- 水的三种加持咒语(观自在菩萨甘露真 ,护生咒,甘露水真言).
Printable View
- 水的三种加持咒语(观自在菩萨甘露真 ,护生咒,甘露水真言).
午供常用施食咒語 Noon Offering Mantras
[變食真言 The Mantra For Transforming Food]
南摩薩縛怛他夜哆。縛嚕枳帝唵。三 囉。三跋囉吽。南摩薩縛怛他夜哆。 嚕枳帝唵。三跋囉。三跋囉吽。
Namo Sarwa Datagadawalogide Om Sampara Sampara Hum
真言就是咒語的意思。一般供養的物 是人道使用的,諸佛菩薩和六道群靈 不到,所以要藉由變食真言的加持力 ,變成可利益六道群靈的供品。
===============================
[甘露水真言 Elixir (or Nectar) Mantra]
南摩蘇嚕婆耶。怛他夜哆耶。怛姪他 。蘇嚕蘇嚕。缽囉蘇嚕。缽囉蘇嚕。 婆訶。
Namo Surupaya Tathagataya Tadyatha Om Suru Suru Prasuru Prasuru Svaha
佛典記載三惡道的眾生,看到水就好 看到膿血一樣。透過甘露真言的加持 讓這些像膿血的水,變成清淨甘露; 飲後身得清涼,心無貪瞋癡,一切惡 眾生皆能離苦得樂。所以各位不要以 那只是變好吃、好喝而已。他告訴我 們人生當中,最可怕的就是當處在不 及惡劣的環境時,這兩個咒語都可以 助你,從那不良及惡劣的環境中,使 你超越、昇華到最優秀、最美好的環 裡面。
=================================
[普供養真言 The Mantra For Universal Offering]
唵。夜夜曩。三婆縛。伐日囉斛。
Om Ye Ye Nang San Po Wa Fa Ri La Hum
這咒語的妙用,是能將我們準備的供 變成很多很多,取之不盡,來供養諸 菩薩乃至法界中的一切眾生,令得滿 足而起大歡喜心。
https://sites.google.com/site/sacram...fering-mantras
甘露陀羅尼(往生咒)
阿彌陀佛的「往生咒」叫做「甘露咒 => 《四甘露咒》
https://upanh1.com/images/Untitled772b48e34c7cc0d7.png
https://books.google.com.vn/books?id...%92%92&f=false
==========
5.在阿彌陀系咒語中,《往生咒》是第 一個出現的咒語,此咒文內共使用四 甘露,因此另有一個俗名叫四甘露咒。
http://ricohcx5.blogspot.com/2017/01/blog-post_9.html
THIÊN TRÙ DIỆU CÚNG.
.........
Tadyatha: suru svaha.
此可谓:妙明.增吉祥。
DIỆU MINH
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...%C3%81T/page85
阿弥陀佛的根本咒《无量寿如来根本 罗尼》也被称为《十甘露咒》,《往 咒》也被称为《四甘露咒》等等。
http://www.china2551.org/12304.html
阿弥陀佛根本咒(又称十甘露咒、甘露 啰尼咒、往生广咒) (2015-08-19 14:55:42)转载▼
阿弥陀佛根本咒(又称十甘露咒、甘露 啰尼咒、往生广咒)亦名無量壽如來 本陀羅尼 (彌陀大咒)
【梵音】Namo ratna-trayaya.
【古译】曩(na)谟 啰(rla)怛(da)曩怛啰 (ya)耶(ya)。
Namah Arya-amitabhaya-tathagataya-
捺麻阿哩野(ya) 阿弥跢(da)婆(ba)耶(ya) 怛他蘗(ga)多耶,
arhate-samyak-sambuddhaya.
阿啰(rla)诃(ha)帝(dei),三藐三勃陀(da) 。
Tadyatha:
怛地亚他(即说咒曰,常译为“怛垤die ”)
om, amrte,
唵。阿弥哩帝(dei)。
amrto-dbhave,
阿弥哩(rli)兜巴伟。
amrta-sambhave,
阿弥哩打,三巴伟。
amrta-garbhe,
阿弥哩打,蘖(ga)陛(bei)。
amrta-siddhe,
阿弥哩打,悉(sei)帝(dei)。
amrta-teje,
阿弥哩打,帝(dei)际(zei)。
amrta-vikrante,
阿弥哩打,尾圪(ge)囕(rlan)帝。
amrta-vikranta gamine,
阿弥哩打,尾圪囕答 誐(ga)弥你(nei)。
amrta-gagana kirti-kare,
阿弥哩打,誐誐捺,羯帝噶哩。
amrta-dundubhi -svare,
阿弥哩打,顿度比,萨嚩(wa)哩。
sarvartha- sadhane,
萨哩嚩(wa)啰怛,萨怛你(nei)。
sarva- karma klesa ksayam-kare,
萨哩嚩,哿(ga)哩麻,圪(ge)礼舍(sha), 萨炎,迦(ga)哩。
svaha.
莎(sua)诃(ha)。
了悟子注:①此咒是往生咒的扩展, 以又名往生广咒。往生咒的梵音版附 。
②按惯例,咒语中带口字旁的字是弹 音,即舌尖快速弹动(打嘟噜);不 悉的话多练习一下:啰(rla)、哩(rli) 囕(rlan)、噜(rlu)等。
③可见,经咒的很多规律用现代普通 注音全乱套了,所以建议用古代译本 发音参考梵音罗马注音。我一直是参 考古代不同的译本校订并受持各种咒 的,不得不承认古代祖师翻译的最准 。建议南方的朋友抛开普通话,直接 用粤语、广韵、客家语或闽南语读经 ,因其发音最接近古汉语。
附录:参考的古代不同译本
【版本一】阿弥陀佛根本咒
曩谟(1) 啰怛曩怛啰夜耶(2) 娜 (3) 阿哩野(4) 阿弭跢婆耶(5) 怛他 (ga)多耶(6) 阿啰曷帝(7) 三藐三勃 耶(8) 怛你也他(9) 唵(10) 阿密 帝(11) 阿密哩妬纳婆吠(12) 阿密哩 三婆吠(13) 阿密哩多蘖吠(14) 阿密 多悉帝(15) 阿密哩多帝际(16) 阿密 多尾圪囕帝(17) 阿密哩多尾圪囕多 誐弭宁(18) 阿密哩多 誐誐曩 吉迦隶(19) 阿密哩多 嫩拏枇 娑嚩隶(20) 萨嚩啰陀 萨陀宁(21) 萨嚩羯磨(22) 圪礼舍(23) 圪洒孕 迦隶(24) 莎诃(25)
namo(1) ratna-trayaya(2) namah(3) Arya(4) amitabhaya(5) tathagataya(6 ) arhate(7) samyaksambuddhaya(8) tadyatha(9) om(10) amrte(11) amrtodbhave(12) amrta-sambhave(13) amrta-garbhe(14) amrta-siddhe(15) amrta-teje(16) amrta-vikrante(17) amrta-vikranta-gamine(18) amrta-gagana-kirti kare(19) amrta-dumdubhi-svare(20) sarvartha-sadhane(21) sarva-karma(22) klesa(23) ksayam-kare(24) svaha(25)
【版本二】 甘露陀罗尼咒
于阗三藏实叉难陀佛授记寺译
那谟皤誐嚩帝(一)阿弥哆婆耶(二)怛他 哆耶(三)阿啰诃帝(四)三藐三勃陀耶( )怛儞也他(六)唵(七)阿弥哩帝(八)阿 哩睹皤吠(九)阿弥哩哆参皤吠(十)阿弥 哩哆羯陛(十一)阿弥哩哆徙悌(十二)阿 哩哆帝芝(十三)阿弥哩哆尾羯囕帝(十 四)阿弥哩哆尾迦囕哆,誐弥泥(十五) 弥哩哆伽誐曩(十六)枳栗底迦隶(十七) 阿弥哩哆讷努吠(十八)萨嚩隶(十九)萨 怛他(二十)萨陀弥(二十一)萨婆枳隶 羯叉炎迦隶。萨嚩诃(二十二)
【版本三】近代三藏法师沙罗巴译本
捺莫喝啰怛纳,怛啰耶也(耶、也、 ,古音皆读亚),捺麻阿哩也,阿弥 跋也,怛达哿怛也,阿啰喝帝,三迷 三不达也。怛的也挞。唵。阿弥哩帝 阿弥哩兜巴伟。阿弥哩打,三巴伟。 弥哩打,葛哩比。阿弥哩打,薜帝。 阿弥哩打,帝际。阿弥哩打,韦羯兰 。阿弥哩打,韦羯兰答 哿弥你。阿 哩打,哿哿捺,羯哩帝葛哩。阿弥哩 打,顿度比,苏哇哩。 萨哩哇,阿勒挞 萨怛你。萨哩哇, 哩麻,吉哩舍,吉哩也 葛哩。莎喝
《无量寿如来念诵仪》云:此陀罗尼 诵一遍,则灭身中十恶四重五无间罪 一切业障悉皆消灭。若苾刍、苾刍尼 犯根本罪,诵七遍已,即时还得戒品 净。诵满一万遍,获得不废忘菩提心 摩地,菩提心显现身中,皎洁圆明, 犹如净月。临命终时,见无量寿如来 与无量俱胝菩萨众会围绕,来迎行者 安慰身心,则生极乐世界,上品上生 ,证菩萨位。
《宝王三昧念佛直指》勉起精进力第 二云:
此咒亦名无量寿如来根本真言。诵此 大精进,速生净土。
常当一心诵此拔一切轻重业障得生净 陀罗尼。若持一遍,即灭身中所有一 五逆十恶等罪。若持一十万遍,即得 不废忘菩提心。若持二十万遍,即感 提芽生。若持三十万遍,阿弥陀佛常 其顶,决生净土。此咒亦名无量寿如 来根本真言。诵此得大精进,速生净 。
拔一切业障根本得生净土陀罗尼(往 咒)
梵文:
namo amitabhaya tathagataya tadyatha :
amrto-dbhave amrta-siddhambhave amrta-vikrante amrta-vikranta gamine gagana kirta-kare svaha
准确读音:
拿摩阿弥搭巴呀,达塔嘎达呀,达地 他:
阿弥利兜、巴威。阿弥哩达、悉丹巴 。阿弥哩达、威哥兰谛。阿弥哩达、 哥兰达、嘎弥尼。嘎嘎那、给达嘎哩 。司哇哈。
功德利益:
拔一切业障根本得生净土陀罗尼(往 咒),即早课十小咒之一。
此咒全名「拔一切业障根本得生净土 罗尼」。若有善男子、善女人,能诵 咒者,阿弥陀佛常住其顶,日夜拥护 ,无令怨家而得其便,现世常得安隐 临命终时任运往生。(《拔一切业障 本得生净土神咒》。《大正藏》第十 二册页351下)
诵此咒者,阿弥陀佛常住其顶,命终 后,任运往生。龙树菩萨愿生安养( 方极乐世界),梦感此咒。耶舍三藏 诵此咒,天平等銹法师从耶舍三藏口 此咒。其人云:经本外国不来,受持 法:日夜六时,各诵三七遍,晨夜藻 漱、嚼扬枝、然香火,于形象前跪, 掌诵三七遍,日日恒尔,即灭四重、 逆、十恶、谤方等罪悉得除灭。现在 不为一切诸邪鬼神之所恼乱,命终之 ,任运(自然而然)往生阿弥陀国, 况昼夜受持诵读,功德不可思议! (《佛说阿弥陀经》附记。《大正藏 第十二册页348中)
诵此咒者。阿弥陀佛常住其顶。不令 家为害。现世安稳。命终任意往生。 满二十万遍。即菩提芽生。三十万遍 。非久面见阿弥陀佛。晋时远法师诵 咒。有神人。从西持白银台来云。法 寿终。当乘此往生阿弥陀佛国。众人 闻空中如奏音乐。异香数日不歇。 (《龙舒增广净土文,卷四》。《大正 》第四十七册页263下)
此之神咒先已流行。功能利益不可说 。于晨朝时用杨枝净口散华烧香。佛 前胡跪合掌。口诵七遍。若二七三七 遍。灭四重五逆等罪。现身不为诸横 恼。命终生无量寿国。又此咒能转女 令成男子。……此咒威力不可思议。 但旦暮午时各诵一百遍。能灭四重五 。拔一切罪根得生西方。若能精诚满 十万遍。则菩提芽生。得不退转。诵 满三十万遍。则面见阿弥陀佛。决定 生安乐净土。
(《法苑珠林,卷六十》。《大正藏》 五十三册页735下)
http://blog.sina.com.cn/s/blog_13b4ca99f0102wky4.html
[TẬP 79]: Chú Vãng Sanh.
https://www.youtube.com/watch?time_c...&v=kK0_6-zbHK8
Chư vị đồng học!
Xin xem tiếp phần sau kinh Di Đà có Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Đắc Sanh Tịnh Độ Đà La Ni. Câu này phải đọc như thế này “Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản, Đắc Sanh Tịnh Độ Đà La Ni”, thường gọi là chú Vãng Sanh. Thông thường tụng kinh Di Đà xong, mọi người thường niệm ba biến hoặc bảy biến chú Vãng Sanh. Nếu chiếu theo truyện ký ghi chép thì phải niệm hai mươi mốt biến, ba lần bảy là hai mươi mốt biến, kinh truyện nói như vậy. Con người hiện tại thích giản lược, hai mươi mốt biến giản lược thành bảy biến, nay bảy biến giảm thành ba biến.
Chúng tôi dựa theo lời giải thích của Liên Trì đại sư trong Sớ Sao để giới thiệu khái lược ý nghĩa bài chú này. Đại sư giải thích ý nghĩa bài chú này như sau: “Dĩ chú phụ kinh” (đem chú ghép thêm vào kinh), kinh Di Đà vốn không có chú này, do chú này cũng nói về việc vãng sanh, nên tổ sư đại đức đem bài chú này (bài chú này không dài) ghép vào sau kinh. “Dĩ chú phụ kinh, kinh đắc chú nhi di hiển” (đem chú ghép thêm vào kinh, kinh có thêm chú càng rõ ràng). Chữ “kinh” ở đây là kinh A Di Đà, được bài chú Vãng Sanh ghép thêm đằng sau thì kinh ấy càng thêm rõ rệt. Chú là mật chú, hiển mật viên dung, thể hiện ý nghĩa: Kinh là hiển thuyết, chú là mật thuyết. Nói “dĩ kinh tiên chú” (kinh được đặt trước chú), kinh đặt ở đằng trước, chú đặt ở sau, “chú đắc kinh nhi dũ linh” (chú được kinh [giảng rõ] càng linh), chú là chú của kinh, kinh là kinh của chú. Chú này có ý nghĩa gì? Ý nghĩa của bài chú đều nằm gọn trong kinh, kinh là hiển thuyết, chú là mật thuyết, “giao tương vi dụng” (dùng lẫn cho nhau), kinh và chú hỗ trợ nhau, thành toàn lẫn nhau. “Ưng kết thích dã” [nghĩa là] hãy nên giải thích
như vậy!
Trước hết, hãy nói về xuất xứ của bài chú này. “Thử chú tường kiến Bất Tư Nghị Thần Lực Truyện” (Chú này thấy [ghi chép] tường tận trong Bất Tư Nghị Thần Lực Truyện). Đây là xuất xứ của bài chú này, chú được chép trong Bất Tư Nghị Thần Lực Truyện. Sách nói: “Trì thử chú giả, diệt tội vãng sanh” (trì chú này, diệt tội vãng sanh). Ý nghĩa này rất hy hữu, trong Hiển giáo chúng ta nói vãng sanh Tây Phương Cực Lạc là “đới nghiệp vãng sanh”, chú này lại có thể diệt tội vãng sanh, há chẳng phải là viên mãn hơn kinh ư? Do vậy, quả thật có người không niệm kinh Di Đà, chuyên trì chú Vãng Sanh. Trì chú có được linh nghiệm hay không? Trước kia, tôi giảng kinh ở Đài Bắc, có một vị cư sĩ bảo ông ta hoàn toàn tuân theo những gì Bất Tư Nghị Thần Lực Truyện đã nói, niệm chú Vãng Sanh ba mươi vạn biến. Ông ta niệm đủ ba mươi vạn biến, không thấy có cảm ứng, đến hỏi tôi. Ông ta nói: “Thưa pháp sư! Chú này không linh!” Thật ra, chẳng phải chú không linh! Cùng một đạo lý, như trong phần trước chúng tôi đã nói về kinh, quý vị có hiểu hay không? Chú cũng giống như vậy đó, quý vị có hiểu hay không? Nếu không hiểu thì chỉ là học khẩu ngữ, khó lòng lắm!
