẫy thanh kiếm ấy Mahakala đang tập hợp thu hút các nguồn lực.
Cánh tay bên trái kia cầm một đinh ba, biểu tượng cho sức mạnh huỷ diệt. Mỗi ngạnh của đinh ba là nhằm tiêu diệt tham đắm, sân hận và vô minh, tức là tiêu trừ những chướng ngại.
Với hình ảnh Mahakala bốn tay, chúng ta thấy có 4 phương tiện thiện xảo mà từ bi có thể biểu lộ: xoa dịu, bồi đắp, thu hút, phá huỷ. Chogyam Trungpa Rinpoche từng nói: “Toàn bộ cấu trúc của hình tượng Mahakala dựa trên năng lượng và từ bi trọn vẹn mà không có lòng trắc ẩn ngu dốt.”
Lodro Rinzler
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...69754033_n.jpg
==========
ĐẠI HỘ PHÁP ĐEN MAHAKALA – VỊ THẦN TỪ BI VỚI VẺ NGOÀI DỮ TỢN
Vị Thầy Phật giáo vĩ đại thế kỷ mười một, Machik Labdron, từng nói: “Trong các truyền thống khác, quỷ bị tống ra ngoài. Nhưng trong truyền thống của ta, quỷ được chấp nhận với sự từ bi.” Vì vậy con quỷ dữ tợn và có nhiều thần thông này đã được chuyển hoá bằng sức từ bi và được đưa đến với Phật pháp. Vị thần ấy màu đen, với khuôn mặt đáng sợ, nhìn Mahakala, bạn sẽ nghĩ chẳng có thứ gì trên đời như thế lại là biểu hiện của từ bi.
Nhưng nếu nhìn kỹ, bạn sẽ thấy có rất nhiều biểu tượng từ bi trong mô tả Mahakala bốn tay. Một trong các tay trái của ngài cầm một sọ người đựng AMRITA, tiên dược của thần linh. Loại rượu tiên amrita này là một phương tiện để xoa dịu các cảm xúc mạnh.
Một trong các tay phải cầm một con dao quằm, biểu tượng cho việc bồi đắp và mở rộng các tác động tích cực cũng như những phẩm giá tôn quý tới người khác.
Tay phải còn lại cầm một thanh kiếm. Thanh kiếm không phải được dùng như một vũ khí, mà khi vẫy thanh kiếm ấy Mahakala đang tập hợp thu hút các nguồn lực.
Cánh tay bên trái kia cầm một đinh ba, biểu tượng cho sức mạnh huỷ diệt. Mỗi ngạnh của đinh ba là nhằm tiêu diệt tham đắm, sân hận và vô minh, tức là tiêu trừ những chướng ngại.
Với hình ảnh Mahakala bốn tay, chúng ta thấy có 4 phương tiện thiện xảo mà từ bi có thể biểu lộ: xoa dịu, bồi đắp, thu hút, phá huỷ. Chogyam Trungpa Rinpoche từng nói: “Toàn bộ cấu trúc của hình tượng Mahakala dựa trên năng lượng và từ bi trọn vẹn mà không có lòng trắc ẩn ngu dốt.”
~ Lodro Rinzler
www.kimcuongthua.org
https://www.facebook.com/pg/Mandala-...5702081/posts/
-
[Homage to White Dzambhala]
"tài lộc của Đông thắng thần châu tráng lệ, giáo pháp thiêng liêng của Nam thiệm bộ châu, phú quý của Tây ngưu hoá châu, trường thọ của Bắc câu lư châu, quyền lực, phước đức và sinh khí của chúng sinh đang sống nơi bốn đại châu và tám tiểu lục địa, con nguyện xin Ngài [Bạch Dzambala] hãy ban cho những thứ ấy như là những ân phước tốt lành"
trích bài "Thỉnh nguyện Phước lộc trường thọ" truyền thừa Drikung Kagyu.
Việt ngữ: Bảo Vô Trước
Tâm Bảo Đàn hiệu đính
Ảnh: Đức Bạch Thần tài White Dzambala
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...5b&oe=5A9874C1
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
[english n/a]
Câu hỏi: Tại sao trong Mật tông có pháp tu về vị Tôn tài bảo Dzambhala?
