-
THÔNG THIÊN HỌC
Sự sưu tầm về Thần linh học hiện đại đưa đến cho ta nhiều bằng chứng về đời sống bên kia cửa tử. Ta biết có một số người cho rằng: Thần linh học chỉ toàn là giả dối để phỉnh gạt đời. Tuy nhiên, nhà Thông Thiên Học trứ danh là Đức Giám mục C. W. Leadbeater quả quyết trong quyển “La Vie après la Mort” của ông như vầy: “Sự giả dối và sự phỉnh gạt có thể có trong vài trường hợp cầu hồn. Nhưng cũng có nhiều nơi thí nghiệm chơn chánh. Vậy người nào có đủ ngày giờ và nhẫn nại sẽ tìm được trong đó nhiều điều hữu ích. Vả lại, Thần linh học còn có một văn hóa vĩ đại để khảo xét nữa. Nếu người ta muốn, cứ tìm đến ngọn ngành như tôi đã làm. Có nhiều người không chịu đem công khó ra tìm tòi để hiểu – (đó là công việc riêng của họ) – Nhưng trước khi họ chưa quan sát thì họ không có quyền nhạo báng những kẻ đã thấy và đã công nhận những hiện tượng thần linh là có thật”.
Còn một bằng chứng rất hiển nhiên và rất hấp dẫn về sự sống bên kia cửa tử là bằng chứng Thông Thiên Học hiện nay. Bên Thông Thiên Học có nhiều nhà biết xuất Vía, cũng có người có thần nhãn. Những vị nầy lão thông các cõi vô hình, họ liên lạc trực tiếp với những người khuất mặt và những Đấng Chơn Sư: là vì họ đã biết xử dụng những quyền năng ẩn tàng trong người của họ. Nhà Thông Thiên Học không bao giờ ép buộc ai phải tin theo lập luận hay giáo lý của mình. Họ chỉ nói rằng: “Chúng tôi quan sát nhiều với một sự cố gắng vĩ đại. Chúng tôi trình bày những gì chúng tôi biết. Quí vị chớ nên tin liền những lời chúng tôi nói. Quí vị cứ tìm hiểu vấn đề một cách sâu xa và tự sưu tầm lấy, rồi quí vị sẽ có được một sự quả quyết như chúng tôi đây”.
4.- GIỜ LÂM CHUNG
Chúng ta biết rằng: con người là một sinh linh phức tạp. Ngoài cái xác ra, con người còn có thể Phách, Vía, Trí, Chân thân, Kim thể, Tiên thể và phần Hồn.
Chúng nó liên kết với nhau rất là chặt chẽ, làm cho con người trở thành một bầu võ trụ có đủ quyền năng của Đại Võ Trụ. Sau khi xác thân chết rồi, thì linh hồn rút ra khỏi xác.
Vậy trong giờ phút lâm chung có xảy ra sự gì ? Linh hồn làm sao ra khỏi ngục tù xác thịt ? Con người có cảm tưởng và cảm giác gì trong lúc quan trọng nầy ? Chính là điều mà chúng ta cần phải biết: vì tất cả chúng ta, một ngày kia, đều phải từ giả cõi trần mà qua cõi Trung giới.
Tùy theo đặc tánh và đức hạnh của con người mà những cảm giác và cảm tưởng đều khác nhau. Linh hồn ra khỏi xác luôn luôn chậm chạp. Hễ con người càng bận bịu vật chất trần gian nhiều chừng nào thì sự giải thoát của linh hồn ra khỏi xác thịt lâu chừng nấy. Giờ lâm chung là giờ đau đớn cho kẻ nào tin chết là mất tất cả. Y bám vào sự sống một cách tuyệt vọng ! Y ngờ vực trong giờ phút quan trọng nầy. Y tưởng thấy một thế giới ghê sợ và rùng rợn mở ra trước mắt như một vực thẳm, nên y không muốn rời bỏ cõi trần. Nhân đó mới có một sự chiến đấu ghê hồn giữa vật chất sắp tàn và linh hồn cố giữ nó lại. Đôi khi linh hồn bám chặt vào xác chết cho tới nó rã bấy và cảm thấy giòi tửa rút rỉa da thịt mình !
Còn đối với người nào sống một cuộc đời chánh trực, nhơn từ, đã chiến thắng vật chất và tràn đầy hi vọng ở tương lai, thì chết là giải thoát, là hạnh phúc. Những dây liên lạc giữa vật chất với linh hồn tháo mở lần lần, và y không cảm thấy điều gì rối loạn. Y bước vào cõi Trung giới như vừa tỉnh một giấc ngủ ngon lành.
Trong khi từ giã xác thân, mọi người, dù đức hạnh hay hung ác, đều thấy cuộn phim đời của mình diễn ra trước mắt. Vong linh thấy mình té ngã chỗ nào, thành công chỗ nào. Y thấy những cảnh đổ máu do y gây ra, những cơn đau khổ, đam mê mà y đã trải qua. Y cũng thấy những hành vi hi sinh và nhơn đức của y nữa. Y biết được cái dĩ vãng đem đến cho y cái hiện tại nầy. Và cái hiện tại đó sẽ đưa y đến cảnh tương lai.
Đó là giờ phút quan trọng của buổi lâm chung. Chỉ trong chốc lát, vong linh thấy trọn cả kiếp sống đã qua. Rồi y tự làm quan tòa cho y - một vị quan tòa của Đức Thượng Đế !
Dù sự kiểm soát đó có đau khổ cho thế mấy đi nữa, nó cũng rất hữu ích: bởi vì nó là cái khởi điểm cần thiết cho sự tiến hóa của con người.
Lúc bấy giờ, linh hồn ở giữa hai cảm giác:
1) Cảm giác trước vật chất dần tan.
2) Cảm giác trước đời sống mới lạ, hiện tỏ ra trong ánh sáng – không phải thứ ánh sáng đặc biệt rọi khắp cùng, không có cái gì che khuất nó đặng. Hễ người xấu, thì thấy ánh sáng không tỏ; còn người tốt, thì thấy mình chứa chan ánh sáng.
Người nào hiền lành, nhơn ái, hiểu rõ luật trời và sống một cuộc đời đức hạnh, thì hồn xuất ra khỏi xác, thấy mình được thứ ánh sáng đó bao vây. Nó thâm nhập y, khiến cho lòng y được lâng lâng, nhẹ nhàng, sung sướng dường như y có được một sức mạnh hơn, một sự trẻ trung và khỏe khoắn hơn. Nhờ biết luật trời, nên vong linh không lo lắng và sợ sệt. Với tấm lòng đầy hoan lạc, y quay về cõi cao hơn, đem tư tưởng lành rải xuống cho những người dương thế đang bao xung quanh xác chết của y mà than khóc. Y càng thương họ nhiều hơn. Y thấy một cái thế giới vĩ đại đã mở ra trước mắt và những người mà y yêu mến thuở nào. Y thấy họ trẻ lại, linh hoạt hơn và đẹp đẽ hơn; cả thảy đều đến đón tiếp y một cách vui mừng; họ chỉ dẫn cho y những cảnh lạ lùng. Họ dắt y vượt lên cảnh cao hơn, tùy theo mực độ tiến hóa của y. Nơi đây, y nhận định rõ ràng. Y hết còn ngờ vực nữa. Những quan năng mới lạ tỉnh thức trong lòng y; và một kiếp sống sung sướng hạnh phúc bắt đầu của y từ đây.:finga:
ma_xiao_ling ma_xiao_ling 2 Chia sẻ Trả lời
Còn những người đã sống dưới thế gian một đời sống không chí hướng nhất định – (số nầy rất nhiều); - họ không có làm tội ác gì trọng đại, và cũng không có làm điều lành gì đáng kể, thì khi ra khỏi xác, trước nhất, họ lâm vào một trạng thái uể oải và buồn rầu vô hạn ! Họ do dự, nhát sợ; họ không thấy rằng: họ được tự do; nhưng dù có thấy đi nữa, họ cũng chưa dám xử dụng sự tự do của họ. Họ cứ mãi đứng yên một chỗ. Họ tiếp tục đau khổ và khóc than với những người xung quanh họ. Thời gian đó kéo dài không biết là bao lâu . . . Sau cùng, có những vong linh khác tiến hóa hơn đến dắt dẫn và chỉ dạy họ, cho họ thoát ra khỏi cơn ngờ vực để họ đoạn tuyệt với sự trói buộc trần gian, và để họ lên cõi cao hơn và ít u tối hơn.
Những người hung dữ, khi từ bỏ xác thân, thì thấy cảnh lu mờ hơn người thường nhơn. Y lại bị hỗn loạn trong đau khổ.
Thường thường linh hồn ra khỏi xác mau lẹ, sau cơn bịnh hoạn lâu ngày; bởi vì sự bịnh hoạn triền miên đó giải tỏa lần lần những sợi dây trói buộc linh hồn với vật chất.
Những cái chết bất đắc kỳ tử là những cái chết dữ dội giữa lúc xác thân còn đang khỏe mạnh, làm cho linh hồn đau khổ và hỗn loạn, khi ra khỏi xác thân.
Nhưng, trường hợp những người chiến sĩ bỏ thây nơi chiến trường không giống với trường hợp của kẻ tự vận, hoặc cái chết nào dữ dội khác. (Đoạn nầy sẽ nói rõ sau).
5.- ĐỜI SỐNG BÊN KIA CỬA TỬ.
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM
Nếu ta quan sát về tình trạng đời sống con người trên cõi Trung giới, thì ta sẽ thấy hai yếu tố chánh đại nầy, là:
1) Thời gian sống trên cõi Trung giới lâu hay mau.
2) Tâm thức biểu lộ trên mỗi cảnh của cõi Trung giới.
Vong linh ở mỗi cảnh Trung giới lâu hay mau là tùy ở số Thanh khí [3] của cảnh ấy rút vào xác thịt con người lúc sanh tiền. Nếu số Thanh khí ấy nhiều, nghĩa là dục tình của cái Vía còn nặng, thì con người ở lâu; còn nếu số Thanh khí ấy ít, nghĩa là dục tình của cái Vía được tinh lọc, thanh bai hơn, thì con người ở mau. Bao giờ dục tình xấu xa của con người nằm im lại, chúng nó không còn tác động nữa, thì con người sang qua cõi Thượng giới tức là cõi Thiên Đàng.
Lúc con người còn sống dưới trần là lúc chính mình tạo ra đặc tính của thể Vía, bằng những dục tình, ham muốn, đam mê, cảm xúc, tư tưởng và tập quán của xác thân. Một cái Vía ô trược là kết quả của một đời sống ô trược. Mà hễ cái Vía ô trược thì nó rung động nặng nề: nó chỉ kích động đặng những lớp Thanh khí thô kịch của cõi Trung giới mà thôi. Nhơn đó, mà sau khi chết, con người vì liên đới chặt chẽ với chất trược của cái Vía, nên phải ở cảnh thấp của cõi Trung giới. Bao giờ chất Thanh khí kia tan dần, con người mới mong bước qua cảnh thanh nhẹ hơn, sáng sủa hơn.
Trái lại, một cái Vía thanh nhẹ, - do một đời sống dưới thế gian khiết bạch, - không bao giờ kích động phần trược của cõi Trung giới; và con người chỉ cảm ứng với những ảnh hưởng thanh của các cảnh cao trên cõi âm cảnh mà thôi. Vì lẽ đó, mà đời sống trên Trung giới được tốt đẹp và hạnh phúc. Người như thế tiến hóa mau lẹ.
Tâm thức của con người ứng đối đặng một cảnh nào trên Trung giới là tùy thuộc ở cách sống dưới trần gian liên quan đến chất Thanh khí của cõi ấy. Tỷ như khi còn sống, cái Vía con người có chất thanh của cảnh thứ ba của cõi Trung giới, thì khi thác rồi, tâm thức y ứng đối đặng với những làn rung động của cảnh ấy.
Nếu trong lúc sống dưới trần, con người để cho dục tình lôi cuốn, hoàn toàn lệ thuộc bản ngã, không hướng chút nào về trí thức và tinh thần, thì cái Vía sống rất lâu trên cõi Trung giới. Tế bào của chúng nó rất khít khao, khó mà tan rã đặng. Nhơn đó, con người kéo dài đời sống của cái Vía trong đau khổ.
Còn trái lại, khi con người chủ trị đặng dục tình, trong lúc sinh tiền, và phàm nhơn phủ phục trước Chơn Nhơn, thì cái Vía tự nhiên được trong sạch, không còn chi phải tinh lọc nơi cõi Trung giới nữa; nhơn đó, nó mau tan rã, để giải thoát vong linh sắp bước qua miền Thượng giới.
Người thường nhơn chưa đoạn tuyệt được dục tình thấp hèn trước khi bỏ xác, nên cần phải lưu lại một thời gian vô giới hạn, nơi mỗi cảnh, để chờ cho được phần Thanh khí cái Vía (đồng tính với chất Thanh khí của cảnh ấy) tan mòn hóa thành tiêu cực mới sang qua cảnh trên kế đó.
Nói một cách tổng quát, khi nào cái Vía bỏ được phần Thanh khí trược, thì nó sẽ trở nên nhẹ nhàng hơn, và tâm thức con người sẽ cảm ứng đặng những sự thanh cao của cõi trên kế đó. Vậy người ta có thể nói rằng: “Khi trọng lượng của cái Vía bớt, thì nó sẽ thăng lên cõi cao. Nó đi từ miền trược đến miền thanh, cho tới khi nó gặp một mực độ tương đồng thì nó mới ngừng lại.”
Vong linh ngụ tại cảnh nào trên Trung giới, có nghĩa là vong linh đó cảm ứng đặng những cái rung động của cảnh ấy. Ta biết suốt một cảnh nào, có nghĩa là ta cảm ứng đặng tất cả hiện tượng của cảnh ấy.
Một người khi có một đời sống trong sạch và đẹp lành, với những nguyện vọng vị tha và thanh diệu, thì khi thác rồi, cõi Trung giới không thu hút đặng y. Nếu y có trải qua miền âm cảnh, thì cũng chỉ trong một thời gian ngắn ngủi mà thôi. Những ham mê thấp hèn của y đã được chế ngự trong lúc sanh tiền; và ý chí của y đã dùng vào những mục đích cao thượng thì mãnh lực của cái Vía không đủ sức mạnh để thu hút y vào cõi thấp được.
Một người kia – do những tiền kiếp xấu xa - có trong Vía một số chất khí nặng nề, nay dù nhờ sự trong sạch của kiếp nầy, chất Thanh khí có thay vào chất trược đi nữa thì cũng chỉ một phần thôi; chớ trong Vía y vẫn còn đọng lại một số chất trược. Nhơn đó, y phải trải qua một thời gian nơi cảnh thấp của cõi Trung giới, cho tới khi nào chất trược ấy tan mất mới thôi. Nhưng có một điều đặc biệt nầy là: chất trược trong Vía người ấy (vì thiếu chất bồi bổ nên không linh động) có một tri thức bán khai, mơ mơ, màng màng, như còn say ngủ, trong khi con người phải còn lưu lại một thời gian ngắn tại cảnh thấp ở Trung giới. Vì lẽ đó mà nó không làm khổ cho chủ nó hiện giờ được, và chủ nó, tự nhiên nhẹ nhàng hơn, có thể nhập vào cảnh cao hơn.
Chất trược trong cái Vía mơ mơ màng màng đó lâu ngày (vì thiếu chất bổ) sẽ kết tinh lại rồi rút vào hột nguyên tử trường tồn [4] của cái Vía, để chờ khi đầu thai lại - nếu có đất tốt – nó sẽ nảy nở y như kiếp trước.
Giữa hai thể trạng hồng trần, đều có một điểm bất định: tỷ như nước; khi nó lạnh đến nhiệt độ số không (Oo) thì trở thành nước đá. Trong trạng thái đó, nếu ta cho một tí hơi ấm vào, thì nước đá tan một phần. Cũng như nước nấu sôi đến 100 độ (1000) nếu ta thêm vào một tí hơi nóng thì một phần nước sẽ hóa ra hơi, bốc bay lên.
Trên cõi Trung giới cũng y như vậy: vì chất khí của mỗi cảnh có thể đi đến một mật độ thanh nào mà hễ có thêm vào một tí chất thanh nữa, thì liền hóa ra chất khí của cảnh cao hơn kế đó. Nếu một người kia rán tinh lọc tình dục mình bằng cách ấy, thì thể trạng của cái Vía liền thay đổi lẹ làng, và y sẽ sang qua cảnh cao hơn kế đó. Vong linh đi từ cảnh thấp lên cảnh cao một cách mau chóng, chỉ trong nháy mắt.
Mỗi người chúng ta, sau khi từ giã cõi trần thường phải trải qua mỗi cảnh của cõi Trung giới rồi mới đến cõi Thượng giới đặng. Nhưng trình độ tri thức, đối với mỗi cảnh, là tùy thuộc ở mấy yếu tố trên.
Vì có nhiều lý do như vậy mà phạm vi tri thức của con người trên cõi Trung giới cùng thời gian trú ngụ tại đó, trước khi sang qua cõi Thượng giới, có thể biến đổi trọng đại. Có vài người chỉ sống trên Trung giới chừng ít giờ. Có kẻ đọng lại đó hằng năm, có khi hàng thế kỷ cũng chưa tách khỏi ! . . .
Đối với người thường, thời gian trung bình tại cõi Trung giới từ 20 đến 30 năm.
Thời gian giữa hai kiếp sống dưới trần không thể nói được vì đó là một vấn đề hết sức phức tạp. Xin xem quyển “L’occultisme dans la nature” (Khoa pháp môn trong vũ trụ) do tác giả C. W. Leadbeater.
▲▲▲
Đời sống bên kia cửa tử không phải là một đời sống mới lạ. Nó chỉ là một đời sống nối tiếp với đời sống ở thế gian nầy. Ta không lìa xa những người quá vãng mà ta thương mến. Họ luôn luôn ở xung quanh ta. Chỉ cái tâm thức hữu hạn của ta làm cho ta tưởng mình xa cách họ mà thôi. Ta không mất họ, mà ta chỉ mất cái năng khiếu thấy đặng họ. Ta có thể nâng cao tâm thức của ta, để cho ta thấy được họ và nói chuyện đặng với họ. Ta luôn luôn có làm như vậy, trong lúc ta ngủ. Nhưng khi thức ta không nhớ đặng rõ ràng. Muốn được vậy ta cần phải có một sự điêu luyện đặc biệt để mở thần nhãn. Sự điêu luyện nầy đối với người thường, cần phải mất nhiều ngày giờ. Mặc dù ta không nhớ được người mà ta gặp gỡ trong lúc chiêm bao, chớ mối dây tình cảm là một điều tốt đẹp, nó không hề mất đi mực độ của nó. Và khi ta thác rồi, những người quá vãng thân yêu của ta lập tức tìm ta. Ấy vậy, chỉ có một điều khác là ta sống với họ trong ban đêm chớ không phải lúc ban ngày.
Ta không thấy được những gì trên cõi vô hình bởi mắt xác thịt của ta không đồng nhất với cõi Trung giới nên không thấy đặng. Vậy sự thấy của ta rất bị hạn chế. Có nhiều người nói rằng: “Cái gì tôi thấy đặng, rờ đặng, nghe đặng tôi mới tin”. Nhưng có biết bao điều mắt phàm không thấy đặng mà vẫn có: tỷ như ta không thấy khí trời mà vẫn có khí trời; ta khộng thấy điển khí mà vẫn có điển khí. Ấy vậy ta sống trong một cái võ trụ bao la, mà ta chỉ thấy có một phần bé nhỏ mà thôi ! Khoa học đã chứng tỏ cho ta thấy bằng cách miêu tả nhiều thế giới, trong đó có những sinh vật đang sống và đang hoạt động. Có thứ nhỏ tí mắt ta không thấy đặng. Những con vi trùng nhỏ tí ti đó không phải là không quan trọng đối với ta; bởi vì sức khỏe và sự sống của ta tùy thuộc ở sự sinh tồn của chúng nó.
Bởi giác quan của ta bị hạn chế, ta không thấy và rờ đặng chúng nó. Ta không có bằng cớ gì về sự hiện tồn của chúng nó, trừ phi lúc chúng nó xao động, ta mới biết rằng có chúng nó. Ta đã nói: ta không thấy đặng khí trời; nhưng trong khí trời có một mãnh lực phi thường: nó có thể nhận chìm tàu bè to lớn nhất của con người ! Nó có thể xô ngã tất cả dinh thự vĩ đại của ta. Xung quanh ta còn có biết bao mãnh lực phi thường khác mà mắt phàm thấy không đặng. Ta như người tội nhơn bị nhốt trong khám tối. Ngũ quan của ta là những cửa sổ bé nhỏ, chỉ mở ra có một phía mà thôi, nên ta tuyệt nhiên không thấy được những phía khác.
Thần nhãn và sự xuất vía chỉ mở cho ta một vài cái cửa sổ ấy. Chúng nó mở tầm thấy của ta để cho ta biết được những chân trời mới lạ hơn và vĩ đại hơn.
▲▲▲
Vậy trước nhất, ta thấy gì, khi nhìn đặng chơn trời mới lạ và bao la ấy ? Thí dụ như ta đem được tâm thức của ta lên cõi Trung giới thì ta thấy gì trước nhất ?
- Thoáng qua, thì chắc chắn ta không thấy cái chi khác biệt nơi cõi trần và ta tưởng đâu mình vẫn còn sống ở thế gian. Tại sao vậy ? Bởi vì trạng thái của chất khí cõi trần có nhiều thứ: đặc, lỏng, hơi. Đối với cõi Trung giới thì ai cũng giống như vậy. Mỗi thứ đều liên quan với thứ đồng tính với nó tại cõi trần. Nhơn đó, mà người quá vãng vẫn thấy vách tường, bàn ghế của mình thường dùng. Nhưng, những đồ vật trần gian, mà người chết thấy đặng nó, không phải làm bằng chất hồng trần mà làm bằng chất cõi Trung giới. Chính nó là cái Vía của đồ vật chớ không phải đồ vật. Vong linh sống trong cái Vía của mình nên chỉ thấy đặng cái Vía của món đồ mà thôi. Cũng tỷ như người sống trong xác thịt, thì chỉ thấy đặng những vật chất trần gian, chớ không thấy được cái Vía của chúng nó. Cái Vía của đồ vật còn giữ nguyên hình của đồ vật, nên vong linh thấy chúng nó, rồi lầm tưởng mình còn sống dưới thế gian. Thật ra, nếu y quan sát kỹ chúng nó, thì sẽ thấy những phần tử của chúng nó xoay chuyển không ngừng và rất mau lẹ chớ chẳng phải nằm im như chất hồng trần. Nhưng ít có vong linh nào nhìn kỹ, nên thường không thấy được những cái sai biệt ấy.
Người quá vãng dòm xung quanh mình thấy nào là vợ con, cha mẹ, nào là bè bạn, láng diềng, nào là nhà cửa, vườn tược. Nhưng y chỉ thấy cái Vía của người và của vật mà thôi. Lúc ban đầu, y không phân biệt được cái Vía của đồ vật với đồ vật, cái Vía của con người với con người bằng xương bằng thịt. Nhưng lần lần y thấy được sự sai biệt nầy và khởi biết mình sống trên cõi Trung giới chớ không phải tại cõi hồng trần.
Nhiều người, nhất là bên Tây phương, không hiểu chi về cõi vô hình và đời sống bên kia cửa tử, nên khi từ trần họ vô cùng khổ sở. Họ thấy bạn hữu xung quanh họ mà họ không liên lạc được. Họ nói mà không ai nghe. Họ khởi sự lo âu, sợ hãi. Họ không biết mình ở đâu, rồi sẽ xảy ra điều gì: bởi vì tình trạng của họ lúc bấy giờ không phải như họ đã phỏng định lúc sanh tiền. Có một vị Đại tướng Anh nói rằng: “. . . Và nếu tôi chết tôi đi về đâu ? Tôi ở đâu ? Lên trời ư ? Tôi không chắc. Xuống địa ngục ư ? Tôi ghê sợ quá !”
Đó là cái kết quả của sự tin tưởng sái quấy về cõi vô hình. Có nhiều sự âu lo vô ích, nhiều cảnh đau khổ thương tâm đều do sự hiểu biết sai lầm mà ra cả. Người ta cho rằng: kẻ ác sẽ bị cưa hai nấu dầu, sẽ bị đập giã cho xương tan, nát thịt hay là bị lửa đốt cháy ra tro bụi v.v. . . Chớ nào dè người đã từ bỏ cõi trần rồi thì thịt xương đâu còn mà đâm, mà giã ? Sự hình phạt kẻ tội ác sẽ diễn hành một cách khác tại cõi Trung giới. Điều này ta sẽ giải ở sau.
Cái thuyết địa ngục, từ nghìn xưa, là cái thuyết vi phạm thần thánh. Nó gây nhiều tai hại mà chính kẻ bịa đặt nó không dè ! Tại sao vậy ?
Lẽ thứ nhất: Trên cõi Trung giới, những tư tưởng và tình cảm đều có hình dạng. Nếu người từ trần có ý nghĩ ghê tởm địa ngục, thì sẽ tưởng tượng thấy mình bị hình phạt đủ cách tàn nhẫn. Nhưng sự thật chỉ là ảo ảnh mà thôi. Nhơn đó, vong linh đau khổ do sự tưởng tượng mà ra !
Lẽ thứ nhì: Cái thuyết địa ngục là vi phạm thánh thần bởi người ta gán cho các Ngài sự hành phạt ác độc đối với người có tội.
Khi người ta nói “địa ngục” là người ta tưởng tượng nó ở giữa ruột trái đất với một tổ chức hết sức dữ dằn, ác độc để trừng trị những kẻ phạm tội. Nhưng ý niệm ấy rất sai lầm. Địa ngục chẳng phải ở trong ruột trái đất, mà ở cảnh thứ bảy của cõi Trung giới. Vong linh có tội chẳng phải bị cầm nhốt nơi ngục tối mà vẫn được lưu thông trong cảnh ấy một cách thong thả. Nhưng người tội ác phải ở cảnh trọng trược, không lên cõi cao được (mà đó chỉ là tạm thời thôi). Tỷ như kẻ sát nhơn, khi thác rồi sẽ bị nạn nhơn rượt đòi thường mạng mà y không thể nào thoát khỏi. Y ngồi đâu cũng thấy nạn nhơn, chạy đâu cũng thấy nạn nhơn than khóc, kêu la và nguyền rủa.
Cái cảnh tượng hãi hùng ấy cứ tiếp diễn trong nhiều ngày, nhiều tháng và nhiều năm như vậy. Đến một ngày kia vong linh ăn năn hối quá, thì tình trạng khốn khổ ấy sẽ tiêu tan mất. Bài học của Hóa công rất là nghiêm khắc; nhưng về sau nó rất độ lượng và khoan hồng. Vì nó đưa linh hồn đến đài Minh triết bằng sự cảnh cáo của Bàn Tay Quả Báo mạnh lành.
Dần dần người quá vãng sẽ gặp được người tiến hóa cao hơn, có khả năng chỉ dạy y để cho y có một đời sống hợp lý.
6.- NHỮNG TRƯỜNG HỢP THƯỜNG
Dưới đây là những ví dụ gương mẫu của vài vong linh trên cõi Trung giới do nhãn quang của ông C. W. Leadbeater thấy được.
Một người thường nhơn kia, không tốt, không xấu. Lên cõi Trung giới, y không đau đớn nhiều mà cũng không vui sướng nhiều. Nếu trong kiếp sống y chỉ lo nói chuyện khào, lo thể thao, thích chuyện đời, lo ăn mặc cho hạp với thời trang chớ không mục đích gì rõ rệt, thì tự nhiên trên Trung giới, y thấy ngày giờ dài đăng đẳng: bởi vì những chuyện xa hoa vật chất không thể thực hiện trên đó được.
Một người kia đắm say nhiều dục vọng thấp hèn, tỷ như nghiện r*** hay dâm dục, thì phải lâm vào cảnh khổ sở vô cùng. Chẳng những dục vọng ấy còn y nguyên, mà chúng nó còn trở nên muôn phần mãnh liệt: bởi vì chúng được biểu lộ tự do xuyên qua thể của chúng nó là thể Vía, chớ chúng nó không còn bị xác thịt nặng nề cản trở nữa.
Người như thế ấy phải lâm vào cảnh thấp của cõi Trung giới. Y ở rà rà mặt đất để có cơ hội hưởng những mùi r*** thịt v.v. . . mà y đang thèm khát. Y lân la những hộp đêm, những tửu quán, để thưởng thức mùi r*** thịt cùng những cảnh ô trược. Y chỉ thưởng thức thôi, chớ không thỏa mãn dục vọng cuồng nhiệt của y đặng: bởi vì y không có xác thịt làm trung gian.
Một vong linh bợm r*** kinh niên, đôi khi tự bao xung quanh mình một tấm bằng chất dĩ thái để hiện hình một phần, tỷ như hiện ra cánh tay hay cái mặt. Nhờ chất dĩ thái ấy mà y hưởng đặng mùi r***, nhưng y không ngửi đặng mùi r*** như lúc còn sống ở cõi trần.
Chính vì lẽ ấy mà y xúi giục kẻ khác uống r*** đặng y có thể nhập vào xác họ một phần nào để hưởng hơi cho thỏa thích. Sự nhập xác ấy có thể vĩnh viễn hay tạm thời.
Chính mắt tác giả bài nầy đã chứng kiến một đám cúng bịnh điên, do một pháp sư điều khiển. Trên bàn cúng có để r*** và một thủ vĩ heo luộc cùng trái cây và nhang đèn v.v. . . Khi pháp sư đứng ra cầu đảo vong linh mà y cho rằng phá khuấy bịnh nhơn, thì đồng tử nhảy dựng lên la hét là “Ta đã về, hỏi muốn gì ?”.
Pháp sư nói:
- Ta bảo ngươi hãy buông tha bịnh nhơn.
- Được, nhưng trước khi ta tha, hãy đem r*** thịt ra đây.