Chú linh như thế nào? Nói thật ra, từ cổ đến nay thần chú không được giải thích. Người Ấn Độ nghe cũng không hiểu, bởi nó chẳng phải là tiếng Phạn. Trước kia, thầy Lý từng bảo tôi thầy đã từng học Mật, học suốt tám năm. Thầy bảo: Quá nửa thần chú là ngôn ngữ của lục đạo. Khi Phật giảng kinh, thuyết pháp, thần linh trong lục đạo đều đến nghe, đại khái thính chúng [trong lục đạo] còn nhiều hơn loài người chúng ta. Chúng ta mắt thịt không thấy họ, chứ Phật, Bồ Tát, A La Hán đều có thể thấy được họ. Phải biết đạo tràng giảng kinh của Phật, ngoại trừ thiên long bát bộ ra, quỷ thần trong sáu nẻo đều thực sự đến nghe kinh. Họ đều có năng lực nghe hiểu những ý nghĩa trong lời thuyết pháp của đức Phật. Đúng là như kinh Đại Thừa thường nói: “Phật dĩ nhất âm nhi thuyết pháp, chúng sanh tùy loại các đắc giải” (Phật dùng một âm thanh để thuyết pháp, chúng sanh tùy theo mỗi loại đều hiểu) Như vậy, âm thanh thuyết pháp của Phật là Viên Âm, tức là âm thanh viên mãn, bất luận loài chúng sanh nào đến nghe Phật thuyết pháp đều hiểu được, tựa hồ như nghe Phật đang nói bằng chính ngôn ngữ của loài mình. Đó là thần lực chẳng thể nghĩ bàn!
Sau khi giảng xong một bộ kinh, thông thường đức Phật dùng những ngôn ngữ của thính chúng để nói mấy câu. Mấy câu ấy hết sức thân thiết, dùng ngôn ngữ của chính họ để nói, cũng là lòng từ bi lưu lộ, thân thiết từ bi. Chúng ta thấu hiểu sâu xa, đối với thần linh trong lục đạo đến nghe, đức Phật cũng dùng ngôn ngữ của họ để nói mấy câu, nhất định khiến cho họ hết sức hào hứng, hết sức hoan hỷ. Đó là lý do mật chú chỉ có âm thanh chứ không thể giảng giải ý nghĩa. Đa số ý nghĩa của chú là những ý nghĩa đã được tuyên nói trong kinh, đương nhiên đức Phật cũng chẳng thể nói tỉ mỉ, chỉ nói mấy câu trọng yếu mà thôi. Thầy Lý dạy tôi: Do vậy, chúng ta cung cung kính kính niệm thần chú là được rồi, thế nhưng chúng ta niệm lại sợ gì? Sợ rằng tiếng niệm không chuẩn xác, [niệm không chuẩn xác vẫn] chẳng sao cả! Âm thanh không chuẩn xác, quỷ thần cũng lượng thứ. Đương nhiên, đức Phật niệm sẽ chuẩn xác nhất; sau đức Phật, người thực sự niệm chuẩn xác không nhiều. Cốt sao tâm chân thành, như thường nói: “Hễ thành ắt linh”, chân thành ắt cảm ứng. Đó là một loại thần chú.
Trong Đại Tạng Kinh còn có một loại chú ngữ ta không thể gọi là thần chú được, nó cũng không mang ý nghĩa ấy. Chú ngữ thuộc loại nào vậy? Loại trị bệnh. Trị bệnh thì không phải là thần chú; đối tượng của những chú ấy không phải để nói cho quỷ thần nghe, mà nhắm vào căn bệnh. Đại khái là huyệt đạo bế tắc, đức Phật biết bộ phận nào bị bế tắc không thông suốt nên bệnh tật phát sanh. Đức Phật đem âm thanh dạy cho quý vị, dạy quý vị niệm, niệm những câu chữ ấy, âm thanh lớn hay nhỏ đều đã khảo cứu. Dùng âm thanh để chấn động những bộ vị bế tắc; do chấn động, sự bế tắc bị tiêu trừ, kinh mạch thông suốt. Do vậy, trong kinh điển cũng có rất nhiều chú ngữ trị bệnh, nhưng ngày nay còn linh hay không? Hiện thời, thực sự không linh. Là vì loại chú ngữ ấy nhất định phải được khẩu truyền. Chúng ta dựa theo kinh ấy, thấy bệnh như thế bèn niệm chú ấy không thấy linh nghiệm chút nào hết. Chẳng phải chú ấy không linh, mà là vì chúng ta không biết niệm, chúng ta không biết cách phát âm. Phát âm phải chính xác, âm lượng phải rất chuẩn thì mới thực sự thấu đến bộ vị ấy.
Đây có thể gọi là phương pháp trị bệnh cao minh nhất, chẳng cần phải châm cứu. Châm cứu vẫn cần phải đâm kim. Cách này không cần, dùng âm thanh trị bệnh là phương pháp cao minh nhất; cách này đã thất truyền. Dù Đại Tạng Kinh vẫn có [ghi chép], nhưng quả thật không linh là vì tiếng niệm của chúng ta không chuẩn, mà cũng không biết âm lượng lớn hay nhỏ. Trong thế gian này cũng có rất nhiều thổ dân, tổ tổ tương truyền, rất có thể vẫn còn giữ được phương pháp này, nhưng hiện tại chúng ta rất ít thấy. Điều này thực sự có lý, chứ không phải vô lý, những chú ngữ ấy không có ý nghĩa gì hết. Điều này thuộc về kiến thức thông thường, chúng ta phải hiểu như thế. Nếu trong tương lai, có ai phát hiện, người ấy dùng âm thanh chữa bệnh sẽ hiểu được đạo lý này. Lúc đức Thế Tôn còn tại thế thường dùng phương pháp này. Đại khái ở Trung Quốc, đến đời Đường vẫn còn phương pháp dùng các chú ngữ để trị bệnh này, rất có hiệu quả. Hơn một ngàn năm sau, loại chú ngữ này bị thất truyền, hết sức đáng tiếc!
Ở đây, Liên Trì đại sư nói: “Trì thử chú giả, diệt tội vãng sanh, cố dĩ Bạt Nghiệp Chướng Sanh Tịnh Độ chi danh” (Người trì chú này diệt tội vãng sanh, nên đặt tên là Bạt Trừ Nghiệp Chướng Sanh Về Tịnh Độ). Bài chú này có danh xưng là Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản, Đắc Sanh Tịnh Độ Đà La Ni. Đà La Ni có nghĩa là Tổng Trì.
Sau lời Sớ có lời Sao, Sao nhằm giải thích Sớ, Sớ để giải thích kinh, tức là lại có phần chú giải những lời chú giải [kinh]. Chúng tôi cũng không cần phải đọc hết, chỉ nhắc đến những phần trọng yếu. Nói đến nghiệp chướng thì thông thường, nghiệp chướng gồm ba loại lớn: Phiền Não Chướng, Nghiệp Chướng, Báo Chướng. Nhà Phật thường nói “nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não, nguyện đắc trí huệ chân minh liễu”; ba chướng vừa nói ấy chính là những chướng vừa được liệt kê ở đây: Phiền Não Chướng, Nghiệp Chướng, và Báo Chướng.
Vì sao không nói dẹp trừ Phiền Não Chướng và Báo Chướng? Trong ba chướng vì sao chỉ nhắc đến mình Nghiệp Chướng? Đối với Nghiệp Chướng thì Phiền Não Chướng là nhân của Nghiệp Chướng, Báo Chướng là quả của Nghiệp Chướng. Nói thật ra, những thứ nhân quả báo ứng đều lần lượt làm nhân quả lẫn nhau. Phiền Não Chướng là nhân, Nghiệp Chướng là quả. Do vì phiền não, quý vị bèn tạo nghiệp, Nghiệp Chướng là nhân, Báo Chướng là quả. Nói như vậy chắc quý vị hiểu rõ. Do vì phiền não, quý vị mới tạo nghiệp. Nếu không có phiền não, làm sao quý vị tạo nghiệp được? Phiền não là gì? Tham, sân, si, mạn, trong phần trên gọi là Kiến Hoặc và Tư Hoặc. Quý vị có Kiến Tư phiền não nên mới tạo nghiệp; tạo nghiệp rồi, nhất định có quả báo. Ác nghiệp thì quả báo là ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục; thiện nghiệp thì quả báo là thiện quả nhân thiên. Như vậy, lục đạo luân hồi thuộc về quả báo. Lục đạo luân hồi vì đâu mà có? Do khởi Hoặc tạo nghiệp nên mới biến hiện ra như thế. Đại sư cũng giải thích rất khéo: “Nghiệp tất hữu nhân, nghiệp tất chiêu quả” (Nghiệp ắt có nhân, nghiệp ắt chuốc lấy quả). Vì thế, có thể nói là Phiền Não Chướng và Báo Chướng được bao gồm trong Nghiệp Chướng.
Ở đây, đại sư cũng nói mấy câu rất hay: “Trừ chướng, quý trừ kỳ
bổn. Như căn tuyệt bất sanh nha. Nha bất sanh, tắc chi, diệp, hoa, quả, tất bất sanh cố” (Trừ chướng quý ở chỗ trừ tận gốc. Nếu rễ tuyệt sẽ chẳng nẩy mầm. Mầm chẳng sanh thì cành, lá, hoa, quả đều chẳng thể sanh được). Ý nghĩa này hay lắm, chúng ta phải hiểu. Cổ đức thường chỉ dạy người học tu hành là tu từ đâu? Tu từ căn bản, ý nghĩa như vậy. Căn bản là gì? Căn bản là khởi tâm động niệm. Cách tu hành cao minh nhất là ý niệm vừa khởi, lập tức “chiếu trụ”. Chiếu trụ là gì? Biết rõ ràng minh bạch ý niệm này của mình là thiện hay ác. Ý niệm là thiện, thiện là lợi ích hết thảy chúng sanh, điều thiện ấy chính là ý niệm tốt, phải làm cho nó tăng trưởng. Nếu ý niệm ấy là ác niệm, lập tức phát hiện, ngay lập tức dùng một câu A Di Đà Phật để thay thế nó. Đó là tu từ căn bản.
Do vậy, quý vị phải biết: Pháp môn Tịnh Độ là tu từ căn bản, so với bất cứ pháp môn nào cũng đều dễ dàng hơn. Do vì pháp môn này là đề khởi chánh niệm, chánh niệm là một câu Phật hiệu, vô cùng dễ dàng, vô cùng đơn giản. Ý niệm vừa khởi bèn A Di Đà Phật, đưa về A Di Đà Phật. Niệm thứ nhất vừa khởi, niệm thứ hai bèn chuyển. Nếu quý vị thực sự niệm Phật như thế, công phu sẽ đắc lực! Lợi căn thì ba tháng hay nửa năm sẽ có hiệu quả rất tốt. Độn căn thì ước chừng ba năm hay năm năm sẽ thấy hiệu quả. Quan trọng nhất là trì cho thường hằng, phải giác ngộ nhanh, đừng để vọng niệm tiếp tục tăng trưởng. Đấy là điều chúng tôi thường giảng, phải thường dấy lên sự cảnh giác cao độ, quán chiếu kín nhiệm, đấy mới là chân chánh dụng công!
Liên Trì đại sư nói: “Kim thử chú trì chi, tắc phiền não bất khởi, thị bạt nghiệp chướng căn bản dã” (Nay trì chú này thì phiền não không khởi, đó là dẹp trừ cội rễ của nghiệp chướng vậy). Cội rễ của nghiệp chướng là phiền não, suốt ngày từ sáng đến tối niệm chú Vãng Sanh, thân - miệng - ý đều chuyên chú vào chú ngữ (tổng cộng gồm mười bốn câu), niệm đâu chú tâm vào đó khiến cho phiền não bị khuất phục. Đến lúc công phu đắc lực, dù không niệm phiền não vẫn chẳng khởi hiện, bèn đạt được công phu thành phiến. Dùng phương pháp trì chú để đạt công phu thành phiến.
Tiếp theo đó, [đại sư] giảng những câu được ghi trong Bất Tư Nghị Thần Lực Truyện: “Như Truyện ngôn: Nhật dạ các trì tam thất biến, diệt Ngũ Nghịch, báng pháp đẳng tội, thị dã” (Như Truyện nói: Ngày đêm mỗi thời đều trì hai mươi mốt biến, diệt các tội như Ngũ Nghịch, báng pháp v.v…) Nói “ngày đêm” không có nghĩa là buổi sáng niệm hai mươi mốt biến, buổi tối niệm hai mươi mốt biến. Nếu quý vị hiểu như vậy là đã hiểu lầm ý nghĩa mất rồi. Ấn Độ thời cổ, ngày gồm ba thời, đêm gồm ba thời, trong mỗi một thời niệm hai mươi mốt biến. Nói cách khác là ngày đêm sáu thời. Thật ra, cũng không có gì nhiều, mỗi thời niệm hai mươi mốt biến, ngày đêm phải niệm sáu lần, tổng cộng niệm sáu lần, phương pháp tu hành là như vậy.
Thời cổ, chúng sanh thiện căn sâu dầy, hiểu luân lý, đạo đức, đều có mức tu dưỡng kha khá, phương pháp tu trì này có hiệu quả. Trong thế giới hiện tại thì rất khó, bên trong có phiền não tập khí nghiêm trọng, bên ngoài có sức dụ dỗ mê hoặc to lớn. Công phu hiện tại phải là trong mười hai thời không được gián đoạn trong từng sát-na. Vì sao? Hễ gián đoạn, phiền não tập khí bèn hiện tiền, đây là chuyện rất khó khăn! Đại sư lại nói: “Luân hồi Sa Bà, giai do nghiệp chướng. Nghiệp chướng ký không, uế độ chủng diệt, tùy nguyện vãng sanh, cố đắc sanh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc độ” (luân hồi trong Sa Bà đều vì nghiệp chướng. Nghiệp chướng đã không thì chủng tử của uế độ diệt, tùy nguyện vãng sanh, nên được sanh về cõi nước Cực Lạc của A Di Đà Phật). Ý nghĩa này rất hay.
Tiếp đấy, lại có mấy câu nhằm giải thích chữ Tổng Trì. Chúng ta thường nói đến Tổng Trì rất nhiều. “Tổng nhất thiết pháp, trì nhất thiết nghĩa” (Gồm chung hết thảy pháp, nắm giữ hết thảy nghĩa), đó là ý nghĩa của chữ Tổng Trì. Tổng Trì tiếng Phạn là Đà La Ni (Dhāranī), là tên gọi khác của Chú. “Truyện danh Bất Tư Nghị Thần Lực giả, tức kinh danh Bất Tư Nghị Công Đức dã” (Truyện mang tên là Bất Tư Nghị Thần Lực, tức là bản kinh mang tên Bất Tư Nghị Công Đức). Hợp kinh và chú lại để xét thì: “Trì chú, trì danh, tức đắc vãng sanh, cố đồng danh Bất Tư Nghị” (Trì chú, trì danh bèn được vãng sanh, nên cùng gọi là Bất Tư Nghị). Đây là ý nghĩa lớn lao của việc ghép đem Vãng Sanh Chú vào sau kinh, đại sư đã giảng cho chúng ta biết đại ý.
Câu tiếp đó nói về người phiên dịch chú Vãng Sanh: “Tống Nguyên Gia Thiên Trúc Tam Tạng Cầu Na Bạt Đà La dịch”. Giảng kinh nhất định phải giới thiệu người phiên dịch. Bởi lẽ, Phật pháp từ Ấn Độ truyền sang, từ Tây Vực truyền đến Trung Quốc. Sau khi được truyền đến Trung Quốc phải qua phiên dịch mới thành kinh điển bằng Hoa văn. Nhất định phải ghi chép niên đại phiên dịch, tên người phiên dịch ở đầu kinh, nhằm chứng thực kinh điển này quả thật do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói, từ nguyên văn tiếng Phạn dịch ra hòng thủ tín cùng tín đồ ở Đông phương. Do vậy, phần danh đề [của một bản kinh] rất quan trọng.
Nhà Tống được đề cập ở đây chính là nhà Lưu Tống[1] thuộc thời Nam Bắc Triều, Nguyên Gia là niên hiệu, tức những năm cuối của niên hiệu Nguyên Gia thời Tống Văn Đế (424-453). Thiên Trúc[2] nay gọi là Ấn Độ. Vì sao gọi là Tây Vực? Vào thời ấy, từ Trung Quốc sang Ấn Độ, quá nửa là theo đường Tây Vực[3], vượt qua Thông Lãnh (cao nguyên Pamir) đi về Nam, phía dưới đó là Ấn Độ. Do vậy, ta thường gọi [Ấn Độ] là Tây Phương. Nay giao thông thuận tiện hơn, chúng ta biết rất rõ vị trí của Ấn Độ. Cầu Na Bạt Đà La (Gunabhadra)[4] là vị pháp sư người Ấn Độ. Tam Tạng: Chúng ta thường nói là “học lịch”, giống như “học vị” hiện thời. Ngài tinh thông Tam Tạng. Tam Tạng pháp sư mới có tư cách phiên dịch kinh điển, phải thông đạt Tam Tạng. Nếu không thông đạt Tam Tạng, chẳng thể theo đuổi công tác phiên dịch; quý vị phải có học lịch (học vấn rộng khắp).