Lama Sonam Jorphel Rinpoche: Dzambhala không chỉ có trong Kim cang thừa mà còn xuất hiện cả trong Đại thừa. Ngài là một trong 100 người con của một vị vua xứ Dạ Xoa sống ở phía Bắc núi Tu Di. Ngài không phải là vị thần thế gian, thực ra Ngài là một vị Phật. Pháp tu Dzambhala có trong Mật điển ngay từ cấp thấp nhất là Kriya Tantra cho đến những cấp Tantra cao hơn. Khi đức Phật Thích ca còn là một vị tăng nghèo khổ, Ngài đã hành trì pháp Dzambhala. Sau khi thành tựu pháp này, Ngài đạt đến sơ địa bồ tát. Phật Thích Ca không tu pháp này vì tâm tham như người thế gian; Ngài dùng tiền để tu hạnh bố thí, hạnh đầu tiên trong lục Ba-la-mật. Sau đó Ngài tiếp tục tu tập và viên mãn sáu hạnh Ba-la-mật, trở thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác.
Các con đừng lầm lẫn mà chấp nơi hình tướng. Cần phải hiểu tánh. Công đức hạnh nguyện của chư Phật và chư Bồ tát khắp thập phương pháp giới là bất khả tư nghì. Có nhiều vị Bổn tôn và nhiều pháp tu là để khế hợp căn cơ chúng sinh. Sự hóa hiện vô vàn hình tướng của các Ngài cũng chỉ để cứu độ chúng ta mà thôi. Chẳng hạn như Chakrasamvara có nhiều hình tướng hóa hiện khác nhau. Có hình tướng chỉ có hai tay, có hình tướng lại đến trăm ngàn tay.
Các con nên hiểu rằng 100 hay 1000 vị Phật, vị Bổn tôn cũng như một vị Phật mà thôi. Vì vậy hành trì pháp Dzambhala là đã hàm chứa trong pháp đó 1000 vị Bổn tôn và 1000 vị Phật khác rồi. Hiểu được điều này thì chỉ cần thành tựu một Bổn tôn là đã đầy đủ rồi. Thành tựu pháp Dzambhala thì các con cũng sẽ chứng đắc như Phật Thích ca vậy.
Tất cả chư Phật đều đồng nhau không khác. Chỉ có tâm chúng ta là có phân biệt mà thôi. Dù cho có tu theo dòng phái nào đi chăng nữa thì các con vẫn phải nhớ rằng các truyền thống của Phật giáo là hoàn toàn thống nhất.
"Bài giảng của Thầy"
Việt dịch Hiếu Thiện & nhóm Liên Hoa Tâm
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
Chén cúng Hộ pháp | Serkyem hay Serkem (tiếng Tạng)
(English below)
Bộ chén cúng Hộ pháp Serkyem được dùng để thực hiện nghi lễ cúng dường đến các vị Hộ pháp và các hộ thần khác. Nghĩa đen của Serkyem là "thức uống vàng ròng". Thông thường chén cúng Serkyem này chứa [cúng phẩm] như trà đen và nhiều loại hạt như lúa mạch đã bỏ vỏ, gạo, lúa mì. Vài cách cúng dường cũng có thể gồm trái cây, bánh quy, bánh mì, và rượu.
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...11087423_n.jpg
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
https://www.facebook.com/pg/Mandala-...5702081/posts/
-
Cờ cầu nguyện | Prayer flag [english below]
Theo truyền thống, cờ cầu nguyện được dùng để trải rộng bình yên, lòng bi mẫn, sức mạnh và trí tuệ. Những lá cờ này không phải là để cầu khẩn gì đến các vị trời hay thượng đế nào như thường bị hiểu lầm. Mà chính ra thì người Tây Tạng tin rằng những lời nguyện và minh chú [in trên cờ] sẽ được theo gió mà lan rộng những ý nguyện tốt đẹp và tâm bi mẫn ra không gian bao la. Vì thế, cờ cầu nguyện được cho là để làm lợi lạc cho tất cả.