Nói đoạn, đồng tử là người (không biết uống r***) nhảy lại bàn thờ bưng chai r*** lối 1 lít núc ráo trọi, rồi còn đòi thêm nữa ! Người ta chạy lấy thêm 1 lít r*** nữa cho y. Uống xong cả mà y không say. Đoạn y đến bàn cúng, hai tay ôm thủ vĩ lợn, cúi mặt xuống, hít khắp cùng, một cách say mê đắm đuối, mà trên đời nầy chưa hề có ai ngửi đồ ăn như thế. Y lật đầu heo lên, y hít từ sớ thịt, từ miếng xương; y trở đầu heo lại, y hít từ lổ tai, từ cái mỏ, từ con mắt. Y hít như vậy trọn cả nửa giờ ! Cử chỉ đam mê của y trông thấy mà rợn cả người, cho đến đỗi khổ chủ, nhà nghèo xơ xác, mà phải ghê gớm cái đầu heo ấy: nên sau khi cúng rồi, y đem nó cho hàng xóm ! Đó là vong linh nghiện r*** và mê ăn nhập vào đồng tử để hưởng chút mùi vị trần gian. Trên cõi Trung giới, vong linh như thế bị muôn phần khổ sở: vì y thiếu cơ quan xác thịt để thực hiện sự ham muốn ấy.
Người ta biết nhiều chuyện thần thoại diễn tả cảnh thèm khát hãi hùng của vong linh không được thỏa mãn nơi cõi Trung giới. Đây là chuyện người Tantale bị hình phạt nặng nề là: nhịn khát. Y khô cả cổ, rát cả họng, thèm một giọt nước ngon lành mà không ai cho, trong khi người ta bẹo trước mắt y một thứ nước trong long lanh như mắt mèo ! Nhưng ô hô ! khi môi y vừa kề thì người ta lại giật đi, trước mắt thèm thuồng khao khát của y ! . . .
Còn một chuyện thần thoại khác nữa: là ông Sysiphe. . . Ông bị hình phạt như là: phải lăn tảng đá lên đỉnh núi. Nhưng khi ông cố gắng, hè hục gần hụt hơi để lăn đá, mà hễ nó vừa đến chót núi, thì nó lại rơi xuống chân núi để ông phải lăn nó trở lên nữa. Cảnh tượng đó cứ luôn luôn tiếp diễn.
Tảng đá đó là biểu tượng của lòng tham lam mà con người cứ mãi nuôi nấng lúc ở trần gian. Bao giờ hết tham lam thì con người hết bị bắt buộc lăn tảng đá đó nữa.
Một đời sống dưới thế gian vô dụng, ích kỷ, không giá trị là một điều hết sức tai hại cho vong linh trên cõi Trung giới. Nơi đây điều kiện sống thác khác hẳn với cõi trần. Ở âm cảnh không có chuyện làm ăn cần phải bàn tính và vong linh không thể dùng lời xảo trá đặng: vì tư tưởng và tình cảm đều bộc lộ rõ ràng không che giấu được.
Người đồ tễ, hay kẻ giết thú vật để thí nghiệm sẽ bị những hình thú cụt chơn, gãy cánh, gãy đầu, run rẩy, rên siết, kêu gào vây xung quanh, và vô tình biểu diễn lại tấn tuồng giết chóc đã gây ra tại thế.
Cái cảnh tượng hãi hùng ấy cứ tiếp diễn trong nhiều ngày, nhiều tháng và nhiều năm như vậy, cho đến khi nào vong linh ăn năn hối quá thì tình trạng khốn đốn đó mới tiêu tan cho.
Bây giờ hãy nói đến hạng người cao hơn như nhà âm nhạc, triết học hay khoa học chẳng hạn. Trên Trung giới con người không cần làm lụng mới có mà sống, nên có nhiều thì giờ để đeo đuổi quan niệm của mình. Trong khi sanh hoạt trên Trung giới, ta có thể nghe một nhạc điệu rất hay, rất tuyệt diệu, mà dưới trần nầy không ai diễn được.
Còn đối với nhà mỹ thuật, thì ôi thôi, biết bao là sự tốt đẹp diễn ra trước mắt. Nhơn đó mà vong linh có thể biểu dương tài nghệ của mình. Người ta có thể đi đây, đi đó một cách mau lẹ nên thấy đặng những kỳ quan trong võ trụ dễ hơn khi ở thế.
Nếu vong linh là nhà sử gia hay nhà khoa học, thì tất cả thơ viện và phòng thí nghiệm dưới trần đều đặt dưới quyền xử dụng của y. Lại nữa, vong linh hiểu đặng những hiện tượng thiên nhiên rõ ràng hơn là lúc còn mang xác thịt: bởi vì y thấy đặng bên trong của vạn vật, chớ chẳng phải chỉ phớt bên ngoài mà thôi. Trong bất cứ trường hợp nào, sự vui của vong linh cũng tăng cường: vì y không biết mệt mỏi như ở trần gian.
Nhà triết học có thể đeo đuổi được công việc hữu ích của mình một cách đắc lực và dưới tay sẵn có những điều kiện thuận tiện hơn là khi có xác thịt.
Trên cõi Trung giới, vong linh có khả năng học tập những điều mới lạ.
Dưới đây là 7 cảnh của cõi Trung giới.
Cảnh thứ bảy: Nơi cảnh thấp nhứt của cõi Trung giới – là cảnh thứ bảy – vong linh thường hướng về những chuyện thấp hèn dưới thế gian và hay lân la những nơi trụy lạc trần ai.
Cảnh thứ sáu: Trên cảnh thứ sáu có những vong linh chỉ nhớ đến vật chất và công việc làm ăn. Họ ở sà sà trên măt đất.
Cảnh thứ năm và thứ tư: Trên mấy cảnh ấy vong linh cũng còn tư tưởng đến những chuyện trần gian, nhưng không mãnh liệt bằng lúc ở cảnh thứ sáu và thứ bảy.
Cảnh thứ ba và thứ hai: Trên mấy cảnh ấy, vong linh ở cách biệt trần gian rất xa. Muốn thông đồng với người dương thế, vong linh phải rán sức đặc biệt bằng cách dùng đồng tử.
Cảnh thứ nhứt: Trên cảnh thứ nhứt – là cảnh cao hơn hết của cõi Trung giới – vong linh muốn thông đồng với thế gian là một chuyện hết sức khó khăn, dù bất đắc dĩ phải dùng đồng tử.
Đa số người thường nhơn hiền hậu, chết một cách tự nhiên, họ gặp được nhiều may mắn, nhờ những vị cứu trợ vô hình chỉ dẫn, nên họ có thể tiến mau lẹ. Nhưng có vài trường hợp, họ có thể bị cõi phàm lôi cuốn; vì họ nặng tình với một cá nhân nào còn sống.
Sự xót xa thương tiếc của cha mẹ, vợ con, bè bạn có thể níu kéo vong linh trở lại trần, và tìm cách nhập xác đồng để chuyện trò với gia quyến. Điều nầy làm trễ bước tiến hóa của vong linh và tạo cho đồng tử bao nỗi ưu phiền, đau khổ ở tương lai. Nhơn đó mà vong linh phải gánh quả nặng, và kẻ ở cõi trần vì vô tình mà làm hại người mình thương nơi âm cảnh !
Giáo lý Pháp môn không hề dạy ta phải quên người chết, mà còn khuyên ta nên gởi cho họ tình thương chơn thật, nồng nàn, trong sạch và vô tư. Chính tình thương vô tư đó giúp đỡ vong linh trên bước đường mới lạ ở Trung giới, để họ sang qua cõi Thượng giới mau lẹ.
7.- NHỮNG TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT
Về mặt thực tế, thì sau khi chết, trí thức của con người không khác chút nào. Những tai nạn rủi ro, sự chết bất đắc kỳ tử không làm cho đời sống trên Trung giới quá khổ sở hơn. Nhưng đối với đa số người đời, sự lâm chung tự nhiên là tốt hơn hết: bởi vì xác thân bị sự già nua và bịnh hoạn lâu ngày làm cho mau tan rã và những tế bào cái Vía cũng vì đó mà đã ly tan một phần nào; nên khi con người sang qua cõi Trung giới, thì con đường nơi âm cảnh đã dọn sẵn rồi.
Tuy nhiên, khi sự sống của xác thân thình lình bị ngưng hẳn, sợi dây dục vọng và sinh lực (Kama Prâna) chưa dứt, nên cái Vía còn mạnh mẽ dồi dào; những yếu tố cao cả của thần hồn khó lìa ra khỏi xác liền đặng. Một số dư Thanh khí trọng trược còn bám vào bản ngã phàm nhơn, kéo trì phàm nhơn xuống cảnh thấp nhứt của cõi Trung giới là cảnh thứ bảy.
Cái chết bất đắc kỳ tử luôn luôn tạo ra sự kinh khủng và sự tán loạn tâm thần, khiến cho đời sống trên cõi Trung giới hóa ra tối tăm và khổ sở. Trong vài trường hợp, cái tình trạng hỗn loạn tâm thần đó kéo dài khá lâu.
Những kẻ tội nhơn bị xử tử, chẳng những họ phải chịu cảnh đau đớn của sự phân chia đột ngột giữa cái Vía và cái xác, mà họ còn có cái Vía đang run rẩy, oán hờn, giận dữ và thù hằn. Như thế họ sẽ là những phần tử đặc biệt nguy hiểm trên cõi Trung giới. Vậy người tử tội là một mối hại cho xã hội; mà khi y bỏ xác rồi, y cũng sẽ còn là một mối hại gấp ngàn lần cho trần gian nữa. Vì lẽ xã hội có thể chống với kẻ sát nhơn còn sống trong xác thịt, chớ không thể chống với kẻ sát nhơn vô hình bị phóng thình lình lên Trung giới với tất cả uy lực giông tố của dục tình ! Những người như vậy có thể trở thành những tay phiến động cho những vụ sát nhơn. Bằng chứng thiết thực là những vụ sát nhơn tương tợ thường xảy ra trong một xóm, một làng hay một xứ.
Thường thường những người có một đời sống hung dữ, ích kỷ và vật chất nên mới bị kết án tử hình. Nhơn đó mà họ chỉ tri thức đặng cảnh chót của cõi Trung giới mà thôi; họ có thể trở thành một phần tử ghê gớm nơi âm cảnh và luôn cả chốn trần gian nữa !
1) Một là: họ xui giục người yếu tánh làm theo họ.
2) Hai là: cái Vía của họ đang run rẩy vì sự đam mê và oán hận, hóa ra một động lực nguy hiểm cho cõi Trung giới như ta đã nói ở trước. Muốn biểu lộ những cái phản động thấp hèn của họ tại cõi trần, họ mới tìm cách nhập xác đồng, hầu thực hiện được ý muốn xấu xa của họ, để rửa hận hay thỏa dục.
Những người chết bất đắc kỳ tử như tự vận, là những hạng người mắc quả xấu vì sự ô trược và trụy lạc, thì họ sẽ là những hồn ma bóng quế khốn nạn ! . . . Họ đi tầm vơ. . . cho tới chừng nào mãn kiếp sống dưới trần mới thôi. Tỷ như họ phải sống tới 90 tuổi mà mới 20 tuổi họ tự vận, thì họ phải kéo dài đời sống vu vơ trên cõi Trung giới tới 70 năm nữa mới sống được đời thường lệ như các vong linh khác, nghĩa là mới có thể trú ngụ tại cảnh riêng biệt của họ để tinh luyện hầu sang qua cõi Thượng giới mới đi đầu thai được.
Ôi ! sự đau khổ đang chực hờ họ ! Bao nhiêu thất vọng nặng nề tràn ngập tâm hồn họ ! Cái tư cách trước khi lâm chung của người tự tử luôn luôn tạo ra nhiều hoàn cảnh tốt hay xấu ở cõi Trung giới, bởi vì động lực bên trong của sự tự tử là quan trọng . . . Người ta đánh giá nó tùy trường hợp, từ cái chết nghĩa cử tốt đẹp của ông Socrate và ông Phan thanh Giản, tới cái chết thất vọng vì tình, cái chết khốn nạn của người hèn nhát để chạy tội.
Thường cái hậu quả của sự tự tử thật là trọng đại, chắc chắn nó di hại trong kiếp nầy mà còn ảnh hưởng sâu xa cho kiếp tới nữa. Vì con người trong kiếp tới, sẽ phải gặp lại những hoàn cảnh khắt khe tương tợ như hoàn cảnh của kiếp nầy, xúi giục y tự vận một lần nữa. Nếu con người ấy thấy đặng cuộc thử lòng nầy, thì ở vị lai, sẽ không còn gặp lại cuộc thử lòng như thế nữa. . . Bằng thất bại, thì con người sẽ phải lâm vào hoàn cảnh ấy một lần, hai lần nữa . . .; có khi trong 5 – 3 kiếp liên tiếp, mới thoát khỏi. Người ta có biết một linh hồn tự thú nhận là y tự vận trong 5 kiếp liên tiếp. Mỗi lần lên Trung giới, linh hồn rất khổ sở, mà thấy mình đã thất bại trước hoàn cảnh đau thương đó, nên hằng cầu nguyện được giúp đỡ, để cho y nhớ lại kịp lúc cái hậu quả của sự tự vận trước khi muốn hủy mình; y cầu nguyện cho mình có đủ can đảm để làm chủ hoàn cảnh, dù là khó khăn và đau khổ.
Người ta tưởng rằng: “Chết thì hết chuyện !” Nhưng không phải hết đâu. Hủy mình trước số Trời đã định là một điều hết sức sai lầm và tai hại ! Cái cảnh rắc rối dưới trần, - mà mình giải quyết không đặng nên phải tự vận, - sẽ đeo đuổi theo mình tại cõi Trung giới một thời gian khá lâu, làm cho mình biết bao ân hận ! Nhưng ô hô sự đã rồi ! Vả lại, sự tự tử là một tội trọng đối với nhân quần xã hội, đối với cha mẹ, ông bà và đối với Hóa công nữa; bởi vì nó trái với luật nhân quả đã định kiếp sống dưới trần nầy là bao nhiêu năm; nay vì uất hận và tự ái hay buồn rầu mà bất kể thiên điều, thì dù có ăn năn cũng đã muộn rồi ! . .
Vì lẽ mỗi người phải trải qua một đời sống sung sướng hay khổ cực tại thế gian, tùy theo số mạng do chính mình đã tạo ra trong kiếp nầy hay kiếp trước, thì phải an lòng, ẩn nhẫn, rán vượt qua cảnh thử lòng ấy để sống cho rồi một kiếp, chớ đừng tìm đường trốn tránh. Vả lại có muốn trốn cũng chẳng đặng nào ! Vì đó là định luật !
Ta biết rằng: cái mực độ tâm trí con người, lúc từ trần, hoạch định cảnh giới mà vong linh phải sống. Vậy cũng đồng tự tử, mà người vì mục đích bác ái vị tha như hiền nhơn Socrate, còn người, thì vì mục đích ích kỷ, giận hờn, tức tối và hèn nhát, trốn tránh sự cực nhọc, nên hai vong linh nầy cách xa nhau tuyệt vời trên cõi Trung giới.
Những người có tấm lòng trong sạch, có nguyện vọng cao thượng, mà rủi ro bị tai nạn bỏ mình, thì sẽ sang qua cõi Trung giới một cách bằng an. Tỷ như ngủ một giấc ngon lành, trong mộng điệp, không có chi là đau khổ cả. Trong vài trường hợp, có khi họ tri thức trong chốc lát, cái cảnh cuối cùng của kiếp sống trần gian. Dù họ là người tốt, nhưng vì chết sớm hơn thời hạn, họ chỉ sống tạm trong cảnh phù hạp với lớp ngoài của cái Vía họ, đợi cho tới thời kỳ mãn kiếp dưới trần, họ mới khởi sống thật sự trên Trung giới.
Ta đã nói rằng: cõi Trung giới cao đẹp hơn cõi trần nhiều. Nhưng đừng vì lẽ đó mà hoan nghinh sự tự tử ! Sở dĩ con người sanh sống ở cõi trần là có mục đích gì. Và muốn thực hiện nó, thì chỉ phải sống trong xác thịt mà thôi: vì những bài học ấy, chỉ phải học tại cõi trần mới được; chớ nếu học tại cõi khác, thì sẽ hỏng mất và nhân duyên mà ta gây tại cõi trần sẽ không trả được. Rồi làm sao giải thoát ? Bởi vậy, hễ ta học bài học ấy sớm chừng nào, thì ta sẽ được giải thoát sớm chừng nấy, nghĩa là ta sẽ hết luân hồi, sanh tử, vùi thân giữa đám bụi hồng. Chơn Nhơn rất cực nhọc mới đầu thai, sống trong xác thịt nặng nề nầy. Trong thời kỳ ấu trỉ của con người, Chơn Nhơn phải kéo chuỗi ngày vô bổ trong một cái thân bé tí; Chơn Nhơn phải lao công mệt nhọc để kềm vững và chủ trị những hạ thể mới. Và khi trẻ con trở thành niên thiếu là lúc Chơn Nhơn được hài lòng, vì nó hy vọng rằng: với cái khí cụ xác thân mạnh lành, nở nang đầy đủ ấy, mình sẽ hoạt động đắc lực dưới trần ! Nhưng nào dè, đến lúc nhờ cậy được, thì phàm nhơn lại hủy mình ! Thành thử công phu của Chơn Nhơn hóa ra vô dụng ! như “dã tràng xe cát bể đông !” Mà đứng về mặt Chân Lý, thì công phu của Chơn Nhơn không được phung phí bao giờ ! Nhơn đó, tự nhiên cái xác thân luôn luôn có “bản năng tự vệ”. Bổn phận của mỗi cá nhân là phải lợi dụng trọn cả kiếp sống dưới trần để kéo dài ngày giờ sống, hầu học hỏi, kinh nghiệm và tạo công, bồi đức cho kiếp sống tương lai.
Những người chiến sĩ tử nạn ở bãi chiến trường không thuộc về những hạng bất đắc kỳ tử ấy: bởi lẽ họ chiến đấu vì bổn phận. Mà hễ nói là bổn phận, thì dù cái động lực của nó là thể nào đi nữa, nó cũng đều là chánh đáng cả. Trước tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, họ tự ý hy sinh đời sống của họ một cách vô tư. Lại nữa, mặc dầu giặc giã đem lại một kết quả ghê tởm, hãi hùng, nhưng nó cũng là một động lực của cơ tiến hóa. Nhà Hồi giáo cho rằng : “Kẻ chiến sĩ chết nơi bãi chiến trường vì tranh đấu cho một đức tín tốt đẹp, sẽ sống một đời sống hạnh phúc trên cõi Trung giới”.
Trong trường hợp của những đứa trẻ chết yểu, thì thường thường chúng nó chưa nhiễm những tánh xấu trần gian, nên chúng nó không ở cảnh thấp của cõi Trung giới. Nhơn đó mà người ta ít gặp chúng nó trên cảnh thứ 6 và thứ 7 của cõi nầy. Chúng nó được trong sạch hơn người lớn nên rất có phước. Chúng nó chưa nhiễm dục tình của người lớn nên lòng được thanh thoát và vui vẻ lắm. Chúng nó không chia lìa cha mẹ, anh chị, cùng bạn bè yêu quí của chúng nó đâu: chỉ ngặt một điều là chúng nó giao thiệp với họ lúc ban đêm, khi họ ngủ, chớ chẳng phải lúc ban ngày. Bởi vậy chúng nó không cảm thấy sự ly biệt như ta đâu. Lại nữa, trong lúc ban ngày của ta tại cõi trần đây, thì chúng nó, trên cõi Trung giới, tựu họp với mấy đứa trẻ khác vui chơi với nhau chẳng khác nào như hồi còn ở cõi phàm; chúng nó cũng chạy đua, cũng tập lính, cũng hát xướng theo đủ thứ vui chơi của chúng nó. Chúng giả làm vua, làm tướng. Nơi cõi Trung giới, ý muốn trở thành hình ảnh, nên hễ chúng nó tưởng mình là anh tướng mạnh bạo, thì tự nhiên chúng nó thấy y như vậy. Nếu chúng nó tưởng thấy một tòa lâu đài nguy nga, tức thì chúng nó thấy liền. Nếu chúng nó tưởng một đạo binh ra trận, thì đạo binh đó hiện ra trước mắt chúng nó.
Trẻ con thường có tánh hay giúp đỡ và khuyên dỗ, nên khi lên cõi nầy thì chúng nó hay an ủi những kẻ còn dốt nát mê muội.
Có người hỏi rằng: những trẻ con còn bồng ẵm trên tay, mà rủi thác đi, thì làm sao hưởng sự vui vẻ được ? Ta chớ lo, trên cõi Trung giới cũng có những bà mẹ sẵn lòng săn sóc chúng nó, vuốt ve và yêu mến chúng nó. Chẳng bao giờ chúng nó bị lẻ loi và cô độc cả !
Có hạng người bám víu một cách tuyệt vọng cõi đời vật chất nầy, nên lúc bỏ xác, cái Vía của họ không thể tách xa cái Phách liền đặng. Nhơn đó, mà trên Trung giới, họ vẫn còn bị chất dĩ thái của cái Phách bao vây, làm tấm bình phong che mất cảnh ấy, thành thử họ ở nơi âm cảnh mà không biết âm cảnh là gì. Đồng thời họ khó mà thông cảm với cõi trần: vì họ thiếu cơ quan xác thịt ! Chung qui, họ là những hồn ma xiêu lạc, cô đơn hãi hùng ! Họ có miệng mà chẳng thốt ra lời ! Họ xa lạ tất cả hai cõi: vì họ không thông cảm đặng với những nhơn vật trong đó. Họ không thể hiểu đặng rằng: nếu họ hết bám víu một cách điên cuồng vào vật chất, thì tri thức của họ sẽ đổi ngay, và họ sẽ sống một cuộc đời thông thường như các vong linh khác. Còn nếu họ cố nắm níu cõi đời đen tối nầy mãi với cái bán tri thức khốn nàn của họ, thì họ sẽ tưởng thấy mình sa vào “địa ngục” theo trí tưởng tượng của người đời. Thời gian qua, chất dĩ thái của thể Phách tan rã và đời sống dị thường của vong linh sẽ được lập lại trật tự: vì luật Trời luôn luôn Công bằng và Bác ái, không bao giờ để cho ai mãi chịu khốn nàn, như câu: “Lửa địa ngục thiêu đời đời” vậy đâu; bởi vì rốt cuộc rồi, tự nhiên sẽ có những bàn tay cứu trợ đến giúp đỡ và chỉ dạy.
Nếu vong linh nghe theo thì sẽ được kết quả tốt. Những lời chơn chánh và đạo lý của ta sẽ giúp đỡ vong linh rất nhiều. Vậy, khi ta đến một đám xác nào, thì ta nên thầm vái cho vong linh sớm trì tâm học Đạo, tìm người lành để nhờ chỉ dạy.
Đôi khi có những vong linh vì quá đau khổ nên đâm ra chán nản, họ không còn ham muốn, đam mê điều chi cả. Họ chỉ mong sao cảnh hiện tại khốn nạn nầy sớm được tiêu diệt ! Nhưng nào dè sự mong ước ấy đem lại cái cảnh tốt đẹp bất ngờ, làm cho họ quá đổi ngạc nhiên ! Nếu ta hiểu rõ cảnh Trung giới thì điều nầy không có chi là lạ: vì lẽ hoàn cảnh biến đổi theo tâm thức con người. Hễ con người càng bám vào những sự thấp hèn, ích kỷ và đam mê thì tự nhiên bị chất khí trược ấy vây chặt, khiến cho họ sa vào cảnh đen tối và đau khổ.
Nay vì thấy mình càng bám víu thì càng thất bại nên hóa ra chán nản. Trong khi quá thất vọng, vong linh thay đổi tư cách là : “không thèm ham muốn cái gì nữa”. Trước cái tư cách của tâm thức đó, hoàn cảnh tự nhiên thay đổi; vì vậy mà vong linh thấy mình được nhẹ nhàng, thơ thới và sống trong hoàn cảnh tốt đẹp sáng sủa hơn.
Đôi khi, vong linh xâm chiếm xác thịt của một em bé bằng cách đuổi bản ngã yếu ớt của em ra khỏi xác thân em. Hoặc giả vong linh – trong cơn dục tình sôi nổi – cũng chiếm cứ xác thân của một con thú. Vong linh thành công dễ dàng trong trường hợp nầy: vì lẽ con thú còn yếu ớt, không chống cự lại đặng. Sự xâm nhập xác thú có khi trọn vẹn, có khi chỉ một phần thôi. Vong linh nhờ xác thịt thú làm trung gian để gần gũi với cõi trần hơn. Vong linh thấy đồ vật xuyên qua mắt thú. Nếu có ai làm cho con thú đau đớn, như đánh đập hoặc cắt cổ nó, thì vong linh cũng cảm thấy đau đớn như mình bị đánh đập hoặc bị cắt cổ vậy.
- Tạo sao trong lúc thú thọ nạn, vong linh lại không xuất ra khỏi xác nó, để chịu chi cảnh khổ sở ấy ?
- Vì lẽ, vong linh một khi nhập vào xác thú khó tự ý xuất liền ra đặng. Muốn xuất ra, vong linh phải cố gắng nhiều ngày mới được. Như thế, y phải tổn phí thần lực rất nhiều. Thường thường chỉ khi nào thú vật chết, vong linh mới xuất ra khỏi xác nó được mà thôi. Nhưng dù xuất ra khỏi xác thú đặng đi nữa, vong linh cũng còn phải cắt đứt sợi dây Thanh khí nối mình với con thú. Đôi khi, lúc con thú chết, nếu y còn đắm trần, thì y rán nhập vào con thú khác hoặc một cá nhân nào yếu đuối vô nghị lực. Những con thú dễ bị chiếm xác là những con thú ít tiến hóa, như heo, trừu chẳng hạn. Loài thú khôn ngoan như chó, mèo, khỉ, ngựa, có ý chí kháng cự, nên không dễ gì chiếm xác chúng nó được. Tuy nhiên, có khi chúng nó tránh không khỏi nữa !
Tất cả sự xâm chiếm xác thân, dù là của người hay của thú, đều là một chướng ngại cho sự tiến hóa. Người bị chiếm cứ cũng đều bị ngưng trệ tinh thần. Vong linh càng nhập xác đồng chừng nào, thì càng say trần nhiều chừng nấy. Còn đồng tử thì thường mất cả nghị lực để học hỏi và kinh nghiệm. Y sẽ thụ động hơn là linh động. Đồng thời vong linh nhập xác tự tạo cho mình một nhân quả hết sức xấu. Còn người cầu đảo vong linh trở lại trần cũng phải chia một phần cái nhân quả xấu ấy.
Nếu vong linh nhập vào xác con thú là đã gây nhơn duyên với nó rồi. Lúc y đầu thai, cái Vía của y có nhiều đặc điểm của con thú ấy. Có thể mặt y giống với mặt thú mà y có tánh tương đương.
Trong trường hợp tuyệt đối, cái Vía của vong linh kết chặt với cái Vía của con thú: hễ con thú đi đâu, thì vong linh đi theo đó, giống như kẻ tù nhơn của con thú. Trên cõi Trung giới, vong linh ấy có thể tri thức đặng, là y có những đức tánh của con người. Nhưng khi ở trong xác thú, thì y không kiểm soát đặng hành vi của nó, hoặc giả y không biểu lộ ý muốn của y – là một con người - dưới thế gian. Thế thì, xác thú là ngục tù của vong linh, chớ không phải là khí cụ để cho vong linh dùng. Lại nữa, khi con người nhập vào xác thú, thì hồn của con thú ấy có xuất ra khỏi xác nó một cách trọn vẹn đâu, mà nó vẫn còn làm chủ thật sự cái nhà của nó (tức là cái xác của nó).
Vì lẽ trên đây, ta có thể hiểu được một phần nào: tại sao người Phương Đông hay tin tưởng rằng: “kẻ dữ sẽ đầu thai làm thú vật.”
8.- KẾT LUẬN
Trước khi kết thúc bài nầy, ta hãy quan sát vài câu hỏi hiện có trong trí của những học giả về cõi Trung giới.
Câu hỏi thứ nhứt: Ta có thể tiến hóa trên cõi Trung giới chăng ?
- Tự nhiên là đặng: bởi vì sự tiến hóa là luật chung của Trời Đất. Ta tiến hóa nhiều hay ít là tùy chúng ta. Người làm nô lệ cho dục tình, tiến hóa được là khi nào dục tình ấy tiêu mòn và kết tinh lại trong trạng thái tiêu cực ở trong hột nguyên tử trường tồn của cái Vía.
Những kẻ nào tử tế và có lòng nhơn đức, thì sẽ học hỏi nhiều và sẽ được nhiều sự cứu trợ do các vị tiến hóa cao hơn. Do sự hy sinh và tính vị tha của vong linh trên cõi Trung giới mà y hối thúc cuộc tiến hóa của y. Và khi trở lại trần, y sẽ giàu quyền năng và đức hạnh. Vậy ta đừng lo cho y ở đọng lại một chỗ.
Câu hỏi thứ hai: Ta có nhìn ra những người thương yêu của ta đã quá vãng trước ta không ?
- Chắc chắn là ta nhìn ra; bởi vì họ và ta không ai thay đổi cả. Lúc ở trần gian ta sống trong cái xác. Khi lìa trần ta ở trong cái Vía. Mà cái Vía lấy hình giống hệt cái xác. Chỉ cái Vía túa hào quang ra – dài, ngắn tùy theo sự tiến hóa - Vậy làm sao mà ta không nhìn ra được người thân yêu của ta tại cõi Trung giới ?
Tình thương như miếng đá nam châm. Nó thu hút những người thương yêu nhau thật sự để cho họ hợp hòa với nhau. Nó là một mãnh lực mạnh mẽ, thiêng liêng trường tồn, bất diệt. Dù người thương của ta có lên cõi Thiên Đàng trước ta đi nữa, thì ta cũng sẽ gặp họ lại như thường khi ta bước qua cõi Thượng giới.