Cầu Na Bạt Đà La là tên hiệu của vị pháp sư dịch kinh. Đồng thời với Ngài có một vị pháp sư cũng là người Ấn Độ, tên họ rất giống, tức ngài Cầu Na Bạt Ma (Gunavarman). Có khi [kinh sách] ghi [tên ngài Cầu Na Bạt Đà La] là Cầu Na Bạt Đà, không có chữ La ở sau, âm thanh từa tựa Cầu Na Bạt Ma. Do vậy, rốt cuộc bài chú Vãng Sanh này do vị nào phiên dịch vẫn là điều tồn nghi. Thế nhưng cả hai vị đều là người Ấn Độ, sống cùng thời đại, khẳng định Vãng Sanh Chú quả thật đã được phiên dịch từ kinh điển Phạn Văn, ta có thể khẳng định điều này. Tiếp sau đây là chú ngữ, tôi đọc một lượt rồi xem tiếp những lời giảng giải của Liên Trì đại sư. Chú ngữ gồm mười bốn câu:
Nam mô a di đa bà dạ, đá tha già đa dạ, đá địa dạ tha: A di rị đô bà tỳ, a di rị đá, tất đam bà tỳ, a di rị đá, tỳ ca lan đế. A di rị đá, tỳ ca lan đá. Già di nị, già già na, chỉ đa ca lệ, sa bà ha.
南無阿彌多婆夜。哆他伽跢夜。哆地 他。阿彌利都婆毗。阿彌利哆。悉耽 毗。阿彌利哆。毗迦蘭諦。阿彌利哆 。毗迦蘭哆。伽彌膩。伽伽那。枳多 隸。娑婆訶。
Ba hàng tiếp theo đó là những lời trích từ truyện, tức là những câu trích từ Bất Tư Nghị Thần Lực Truyện. “Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, năng tụng thử chú giả, A Di Đà Phật, thường trụ kỳ đảnh, nhật dạ ủng hộ, vô linh oán gia nhi đắc kỳ tiện, hiện thế thường đắc an ổn, lâm mạng chung thời, nhậm vận vãng sanh” (Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân có thể tụng chú này thì A Di Đà Phật thường ở trên đảnh đầu người ấy, ngày đêm ủng hộ, chẳng để cho oán gia có dịp thuận tiện [làm hại], đời hiện tại được an ổn. Lúc mạng chung, tùy ý vãng sanh). Đoạn kinh văn này nêu lên thật rõ mối quan hệ mật thiết giữa kinh A Di Đà và bài chú này. Thế nhưng khi đọc kinh, chúng ta thường không lưu ý đến những chữ then chốt trong kinh. Vì thế, chúng ta hay nói “đọc kinh không linh”, ta chiếu theo kinh điển tu học dường như không đạt được hiệu quả như kinh đã nói. Người nói như vậy không biết kinh luôn đặt ra những điều kiện rõ ràng! Quý vị thấy đó: “Thiện nam tử, thiện nữ nhân”, chứ không nói “nhược hữu nam tử, nữ nhân” (nếu có kẻ trai, người gái), không hề nói như vậy! Trước đó phải có chữ Thiện. Thử hỏi: Chúng ta đã hội đủ tiêu chuẩn Thiện hay chưa? Nếu hội đủ tiêu chuẩn Thiện, chiếu theo phương pháp này tu học, chắc chắn có hiệu quả. Đấy là những điều chúng tôi thường cảnh tỉnh các đồng học trong những buổi giảng, chớ nên coi thường!
Tiêu chuẩn của Thiện là gì? Trong Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, đức Phật đã nói ra những tiêu chuẩn của Thiện. Trong đoạn kinh nào vậy? Mọi người đều biết rất rành là “Tịnh nghiệp tam phước”. Đó chính là tiêu chuẩn của thiện nam tử, thiện nữ nhân. Điều thứ nhất: “Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu Thập Thiện nghiệp” (Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu Thập Thiện nghiệp). Đó là điều thiện của nhân - thiên, tức tiểu thiện. Chúng ta có trọn đủ hay không? Nếu trọn đủ bốn câu này thì quý vị chính là thiện nam tử, thiện nữ nhân như kinh đã nói. Nếu không trọn đủ bốn câu này, quý vị chỉ là nam tử, nữ nhân, chẳng thể thêm vào chữ Thiện được! Thế nhưng quý vị phải hiểu: Quý vị đạt được điều kiện này, bèn chiếu theo phương pháp tu hành, thì có được cảm ứng thù thắng gì hay chăng? Chưa chắc! Do nguyên do nào? Vì kinh này là kinh Đại Thừa, không phải kinh Tiểu Thừa. Câu thứ nhất ấy chỉ là thiện pháp thuộc nhân thiên, chưa phải là thiện của Đại Thừa. Tu nhân thiên tiểu quả thì được, vì đã đạt tiêu chuẩn!
Điều thứ hai trong Tịnh nghiệp tam phước là “thọ trì Tam Quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi” (thọ trì Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi). Ngoài bốn câu trên, thêm ba câu này vào thành bảy câu. Làm được bảy câu này mới là điều thiện của Nhị Thừa. Học Thanh Văn, học Duyên Giác, trong kinh điển Tiểu Thừa thường nói “thiện nam tử, thiện nữ nhân”, quý vị phải làm được cả bảy câu này. Kinh Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ là kinh Đại Thừa, Vãng Sanh Chú cũng là kinh Đại Thừa, nên quý vị còn phải làm được điều sau đây nữa. Điều sau đây chính là Đại Thừa thiện: “Phát Bồ Đề tâm, thâm tín nhân quả, độc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả” (Phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả). Tổng cộng là mười một câu, mười một câu này là căn bản của mọi căn bản. Làm được hết mười một câu này thì chính là Đại Thừa thiện. Như vậy chữ Thiện là then chốt, thiện nam tử, thiện nữ nhân đầy đủ Tịnh nghiệp tam phước. Quý vị có đủ cơ sở ấy thì được, quý vị “năng tụng thử chú, A Di Đà Phật, thường trụ kỳ đảnh, nhật dạ ủng hộ” (có thể tụng chú này, A Di Đà Phật thường ở trên đảnh đầu, ngày đêm ủng hộ). Quý vị tu thành tựu Tịnh nghiệp tam phước, rồi lại tu pháp môn này, quý vị sẽ thấy có hiệu quả hay là không!
Tuy vậy, như tôi đã kể cùng quý vị, trước kia, tại Đài Bắc tôi đã từng gặp một vị cư sĩ niệm chú Vãng Sanh đến ba mươi vạn biến mà không có hiệu quả, do nguyên nhân gì vậy? Ông ta không có Tịnh nghiệp tam phước! Ông ta chỉ là “nam tử, nữ nhân”, không có chữ Thiện này. Bởi thế, niệm xong ba mươi vạn biến không có hiệu quả. Vì tuổi ông ta đã cao, cũng có thân phận kha khá, khi đó chúng tôi tuổi trẻ, chẳng tiện nói. Xử sự, đãi người, tiếp vật, lời lẽ phải có chừng mực. Điều gì nên nói thì phải coi người ta có tiếp nhận được hay không, mới có thể cùng người bàn luận. Người ta không thể tiếp nhận, không cần phải nói, cứ chắp tay hoan hỷ. Trong xã hội, ông ta có thân phận, có địa vị, cũng có tài nghệ văn chương, thường đúng là vác mặt lên trời, chẳng có mấy ai được ông ta coi trọng. Những điều ấy đều là chướng ngại, đều là nghiệp chướng của ông ta.
Do vậy biết rằng: Tu hành chẳng thể không biết căn bản, căn bản chính là “thiện”. Trước hết, chúng ta phải đạt được tiêu chuẩn Thiện theo nhãn quan của đức Phật, chúng ta phải tự nỗ lực đạt được! Sau đấy, y giáo phụng hành thì mới có hiệu quả. “A Di Đà Phật thường trụ kỳ đảnh” (A Di Đà Phật thường ở trên đảnh đầu) chính là A Di Đà Thế Tôn hộ niệm. Oán thân trái chủ toan chướng ngại quý vị tu hành, chướng ngại quý vị vãng sanh, nhưng có Phật lực, có hộ pháp thần bảo vệ, che chở quý vị, chúng không có dịp nào thuận tiện [gây rối]. “Hiện thế thường đắc an ổn” (trong đời hiện tại thường được an ổn), nghĩa là sống trong thế gian này, quý vị được Phật hộ niệm, được long thiên thiện thần ủng hộ, nên tai nạn, chuyện bất tường chẳng dễ gì gặp phải. Lúc lâm chung, “nhậm vận vãng sanh” (tùy ý vãng sanh), “nhậm vận” nghĩa là tự tại.
Đoạn kinh văn này thuyết minh công đức của thần chú, giảng rất tường tận. Ba câu đầu có thể phiên dịch, bởi lẽ chúng không phải là chú ngữ. Câu thứ nhất “nam mô a di đa bà dạ” là niệm Nam-mô A Di Đà Phật. A-di-đa-bà (Amitabha) là A Di Đà, đọc theo Phạm âm Ấn Độ là A-di-đa-bà-dạ (Amitabhaya); nay chúng ta tỉnh lược thành A Di Đà Phật. A Di Đà chứ không có chữ Phật, trong câu trên không có chữ Phật. Câu kế đó, “đá tha già đa dạ” (tathagataya), dịch là Như Lai. Như vậy, niệm toàn bộ hai câu này, thì “nam mô a di đa bà da, đá tha già đa dạ” chính là A Di Đà Như Lai, trước đó có chữ Nam Mô, tức Nam Mô A Di Đà Như Lai. Có thể dịch nghĩa theo cách đọc hiện thời như vậy, nên hai câu này có thể phiên dịch được. Câu “đá địa dạ tha” (tadiyatha) cũng dịch nghĩa được, dịch sang nghĩa tiếng Hán là “tức thuyết chú viết” (liền nói chú rằng), có nghĩa như vậy. Những câu tiếp đó mới là chú, từ chữ “a di rị đô bà tỳ” (amrtodbhave) trở xuống gồm mười một câu; mười một câu ấy là chú ngữ. Những chú ngữ này từ xưa đến nay không phiên dịch, chỉ có ba câu đầu là có thể dịch.
Trong lời chú giải, Liên Trì đại sư giảng: “Thần chú tùng cổ bất phiên, lược hữu ngũ ý” (Thần chú từ xưa đã chẳng phiên dịch, đại lược có năm ý). Năm ý ấy chính là năm quy định trong thể lệ dịch kinh:
1) Ý nghĩa thứ nhất là giống như đế vương thời cổ, đế vương có những ý chỉ bí mật, chẳng thể tùy tiện tuyên truyền. Quý vị nhận được [chiếu chỉ] cứ y giáo phụng hành là được rồi, cứ chiếu theo đó mà làm, chẳng cần phải hỏi han.
2) Ý thứ hai: Hoặc trong một câu có quá nhiều ý nghĩa, như Tiên Đà Bà[5] mang nhiều nghĩa nên không phiên. Bởi lẽ không tìm được thành ngữ hoặc từ ngữ Trung Quốc tương tự, nên bèn phiên âm kèm theo giải thích.
3) Ba là ở Trung Quốc không có, đại sư nêu thí dụ như Diêm Phù Đề (Jambudvipa). Trong kinh chúng thường thấy chữ sau: Am Ma La quả (Amarapuspaka), Trung Quốc từ trước đến nay chưa hề có, hoặc Hưng Cừ[6] trong Ngũ Tân (năm thứ cay hôi), Trung Quốc cũng không có. Nhưng hiện tại giao thông phát đạt, hàng hóa lưu thông dễ dàng, Am Ma La quả là trái gì vậy? Người Đài Loan gọi nó là trái Ba Lạc (trái xoài)[7]. Trước kia, lão hòa thượng Đạo Nguyên (Ngài là vị pháp sư giảng kinh tại Đài Loan) đi triều bái Ấn Độ. Do Ngài thường giảng kinh, thường giảng trái Am Ma La ở Trung Quốc không có, rốt cuộc vẫn không biết là trái gì. Lần ấy, Ngài đến Ấn Độ, hỏi người Ấn Độ: “Trái Am Ma La là trái gì? Xin đem đến cho tôi xem!” Rốt cuộc họ đem lại, nhận ra trái ấy Đài Loan cũng có, nhưng ở Trung Quốc đại lục không có. Đó là một loại. Hưng Cừ là một loại trong Ngũ Tân, chính là thứ gì vậy? Nay chúng tôi biết nó là một loại hành tây; ở Trung Quốc không có. Như vậy, những thứ giống như vậy không có cách nào phiên dịch được, chỉ còn cách phiên âm.
4) Thứ tư, thuận theo lối cổ không phiên. Thời cổ dịch kinh, những chữ, những câu đã được dịch âm, ai nấy đều biết nên không cần thay đổi. Hãy nêu một thí dụ: A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Nói thật ra, cũng là do tôn trọng cổ nhân, do tôn trọng nên không phiên dịch.
5) Thế nhưng điều thứ năm cũng mang ý nghĩa tôn trọng: “Hoặc tôn trọng, phi Đường ngôn khả đối, như Bát Nhã cố” (Hoặc do tôn trọng, chứ chẳng phải không thể dịch sang tiếng Hán, như chữ Bát Nhã chẳng hạn). Nói thật ra, Bát Nhã cũng có thể dịch thành trí huệ. A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề dịch là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Thế nhưng danh từ Pháp Tướng trong kinh luận hết sức nhiều, chúng ta đọc đã quá quen, như vậy chúng thuộc về loại từ ngữ được tôn trọng. Nhất là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, đã là người học Phật thì bất luận Tiểu Thừa hay Đại Thừa, Hiển Giáo hay Mật Giáo, chúng ta học Phật nhằm mong mỏi điều gì? Chính là mong đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Bát Nhã không dịch nghĩa, cũng có lý đôi chút. Bởi lẽ, trí huệ Bát Nhã chẳng phải là trí huệ theo quan niệm thông thường, không giống với khái niệm trí huệ thông thường!
Thần chú thường không phiên dịch, nhưng có khi nào được phiên hay không? Có chứ! Ngay cả năm hội thần chú Lăng Nghiêm cũng được phiên dịch. Đời Thanh, pháp sư Quán Đảnh đem toàn bộ bài chú ấy dịch ra. Đó chỉ là thiểu số, tất nhiên đa số tôn trọng thể lệ dịch kinh của cổ nhân, nên cũng không cần phải phiên dịch ra. Không phiên dịch ra thì được tôn trọng. Dịch ra rồi, ý niệm tôn trọng không còn nữa. A! Bây giờ đã hết giờ rồi.
Nam Mô A Di Đà Phật!
Trung Phong Tam Thời Hệ Niệm
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký
中峰三時繫念法事全集講記
Chủ giảng: Lão pháp sư Thích Tịnh Không
Giảng tại: Tịnh Tông Học Viện Úc Châu
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Read more: https://hoiquanadida.com/phap-su/chi...#ixzz5cTGK3Vd0
https://hoiquanadida.com/phap-su/chi...sanh-3868.html
AMRTODBHAVE ( AMRÏTA UDBHAVE ) A di rị đô bà tỳ. Cam Lộ hiện lên
Shitro - Mandala 100 Bổn Tôn
https://vi-vn.facebook.com/shitro100/
https://www.youtube.com/watch?v=mM9dfvm_4PI
Tibetan Morning Prayer for the Medicine Buddha
Mọi người nên lưu ý, khi đi tảo mộ trong tiết Thanh Minh, chớ nên mặc đồ (đỏ, trắng).
Đầu nên che nón (dù nắng hay không), để giữ Bách Hội được mật bế, trẻ con dưới 12 tuổi không nên cho ở khu mộ vào giờ Ngọ, sau 5h chiều.
Âm khí xâm lấn không gây ra đột ngột đối ứng phản vệ, nó mất nhiều năm, tháng sau mới hành phát.
Với người ăn thịt (chó, trâu, mèo) tuyệt không để họ tham gia (lấy cốt) cho người thân.
Hy vọng mấy điều sẻ chia, ít hữu cần kíp.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT!!!
https://www.facebook.com/quyluattamgioi
***NHỮNG LƯU Ý KHI THÍ THỰC CÔ HỒN***
Phần đông đại chúng chỉ biết việc cúng cô hồn, thí thực độ vong qua các cách truyền miệng của các sư hoặc các bậc ông bà cao niên làm theo phong tục là chính, tất nhiên vạn sự đều do tâm tựu thành. Với tâm linh thì khế tâm cầu tác sẽ tương ứng nhất hợp.
Tuy nhiên, vì thấy rằng việc ấy sẽ có nhiều điều bất thuận không hay có thể xảy ra cho gia đạo nên thầy nêu ra đây một vài lưu ý, hy vọng sẽ ích hữu cho mọi người khi kiến ngộ liễu pháp nơi đây!
* Việc thứ nhất: Tối kỵ trẻ con (dưới 12 tuổi) tham gia lễ cúng!
Trong lúc tế lễ thí thực thì nếu nhà có trẻ con hãy giữ cho các cháu tránh xa nơi tế lễ cho đến khi hoàn tất.