Bằng việc chăng cờ cầu nguyện tại các nơi cao ráo, cờ cầu nguyện sẽ mang những ân phước mô tả trên lá cờ đến cho khắp chúng hữu tình. Mỗi cơn gió thổi qua lá cờ, vốn rất dễ lay động dù cho đó là cơn gió nhẹ nhất, thì không gian sẽ được tịnh hóa và tràn đầy sự linh thiêng nương theo năng lực của mật chú [ in trên cờ]
Những lời nguyện in trên cờ trở thành một phần thường còn của vũ trụ bởi vì những hình ảnh [trên cờ] sẽ tan ra khi tiếp xúc với các nguyên tố. Cũng như cuộc sống [luôn] dịch chuyển và được thay thế bởi cuộc sống mới, người Tây tạng cũng làm mới những nguyện cầu của họ bằng cách chăng những dây cờ mới bên cạnh những dây cờ cũ. Hành động này tượng trưng cho việc chào đón sự thay đổi của cuộc sống và cũng là sự thừa nhận rằng tất cả những thay đổi này là một phần của một chu kỳ [luôn] trôi chảy [ở cấp độ] lớn hơn.
Bởi vì các biểu tượng và thần chú trên lá cờ cầu nguyện là thiêng liêng, chúng cần được đối xử rất trân trọng. Chúng không nên được đặt trên đất hoặc sử dụng trong y phục . Những lá cờ cũ cần được đốt đi.
Một số người tin rằng nếu những lá cờ được treo vào những ngày không cát tường, chúng có thể mang lại hệ quả tiêu cực chừng nào mà chúng còn tồn tại. Thời điểm tốt nhất để chăng dây cờ mới là vào buổi sáng trong những ngày trời nắng, lộng gió.
Hàng năm vào dịp năm mới Tây tạng, những lá cờ cũ được thay thế bằng những dây cờ mới..
Nguồn: Dalai Lama Awakening Documentary Film - narrated by Harrison Ford
Việt dịch: tiểu phàm
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...27562331_n.jpg
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
MAHAKALA LÀ VỊ HỘ PHÁP CỦA CỦA TOÀN BỘ PHẬT GIÁO TÂY TẠNG | Mahakala is a form of Protector of all Tibetan Buddhism (english below)
1- Mô tả về Ngài có đôi chút khác nhau tùy theo mỗi dòng truyền thừa. Chẳng hạn Đức Mahakala Bernakchen của dòng Karma Kagyu, Ngài có hai tay và miệng lớn; có Đức Mahakala Tứ thủ là vị Hộ pháp của dòng Drikung Kagyu và Đức Mahakala Lục thủ (sáu tay) của dòng Gelugpa như mô tả bên dưới. Nhưng không phải tất cả các vị Mahakala đều là hoá thân phẫn nộ của đức Quán Thế Âm.
Có một hóa thân của Đức Quán Thế Âm khởi hiện trong thân tướng Mahakala và đó là Đức Mahakala của truyền thống Shangpa Kagyu với một mặt, sáu tay, trong tư thế đứng. Sau này Đức Tông Khách Ba (Tsongkhapa - Tổ sáng lập học phái Gelugpa) cùng các đệ tử xem hiện thân Mahakala này như Hộ pháp chính của học phái Gelugpa.
[Các hóa thân] Mahakala có thể khởi hiện từ nhiều vị Phật khác nhau như từ Đức Kim Cương Trì hoặc từ các [Bổn tôn] thuộc mật điển Tối thượng Du già, chứ không hẳn là chỉ từ Đức Quán Thế Âm
Thông thường người ta cho rằng Đức Mahakala có 75 hóa thân khác nhau, tuy nhiên điều đó không đúng. Hơi lạ một chút là còn có một hóa thân Mahakala màu trắng tượng trưng cho thịnh vượng, trong khi một vài hóa thân khác là hóa thân nữ hoặc không [rõ] giới tính.