▲▲▲
Khi bức tranh “vân cẩu” đã vẽ xong và bút nghiên đã dẹp lại rồi, thì tấm màn nhục thể từ từ buông xuống. Bấy giờ, vong linh mới nhận thấy sự thật rõ ràng, mới thấy được cái trạng huống của mình tốt hay xấu, phúc lạc hay đau buồn. Sự tiến lên cảnh cao hay lưu lại cảnh thấp là tổng kết sự thăng trầm của một kiếp sống nhơn sinh. Nó hạn định số mạng của y một cách công bình, dẫu một mũi kim cũng không dễ lọt được ! Đơn giản thay, mà cũng huyền diệu thay ! Dưới thế gian nầy, không ai lập được cái trật tự điều hòa như thế đó. Nguyên lý tinh vi, khiết bạch của Hóa Công qui định tất cả và nó đặt để mỗi người theo Ngôi vị thích nghi của mình. Nó biến chuyển những mãnh lực tinh thần để biểu lộ sự Công Bình tuyệt đối !
Ta ở cảnh cao trên cõi Trung giới cũng do ta, mà ta lâm vào cảnh u minh cũng là tại ta cả.
Tất cả tư tưởng, tình cảm và hành vi của ta đều có hình dạng. Chúng nó ghi vào con người của ta như một cuốn sổ to. Lúc ta sanh tiền thì nó đóng kín lại; xác thân vật chất của ta ví như một cái màn đen che khuất nội dung của nó. Nhưng khi ta từ giả cõi trần, thì nó từ từ mở ra: những trang giấy của nó phô bày trước mắt. Ta mang nó trên lưng ta, khiến cho ai cũng đều thấy đặng cái Thiên Đàng hay cái Địa Ngục của ta cả.
Trên những thể vô hình (đối với mắt ta) của vong linh đều có ghi tội, phước của kiếp trần đã qua. Chúng nó là bằng chứng cụ thể của đời sống tốt đẹp hay xấu xa đã qua. Chúng nó biện hộ cho vong linh hay kết tội y, và không ai có thể làm cho tiếng nói của chúng nó im lặng được. Vậy lúc sanh tiền con người đang đẻo gọt cái “Ngai” của mình tại dương thế để cho mình ngồi khi quá vãng. Quyền cầm cân tội phước là ở mỗi người chúng ta đây. Nếu chúng ta muốn được hạnh phúc nơi cõi vô hình, thì ngay bây giờ, chúng ta nên bắt tay vào việc. Chúng ta hãy rán tạo những hành vi lành, từ bỏ những hành vi xấu, và rửa lòng cho trong sạch như lời dạy của Đức Phật Thích Ca trên hai ngàn rưởi năm về trước.
Dưới đây là bài thơ ngụ đời của một vị đạo tâm:
Phút chốc đầu xanh hóa bạc râm,
Mấy ai hưởng thụ ngoại tuần trăm ?
Thoi đưa, thoi đến bao lâu nhỉ ?
Mây hợp, mây tan một kiếp trần;
Danh lợi mãn say quên nẻo chết,
Bịnh, già, sực nghĩ đến bên chân;
Than ôi, trần thế xem như thế,
Sớm khá tu tâm học Đạo Thân.
Còn đây là bài thơ kết luận mà tôi xin hiến cho quí vị:
Ôi thôi, ngắn ngủi kiếp con người !
Ba vạn sáu ngàn, có mấy mươi ?
Thấm thoát xuân xanh như én luyện,
Lơ phơ tóc bạc, tợ mây trôi;
Rồi ra mồ quạnh, cùng hoa héo,
Chỉ thấy trăng soi với gió cười ! . . .
Ớ hỡi, ai người tâm sáng suốt,
Mau vun cội đức kẻo qua thời !
HẾT
meampamp4anh meampamp4anh 2 Chia sẻ Trả lời
Up lên cho mọi người cùng đọc.
fakoon fakoon 2 Chia sẻ Trả lời
cảm ơn bài viết hay quá ...........
nhoockutelk nhoockutelk 2 Chia sẻ Trả lời
bạn chỉ cách cạo vía cho ông cóc luôn i
ma_xiao_ling ma_xiao_ling 2 Chia sẻ Trả lời
chào các bạn do bận việc và đang là thời kì an cư kiết hạ nên mình không lên mạng gặp các bạn để trao đổi về những vấn đề tâm linh được>Nay mình đã có thời gian rảnh rỗi nên sẽ trao đổi với các bạn về các vấn đề này được chỉ mong các bạn có 1 sự nhìn nhận đúng đắn về vấn đề này để tránh mọi sự hiểu lầm và mê tín quá mức.
Trước tiên tôi xin giải đáp về vấn đề của vài bạn có pm cho tôi trên yahoo trong thời gian trước do bận chưa trả lời được,có bạn hỏi như sau.
Tại sao mồ mả của ông bà bị động hoặc là mất mộ lại làm cho con cháu ốm đau,hoặc làm ăn thất bát hoặc gặp nhiều chuyện bất hạnh,điều này có vẻ không hợp logic cho lắm vì nếu xét về phương diện thực tế không có liên quan nhiều đến nhau.
NHƯ CHÚNG TA ĐÃ BIẾT NGƯỜI VIỆT NAM CHÚNG TA CÓ 1 TÍN NGƯỠNG LÀ THỜ PHẬT VÀ CÁC VỊ THẦN THÁNH,CHUYỆN TẠI SAO MỒ MẢ KHÔNG TỐT LẠI ẢNH HƯỞNG ĐẾN CON CHÁU LÀ DO,NGƯỜI CHẾT HỌ THƯỜNG RẤT CẦN SỰ QUAN TÂM CỦA CON CHÁU ĐẾN HỌ NÊN KHI CON CHÁU KHÔNG QUAN TÂM HAY LÀM CHO NƠI HỌ YÊN NGHỈ KHÔNG ĐƯỢC TỐT HỌ SẼ RẤT GIẬN VÀ SẼ CÓ NHỮNG HÀNH ĐỘNG PHÁ PHÁCH HAY LÀM KHÓ KHĂN CHO CON CHÁU,TUY LÀ CON CHÁU CỦA MÌNH NHƯNG CÁC LINH HỒN THƯỜNG HAY CỐ CHẤP VÀ KHÓ TÍNH VÌ HỌ SỐNG VÀ TỒN TẠI BẰNG SỰ CẢM NHẬN,NÊN KHI BỊ CON CHÁU BỎ QUÊN HAY LÀM CHO HỌ KHÔNG VỪA Ý HỌ SẼ PHÁ PHÁCH 1 ĐIỀU QUAN TRỌNG NỮA MÀ MỌI NGƯỜI THƯỜNG KHÔNG BIẾT ĐÓ CHÍNH LÀ MỒ MẢ CỦA HỌ CHÔN Ở ĐÂU THÌ Ở ĐÓ HỌ SẼ CÓ 1 VỊ THẦN THÁNH Ở NƠI ĐÓ QUẢN LÝ HỌ VÀ GIÁO HUẤN DẠY DỖ HỌ TU HÀNH ĐỂ SIÊU THOÁT.CÁC VỊ THẦN THÁNH THÌ RẤT LÀ CÔNG BẰNG KHÔNG BAO GIỜ THIÊN VỊ 1 AI CẢ CÁC NGÀI QUAN NIỆM LÀ ĐÃ LÀ CON CHÁU THÌ PHẢI CÓ NGHĨA VỤ ĐỀN ĐÁP CÔNG ƠN SINH THÀNH VÀ DƯỠNG DỤC CỦA CHA MẸ,ÔNG BÀ,CHO DÙ CHA MẸ HAY ÔNG BÀ,CÓ NHƯ THẾ NÀO THÌ CHÚNG TA CŨNG PHẢI CÓ NGHĨA VỤ BÁO HIẾU VÀ ĐỀN ĐÁP CÔNG ƠN,
ĐỂ CHO MỒ MẢ ÔNG BÀ BỊ MẤT ,HAY LÀ KHÔNG THỜ CÚNG CHU ĐÁO LÀ BẤT HIẾU NÊN HỌ SẼ PHẠT NHỮNG NGƯỜI CON NGƯỜI CHÁU ĐÓ,LÀM CHO HỌ ỐM ĐAU,LÀM ĂN THẤT BẠI,VÀ GẶP NHIỀU CHUYỆN TAI ƯƠNG KHÁC,CÁC VỊ THẦN THÁNH HỌ KHÔNG CẦN BIẾT LÀ LUÂN HỒI NGHIỆP BÁO CỦA CHÚNG TA RA SAO,KHÔNG CẦN BIẾT SỐ MỆNH CỦA CHÚNG TA RA SAO,HỌ CHỈ CẦN BIẾT LÀ CHÚNG TA KHÔNG LÀM TRÒN HIẾU NGHĨA THÌ PHẢI BỊ PHẠT,
ví dụ:SỐ PHẬN CHÚNG TA KIẾP NÀY ĐƯỢC PHÚ QUÝ GIÀU SANG NHƯNG VÌ KHÔNG LÀM TRÒN ĐẠO HIẾU NÊN HỌ CÓ THỂ PHẠT CHO NGHÈO RỚT MỒNG TƠI.
CHO NÊN NHIỀU GIA ĐÌNH HỌ CHĂM LO MỒ MẢ ÔNG BÀ TỐT VỪA ĐƯỢC CÁC VỊ THẦN HOAN HỶ GIÚP ĐỠ VỪA ĐƯỢC GIA TIÊN GIÚP ĐỠ NÊN LÀ LÀM GÌ CŨNG THUẬN LỢI,
Tôi nói việc này ra có thể nhiều bạn không tin vào các vấn đề tâm linh cho là vớ vẩn,làm gì có linh hồn làm gì có ma,vậy tôi xin trả lời như sau,trước đây do chúng ta chưa có 1 nơi nào nghiên cứu về vấn đề này nên mọi việc vẫn còn mù mờ,nhưng đến bây giờ thì nhà nước chúng ta cũng đã công nhận về 1 thế giới vô hình đó và đã có sự nghiên cứu rất cẩn thận về vấn đề này bằng chứng là đã cho phát hành những băng đĩa về ngoại cảm và có hẳn 1 nơi tổ chức gọi hồn,do 1 cơ quan của nhà nước thành lập,tuy không tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng nhưng nhà nước cũng đã ngầm công nhận là có 1 thế giới tâm linh như vậy và mọi người dân đặc biệt là gia đình liệt sĩ có thể đến đó đăng kí để tìm người thân qua cách gọi hồn.Và thực tế BỘ CÔNG AN đã áp dụng việc gọi hồn trong việc điều tra truy tìm thủ phạm các vụ trọng án như giết người.Ở các nước trên thế giới việc nghiên cứu linh hồn và chứng minh sự tồn tại của nó đã có từ rất lâu và họ đã có những giải thích về mặt khoa học rất là rõ ràng,do chúng ta hạn chế tiếp nhận là vì có rất nhiều vấn đề về mặt xã hội.
ma_xiao_ling ma_xiao_ling 2 Chia sẻ Trả lời
hiện nay có 1 vài bạn hay đi xem bói của các thầy bà ,khi đến nhà họ thường hay có những câu nói đại loại như trong nội bộ gia đình có nhưng chuyện thầm kín mà người ngoài không thể biết được,ví dụ như nhà anh A có người chết trẻ hoặc đại loại như là trước cửa có cây đa hoặc vv... để tạo niềm tin cho người nghe thấy là rất chính xác,thực tế ra theo như ling biết là họ chả có tài gì biết trước số phận cả,chẳng qua là những vị thầy cúng đó họ có nuôi âm binh ở nhà khi chúng ta đến để hỏi họ thì họ sẽ sai những âm binh này đi để nghe ngóng và sang tai cho họ,họ chỉ biết những việc thầm kín trong nhà chúng ta như là 1 thành viên trong gia đình chứ không có tài biết trước sự việc,về chuyện âm binh hôm tới ling sẽ giải thích cho các bạn về vấn đề này,ở TQ trung tâm nghiên cứu về tâm ling của họ còn áp dụng cả âm binh vào các vấn đề như tình báo và do thám,thật là 1 cách vô cùng nham hiểm
mehaudau mehaudau 2 Chia sẻ Trả lời
Rất mong bạn chia sẻ nhiều thêm nữa về vấn đề này, mình mong nhiều người hiểu biết về vấn đề này để sống tốt hơn, để biết cách đối nhân xử thế với người đã khuất cũng như người còn sống.
nhadep nhadep 2 Chia sẻ Trả lời
vấn đề thờ âm binh thì em có nghe nói, nhưng làm thế nào để nhận biết thầy bà nào là thờ âm binh mà tránh hả bác? hôm cuối tháng 6 âl vừa rồi em đi xem 1 bà, lần đầu em đến bà chỉ nói qua, đại loại như em ở nhà cao tầng, phía trước bên trái có nhà kia đang có người ốm...và hẹn em hôm khác đến. đến ngày, bà ý gọi điện thoại bảo em đến và chẳng xem gì nữa cả, mà cứ bảo em phải thay đồ thờ, bát hương, cúng lế ( tất cả bà đã có sẵn rồi và sẽ lễ cho) vì đằng âm họ đòi. thấy không có sức thuyết phục em dành tìm cách thoái thác rồi ra về. Em và chị bạn đi cùng đều thấy sợ có ma theo về nên đi lòng vòng quanh thành phố, ghé chỗ này chỗ kia rồi mới về nhà. Sau đó ít ngày thì em bị mất trộm, rồi đến tai nạn giao thông, tốn mất mấy chục triêụ rồi mà vẫn chưa xong. Về việc này cũng thật khó giải thích nhưng khiếp đi xem lung tung luôn.
bác ling hay các mẹ rành về việc này, hãy trao đổi để em và mọi người có thêm hiểu biết.
ma_xiao_ling ma_xiao_ling 2 Chia sẻ Trả lời
vấn đề này thì cũng không khó nhận biết lắm,thầy nào thờ âm binh thì việc đầu tiên bưôc vào nhà sẽ thấy 1 ban thờ quan ở ngoài sân hoặc là trong nhà họ có ban thờ trông khác lạ với ban thờ gia tiên,nhưng đây chỉ là 1 số trường hợp thôi,có chỗ họ thơpf kín ở gian nhà khác hoặc là để trên gác mình không thấy được,nhưng có 1 đặc điểm dễ thấy là nhà nào có thờ âm binh hay đại loại là các vấn đề về âm ma thì hàng xóm quanh nhà đó rất là khổ,nuôi chó ,chó chết,gà,vịt cũng vậy luôn.Gia đình thì xào xáo nói chung chả ra 1 cái gì cả.
Còn việc bạn nghi là có thờ âm hay không thì bạn để ý thế này,khi mà gặp thày lần đầu tiên thì thày chỉ nói đại khái qua chung chung rất là khó hiểu nhưng nếu bạn đến nhà hay điện của thầy thì sau khi thắp nhang hoặc nói tên tuổi địa chỉ thì chỉ 1 lát sau thầy nói đúng luôn,vì khi đó âm binh đã thu được tin tức gia đình bạn và ngồi nói sang tai cho thầy rồi,thầy chỉ việc nói lại thôi.Tất cả mọi việc thầy nói chỉ chung chung theo kiểu nhà bạn có những ai,hoặc đại loại là bạn giấu tiền ở chỗ nào,nói chung là việc nội bộ của bạn còn việc tương lai thì ít lắm vì đó là THIÊN CƠ âm binh cũng chả biết được mà nói,tất cả mọi việc từ trừ tà,hoặc triệu vong vv đều do âm binh họ làm chứ các thầy có tài gì đâu.10 thầy nuôi âm binh thì đến 9 thầy không có kết quả tốt.Nói chung hạn chế quan hệ với thầy nuôi âm binh,vì nếu gặp thầy xấu họ còn cho ma theo về nhà mình quậy phá sau đó theo kênh này kênh nọ bắn tin phải đến nhà thầy,thầy giải cho như kiểu cho âm binh vào nhà mình làm chân gỗ ấy.Chuyện này thì nhiều lắm à.Bạn gặp trường hợp đó thì nên đi lòng vòng vào các chỗ đông người hoặc các chỗ có nhiều dương khí như SIÊU THỊ,ĐỒN CÔNG AN, CHÙA LỚN.thì sẽ không bị theo.ok
titsshop35 titsshop35 2 Chia sẻ Trả lời
Mình có đi xem hai thầy, 1 thầy thì xem về âm phần đất cát rất tốt, và có thể nói rất nhiều về chuỵen tương lai và chỉ nói trước để mình tránh, còn về qk thì nếu mình hỏi thầy sẽ nói,đầu năm vừa rồi nhà mình xảy ra chút chuyện, mất khá nhiều tiền bạc, ban đầu nghĩ sự việc cũng đơn giản nên chủ quan, nhưng cũng có cẩn thận đi xem thầy và đc thầy phán trước nên đã tránh đc nhiều điều bất lợi cho mình, cũng may ng ko sao chỉ hao tài tốn của. Nên mình rất phục bà này, thậm chí còn nói trước ngày giờ mất của bà nội mình, diễn biến sự việc ngày hôm đó ra sao và đọc ra những ai còn nợ nần cụ thì đem trả cho cụ siêu thoát khiến khi mình kể ai trong gd họ hàng cũng phải kinh ngạc.
Mình thấy ngoài sân có đặt ban thờ bà chúa gì ấy ngoài cổng và nếu ai đến mà ko đặt tiền lẻ lên vái dù chỉ là 200đ hay 500đ thì người đi cùng mình sẽ dễ gặp rủi ro...hay bị ma bắt gì gì đấy mình thấy ngta nói thế, liệu có phải đó là bàn thờ âm binh ko???
Thầy thứ 2 là 1 thầy cũng có tiếng ở quê ngoại mình, nhưng mình nghĩ phục nhất là cậu mình có theo bà ấy từ hồi thanh niên, thờ cúng mồ mả tổ tiên, làm theo những gì bà ấy bảo và cậu mình đang từ 1 công nhân bốc vác ở Cảng mà bgiờ có tiền tỷ trong tay, làm ăn phát đạt thăng quan tiến chức. Hôm trước đc cậu giới thiệu nên vợ chồng mình đến xem và thầy này cũng như thầy kia đều nói rất giống nhau là nhà mình đang bị các cụ khiển trách vì có tâm thờ cúng nhưng ko có nhang khói vì ko có bát hương gia tiên trong nhà và đúng là nhà mình chỉ thờ bát hương thổ công. Rằm tháng 7 vừa rồi mình nghe theo về làm lễ tạ sám hối gia tiên, thấy cũng nhẹ nhàng đi nhiều lắm. Nhưng mình cũng thấy khi bước vào trong nhà thì gian ngoài có 1 bàn thờ kiểu như thờ quan công ở dưới đất. Ko biết đấy có phải là thờ âm binh ko vậy Ling vì mình thấy ai đến xem thầy này cũng bảo đúng và làm lễ cúng theo thầy bảo thì ai cũng thấy mọi việc đều nhẹ nhàng đi hẳn ấy. Nhưng có điều là thầy thứ nhất còn hỏi tên tuổi địa chỉ và xem cả lá trầu quả cau, cả bài Tây, còn thầy thứ 2 chẳng hỏi gì cả chỉ bảo xáo bài rồi cứ thế nhìn bài mà phán thôi...
ma_xiao_ling ma_xiao_ling 2 Chia sẻ Trả lời
Tiện đây mình cũng nói qua luôn về các thầy để mọi người biết,nghề thầy bà là nghề của cõi vô hình nên là có muôn hình vạn trạng,có thầy nuôi âm bình để giúp việc cho thầy nuôi âm binh thế nào,giúp ra sao.Các thầy cao tay thường là những ngày mà nhiều âm khí,ra các nghĩa trang hoặc những nơi mà trước đây hay xảy ra chết chóc,như chiến trường chẳng hạn,các thầy ra đó mời gọi những vong linh mà cầu bơ cầu bất không có gia đình cúng tế,nên đói khát và không được ai tạo phước,cho để siêu thoát nên là cứ vật vờ đói khổ.Các thầy sẽ ra mời về nhà nuôi ăn,uống tạo chỗ ở cho,vong sẽ theo về và thầy sẽ sai khiến đi làm việc cho thầy,ví dụ xem bói thì vong sẽ điều tra lý lịch và ngồi nói sang tai cho thầy,những thầy kiểu này thì nói chuyện quá khứ rất đúng còn chuyện tương lai thì chỉ 60% thôi,hoặc có thầy ác ôn thì cho vong đi phá làng,phá xóm sau đó thầy sẽ ra tay cứu,có chuyện thầy còn cho âm binh đi nhập vào người nào mà thầy tính sẽ kiếm được ,sau đó vong sẽ phá,rồi thầy cho người đi rỉ tai với người nhà bệnh nhân là đến chỗ thầy A, thầy B.vậy là thầy chỉ việc kiếm tiền thôi.Mấy vụ này SÀI GÒN nhiều lắm à.
Có 1 việc mà mọi người hay bị nhầm đó là khi đến 1 nhà thầy nào đó mà mình cảm thấy là tin tưởng nhờ làm pháp sự khi làm xong thì thấy người nhẹ nhõm,như vậy chưa chắc đã là thầy tốt vì do tâm lý của mình tin tưởng vào thầy nên khi làm xong mình tự có sự an ủi trong lòng nên thấy vậy.
Còn việc mọi người hay kháo nhau là đến thầy này đi ông ý làm pháp sự cho người A,người B, sau 1 thời gian là làm ăn phất lên có tiền tỷ,vậy là lôi nhau đi để nhờ thầy,đây là 1 việc hết sức sai lầm và ấu trĩ,vì mọi người đâu có biết được là con người ai cũng có nghiệp lực,phú quý trời định và cả do bản thân họ phấn đấu,đừng có nghĩ là mời thầy về làm pháp sự xin lộc nọ lộc kia.Trên đời chả có cái gì tự nhiên mà có cả,phúc phận mình kém,mình không chịu tu nhân tích đức,thì thầy có làm cho mấy đạo bùa phép sau đó giàu lên nhanh chóng thì cũng sẽ phải trả giá rất nặng nề sau này.Có bạn nào thấy người nào giàu lên 1 cách đột ngột mà là không bị vấn đề gì không.Không ốm đau,bệnh tật thì cũng con cái hư hỏng,nặng thì còn mất mạng.
-Muốn được giàu có,hạnh phúc thì phải chăm chỉ làm ăn tu nhân tích đức thì cái gì đến ắt sẽ đến còn đừng nên đi đường tắt mời thầy về rồi làm nọ kia,sướng trước mắt sau lại mang họa vào thân.
Tôi thấy có rất nhiều các bạn ở Vn chuyên làm nghề cờ bạc,nhưng lại rất hay đi mời thầy hoặc đi lễ đền chùa,bảo là xin lộc để làm ăn,theo như các bạn Phật,Tiên,ThánhBạn này bán hàng cơm ở gần trường học nhưng lại rất ế khách,theo như mọi người nói là cơm nấu dở.Thấy có 1 thầy ở Sài Gòn bán 1 bức tượng CẬU BÉ VÀNG KUMATHONG đây là 1 bức tượng của thái lan chuyên để cầu tài,bên dưới bức tượng có bùa chú và 1 lọ tro cốt của trẻ con,bạn ấy thỉnh về và cúng nó hàng ngày mang đồ chơi và kẹo cúng nó như 1 đứa trẻ con.Nhưng bù lại hàng ăn cực kì đông khách,đông đến nỗi phải thuê thêm rất nhiều thợ,vậy là giàu lên nhanh chóng,nhưng bù lại thì đứa con nhỏ 5 tuổi thì 1 lần đi vào bếp bị ngã vào nồi canh phỏng nặng mất cả mạng,đứa nhỏ 3 tuổi thì cứ đến đêm lại khóc ré lên,nhiều đêm không ngủ được vì bị chọc phá nên bé bị suy nhược thần kinh giờ cứ ngô nghê,vì cái tượng đó nó có vong trẻ con nên nó không muốn có trẻ con trong nhà nó ghen tị,đến sau này mới biết mới cuống lên đi tìm các nơi để giải.
Đấy là 1 ví dụ về sự giàu có của các thầy làm cho,con người ai cũng có nghiệp quả phước báo,làm trái đi hậu quả sẽ là khôn lường,Mỏi tay quá hôm nào sẽ bàn thêm với các bạn kĩ hơn về vấn đề này vì có lẽ nhiều bạn vẫn chưa hiểu.
daohanh daohanh 2 Chia sẻ Trả lời
Xin chào Maxiaoling đã quay lại diễn đàn. Hiện tại mọi người còn mê tín nhiều lắm. Mình là người con Phật chỉ mong sao cho mọi người hiểu được vấn đề chân thật nghĩa là có nhân có quả. Đừng cầu mong được sung sướng khi mình không cố gắng làm việc, tu nhân tích đức. Những người lười lao động nhưng mong có cuộc sống lo đủ hay đi xem cửa nọ cửa kia. Đặc biệt mấy vụ trình đồng tiễn căn, khiến khổ chủ phải bỏ rất nhiều tiền vào việc mua vàng mã và các thứ linh tinh. Nhưng họ mù quáng quá rồi, tai hại thay. Nếu tiền mua vàng mã trình đồng kia đem đi làm từ thiện cứu giúp bao nhiêu người nghèo khổ thì được phúc báo bao nhiêu.
tthanhiq tthanhiq 2 Chia sẻ Trả lời
Mọi người ở Vn nhất là mấy bà mấy cô rất mê đi trình đồng và căn số,vô cùng tốn tiền,mà theo như Ling biết thì những người đi làm mấy vụ này toàn là mấy người làm ăn không lương thiện là nhiều,Chủ lô đề,cờ bạc,thậm chí cả buôn ma tuý họ nghĩ là bỏ tiền ra để làm như vậy hòng để có thêm chút lộc kiếm ăn mà đâu biết rằng chả THẦN,Thánh nào cho họ lộc đó cả,cờ bạc là lấy của người thua đưa cho kẻ được,vậy muốn làm ăn tốt có lộc thì thần thánh phải lấy tiền của kẻ khác để cho họ như vậy thì thần thánh nào làm việc đó,nếu có chăng thì chỉ có ma quỷ mới làm chuyện đó mà thôi,nếu đã xin lộc của ma quỷ thì sớm muộn cũng gặp hoạ vào thân.
ma_xiao_ling ma_xiao_ling 2 Chia sẻ Trả lời
Hồi đầu năm tôi ở HÀ NỘI tôi có 1 phát hiện là thế này,hiện nay ở Vn có vài nghề rất là thịnh hành đó là CẦM ĐỒ,CHỦ CÁ ĐỘ,LÔ ĐỀ,và cho vay lãi,những người làm nghề này nhiều vô cùng mà lại còn khá giả nữa chứ,họ rất năng đi lễ bái và bỏ ra 1 số tiền khá lớn để cầu xin THÁNH ,THẦN cá biệt lại còn đến chùa để xin PHẬT lộc để làm ăn mới lạ chứ,họ không hiểu là PHẬT không phải là THÁNH THẦN ngài là 1 bậc giác ngộ,ngài chỉ cứu giúp và giúp đỡ cho con người khi họ tu hành để từ bỏ THAM ,SÂN ,SI và muốn thoát khỏi luân hồi sanh tử,để tìm được 1 nơi hạnh phúc hơn,Phật tuy là từ bi cứu độ mọi chúng sinh thoát khỏi mọi đau khổ.chứ ngài không bao giờ ban phát lộc hay tài vật gì cả,Phật đặc biệt chú ý tới nhân quả,có người làm ăn thất bát cũng đến xin phật vì nghĩ phật từ bi thương xót sẽ giúp cho mà không nghĩ là nghiệp quả của mình ngày hôm nay có được là do làm sao,nên là xin mãi cũng chả thấy hiệu nghiệm nên bảo là phật không thiêng bằng thánh thần ma quỷ,có 1 câu chuyện sau có nhà thờ phật to lắm ở nhà mà vẫn bị ma quỷ quấy phá lại quay ra trách phật không giúp họ đâu nghĩ là con ma đó nó chả tự nhiên mà phá họ cả do họ trước đây khi mang thai nó liền đem nó phá bỏ đi cuối cùng do uất ức nên là nó quay lại phá phách đây là nhân quả nghiệp báo phật chả bao giờ can thiệp vào cả,Xin nhớ 1 điều PHẬT cứu độ chúng sinh và giúp chúng sinh tu hành để thoát khỏi luân hồi nghiệp báo chứ không phải độ chúng sinh theo kiểu nghèo khổ thì giúp đỡ cho tài lộc,ốm đau thì giúp cho khoẻ lại,Nên mọi người xem xét kĩ lại,người giàu có là do phước báo của họ và do họ cố gắng làm lụng mà ra chứ phật không bao giờ giúp họ giàu có cả,Chúng ta đến chùa lễ phật là để tìm 1 nơi thanh tịnh và cung kính với Đức PHẬT người đã và đang ngày đêm cứu giúp con người trong biển khổ của LUÂN HỒI,ví dụ tôi tu MẬT TÔNG là hàng ngày tôi tu hành loại bỏ THAM ,SÂN ,SI để giác ngộ,và hàng ngày tôi trì chú nhờ THA LỰC của thần chú PHẬT để giúp tôi tu hành.phật cứu giúp theo khía cạnh như vậy thôi.
Còn 1 thực tế là rất nhiều người hay đi cầu xin những điều có lợi cho mình mà hầu như rất ít khi cầu xin cho CHA,MẸ,ÔNG,BÀ con mau được siêu thoát hoặc thoát cảnh địa ngục a tỳ.