Các vật phẩm tế lễ không nên đem cho trẻ con trong nhà ấy dùng (nếu là trẻ con nhà khác thì sẽ không có gì ảnh hưởng).
*Nếu trong nhà có người trọng bệnh (nằm trong nhà hoặc trong viện), thì không được cúng Cô Hồn lúc trời tối mà chỉ cúng ban ngày và tránh giờ Ngọ!
* Việc thí thực độ vong khi lễ tế trong nhà thì nên mở các cửa ra, không đóng cửa u uất!
* Nếu cúng ngoài trời thì nhất thiết phải lưu tâm rằng: THẮP HƯƠNG TRÊN BÀN THỜ, TRANG THỜ TRONG NHÀ TRƯỚC, SAU ĐÓ MỚI ĐẾN THẮP HƯƠNG TRÊN MÂM LỄ, Khi lễ hoàn tất phải dọn xong mâm cúng thí thực rồi mới vào dọn mâm trên bàn thờ, không nên làm điều ngược lại để tránh việc có các vong xấu tìm cách lưu trú lại nơi gia đạo sẽ gây nhiều xáo trộn, không hay!
* Khi lễ tế diễn ra, chung quanh trong tầm mắt phải TUYỆT ĐỐI tránh máu đổ, sát sanh! Hoặc các âm thanh kêu than chết chóc của các con vật, nếu không may bất thình lình xảy ra sự ấy hãy lập tức quơ lấy lư hương (nơi cấm nhang tạm trên mâm cúng), mang dốc ngược lại xuống đất nơi có thổ khí (đất nạc có thông thổ không bị cách phân).
Kính chúc tất cả luôn an lành, tinh tấn!
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT!!!
https://www.facebook.com/quyluattamgioi
***NHỮNG LƯU Ý DÀNH CHO NGƯỜI PHẬT TỬ TẠI GIA***
Phần đông đại chúng có niềm tin tưởng rằng: Trong nhà có thờ Phật tượng thì tà ma, quỷ quái sẽ không dám quấy rối, làm hại.
Tuy nhiên, trong thực tế lại có khá nhiều điều không hay xảy ra ngay cả khi trong nhà ấy có tôn tượng chư Phật, Bồ Tát hay chư thần!?
Vậy do đâu mà ra?
Trước kia trong bài pháp: (***Có nên thay tranh tượng mới***) thì thầy đã từng đề cập đến việc khai nhãn ấn cho các tượng khi thỉnh về.
Vậy thì hôm nay thầy xin nói lại cho rõ hơn lẽ này:
Tượng - chỉ là tượng! Đó không phải là Ông Phật ngồi ở đó, cũng không phải vị Bồ Tát đứng ở đó, càng không phải có một ông thần đứng ở đó!
Nó chỉ đơn thuần là một khối gỗ, một khối đồng, hoặc một cục lưu ly, mã nảo, thủy tinh..pha lê ... mà thôi! Chỉ khác là người ta tạo cho nó có dáng hình của một vị Phật, một vị Bồ Tát, một vị Thần nào đó!
Vậy thì vì sao nó có Linh Lực? Và vì sao lại không có linh lực?! Hoặc lúc thì ta cảm thụ nó có linh lực, lúc lại không?!
Để một cục đá, một khối đồng, một khúc gỗ có thể huân nạp được linh lực gia trì của một bậc thánh trí ngoài việc người tín tâm trọn lòng tin kính, thành tâm ngưỡng vọng, nghiêm giữ giới luật ra nó còn phụ thuộc vào điều kiện tôn vị của pho tượng ấy!
* Trước tiên thầy nhắc lại việc ứng hộ gia trì:
Rằng ứng với mỗi vị Thánh Trí (chư Phật, Bồ Tát, La Hán, Hộ Pháp, Thiện Thần) thì luôn phát đi gia lực độ tha, linh lực này tạm hiểu nôm na như một dạng sóng điện từ vậy, khi phát đi trong hư không tạng nếu bắt được ứng tín (tức có một niềm tin được gửi gấm về họ) thì sẽ có phản hồi lại từ đó linh lực sẽ được an ứng (tức nằm lại, giữ lại bên trong pho tượng), thời gian lâu dần thì sự tích tụ linh lực này càng được nhiều dần, khi người đó phạm ác nghiệp bước tới gần thì linh lực tan biến một phần, khi người đó huân tập toàn thiện nghiệp thì linh lực sẽ được an ứng trọn vẹn.
Vì vậy, ta thấy rằng: có linh ứng hay không linh ứng nào phải tại ông Phật, ông Thần không thương, không độ? Mà tất thầy đều là tại ta, do ta mà ra!
Tỉ dụ rằng: có một người cho vay lãi nặng, hằng ngày bóc lột sức lực, tiền của người khác để làm giàu cho mình, dù ông ta có tôn tượng Phật bằng Vàng, ngày đêm chí thành cầu nguyện thì linh lực vẫn là một con số KHÔNG tròn trĩnh.
Bởi vì không có điều kiện tương hợp để cho tôn tượng được huân nạp Linh Quang.
Ngược lại: Có một người nghèo khổ, chặt một khúc củi khô ngoài vườn mang vào, đẽo thành khối vuông, mang lên trang thờ tôn kính Hộ Pháp, lòng chí thành trọn vẹn, hằng ngày nương theo thập thiện hành trì, từ bỏ các thói xấu, rèn giũa các tính tốt. Thì khi mang KHÚC CỦI này đặt cạnh TƯỢNG VÀNG kia, khúc củi sẽ có thừa linh lực để trừ tà, trấn quỷ, xua tan vận nghiệp xấu, chiêu thiện phúc nghiệp tốt lành.
Ngược lại Tượng Vàng kia cũng chỉ là khối kim loại vô tri, sẽ bị nấu chảy, tan biến không có gì là linh ứng cả.
Vậy thì hôm nay, ngoài vấn đề then chốt của việc ứng linh ra, thầy cũng xin lưu ý một phần bên cạnh đó chính là tôn vị của mỗi loại tượng phù (tức là môi trường đặt chúng, vị trí đặt chúng sẽ có tác động giảm trừ hay gia nạp linh lực cho các bức tượng phù).
1/ ĐỐI VỚI TƯỢNG PHÙ BẰNG TRẦM, HOẶC CÁC LOẠI GỖ TẠO HƯƠNG:
Không nên thắp hương bằng các loại nhang của loại gỗ tạo tượng: tỉ dụ tượng Trầm thì tuyệt đối không nên thắp hương Trầm khi lễ tế, vì sẽ làm cho linh lực tam biến theo khói nhang, điều này nhiều phật tử lầm lẫn, mắc phải.
2/ ĐỐI VỚI TƯỢNG PHÙ BẰNG KIM LOẠI (NHƯ VÀNG, ĐỒNG, THAO, BẠC, ...)
Thì không nên nhốt trong lồng kiếng: Điều này lại nhiều người Phật Tử tại gia mắc phải:
Khi phân định như thế không phải linh lực không xâm nhập được mà chính là tín tâm của ta không thể thâu nạp được vào bên trong pho tượng, khi đó linh lực gia trì cũng vẫn bằng KHÔNG.
3/ ĐỐI VỚI TƯỢNG PHÙ BẰNG NGỌC, ĐÁ:
Tuyệt không nên để tượng bị nhập thổ.
Nhất là khi vệ sinh, di chuyển gì đó, khi bị nhập thổ thì toàn bộ linh lực sẽ bị hấp thụ bởi thổ lực nơi đó!
Điều này lý giải vì sao xưa kia các vị Pháp Sư hay mua hoặc trộm cắp các bức tượng Hộ Thần, Phật, Bồ Tát bằng ngọc trong các chùa tự lâu năm rồi đem chôn xuống khu mộ của gia đình họ, để khu đất ấy hấp thu linh lực từ pho tượng tỏa ra mà mang đến hưng thịnh cho họ. Nhưng việc này cũng như một tên cướp đi cướp của người khác vậy. Khi chưa bị bắt thì sống đời sung sướng, dục lạc, khi bị bắt rồi tội đền đến trăm vạn lần hơn.
4/ ĐỐI VỚI TƯỢNG PHÙ BẰNG ĐẤT, SÀNH, XỨ:
Tuyệt không nên để chén nước, cốc nước bên cạnh (vì linh lực sẽ bị hấp thu sang đó). Trừ khi muốn có linh lực đó để trị bệnh, cầu nguyện gì đó cho mình thì hãy nên làm vậy.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT!
CHÚC TẤT CẢ AN LẠC, TINH TẤN!!!
https://www.facebook.com/quyluattamgioi
求財神咒~土財神福德正神/安土地真言@ 美國yoyo,歡迎來信生活交流 ...
美國yoyo - 痞客邦
福德正神的坐騎,是黃皮黑紋的虎爺 。(以下網圖是飛天虎爺公~專門解 困難!)
http://ez123us.pixnet.net/blog/post/...9C%9F%E8%A8%80
https://img.alicdn.com/imgextra/i1/T...430x430q90.jpg
阿阇梨开光光明真言水光明真言加持 净家居修正负能量大光明磁场
拍下后请联系客服根据数量更改邮费 谢谢
价格
促销价
运费
至 杭州
送天猫积分 18
数量
1
件
立即购买加入购物车
服务承诺
正品保证 极速退款 赠运费险 七天无理由退换
支付方式
阿阇梨开光光明真言水光明真言加持 净家居修正负能量大光明磁场
分享收藏商品
产品参数:
品牌: 修明堂货号: xmt5341风格: 简约现代
描述加载中
累计评价
店铺30天服务情况
猜你喜欢
malldetail011133116049.unsz.su18
https://detail.tmall.com/item.htm?id=9328043080
https://detail.tmall.com/item.htm?sp...&id=9328043080
https://detail.tmall.com/item.htm?sp...&id=9328043080
https://www.youtube.com/watch?v=FmlgQIDl-4c
Thiền Sư An Lạc Hạnh - Người trở về từ cõi chết
https://www.youtube.com/watch?v=FEk3YHLVYNs
VONG LINH LẠY SƯ TRỤ TRÌ ĐỂ CÁM ƠN THẦY ĐÃ CHO Ở NHỜ TRONG CHÙA
http://img.pcstore.com.tw/~prod/M076...c&P=1400207776
PChome Online 商店街- 真心呵護TAKE CARE - 祈福招財金紙/祭拜土地公&迎 ...
PChome商店街
PChome Online 商店街- 真心呵護TAKE CARE - 祈福招財金紙/祭拜土地公&迎財神&新春開運/拜拜用品系列
http://www.pcstore.com.tw/wintin/M07657413.htm
白莲花顶髻无垢咒 / Pure White Lotus
梵文注音:om padmo snisa vimale hum phat
https://www.jianshu.com/p/78cd4c43968e
Bài Cúng đầy đủ đây cụ ơi!!
THỈNH PHẬT KHOA
- 3 hồi trống thỉnh
- Pháp chủ phân ban, tín chủ tựu vị.
- Pháp chủ tịnh đàn an úy cẩn bạch
Pc: Thiết rỹ: Đàn tràng dỹ biện, minh minh đăng
chúc dỹ dao gia pháp nhạc phu trần ái ái hương
hoa nhi đấu thể.
P. Đạo tràng dỹ tập đại chúng ban hành tín chủ chí
thành nhất tâm cảm cách.
T. Tiên lãi kim chung kích thứ hậu khả ngọc khánh
minh thời điền điền chung cổ ưởng niên thiên, Dát dát bạt nạo văn chấn địa
P. Thượng thông kiền thượng hạ đạt khôn duy, nhiễu
nhiễu động triệt sơn hà. Lưỡng lưỡng kình dao thế giới.
P. Các sinh hoan hỷ. Cộng chứng viên minh nghiêm
chỉnh y quan, thượng thừa phật lực
Pc: Như lai giáo hữu an úy thổ địa long thần chân
ngôn cẩn đương trì tụng
P. Nhạc độc sơn xuyên chư linh huống. Thế gian thổ
địa chúng long thần.
T. Tài văn tuyên diễn diệu chân ngôn, các chấn
phương ngung sinh hoan hỷ.
Nam mô sinh hoan hỷ địa bồ tát ma ha tát (3)
PC: Kích cổ tam thông, cung nghinh thập phương
chư phật, chư thánh tốc giáng đàn chung.
- Rung 3 hồi
- Tín chủ kiền thành kính lễ ngũ bái
- Pháp chủ kiền thân đính lễ
- Rung 3 hồi => chuyển=> vào khoa
Lô hương xạ nhiệt, pháp giới mông huân,
Chư phật hải hội tất giao văn
Tùy sứ kết tường vân,
Thành ý phương ân
Chư phật hiện toàn thân
Nam-mô Hương vân cái Bồ - Tát ma ha tát (3lần)
PHÙ DĨ
Hương hoa đấu thể, Đăng chúc giao huy
Phạm tướng trang nghiêm, Hoàn ưng tán lễ ( nhạc)
CỬ TÁN
Chí tâm tán lễ Đạo tràng chân pháp giới
Ngã phật sơ đăng giác đàn nội
Y chính hộ trang nghiêm,
Thánh phàm giao tự tại, phóng quang minh
Bất khởi, tọa chu sái hải,
Ngũ quả cập ngũ nhân,
Tập sứ tinh thập hội.
Đế võng trùng trùng vô quải ngại,
Phả hiền tác truyền trì,
Văn thù khai ám muội,
Nhất sái la thành chính giác,
Viên hành giải nguyệt,
Tín chủ bảo bình an tăng phúc tuệ.
Đương lai thế xả diêm phù sinh tịnh độ.
Như lai diệu sắc thân,
Thế gian vô dữ đẳng
Vô tỷ bất tư nghì, Thị cố cung kính lễ.
P. Thập phương chư phật thái hư không,
Bách ức phân thân, hiển hiện đồng.
T. Biến hóa vạn ban bích ngọc tướng
Trang nghiêm thiên xích tử kim dung.
P. Từ phong hiệu hiệu tường vân nhiễu.
Pháp vũ phi phi thụy khí lùng.
T. Giáo vọng tây kiền thân lễ thỉnh,
Giáng lâm đông độ giám vô cùng.
Thích Ca Mầu Ni Phật (họa) (3 lần)
Đại thánh tam giới sư như lai
Nam mô Đại Giác tôn,
Thiên phúc tướng thanh liên tọa hạ,
Thường trụ phật đà gia
Nam mô kim khẩu diễn đàn diệu pháp
Bí mật bảo tạng, thường trụ đạt ma gia ( 2 lần)
Nam mô du tam giới lịch tứ châu
Thần thông diệu dụng thường trụ tăng già da (3 lần)
Nam mô sam tam bảo hộ, chính pháp
phạm vương đế thích, bát bộ long thiên chúng.
NHẤT THIẾT CUNG KÍNH TÍN LỄ LỄ THƯỜNG TRỤ TAM BẢO
P. Phù dỹ:
Pháp duyên quang khải,
Thành ý tinh kiền, dục nghinh chư phật dĩ lai lâm,
Tu đương tứ phương nhi thanh tịnh.
Nghi bằng pháp thủy, quán sái đàn tràng,
Nhất trích tài chiêm, thập phương câu khiết,
Ngã phật giáo tại chung hữu, sái tịnh.
Đà na ni. Cẩn đương trì tụng. ( nhạc)
( niệm đại bi thần chú)
Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát ( 3 lần )
Thiên-Thủ-Thiên-Nhãn-Vô-Ngại-Đại-Bi Tâm Đà-La-Ni
Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ Đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án .Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát toả. Nam mô tất kiệt lật đỏa y mông a rị da. Bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị, ma ha bàn đa sa mế. Tát bà tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đa . Na ma bà dà. Ma phạt đạt đậu đát điệt tha. Án A bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Cu lô cu lô yết mông. Độ lô đồ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà la đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê di hê. Thất na thất na. Ra sâm Phật ra xá lợi. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê lỵ. Ta ra ta ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ Đề dạ Bồ Đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế lỵ dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắc ni na. Bà dạ ma na. Ta bà ha. Tất đà dạ. Ta bà ha. Ma ha tất đà dạ. Ta bà ha. Tất đà dũ nghệ. Thất bàn ra dạ. Ta bà ha. Na ra cẩn trì. Ta bà ha. Ma ra na ra . Ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da. Ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ. Ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ. Ta bà ha. Ba đà ma kiết tất đà dạ. Ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ. Ta bà ha. Ma bà rị thắng yết ra dạ. Ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô kiết đế. Thước bàn ra dạ. Ta bà ha
Án Tất điện đô Mạn đà ra Bạt đà gia Ta bà ha.
THỦY TÁN
Dương chi tịnh thủy biến sái tam thiên
Tĩnh không bất đức lợi nhân thiên
Pháp giới quảng tăng duyên,
Diệt tội tiêu khiên, hỏa diệm hóa hồng liên
Nam mô thanh lương địa bồ tát ma ha tát (3lần)
T. CUNG VĂN:
Dục nghinh thập phương Chư Phật)
Tu bằng ngũ phật pháp hương
Yên ái, tường vân mật bá Thiên Đường Phật Quốc.