Các đệ tử thường không được phép thực hành các pháp tu Hộ pháp như thực hành Mahakala trước khi họ hoàn tất Ngondro và tất nhiên là phải thọ quán đảnh thì mới thực hành được
Mặt khác, theo nghĩa tiếng Phạn, Mahakala (Thời gian Lớn hay Đại Hắc Tôn) cũng được dùng để chỉ Đấng Shiva - vị Trời của đạo Hindu, vị thị hiện vũ điệu Tandava, nhưng có năng lực hủy diệt cả vũ trụ, cũng là vị có có liên quan đến Thời gian, (“Thời gian” là một nghĩa khác của chữ “Kala”) [Bộ pháp Kalachaka - Thời Luân hay Bánh xe Thời gian là một hệ thống [thực hành] Mật tông được coi là cốt tủy để đạt đến một thực tại mà thống nhất được cả vũ trụ, thời gian và hơi thở sự sống)
2- Nguyên nhân ra đời của Đức Mahakala:
Đức Quán Thế Âm, hiện thân của lòng bi mẫn của đức Phật A Di Đà, đã thệ nguyện sẽ không đạt Phật quả chừng nào khi toàn bộ các cõi trong luân hồi đã trống rỗng.
Lời thệ nguyện này cần có một quyết tâm vô biên, và với sự gia trì của Đức Phật A Di Đà, Đức Quan Thế Âm đã có một hóa thân với mười một đầu và một nghìn cánh tay. Tuy vậy Ngài đã không thể đem lại lợi lạc cho thêm nhiều chúng sinh lắm.
Vì vậy sau một tuần nghĩ ngợi, Ngài nhận ra rằng nếu Ngài hóa hiện trong một hiện tướng hung nộ thì Ngài có thể “nhiếp phục những chúng sinh suy đồi trong Thời đại Bóng tối này”. Ngoài ra vì biết rằng ngay những chúng sinh có thực hành Pháp cũng không đủ năng lực thoát khỏi trạng thái Bardo [trung ấm - thời gian giữa hai lần tái sinh, trong Bardo đó chúng sinh phải chịu những lo sợ lớn lao và những trải nghiệm kinh khiếp], và Ngài nghĩ rằng bằng hiện tướng hung nộ Ngài sẽ có thể bảo vệ chúng sinh Bardo theo cách đó. Và cuối cùng, Ngài nghĩ rằng chúng sinh trong Thời đại Bóng tối thường nghèo túng và thiếu thốn và những gì họ trải nghiệm chỉ toàn là khổ đau, do đó với hiện tướng hung nộ Ngài có thể làm giải thoát nỗi khổ của họ bằng cách thỏa hết những mong cầu của họ.
Từ ba động lực nói trên, quyết tâm của Ngài trở nên mạnh mẽ hơn cả trước kia, và từ tim Đức Tôn quý Quán Thế Âm khởi hiện lên một chữ HUNG màu xanh dương thẫm, chữ HUNG ngay lập tức hoá hiện thành Đấng Hộ Pháp của Trí Huệ, Đức Mahakala.
Đại địa trong các cõi Phật liền chấn động theo sáu cách, và Đấng Chiến thắng Siêu Việt Vô lượng Quang (Phật A Di Đà) và toàn bộ chư Như Lai mười phương cùng cất tiếng ca ngợi:
"Con trai của ta, con đã thực hiện một điều thật tốt lành. Con sẽ có được ban phước từ tất cả chư Dakini trí tuệ. Con sẽ có được sức mạnh của Tôn chủ hung nộ Yama - Thần Chết. Con sẽ có đoàn tùy tùng của mình bao gồm các tinh linh vùng núi non, Dạ xoa và các loài ác quỷ. Con sẽ hiện thân cho những gia lực phẫn nộ vĩ đại về Thân, Khẩu, Ý, Phẩm tính và Công hạnh của tất cả chư Phật trong ba thời."
Kể từ đó, Bồ tát Mahakala trở thành vị Hộ Pháp (cho truyền thống của Phật Tổ) cho tất cả các Phật thừa.
3- Đức Mahakala của phái Sakya: Hành trình từ Ấn Độ đến Tây Tạng của Đức Mahakala
Đức Mahakala Tứ thủ - được gọi là Gonpo Chakdrupa hoặc Gonpo ChakZhipa ở Tây Tạng - có liên quan đến truyền thừa mật điển Chakrasamvara [Thắng Lạc Kim cương].