Ở QUỐC TỬ GIÁM có 1 cái miếu thờ QUỶ THẦN nhưng hàng ngày rất đông người đến cầu xin,đặc biệt là cờ bạc,vì họ nói là rất thiêng xin gì được đó,mặc dù chỗ đó chả có miếu gì chỉ là cái bát hương để đó và có tên là MIẾU BÀ HAI CÔ,nghe cứ như thánh thần nào ở đó,cô trông miếu nói cho tôi về sự tích cái miếu nghe vô cùng là hoành tráng nhưng thực tế tôi nhìn ở đó thì chủ yếu là ma quỷ,cô hồn bóng quế rất đông,tụ tập quanh 3 cô gái chứ không phải 2 cô,3 cô này ngồi vắt vẻo trên 1 cái cây ngay đó,nếu đó là thánh thần thì dạng như tôi thì sao mà thấy được chứ,các cô này mặc quần áo rất đài các ,theo như tôi biết các cô là những người thường do 1 lý do nào đó chết vào giờ thiêng,lại còn chết trẻ,chết bất đắc kì tử nên các cô ấy không siêu thoát mà sống bám vào cái cây đó,cộng thêm được mọi người hàng ngày thờ cúng,tưởng nhớ,chia sẻ phước đức của mình nên các cô có được chút tài có thể giúp được mọi người,Các vị nào đã cầu xin ở đó nên biết là cầu xin quỷ thần có cái lợi trước mắt đấy nhưng hoạ về sau là không nhỏ,chả có cái gì là tự nhiên mà có cả,mọi người lấy phước đức của mình để đổi lấy 1 vài điều cầu xin rồi đến khi cạn phước thì sẽ ra sao,3 cô này chả phải DANH NHÂN VĂN HOÁ cũng chả phải người có công với nước tại sao lại cứ thờ cúng và cầu xin họ,mọi người đang gián tiếp làm cho 3 cô ấy lạc đường lạc lối,sau này họ thành quỷ dữ rồi,mình làm gì sai họ sẽ hành hạ mình ,bạn nào cứ xin ở đấy càng nhiều thì sau này càng thấy hậu quả.MAI chia sẻ tiếp bbuồn ngủ quá
uniformshop uniformshop 2 Chia sẻ Trả lời
Hay quá cơ, không đọc được những điều như chi ma xiao ling và daohanh chia sẻ thì phí cả cuộc đời
Up lên cho mọi người cùng đọc
titvit titvit 2 Chia sẻ Trả lời
Bạn ơi! Viết tiếp đi! Bài viết rất hay và có ý nghĩa!
pepond pepond 2 Chia sẻ Trả lời
cam on bài viết rất có ích, nhiều khi con hỏi còn biết trả lời
tayloswift tayloswift 2 Chia sẻ Trả lời
Đánh dấu cái bao h em xây xong nhà sẽ liên hệ với chị Linh.
ngodong9 ngodong9 2 Chia sẻ Trả lời
Mình đánh dấu để đọc tiếp, nghe bạn nói nhiều cái li kì quá
phuonglinhtran phuonglinhtran 2 Chia sẻ Trả lời
Hình như chủ top không còn vào nữa hay sao ý nhỉ. Mình muốn nghe chủ top chia sẻ thêm nhiều nữa.
maruska maruska 2 Chia sẻ Trả lời
Hic đọc một lúc hoa cả mắt ợ
teaxinh teaxinh 2 Chia sẻ Trả lời
hay quá,đúng những cái mình đang cần tìm hiểu.Mà lâu lắm rùi ko thấy chủ top vào nữa nhỉ.Huhu
daohanh daohanh 2 Chia sẻ Trả lời
Lâu rồi không vào diễn đàn, chia sẻ chút vậy.
Chuyện Thần tài quy y Phật,
Cuộc sống thường nhật, ai cũng muốn thờ thần tài để mua may, bán đắt. Tôi có một người bạn, cô ta có một cửa hàng bán đồ văn phòng phẩm, cô cũng đã quy y Phật, nhưng vẫn thờ thần tài. Hàng ngày ở nhà, cô thường tụng kinh, niệm Phật, ăn chay vào một số ngày trai. Ngày rằm và mùng một cô thường mua đồ nhiều, trước cúng Phật sau lại cúng thần tài. Khi thì bánh trưng, khoanh giò, khi thì xôi, thịt, những ngày lễ lớn như rằm tháng giêng, rằm tháng 7 v.v... có cả 1 con gà. Một hôm cô gọi điện cho tôi nói: mình mơ thấy 1 giấc mơ rất lạ, không biết ra sao. Cô kể: hôm trước là mùng một, mình đi chợ mua gà, xôi về cúng thần tài, có cả 1 chai vodca nhỏ r*** nữa. Tối hôm đó về mình nằm mơ thấy có 1 ông râu bạc đến nói với mình:"tôi là thổ địa, thần tài ở cửa hàng chị, hàng ngày hay nghe chị niệm Phật, nghe đĩa giảng kinh của chị, tôi vì kiếp trước mê mờ nên làm thần tài cũng đã lâu rồi mà chưa thoát khỏi, nay mới tỏ ngộ, cũng niệm Phật. Nay xin chị một việc, chừng nào chị còn thuê cửa hàng, ngày tuần chị đừng cúng r*** thịt cho tôi nữa, vì tôi cũng không dùng mấy thứ đó nữa. Chí cứ cúng vậy, vừa tốn tiền mà lại tạo thêm nghiệp. Còn tài lộc cứ theo nhân quả mà hưởng, chị kiếp trước cũng đã gieo nhân lành, nay lại được học Phật, phước dày như vậy chẳng lo tài vật thiếu thốn. Rất mong chị lưu ý cho"
Qua câu chuyện trên để thấy, thờ thần tài cũng tốt, tuy nhiên thần tài nói, việc phát tài, phát lộc cũng theo nhân quả, nghiệp báo của mình chứ không phải chỉ cầu cúng thần mà được.
phuonglinhtran phuonglinhtran 2 Chia sẻ Trả lời
Lâu rồi không vào diễn đàn, chia sẻ chút vậy.
Chuyện Thần tài quy y Phật,
Cuộc sống thường nhật, ai cũng muốn thờ thần tài để mua may, bán đắt. Tôi có một người bạn, cô ta có một cửa hàng bán đồ văn phòng phẩm, cô cũng đã quy y Phật, nhưng vẫn thờ thần tài. Hàng ngày ở nhà, cô thường tụng kinh, niệm Phật, ăn chay vào một số ngày trai. Ngày rằm và mùng một cô thường mua đồ nhiều, trước cúng Phật sau lại cúng thần tài. Khi thì bánh trưng, khoanh giò, khi thì xôi, thịt, những ngày lễ lớn như rằm tháng giêng, rằm tháng 7 v.v... có cả 1 con gà. Một hôm cô gọi điện cho tôi nói: mình mơ thấy 1 giấc mơ rất lạ, không biết ra sao. Cô kể: hôm trước là mùng một, mình đi chợ mua gà, xôi về cúng thần tài, có cả 1 chai vodca nhỏ r*** nữa. Tối hôm đó về mình nằm mơ thấy có 1 ông râu bạc đến nói với mình:"tôi là thổ địa, thần tài ở cửa hàng chị, hàng ngày hay nghe chị niệm Phật, nghe đĩa giảng kinh của chị, tôi vì kiếp trước mê mờ nên làm thần tài cũng đã lâu rồi mà chưa thoát khỏi, nay mới tỏ ngộ, cũng niệm Phật. Nay xin chị một việc, chừng nào chị còn thuê cửa hàng, ngày tuần chị đừng cúng r*** thịt cho tôi nữa, vì tôi cũng không dùng mấy thứ đó nữa. Chí cứ cúng vậy, vừa tốn tiền mà lại tạo thêm nghiệp. Còn tài lộc cứ theo nhân quả mà hưởng, chị kiếp trước cũng đã gieo nhân lành, nay lại được học Phật, phước dày như vậy chẳng lo tài vật thiếu thốn. Rất mong chị lưu ý cho"
Qua câu chuyện trên để thấy, thờ thần tài cũng tốt, tuy nhiên thần tài nói, việc phát tài, phát lộc cũng theo nhân quả, nghiệp báo của mình chứ không phải chỉ cầu cúng thần mà được.
Cảm ơn chia sẻ bổ ích của chị !
https://sotaychame.com/thu-gian-giai...an-130192.html
-
駁杯 : BÁC BÔI
福德正神簽,廿八簽「駁杯」
http://www.360doc.com/content/11/071...33913196.shtml
============
福德正神簽,有廿八簽,每簽用「駁 」擲在地下三次,組成一簽,這樣的 合共廿七簽。三次擲杯之中,如有一 杯或二杯豎起,稱之豎杯,是神靈的 重示警。
「駁杯」,用老竹的根莖部,切 二至五寸長,頭尾細中間粗,對半切 ,竹節越多越好。輕輕擲地有聲,有 清脆的響聲為佳。而傳統的「駁杯」 寸長,隱其五方五土土地長出之意, 多內實喻求簽人之節義分明,心誠意 實,非邪心詐術也。
http://blog.sina.cn/dpool/blog/s/blo...901012cqh.html
================
福德正神廿八籤的擲法
對於有事要問神明,除了到廟宇求問 外,要是自家有供奉福德正神(土地公 )者,亦可在自家「駁杯」問事。問事 時應將主題說清楚,而後「擲杯」問 神明取得允准發問此事之後,就可以 始「駁杯」。
開始正式「駁杯」總共駁三次,並且 下每次的「杯相」。以這三次杯相的 聖、笑、陰」之不同決定籤號。
福德正神簽,有廿八簽,每簽用 駁杯」擲在地下三次,組成一簽,這 的組合共廿七簽。三次擲杯之中,如 有一杯或二杯豎起,稱之豎杯,是神 的嚴重示警。
「駁杯」,用老竹的根莖部,切 二至五寸長,頭尾細中間粗,對半切 ,竹節越多越好。輕輕擲地有聲,有 清脆的響聲為佳。而傳統的「駁杯」 寸長,隱其五方五土土地長出之意, 多內實喻求簽人之節義分明,心誠意 實,非邪心詐術也。
http://wisdomer2002.pixnet.net/blog/category/50992
-
杯每次擲下,二杯的內切面都向上, 「笑杯」或「陽杯」。
杯每次擲下,二杯的內切面都向 ,稱「陰杯」。
杯每次擲下,一杯內切面一杯外 面向上,稱「聖杯」或「勝杯」或「 杯」。
http://wisdomer2002.pixnet.net/blog/category/50992
-
84 Thần đất
Thổ thần, Thành hoàng tôn kính Uy linh; tất cả Thần đất,
Cung thỉnh 5 vua cai quản 5 phương đất đai, Thành hoàng Quốc gia, Trấn phủ, Châu huyện, Bản cảnh; các quan Thần đất Thần núi, Thổ thần Thổ phủ, Thổ địa Thần kỳ và các Gia quyến
https://taaonamtri.wordpress.com/201...an-tieng-viet/
-
-
TỪ LỜI PHẬT DẠY TRONG KINH TRƯỜNG BỘ
NGHĨ VỀ VIỆC CẦU, CÚNG THẦN TÀI.
Chúc Phú
Hết thảy do hành nghiệp, cầu Trời ích lợi gì?[1]
1. Đề dẫn và định danh.
cung-than-taiCầu cúng thần tài là một trong những tín niệm phổ biến của nhiều thể thức tôn giáo ở Ấn Độ, xuất hiện từ thời cổ đại và tồn tại cho đến ngày nay. Đứng trước thực trạng đó, Đức Phật đã mở một lối đi riêng qua lời khẳng định trong kinh Trường Bộ:
Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn, dầu đã dùng các món ăn tín thí cúng dường, vẫn còn tự nuôi sống bằng những tà mạng. Như sắp đặt ngày lành để rước dâu hay rể, lựa ngày giờ tốt để hòa giải, lựa ngày giờ tốt để chia rẽ, lựa ngày giờ tốt để đòi nợ, lựa ngày giờ tốt để mượn hay tiêu tiền, dùng bùa chú để giúp người được may mắn, dùng bùa chú để khiến người bị rủi ro, dùng bùa chú để phá thai, dùng bùa chú làm cóng lưỡi, dùng bùa chú khiến quai hàm không cử động, dùng bùa chú khiến cho người phải bỏ tay xuống, dùng bùa chú khiến cho tai bị điếc, hỏi gương soi, hỏi phù đồng, thiếu nữ, hỏi thiên thần để biết họa phước, thờ mặt trời, thờ đại địa, phun ra lửa, cầu Siri thần tài. Còn Sa-môn Gotama tránh xa các tà mạng kể trên[2].
Trong đoạn kinh trên, vấn đề trọng yếu nằm ở câu cuối. Đó là sự kiện Đức Phật không cho phép cầu Siri thần tài (sirivhāyanaṃ)[3]. Vậy, thực sự vị đó là ai?
Siri thần tài được định danh với nhiều tên gọi như thần May mắn (siridevatā)[4], nữ thần Śrī, nhưng tên gọi phổ biến nhất chính là nữ thần Lakṣmī (लक्ष्मी)[5], vợ của thần Vishnu[6]. Dấu hiệu xưa nhất của vị nữ thần लक्ष्मी (Lakṣmī) có mặt trong Atharvaveda (VII.115.2)[7]. Trong kinh Tiểu Bộ, vị nữ thần này cũng xuất hiện trong ba truyện tiền thân (Jataka) mang số 40, 284, 382.
Trong Hán tạng, vị nữ thần này được phiêm âm hoặc dịch nghĩa trong vô số tên gọi như Lạc-khất-sử-mính (洛乞史茗 = Lakṣmī), Thất-lợi (室唎 = Śrī)[8], Ma-ha-thất-lợi (摩訶室利 = Mahā Śrī), Cát-tường thiên nữ (吉祥天女), Đại cát tường thiên nữ (大吉祥天女), Công đức thiên (功德天)[9]…Tuy đa dạng về tên gọi nhưng thực chất cũng chỉ là tên khác của Siri thần tài, theo ghi nhận trong kinh Trường Bộ.
2. Nguồn gốc và tập tục thờ cúng thần tài ở Ấn Độ.
Trong tín niệm đa thần của Ấn Độ, có nhiều vị nữ thần có công năng ban phúc phát lộc cho những ai phát tâm quy ngưỡng. Trong số đó phải kể đến thiên nữ Thất-lợi (室唎= Śrī), phối ngẫu của Vishnu và thiên nữ Tỳ-ma (毘摩天女= Parvati), phối ngẫu của thần Shiva. Ngoài ra còn có Biện tài thiên nữ (辯才天女 = Sarasvatī) là phối ngẫu của Phạm thiên (Brahma). Cả ba vị nữ thần này thống hợp nhất thể với ba vị thần Brahma, Vishnu và Shiva[10] và đều có chức năng đóng vai trò thần tài cho bất cứ ai phát tâm cầu nguyện và thờ cúng.
Tư liệu khả tín về một trong ba vị thần tài được ngài Huyền Tráng (602-664) xác tín trong tác phẩm Đại đường tây vức ký, quyển hai:
Từ thành Bạt-lỗ-xa đi hơn 50 dặm về phía Đông Bắc thì đến núi cao. Núi này có một tảng đá xanh mang hình dáng phu nhân của vua trời Đại-tự-tại (Shiva), là Tỳ-ma-Thiên nữ (毘摩天女). Nghe phong tục địa phương kể rằng, tượng Tỳ-ma Thiên nữ này do thiên nhiên tác tạo và rất linh thiêng. Dân chúng các nước thuộc Ấn Độ, dù gần hay xa, dù sang hay hèn, thảy đều cùng đến cầu phước, cầu thọ, tuỳ tâm thỉnh nguyện. Bất kỳ ai muốn thấy được hình tượng Thiên nữ thì lòng phải chí thành, tâm phải chuyên nhất, nhịn ăn bảy ngày, nếu thấy được tôn nhan thì sở nguyện sẽ viên thành[11].
Theo huyền thoại và truyền thuyết Ấn Độ, thiên nữ Lakṣmī, cũng còn gọi là Śrī[12], được sinh ra từ sự khuyấy động biển sữa (The churning the milk ocean), trong quá trình tìm kiếm bình nước bất tử (amṛta: अमृत), giữa các vị chư Thiên và chúng A-tu-la (Asura). Lakṣmī là thiên nữ chủ về sắc đẹp, tình yêu và sự thịnh vượng[13].
Trong truyền thống Ấn giáo, việc kính lễ thiên nữ Lakṣmī có thể thực hiện hằng ngày. Tuy nhiên, đại lễ tôn vinh nữ thần Lakṣmī diễn ra trong tết Diwali hay còn gọi là Dīpāvali được diễn ra vào tháng Kartika theo lịch Ấn Độ, hiện còn được sùng phụng cho đến ngày nay[14].
Thần chú về thiên nữ Lakṣmī rất phong phú và đa dạng tùy theo tập tục, vùng miền, tuy nhiên điểm chung nhất là sự tôn kính, kính lễ (namo) thiên nữ Lakṣmī[15].
3. Vài cứ liệu về thiên nữ Lakṣmī của Ấn giáo trong Phật giáo Bắc truyền.
Trong quá trình du nhập và phát triển tại Trung Hoa, các nhà hoằng pháp buổi đầu đã vận dụng chú ngữ làm phương tiện bổ trợ. Một trong những đại diện tiêu biểu cho phương cách giáo hóa đặc thù này chính là ngài Đàm-vô-sấm (385-433).
Theo Cao Tăng Truyện, ngài Đàm-vô-sấm vốn người trung Ấn Độ, mười tuổi đã đọc thông nhiều thể loại thần chú. Ông rành rẽ các loại chú thuật và đạt được nhiều thành tựu trong lãnh vực này. Cụ thể, ông đã gia tâm trì mật chú để mạch nước có thể xuất hiện từ tảng đá khô (枯石生泉). Do thành tựu nhiều thể loại chú thuật nên ở Tây-vức ông được tôn xưng là Đại chú sư (大呪師).
Di sản dịch phẩm kinh điển do Đàm-vô-sấm để lại khá nhiều, trong số chúng có bản kinh Kim-quang-minh, gồm bốn quyển[16]. Với sơ khảo bước đầu cho thấy, bản kinh Kim-quang-minh có nhiều dấu hiệu kỳ đặc, pha tạp nhiều yếu tố ngoài Phật giáo. Vấn đề này, chúng tôi sẽ trình bày trong một khảo cứu khác.
Ở đây, riêng về bài thần chú cầu thần tài, nằm trong phẩm Công đức Thiên (功德天品)[17] trong bản dịch của ngài Đàm-vô-sấm, hoặc hoặc ở phẩm Đại cát tường Thiên nữ tăng trưởng tài vật (大吉祥天女增長財物品) trong bản dịch của ngài Nghĩa Tịnh (635-713)[18].
Bản thần chú của ngài Đàm-vô-sấm thì khuyết, thiếu ở phần đầu, bản của ngài Nghĩa Tịnh đầy đủ hơn nhưng do vừa phiên âm, vừa dịch nghĩa nên ít phổ biến. Tồn bản thần chú cầu thần tài trong kinh Kim Quang Minh theo chúng tôi hiện được sử dụng cho đến ngày nay được trích xuất từ Kim Quang Minh sám pháp bổ trợ nghi (金光明懺法補助儀)[19], được tập thành vào thời Tống Nhân Tông (1010-1063), do ngài Từ Vân sám chủ, húy là Tuân Thức (遵式: 964-1032)[20], bậc cao tăng thời Bắc Tống (960-1127).
Nguyên văn bài thần chú cầu thần tài trong bản dịch của ngài Đàm-vô-sấm cũng như của Nghĩa Tịnh không có phần đảnh lễ Tam Bảo (南無佛陀南無達摩南無僧伽). Riêng bản tập thành của ngài Tuân Thức thì gia thêm phần này. Toàn văn bài chú ấy như sau:
南無佛陀南無達摩南無僧伽南無室利 訶提鼻耶怛儞也他波利富樓那遮利 三曼陀達舍尼摩訶毘訶羅伽帝三曼陀 尼伽帝摩訶迦利野波禰波羅波禰薩利 栗他三曼陀修鉢梨帝富隸那阿夜那達 摩帝摩訶毘鼓畢帝摩訶彌勒帝婁簸僧 帝 醯帝簁僧祇醯帝三曼陀阿咃阿㝹婆羅 [21].
Phiên âm:
Nam mô Phật đà nam mô Đạt ma nam mô Tăng già nam mô thất lợi ma ha đề tị da đát nễ dã tha ba lợi phú lâu na già lợi tam mạn đà đạt xá ni ma ha tì ha la già đế tam mạn đà tì ni già đế ma ha ca lợi dã ba nễ ba la ba nễ tát lợi phạ lật tha tam mạn đà tu bát lê đế phú lệ na a dạ na đạt ma đế ma ha tì cổ tất đế ma ha di lặc đế lâu bá tăng kì đế ê đế si tăng kì ê đế tam mạn đà a tha a nâu bà la ni.
Bài thần chú này về sau được thâu nạp vào trong Chư kinh nhật tụng tập yếu, quyển Hạ[22], và từng bước đi vào thời khóa tụng kinh buổi sớm (晨朝課誦) của nhiều chùa, viện Phật giáo Bắc truyền, trong đó có cả Phật giáo Việt Nam, với tên gọi là bài chú Thiện thiên nữ (善天女咒).
Có thể nói, do đặc thù của Phạn ngữ là đa âm còn ngôn ngữ Trung Hoa là đơn âm, nên khi phiên dịch những bài thần chú từ Phạn sang Hán thì đã có nhiều khác biệt, tùy theo quy ước của các nhà phiên kinh. Riêng về bài chú Thiện thiên nữ, ngay câu đầu tiên là lời kính lễ thiên nữ Đại cát tường. Nói cách khác, đó vốn là bài chú liên quan đến thần tài Lakṣmī của Ấn giáo.
Theo tác phẩm Cổ Phạn văn Phật giáo chú ngữ toàn tập, tác giả Giản Phong Kỳ (簡豐祺) đã nỗ lực khôi phục Phạn ngữ bài chú này. Nguyên tác như sau:
namo buddhāya, namo dharmāya, namo saṃghāya. namo śri-mahā-devīya, tadyathā: oṃ paripūruṇa carye samanta darśanī mahā vihāra gate, samanta vidhānagate, mahā kārya pratiṣṭhāpane, sarvārtha samanta suparipūruṇe, āyāna dharmate mahā vikurvite, mahāmaitrī upasaṃhite, hite susaṃgṛhīte, samanta artha anupālane svāhā[23].
Nếu trừ đi câu đảnh lễ Tam Bảo đầu tiên được thêm vào, so với hai bản dịch của ngài Đàm-vô-sấm và của ngài Nghĩa Tịnh, thì câu: 南無室利摩訶提鼻 nguyên tác Phạn ngữ chính là namo śri-mahā-devīya. Nghĩa là, Kính lạy đại thiên nữ Śri.
Cũng câu thần chú này, nhưng có vài thay đổi chi tiết trong Nghi quỹ Hồng Ca Đà Dã (吽迦陀野儀軌)[24], do ngài Kim Cang Trí (671?-741)[25] trước thuật, đó chính là:
唵麼賀室唎提婆毘娑婆賀
(Án, ma hạ thất lợi đề bà tì sa bà hạ)
Căn cứ vào dòng ghi chú phía trên câu thần chú này, ở Nghi quỹ Hồng Ca Đà Dã, đã cho thấy đây là câu chú triệu thỉnh thiên nữ Cát tường (吉祥天女). Vị nữ thần có thể ban cho chúng sanh nhiều thứ như: bệnh tật thì sẽ được chóng lành, đói khát thì được no đủ, nghèo khổ thì có y vật, của báu…. Đặc biệt, trong phần quán tưởng khi niệm thần chú, phải tưởng đến hình ảnh lưu xuất từ biển sữa (乳海), giống như nguồn cội của thiên nữ Lakṣmī trong thần thoại của Ấn giáo.
Cùng mang nội dung liên quan đến thiên nữ Cát tường, bản kinh Phật thuyết Đại cát tường thiên nữ thập nhị danh hiệu (佛說大吉祥天女十二名號經)[26] do ngài Bất Không (705-774) phiên dịch. Bản kinh đã quảng diễn mười hai tên gọi khác nhau của vị thiên nữ này và những khả năng tương ứng với từng tên gọi. Đặc biệt, trong bài thần chú cũng chuyển tải một cách phiên âm mới của thiên nữ Lakṣmī là Lạc-khất-sử-mính (洛乞史茗).
4. Hiệu năng của chú ngữ và tham chiếu với lời Phật dạy.
Có nhiều bằng chứng cho thấy, nếu lòng thành khấn nguyện và trì tụng bài chú cầu thần Cát tường hoặc nữ thần Lakṣmī đúng pháp, tất sẽ tạo nên nhiều lợi lạc tức thời. Thực tế năng lực gia trì thần chú của ngài Đàm-vô-sấm ghi nhận trong Cao Tăng Truyện được gói gọn trong bốn chữ Sở hướng giai nghiệm (所向皆驗), đã phần nào chứng tỏ hiệu năng của thần chú nói chung và chú thần tài nói riêng.
Không những thế, trong kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương đã ghi nhận lời phát nguyện mang tính bảo chứng của thiên nữ Đại Cát Tường, rằng:
Bạch Thế Tôn! Nếu có người trì tụng thần chú này đúng như vậy để triệu thỉnh con, con nghe được lời cầu thỉnh, tức sẽ đến bên và khiến cho sở nguyện kẻ kia thành tựu[27].
Dẫu rằng cần phải khảo cứu lại tính thuần túy Phật giáo của bản kinh này, nhưng qua đó đã cho thấy nếu như trì tụng thần chú thần tài, cầu thỉnh thiên nữ Đại Cát Tường, tất sẽ có nhiều điều hoạch đắc.
Theo Phật tổ lịch đại thông tải, quyển 18, vào niên hiệu Thiên Thánh năm thứ tư (1026), triều Tống Nhân Tông, lúc ấy trời đại hạn, ngài Tuân Thức (遵式) cùng các vị Sa-môn dùng kinh Kim Quang Minh để cầu đảo thì mưa gió liền gội nhuần. Nhân đó, ngài Tuân Thức đã trước thuật Kim Quang Minh Sám Pháp bổ trợ nghi (金光明懺法補助儀)[28].
Từ thực tế kinh nghiệm của các bậc cổ đức trong chốn tùng lâm, mỗi khi cần tu bổ thiền lâm, hoặc lúc bị khuyết thiếu các vật dụng cần dùng thì các ngài tổ chức trì tụng chú Thiện thiên nữ. Người viết chưa thống kê đầy đủ về vấn đề này nên chưa rõ hiệu năng thực tế, nhưng được biết rằng, vào mỗi sớm mai, chú Thiện thiên nữ vẫn được trì tụng trong phần lớn các chùa, viện Phật giáo Bắc truyền.
Một điều cần phải thấy rằng, từ thực tế lịch sử đã chứng tỏ, những lợi lạc do thần chú, cụ thể ở đây là chú thần tài đưa đến là nhất thời và không có giá trị vững chãi, nếu không nói là chứa đựng nhiều nỗi sợ hãi, bất an. Câu chuyện về mối tương quan thầy trò giữa Thư-cừ-mông-tốn và ngài Đàm-vô-sấm được ghi nhận ở Cao Tăng truyện là một ví dụ cụ thể[29].
Vốn có cơ tâm, nên khi biết được khả năng chú thuật của Đàm-vô-sấm, Hà Tây Vương Thư-cừ-mông-tốn (河西王沮渠蒙遜: 368-433) đã triệu kiến ngài và tiếp đãi trọng hậu nhằm chủ ý phò trợ cho đế nghiệp của mình. Khi vương vị lung lay, ông cho rằng thờ Phật không thiêng (事佛無應) nên đã bức ép các vị Sa-môn dưới năm mươi tuổi hoàn tục. Không những vậy, khi hay tin Ngụy-lỗ-thác-bạt-đảo (魏虜託跋燾: 408-452) cầu thỉnh Đàm-vô-sấm vì khả năng chú thuật của ngài thì Thư-cừ-mông-tốn không vui. Thậm chí, ông còn tỏ ra buồn bực vì Đàm-vô-sấm nhiều lần xin phép đi Tây-vức tìm lại phần sau của kinh Niết-bàn. Lo sợ quân cơ bị tiết lộ, ưu tư về khả năng chú thuật của Đàm-vô-sấm có thể tạo thuận lợi cho kẻ thù, nên Thư-cừ-mông-tốn đã âm thầm sai thích khách giết hại ngài trên đường đi, vào niên hiệu Nghĩa Hòa (義和) năm thứ ba (433), khi đó ngài Đàm-vô-sấm mới được 49 tuổi.
Trước khi đại nạn xảy ra, ngài Đàm-vô-sấm đã cơ cảm về cái chết của mình, thế nên vào ngày khởi hành, ngài đã rơi lệ mà bảo chúng rằng: Nghiệp cũ của Sấm sắp đến. Chư vị Thánh hiền cũng không thế cứu vậy.[30]
Với một bậc thầy về chú thuật, được tôn xưng là bậc Đại chú sư (大呪師), thế nhưng vẫn không thể vượt qua được nghiệp cũ của mình, thế mới hay việc vận dụng nhuần nhuyễn các thể loại thần chú, mà ở đây là chú thần tài không thể vượt qua nghiệp quả, quả đúng như sự ghi nhận trong Tỳ-nại-da:
Mạng người khi nghiệp tận,
Chú thuật hoặc y phương,
Đều không thể cứu được,
Thần tiên hoặc thánh hiền,
Đành xuôi tay, buông bỏ.[31]
Tương tự, câu chuyện được ghi lại trong kinh Tạp Bảo Tạng là một minh họa sống động về việc cầu khẩn thần tài, lược truyện như sau.
Có hai anh em nghèo khó nhưng tính cách khác nhau. Người em thì siêng năng làm lụng để được giàu có, còn người anh vì muốn nhanh giàu có nên không chịu làm gì mà chỉ cầu vị trời Tỳ-ma, chủ về thần tài.
Một thời gian sau, vị trời Tỳ-ma liền hóa hiện thành người em đến thăm anh. Người anh liền cáu gắt, nói: sao em không lo trồng tỉa mà đến đây làm gì. Người em đáp, tôi muốn học theo anh, trai giới cầu nguyện, mong mau được giàu to.
Người anh bảo: Không cày bừa gieo giống, siêng năng làm lụng thì làm sao mà giàu to được?
Ngay đó, người em liền bảo: Có phải nhờ trồng tỉa mới giàu có được sao? Nghe vậy người anh yên lặng, không nói được gì. Lúc ấy, vị trời Tỳ-ma liền hiện nguyên hình và dạy:
Ngươi phải biết, ngày nay ngươi phải tu hành, bố thí thì ngày sau mới hưởng được phúc quả giàu sang. Bởi nhiều kiếp ngươi không tu bố thí nên cứ mãi bần cùng. Dù ngày nay người siêng năng cầu khẩn ta để mong nhanh chóng giàu sang nhưng làm sao mà thành tựu được. Cũng như cây xoài vào mùa Đông, dù cầu khẩn cả ngàn vạn thiên thần cũng không thể đơm hoa, kết trái. Không tu nhân mà chỉ lo cầu ta để được giàu có là điều không không thể xảy ra vậy[32].