Phong phiêu thụy khí
Tu đạt địa phủ long cung
Ký năng cảm động vu thánh hiền,
Tất thị vô tư ư ảnh ưởng.
Cố kinh vân tín căn sinh nhất niệm,
Chư Phật tận giao chi,
Phần hương đạt tín đà la ni
Cẩn đương trì tụng.
P. Giới hương định hương giữ tuệ hương.
Giải thoát, giải thoát tri kiến hương
T. Quang minh vân đài biến pháp giới,
Cúng giàng thập phương vô lượng Phật
P. Hương tài nhiệt lộ phần bảo định chung.
Chiên đàn trầm nhũ chân kham cúng.
T. Hương yên liễu nhiễu liên hoa động,
Chư Phật bồ tát hạ thiên cung
P. Thanh lương sơn la hán, nạp thụ nhân gian cúng
Nam mô: hương cúng giàng Bồ Tát ma ha tát (3 lần)
CUNG VĂN
Phật chân pháp thân, do nhược hư không,
Vô lượng công đức sở thành tựu cố,
Tiên tương pháp thủy, quán sái đàn tràng,
Thứ bị danh hương, phả thân cúng dạng.
Dĩ thử thỉnh Phật, chư Phật giáng lâm,
Dĩ thử sám hối tội diệt phúc sinh,
Kỳ phúc bách phúc tự chí,
Độ sinh, chúng sinh giải thoát
Giáo hữu phụng thỉnh chân ngôn
Cẩn đương trì tụng.
Nam mô: bộ bộ đế, lị già, lị đá, rị đát,
đá nga đá ra (3)
Tín chủ kiền thành phần hương bái thỉnh
Giới định chân hương phần khởi xung thiên thượng
Tín chủ……Kiền thành nhiệt tại kim lô phóng
Khoảnh khắc nhân huân tức biến mãn thập phương,
Tích nhật gia du, miễn nạn tiêu tai chướng
Nam mô: hương cúng dàng bồ tát ma ha tát (3lần)
CẨN VẬN CHÂN HƯƠNG CHÍ TÂM BÁI THỈNH:
Nam mô: Thiên hoa đài thượng bách bảo quang trung
Quá hiện vị lai:Nhất thiết thường trụ, Phật đà gia tôn
Quá hiện vị lai:Nhất thiết thường trụ, Đạt ma gia tạng
Quá hiện vị lai:Nhất thiết thường trụ, tăng già da chúng
DUY NGUYỆN:
Thiên thùy bảo cái, địa dũng kim liên,
Giáng phó đạo tràng, thụ tư cúng giàng
Hương hoa thỉnh
TÁI VẬN CHÂN HƯƠNG CHÍ TÂM BÁI THỈNH:
Đại hùng Giác phụ lưỡng túc Y Vương,
Biến hóa ức thiên độ nhân vô lượng.
Thanh tịnh pháp thân, tỳ lư Xá Na Phật.
Viên mãn báo thân, lư Xá Na Phật
Thiên bách ức hóa thân, thích ca Mâu Ni Phật.
Đương lai hạ sinh Di Lặc tôn Phật
Tây phương giáo chủ cửu phẩm đạo sư A Di Đà Phật
Đông phương Dược Sư lưu ly quang vương Phật.
Ngũ phương, ngũ Phật, Thập phương, thập Phật
Tam thập ngũ Phật, Ngũ thập tam Phật
Trang nghiêm kiếp thiên Phật, Hiền kiếp thiên Phật,
Tinh tú kiếp thiên Phật
Tận thập phương tam thế nhất thiết chư Phật.
DUY NGUYỆN:
Ngã Phật từ bi, bất vi bản thệ,
lân mẫn hữu tình, quang giáng đạo tràng chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh!
P. TÁI VẬN CHÂN HƯƠNG CHÍ TÂM BÁI THỈNH:
Tam thừa bí điển, Ngũ bộ Huyền văn,
Giá lý đẳng đệ nhất, nghĩa thiên ngôn
Chỉ đích chân tam muội hải.
Xuân lôi phạm hưởng khai huyền nghĩa
Ư lộc giã, uyển trung ca lăng tiên âm,
Tuyên văn cú ư kim cương tọa thượng.
Nha tiêm thôi xám ngọc trục tâm lương,
Lý triệt, nhất thừa, thanh,hòa, hải.
Triều văn thứu lĩnh; Kinh Phiên tam tạng,
Công kiên kiếp thạch bí long cung,
Tượng bán ngôn nhi thiên chướng tiêu trừ,
Bằng tứ cú nhi lục trần thanh tịnh.
Duy – Nguyện:
Tam thừa bảo tạng chư phẩm tôn kinh,
Tử- Kim- Quang tụ diệu thập phương,
Bạch ngọc hào phân huy sa giới,
Giáng phó đạo tràng
Chứng minh công đức.
Hương hoa thỉnh!
T. TÁI VẬN CHÂN HƯƠNG, CHÍ TÂM BÁI THỈNH:
Nhập Bi- Nguyện hải thụ công đức
Lâm chủng chủng trang nghiêm từ bi vô lượng.
Nam- Mô: Đại- chí Văn thù sư lợi Bồ- Tát.
Đại- Hành- Nguyện Phổ- Hiền………....Bồ tát.
Đại từ- bi Quan thế âm………………....Bồ tát.
Lương- Hữu – Đức Đại- thế - Chí ……..Bồ tát.
Vô- Tận- Ý- ……………………………Bồ tát,
Bảo-Đàn – Hoa…………………………Bồ tát.
Dược vương ……………………………Bồ tát,
Dược – thượng …………………………Bồ tát.
Nhật- Cung ……………………….. …..Bồ tát.
Nguyệt –cung…………………………..Bồ tát.
Trường – Thọ ………………………….Bồ tát,
Duyên thọ ……………………………...Bồ tát.
Di – Lặc ………………………………Bồ tát;
Thất – Câu -Chi Phật Mẫu Đại - Chuẩn - Đề minh vương.. Bồ Tát
Minh – Dương cứu khổ bản tôn địa tạng vương Bồ Tát.
Phả quang giải – oan – kết …………….Bồ Tát
Thanh tịnh Đại - Hải- chúng…………... Bồ Tát
Duy nguyện:
Chư tôn Bồ Tát, Ma ha tát.
Bất vi bản thệ, phủ vận thần thông,
Giáng phó đạo tràng chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh!
P. TÁI VẬN CHÂN HƯƠNG CHÍ TÂM BÁI THỈNH:
Nam mô tiểu xưng la bốc, trưởng hiệu Mục Liên
Thiện tâm xuất, hiếu tử chi môn.
Tu thân thiệu, Phật Pháp chi đạo.
Thần thông đệ nhất, vận từ bi,
Nhi cứu khổ, chúng sinh,
Hiếu thuận cư tiên, trì trai giới
Nhi, báo ân phụ mẫu,
Bi ca xa trì tích trượng, Diêm vương,
Văn nhi hợp trưởng hàng tâm,
Viên đính tướng quải phương bào
Ngục tốt, kiến nhi đê đầu cung thủ
CUNG DUY:
Đại bi, Đại nguyện, Đại Thánh, Đại từ,
ma ha Mục Kiền Liên tôn giả liên tọa hạ.
DUY NGUYỆN:
Bất vi bản thệ, lân mẫn hữu tình
Quang giáng đạo tràng chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh!
T. TÁI VẬN CHÂN HƯƠNG CHÍ TÂM BÁI THỈNH
Nam vô từ tâm quảng đại, hoàng thệ vô biên,
Xả huyễn thân nhi đốn liễu vọng duyên
Đầu giác hoa nhi, tảo mông thụ ký.
Thủ chung tích trượng,
Chấn khao địa ngục, chúng môn khai,
Chưởng thượng minh châu
Chiếu triệt thiên đường, chư lộ thấu.
Chúng sinh độ tận phương chứng Bồ Đề,
Địa ngục vị không thệ bất thành Phật,
Thù thâm ân ư Phụ Mẫu,
Thí quảng lợi ư quần sinh
Cung duy:
Nam mô: Đại bi đại nguyện, Đại Thánh, Đại từ
U Minh cứu khổ bản tôn
Địa Tạng Vương Bồ Tát Liên tọa hạ.
Duy nguyện:
Bất vi bản thệ, Phủ vận thần thông
Giáng phó đạo tràng chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh!
P. TÁI VẬN CHÂN HƯƠNG CHÍ TÂM BÁI THỈNH
Tứ quảng tứ hướng tích chi Phật.
Thanh Văn La Hán hiền Thánh tăng,
Phả thiên ứng cúng tận đầu lư
Đại Đức Tôn giả:
A nhã kiều trần như ………………...Tôn giả
Ma ha ca diếp ………………………. Tôn giả
Ưu lâu tần loa ca diếp………………..Tôn giả
La đề ca diếp ………………………...Tôn giả
Xá lợi phất ………………………….. Tôn giả
Đại mục Kiền Liên …………………. Tôn giả
Ma ha ca chiên duyên………………..Tôn giả
A lâu nâu đà …………………………Tôn giả
Kiếp tân la ………………………….. Tôn giả
Kiều Phạm Ba Đề……………………Tôn giả
Li bà đa …………………………… Tôn giả
Tất lăng già bà đa……………………. Tôn giả
Bạc câu la ……………………...…… Tôn giả
Ma ha câu hi la………………...……. Tôn giả
Nan đà ………………………………. Tôn giả
Tôn đà la, nan đà……………………. Tôn giả
Phú lâu na, di đa la ni tử……………. Tôn giả
Tu Bồ Đề …………………………… Tôn giả
Át nan ………………………...…….. Tôn giả
La hầu la………………………… …..Tôn giả
Như thị chúng sở tri thức, đại A La – Hán,
Phụ hữu học, vô học, nhị thiên nhân đẳng,
Tây thiên đông độ, Nam Việt – Lịch đại tổ sư, Tào khê nam hoa, tự đại giám chân không,
Phả giác viên minh, thiền sư nhục thân Bồ Tát.
Yên Tử sơn Đầu Đà,
Điều Ngự,Giác Hoàng, Tĩnh Tuệ Thiền sư,
Báo nghiêm Tháp Hoằng, Pháp độ nhân,
Chuyết Công Hòa Thượng, Phổ Giác quảng tế,
Đại Đức Thiền Sư nhục thân Bồ Tát.
Tại cộng Hào Thượng, Minh Hạnh Thiền sư,
Anh Công, Chí Công, Đại Đức thiền sư,
Lương Vũ Đế Quân, Tam Châu Cảm Ứng,
Hộ Pháp Vi Đà, Tôn Thiên Bồ Tát.
Nhị thập ngũ vị Giới thân, Nhất thập bát vị
Hộ giáo Già Lam Thánh Chúng Bồ Tát.
DUY NGUYỆN:
Chư tôn Bồ Tát, bất vi bản thệ, lân mẫn hữu tình
Quang giáng đạo tràng chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh !
P. TAI VẬN CHÂN HƯƠNG CHÍ TÂM BÁI THỈNH
Vô sắc giới chung,tư không, tứ thiên thượng đế.
Sắc giới tứ thuyền, nhất thập bát thiên, thiên đế.
Dục giới Thiên Chung, lục thiên Thiên Đế.
Hiệu Thiên chí tôn Kim Quyết Ngọc Hoàng Thượng Đế
Thái thượng Tam Nguyên, Tam phẩm tam quan Đại Đế.
Nam cực Bắc Đẩu trường sinh tử vi đại đế
Nhị Thập bát tú, Thập nhất liệt điệu Tinh Quân
Thập nhị Cung Phận, Tôn Thần,
Trai Chủ hợp gia, sở thuộc
Bản Mệnh nguyên thần, chân quân,
Tinh đẩu hà hán, vạn trượng cao chân,
Chủ thiện phạt ác, hộ thế tứ phương, bát bộ kim cương, Thập Nhị Dược Xoa đại tướng,
Bát Bộ Hộ Pháp long thiên,
Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn lá la, Ma hầu la già, nhân phi nhân đẳng, nhất thiết thánh chúng.
Duy nguyện:
Bất khả uy quang, thỉnh giáng đạo tràng chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh !
T. TÁI VẬN CHÂN HƯƠNG CHÍ TÂM BÁI THỈNH:
Nhạc phủ chí tôn Đông nhạc
Thiên tề đại nhân sinh thánh đế quân.
Nam nhạc tư thiên, chiêu thánh đế quân
Tây nhạc kim thiên, thuận thánh đế quân.
Bắc nhạc an thiên nguyên thánh đế quân.
Trung nhạc Trung thiên, sùng thánh đế quân.
Nhạc phủ gia khánh nhất thiết quyến thuộc tôn thần.
Duy nguyện:
Bất xả uy quang, thỉnh giáng đạo tràng
Chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh!
P. TÁI VẬN CHÂN HƯƠNG CHÍ TÂM BÁI THỈNH:
Địa phủ chí tôn, bắc âm phong đô
nguyên thiên đại đế, quan thánh đế quân.
Phong đô lục động các vương quyến thuộc,
Minh phủ Thập điện Minh vương:
Đệ nhất điện………Tần quảng Minh vương
Đệ nhị điện ………Sở giang Minh vương
Đệ tam điện………Tống đế Minh vương
Đệ tứ điện ……….Ngũ quan Minh vương
Đệ ngũ điện………Diêm la Minh vương
Đệ lục điện ….....Biến thành Minh vương
Đệ thất điện…….Thái sơn Minh vương
Đệ bát điện …….Bình chính Minh vương
Đệ cửu điện…….Đô thị Minh vương
Đệ thập điện……Chuyển luân Minh vương
Phả cập lục viện, thượng thư tào liêu
Điển trưởng, tư quan địa phủ chư ngục đẳng thần.
Duy nguyện:
Bất xả uy quang, thỉnh giáng đạo tràng
Chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh!
P. TÁI VẬN CHÂN HƯƠNG CHÍ TÂM BÁI THỈNH:
Thủy Phủ chí tôn
Phù Tang Cam Lâm Đại Đế.
Tứ độc giang hà, hoài hải
Quảng Nguyên Đại Vương,
Cửu giang tứ hải Bát đại……….Long vương
Hải vân uy đức luân cái………..Long vương
Bạt nan đà ……………………. Long vương
Sa già la ………………………. Long vương
Hòa tu cát …………………….. Long vương
Đức soa ca…………………….. Long vương
A na bà đạt đa…………………. Long vương
Ma na tư ………………………. Long vương
Ưu bát la………………………. Long vương
Nhất thiết bát hải……………….Long vương
Thuộc xuyên tự điển khê uyên đàm
động thủy phủ nhất thiết chư ty chân tể.
Duy nguyện:
Bất xả uy quang thỉnh giáng đạo tràng
Chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh!
TÁI VẬN CHÂN HƯƠNG CHÍ TÂM BÁI THỈNH:
Kim Niên, Kim nguyệt, Kim nhật, kim thời
hư không quá vãng, thần tiên
tứ trực công càn, ngũ phương sứ giả,
trì phán đồng tử, dẫn đạo tướng quân.
Kim niên đương cai thái tuế chí đức tôn thần,
bản phủ châu huyện, Thành Hoàng tôn thần,
bản cảnh đương cai xã lệnh
Thủ thổ chí thần gia cư phụng sự
Hương hoa hữu cảm nhất thiết minh thần,
Môn thừa hộ úy, tỉnh táo long quan
giám trai sứ giả, kiên lao địa thần.
Pháp Duyên hữu cảm, vô lượng thần kỳ.
Thị thánh thị phàm, viết u viết hiển.
Duy nguyện:
Lai lâm pháp hội, chiêm ngưỡng thế tôn,
Thủ hộ đàn tràng chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh!
THƯỢNG LAI PHỤNG THỈNH:
Ký hạ quang lâm, an tọa chân ngôn
cẩn đương trì tụng
P. Thập phương chư phật giáng đạo tràng,
Hộ pháp long thiên giáng đạo tràng
T. Thụ thử hương hoa phả cúng dàng
Thụ thử trai duyên phả cúng dàng.
P. Bất xả từ bi tác chứng minh
T. Bất xả uy quang tác chứng minh
Nam mô vân lai tập Bồ Tát ma ha tát (3)
Ân cần phụng thỉnh:Phật Pháp Tăng Tam Bảo,
Thiên địa thủy vạn linh, Lượng Phật Thánh Dĩ Từ Bi
tất thùy lân nhi cảm ứng.
Cung vọng:
Thập phương Tam Bảo, Chư Phật, ThếTôn,
Hộ Pháp long thiên,vô biên thánh tiết
Thị nhật kim thời bất xả từ bi,
Quang giáng hương duyên,Chứng minh công đức.