4- Ý nghĩa tượng trưng của Hóa thân Mahakala Lục thủ (6 tay):
Thân ngài màu xanh dương sẫm, biểu hiện cho sự bất biến của Pháp thân.
Ngài có ba con mắt tượng trưng cho trí tuệ thấu suốt quá khứ, hiện tại và vị lai, cũng như là hóa hiện của của tam thân Phật.
Vương miện của Ngài đuợc trang hoàng với năm sọ người tượng trưng cho sự chuyển hóa của Ngũ Độc – tham-sân-si-mạn-đố thành Ngũ Trí.
Sáu cánh tay của ngài tượng trưng cho sự thành tựu viên mãn sáu Ba La Mật: Bố Thí – Trì Giới - Nhẫn nhục – Tinh Tấn - Thiền Định – Trí huệ. Dao cong Kartika hay [còn gọi là] Triku tượng trưng cho sự chặt đứt ngã chấp.
Chén sọ Kapila chứa đầy máu tượng trưng cho sự hàng phục chúng ma vương hay ác quỷ. (trong vài trường hợp khác Chén sọ này cũng có thể diễn giải khác nhau tùy theo ngữ cảnh)
Chuỗi tràng hạt tượng trưng cho sự hoạt động liên tục của Ngài vì lợi lạc của mọi chúng sinh.
Trống damaru tượng trưng cho năng lực [hô triệu] chư dakini của Ngài. (Có thể tìm thấy một vài cách giải thích khác trong những ngữ cảnh khác)
Cây chĩa ba tượng trưng cho năng lực hóa hiện của tam thân - Ứng Hoá thân, Báo thân, Pháp thân. (Có thể có một vài cách giải thích khác)
Sợi dây [kim cang] nhằm gắn kết những ai đã phá vỡ giới nguyện của họ.
Hai chân của Ngài tượng trưng cho phương tiện và trí huệ để thành tựu lời nguyện của Ngài [giải phóng tất cả chúng sinh khỏi luân hồi]. Chân trái Ngài duỗi thẳng và chân phải cong tượng trưng cho thành tựu của Ngài trong việc làm lợi lạc cho bản thân và cho người khác. Ngài dẫm lên vị thần đầu voi Vinayaka, tượng trưng cho năng lực phá tan và đánh bạt các chướng ngại lớn lao
Ngài đứng trên đĩa mặt trời tượng trưng cho ánh quang minh xua tan bóng tối vô minh, và tòa sen tượng trưng cho sự tinh khiết không bị nhiễm ô trong cõi giới luân hồi.
Ngọn lửa cháy rực xung quanh tượng trưng công hạnh của Ngài đốt cháy vô minh.
Váy da hổ tượng trưng cho tịnh hóa Tham muốn; tấm da voi tượng trưng cho sự tịnh trừ Kiêu Mạn, và con rắn tượng trưng cho sự tịnh hóa Sân hận.
Những món trang sức khác tượng trưng rằng Ngài sở hữu tất cả Phẩm tính của một vị Phật.
Tài liệu này được trích từ một nghi quỹ Bổn Tôn Tara của học phái Gelugpa, trong [nghi quỹ ] đó gồm cả một lễ cúng dường Mahakala. Toàn bộ ấn phẩm đuợc xuất bản vào tháng 1 năm 1994 bởi tổ chức Dharma Therapy Trust của Ngài Geshe Damchö Yonten và bản có sẵn chưa qua chỉnh sửa hiện được cung cấp tại tại http://www.lamrimbristol.demon.co.uk.../tara_puja.htm
Một số pháp khí sử dụng bởi các vị hộ pháp như Mahakala và các vị hóa thân phẫn nộ khác được liệt kê sau:
Kiếm tượng trưng cho trí huệ, kiến thức hay khả năng chặt đứt mọi chướng ngại và mê mờ.
Những lá cờ đại diện cho sự chiến thắng của hành giả Phật giáo đối với ảo giác.