Sau khi dạy bảo xong, vị trời Tỳ-ma liền nói một bài kệ ngắn, với hai câu kết:
Hết thảy do hành nghiệp,
Cầu Trời ích lợi gì?[33]
Một trường hợp khác liên quan đến việc phụng thờ vị trời chủ về tài vật, hạy còn gọi là Cát tường thiên của Đề-bà-đạt-đa,được mô tả sống động qua câu kinh:
Chống nghịch Phật Thế Tôn,
Phụng thờ trời Cát-tường,
Sẽ đọa ngục Vô gián,
Bức vây khổ tai ương.[34]
Không những vậy, trong kinh Ban chu Tam muội, một vị cư sĩ thọ trì năm giới thì không được lễ bái miếu thờ các vị Trời. Bài kệ sau đã cho thấy điều đó:
Ưu-bà-di muốn học thiền Tam-muội.
Hãy giữ gìn năm giới chớ hư hao
Kính thờ thầy như Phật hằng chỉ bảo.
Không bái lạy miếu Trời hoặc cúng thần.[35]
Bản kinh này xuất hiện khá sớm ở thời Hậu Hán do ngài Chi-lâu-ca-sấm dịch và được lưu hành khá rộng rãi ở thế kỷ thứ II. Chính vì vậy, bản kinh là một trong những luận cứ quan trọng trong một tờ nghị trạng của Trường Sử Vương Huyền Sách (長史王玄策), nhằm phản kháng vương quyền bắt Tăng, Ni lễ bái vương quan:
Hàng Ưu-bà-tắc giữ năm giới đã không được lạy Trời, huống hồ Tăng, Ni thọ cụ túc giới mà phải lễ bái hàng bạch y[36].
Trong kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức do ngài Huyền Tráng dịch, trong những điều kiện căn bản để không thọ ba đường ác, đó là tùy theo khả năng của mình mà tuân giữ giới pháp, và đặc biệt là không được thờ Trời. Kinh ghi: cho đến trọn cả cuộc đời không thờ vị Trời nào khác, mà chỉ nhất tâm quy y Phật, Pháp, Tăng (乃至盡形不事餘天,惟當一心歸佛,法, )[37].
Từ những cứ liệu minh giải ở trên đã cho thấy, chú thuật nói chung và chú thần tài nói riêng vẫn tạo nên những hiệu năng nhất định nhưng không có giá trị vững bền, vì chưa thống hợp với lời Phật dạy. Không những vậy, việc kính lễ thiên thần là điều không đúng phép, ngay cả một vị Ưu-bà-di, huống chi là một bậc xuất gia với chí xuất trần vi thượng sĩ.
5. Nhận định.
Phật giáo xuất hiện giữa một rừng tín niệm đa thần, vốn đã bắt rễ sâu xa trong mọi giai tầng của xã hội Ấn Độ ở thời kỳ cổ đại. Việc khẳng định một lối đi riêng không cầu khẩn, tế tự trời thần, là một tia sáng vạch thời đại của chính Đức Phật Thích Ca.
Xem ra, cùng tương sinh và tồn tại trong mối giao thoa giữa các tôn giáo cùng thời; đặc biệt là khi giáo đoàn chấp nhận nhiều thành phần xã hội được tham dự vào đời sống Tăng-già, là điều kiện thuận lợi để nảy sinh các tập tính tế tự xưa cũ, cụ thể là vận dụng chú thuật của Ấn giáo, kể cả việc thờ Trời.
Ngay trong thời Phật, việc vận dụng chú ngữ của Ấn giáo ngoài mục tiêu hoằng đạo thỉnh thoảng đã xảy ra và Đức Phật đã có những khuyến nghị, cấm chỉ. Những cổ tục này ngày càng xuất hiện nhiều hơn sau khi Đức Phật diệt độ và trong sinh hoạt Thiền gia ở những vùng đất mới, đặc biệt là kể từ khi có sự trỗi dậy và âm thầm tác động của xu hướng tân Vệ-đà.
Từ lời dạy cô động của Đức Phật trong kinh Trường Bộ ở tạng Nikāya, từ những bằng chứng tương đồng về lời dạy đó trong kinh văn Hán tạng, đã xác quyết rằng, việc cầu khẩn thần tài Siri và các danh xưng tương ứng như Cát tường thiên, Thiện thiên nữ cùng các bài chú ngữ… đều không đúng với giáo nghĩa thuần túy của Phật giáo.
Nói cách khác, trì tụng chú thần tài là không thuận hợp với Phật đạo, nếu không nói là gián tiếp hành pháp Bà-la-môn[38].
[1]大正藏第 04 冊 No. 0203 雜寶藏經,卷第九, 求毘摩天望得大富緣. Nguyên văn: 一切由行得,求天何所為
[2] Kinh Trường Bộ, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr.23. Xem thêm, kinh Sa-môn quả, tr.75
[3] Xem tại: http://www.tipitaka.org/romn/
[4] Milindapañhapāḷi. Xem tại: http://www.tipitaka.org/romn/
[5] M.Monier-Williams, A Sanskrit English Dictionary. Springfield,VA: Nataraj Books, 2014, p.892
[6]George M. Williams. Handbook of Hindu Mythology. Santa Barbara, California: ABC-CLIO, Inc. 2003. p.196-198.
[7] The Atharva-Veda (Sanskrit text), Devi Chand M.A Trans. New Delhy: Munshiram Manoharlal Publishers Pvt. Ltd, Reprinted 2014, p. 333.
[8]大正藏第 54 冊 No. 2135 梵語雜名
[9]大正藏第 04 冊 No. 0201 大莊嚴論經, 卷第四
[10] Donald Alexander Mackenzie. Indian Myth and Legend. London: The Gresham Publishing Company. 1913, p. 150-151.
[11]大正藏第 51 冊 No. 2087 大唐西域記, 卷第二. Nguyên văn: 跋虜沙城東北五十餘里,至崇山.山有青 石大自在天婦像, 毘摩天女也.聞諸土俗曰: 此天像者,自然有也.靈異既多,祈禱亦 ,印度諸國,求福請願,貴賤畢萃,遠近咸 會.其有願見天神形者,至誠無貳,絕食 日,或有得見,求願多遂
[12] George M. Williams. Handbook of Hindu Mythology. Santa Barbara, California: ABC-CLIO, Inc. 2003. p.21.
[13]Donald Alexander Mackenzie. Indian Myth and Legend. London: The Gresham Publishing Company. 1913, p. 144, 149. See also, Mahābhārata. Krishna-Dwaipayana Vyasa trans. vol 1. 65-67
[14] Encyclopedia of Hinduism. Constance A. Jones and James D. Ryan. New York: Facts On File, Inc. 2007.p.135-136.
[15]Lakshmi Puja. Kanai L. Mukherjee ed. Nashville: Association of Grandparents of Indian Immigrants. 2012.p.92. Cf: Om Lakshmi devi khamasya.
[16]大正藏第 16 冊 No. 0663 金光明經.
[17]大正藏第 16 冊 No. 0663 金光明經. Nguyên văn bài chú thần tài (Công đức Thiên) như sau: 波利富樓那遮利三曼陀達舍尼羅佉摩 毘呵羅伽帝三曼陀毘陀那伽帝摩訶迦 波帝波婆禰薩婆哆㖃三曼陀脩鉢梨富 隷阿夜那達摩帝摩訶毘鼓畢帝摩訶彌 簸僧祇帝醯帝簁三博祇悕帝三曼陀阿 阿㝹婆羅尼.
[18]大正藏第 16 冊 No. 0665 金光明最勝王經, 卷第八. Nguyên văn bài thần chú tăng trưởng tài vật của thiên nữ Đại cát tường: 南謨室唎莫訶天女怛姪他鉢唎脯𠷈拏 囇三曼䫂達喇設泥 (去聲,下皆同爾)莫訶毘訶囉揭諦 三曼哆毘曇末泥莫訶迦哩也鉢喇底瑟 鉢泥薩婆頞他娑彈泥蘇鉢喇底晡囇㢌 娜達摩多莫訶毘俱比諦莫訶迷咄嚕鄔 波僧呬羝莫訶頡唎使蘇僧近(入聲)哩呬 羝三曼多頞他阿奴波喇泥莎訶.
[19]大正藏第 46 冊 No. 1945 金光明懺法補助儀.
[20]大正藏第 49 冊 No. 2035 佛祖統紀, 卷第十. Xem thêm, 大正藏第 49 冊 No. 2036 佛祖歷代通載, 卷第十八
[21]大正藏第 46 冊 No. 1945 金光明懺法補助儀, 第四召請誦呪方法(次當胡跪手執香爐 眾名香.一心召請三寶及功德天等.起 重心涕淚悲泣.一一想至道場.其辭出 助儀.應檢閱.口作是言)
[22]嘉興藏第 19 冊 No. B044 諸經日誦集要, 卷下
[23]簡豐祺. 古梵文佛教咒语全集 (修正版). 佛陀教育差会會, 印贈. 2007. p.250.
[24] 大正藏第 21 冊 No. 1251 吽迦陀野儀軌
[25]大正新脩大藏經第 50 冊 No. 2061 宋高僧傳卷第一
[26] 大正藏第 21 冊 No. 1252a 佛說大吉祥天女十二名號經
[27]大正藏第 16 冊 No. 0665 金光明最勝王經, 卷第八. Nguyên văn: 世尊!若人誦持如是神呪請召我時,我聞 請已,即至其所,令願得遂
[28]大正藏第 49 冊 No. 2036 佛祖歷代通載, 卷第十八
[29]大正藏第 50 冊 No. 2059 高僧傳, 卷第二.
[30]大正藏第 50 冊 No. 2059 高僧傳, 卷第二. Nguyên văn: 臨發之日.讖乃流涕告眾曰.讖業對將至 .眾聖不能救矣
[31]大正藏第 23 冊 No. 1442 根本說一切有部毘奈耶, 卷第四十五. Nguyên văn: 人命將盡時,呪藥不能救;神仙及諸聖, 能違拒者. Xem thêm, 大正藏第 12 冊 No. 0338 佛說離垢施女經. Nguyên văn: 若墮惡趣,生死之難,雖有父母,不能救 ,亦無餘人,及財神呪,獨斯等類,乃能救 脫.
[32]大正藏第 04 冊 No. 0203 雜寶藏經, 卷第九, 求毘摩天望得大富緣
[33]大正藏第 04 冊 No. 0203 雜寶藏經,卷第九, 求毘摩天望得大富緣. Nguyên văn: 一切由行得,求天何所為
[34]大正藏第 04 冊 No. 0193 佛本行經, 卷第六. Nguyên văn: 拒逆佛世尊,為祀吉祥天;若入無擇獄, 連曳吾等.
[35]大正藏第 13 冊 No. 0417 般舟三昧經. Nguyên văn: 優婆夷欲學三昧,奉持五戒勿缺毀,承事 善師視如佛,不得拜天祠祀神
[36]大正藏第 52 冊 No. 2108 集沙門不應拜俗等事,卷第四, 右驍衛長史王玄策騎曹蕭灌等議狀一 . Nguyên văn: 五戒優婆塞尚不得禮天.況具戒僧尼而 拜俗
[37]大正藏第 14 冊 No. 0450 藥師琉璃光如來本願功德經
[38] 大正藏第 23 冊 No. 1442 根本說一切有部毘奈耶, 卷第三十一. Nguyên văn: 諸外道輩於晨朝時禮諸天廟
https://thuvienhoasen.org/a29421/tu-...cung-than-tai-
-
Miếu Tân Kỳ và Miếu Ông Bổn phường 14, quận Tân Bình di tích kiến trúc nghệ thuật cấp thành phố.
Sáng ngày 01/3/2010, trong không khí cả nước thi đua lập thành tích chào mừng đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, kỷ niệm 35 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân quận Tân Bình vui mừng đón nhận Quyết định của Ủy ban nhân dân thành phố về việc công nhận di tích Miếu Tân Kỳ và Miếu Ông Bổn được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp thành phố.
Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp thành phố Miếu Tân Kỳ và Miếu Ông Bổn tọa lạc tại địa chỉ 481/13 (số cũ là 1A/13) Trường Chinh, phường 14, quận Tân Bình.
Căn cứ những tư liệu còn lưu giữ tại Miếu Tân Kỳ và Miếu Ông Bổn có ghi lại khoảng năm Kỷ Tỵ (tức năm 1869) là năm miếu được tu bổ lớn. Như vậy, tính đến nay (năm 2010), miếu đã có niên đại hơn 140 năm.
Miếu Tân Kỳ là ngôi miếu được xây dựng có ít nhất từ năm 1869 tại ấp Tân Kỳ của làng Tân Sơn Nhì thờ Thần Thành Hoàng Bổn Cảnh. Cùng với Miếu Tân Kỳ còn có Miếu Ngũ Hành, trang thờ Tiên Sư.
Năm 1949 khi thực dân Pháp mở rộng sân bay, một bộ phận lớn cư dân ở ấp Yên Sơn làng Tân Sơn Nhì di dời về ấp Tân Kỳ. Do đó, Miếu Ông Bổn của ấp Yên Sơn cũng được dời về khuôn viên Miếu Tân Kỳ của ấp Tân Kỳ, làng Tân Sơn Nhì. Đây là cơ sở để giải thích tại sao một địa điểm có 02 miếu thờ thần.
Miếu Tân Kỳ và Miếu Ông Bổn mang phong cách kiến trúc truyền thống tiêu biểu của đình, miếu Nam Bộ với đặc trưng kết cấu cột tứ trụ, khung gỗ, mái ngói âm dương, tường gạch và là công trình kiến trúc gỗ truyền thống hiếm có thuộc lĩnh vực tín ngưỡng dân gian còn lại trên địa bàn Tân Bình. Miếu Tân Kỳ và Miếu Ông Bổn còn lưu giữ những nội dung văn hóa phi vật thể phong phú, các di vật, cổ vật được chạm trổ công phu, tinh tế, có giá trị thẩm mỹ cao.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Miếu Tân Kỳ và Miếu Ông Bổn từng là cơ sở cách mạng, là địa điểm hội họp, tập hợp lực lượng cách mạng.
Ngôi miếu được hình thành từ nhu cầu phục vụ đời sống tâm linh của nhân dân trong vùng, cầu mong quốc thái dân an, tưởng nhớ các bậc tiền hiền có công mở đất lập thôn làng, vun bồi cho thôn làng phát triển. Ngày nay, nhân dân Tân Bình vẫn còn duy trì nét sinh hoạt văn hóa truyền thống với các lễ chính là Lễ cúng Ông Bổn vào ngày 02/02 Âm lịch, lễ cúng Ngũ hành ngày 18/3 Âm lịch, cúng Thần Thành Hoàng Bổn Cảnh, Tiền hiền, Hậu hiền, Tiên sư vào ngày 16/8 Âm lịch được tổ chức trang nghiêm, lành mạnh, góp phần củng cố khối đại đoàn kết, tình tương thân tương ái trong cộng đồng cũng như gắn với xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. Bên cạnh đó, miếu còn mang đậm những dấu ấn có giá trị về lịch sử văn hóa trong quá trình hình thành và phát triển thành phố.
Bà Nguyễn Thị Hương - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân và ông Dương Tấn Thanh -
Trưởng Ban Tuyên giáo Quận ủy Tân Bình tặng hoa chúc mừng Ban Trị sự Miếu
tại lễ đón nhận Bằng xếp hạng di tích cấp thành phố.
Di tích Miếu Tân Kỳ và Miếu Ông Bổn có được vinh dự như ngày hôm nay là do những nỗ lực đã đóng góp đáng ghi nhận của nhân dân Tân Sơn Nhì năm xưa, nay là nhân dân quận Tân Bình. Cùng với người dân, các mạnh thường quân và Ban Trị sự Miếu đã ủng hộ về tinh thần cũng như vật chất trong việc tôn tạo miếu với tổng số tiền hơn 600 triệu đồng. Đây là di tích xã hội hóa đầu tiên trên địa bàn quận Tân Bình thực hiện có hiệu quả và xứng đáng đón nhận danh hiệu di tích lịch sử văn hóa - nghệ thuật cấp thành phố.
(Nguồn: hồ sơ xếp hạng di tích Miếu Tân Kỳ và Miếu Ông Bổn)
(CTV. Lê Thị Phương - P.VHTT/QTB, 02/03/2010)
Số lượt người xem: 897Bản in Quay lại
Xem theo ngày:
Xem
http://tanbinh.hochiminhcity.gov.vn/...TTDTT/83-1.jpg
http://tanbinh.hochiminhcity.gov.vn/...TTDTT/83-2.jpg
http://tanbinh.hochiminhcity.gov.vn/...st.aspx?ID=320
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...%85%AC-)/page7
-
https://www.youtube.com/watch?v=5AyixRU-3rI
福德正神降告經 (粵語) The Great Spirits of The Earth god Sutra (Cantonese)
-
Đôi câu đối này dung cho miếu thờ thổ công
Hay cây hương ngoài trời
******/
敬神在合遷心如
Kính thần tại hợp thiên tâm như
土地景神來應降
Thổ địa cảnh thần lai ứng dáng
https://upanh1.com/images/18485752_2...36831921_n.jpg
https://www.facebook.com/duythang569...138178297552:0
-
[PDF]tín ngưỡng thờ thần ở đình làng đồng tháp - Tạp chí khoa học Trường ...
https://sj.ctu.edu.vn/.../02-XHNV-DO...%20HA%20THO(12...
Translate this page
by ĐTH Thơ
thiệu về cơ bản tập hợp thần linh được thờ tự ở đình, làm cơ sở phát huy văn hóa địa phương trong ..... vi quản lý của thần Thổ địa nhỏ hẹp hơn so với vị. Chúa Xứ và cấp bậc càng ..... 本境本處土地福德正神,暨今年所值 譴行. 兵曹判官之神。
=========
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 54, Số 4C (2018): 126-136
126
DOI:10.22144/ctu.jvn.2018.078
TÍN NGƯỠNG THỜ THẦN Ở ĐÌNH LÀNG ĐỒNG THÁP
Đỗ Thị Hà Thơ*
Khoa Sư phạm Ngữ văn, Trường Đại học Đồng Tháp
*Người chịu trách nhiệm về bài viết: Đỗ Thị Hà Thơ (email: dothihatho@gmail.com)
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 17/10/2017
Ngày nhận bài sửa: 28/12/2017
Ngày duyệt đăng: 20/06/2018
Title:
Godlike worshiping beliefs in
Dong Thap village’s
communal houses
Từ khóa:
Đình làng Đồng Tháp, thờ
thần ở đình Đồng Tháp, tín
ngưỡng thờ thần, tín ngưỡng
thờ thần ở đình làng, tín
ngưỡng thờ thần ở Đồng Tháp
Keywords:
Dong Thap village’s
communal houses, godlike
worshiping beliefs, godlike
worshiping beliefs in Dong
Thap, godlike worshiping
beliefs in the village communal
houses, worship in Dong Thap
village’s communal houses
ABSTRACT
Dong Thap village’s communal houses retain the traces of worshiping
beliefs of the local people in the past. The ranks of the gods were
conferred and protected according to the secular style. Accordingly other
gods - results from the needs of the localization of Vietnam people, the
cultural exchange with the Chinese, the Campanagara, the Chenla - all
gathered at the village communal houses to shetter and enjoy of ferings
together with the main god - the Deity. After making a survey, this article
presents basic introduction of gods being worshiped in the village
communal houses, providing basis for the promotion of the local
culture in planning, embellishing written evidence of the village
communal houses in the morden time.
TÓM TẮT
Đình làng Đồng Tháp hiện vẫn còn lưu giữ dấu vết tín ngưỡng thờ tự
một thời của cư dân địa phương. Vị trí cấp bậc của thần được “bảo vệ”
và “thiết đặt” chính bằng sự phong cấp của thế tục. Theo đó, các vị thần
khác – kết quả từ nhu cầu địa phương hoá phúc thần của người Việt, sự
giao thoa văn hoá với người Trung Quốc, người Chiêm Thành, người
Chân Lạp – đều quy tụ về đình để trú ngụ và hưởng tế lễ bên cạnh vị
thần chủ soái: Thần Thành Hoàng. Qua khảo sát thực tế, bài viết xin giới
thiệu về cơ bản tập hợp thần linh được thờ tự ở đình, làm cơ sở phát huy
văn hóa địa phương trong việc hoạch định và tôn tạo tự tích đình thời
hiện đại.
Trích dẫn: Đỗ Thị Hà Thơ, 2018. Tín ngưỡng thờ thần ở đình làng Đồng Tháp. Tạp chí Khoa học Trường
Đại học Cần Thơ. 54(4C): 126-136.
1 VÀI NÉT VỀ ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH ĐỒNG THÁP
Đình ở Đồng Tháp đa phần được xây dựng vào
thế kỷ XIX để đảm bảo và phục vụ nhu cầu tín
ngưỡng cho dân địa phương. Qua điền dã 11 đơn vị
hành chính cấp huyện của tỉnh Đồng Tháp, có thể
thống kê được 84 ngôi đình.
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 54, Số 4C (2018): 126-136
127
Bảng 1: Số lượng đình và đối tượng được ban sắc phong hiện còn ở đình trên địa bàn tỉnh Đồng Thápi
Tp/huyện Số đình Số lượng sắc phong Đối tượng ban tặng
Tp. Cao Lãnh 6 15 - Thành Hoàng
- Đại Càn
Tp. Sa Đéc 6 13
- Thành Hoàng
- Đại Càn
- Nhân Hòa hầu Tống Phước Hòaii
- Khâm sai Chưởng cơ Nguyễn Văn Thốngiii
Huyện Cao Lãnh 14 42
- Thành Hoàng
- Thân phụ, thân mẫu của Công Bộ Tả Tham tri
Bùi Đức Minhiv
Huyện Châu
Thành 13 14 - Thành Hoàng
- Đại Càn
Huyện Lai Vung 12 12 - Thành Hoàng
Huyện Lấp Vò 12 12 - Thành Hoàng
Huyện Tam Nông 5 2 - Thành Hoàng
- Đại Càn
Huyện Thanh Bình 5 9 - Thành Hoàng
- Đại Càn
Huyện Hồng Ngự 6 6 - Thành Hoàng
Huyện Tân Hồng 2 2
Huyện Tháp Mười 3 0
Đình ở Đồng Tháp ngày trước chủ yếu được
xây cất ven các con sông, đường giao thông chính
của địa phương bấy giờ. Từ thực tế khảo sát, một
số đình hiện nay tọa lạc ở chỗ rất hẻo lánh, đường
đi ngoằn ngoèo, một số đình nằm ngay trục lộ
chính do sông được bồi đắp. Nhiều ngôi đình có
sắc phong được ban vào năm Thiệu Trị thứ 5
(1845), với số lượng mỹ tự ban cho thần Thành
Hoàng là 保安正直之神 Bảo an Chính trực chi
thần, khẳng định nhiều đình ở Đồng Tháp có niên
đại gần 200 năm. Từ dữ liệu này có thể tạm đi đến
kết luận những thôn làng này được khai phá từ khá
sớm. Bảng thống kê trên cho thấy mật độ phân bố
đình trong cả tỉnh không đều nhau, huyện Cao
Lãnh với 18 đơn vị hành chính cấp xã có nhiều
đình nhất. Sự chênh lệch về mật độ phân bố đình
ghi nhận sự quần cư tụ hội của cư dân buổi đầu
khai hoang lập ấp và phát triển cho đến ngày nay
trên đất Đồng Tháp, trên hết là việc chinh phục
thiên nhiên cùng sự giao thương kinh tế giữa các
vùng với nhu cầu cần được bảo trợ của lớp người
di dân.
Nhìn chung, kiến trúc cũng như cách bày trí
khu thờ tự ở các đình trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
gần như giống nhau. Về đại thể, đình làng Đồng
Tháp xây dựng đầy đủ ba khu: Khu thờ tự, khu võ
ca, khu võ quy. Trong đó, khu thờ tự là nơi được
trang trí cầu kỳ và đẹp mắt nhất với các bức hoành
phi, câu đối, bài vị được chạm trổ tinh xảo, sơn son
thếp vàng. Một số đình ở tỉnh Đồng Tháp được tu
sửa những năm trở lại đây cũng mô phỏng lại kiến
trúc cổ và tạo tác hoành phi, câu đối trên chất liệu
bê tông ở khu chánh tẩm, tạo nên không gian trang
nghiêm cho khu thờ tự và sự bề thế của ngôi đình.
Theo đó, cả một hệ thống thần linh sinh động được
địa phương hoá đã đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tâm
linh của làng xã. Sự phối hợp của thần linh trong
khuôn viên ngôi đình ở tỉnh Đồng Tháp từ thế kỷ
XIX ghi nhận sự nâng cao ý thức khu vực của
người dân. Trên tinh thần này, các hoạt động cầu
đảo xin chứng giám của cõi linh được hình thành
mang tính duy lý có hệ thống hơn của cư dân
phương Nam. Những hình thức lễ tín ngưỡng dân
gian, lễ nông nghiệp và lễ tết cổ truyền cũng được
kết thành trên quan niệm về vị thần được thờ tự ở
đình.
2 HỆ THỐNG THẦN LINH ĐƯỢC THỜ
TỰ TRONG ĐÌNH
Khi ngôi đình thiên di theo bước chân di dân
của cư dân Bắc và Trung, ngôi đình đã không còn
giữ vai trò thống soái trong sinh hoạt làng xã đối
với cư dân phương Nam. Thêm vào đó, các bản sắc
phong cho thần Thành Hoàng và thần Đại Càn của
triều đình Huế một mặt minh chứng cho tính “âm
phù” của thần, mặt khác gián tiếp khẳng định chức
năng thờ cúng của đình bên cạnh ý đồ chính trị
khác. Đến đây “chức năng thờ cúng hoàn toàn lấn
áp chức năng thế tục” (Tạ Chí Đại Trường, 2011).
Tín ngưỡng thờ thần ở đình làng Đồng Tháp nói
riêng và khu vực Tây Nam Bộ nói chung được hình
thành và kế thừa từ thành quả tư duy Việt trong
chặng đường Nam tiến. Tuỳ từng nơi cư trú, ngôi
đình hiện lên với một tập hợp thần linh phối thờ
riêng, phản ánh sự cầu đảo của cõi tục đối với cõi
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 54, Số 4C (2018): 126-136
128
thiêng vừa cụ thể nhưng cũng rất chung chung.
Khảo sát cách bày trí khu thờ tự các đình ở tỉnh
Đồng Tháp hiện nay, có thể thấy tập hợp thần linh
được quy tụ thờ ở đình có thể phân thành các nhóm
đối tượng: Vị thần thờ chính, vị thần phối thờ theo
tín ngưỡng dân gian, vị thần phối thờ qua giao thoa
văn hoá và nhân vật lịch sử.
2.1 Vị thần thờ chính
Tính chất cởi mở trong quan niệm của cư dân
phương Nam nói chung và người Đồng Tháp nói
riêng đã tạo nên vị thế mới cho các vị thần được
thờ tự ở đình. Sự phân cấp không tranh chấp vị
thần Thành Hoàng của nhóm di dân buổi đầu đã
gián tiếp định hình thứ bậc cho các vị thần được
phối thờ sau này. Dựa vào nguồn tư liệu dân gian
và qua kết quả thống kê cho thấy triều đình
Nguyễn ban tổng cộng 65 đạo sắc phongv
cho thần
Thành Hoàng vào các triều vua Thiệu Trị, Tự Đức,
Khải Định, Bảo Đại. Trong đó tập trung nhiều nhất
ở niên hiệu vua Thiệu Trị thứ 5 (1845) và Tự Đức
thứ 5 (1852), với số lượng mỹ tự đầy đủ vào năm
Thiệu Trị thứ 5 là 保安正直佑善之神 Bảo An
Chính trực Hựu thiện chi thầnvi, năm Tự Đức thứ 5
là 廣厚正直佑善敦凝之神 Quảng hậu Chính trực
Hựu thiện Đôn ngưng chi thần. Chính tính chất tập
trung quyền lực của thần Thành Hoàng, cộng thêm
sự phong cấp của thế tục càng làm tăng thêm uy
thế cho vị thần này để quản lý dân ở những vùng
xa trung ương như ở Đồng Tháp. Và nghĩa là, vị
thần hào luỹ của Trung Quốc (城 thành: hào, 隍
hoàng: luỹ) khi vừa đến Việt Nam lập tức hoá
thành vị thần chung chung đầy quyền bính ở cõi
linh thiêng trừ tai giáng phúc cho cư dân trên các
vùng đất mới. Với tính chất chung này, nên dù hữu
danh vô thực, vị thần Thành Hoàng ở Đồng Tháp
đã phát huy vai trò thống nhất thần linh và hợp
thức hóa việc thờ tự ở địa phương.
Bài vị thờ thần Thành Hoàng ở các đình của
tỉnh Đồng Tháp đều thờ bức đại tự chữ 神 Thần
bằng chữ Hán được sơn son thếp vàng, riêng đình
Mù U (huyện Châu Thành) thờ bức đại tự chữ Hán
với bốn chữ 城隍大王 Thành Hoàng Đại vương.
Khánh thờ được đặt ở vị trí tối tôn nơi chánh tẩm,
hộ vệ cho thần còn có hai ban Tả, Hữu.