Dĩ kim tín chủ kiền cụ hương hoa,
Đăng, trà, quả, thực, lý đương phụng hiến:
Nam mô tát phạ, tát tha nga, đá phạ rô chỉ đế án tam bạt ma tam bạt la hồng (3)
Nam mô tô rô bà ra, đát tha nga, đá ra, đát điệt tha án tô rô, tô rô bát na tô rô sa bà ha (3)
Thử thực sắc hương vị
Thượng cúng Thập Phương Phật
Trung phụng chư Thánh Hiền
Hạ cập lục đạo phẩm
Đẳng thí vô sai biệt
Tùy duyên giai báo mãn.
Năng linh chí giả,
Đắc vô lượng ba na mật,
Tam đức lục vị cúng Phật,Cập tăng
Pháp giới, Hữu tình phả đồng cúng giàng.
Án nga nga nẵng tam bạt phạ phiệt nhật la hộc ( 3)
Nam mô phả cúng giàng Bồ Tát Ma Ha Tát (3)
Khể thủ bạc già, phạm viên mãn tu đà la,
Thượng thừa Bồ - tát tăng công đức nan tư nghì.
Ngưỡng duy: Tam – Bảo chư phật, thế tôn,
Chứng minh công đức
Nam mô…………………Phật đà gia.
Nam mô…………………Đạt ma gia.
Nam mô…………………Tăng già gia.
Nam mô…………………Đa bảo Như – lai
Nam mô…………………Bảo thắng Như – lai
Nam mô……………Diệu sắc thân Như – lai
Nam mô……………Quảng bác thân Như - lai
Nam mô…………………Ly phố úy Như-lai
Nam mô……………Cam lộ vương Như – lai
Nam mô…………………A-Di-Đà Như – lai
Duy nguyện:
Thường trụ Tam – Bảo Thất Phật thế tôn,
Bất xả từ bi, vị tác chứng minh, cúng dàng, dĩ tất,
cụ hữu đầu từ kim đương tuyên đọc
P. Tín chủ hộ quỳ phụng sớ văn kỳ đảo
T. Khể thủ chúc kiền điều ngự chủ
Kim thân trượng lục độc xưng tôn
P. Diện như mãn nguyệt bạch hào quang
Giám sát sự thời kiền đảo sớ
T. Kim thời khải thỉnh
Hữu sớ tuyên dương, hạnh đối uy quang,
Cung duy từ thính cẩn đương tuyên bạch,
Tuân phụng Như – lai,
Thần tuân phụng Thích ca Như lai,
Di giáo, đệ tử chúng đẳng
Thành hoàng thành khủng, khể thủ
Khấu thủ bách bái cẩn từ
Tuyên bạch thượng ngôn.
Thượng lai sớ văn các đạo cung đối phật tiền, thê tỳ bát nhã bổ khuyết phó lô hoa hóa.
Quán tự tại bồ tát hành thâm Bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh diệc vô vô minh tận; nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, bồ đề tát đỏa y Bát nhã ba la mật đa cố tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố vô hữu khủng bố; viễn ly điên đảo mộng tưởng; cứu cánh niết bàn, tam thế chư Phật y Bát nhã ba la mật đa cố đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Cố tri Bát nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề. Tát bà ha.
Bát nhã ba la mật đa(3)
Cúng giàng công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phúc giai hồi hướng
Phổ nguyện tầm lịch chư hữu tình
Tốc vãng vô lượng quang phật sái
Hồi hướng nhân duyên tam thế phật
Văn thù phổ hiền quan tự tại
Nguyện dữ thử công đức
Phổ cập ư nhất thiết ngã đẳng chúng sinh
Giai cộng thành phật đạo
Thập phương tam thế nhất thiết phật
Chư tôn bồ tát ma ha tát
Ma ha bát nhã ba la mật
Tứ sinh cửu hữu đồng đăng
Hoa tạng huyền môn bát nạn tam đồ
Cộng nhập tỳ lư tính hải
Nam vô sa bà thế giới
Tam giới đại sư tứ sinh từ phụ
Nhân thiên giáo chủ
Thiên bách ức hóa thân
Bản sư thích ca mâu ni phật (3)
Tự quy y phật đương nguyện chúng sinh
Thể giải đại đạo pháp vô thượng tâm
Tự quy y pháp đương nguyện chúng sinh
Thâm nhập kinh tạng trí tuệ như hải
Tự quy y tăng đương nguyện chúng sinh
Thống lý đại chúng nhất thiết vô ngại
Hòa nam thánh chúng
Nguyện dĩ thử công đức
Phả cập ư nhất thiết
Ngã đẵng dữ chúng sinh
Giai cộng thành phật đạo
BẢNG KINH
Pc: Bảng kinh tuyên bạch
P. Trinh quán Đường triều thập nhị niên
Khâm sai Tam Tạng vãng Tây Thiên
T. Bạch Long, Đại Thánh tùy tòng hậu
Bát Giới, Sa Tăng ứng bệ tiền
P. Lĩnh đắc chân kinh đa hiểm trở
Tương hồi đông độ cứu oan khiên
T. Công kiên kiếp thạch lan xưng tán
Bắc đẩu nguy nguy vọng đại thiên
DỊCH NGHĨA
P. Triều nhà Đường vừa năm trinh quán
Khâm sai thầy Tam Tạng lĩnh kinh
T. Đường Tăng vâng chiếu lệnh truyền
Nào thầy nào tớ nhật trình ra đi
P. Ông Bát Giới Sa Tăng đi trước
Mở đường ra nhẹ bước như không
T. Sau quan Đại Thánh Bạch Long
Đằng vân giá vũ như không tức thì
P. Sang đến nước Lưu Ly Phật Quốc
Vào tâu quỳ lĩnh được kinh ra
T. Biết bao hiểm trở sơn hà
Biết bao quỷ quái yêu ma đón đường
P. Thầy cùng tớ dặm trường non nước
Lĩnh kinh về cứu được oan khiên
T. Ngày nay ứng phó tùy duyên
Phụng kinh nghinh tiếp thay quyền diễn nghi
PC: Dương cũng được kỳ ri thọ khảo
Âm cũng được hồn phách siêu thăng
Bảng này diễn nghĩa rõ ràng
Tín chủ quỳ tấu tâm tình phụng kinh
Tụng kinh thời phải tôn kinh
Phật cho phú quý hiển vinh đời đời
Tín chủ kiền thành liên liên bái
TỤNG KINH DI ĐÀ
Tín chủ kiền thành tạ lễ tam bái!
TẠ ĐÀN
Đàn nghi cáo tất. Pháp sự vân chu.
Thỉnh chư Phật biệt vu tĩnh cung
Thỉnh chư thánh hoàn quy tiên giới
Hương trà ngọc truyện tửu lạnh kim bôi
Thị chi nhi phất kiến kỳ hình
Thúc nhĩ nhi mạc ty kỳ tạng
Nhất chiếm nhất lễ, tái bái tái từ lai vô khứ tích vô tông thần minh xuất hiện
Thủy hữu nghinh, chung hữu tạ
- Nhất bái tạ cầu phúc phúc lai
- Nhị bái tạ, trừ tai tai diệt
- Tam bái tạ, cầu địa linh nhân kiệt
- Tứ bái tạ cầu vong linh siêu sinh tịnh độ
- Dương quyến thụ phúc, thụ lộc, thụ thiên ân.
- Các xướng phương ngung vạn vạn tuế
Sở hữu kim ngân, chỉ tiền cúng tiến cô hồn rụng bằng hoa hóa.
Khoa Hoàn
CÚNG TỔ KHOA
- 3 hồi trống thỉnh
- Tín chủ tựu vị. Kính lễ gia tiên tứ bái
- Tín chủ hộ quỳ kiền thành mật đảo
- Kiền thành tái lễ tam bái
- Rung 3 hồi xong chuyển
Hương phụng hiến
Cúng rạng gia tiên tổ
Tổ khảo tổ tỷ đẳng chư chân linh
Tín chủ kiền thành hương phụng hiến
Ngưỡng kỳ uy đức giáng từ trung
Tĩnh phúc vĩnh thiên niên
Nam mô hương vân cái bồ tát
Ma ha tát (3)
THIẾT RỸ
Pháp đàn sơ khởi, thành ý tinh kiền
Dục khiết tĩnh ư từ đường
Tiên gia trì ư pháp thủy
Tài phi nhất trích biến thập phương
Giáo hữu tĩnh uế chân ngôn
Cẩn đương trì tụng.
Cảo cảo kim ba hàm ngọc đảm
Phi phi bạch lộ tán quỳnh tương
Kim bằng nhất trích sái từ đường
Cấu uế tịnh chiên tất thanh tịnh
Án bắc đế cha, thiên thần ra-na-địa
Cha-sa-hạ (3)
THIẾT RỸ
Cảm thông đại đức
Tư bằng tiên chúng chi nghi
Thỉnh phúc duyên sinh
Tất hoạch sinh thành chi đức
Hữu cầu tất ứng, vô đảo bất thông
Rỹ kim phần hương, kiền thành cúng rạng.
Cao tằng tổ khảo, tổ tỷ bá thúc huynh đệ
Cô ry tỷ muội, tảo vong tảo lạc
Nội ngoại liệt vị đẳng chư chân linh.
Tượng thử chân ngôn phả đồng cúng rạng.
Tư cứ Việt Nam Quốc, ……..tỉnh ….huyện
………xã………thôn Y vu ………..sứ cư.
Kim thần tín chủ……………………………
Hợp đồng gia ………………………...đẳng
Tuân hành khoa phạm tuyên diễn chân ngôn
Nguyện tứ uy quang phủ lâm pháp tịch
Giáo hữu triệu thỉnh chân ngôn
Cẩn đương trì tụng.
Rỹ thử linh thanh thân triệu thỉnh
Gia tiên bất muội tự văn tri
Ngưỡng bằng tam bảo lực gia trì
Thử nhật kim thời lai giáng phó
Nam vô bộ bộ đế lỵ già lỵ đát đá nga đá ra (3)
THƯỢNG LAI
Triệu thỉnh chân ngôn
Tuyên dương dỹ kính
Chúng đẳng kiền thành
Thượng hương nghinh thỉnh
1. NHẤT TÂM PHỤNG THỈNH
Định tòng thiên số. Thác thụ nhân thân
Mỗi kỳ bách tuế doanh dư
Nam đắc vô thường trì kiện
CUNG THỈNH
Cao cao tằng tổ khảo,
Cao cao tằng tổ tỷ
Liệt vị chư chân linh
Nguyện tòng lụy kiếp rỹ đương kim
Hoặc tại thiên cung xuất nhập
Hoặc cư tịnh độ tiêu rao
Tượng thánh đức rỹ lai lâm
Thác hình thanh nhi tốc chí
An bằng tổ vị lai tựu pháp duyên
Giáng phó từ đường thụ tư cúng rạng
Hương hoa thỉnh
2. NHẤT TÂM PHỤNG THỈNH
Tái xuất bào thai
Thánh nhân quan thử động bi ai
Huyễn thân cứu kính vô hương khiết
Tổng lĩnh tây quy hề khứ lai
CUNG THỈNH
Cao tằng tổ khảo
Cao tằng tổ tỷ
Liệt vị chư chân linh
Tòng lai bản tính
Thác tại hà phương
Hoặc cư Phật quốc thanh lương
Hoặc tại thiên cung khoái lạc
DUY NGUYỆN
Đức rỹ lai lâm
Thác tư nhi tốc chí
Giáng phó từ đường thụ tư cúng rạng
Hương hoa thỉnh.
3. NHẤT TÂM PHỤNG THỈNH
Lưỡng nghi phú tái vạn sinh thành
Nghiêm quân chi đức
Tượng thiên tư tỷ chi ân
Phối địa cúc dục đề tê
Tâm ổi hối ri càn
Tựu thấp ý ân cần
Thụ đầu dục tĩnh
Hậu phong suy đại đức vô vong
Hà nhật báo
Kim bằng cụ liệt tiến tu
Phần hương bái thỉnh
CUNG THỈNH
Tổ khảo, tổ tỷ
Tổ cô, mãnh tướng,
Đẳng chư chân linh
DUY NGUYỆN
Tôn linh bất muội
Tĩnh phách như tồn
Tượng thánh đức dỹ lai lâm
Giả thần công nhi dẫn chí
Nhất chân khiết tĩnh
Ngũ phúc trừng thanh
Giáng phó từ đường, thụ tư cúng rạng
Hương hoa thỉnh
4. NHẤT TÂM PHỤNG THỈNH
Can khôn cao hậu
Lan thù phú tái chi ân
Phụ mẫu dưỡng sinh
Dục báo cù lao chi đức
Canh tường tại liệm
Túc rạ vô vong
Hỗ lĩnh rỹ tiêu điều
Hạ nhật hựu phùng
Diện mục thung, huyên đường tịch mịch
Cơ liên tái đổ âm dong
Đãn tịch tân tu. Thần hôn phụng sự
Sàng đầu do tự. Cựu y thường
Án thượng bồ trần tân trở đậu
Kính thỉnh như tại cảm cách lại hà
Thị nhật kim thời. Phần hương bái thỉnh.
CUNG DUY
Hiển khảo hiển tỷ
Đẳng chư chân linh
DUY NGUYỆN
Hồn như tại nhật. Phách nhược sinh thời
Bằng pháp lực rĩ hoàng thâm
Tượng thần công nhi tiếp chí
Tam duyên vĩnh đoạn, thập địa đốn siêu
Giáng phó từ đường thụ tư cúng rạng
Hương hoa thỉnh!
5. NHẤT TÂM PHỤNG THỈNH
Thiên sinh địa dục
Nhật dương nguyệt âm
Hữu sinh hữu tử. Số rã cần kham
Tử vong phụ hề. Tâm hoài thiết thiết
Thê tương phu rã tuế nguyệt thâm thâm
Hình dong mạc đổ, mỗ tiết thích lâm
Tư duy tiên tổ liệt vị mỗi mỗi ai tâm.
DUY NGUYỆN
Bằng tư pháp thủy tẩy trừ thân tâm
Tỷ vạn lư rỹ nga không
Sử nhật trần chi bất nhiễm
Chân linh tịch duyệt, tĩnh phách tiêu rao
Giáng phó từ đường thụ tư cúng rạng.
Hương hoa thỉnh!
6. NHẤT TÂM PHỤNG THỈNH
Quy khứ lai hề quy khứ lai
Nhất chân thử nhập mãn bào thai
Hóa thân thiên thượng chân kim sắc
Nguyệt đổ chân hề quy khứ lai.
CUNG DUY
Bá thúc cô ry huynh đệ tỷ muội
Tảo vong tảo lạc á thân liệt thích
Chư vị chân linh
Hoặc cư tây trúc đức bẩm thông minh
Hoặc tại tuyền cung thác cư địa phủ
Hoặc tại phần mộ chi trung
Hoặc cư lâm thác chi nội.
DUY NGUYỆN
Tượng thánh đức dỹ lai lâm
Thác tư duyên nhi tốc chí
Giáng phó từ đường thụ tư cúng rạng
Hương hoa thỉnh!
7* THƯỢNG LAI
Triệu thỉnh ký mộc quang lâm
An tọa chân ngôn cẩn đương trì tụng.
Linh hồn rỹ lai lâm
Tĩnh phách tự văn tri
Thỉnh tụng đà na ly
Lập địa sinh hoan hỷ
Án già ma na sa hạ (3)
TỌA TIỀN CHÂN NGÔN
Tuyên dương dĩ kính
Năng linh cúng cụ. Nhất nhất vô biên
Thượng hiến đẳng linh nguyện thùy nạp thụ
Tín chủ kiền thành. Thượng hương phụng hiến.
Nam vô, tát phạ đán tha nga đá phạ
Rô chỉ đế án tam bát na tam bát na hồng(3)
Nam vô tô rô bà da đán tha nga đá gia
Đán điệt tha án tô rô bát na tô rô
Bát na tô rô sa bà ha(3)
Án phạ nhật na ma ha. Hương hoa phụng hiến
Án phạ nhật na ma ha. Đăng trà phụng hiến
Án phạ nhật na ma ha. Quả thực phụng hiến
Vô lương nhân duyên nhất thiết cúng
Phả thí pháp giới chư chúng sinh
Nhược dỹ hương hoa phả cúng rạng
Duy nẵng thành tựu phật công đức
Án nga nga nẵng tam bà phạ
Phạt nhật la hộc (3)
KIM THỜI KHẢI THỈNH
Hữu sớ tuyên dương hạnh đối uy quang
Cung duy từ thính cẩn đương tuyên đọc
*Tín chủ hộ quỳ phụng sớ văn kỳ đảo,
- Khể thủ giác hoàng điều ngự chủ
Kim thân trượng lục độc xưng tôn
*Kiền như mãn nguyệt bạch hào quang
Giám sát sự thời kỳ đảo sớ
- Kim thời khải thỉnh, hữu sớ tuyên dương,
Hạnh đối uy quang, khất kỳ thông thính
Cẩn đương tuyên bạch
Tuân phụng như lai, thần tuân phụng
thích ca như lai, ri giáo
thành hoàng thành khủng, khể thủ khấu thủ
cẩn từ tuyên bạch xướng ngôn.