Một cây móc câu nài voi tượng trưng cho sự điều phục ham muốn
Cây chùy tượng trưng cho sự hàng phục [chúng sinh] gây rối.
Cung và tên đại diện cho năng lực hành động xuyên qua khoảng cách
Một cây gậy kim cương
Cây đinh ba tượng trưng cho Tam Bảo.
Sợi dây [kim cương] tượng trưng cho sự hàng phục các thế lực xấu ác.
(Liệt kê bởi Chad Sawyer trong “Mirrors of the Heart-mind” tại trung tâm Nghệ thuật Kaladarshan, bang Ohio. )
Các vị thầy khác nhau có thể có những cách giải trích khác cho các pháp khí kể trên.
Nguồn www.abuddhistlibrary.com/Buddhism/A - Tibetan Buddhism/Subjects/Tantra/Practices- (Sadhanas and commentaries)/Various Other Deities/Mahakala/Mahakala I and II/I/Mahakala.htm
http://tinyurl.com
Việt dịch: Hữu Minh - tiểu phàm
Nguồn: Tibet Kagyu
Ảnh: Đức Mahakala Tứ thủ trong một thangka cổ xưa của dòng Drikung
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...33261336_n.jpg
=======
Nhân ngày Dharmapala:
Nguyên nhân ra đời của Đức Mahakala [english n/a]
Đức Quán Thế Âm, hiện thân của lòng bi mẫn của đức Phật A Di Đà, đã thệ nguyện sẽ không đạt Phật quả chừng nào khi toàn bộ các cõi trong luân hồi đã trống rỗng.
Lời thệ nguyện này cần có một quyết tâm vô biên, và với sự gia trì của Đức Phật A Di Đà, Đức Quan Thế Âm đã có một hóa thân với mười một đầu và một nghìn cánh tay. Tuy vậy Ngài đã không thể đem lại lợi lạc cho thêm nhiều chúng sinh lắm.
Vì vậy sau một tuần nghĩ ngợi, Ngài nhận ra rằng nếu Ngài hóa hiện trong một hiện tướng hung nộ thì Ngài có thể “nhiếp phục những chúng sinh suy đồi trong Thời đại Bóng tối này”. Ngoài ra vì biết rằng ngay những chúng sinh có thực hành Pháp cũng không đủ năng lực thoát khỏi trạng thái Bardo [trung ấm - thời gian giữa hai lần tái sinh, trong Bardo đó chúng sinh phải chịu những lo sợ lớn lao và những trải nghiệm kinh khiếp], và Ngài nghĩ rằng bằng hiện tướng hung nộ Ngài sẽ có thể bảo vệ chúng sinh Bardo theo cách đó. Và cuối cùng, Ngài nghĩ rằng chúng sinh trong Thời đại Bóng tối thường nghèo túng và thiếu thốn và những gì họ trải nghiệm chỉ toàn là khổ đau, do đó với hiện tướng hung nộ Ngài có thể làm giải thoát nỗi khổ của họ bằng cách thỏa hết những mong cầu của họ.
Từ ba động lực nói trên, quyết tâm của Ngài trở nên mạnh mẽ hơn cả trước kia, và từ tim Đức Tôn quý Quán Thế Âm khởi hiện lên một chữ HUNG màu xanh dương thẫm, chữ HUNG ngay lập tức hoá hiện thành Đấng Hộ Pháp của Trí Huệ, Đức Mahakala.
Đại địa trong các cõi Phật liền chấn động theo sáu cách, và Đấng Chiến thắng Siêu Việt Vô lượng Quang (Phật A Di Đà) và toàn bộ chư Như Lai mười phương cùng cất tiếng ca ngợi:
"Con trai của ta, con đã thực hiện một điều thật tốt lành. Con sẽ có được ban phước từ tất cả chư Dakini trí tuệ. Con sẽ có được sức mạnh của Tôn chủ hung nộ Yama - Thần Chết. Con sẽ có đoàn tùy tùng của mình bao gồm các tinh linh vùng núi non, Dạ xoa và các loài ác quỷ. Con sẽ hiện thân cho những gia lực phẫn nộ vĩ đại về Thân, Khẩu, Ý, Phẩm tính và Công hạnh của tất cả chư Phật trong ba thời."