Thần Thành Hoàng trở thành biểu tượng tâm
linh của các đình khu vực miền Tây. Việc thờ tự vị
thần này cũng giống như đình ở Đồng Tháp. Điểm
đặc biệt của tín ngưỡng thờ thần Thành Hoàng ở
tỉnh đều mang tính bất biến theo thời gian và
không gian. Quan niệm về ông thần “hộ quốc tí
dân” mang biểu tượng của sức mạnh tự nhiên là
như nhau và tồn tại mãi mãi. Với bước đầu khảo
sát, trường hợp tại đình thần Nguyễn Trung Trực
(Kiên Giang), đây là đình vốn dĩ thờ thần Thành
Hoàng bổn cảnh, được ban sắc phong vào ngày 29
tháng 11 năm Tự Đức 5 (1852), không phải ban
cho Nguyễn Trung Trực. Nhưng do biến cố lịch sử
dân làng đã đổi tên thành đình thần Nguyễn Trung
Trực tồn tại đến nay và người dân nơi đây vẫn ngỡ
rằng sắc phong được ban cho và vị thần được thờ
tự chính là anh hùng Nguyễn Trung Trực. Như
vậy, sự hỗ trợ về mặt pháp lý với những bằng sắc
của triều Nguyễn còn lưu lại ở các đình thuộc tỉnh
miền Tây trực tiếp khẳng định địa vị độc tôn nhằm
tăng thêm quyền bính ở cõi linh thiêng cho thần
Thành Hoàng để quản lý dân ở những vùng xa
trung ương, gián tiếp cùng với thần dân nơi đây
nêu cao ý thức bảo vệ và phân biệt văn hoá dân tộc
trước thách thức thời đại. Theo đó, tục thờ cúng
thần Thành Hoàng ở Đồng Tháp nói riêng và Tây
Nam Bộ nói chung đã góp phần minh chứng cho ý
thức cũng như nếp sống tập thể của người dân trên
bước đường khai phá vùng đất mới với đủ mọi thử
thách từ thiên nhiên. Đây chính là nét văn hóa đặc
trưng thống nhất của cộng đồng người Việt trong
cả nước.
2.2 Vị thần phối thờ theo tín ngưỡng dân
gian
Xuất phát từ cơ tầng của nền nông nghiệp lúa
nước, cư dân Đồng Tháp tiếp nhận thờ vị thần bảo
trợ cho nông nghiệp, Thần Nông, ở khuôn viên sân
đình. Thông thường mỗi đình đều lập bệ gạch giữa
sân, bệ gạch này là đàn Xã tắc (社 Xã: thần đất, 稷
tắc: thần lúa nếp), chỉ Thần Nông. Mặt sau đàn Xã
tắc thường đắp hình “long bàn hổ cứ” tượng trưng
cho sự hoà hợp âm dương, cầu mùa màng tươi tốt.
Đình Tân Hòa (huyện Thanh Bình), đình Tân
Dương (huyện Lai Vung) đắp nổi hình lân mã cũng
cùng ý nghĩa trên. Ngoài ra, đình Mỹ Long (huyện
Cao Lãnh) còn thờ tượng Thần Nông trên đàn Xã
tắc, đình Tịnh Thới (Tp. Cao Lãnh) đề chữ Thần
Nông bằng Quốc ngữ ngay trên đàn Xã tắc. Riêng
đình Phú Hựu (huyện Châu Thành) còn lập miếu
thờ cho thần Thần Nông, bài vị được viết bằng chữ
Hán. Tuy nhiên, miếu thờ Thần Nông không còn
đảm bảo được tính chất thờ phụng Thần Nông
nguyên thuỷvii. Sự bảo trợ nông nghiệp của thần
Thần Nông được thần Ngũ hành tiếp sức đủ sức
hấp dẫn bước chân dân khai hoang trên vùng đất
mới.
Mặc dù vậy, thiên nhiên phương Nam cụ thể ở
Đồng Tháp vốn mang sẵn tính đe doạ con người
bởi “rừng thiêng nước độc”. Quá trình khẩn hoang
của cư dân đã sản sinh nên tín ngưỡng thờ thần Hổ.
Nhiều nơi miếu thờ Sơn Quân đặt liền kề với miếu
thờ Ngũ hành như đình Xẻo Vạt, đình Bình Tiên,
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 54, Số 4C (2018): 126-136
129
đình An Nhơn (huyện Châu Thành) và đình An
Phong (huyện Thanh Bình), đình Bình Hàng Tâyviii
(huyện Cao Lãnh)… Bài vị thường là viết bằng
chữ Hán, riêng đình Mỹ Long (huyện Cao Lãnh),
đình Tân Xuân (huyện Châu Thành) thờ Sơn Quân
bằng cốt tượng. Gần đây nhiều đình chuyển ghi bài
vị bằng chữ Quốc ngữ.
Đến đây, khuôn viên sân đình đã quy tụ tập hợp
thần linh cơ bản gắn liền với nhu cầu thiết thân của
con người. Và sự cộng hưởng của vị thần Chúa Xứ
(xem thêm mục 2.3) ở khuôn viên sân đình giúp
tăng cường niềm tin của dân địa phương về sự bảo
trợ của thần linh. Biến đổi xã hội cùng với yêu cầu
ngày càng cao của cõi tục về một cuộc sống phồn
phú ở những vùng xa trung ương đã thúc đẩy quá
trình địa phương hoá của vị phúc thần khác là thần
Thổ Địa/Thổ Thần, cùng hội tụ ở sân đình. Phạm
vi quản lý của thần Thổ địa nhỏ hẹp hơn so với vị
Chúa Xứ và cấp bậc càng thấp hơn thần Thành
Hoàng. Thần Thổ địa được phối thờ ở sân đình là
những nỗ lực đáng kể của người dân địa phương
trước vị thần đại diện cho triều đình phong kiến
cũng như vị thần chủ đất cũ của người Chiêm
Thành và người Chân Lạp. Tính chất gần gũi của
thần Thổ Địa theo thời gian trở thành vị gia thần
ban phúc cho mỗi gia đình người Việt.
Trong tương quan với các đình khu vực Tây
Nam bộ, tùy phạm vi cũng như quy mô của đình
mà hệ thống thần linh trong khuôn viên sân đình
được tập hợp đầy đủ, hoặc chọn một trong số
những vị thần đã kể trên, nhưng điểm chung nhất là
đình nào cũng có thờ Thần Nông. Tuy nhiên, cách
thờ vị thần này cũng không nhất quán trong cùng
một huyện hoặc một tỉnh như tỉnh Đồng Tháp.
Tình hình chung này diễn ra ở hầu khắp các đình
cùng khu vực, có thể kể đến các đình Mỹ Hội
Đông, đình Tầm Du, đình Tú Tề (An Giang), đình
Bình Thủy, đình Thới Bình – Tân An (Cần Thơ),
đình Hòa Khánh, đình Rừng Muỗi (Long An), đình
thần xã Mỹ Hương (Sóc Trăng)... đều lập hẳn miếu
có mái nóc nhọn. Hạn hữu có đình thần Phan
Thanh Giản (Cần Thơ), đình Hòa Minh (Vĩnh
Long)... xây miếu mái bằng. Đặc biệt hơn đình
Nhơn Ái và đình Mỹ Khánh (Cần Thơ), ban thờ
Thần Nông được lập như bàn thiên bên hông đình.
Đình Bình Lương (Vĩnh Long) thờ cả bài vị của
thần Hậu Tắc và Thần Nông ngay trong chánh tẩm.
Ngoài Thần Nông, thần Hổ và thần Ngũ Hành là
hai vị thần xuất hiện nhiều ở các đình Tây Nam Bộ,
riêng đình Hòa Ninh (Trà Vinh) còn lập thêm hai
ban tả hữu thờ Mãnh thú. Trong khi đó, một số
đình tân lập hay những đình xây dựng lâu năm lại
không có vị thần nào ngự trị trong khuôn viên sân
đình, chẳng hạn đình Phú Hội, đình thần Chùa Ông
(Vĩnh Long), đình Mỹ Quý, đình Bến Kinh, đình
Long Hậu Hạ, đình Mỹ Thập, đình Phú Thứ, đình
Mỹ Hiệp, đình Tân Lập (Trà Vinh)... vấn đề thờ tự
càng đơn giản hơn. Phần vì nằm ở nơi hẻo lánh
chưa thực sự nhận được sự quan tâm của người dân
địa phương cũng như các cấp chính quyền sở tại,
phần vì một số nơi cũng muốn làng mình có đình
để chứng tỏ với làng bên cạnh về bề dày lịch sử
nên lớp người sau đành chú trọng theo kiểu “cho
có”. Với tập hợp thần linh theo tín ngưỡng dân
gian, bộc lộ tính thực tế, sự dung dị, hài hòa trong
cách sống và quan niệm của người Đồng Tháp
cũng như người miền Tây. Họ mưu cầu cuộc sống
yên bình, ấm no trước sức mạnh của thú dữ, họ sẵn
sàng tôn cọp lên hàng thần linh và cũng sẵn sàng
thể hiện sức mạnh muốn chinh phục thiên nhiên
của mình. Nhìn chung, sự lựa chọn vị thần thờ tự
khuôn viên sân đình phần nào lý giải cho nhu cầu
cần được bảo trợ nơi rừng thiêng nước độc trên
bước đường khai phá vùng đất mới. Theo đó, tính
tương cận về mặt địa lý của vùng đồng bằng chiêm
trũng góp phần hình thành diện mạo tín ngưỡng thờ
thần chung giữa các tỉnh miền Tây.
Cùng với hệ thống thần linh ở khuôn viên sân
đình, hệ thống nghi lễ vụ mùa được triển khai
quanh năm, ghi dấu sự vận hành và ảnh hưởng của
tứ thời đối với nghề nông. Lễ hội nông nghiệp ở
các đình tỉnh Đồng Tháp thống nhất theo tên gọi
chung của cả nước: Lễ Hạ điền (xuống đồng gieo
hạt), Thượng điền (mừng mùa màng bội thu). Thời
gian tổ chức cụ thể từng lễ phụ thuộc vào từng
đình, về cơ bản lễ Hạ điền tổ chức vào mùa xuân,
lễ Thượng điền tổ chức vào mùa hạ. Ngoài ra các
đình còn tổ chức lễ Kỳ yên như hình thức cầu xin
sự bảo trợ của thần linh sau công đoạn gieo hạt của
lễ Hạ điền. Và đây cũng là các kỳ lễ chính yếu của
các đình cùng khu vực. Theo đó, sinh hoạt tín
ngưỡng của cư dân tỉnh Đồng Tháp và các tỉnh
miền Tây chiêm trũng mang đậm yếu tố văn hóa
nông nghiệp.
2.3 Vị thần phối thờ qua giao thoa văn hoá
Tất cả các đình trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
đều thờ vị Bạch Mã Thái giám/ Thái giám/Bạch
Mã. Theo nghiên cứu của một số học giả cho rằng,
vị thần Bạch Mã không có cái chỉ cái giống là vị
thần dùng cho thần Thành Hoàng di chuyển. Vì
vậy, vị thần Bạch Mã Thái giám mang tính chất
hướng nội hơn, là sản phẩm tư duy của con người
đối với nhu cầu trần tục ở cõi thiêng. Tuy nhiên
truy về gốc, vị thần Bạch Mã nguyên là biến dạng
của vị thần biển mà nghiên cứu của Tạ Chí Đại
Trường cho biết việc thu nhận, chuyển đổi và biến
dạng thần linh của người Việt với người Chiêm
Thành, Chân Lạp và Trung Quốc đã tạo nên diện
mạo và danh xưng hiện tại cho thần. Ở đình làng
tỉnh Đồng Tháp, bài vị của thần thường là bức đại
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 54, Số 4C (2018): 126-136
130
tự chữ Hán: 白馬太鑑 Bạch Mã Thái giám, 白馬
Bạch Mã, 太鑑 Thái giám. Hạn hữu ở đình Tân
Dương (huyện Lai Vung) vừa thờ bài vị vừa thờ
cốt tượng. Đặc biệt với sự cộng cư của lưu dân
Trung Quốc ở Đồng Tháp đã thần hoá một nhân
vật lịch sử cụ thể, Thái giám Trịnh Hoà với công
trạng mở con đường tơ lụa cho Trung Quốc, tạo
nên lai lịch cho vị thần Thái giám gắn liền tên tuổi
với danh nhân nước này.
Kết quả khảo sát cho biết, tỉnh Đồng Tháp
không còn/không xuất hiện sắc phong cho vị thần
Bạch mã Thái giám với tư cách bảo vệ cư dân trên
vùng biển. Theo thời gian, vai trò của thần Bạch
mã Thái giám bắt đầu mờ nhạt trong đời sống tín
ngưỡng của cư dân Đồng Tháp. Nhất là tên gọi
Thái giám của thần chỉ được hiểu như chức vụ
trong nội cung của triều đình phong kiến.
May mắn hơn vị thần Bạch Mã Thái giám, vị
thần Đại Càn Quốc Gia Nam Hải được biết đến
nhiều hơn ở vùng đất Đồng Tháp với số lượng lớn
các bằng sắc của nhà Nguyễn ban tặng. Vị thần Đại
Càn Quốc Gia Nam Hải Tứ Vị Thánh Nương được
phủ lên truyện tích về sự trung trinh của Hoàng hậu
và ba công chúa nhà Triệu Tống trong trận truy
bức của quân Nguyên. Bước chân Nam tiến của cư
dân Việt đã đưa vị thần này theo cuộc hành trình
của mình và sự pha trộn với văn hoá Chàm khiến
vị thần Po Riyak hay Po Yan Nưga hay Po Yan
Dari Việt hoá thành Tứ Vị Thánh Nương và được
thờ khắp nơi dọc biển. Tính chất biển của vị thần
Đại Càn được ứng dụng nhiều hơn trong đời sống
của người Đồng Tháp với lễ Cầu ngư vào mùa
nước nổi diễn ra vào tháng 9, tháng 10 âm lịch
hằng năm. Tuy nhiên, số lượng tự tích thờ vị thần
Đại Càn ở tỉnh Đồng Tháp hiện nay không nhiều.
Theo khảo sát gần đây, tỉnh Đồng Tháp chỉ có một
miếu thờ thần Đại Càn duy nhất nằm trong khuôn
viên đình Mỹ Hội (huyện Cao Lãnh). Mặc dù số
lượng sắc phong ban cho vị thần Đại Càn tương
đối nhiều, 28 văn bản, nhưng sự ít ỏi về số lượng
tự tích thờ vị thần này phản ánh sức giảm sút mức
ảnh hưởng của vị thần Đại Càn đối với đời sống
tâm linh cư dân Đồng Tháp. Tình hình này buộc vị
thần Đại Càn phải thiên di vào đình cho hợp thời.
Theo đó, dù được ban sắc, được phong lên hàng
Thượng đẳng thầnix song vị thần Đại Càn ở tỉnh
Đồng Tháp chỉ được thờ trong đình với tư cách
phối tự, thậm chí còn không có ban/ khánh thờ. Và
đây cũng là hiện tượng phổ biến diễn ra ở các đình
cùng khu vực. Riêng hai trường hợp khảo sát được
nằm ở đình thần Nguyễn Trung Trực (Kiên Giang)
có lập ban thờ Chánh soái Đại Càn ngay gian giữa
chánh tẩm, đình Phú Khương (Bến Tre) thờ chính
là thần Đại Càn.
Hầu hết các đình ở tỉnh Đồng Tháp đều lập
miếu thờ Bà Chúa Xứ, vị thần đất cấp cao với vai
trò chủ xứ sở của đất Chiêm Thành và Chân Lạp.
Vị trí miếu thờ thường được lập ngoài sân đình
cùng với các vị thần: Thần Nông, Ngũ hành, Thổ
địa, Sơn Quân. Bài vị của thần được viết bằng chữ
Hán. Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ ở tỉnh Đồng
Tháp mang tính chất phổ biến, nhiều nơi dân địa
phương còn lập riêng miếu thờ Bà với quy mô lớn.
Điều này ít nhiều cho thấy sức ảnh hưởng của
“trung tâm” thờ tự Chúa Xứ ở Châu Đốc (tỉnh An
Giang) chi phối mạnh mẽ tín ngưỡng thờ Bà ở các
tỉnh Tây Nam Bộ nói chung và ở khu vực Đồng
Tháp nói riêng.
Nói đến vị chúa đất, xin nói thêm về vị thần có
tên Chúa Ngung Ma nương. Văn tế một số đình
tỉnh Đồng Tháp có kêu cầu đến vị thần này nhưng
không thấy xuất hiện bài vị của thần trong hệ thống
thần linh thờ tự của đình. Vị thần với tên chữ Hán
là 主隅嬤娘 Chúa Ngung Ma nương trực tiếp cho
biết tầng cấp quản lý của thần, chủ ở từng mảnh
ruộng nhỏ. Vị thần này được tiếp nhận ở mức độ
đồng nhất sinh hoạt nông dân Việt với nông dân
Chiêm Thành và Chân Lạp, đưa đến một sự thờ
cúng thần đất địa phương trong chặng đường khai
khẩn. Lâu dần vị thần này của hai vương quốc bị
thay thế bằng thần Tiền Hiền và thần Hậu Hiền của
người Việt. Trường hợp duy nhất khảo sát được ở
đình thần Hòa Long (huyện Lai Vung) có miếu thờ
thần Chúa Ngung phía sau đình.
Hạn hữu đình An Phong (huyện Thanh Bình)
có thờ Cửu Thiên Huyền Nữ trong khu vực chánh
tẩm, ban thờ được bày trí tranh hình đơn giản. Vị
thần này vốn là một nữ thần nổi tiếng của Đạo giáo
Trung Quốc, sau khi vào Việt Nam, được Đạo Cao
Đài gọi là Đức Diêu Trì Phật Mẫu hay Kim Bàn
Phật Mẫu. Bà được rước vào đình phối thờ như
người mẹ sanh, mẹ độ theo tín ngưỡng dân gian
của người Việt.
Vị thần Chúa Xứ, Chúa Ngung, Cửu Thiên
mang dáng dấp của một nữ thần cùng với thần Đại
Càn, thần Ngũ hành (Kim Đức nương nương, Mộc
Đức nương nương, Thủy Đức nương nương, Hỏa
Đức nương nương, Thổ Đức nương nương) từ lâu
được người dân Đồng Tháp đưa vào đình thờ, ghi
nhận sự chấp nhận của giới Nho sĩ bấy giờ về hiện
tượng song tồn của nữ thần bên cạnh các nam thần
chi phối toàn bộ đình trung. Đặc biệt ở khu vực
Tây Nam Bộ, qua khảo sát sơ bộ, ghi nhận thêm
trường hợp thờ nữ thần là bà Nam Hải, bà Địa Mẫu
ngay khu vực chánh tẩm ở đình Tân Hạnh và đình
Định Thới (Vĩnh Long), bài vị viết bằng chữ Hán
lẫn chữ Nôm. Đây là hiện tượng phổ quát diễn biến
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 54, Số 4C (2018): 126-136
131
trong nội dung ngôi đình suốt tiến trình lịch sử của
cả nước.
Ngoài ra, đình Tân Dương (huyện Lai Vung)
hiện nay còn nghi thờ Thanh Long, Bạch Hổ đắp
nổi hình, đình Tân Khánh Tây (huyện Lấp Vò) lập
bệ thờ đắp nổi hình ở sân đình, đình Mỹ Long
(huyện Cao Lãnh) lập miếu thờ với bài vị chữ Hán,
được bố trí theo ý niệm của phong thủy Tả Thanh
Long – Hữu Bạch Hổ, cho thấy sự ảnh hưởng của
Nho học đối với cư dân địa phương. Đình Thượng
Văn (huyện Cao Lãnh) gần đây còn thiết trí thêm
nghi thờ Phúc Lộc Thọ mang ý nghĩa của sự chúc
tụng nhiều hơn là tín ngưỡng.
Thêm vào đó, ngay trong chốn đình trung của
một số đình như Thượng Văn, đình Mỹ Long
(huyện Cao Lãnh), đình Mỹ Thạnh (Tp. Cao Lãnh),
đình Tân Phước (huyện Lai Vung), đình Phú
Thuận (huyện Hồng Ngự), đình Tân Hòa (huyện
Thanh Bình), đã đưa tập hợp một số thần linh vốn
ở khuôn viên sân đình vào khu vực chánh tẩm với
bài vị gọi chung là Bàn thờ Hội đồng. Hình thức
thờ cúng này chỉ diễn ra ở một số đình cùng khu
vực như đình Tân Lộc Tây (Cần Thơ), đình Mỹ
Trang, đình Phú Long (Tiền Giang), đình Bình
Tịnh, đình Bình Chánh (Long An), đình thần Vĩnh
Hòa (Bến Tre), đình Vĩnh Ngươn, đình thần Vĩnh
Tế, đình thần Hòa Thạnh, đình thần Vĩnh Thạnh
Trung (An Giang)... Điều này giải quyết được nhu
cầu thờ phụng của người dân địa phương trước hệ
thống thần linh phong phú; đồng thời tái khẳng
định sức ảnh hưởng của những vị thần này trong
đời sống thường nhật ở bản xứ.
Tựu trung, các vị thần phối thờ ở đình qua giao
thoa văn hóa giữa các dân tộc biểu hiện rõ thái độ
tôn trọng, nếp sống hòa đồng của lớp người di dân
cầu mong nhận sự bảo trợ từ những vị thần này
như những vị thần theo tín niệm của mình. Đây trở
thành đặc điểm chung trong sinh hoạt cộng đồng
của người Tây Nam Bộ.
2.4 Thờ nhân vật lịch sử
Các vị thần như đã trình bày là những vị thần
thường trực ở tất cả các đình trên địa bàn tỉnh
Đồng Tháp. Hoà vào hệ thống thần linh trên và tuỳ
theo đặc điểm lịch sử từng vùng, các đình còn phối
thờ thêm những vị nhân thần khác là hiện thân cho
cốt cách và chính khí của người Việt trước biến
động lịch sử.
Theo số liệu thống kê, trong tổng số 84 đình
trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp chỉ có vài đình có thờ
nhân vật lịch sử như: Nguyễn Văn Thống ở đình
Tân Khánh (TP Sa Đéc), Nguyễn Trung Trực ở
đình Định Hoà và đình Phong Hoà (huyện Lai
Vung), đình Mỹ Ngãi (TP Cao Lãnh) thờ ba vị đại
thần họ Nguyễn là Thống Linhx
, Thống Bình và
Thống Chiếuxi. Đặc biệt các đình Phú Thọ, Phú
Đức, Phú Hiệp, Phú Cường (huyện Tam Nông) và
ba đình Hưng Thạnh, Tân Kiều, Trường Xuân
(huyện Tháp Mười) đều thờ Thiên hộ Võ Duy
Dươngxii và Đốc binh Nguyễn Tấn Kiềuxiii hoặc
một trong hai vị. Một số đình tôn xưng những vị có
công khai sáng vùng đất, hiến đất dựng đình như:
Bốn ông Nguyễn Khắc Minh, Nguyễn Hoàng Đạo,
Bùi Văn Giang, Bùi Văn Lược ở đình Mỹ Ngãi
(Tp. Cao Lãnh), Cẩm địa Nguyễn Văn Ân, Tiền
Hiền thờ ông Nguyễn Văn Cận, Hậu Hiền thờ ông
Nguyễn Văn Xứ ở đình Tân Thành (huyện Lai
Vung), Tiền Hiền thờ ông Nguyễn Văn Phấn, Hậu
Hiền thờ ông Trần Văn Quận ở đình Tân An Trung
(huyện Lấp Vò)… Khánh thờ các vị thường bài trí
hình chân dung hoặc bài vị bằng chữ Hán. Tinh
thần trung nghĩa chống giặc ngoại bang của các vị
tướng được nhân dân địa phương mặc nhiên tôn
làm thần và rước vào đình phối thờ như nét son giá
trị của lịch sử. Việc thờ những con người thực có
công trạng với dân với nước phù hợp với triết lý
sống của cư dân nông nghiệp (cũng như trường
hợp thờ các vị Tiền Hiền - Hậu Hiền, Tiền Vãng -
Hậu Vãng). Theo đà phát triển của xã hội, nhiều
nơi đã lập đền thờ riêng cho những vị anh hùng
này.
Trên nguyên lý này, hầu hết các đình tỉnh Đồng
Tháp đều lập ban thờ Bác Hồ. Vị trí ban thờ tuỳ
theo sắp xếp của từng đình. Ngoài ra, một số đình
còn lập ban thờ những vị nhân thần có công với
dân tộc và quê hương qua tấm bài vị ghi 百林官舊臣
Trăm Quan Cựu thần. Đặc biệt ở đình Tân Hòa
(huyện Thanh Bình) còn thờ đức Phật Thầyxiv phía
sau khu vực chánh tẩm. Theo luận thuyết trên, thờ
Phật Thầy là thờ nhân vật lịch sử mang tính chất
điển hình, tuy nhiên ở đây còn cho thấy sự dung
hòa giữa tín ngưỡng – tôn giáo trong khuôn viên
ngôi đình. Một hình thức thờ cúng đặc biệt khác ở
đình Tân Quy Tây (Tp. Sa Đéc), đình Phong Hòa
(huyện Lai Vung) là thờ cúng Cửu huyền thất tổ,
thể hiện lòng tôn trọng, nhớ ơn ông bà cha mẹ
nhiều đời nhiều kiếp được người dân nơi đây đưa
vào đình nhằm răn dạy bản thân về việc làm, sự
được mất của mình ở hiện tại đối với ông bà cha
mẹ trong quá khứ, con cháu trong tương lai, ít
nhiều mang tính nhân quả. Ban thờ thiết trí đơn
giản bằng tranh thờ chữ Hán. Hình thức thờ cúng
này xuất hiện không nhiều ở các đình cùng khu
vực. Theo đó, đình dần trở thành nơi tựu trung của
những giá trị hiện sinh tốt đẹp của cư dân địa
phương. Hiện nay số ít đình còn khánh/ ban thờ 先
師 Tiên Sư ở khu chánh tẩm, như trường hợp đình
Tân An (Tp. Cao Lãnh), đình Mù U (huyện Châu
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 54, Số 4C (2018): 126-136
132
Thành), đình Mỹ An Hưng B (huyện Lấp Vò), đình
Tân Long (huyện Thanh Bình). Qua tìm hiểu, rất
tiếc không có thêm thông tin gì về ông thầy dạy
nghề của vùng này. Hay tập hợp người được chính
quyền truy phong Liệt sĩ/ Liệt sĩ trận vong được
thờ ở hầu khắp các đình trên địa bàn tỉnh Đồng
Tháp, đã xúc tác thêm cho sự thần hóa những nhân
thần ngự trị trong cõi tục. Qua đây tái minh chứng
cho tính cởi mở trong tâm thức tín ngưỡng của
người Đồng Tháp về thế giới ngoài con người chốn
đình trung.
Tình hình này cũng diễn ra tương tự ở các đình
cùng khu vực. Điều đặc biệt ghi nhận được từ thực
tế khảo sát, hầu hết các đình ở tỉnh Hậu Giang đều
thờ anh hùng Nguyễn Trung Trực như đình Rạch
Còi, đình liên xã Hòa An – Phương Bình, đình xã
Xà Phiên, đình xã Tân Bình... bên cạnh những đình
được lập thờ riêng ông ở xã Long Trị, xã Long Mỹ,
xã Vĩnh Diễn. Xuất phát từ cùng quan niệm thờ
cúng ông bà, nhớ ơn tiền nhân vài đình cũng tôn
thần cho cá nhân có ảnh hưởng nhất định đối với
địa phương, trường hợp này xuất hiện ở đình Bình
Thủy (Cần Thơ), khánh thờ chính thờ chung thần
Thành hoành và ông Đinh Công Chánhxv bằng hình
chân dung. Từ cơ sở này cho thấy tính tương cận
về mặt nhận thức trong quan niệm của cư dân
phương Nam về thang giá trị trong việc thần hóa
nhân vật tại chỗ.
Ngoài ra, một số đình cùng khu vực thể hiện sự
dung hòa giữa tôn giáo và tín ngưỡng như đình
Thới Thạnh (Cần Thơ) thờ bài vị Ngọc Hoàng
ngay khu vực chánh tẩm, đình thần thị trấn Trần
Hữu Nghĩa (Sóc Trăng) lập hẳn đài Quan âm trước
sân đình và hình Hộ pháp ngay cửa vào chánh tẩm,
đình Long Hanh (Trà Vinh) có đài thờ ngài Địa
Tạng ngay lối cổng vào.
Theo các bài vị và tượng thờ hiện còn trong các
đình tỉnh Đồng Tháp cho thấy mức độ ảnh hưởng
sâu đậm của Nho giáo trong tâm thức tín ngưỡng
của người dân địa phương trong quá khứ. Gần đây
nhiều ngôi đình đã phối thờ thêm các vị Khổng Tử,
Khổng Minh, Quan Công cũng là biểu hiện ý niệm
Nho giáo được thần thánh hoá. Như vậy, tập hợp
thần linh như đã trình bày bên trên cho thấy sự trân
trọng giá trị điển hình của những con người có
thực. Chính tính chất tương đồng gần gũi trong
quan niệm của người dân địa phương, các vị thần
này được tôn sùng ngay trong chánh tẩm của đình.
Dù đối tượng thờ ở mỗi nơi nhiều ít khác nhau,
song cũng đủ đáp ứng cho nhu cầu tâm linh ngày
càng mở mang, theo thời gian và theo sự mở rộng
đất đai mà họ khai phá. Với dẫn liệu ít ỏi trên phần
nào cho thấy nét văn hóa, nếp sống đặc trưng của
người miền Tây trong tổng hòa nét chung của
người Nam Bộ: cởi mở, phóng khoáng và hội nhập.
Các vị thần được thờ tự trong đình làng Đồng
Tháp như đã kể trên phần nào giúp tái hiện lại một
thế giới vượt thường trong tâm thức tín ngưỡng của
người dân Đồng Tháp bấy giờ. Theo đó, những
nghi thức tế lễ là con đẻ cho cả quá trình tư duy
không ngừng nghỉ của người Đồng Tháp trước
những đổi thay thời cuộc. Văn tế Hán Nôm còn lưu
lại của một số đình cho biết quy định nghiêm ngặt
của chuỗi hành động “hưng”, “bình”, “chước/hiến
tửu”… khi tiến hành lễ thần của viên Chánh bái.