(đọc sớ)
Thượng lai sớ văn các đạo, kính tiến tổ tiên, thê tỳ bát nhã bổ khuyết. Rụng bằng hoa hóa.
Cúng dàng công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phúc giai hồi hướng phổ nguyện trần lịch chư hữu tình
Tốc vãng vô lượng quang phật sái
Hồi hướng nhân duyên tam thế phật
Văn thù phổ hiền quán tự tại
Nguyện dĩ thử công đức
Phả cập ư nhất thiết
Ngã đẳng dữ chúng sinh
Thập phương tam thế nhất thiết phật
Chư tôn bồ tát, ma ha tát, ma ha bát nhã
Ba la mật.
Tứ sinh cửu hữu, đồng đăng hoa tạng huyền môn, bát nạn tam đồ, cộng ngập tỳ lư tính hải.
Nam mô sa bà thế giới, tam giới đại sư, tứ sinh từ phụ, nhân thiên giáo chủ, thiên bách, ức hóa thân, thích ca mâu ni phật (3)
Tự quy y phật đương nguyện chúng sinh
Thể giải đại đạo, phát vô lượng tâm
Tự quy y pháp đương nguyện chúng sinh
Thâm nhập kinh tạng trí tuệ như hải
Tự quy y tăng đương nguyện chúng sinh,
giai cộng thành phật đạo.
Kiền thành tạ lễ gia tiên tứ bái!
Khoa hoàn
THỈNH BỔ THIÊN QUAN
1- Nhất tâm phụng thỉnh
Chung động ngọc lân, phiêu diểu tường vân chi ái ngại
Thánh từ ngọc điện thâm la
Tiên lạc rỹ khanh tương
CUNG DUY
Thừa thiên hậu pháp hậu thổ
Hoàng địa kỳ ngọc điện hạ
DUY NGUYỆN
Khúc thùy thiên nhãn phả chiến phàm tâm
Giáng phó đạo tràng chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh
2- Nhất tâm phụng thỉnh
Dương dương tại thượng
Thị phất kiến, thính phất văn
Tạc tạc quyết linh
Đảo tất thông cầu tất ứng
CUNG DUY
Tứ châu tăng già đại thánh
Giác thuyền sư phả chiếu vương bồ tát
Tam giới thiên ôn thiên phù đại đế
Quan cai ôn hoàng dịch lệ
Lã nhạc chính thần
Cập tả hữu mộc thoa hòa ôn xứ giả
DUY NGUYỆN
Thâm thâm bảo cái, tế tế long xa
Quang giáng bản đàn chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh
3- Nhất tâm phụng thỉnh
Thiên tào thông tấn địa phủ lục danh
CUNG DUY
Đương niên………………vương hành khiển.
Thái tuế chí đức tôn thần
Chủ bạ chư án
Phán quan hành binh bộ chúng
DUY NGUYỆN
Trừ tai hãn hạn, lợi lạc an nhân
Giáng phó đạo tràng chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh
4- Nhất tâm phụng thỉnh
Chức tư từ miếu, lệ thuộc hương thôn
CUNG DUY
Đương cảnh thành hoàng, bản thổ đại vương
Thừa thượng thiên chi uy quyền
Chưởng hạ giới chi nhân vật
Dương dương tại thượng
U hối năng minh cầu tất ứng
Hữu cảm tất thông, bảo hộ gia trung
Nguyện thùy chiếu giám
DUY NGUYỆN
Kim thời lễ thỉnh, giáng phó bản đàn
Chứng minh công đức hương hoa thỉnh
5- Nhất tâm phụng thỉnh
Thiên thời ôn tư, ngũ phương quỷ vương
Ôn hoàng dịch lệ hành bệnh hành tai
Nhất thiết quản cai ư tuế nguyệt
Chưởng trị hạ giới, như chu triệu ngụy
Trịnh, Sở, Ngô, Tần, Tống, Tề, Lỗ, Việt
Lưu vi hành khiển chi chức
Hoặc thủ ư
Tý Sửu Rần Mão Thìn Tỵ chi niên
Hoặc chi ư
Ngọ Mui Thân Rậu Tuất Hợi chi tuế
Ngũ phương ôn bộ
Ngũ đế đạc lộ thần quan
Biến tướng hiện hình
Hưng yêu tác nghiệt đẳng chúng
DUY NGUYỆN
Kim thời lễ thỉnh, giáng phó bản đàn
Chứng minh công đức hương hoa thỉnh
6- Nhất tâm phụng thỉnh
Mạnh thùa thượng đế chiếu kính hạ
Dân ký thiện ác chi minh
Định cát hung chi số
Tuần du thế giới, tổng quản phương ngung
CUNG DUY
Đương sứ thần linh, thổ địa chính thần
Cập ngũ phương địa chủ, ly mỵ võng lưỡng
Thổ gia thổ ngung, thổ văn thổ vũ
Thổ tử thổ tôn, thổ ôn thổ hầu
Thổ bá thổ mạnh, thổ trọng thổ quí
Bản gia tín chủ, nội ngoại tổ tông
Thương vong triệt tự, oan gia trái chủ
Nhất thiết hữu vị vô danh hữu danh vô vị
Đẳng đẳng chân linh, trùng trùng quyến thuộc
DUY NGUYỆN
Giáng phó bản đàn chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh!
Khoa hoàn!
THỈNH BỔ NHƯƠNG TINH
1- Cẩn vận chân hương chí tâm bái thỉnh
Vị triều kim quyết chức trưởng bắc thần.
Chuyên tạo hóa chi khu cơ
Chư nhân gian chi thiện
Ác cư kỳ sở vận
Vô ngôn chi hóa công
Tham càn thủy khôn sinh
Vị hồ trung thí bất sát chi nhân
Lương đại hải hàm xuân dục
Thị chi phất kiến, cảm dã toại thông
Thần khể thủ, khấu thủ, bách bái tấu thỉnh
Cung Duy
Trung thiên tinh chúa, bắc cực tử vi đại đế
Ngọc bệ hạ.
Duy Nguyện
Chiếu lâm bất viến, thị thính vô tư
Thỉnh giáng pháp duyên chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh
2- Tái vận chân hương chí tâm bái thỉnh
Thiên tư trung hậu, địa bộ ôn lương
Vị quán ngũ tào
Chủ vận tạo sinh linh chi mạnh
Vọng long nhất phẩm
Trì bút tháo, họa phúc chi quyền
Đức phối càn khôn, lượng dong hà hải
Thần khể thủ, khấu thủ bách bái tấu thỉnh
Cung Duy
Nam tào chủ lệnh
Thiên phủ duyên thọ tinh quân ngọc bệ hạ
Duy Nguyện
Tâm lượng khoan hoằng, xuân phong phả phiến
Thỉnh giáng pháp duyên, chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh.
3- Chí tâm bái thỉnh
Tử cực đằng huy thiên khu bổ súy
Sán lạn chân liên
Vu thất vị ư thiên vi chương
Quang mang chúc chiếu vu vạn phương
Lâm hạ hữu hách
Thần khể thủ khấu thủ bách bái tấu thỉnh
Cung Duy
Bắc đẩu tham lang mộc đức tinh quân
Cự môn Thổ Đức Tinh Quân
Lộc tồn Mộc đức Tinh Quân
Văn xương, văn khúc. Thủy đức tinh quân
Liêm Tinh hỏa đức Tinh Quân
Vũ khúc Kim Đức Tinh Quân
Phá quân thủy đức tinh quân
Tả phụ hữu bật thổ đức tinh quân
Duy Nguyện
Uy nghiêm như tại, diện tướng trang nghiêm
Thỉnh giáng pháp đàn, chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh.
4- Chí tâm bái thỉnh
Hoán hồ tại thượng, sán nhiên hữu chương.
Quang mang thượng liệt, vu lục tào
Hưu cữu thứ vy quy chưởng nhất
Yểm ánh hạ lâm vu vạn vọng
Mặc chu nhất bút hệ quyền hoành
Ngưỡng chi di cao, chiêm giả thời kính
Thần khể thủ, khấu thủ bách bái tấu thỉnh
Cung Duy
Nam tào thiên lương thổ đức tinh quân
Thiên cơ mộc đức tinh quân
Thiên đồng thủy đức tinh quân
Duy Nguyện
Điện quang biến chiếu, phong mã tỳ lai
Giáng phó đàn tràng chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh
5- Chí tâm bái thỉnh
Tả hữu chu toàn, đông tây vận chuyển
Xuất một chi cơ mặc tắc
Càn khôn vô xứ bất quang huy
Chiếu lâm chi đức vô tư
Xuân nhạc hữu hình tùy biến chiếu
Thần khể thủ, khấu thủ bách bái cẩn tấu
Bắc Đẩu thái dương hỏa đức tinh quân
Thái âm thủy đức tinh quân
Duy Nguyện
Hoằng thùy tuệ nhãn, phả chiếu phàm tâm
Thỉnh giáng bản đàn chứng minh công đức hương hoa thỉnh
6- Chí tâm bái thỉnh
Hoàng hoàng ly vị
Thăng hằng chiến diện vu thanh cung
Tỷ tỷ càn cung
Kinh luân tinh huỳnh vu bích hán
Cắng cổ kim chi sở kiến
Phân tú dạ chi sở như
Thần khể thủ, khấu thủ bách bái
Cung Duy
Thiên quan thần thủ la hầu Tinh Quân
Địa cung thần vỹ kế đô tinh quân
Đông phương giáp ất mộc đức tinh quân
Nam phương Bính Đinh hỏa đức Tinh Quân
Tây phương canh tân kim đức Tinh Quân
Bắc phương nhâm quý thủy đức tinh quân
Trung ương mậu kỷ thổ đức tinh quân
Thiên khôi, thiên tiễn, thiên mã hỏa đức tinh quân
Thiên xương kim đức tinh quân
Hóa quyền mộc đức tinh quân
Hóa lộc thổ đức tinh quân
Hóa kỵ, hóa khoa thủy đức tinh quân
Thiên quan thiên phúc tinh quân
Long tỳ phương các tinh quân
Tam thai bát tọa tinh quân
Duy Nguyện
Tinh minh bất muội, lâm chiếu vô tư
Thỉnh giáng pháp duyên, chứng minh công đức Hương hoa thỉnh
7- Chí tâm bái thỉnh
Sán sán cửu tiêu, chiếu hồi vân hán
Hoàng hoàng di thái, chiếu triệt hồng trần
Thần cơ chi nội điện chi uy
Chiểu hiệu lệnh ư thủy hỏa mộc kim thổ vị
Nhuệ khí biến phong vân chi sắc
Hiển anh linh ư đông tây nam bắc trung ương
Bất hiểu riệc lâm lãm nhiên khả úy
Thần khể thủ, khấu thủ bách bái tấu thỉnh
Cung Duy
Bắc đẩu phù tinh
Kình dương đà la kim đức tinh quân
Nam đẩu trợ hỏa tinh quân
Linh tinh hỏa đức tinh quân
Thiên không thiên kiếp hỏa đức tinh quân
Thiên thương thiên xứ thiên diêu
Thủy đức tinh quân
Thiên la địa võng, thổ đức tinh quân
Đại hao, tiểu hao hỏa đức tinh quân
Cô thần quả tú. Thổ đức tinh quân
Thái tuế quan phù điêu các phục binh phi liêm
Lực sỹ hỏa đức tinh quân
Tang môn tướng quân, mộc đức tinh quân
Thiên khốc thiên hình, kim đức tinh quân
Duy Nguyện
Hồi tâm giáng phúc, chuyển họa vi tường
Thỉnh giáng pháp duyên, chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh
8- Chí tâm bái thỉnh
Sơn nhạc chử tinh, kham hưng rộng tú
Ứng thương thiên vỹ hỏa chi tinh
thống tây cực đoài kim chi vỵ
Bài phục nội bồi long bệ
Chỉ xích thừa, thượng đế chỉ truyền
Bào hao ngoại chấn hùng uy
Tứ cửu trưởng nhân gian vận tỵ
Thần khể thủ, khấu thủ bách bái tấu thỉnh
Tây phương canh tân kim đức
Bạch hổ tinh quân trị hạ
Duy Nguyện
Hoằng khôi đại đức, kiếm khước thần uy
Thỉnh giáng pháp duyên, chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh.
9- Chí tâm bái thỉnh
Tại thiên thành tượng, tại địa thành hình
Lệ thiên bổ thiểm xước chi văn
Trợ nguyệt đấu quang minh chi sắc
Thượng bài mặc xá liệt huy hoàng
Ư sung mịch chi thiên
Hạ chiếu tuần hoàn giáng phúc họa
Ư lâm tổng chi chúng
Hoặc thủ thân, khung thân
Mạng triệu cung tam phương
Hoặc tư lưu vật lưu
Liên chiếu lâm tứ chính
Thần khể thủ, khấu thủ bách bái tấu thỉnh
Cung Duy
Thiên thọ thiên tài thiên đức
Nguyệt đức tinh quân
Thiên y thiên quý ân quang
Thai phụ phong cáo tinh quân
Bác sỹ tấn sư thanh long
Thiên hỷ hỷ thần tinh quân
Đào hoa hồng loan hoa cái
Thiên giải giải thần tinh quân
Đường phú quốc ẩn
Thiên phú thiên trù tinh quân
Sinh khí thiên thương, thiên nhĩ thiên mục
Bệnh phù tử phù, lục hại phá toái
Kiếp sát địa không, tuần không
Tiệt lộ hao sát tinh quân
Trường sinh mộc lạc quan đới
Lâm quan, Đế vương, Tinh Quân
Suy bệnh tử, mộ triệt thai dưỡng thần quan
Duy Nguyện
Uy quang bất xả, cảm cách hữu tình
Thỉnh giáng pháp duyên, chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh.
10- Chí tâm bái thỉnh
Mạnh thụ đế đình, khung thừa hoàng chiếu
Hoặc rỹ âm công nhi hoạnh mông hậu báo
Hoặc rỹ tích thiện nhi danh lộc thiên tào
Dương dương chi khí tương khoát như
Thuộc diêm phủ nhi phân hành ngũ đạo
Tạc tạc chi quyết linh
Nghiễm nhược lệ nghiêm từ nhi
Quyền trưởng nhất phương
Thần khể thủ, khấu thủ bách bái tấu thỉnh
Cung Duy
Đương niên …………vương hành khiển
Thái tuế chí đức tôn thần
Đương cảnh thành hoàng
Bản thổ đại vương, bát bộ long thần
Thổ địa bản mệnh
Sở thuộc nguyên thần chân quân
Ký chư thần quan
Hậu thổ chủ tư thần quan
Duy Nguyện
Lượng quách vô tư, nhân duy nhất thị
Chứng minh công đức hương hoa thỉnh
Ngưỡng Duy
Tinh minh bất muội, lâm chiếu vô tư
Thể chí công nhi chúc chước viên minh
Ứng quyết thỉnh nhi quang đằng xích khí
Ký hạ minh vô bất kiến
Thượng quan phúc rỹ lai lâm
Cẩn thừa khoa giáo phúng tụng linh văn
Ngưỡng vọng uy quang, đồng lâm pháp tọa
Giáo hữu an tọa chân ngôn
Cẩn đương trì tụng
Đãng đãng duy cao bất viễn
Dương dương tại thượng huệ nhiên lai
Vân xa giá ngự hoa đàn thượng
Cát diện âm phù thọ vực khai
Nam mô vân lai tập bồ tát ma ha tát (3)
Thỉnh bổ 1 lễ thánh
Nhất tâm phụng thỉnh
Thanh tiên ứng mộng. Thiên tướng giáng sinh
Học vấn thông minh, Kinh thiên vỹ địa
Thao lược hùng tài. Thánh thần văn vũ
Tế thế an bang. Bình nguyên bát khấu
Khâm phụng đề mạnh. Tổng quản tam quân
Thủy bộ chư dinh. Sơn lâm yến lộ
Tam quân công thệ. Tướng sỹ đồng cừu
Binh bài vạn kiếp. Tân bá lục đầu
Lộ triệt vân đồn. Hỏa công đằng thủy
Tóc đắc phạm nhan. Sinh cầm ô mã
Chi lộ phản bá tướng sỹ khải hoàn
Xã tắc điện an. Sơn hà như tạc
Mãn kỳ chi nhật Thánh giá thăng đằng
Lịch đại bao phong. Gia ban thượng đẳng
Nhân dân lão thiếu. Cộng mộc ân quang.
Cung duy
Trần triều khâm sai tiết chế.
Thống lĩnh chư dinh kiêm thủy bộ binh mã đại nguyên súy. Tổng quốc chính thái sư thượng phụ thượng quốc công. Sắc phong nhân vũ. Hưng Đạo Đại Vương thượng thượng thượng đẳng vạn tuế phúc thần Ngọc Điện hạ.
Duy nguyện
Kim thời phụng thỉnh
Vân hành Phượng liễu vũ giá long sa
Quang giáng hương duyên.
Chứng minh công đức hương hoa thỉnh.
Nhất tâm phụng thỉnh
Lục địa chân tiên. Nam thiên sinh Phật
Tu tùy giao thủy. Diệu pháp tuật vu nhân gian.