Kể từ đó, Bồ tát Mahakala trở thành vị Hộ Pháp (cho truyền thống của Phật Tổ) cho tất cả các Phật thừa.
Nguồn www.abuddhistlibrary.com/Buddhism/A - Tibetan Buddhism/Subjects/Tantra/Practices- (Sadhanas and commentaries)/Various Other Deities/Mahakala/Mahakala I and II/I/Mahakala.htm
http://tinyurl.com
Bản dịch Việt ngữ của Hữu Minh & Tsering sTobdan (tiểu phàm)
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
[english n/a]
Câu hỏi: Xin thầy giảng về Daka, Dakini, Hộ pháp. Các vị này có đặc điểm gì? Vì sao phải quy y các vị này?
Lama Sonam Jorphel Rinpoche: Đây là những khái niệm quan trọng của Kim cang thừa, vì vậy ta sẽ từ từ dạy các con từng khái niệm một vì khá phức tạp. Nhưng tạm có thể giải thích như sau: trong Mật giáo ngoài quy y Tam Bảo, còn có sự quy y khác là quy y Tam căn. Đầu tiên, suối nguồn của sự gia trì là Lama, đức Bổn sư. Tiếp theo là quy y Bổn tôn, gốc của những thành tựu tương đối và tối thắng. Cuối cùng là quy y Gốc của các thiện hạnh - chư Daka, Dakini và Hộ Pháp (Tam Căn)
Vì sao lại có Tam Căn? Thật ra, Tam Căn là hóa hiện của chư Phật ở các cấp độ thân, khẩu và ý dưới những hình tướng khác nhau nhằm cứu độ chúng sinh. Do căn cơ của chúng sinh mà có những hóa hiện như thế.
Trong Phật Giáo có nhiều cấp độ Dakini khác nhau. Dakini ở cấp độ thông thường là trong hình tướng con người thế tục. Rồi có Dakini của minh chú v. v. Các giáo huấn về Dakini thường rất cao và chỉ dành cho những hành giả Mật Tông cao cấp.
Có nội Dakini và ngoại Dakini. Nội Dakini, theo tri kiến của Kim Cang Thừa, cư ngụ trong chính chúng ta. Một ví dụ về ngoại Dakini là những nơi “thánh địa Dakini”. Như vùng đất Dakini nổi tiếng nhất mà ai cũng biết đó là Odiyana. Đa số các thánh địa Dakini nằm ở Ấn Độ và Tây Tạng.
Về lịch sử xuất hiện Daka và Dakini trên trái đất. Sự sống trên trái đất này đã trải qua rất nhiều chu kỳ thành, trụ, hoại, không. Đến chu kỳ thứ 13, một số vị thần hùng mạnh của Ấn Độ giáo như thần Shiva gây chiến tranh, tạo nhiều ác nghiệp, nhiều đau khổ cho chúng sinh. Lúc đó, chư Phật cử cho Ngài Chakrasamvara (Bổn tôn chính của dòng Drikung- LND) xuống ngự trị tại đỉnh núi Tu di. Đức Chakrasamvara dùng thần thông của mình để trấn áp các tinh linh xấu ác và hàng phục các tà thần.
Khi Ngài hoàn tất công việc của mình thì trên thế giới xuất hiện những thánh địa. Các thánh địa này là hóa thân về thân, khẩu, ý của Chakrasamvara. Chúng sinh ở các thánh địa đó trở thành Daka và Dakini.
Khi nào các con thực hành xong ngondro và bắt đầu các pháp tu Bổn tôn thì ta sẽ dạy các con về Bổn tôn.
Lama Sonam Jorphel Rinpoche
"Bài giảng của Thầy"
Việt dịch: Hiếu Thiện và nhóm Liên Hoa Tâm
[Xin ghi rõ nguồn và người dịch nếu bạn muốn chia sẻ bài viết này ở một trang tin khác_Trong dịch thuật về Pháp xin không tự ý chỉnh sửa bản dịch gốc_admin]
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/