Hiện nay, một số đình vẫn còn lưu lại tập tục tế bái
này với phần nghênh thỉnh thần và sắc thần rất
trịnh trọng. Cũng trong văn tế đình vào các kỳ lễ
trong năm cho biết thêm danh sách các vị thần
“đồng lai phối hưởng” của từng đợt cúng tế. Đây
là cứ liệu rất quan trọng làm căn cứ cho việc tái
hiện lại một cách đầy đủ và hệ thống tập hợp thần
linh được thờ tự trong quá khứ cũng như giúp cho
việc tôn tạo tu bổ đình thời hiện đại. Qua khảo sát,
có thể thấy nhiều vị thần chưa thực sự được “chính
danh” trong đình dù xuất hiện trong văn tế. Như
đình Mỹ Hiệp (huyện Cao Lãnh)xvi với các vị thần
trong lễ Lạp miếu (Lạp miếu chánh tế văn) gồm:
美合敕大乾國家南海敦凝正直尊神。
本境城隍祐善正直尊神。
敕大乾國家南海四位上尊神。
願神含弘光大至德溥博,加贈含弘光 至德
溥博顯化莊徽上等尊神。
左班列位尊神,右班列位尊神。
本境本處土地福德正神,暨今年所值 譴行
兵曹判官之神。
白馬太監之神,五方土地土祇土公土 土府
之神。
左廟五行仙娘之位,右廟主處木佬山 之
位。
東廚司命灶君之神。
東南察海狼獺二大將軍及木柱石柱。
本處尊神等諸陽神。
前賢開墾,後賢開基之神。
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 54, Số 4C (2018): 126-136
133
五方主隅嬤娘之位,先師度進,山川 瀆,
河伯水官之神。
前往員官,後往員職並部下等眾同來 格,
及本社列貴先靈同來配享。
(Mỹ Hiệp sắc Đại Càn Quốc Gia Nam Hải Đôn
ngưng Chánh trực tôn thần.
Bổn cảnh Thành Hoàng Hựu thiện Chánh trực
tôn thần.
Sắc Đại Càn Quốc Gia Nam Hải Tứ Vị thượng
tôn thần.
Nguyện thần Hàm hoằng Quang đại Chí đức
Phổ bác, gia tặng là Hàm hoằng Quang đại Chí đức
Phổ bác Hiển hoá Trang huy thượng đẳng tôn thần.
Tả ban liệt vị tôn thần, Hữu ban liệt vị tôn thần.
Bổn cảnh bổn xứ Thổ Địa phúc đức chánh thần,
kỵ Kim niên sở trị Hành khiển Hành binh Tào phán
quan chi thần.
Bạch Mã Thái giám chi thần, Ngũ phương Thổ
Địa Thổ Kỳ Thổ Công Thổ Chủ Thổ Phủ chi thần.
Tả miếu Ngũ Hành Tiên Nương chi vị, Hữu
miếu Chúa Xứ Mộc Lão Sơn Quân chi vị.
Đông Trù Tư Mệnh Táo Quân chi thần.
Đông Nam Sát Hải Lang Thát Nhị Đại Tướng
Quân, cập Mộc Trụ Thạch Trụ.
Bổn xứ tôn thần đẳng chư dương thần.
Tiền Hiền khai khẩn, Hậu Hiền khai cơ chi
thần.
Ngũ phương Chúa Ngung Ma Nương chi vị,
Tiên Sư Độ Tiến, Sơn Xuyên Nhạc Độc, Hà Bá
Thuỷ Quan chi thần.
Tiền Vãng viên quan, Hậu Vãng viên chức với
các bộ hạ cùng đến chứng lòng thành, cùng liệt quý
tiên linh bổn xã chung đến hưởng.)
Qua bài văn tế, có thể thấy tín ngưỡng thờ thần
cây, thần đá, thần Hà Bá, Sơn Xuyên Nhạc Độc
của cư dân Việt, phản ánh rõ ước vọng được bảo
trợ từ thiên nhiên trong chặn đường Nam tiến đến
Đồng Tháp. Tuy nhiên, so với khánh thờ hiện hữu
của đình Mỹ Hiệp, những vị thần: Thạch Trụ, Mộc
Trụ, Sơn Xuyên Nhạc Độc, Hà Bá Thuỷ Quan,
Chúa Ngung Ma Nương, Đông Nam Sát Hải Lang
Thát Nhị Đại Tướng Quân... không xuất hiện trong
đình, lại dồn tụ về đình vào các kỳ tế lễ tạm xem
như sự “vỗ về” của người trần thế đối với cõi siêu
linh (Tạ Chí Đại trường, 2006). Trường hợp duy
nhất ở đình Mù U (huyện Châu Thành) có lập hẳn
ban thờ vị thần núi 高阁大王 Cao Các Đại
vươngxvii với tấm bài vị màu đỏ, dòng chữ Hán màu
vàng. Điều này lý giải cho những xáo trộn của lịch
sử, sự tàn phá của chiến tranh và sự trì kéo của bộ
phận người muốn đả phá “tàn dư” của phong kiến
trong quá khứ đã dẫn đến sự mất mác bài vị thờ
thần, sự thay hình đổi dạng của một số di vật tại
đình đã và đang diễn ra ở đình Tân Xuânxviii (tỉnh
Đồng Tháp), đình An Bình (tỉnh Vĩnh Long) (Đỗ
Thị Hà Thơ và Lý Vĩnh Thuận, 2017) ghi nhận
được. Nhưng đây cũng là tình trạng phổ biến ở các
đình trong các tỉnh miền Tây, họa may trường hợp
duy nhất ở đình Hòa Minh (Trà Vinh) là còn bài vị
thờ thần Hải nhật Hà bá bằng chữ Hán.
Nhìn chung, với hệ thống thần linh được thờ
cúng ở đình làng Đồng Tháp nói riêng và các tỉnh
Tây Nam Bộ nói chung đã lý giải cho việc hiện
thực hóa khát vọng được che chở của người dân
đến khai phá vùng đất mới. Theo thời gian, họ đã
giữ lại những vị thần có quyền năng đủ mạnh để
làm điểm tựa tinh thần cho mình, đồng thời tổng
hợp thần linh vào chung ngôi đình trong bối cảnh
cụ thể của điều kiện tự nhiên và dung hòa với tín
ngưỡng cũng như tôn giáo bản địa. Chính điều này
đã tạo nên tính cách mở, thực tế của con người và
vùng đất miền Tây. Họ sống bao dung, chan hòa
với các dân tộc nơi mình đặt chân đến (trường hợp
thờ thần Chúa Ngung, Chúa Xứ), tri ân tiền nhân
hay những người đã xây dựng, bảo vệ làng (trường
hợp thờ Tiền Hiền, Hậu Hiền, Liệt sĩ trận vong,
anh hùng được thần hóa, chủ đất, người bỏ tiền
dựng làng, tổ nghề...), tính chịu khó chinh phục thử
thách, vượt qua cản trở bằng niềm tin của chính
mình (trường hợp thờ thần Hổ, thần Mãnh thú),
tính hào sảng tin tưởng và thờ bất kể vị thần nào
che chở cho mình (trường hợp thờ thần độ mạng,
Ngũ Hành). Tất cả tạo nên bức tranh sinh động về
thần, đất và con người miền Tây. Từ đây cung cấp
thêm cơ sở lý giải về vũ trụ và về cuộc sống của
người nam bộ trong quá khứ và hiện tại.
Tính cách vượt thường của nghi lễ tế thần chính
là cách con người giao tiếp với thần linh. Quan
niệm về sự liên kết cõi tục – cõi thiêng vẫn còn rất
đậm sâu trong tư tưởng của người dân Đồng Tháp
trong quá khứ và hiện tại. Chính vì vậy, việc cất
giữ sắc phong, vốn được xem như linh vật của
thần, mặc dù đây chỉ là tấm bằng sắc của một ông
vua phong kiến trần tục ban cho, trở thành trọng
trách thiêng liêng của cả làng, có ảnh hưởng
nghiêm trọng trực tiếp đến nhóm người giữ và dân
toàn vùng. Theo đó hàng loạt nghi lễ được nảy nở
để thực thi xoay quanh tấm bằng sắc ấy vào những
dịp tế lễ định kỳ của địa phương (thường lệ mỗi
năm đều khai sắc nhưng cũng có đình quy định 3
năm hay 5 năm mới khai mở một lần. Thậm chí có
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 54, Số 4C (2018): 126-136
134
đình chỉ thực hiện rước sắc chứ không khai sắc).
Và chỉ có như thế thì thần mới tán trợ cho những
hành động của con người trong thực tế. Quan niệm
về sự “ban ân bố trạch” của thần đôi khi còn mang
tính chất đe doạ đối với người dân trong vùng. Do
đó, sắc phong càng được giữ kỹ, càng ít người biết
lại càng huyền bí và linh thiêng, nhờ vậy phần nào
mới tránh được thần “quở trách”. Tuy nhiên trên
thực tế, “số phận” của một số bản sắc phong ít
nhiều bị hư hại nặng như trường hợp ghi nhận
được tại đình Phú Thành A huyện Tam Nông. Và
“vật thiêng” của thần đã hoàn toàn biến mất khỏi
cõi tục. Đây cũng là tình trạng chung ở các ngôi
đình trong các tỉnh cùng khu vực.
3 KẾT LUẬN
Đời sống tín ngưỡng của người Đồng Tháp nói
riêng và người miền Tây nói chung rất phong phú
và đa dạng, chung quy cũng nhằm đáp ứng nhu cầu
tâm linh của họ trên vùng đất miền Tây. Ngoài
những vị thần cơ hữu của tín ngưỡng truyền thống,
họ còn tìm kiếm và sáng tạo thêm những vị thần
thích ứng với điều kiện môi trường sống mới ở
miền Tây. Đây là thành tựu quý giá, sản phẩm tư
duy không ngừng nghỉ của người Việt trên bước
đường chinh phục tự nhiên. Với nếp sống tâm linh
này, tạo nên nếp văn hóa cũng như tính cách cởi
mở, hào sảng, thực tế, dung hòa của người miền
Tây trong bối cảnh hội nhập và giao lưu văn hóa;
đồng thời bộc lộ giá trị tinh thần cũng như ý thức
lưu giữ để nhớ lại cội nguồn mình. Từ góc độ tín
ngưỡng cho thấy, tính chất mở, tích hợp và đa
nguyên của ngôi đình Đồng Tháp cũng như các
ngôi đình ở miền Tây Nam Bộ thể hiện giá trị dân
tộc được tái khẳng định bằng tinh thần yêu nước,
trở thành điểm đặc biệt trong tín ngưỡng thờ thần
và quy tắc ứng xử trong văn hóa tâm linh của
người miền Tây trong quá khứ, rất cần được duy trì
và tiếp nối. Trong đó, tính bất biến là cơ sở nhận
diện tín ngưỡng thờ thần. Nghĩa là dù không gian,
thời gian, chính sách... đổi khác thì những thần linh
vốn được dân tôn thờ vẫn không thay đổi, được
truyền tụng và tồn tại từ đời này sang đời khác.
Hệ thống thần linh được thờ ở tự tích đình trên
địa bàn tỉnh Đồng Tháp và các tỉnh miền Tây ghi
nhận hiện tượng cộng tồn văn hoá của người Việt
với người Hoa, người Chiêm Thành và người Chân
Lạp. Việc trùng tu đình ở tỉnh Đồng Tháp chủ yếu
bắt đầu từ những năm thế kỷ XXI. Trải qua buổi
tang thương dâu bể, ngôi đình vẫn trầm mặc chứng
kiến bao đổi thay thế sự và rồi cũng thay đổi theo
sức ép của những chuyển đổi. Đến nay, chức năng
thờ cúng hiện còn của đình là sợi dây duy nhất kết
nối quá khứ và hiện tại, đảm bảo tâm thức tín
ngưỡng và phong tục tế lễ địa phương. Tuy nhiên,
việc thực hành lễ của các đình hiện nay chủ yếu chỉ
có các vị cao niên tập lễ, trai gái địa phương lại
không được tham dự, chỉ lẩn quẩn các công việc
tạp vụ khác, hoạ may được đứng nhìn một phân lễ
nào đó trong chuỗi nghi lễ ấy. Điều này vô hình
trung tạo nên sự xa cách thậm chí tách rời các thế
hệ trong cùng một vùng. Vấn đề càng trở nên
khuôn sáo hơn khi lớp người sau muốn biết nghi lễ
tiết chế địa phương lại phải tìm hiểu qua sách vở
mà không có cơ hội được chính những vị đang làm
nên những nghi tiết ấy chỉ dẫn. Thái độ này đối với
văn hoá được thời gian xúc tác đã làm mờ hoá cái
văn hoá cổ truyền vốn có của người Việt. Việc giới
trẻ cố gắng tìm lại nếp xưa tục cũ cơ hồ bị chặn
đứng bởi yếu tố tâm lý tâm linh và định kiến khắt
khe của đại đa số các bậc cao niên hữu trách ở đình
sở tại.
Xuất phát từ tập hợp thần linh thờ cúng ở đình
cùng nghi thứ giao tiếp cõi tục – cõi thiêng giúp tái
hiện lại diện mạo tín ngưỡng Đồng Tháp trong quá
khứ, tạo tiền đề cho việc kế thừa thành quả văn hoá
tín ngưỡng của người Đồng Tháp để tránh sa vào
hiện tượng mê tín dị đoan trong việc gìn giữ bản
sắc văn hoá dân tộc thời hội nhập. Vào các kỳ lễ
đình trong năm, các cấp chính quyền địa phương
nên phối hợp với ban quý tế tổ chức buổi tập và
giảng lễ trước cho dân cùng biết. Một mặt giúp phổ
biến và lưu giữ nét văn hoá nghi lễ. Mặt khác để
tập tục địa phương trở thành chiếc nôi nuôi dưỡng
tâm hồn văn hoá và tinh thần dân tộc của những
người con được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất
này; như vậy vừa có thể phát huy yếu tố nội sinh
để quảng bá văn hoá địa phương, vừa khai thác
tiềm năng du lịch lễ hội phục vụ đời sống kinh tế
người dân sở tại.
Chú thích
i
Số liệu chúng tôi thống kê vào tháng 10 năm 2016. Do
điều kiện khách quan, nên ở một số đình chúng tôi không
được mở sắc phong nên không rõ đối tượng được ban
tặng là ai.
ii Đình Vĩnh Phước hiện đang lưu giữ 5 đạo sắc phong
ban cho Nhân Hòa hầu Tống Phước Hòa.
iii Đạo sắc phong này là bản sao, do con của ông là
Nguyễn Văn Lộc vâng mệnh sao lại, hiện lưu giữ ở đình
Tân Khánh.
iv Đình Thượng Văn hiện lưu giữ 2 đạo sắc phong ban
cho thân phụ và thân mẫu của Công Bộ Tả Tham tri Bùi
Đức Minh.
v Số lượng sắc phong trên chúng tôi thống kê ở những tự
tích là đình, riêng tự tích đền, miếu và các tư gia không
thuộc đối tượng nghiên cứu ở bài viết này.
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 54, Số 4C (2018): 126-136
135
vi Năm 1845, vua Thiệu Trị ban sắc hai lần cách nhau
một tháng, cụ thể vào ngày 27 tháng 11, ban mỹ tự cho
thần Thành Hoàng các thôn ở tỉnh Đồng Tháp bấy giờ là
保安正直之神 Bảo an Chính trực chi thần, đến ngày 26
tháng 12 tiếp tục gia tặng mỹ tự cho thần là 保安正直佑
善之神 Bảo an Chính trực Hựu thiện chi thần.
vii Câu chuyện dân gian về lời phát thệ của Thần Nông
chỉ ở ngoài sân đình, quyết không vào kiểu nhà bà Cửu
thiên Huyền nữ dạy dân làm (mô phỏng theo thế đứng
chống nạnh của bà), vì như thế là “nấp dưới nách đàn
bà”, lý giải cho việc miếu thờ Thần Nông phải xây theo
kiểu nhà nóc bằng (kiểu nhà do chính ông dạy dân làm)
mới “hợp” nguyên tắc thờ vị thần này của dân gian.
viii Đình hiện còn giữ được 6 đạo sắc phong, trong đó 3
đạo ban cho thần Thành Hoàng và 3 đạo ban cho thần
Đại Càn cùng vào ngày 27/11 và ngày 26/12 năm Thiệu
Trị 5, ngày 8/11 năm Tự Đức 3. Nội dung văn bản sắc
phong ở đình cho biết danh tự chính thức của địa phương
được triều đình Nguyễn phê chuẩn việc thờ tự là thôn 平
翰西 Bình Hàn Tây thuộc huyện 建豐 Kiến Phong.
Nhưng nay địa danh này đều được viết là Bình Hàng
Tây.
ix Bản sắc phong ở đình Mỹ Ngãi, đình Tân An, đình Mỹ
Xương, đình An Phong đều cùng được ban vào ngày 27
tháng 11 năm Thiệu Trị 5 với mỹ tự đầy đủ của thần là
合弘光大至德溥博上等神 Hàm hoằng Quang đại Chí
đức Phổ bác Thượng đẳng thần. Đến ngày 26 tháng 12
năm Thiệu Trị 5, thần Đại Càn được ban sắc gia tặng
thêm mỹ tự là 合弘光大至德溥博顯化上等神 Hàm
hoằng Quang đại Chí đức Phổ bác Hiển hóa Thượng
đẳng thần. Ngày mồng 8 tháng 11 năm Tự Đức 3, lại
tiếp tục gia tặng là 合弘光大至德溥博顯化莊徽上等神
Hàm hoằng Quang đại Chí đức Phổ bác Hiển hóa Trang
huy Thượng đẳng thần.
x Thống Linh: Tức Nguyễn Văn Linh (1815 – 1865):
Người tỉnh Đồng Tháp, được phong chức Thống Lãnh
binh, phụ tá đắc lực cho Thiên hộ Võ Duy Dương chiêu
mộ nghĩa quân và xây dựng căn cứ chống Pháp ở Đồng
Tháp Mười.
xi Thống Bình và Thống Chiếu: Cũng như Thống Linh,
hai ông Nguyễn Văn Thống và Nguyễn Văn Chiếu được
phong chức Thống Lãnh binh, cùng hợp sức với Thống
Linh giúp Thiên hộ Võ Duy Dương chống Pháp. Về sau
ba ông cùng bị Pháp bắt và xử tử vào ngày 28 tháng 8
năm 1865.
xii Thiên hộ Võ Duy Dương (1827 – 1866): Người ở
huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định, được vua Tự Đức
phong hàm Chánh bát phẩm Thiên hộ vào năm 1860.
Ông có công huy động nhân dân lập căn cứ chống Pháp
ở Đồng Tháp Mười những năm 1864 -1866.
xiii Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều (? – 1866): Phó tướng của
Thiên hộ Võ Duy Dương, được phong chức Đốc binh,
cùng hợp sức với Thiên hộ Dương chống Pháp ở Đồng
Tháp Mười.
xiv Đức Phật Thầy: Tức Phật Thầy Tây An Đoàn Minh
Huyên (1807 – 1856), là người sáng lập ra giáo phái Bửu
Sơn Kỳ Hương ở An Giang. Lúc sinh thời, ông vừa trị
bệnh cứu người, vừa quy tụ dân khai hoang và phổ biến
giáo lý mầu nhiệu của đạo Tứ ân.
xv Theo nghiên cứu của Trần Phỏng Diều cho hay: “Ngày
15 tháng 8 năm 1913, làng Long Tuyền dịch bệnh tràn
lan. Một số nhân sĩ trong làng thỉnh chư nho đến cầu cơ
xin thuốc cho đồng bào trị bệnh thời khí. Đinh Công
Chánh tôn thần giáng cơ cho thuốc cứu người mắc, sẵn
dịp ra cuốn “Hiếu Để Liêm Tiết” khuyên đời. Vì ông cho
thuốc cứu độ nhân dân, làm sách khuyến thiện, nên trong
làng làm bài vị thờ tại đình từ năm 1913”. (Trần Phỏng
Diều, 2018).
xvi Bài văn tế trích trong Gia lễ nghi văn quyển hiện được
ông Tư Nghĩa cất giữ. Quyển nghi văn này là tập tư liệu
tổng hợp tự soạn 4 bài văn tế của đình, gồm: 獵廟正祭
全文儀省牲之禮 Lạp Miếu chánh tế toàn nghi tỉnh sinh
chi lễ, 獵廟正祭文 Lạp miếu chánh tế văn, 先師正祭文
Tiên sư chánh tế văn, 文祭廟關帝 Văn tế miếu Quan
Đế, không đánh số trang và không có rốn sách, được viết
tay trên chất liệu giấy dó, viết bằng chữ Hán, theo lối
chữ Chân, rõ ràng, dễ đọc. Hiện trạng văn bản còn rất
tốt, bìa ngoài là giấy cậy, viết tên quyển nghi văn kèm
theo dòng chữ ghi ngày tháng bằng chữ Hán. Cụ thể: 嘉
禮儀文卷美協乙未年四月初十日 Gia lễ nghi văn
quyển, Mỹ Hiệp Ất Mùi niên tứ nguyệt sơ thập nhật.
xvii Kết quả khảo cứu của các nhà nghiên cứu cho biết,
thần Cao Các còn được gọi là thần Cao Sơn Cao Các, là
vị thần núi nổi tiếng linh ứng, phù trợ dân chống được tai
họa, được thờ khắp đất nước.
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 54, Số 4C (2018): 126-136
136
xviii Đình Tân Xuân (huyện Châu Thành) đã bị phá dỡ
toàn bộ và xây dựng mới hoàn toàn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trần Phỏng Diều, 2018. Tín ngưỡng thờ danh nhân ở
các đình tại Cần Thơ, 18/03/2018.
http://bantuyengiao.cantho.gov.vn
Đỗ Thị Hà Thơ, Lý Vĩnh Thuận, (2017). Di văn Hán
Nôm và việc tái lập lịch sử đình thần An Bình,
huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Tạp chí Khoa
học Trường Đại học Cần Thơ. 48c: 27-32.
Tạ Chí Đại Trường, 2006. Thần người và đất Việt,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 384 trang.
Tạ Chí Đại Trường, 2011. Những bài dã sử Việt,
Nxb Tri thức, Hà Nội, 448 trang.
-
Thổ địa dưỡng thành hệ thống mới nhất chương
Thổ địa dưỡng thành hệ thống tác giả:Vĩnh không mài mòn
Thổ địa dưỡng thành hệ thống tóm tắt: Có thổ địa dưỡng thành hệ thống, nho nhỏ thổ địa cũng có thể uy chấn một phương!
“Cầu xin thổ địa gia hiện hiển linh đi!” Yên tâm, chỉ cần ngươi cung dâng hương hỏa, bản thần liền thỏa mãn nguyện vọng của ngươi!
“Thần Quân, có tà giáo tới bổn trấn truyền giáo.” Này còn lợi hại, dám đến đoạt ta hương khói, xem ta không tiêu diệt hắn!
“Thần Quân, có yêu ma công lại đây!” Sợ cái gì, có bản thần ở, hết thảy đều không cần lo lắng!
Hoàn toàn mới thổ địa thị giác hệ thống lưu làm ruộng văn, chờ mong ngài duy trì! https://
---------------- ---------------- ---
http://dichtienghoa.com/translate/ww...F29228%2F&t=vi
-
-
[PDF]Title フエ地域におけるキン族の城隍神と インフック村の 事例 Author(s ...
https://kuir.jm.kansai-u.ac.jp/.../2...ình%20Hang.pd... - Translate this page
by チャン,ディン・ハン - 2012
Mar 1, 2012 - tặng Hồng Nhân Phổ Tế Linh Cảm Thượng đẳng thần). ― 土徳聖妃 ... 土地龍神、加贈厚済(Thổ Địa Long Thần, gia tặng Hậu Tế). ― 本境城隍 ...
You've visited this page 3 times. Last visit: 6/24/18
https://kuir.jm.kansai-u.ac.jp/dspac...Cnh%20Hang.pdf
-
Tục thờ Thần Tài.
https://4.bp.blogspot.com/-N5A_nA6Z0...T4/s400/48.jpg
Một khám thờ Thần Tài.
Thần Tài (chữ Hán viết là Tài Thần 財 神) là một gia thần được thờ phổ biến trong dân gian, chúng ta có thể thấy hình ảnh Thần Tài được thờ khắp nơi, trong đình, đền, miếu..., cho đến các hộ gia đình, nhất là những nơi kinh doanh buôn bán, cửa hàng cửa hiệu. Khám thờ Thần Tài ở những nơi này rất trang trọng đặt ngay gần cửa ra vào. Thần Tài như tên gọi, là vị Thần mang đến tài lộc, Thần Tài được thờ phổ biến như thế, nhưng lai lịch và diện mạo của vị Thần dân gian này lại không rõ ràng... Thần Tài không được đặt thờ trên cao như những vị Thần khác, chúng ta thường thấy khám thờ Thần Tài được đặt dưới đất, gần ngay cửa ra vào và quay mặt ra cửa. Trong khám thờ có dán một tấm giấy đỏ, hoặc một tấm tranh kiếng làm bài vị viết những hàng chữ chính như: Ngũ Phương Ngũ Thổ Long Thần/ Tiền Hậu Địa Chủ Tài Thần (五 方 五 土 龍 神 / 前 後 地 主財 神). Hai bên bài vị thường có hai câu đối: Thổ Địa Sinh Bạch Ngọc/ Địa Khả Xuất Hoàng Kim (土 地 生 白 玉 / 地 可 出 黃 金).
Thần Tài.
Thổ Địa.
Trong khám thờ Thần Tài phổ biến nơi người Việt và người Hoa vùng Sài Gòn, Chợ Lớn, người ta thường thấy đặt chung hai vị Thần là Thần Tài và Thổ Địa. Thứ nhất là Thần Tài, phổ biến là tượng một ông lão râu dài ngồi trên ghế mặc áo thụng, đầu đội mũ che tai, chân đi giày, tay phải vuốt chòm râu bạc, tay trái cầm một thỏi vàng, thì tượng Thổ Địa (còn gọi là Ông Địa), ngồi một chân xếp bằng, một chân chống cao, ăn mặc đơn giản, thoải mái, áo phanh ngực và bụng, tay phải của Thổ Địa cũng cầm một thỏi vàng (Thổ Địa là vị Thần cai quản trong khuôn viên đất của một gia đình, để phân biệt với Thổ Thần là vị Thần cai quản một vùng đất). Đó là hai vị thần được tin là sẽ mang lại tiền tài và đất đai được mùa cho gia chủ. Truyện kể dân gian ở Việt Nam về Thần Tài lại là hình ảnh một cô gái tên Như Nguyện (có sách viết là Như Nguyệt), truyện kể như sau:
Ngày xưa có một lái buôn tên là Âu Minh, khi ngang qua hồ Thanh Thảo được Thủy Thần cho một con hầu tên là Như Nguyện. Âu Minh đem Như Nguyện về nuôi thì việc làm ăn phát đạt, vài năm sau trở thành giàu có. Sau nhân một hôm ngày Tết Như Nguyện làm lỗi, Âu Minh đánh Như Nguyện, Như Nguyện sợ hãi chui vào đống rác biến mất. Từ đó Âu Minh ngày càng làm ăm sa sút, rồi khánh kiệt trở nên nghèo khó.
Từ đó người dân có tục kiêng không đổ rác trong ba ngày Tết, vì sợ đổ mất Thần Tài trong đống rác. Đây là một câu chuyện dân gian mang tính cách truyền thuyết hơn là một Thần tích, vì như ta đã thấy trong dân gian thờ Thần Tài không có hình ảnh cô gái nào cả. Cũng khó để xác định Thần Tài đã được thờ trong hệ thống tín ngưỡng gia thần ở nước ta có vào thời điểm nào, qua một vài thư tịch người ta chỉ có thể áng chừng Thần tài đã được thờ trong gia đình Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ XX, ở miền Bắc tranh Đông Hồ vẽ trên giấy dó cũng có loại tranh vẽ Thần Tài, và chỉ khoảng một thế kỷ thì Thần Tài đã là vị Thần phổ biến, có lẽ bởi việc buôn bán phát triển, thương mại không còn bị đánh giá thấp như ở vào các thế kỷ trước.
Tăng phước Thần Tài - Tranh giấy dó Đông Hồ.
Ở nước ta tục cúng Thần Tài nơi những người làm ăn buôn bán phổ biến vào hai ngày mùng 2 và 16 âm lịch, lễ cúng đơn giản thường chỉ là nải chuối hay đĩa trái cây, có khi thêm miếng thịt heo quay. Có ý kiến cho rằng ngày sóc và ngày vọng (1 và 15 âm lịch), là ngày cúng Phật, và ngày mùng 2 và 16 là ngày cúng cô hồn, người ta cúng vào ngày mùng 2 và 16 để cô hồn không quấy phá việc làm ăn của họ, việc không bị cô hồn quấy phá sẽ mang lại tài lộc, đồng nghĩa với làm ăn hanh thông, buôn may bán đắt... Lâu dần người ta coi đó là ngày cúng Thần Tài.
Việc cầu mong phát tài phát lộc, giàu có tiền của, vàng bạc đầy nhà của người Việt đã có từ xa xưa, nằm trong tín nguõng phồn thực (được mùa màng, ấm no, giàu có), như thường thấy nơi những câu chuyện cổ tích dân gian ăn khế trả vàng, chiếc chum vàng, hay chiếc thoi vàng (thoi dệt vải) của người Tày, nhưng tục thờ Thần Tài có lẽ bắt nguồn từ chuyện thờ Thần Tài của người Hoa, người Hoa giỏi buôn bán, cửa hàng, cửa hiệu, hoặc nơi sản xuất của họ cũng là nơi ăn ở thường nhật, cho nên việc thờ cúng các vị Thần, trong đó có Thần Tài của họ rất đa dạng.Thần Tài của người Hoa ở Chợ Lớn bao gồm Thần Tài võ, Thần Tài văn, và cả những Thần Tài không chính danh. Những Thần Tài võ như Triệu Công Minh, Quan Vũ. Thần Tài văn như Tỷ Can, Phạm Lãi, Tài Bạch Tinh Quân, Văn Xương Đế Quân, Phúc Lộc Thọ Tam tinh. Các Thần Tài được gọi là Thiên Tài Thần giúp con người kiếm tiền bằng những cách không chính đáng, như Ngũ Lộ Tài Thần, Hắc Bạch Vô Thường. Và các Thần linh khác như Lưu Hải, Hòa Hợp Nhị Tiên, Táo Quân, Thổ Địa... là các vị Thần kiêm nhiệm luôn cả việc ban phát tài lộc cho con người...
Chiêu Tài Miêu (Mannekineko) của người Nhật.
Nang Kwak Thần Tài Thái Lan (Niêng Bật - Niêng Bột - Nàng Ngoắc).
Ganesha Ấn Độ.
Ngoài các vị Thần Tài kể trên, hiện nay trong việc thờ cúng Thần Tài ta còn thấy Tì Hưu, Thiềm Thừ ngậm tiền của Trung Hoa, Chiêu Tài Miêu của người Nhật (Mannekineko), dưới dạng một chú mèo vẫy tay. Thần Tài của người Thái Lan Nang Kwak, người Căm Bốt gọi là Niêng Bật-Niêng Bột (Nàng ngoắc-Nàng vẫy), người Việt gọi là Bà ngoắc. Hình dạng của Chiêu Tài Miêu và Nang Kwak (Nàng ngoắc) giống nhau ở chỗ một tay cầm túi tiền, một tay đưa lên vẫy. Thần Tài này hay thấy được đặt nơi các cửa hiệu, cửa tiệm, trông như đang mời gọi khách hàng. Cũng còn một vị Thần Tài khác của Ấn Độ mình người đầu voi ít được thờ hơn, gọi là Ganesha, cách nay mấy năm đi du lịch ở Thái Lan tôi thấy Ganesha mình người đầu voi được thờ nhiều nơi các khách sạn, nhà hàng...
Tham khảo:
- Phong tục thờ cúng trong gia đình Việt Nam, Toan Ánh, NXB Tổng hợp Đồng Tháp - 1996.
- Tín ngưỡng phong tục & Những kiêng kỵ dân gian Việt Nam, Ánh Hồng biên soạn, NXB Thanh Hóa - 2004.
- Đặc khảo về tín ngưỡng thờ gia thần, Huỳnh Ngọc Trảng-Nguyễn Đại Phúc, NXB Văn hóa Văn Nghệ - 2013.
https://ngochieppham.blogspot.com/20...-than-tai.html
===========
Thần Tài, ông Lộc, ông Địa, nhiều cửa cầu. Sao không quy về một cửa một dấu.
Riêng ông Lộc, thoe em hiểu là:
Ông Lộc.
Tên ông là Đậu Từ Quân, sinh ở Giang Tây, đời Thục Hán, là Thừa tướng nhà Tấn. Nhưng là một quan tham. Tham lắm. Có biết bao nhiêu vàng bạc, châu báu, là của đút lót của những kẻ nịnh thần, mua quan, bán tước, chạy tội ..., dâng cho. Trong nhà Từ Quân, của nả chất cao như núi.
Vì tham, ăn nhiều của đút, bợ đỡ, biếu xén quan trên nên khi tuổi đã cao mà ông ta vẫn chưa về hưu, vẫn cố giữ bằng được cái ghế của mình để ăn bổng, ăn lộc, ăn của đút, rồi lại mang đi hối lộ. Đậu Từ Quân là điển hình cho thói 'tham quyền cố vị' của quan chức mọi thời.
Tới năm tám mươi tuổi mà vẫn chưa có đích tôn, quá lo nghĩ, buồn rầu, ông đã sinh bệnh, ốm liệt giường (chắc là tai biến mạch máu não!?). Ông nằm đến thối thịt, nát da, hôi khẳn đến mức con cái không dám đến gần. Đến khi chết, Đậu Tử Quân không nhắm được mắt, ngửa mặt mà than 'Lộc của ta để cho ai đây? Ai giữ ấm chân nhang cho tổ tiên, cho bản thân ta?'. Rồi người "đi".
Người đời sau gọi Đậu Tử Quân là “Ông Lộc”. Tượng, tranh vẽ ông thường đội mũ quan. Ông thường mặc áo màu xanh lục vì trong tiếng Hoa, "lộc" phát âm gần với lục", tay cầm "cái như ý" hoặc thường có một con hươu đứng bên cạnh (hươu cũng được phát âm giống "lộc"). Ông là Thần Tài, người buôn bán hay thờ riêng ông này, nhưng trông bệ rạc lắm, thờ góc nhà, đủ đầy phẩm vật, lại được hút thuốc lá cắm vào que tăm khói lơ phơ. Hại cho sức khỏe lắm!
.
Lúc nào có điều kiện, bác Hiệp và các bác cho 3 ông đối thoại để dân tình đỡ hoang mang. Cảm ơn các Bác!
-
Trên con đường tu tập chúng ta có những thuận duyên để được gặp gỡ những luồn tư tưởng phù hợp,chỉ dạy, trợ duyên, giúp đỡ cho người hành giả . Dưới đây là một bài dịch thuật tham khảo của Cuiyang chia sẻ với mọi người về Ngài Kamapa đời thứ 17, Ngài thực hiện một nghi thức theo người việt nam nói là nghi thức động thổ an trạch. Ở đây tôi không có phổ biến hình thức nghi thức cúng, mà điều muốn nói đây là một phương tiện thiện xảo với khế lý, khế cơ đầy đủ để tùy duyên hóa độ, cứu giúp chúng sinh của Ngài.
Ngài Kamapa 17 làm lễ sái tịnh cầu nguyện động thổ, an trạch xây nhà bếp.
UserPostedImage
Ngài đã chọn một nơi đất trống để làm nghi lễ động thổ, khu đó đã được căng bạt màu xanh ở trên nóc với kết cấu mái tre trúc, Bên trong khu đất được bài trí, thiết lập tạm một bàn thờ phật nhỏ, Trên bàn thở phật nhờ được trải tấm vải thổ cẩm, trên tấm thổ cẩm là những đồ cúng theo nghi thức truyền thống của Tây tạng, phía trước mặt là một cốc rượu cúng dường có đế cao, và bên cạnh là một đa mã đồ cúng dường màu trắng. Cách bàn cúng không xa là viên gạch đỏ, cũng như có một khoảng đất trống hình vuông trên mặt đất lộ ra, và chỗ đất trống vuông này là để thực hiện nghi lễ sái tịnh động thổ.
Khoảng 12h trong nhóm nhỏ các tăng sư ngồi bao quanh, Pháp vương Kamapa tiến lại khu đất trống nơi làm nhà bếp, .........................
Pháp vương muốn tiến hành một nghi lễ an trạch đặc biệt, Ngài đi đến chỗ cúng dường và triệu thỉnh chư vị thiên thần, thần linh giúp đỡ, nghi thức cúng chia ra làm 3 phần. Đầu tiên, Các chư tăng quì bên cạnh Đức Pháp Vương tụng kinh cầu nguyện, tiếp nữa là ngài cung thỉnh chư vị thiên thần, nữ thần để hướng sự cúng dường vật phẩm Sodom màu trắng và trà vàng ( Tạng văn : Gser skyems) tới chư vị . Nhờ chư vị triệu thỉnh thổ địa thần linh khu đất đó.
Bước 2: Đối với vật phẩm cúng dường chư vị thần thổ địa, Lúc này, cùng lúc 1 vị tăng sư đưa pháp vương phẩm vật hương thơm cúng dường, cùng một kinh thư để cúng chư vị ( Tạng văn : Sabdag) , Pháp vương lấy pháp khí chuông và chày lắc, cùng lúc đó ở bên cạnh Ngài là một vị Ripoche cầm kinh thư để cho Ngài tụng, 1 vị khác thì lấy phẩm vật trà rải lên không trung để dâng cúng.
UserPostedImage
UserPostedImage
Động thổ
Bước 3: Ngài lấy phẩm vậy cúng dường 4 vị thần chủ quản tứ đại; đất, nước, gió, lửa, tiếp đến ngài đứng lên tiến lại khu đất trống, lấy miếng vải trắng cột lên cán cuốc, hướng dẫn cho vị Ripoche, thực hiện nghi lễ động thổ đầu tiên ở bốn hướng và khu trung tâm đất chính .
Cuối cùng Ngài lấy tấm vải trắng dài cột vào cái cột được đóng chính ngay trung tâm , tiếp nữa lấy gạo rắc rải lên không trung để cúng dường, Ngài vừa rải rắc vừa tụng kinh : ( Cầu nguyện cho đất đai nơi đây được mọi điều kiết tường, ngày được an, đêm được an lành kiết tường)...
法王噶瑪巴為祈願法會新廚房用地灑
噶舉大祈願法會已經清空的舊廚房 ( jiu dou fang - ,竹子結構的屋頂上還鋪著深藍色的 雨布,廚房裡面有著一座臨時設立的 佛堂,兩套傳統的八供擺在鋪著錦布 的供桌上,八供前面是一個高腳供杯 旁邊則有一個白色的多瑪。距離供桌 遠的紅磚地上,有一個曝露出地表土 壤的方形小開口,而這一小塊地代表 即將灑淨的土地。
12點左右,在一小群僧眾的簇擁下,法 王噶瑪巴穿過鄰近的空地抵達廚房, 幼的竹奔德千仁波切則緊跟一旁。
法王將進行的是一項特別的安地儀式 透過供養地方神祇以徵求土地。供養 式主要分為三個步驟。首先,法王與 竹奔德千仁波切屈跪在法座前念誦祈 文,將白色的多瑪和黃金供茶(藏文: gser skyems)獻給大地女神,向她徵求土地。
第二步是對土地神的供養。這時,隨 遞給法王一支香和即將獻給土地神(藏 文:sa bdag)的供品。當法王搖著鈴杵修法時, 這支香就由一旁的竹奔德千仁波切為 王拿著,另一位僧人則將供茶拿出拋 。
第三步是供養包括地、水、火、風四 元素神祇等生靈(藏文:‘byung po)。
接著,法王從座中起身,繞行這一小 方地,然後將綁著白色哈達的鏟子交 竹奔德千仁波切,指導他如何在這塊 地的四方和中央下鏟。
最後,法王將一條長哈達繫在立於方 中央的木棍上,將米拋向空中,在進 米供養的同時,一邊念誦:「願此地 白晝恆時皆吉祥,願此地黑夜恆時皆 祥 …」
Trang: kagyu monlam
http://www.tammat.net/default.aspx?g...3336#post10907
https://www.kagyuoffice.org.tw/karma...8559809&page=1
-
-
Hướng dẫn lễ tạ Ông Địa - Thần tài cơ bản
ĐỜI SỐNG - XÃ HỘI
- 01/02/2018 - 16:00 (Phunuphapluat) Ông Địa (Thổ Địa) - Thần Tài là những vị thần trong tín ngưỡng Việt Nam và một số nước phương Đông. Ông Địa - Thần Tài được người dân thờ cúng quanh năm để cầu mong tiền tài may mắn.
Hoa nào nên chọn cắm trên bàn Thờ để rước lộc vào nhà trong năm mới?
Bàn thờ Trung thu nên đặt những loại quả gì?
- Đối tượng khuyến khích làm lễ: Chủ các cửa hàng, các địa điểm kinh doanh, cơ quan hàng quán... và là người có duy tâm. Những người muốn công việc được bền bỉ, lâu dài, hanh thông thuận lợi, tiếp tục kinh doanh trong năm mới.
- Lí do làm lễ: Theo quan niệm của những người có duy tâm thì tài lộc một phần là tự thân (lộc ai người đấy hưởng), một phần là hợp đất hợp cát (địa lợi), một phần là do Thần Linh Thổ Địa - Thần Tài chứng giám ban cho (hay duyên ai người đấy bán - lộc rơi lộc vãi) nên lễ tạ nôm na là lời cảm ơn các Vị Thần cai quản đã độ cho gia chủ trong suốt thời gian qua. Tạo tác duyên lành cho công việc kinh doanh. Tạ rồi mới có thể an tâm xin lộc tiếp cho năm tới.
Thời gian lễ năm nay có thể bắt đầu từ 8/2/2018 (tức 23 âm ) đến 14/2/2018 (tức 29 âm). Lễ ngày nào cũng được trong cung giờ 6h00 - 11h55.
Empty
- Khoá lễ cơ bản:
+ ĐỒ LỄ :
- Có một lá sớ tạ (không bắt buộc nhưng có thì sẽ tốt)
- Rượu trắng, 1 củ gừng, khăn sạch.
- Trái cây: 2 đĩa 2 bên trái phải ban thờ (trước cúng sau ăn , trái gì cũng được, một số nơi quan niệm nên có trái dừa - điều này không bắt buộc).
- Hoa cúc vàng (không cúng cúc trắng, có thể thay bằng hoa ly hoặc hoa hồng), hoa hồng vàng (3 bông)
+ ĐỒ CÚNG: Có thể chọn 1 trong 3 phương án:
*** Bộ đồ lễ 1: Gạo, muối.Nước lavie 3 chai.Rượu trắng (chai nhỏ).6 lon bia, 6 lon nước ngọt bày 2 bên.Bánh kẹo tuỳ tâm .Trầu cau.Chè thuốc.Xôi gấc, giò (nếu cúng mặn có thể thêm gà bánh chưng).
***Bộ đồ lễ 2: Trứng luộc, tôm luộc (cua luộc) , thịt ba chỉ luộc. Trong trường hợp bạn là người có thói quen cúng đồ tam sinh / tam sên.
***Bộ đồ lễ 3: Thịt heo sữa quay và bánh bao chay tròn. Vàng mã tuỳ tâm nhưng cần vàng thỏi và tiền thần tài (nếu có thể mua tiền vàng ban thần tài thì rất tốt, nếu không hoá tiền thánh bình thường là được).
Empty
Bộ đồ vía Thần Tài - Thổ Địa
+ CÁCH LỄ:
+ Bước 1: Lấy củ gừng rửa sạch, không gọt vỏ, giã nát đổ rượu xấp lên trên. Sau đó lấy khăn sạch ngâm vào rượu ít nhất 30'. Cầm khăn lau khắp bàn thờ (không xê dịch tượng các Vị thần hay vị trí bát hương). Thường ban thờ Thần Tài ít khi phải rút tỉa chân hương.
+ Bước 2: Sau khi tẩy uế bằng rượu, tách cánh hoa hồng vàng, ngâm nước, lấy khăn sạch thấm nước hoa đó, vắt khô rồi lau quanh bàn thờ để lấy hương hoa.
+ Bước 3: Chuẩn bị đồ lễ bày sao thật đẹp và đối xứng 2 bên. Mở nắp chai rượu và chai nước thắp 9 nén hương và khấn tạ. (Bài khấn cuối bài)
+ Bước 4: Đợi nhang tàn rồi đem vàng mã đi hoá. Khi hoá nếu có sớ hoá sớ trước rồi đến tiền vàng. Rượu gạo muối có thể vẩy tứ phía ngoài đường sau khi hoá vàng xong. Không để rơi vãi trong nhà tránh chúng sinh vào cửa hàng. Lộc mặn/ chay/ bánh kẹo có thể tán cho nhân viên trong cửa hàng chứ không nên tán cho ai khác do có quan niệm lộc tán rồi lộc tụ.
***Bài khấn:
Con lạy chín phương trời, mười phương đất.
Kính lạy Quan đương niên Hành khiển, Tề vương hành khiển, Ngũ miếu hành binh chi thần.
Kính lạy các Ngài Thành Hoàng bản cảnh chư vị đại vương.
Kính lạy Ông Địa – Thần Tài, ông chủ gia bà chủ đất, các phần hương linh khuất mặt khuất mày, các vị Tiền chủ Hậu chủ.
Con tên là:....Năm sinh:....Cửa hàng tại địa chỉ:...
Hôm nay là ngày ...tháng...năm (lịch âm Tín chủ con thành tâm sắm sửa lễ quả, trầu cau, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương dâng lên trước án.
Khấu xin Thành Hoàng bản địa, Ông Địa – Thần Tài chứng minh cho lòng thành tâm khấn vái, xin chân thành cảm ơn chư vị thần linh đã phù hộ độ trì cho con trong suốt thời gian qua.
Chúng con người trần mắt thịt, việc dương chưa tỏ việc âm chưa thấu, nếu có điều gì lầm lỡ mong các Ngài bỏ qua đại xá cho chúng con.
Cẩn xin chư vị thần tài thổ địa phù hộ độ trì cho con được cư địa an bình, gia môn hưng vượng.
Vận đáo hanh thông, an định công thành danh toại, kinh thương hữu đa khách hàng, doanh số tăng trưởng phát triển thịnh vượng, tài lộc dồi dào, bách sự như ý , sở nguyện tòng tâm.
Mong chư vị gia ân tác phúc cho cửa hàng/ cơ quan/ công ty con được đắc địa, đắc lợi, đắc tài, đắc lộc . Không cho chúng tiểu nhân quấy nhiễu, độ cho con có quý nhân hỗ trợ. Chúng con người trần mắt thịt , nếu có gì lầm lỡ , xin các Ngài đại xá bỏ quá cho.
Con xin Thành Hoàng bản địa, Ông Địa – Thần Tài, ông chủ gia bà chủ đất, các phần hương linh, chư vị Tiền chủ Hậu chủ chứng giám cho lòng thành khấn vái. Kính bái.
Khấn xong, vái hay lạy ba cái: Niệm Nam Mô A Di Đà Phật (3 lần)
----------------------------------------
Một số lưu ý tổng quan:
- Tuy Thần Tài - Ông Địa khá dễ tính nhưng vẫn nên ăn mặc tươm tất, không hở hang báng bổ.
- Nếu là nữ và đang đến ngày xin đợi hết (thân sạch) hãy làm.
- Có quan niệm khi đang lễ tạ đồng thời đón lộc năm mới tránh xả nước khiến trôi lộc nên làm theo.
- Trong trường hợp năm tới thay đổi địa chỉ cửa hàng hoặc ngừng kinh doanh vẫn nên tạ đủ (trừ khi không bao giờ kinh doanh nữa), có thể giữ tượng thờ lại còn bàn thờ để lại cho chủ mới hoặc thả trôi sông đều được. Nhìn chung tạ Ông Địa Thần Tài không khó do các Vị khá dễ tính.
Sưu tầm / PN&PL Tag: #lễ tạ thần tài thổ địa , #lễ tạ thần tài , #văn tế thần tài
http://www.phunuphapluat.vn/huong-da...an-d13450.html
-
Hắc sơn thổ địa 黑山土地,. P. Kiṭāgiri, i. 165.
-
Vì sao ông Địa... luôn cười?
Hoàng Phương
Hoàng Phương
phuongpvtn@gmail.com
Hoàng Phương
Hoàng Phương
10:18 - 10/10/2016 6 THANH NIÊN
Nhiều người ở nông thôn miền Tây Nam bộ mỗi khi bị mất một vật gì tìm không được thường lâm râm khấn vái: “Ông ngay ông Địa giúp tôi tìm được sẽ cúng ông nồi chè (hoặc nải chuối)”.
Rất nhiều ông Địa nhưng mỗi ông đều có gương mặt khác nhau. /// Ảnh: Hoàng Phương
Rất nhiều ông Địa nhưng mỗi ông đều có gương mặt khác nhau.
ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG
Còn ông Địa ở chợ thì sướng hơn, không đợi mất đồ mà mỗi sáng vẫn được gia chủ mời cà phê, thuốc lá để... lấy hên.
Có ông Địa… làm chứng
Theo nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường thì tập tục thờ ông Địa đầu tiên xuất hiện trong các chùa, trên thờ Phật, dưới thờ Thổ Địa và các miễu bà Chúa Xứ cũng có thờ ông Địa. Vào khoảng giữa thập niên 1950, khi kinh tế phát triển thì người dân bắt đầu thờ ông Địa trong nhà. Chẳng ai biết mặt mũi ông Địa ra sao, nhưng mỗi khi bị mất một vật gì đó thì người ta nghĩ ngay tới ông Địa và nhờ ông giúp đỡ.
Cũng theo ông Tường thì người Việt, người Hoa đều có tục thờ ông Địa, nhưng mỗi dân tộc ông Địa có hình tượng khác nhau. Ví dụ như thần cai quản làng của người Việt là ông Thành hoàng, còn người Hoa thì ông Địa, tức Phước Đức chánh thần, còn gọi là ông Viên ngoại. Vì vậy khi xem phim Tây du ký ta thấy Tề thiên Đại thánh tới đâu cũng gọi Thổ Địa ra để tra hỏi, mỗi khi có yêu quái lộng hành, ức hiếp dân tình. Còn trong dân gian thì khi có chuyện gì khuất tất, tranh cãi, người ta thường đem ông Địa ra để… làm chứng.
Trong nhà ông Địa cũng giống như người quản gia. Đối với người Hoa, hình tượng Thổ Địa là ông viên ngoại hay còn gọi là ông Thần Tài, có hàm râu bạc trắng, tay cầm nén vàng sẵn sàng cho. Còn ông Địa của người Việt là anh nông dân, bụng bự, mặc áo hở ngực hoặc ở trần, tay cầm cái quạt, rất bình dân, ai vái gì cũng được. Ăn thì chuối xiêm, chè xôi nước, là những thứ rẻ tiền nhất.
Đặc biệt, có vùng trước khi cúng ông Địa nải chuối, gia chủ còn bẻ ăn trước một trái vì ông Địa sợ… bị ngộ độc.
Vì sao ông Địa luôn cười?
Lại có câu chuyện cười trong dân gian kể rằng có người lái buôn nọ nhiều lần gạt… ông Địa, vì ông Địa vốn rất dễ dãi, dễ bị châm chọc. Lần đầu đi buôn, anh ta vái ông Địa phù hộ cho trót lọt, sẽ cúng ông Địa “con 2 chân”. Nghe qua, ông Địa tưởng là sẽ được cúng con gà, con vịt. Nhưng rồi sau đó anh ta lật kèo, hẹn lần sau nếu làm ăn thuận lợi sẽ cúng “con 4 chân”. Nhưng rồi con 4 chân (như con heo) anh ta cũng không cúng, mà tiếp tục hẹn lần sau, nhất quá tam, anh ta sẽ cúng “con 8 chân”. Lần này anh ta không khất nữa, mà cúng thiệt “con 8 chân”, đó là con… cua luộc! Thấy mình thua trí gã lái buôn, vì vậy lúc nào ông Địa cũng cười. Chỉ cười thôi chớ chẳng giận hờn ai.
Hình tượng ông Địa trong dân gian rất đa dạng. Đầu tiên là các ông Địa được người dân tưởng tượng ra và nắn bằng đất sét để thờ. Nghĩ sao nắn vậy, thô sơ, không ông nào giống ông nào, nhưng nhiều ông Địa rất độc đáo. Về sau thì có ông Địa được làm bằng gỗ, bằng đất sét nung do thợ thủ công hoặc lò gốm chuyên nghiệp sản xuất hàng loạt, rồi tới ông Địa tráng men. Ngoài ra còn có những mẫu đặc biệt như ông Địa bằng đá ở núi Bửu Long (Đồng Nai). Thậm chí, bây giờ có cả ông Địa hoặc ông Thần Tài được nhập từ Trung Quốc về. Có nơi, trên bàn thờ ông Địa còn có 2 cái chum nhỏ, ngụ ý gánh vàng đổ vào kho.
TIN LIÊN QUAN
Ngôi nhà 'kỳ lạ' chất đầy hàng ngàn đồ xưa ở... miền Tây
Rắc rối với bình hồ lô 'giá khởi điểm 10 tỉ đồng'
Nguy kịch vì bị điện giật từ bàn thờ ông địa
Thời gian sau này, ở một số gia đình làm nghề kinh doanh, mua bán, nơi thờ ông Địa còn có thêm một dĩa tỏi. Hỏi ra mới biết, vì gia chủ sợ bị mất cắp ông Địa nên mới… trấn bùa bằng dĩa tỏi. Nếu có bị mất cắp thì ông Địa cũng… hết linh. Ở những gia đình làm ăn phát đạt, người ta tin rằng bị mất ông Địa là chuyện rất xui xẻo, vì vậy phải giữ gìn cẩn thận. Có người còn hàn kiếng bít lại vì sợ ông Địa bị “bắt cóc” thì sẽ mất khách hàng và mất luôn người quản gia.
Theo ông Tường thì hình tượng ông Địa rất đa dạng, hàng trăm ông Địa nhưng rất khó tìm được ông Địa giống nhau. Có nhiều tượng ông Địa rất xưa nhưng không đẹp. Ông Địa đẹp có trong dân gian nhưng rất hiếm, vì không làm theo khuôn đúc nên chỉ độc bản. Đa số ông Địa đều cười nhưng cũng có những ông Địa không cười. Ngoài ra, tượng ông Địa bằng đồng cũng là loại hiếm, ngày xưa chỉ có ở các ngôi chùa. Khi đúc tượng Phật còn dư đồng, các chùa đúc thêm tượng ông Địa.
https://image.thanhnien.vn/665/uploa...g-dia_zgjm.jpg
https://thanhnien.vn/van-hoa/vi-sao-...oi-753534.html
=============
TRẦN QUANG DINH - 10/10/2016
* Riêng tôi , cứ nghĩ tin là có đi . Đã khá nhiều lần thất lạc cái này cái kia. Vái ÔNG ĐỊA XONG, ỨNG NGHIỆM LIỀN .NGÀI cho mình tìm lại được. CẢN ƠN ÔNG ĐỊA THẬT NHIỀU.
Trả lời 67 thích Báo nội dung xấu
XÍ XỌN TP Hồ Chí Minh - 10/10/2016
Đá ông Địa trên đường ra Mũi Né (Phan Thiết) là đẹp và linh thiêng nhất. Ngày xưa trước ngày thi đạp xe ra cúng ông Địa mấy miếng cơm dừa (nước dừa uống trước để ông Địa thấy không có độc, vì sự tích ông Địa chết vì ngộ độc) thì thi đâu đậu đó (dứt khoát là không có quay cóp do trước khi đi gặp ông Địa đã học hành nghiêm túc) thậm chí nổi tiếng "chó ngáp phải ruồi" cho đến ngày thành đạt như hôm nay.
Trả lời 38 thích Báo nội dung xấu
NGUYỄN ANH Đà Nẵng - 11/10/2016
Không chỉ với riêng tôi, mà có thể với rất nhiều người, cứ thấy ông Địa là vui rồi, tự nhiên cảm thấy lạc quan với cuộc sống hơn. Ông rất dễ tính và cũng rất gần gũi.
Trả lời 15 thích Báo nội dung xấu
ANHBATU TP Hồ Chí Minh - 11/10/2016
Ngày xưa, làng gốm Lái Thiêu - Bình Dương có làm tượng Ông Địa rất đẹp, màu xanh men ngọc như tượng trong ảnh, quấn khăn nông dân, phong thái vui tươi, đậm chất dân dã, chính hiệu Ông Địa Việt Nam chứ không như ông địa sứ trắng TQ bán tràn lan hiện nay.
Trả lời 13 thích Báo nội dung xấu
VĂN HÓA - 12/10/2016
Bụng trống năng dung, dung những điều khó dung trong thiên hạ
Miệng lớn hay cười, cười những chuyện khó cười trong thế gian...
CHÁNH TRUNG TP Hồ Chí Minh - 11/10/2016
ông điạ rất thích con nít , con nít cũng rất thích ông điạ , nó hay lấy trái cây bàn thờ ông điạ , người lớn cứ để cho nó lấy nếu ngăn cản dễ sinh bệnh
=
THAM QUAN BÃI ĐÁ ÔNG ĐỊA, PHAN THIẾT
du-lich-phan-thiet-mui-ne-tham-quan-bai-da-ong-dia
http://dulichdisanviet.vn/uploads/co...4.80411728.jpg
Di tích Bãi đá Ông Địa, Phan Thiết
Bãi Đá Ông Địa thuộc địa phận xã Hàm Tiến, trên trục đường cũ từ Phan Thiết đi Mũi Né, từ trung tâm thành phố Phan Thiết đến bãi đã này chỉ khoảng 9 km. Bãi đá này được rất nhiều người biết đến với khung cảnh đẹp thơ mộng, bãi cát trắng trải dài dọc bờ biển, và đặc biệt bãi đá này gắn liền với rất nhiều những câu chuyện dân gian thú vị.
Cho đến hiện nay, không ai biết bãi đá này xuất phát từ lúc nào, kể cả những người lớn tuổi nhất của vùng này cũng không biết chính xác. Nhưng theo những già làng kể lại, khu vực này được gọi là Bãi Đá Ông Địa bởi trước kia ở đây có một tảng đá với hình dáng khá giống với ông Địa ngồi nhìn về đất liền. Tượng ông Địa đang được thờ cúng ở bãi đá này không phải là tảng đá ngày xưa, mà được đúc lại bằng xi măng và được đặt trong một miếu thờ nhỏ đặt gần bờ biển. Lý do mà người dân nơi đay phải làm lại tượng ông địa là bởi đá ông địa trước đây đã bị phá bỏ cùng với tượng Quan Thế Âm (thuộc di tích Lầu Ông Hoàng) được cho là nguyên nhân của sự mê tín vào thời kỳ giải phóng.
Bãi đá Ông Địa gồm nhiều ghềnh đá nhô ra phía biển, nên mỗi khi sóng biển xô vào các mỏm đá, lại tạo ra những tia nước trắng xóa. Du khách sẽ có cơ hội ghi lại khoảnh khắc tuyệt đẹp khi đứng trước bãi biển đầy nắng và gió, cùng những con sóng dập dềnh nơi ghềnh đá.
Du khách sẽ được ngắm nhìn Bãi đá Ông Địa rõ hơn vào mỗi buổi chiều, khi nước thủy triều xuống. Khi đó, du khách cũng sẽ có cơ hội trải nghiệm khá thú vị, đó là làm cư dân vùng biển đi bắt hàu mỗi khi thủy triều xuống. Đây cũng là nơi lý tưởng để du khách có thú vui tao nhã – câu cá biển. Sau khi câu được cá, niềm vui lớn nhất của người câu cá là thưởng thức thành quả từ buổi câu của mình, chỉ cần một vài con cá, một ít cành cây khô làm củi hay một chiếc bếp du lịch, thêm một chút gia vị là họ đã có thể tận hưởng bữa tiệc thiên nhiên đầy thú vị. Và tiếp đó là tìm một vị trí đẹp để tĩnh tâm, hòa mình vào thiên nhiên với ánh trăng mờ ảo ở một vùng biển yên bình, lãng mạn.
Ngắm hoàng hôn trên Bãi đá ông Địa là một trải nghiệm cực kỳ thú vị và tuyệt vời với du khách, bởi khi đó bạn sẽ được khám phá biển khơi, hòa mình và cảm nhận nhiên nhiên rộng lớn.
http://dulichdisanviet.vn/lib/ckedit...phan-thiet.jpg
http://dulichdisanviet.vn/thong-tin/...dia-phan-thiet
-