Đắc đạo tây phương. Thần vãng lai vu thế giới
Hai thượng chi đồng lang thập khứ
Nhất nạp phong khinh. Sơn đầu chi thạch
Phủ tường lưu. Thiên thu đài tỏa
Thần thông mạc tắc. Biến hóa vô cùng.
Đại từ đại bi. Tối linh tối hiển
Cung duy
Nam thiên Lý triều thánh tổ
Đại pháp thuyền sư quốc sư . thượng đẳng thần Ngọc thiên hạ
Duy nguyện
Bất sả ny quang dáng phó đàn duyên.
Chứng minh công đức hương hoa thỉnh.
Nhất tâm phụng thỉnh
Sơn xuyên rục tú. Hà hải trung linh
Bảo kiếm thanh quang. Băng tư bạch khiết
U nhàn tinh tĩnh. Khuê môn chi thục đức
Chiếu nhiên thuần nhất đoan trang
Hình dong quản chi. Cao vi thượng tại
Nhân trạch hậu Nhi phượng mao tế mỹ
Phúc lý tuy nhi Lân chỉ tình trường
Trung hiếu nhất môn. Phượng danh vạn cổ
Cung duy
Quốc mẫu nguyên từ
Thiên thành thái tưởng. Vương phi phu nhân
Tối linh thượng đẳng thần. Ngọc điện hạ
Duy nguyện
Từ tâm quảng đại. Hoằng đức vô biên
Thỉnh giáng đàn duyên chứng minh công đức hương hoa thỉnh
Nhất tâm phụng thỉnh
Vân hương dục tú. Sùng lĩnh trung linh
Nữ trung thánh nữ tinh ứng thiên tinh
Từ kim quyết. Rỹ vân du. Tái tam giáng thế
Hướng tuần hoàn nhi hạc giá
Thập nhị tùy hành. Đồng khôn đạo rỹ hàm hoằng
Mẫu nghi thiên hạ Thể thiên tâm nhi ứng phú
Tử dục quần sinh Hộ chiều hộ quốc chí hiển chí linh
Cung duy
Tam vị thánh mẫu đại từ tôn kim quyết hạ
Duy nguyện
Bất sả uy quang dáng phó đạo tràng chứng minh công đức hương hoa thỉnh.
thỉnh bổ quan âm 2
Nhất tâm phụng thỉnh
chí tâm bái thỉnh
Nhân tu lục độ quả chứng nhất thừa.
Thệ nguyện hoằng thâm như đại hải
Chi uông dương bất tắc từ bi quảng đại
Nhược tràng chi phủ đảo vô căn.
Hiển bất họai thân phát thập nhị nguyện
Lịch vô lượng kiếp linh cảm ngũ bách danh.
Cung duy
Nam vô đại từ đại bi Quan Thế Âm bồ tát ma ha tát
Duy nguyện
Trường giang ấn nguyệt không cốc truyền thanh. Giáng phó đàn tràng chứng minh công đức hương hoa thỉnh.
chí tâm bái thỉnh
Thủ trì dương liễu tướng hiển niên hoa
Biểu biểu từ dung càn khôn bất khả
Dương kỳ đại chiếu chiếu tuệ nhãn
Nhật nguyệt vô rỹ kỳ tiên.
Cảnh trúc lâm trung trung ngọc bội
Kim hoàn nhi thôi sán hồng niên tọa hạ
Niên hoa quan tố. Phục rỹ trang nghiêm.
Cung duy
Nam vô thiên thủ thiên nhãn quan thế âm bồ tát ma ha tát.
Duy nguyện
Tường quang vạn đạo thụy khí thiên từ
Dáng phó đạo tràng chứng minh công đức hương hoa thỉnh.
chí tâm bái thỉnh
Bi tâm cứu khổ từ lực độ sinh
Đức hóa chi phương thí pháp vũ pháp vân ư quần mê địa diện. Công đầu chúng khổ phiếm trí chu trí tấp . ư bát nạn ba tâm phả độ từ bi. Thị tứ sinh do nhất tử. Quân chiêm huệ trạch. Chửng vạn vậng ư tam đồ.
Cung duy
Nam vô cứu khổ cứu nạn quan thế âm bồ tat ma ha tát
Duy nguyện
Vô cần bất ứng hữu cảm giai không.
Giáng phó đạo tràng chứng minh công đức hương hoa thỉnh.
TRUNG NGUYÊN LỄ SỨ GIẢ KHOA
(VU LAN)
Hương phần nhất truyện liêu nhiễu hoa đàn trưởng minh y sứ diệu thiên bất ngoại bất dong gia tiết thuộc .................................................. ...
thiên chúng đẳng tiến trai bàn:
Nam mô hương vân cái bồ tát ma ha tát (3)
Thần cung phạ tắc diệu dụng thiên ban đại chúng chí thành kiền thân tán ngưỡng.
Tài mã kiêm tư
Địa phủ hoàn chiêu chiêu bút cơ chú thư biên y thường ngũ sắc la sàng thương khí dụng thiên ban mãn toạ tiền
Ngoại quỷ khử du lao tắc mục gian tà
Tảo nhi khước thuỳ duyên
Linh hồn ngưỡng tượng tư thần
Lực phúc diễn duyên tràng thế bất thiên
Phù rỹ pháp duyên khai khải tĩnh cúng vu trần
Tuy bái biện rỹ trang nghiêm khủng vãng lai chi uế trọc
Tư phùng bí chú biến tĩnh hoa duyên
Giáo hữu tĩnh uế chân ngôn cẩn đương trì tụng.
An triết lệ chủ lệ chuẩn đe sa ba ha (3)
Nam mô ly cấu địa bồ tát ma ha tát (3)
THIẾT RỸ:
Thân linh bất muội
Phàm hữu cảm rỹ giai thông
Thánh giám phi rao cố khả cầu nhi cầu tất ứng dục vọng quang lâm
Chi tứ tụ gia khẩn thỉnh chi thánh hoa đàn chú lực chuyển thanh lương
Bảo án tâm hương phồn hương phức ức Ngưỡng mông thần lực phủ giám ngu trung Tư cứ :
Việt Nam quốc
Nam Định tỉnh
Nghĩa Hưng huyện
Nghĩa.......................xã
............................thôn
Y vu ...........................sứ cư
Tín chủ……………………………..
Đẳng thống vì hiển…. …............................ khải kiến trai đàn nhất duyên tư lực
Hoằng thân vong hồn thu dụng
Tượng tư công đức tịnh rỹ chu viên
Sở hữu minh y thức chiếu đan khổn dụng bằng hoả pháp
Cấp phó vong linh
Biến hoá chi công phó cần cần chi ý
Giáo hữu triệu thỉnh chân ngôn cẩn đương trì tụng
Rỹ thử linh thanh thân triệu thỉnh.
Trưởng minh y sứ tất văn chi
Ngưỡng bằng tam bảo lực gia trì
Kim nhật kim thời lai giáng phó.
Nam mô bộ bộ đế lị già lị đá lị đát đá nga đá ra(3)
Thượng lai triệu thỉnh chân ngôn tuyên dương rỹ kính chúng đẳng kiền thành thượng hương phụng thỉnh.
NHẤT TÂM PHỤNG THỈNH
Chức tư âm giới quyền trưởng minh y chí công thác
Dư đoạt nhị quyền bất dong hào phát uy kỳ biến chính tà
Vũ rạng nhược phán vị kinh tạch bỉ quần sinh hàm gia ngọai đạo
Địa phủ viện trưởng minh y sứ giả từ miện hương phong hoả tướng thần quan
Vũ lâm giám độ đại thần
Trúc lâm tề xuyên thượng tướng ngan chỉ tín chi
Đường nhân mục cung nghĩa trọng y lý cảnh công
Đương niên tháo phúc chi quyền
Đương cảnh đác thôn dân chi chủ
Cập nhất thiết bộ thuộc đẳng chúng.
DUY NGUYỆN
Bất vi phật chỉ công chứng phàm tâm giáng phó tĩnh duyên thụ tư cúng rạng hương hoa thỉnh
Thượng lai triệu thỉnh: Ký hạ quang lâm an toạ chân ngôn cẩn đương trì tụng.
Thần đức tòng không lai giáng hạ
Nguyện kỳ từ khổn phó hương duyên.
Tài văn nhất biến diệu chân ngôn
Tắc giáng pháp đàn an vị toạ.
Án ca ma la sa hạ (3)
An toạ chân ngôn tuyên dương dĩ kính
Phi nghi thượng hiến phủ thuỳ nạp thụ tín chủ kiền thành thượng hương phụng hiến.
Án phạ nhật la ma ha hương hoa phụng hiến
Án pha nhật la ma ha đang trà phung hien
Án pha nhat la ma ha quả thực phung hiến.
Án nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhật
La hộc (3)
Thượng lai hiến cúng dỹ kính
Sở hữu tạng văn nghi đương tuyên đọc.(đọc trạng mã) kê………………………
Tư giả cảm bằng sứ giả
Trưởng án minh y chiếu tường trạng nội hoả tốc phụng hành tài mã hoa nghi khí dụng Đẳng kiện đương đàn phần hoá
Cấp phó vong linh:......... .........................
Chính hồn thu chấp nhược ngoại qủy vô danh bất đắc vọng hành chiếm đọat
Sở hữu minh y đẳng hạng dụng bằng thiêu hoá
( kê các thứ phó mã)
PHỤC RỸ:
Huyền hư hữu tượng cảm nhi toại thông Thần vận vô hình cầu chi tất ứng. Thính trí trung nguyên lệnh tiết chủ vị ngục môn tịnh giai phong xá
Kim cứ:
Việt Nam quốc
Nam Định tỉnh
Nghĩa Hưng huyện
Nghĩa.......................xã
............................thôn
Y vu ..........................sứ cư
Kim thần tín chủ........................................
hợp đồng gia dương môn quyến đẳng.
Phục vì chính tiến:.....................Chân linh.
Chính hồn đồng tộc sở hữu tạo mại minh y tài mã khí cụ hoa nghi đẳng vật nhất như sinh thời chi dụng tương vì báo bản chi tâm phó dữ vong linh thu chấp khủng kỳ ngoại quỷ vô danh chiếm đoạt cẩu bất bằng bái đảo tôn thần.
CUNG DUY
Hoàng lục viện trưởng minh y sứ giả trí miện vũ lâm đại thần giáng lai pháp toạ đương niên.................hành khiển thái tuế trí đức tôn thần đai tứ chứng minh toạ hạ.
Nguyện thứ hoa nghi
Thanh chỉ biến vi thanh y bạch chỉ biến vi bạch y
Xích chỉ biến vi xích y
Hoàng chỉ biến vi hoàng y
Cập các sắc chỉ
Tịnh giữ vật kiện tuý sắc biến hiện
Biến thuỷ hoả giả luyện biến hoá vô biên. Ngưỡng vọng uy quang phân minh hiển ứng phó giữ vong linh nhậm vi kỷ vật tương hồi âm ty tiêu dụng
Nhược ngoại quỷ vô danh bất đắc vọng hành chiếm đoạt.
Phó mã rỹ hương thư – phó phần hoá
Mục liên tôn giả đại từ bi
Tạo tác minh y huyết bồn nghi
Thành cảnh mục liên lai giám cách
Vũ lâm thần tướng chưởng minh y
Luyện chỉ thành khôi khôi thành tượng
Hoả quang tam muội biến tuỳ nghi
Cấp phó vong linh lai thụ dụng
Vô danh ngoại quỷ khước từ chi.
Sở hữu minh y- tài mã dụng bằng hoa hoá.
KHOA LỄ THÁNH
Tâm hương phúc nước. Thụy vị nhân nân Khí thông thần thánh yên kết tường vân
Đệ tử:……………………………………… .
Cung phần kỳ phúc thiên thân
Nam vô khai bảo kệ bồ tát ma ha tát (3)
Thiết rỹ
Pháp đàn nghiêm túc. Pháp nhạc khanh tương
Các vận chiều âm. Đồng sưng tán lễ
chí tâm tán lễ
Liên tọa không không sắc sắc
Ngọc bệ mục mục ung ung
Đãng đãng thế nhân chiêu chiêu bá đức
Phúc giáng bồ đề quả, Tường khai cửu phẩm hoa
Biểu hiện diệu thần uy. Phú trái đồng nguyên khí
Cắng cổ kim vô cầu bất ứng
Na ử lưu vô đảo bất thông
Nam vô quốc nhân vương bồ tát ma ha tát (3)
Thiết rỹ
Pháp duyên rỹ biện lễ vật cụ trần
Dục nghinh thánh đức. Rỹ giáng linh
Do lự yên phân nhi thượng tại
Cô khai hư nhi sái thực
Duy vô bằng huyền diệu chi phương
Nhiên giả tá rỹ sái chân
Giáo hữu dụng ma ha chi pháp
Phù thủy giả diệu nguyên đạm đạm
Linh phái thao thao
Sứu trung tinh suất quỷ bào tuyền
Phái thượng tạc khai long oa thạch
Chừng ngưng thu lộ lộc dương chi
Thượng tán quỳnh tương oánh triệt hàn đàm
Bích ngọc uyển trung hàm tố nguyệt
Như lai giáo hữu tĩnh uế chân ngôn cẩn đương trì tụng
Ma ha pháp thủy khiết vô nhai
Dương liễu chi đầu sái trần ai
Sái thử pháp duyên khai đại địa
Vô ách vô tai ngưỡng lâu đài.
Nam vô thanh lương địa bồ tát ma ha tát (3)
Thiết rỹ
Nô na ký khiết pháp tịch tinh nghiêm
Dục thông quỳ khổn rỹ đương trần
Tất tượng bảo hương nhi biến đạt
Phù hương giả bản do thiên biểu
Căn suất địa sinh thanh quang đoạt nhật nhân uân
Sứ sứ tán tường vân hòa khí thông thần
Nhiễu nhiễu phương phương đằng thụy khí
Tiên tình ngũ phận thử đạt cửu tiêu
Đổ thành tâm quỳ cách chi gian
Vận thần lực lai lâm chi tế
Như lai giáo hữu nhiên hương
Chân ngôn cẩn đương trì tụng
Long bồi thiên ngoại tán danh hương
Thụy khí huân cao biến pháp đường
Tụy khổng tuệ thông tâm kính ngưỡng
Nguyện kỳ tiêu tai giáng cát tường
Nam mô hương vân cái bồ tát ma ha tát ( 3)
Cung văn
Dương dương tại thượng
Vô thường hưởng nhi cầu tất ứng
Cố sứ sự nhi vọng lý
Tắc âm dương riệc lan thông
Nhiên sả vọng rỹ tòng chân
Duy thánh phàm nhi rị chí
Biến đạt phù du thế giới
Khởi vô hiển hách uy linh
Lượng hoằng khôi phúc thiện họa nâm
Đức đại chí sinh xuân tràng hạ
Hạnh ngưỡng đan đài chi mục mục thấu triệt vô cùng
Phủ thân thốn niệm rỹ căng căng cảm cầu hữu toại
Khắc roãn phàm tình ư thuấn tức nguyện dáng hóa duyên
Khúc thù thiên nhãn ư tu ru chứng minh pháp tịnh
Như lai giáo hữu triệu thỉnh chân ngôn cẩn đương trì tụng.
Thân thân hạc giá tòng không hạ
Cảnh cảnh loan rư mãn tọa tiền
Bất sả uy quang phu diệu lực
Chứng minh công đức hóa tinh kiền
Nam vô bộ bộ đế lỵ già lỵ đá lỵ đát tha nghiệt đá sa hạ ( 3)
Giới hương định hương rữ tuệ hương
Giải thoát giải thoát tri kiến hương
Quang minh vân đài biến pháp giới
Cúng rạng thập phương vô lượng phật
Nam vô hương cúng rạng bồ tát ma ha tát ( 3)
Thiết rỹ
Thánh đức vô biên
Nhược vũ thí vân hành chi biến
Thần công mặc tắc
Diệu ảnh tùy thanh ứng chi cơ
Kim trần đăng chúc. Kính lễ uy linh
Ký đáp nhã ư hồng ân
Dụng phủ thân ư đan khổn
Cung duy
Trần triều thái sư thượng phụ thượng quốc công
Nhân vũ Hưng Đạo Đại Vương
Chí trung trí nghĩa thịnh liệt hồng huân
Bá ân đức ư nam bang
Chấn hùng uy ư bắc khấu
Trung quân ái quốc hiển tùng hưng
Xã tắc tam thiên
Tế thế an bang vi vạn cổ
Nhân thần chi sư biểu cẩn tấu
Vì Việt Nam quốc…………………………
Đệ tử chúng đẳng.
Thiết niệm
Sinh cư trần thế ngưỡng mộ uy quang.
Cảm nhã thánh từ. Dám lâm pháp tịnh
Tình chỉ kỷ vì ……………………………
Dụng nhất tâm trai. Chí thành bái hiến
Tuân hành khoa phạm. Tuyên diễn chân ngôn
Phục nguyện
Đại vương yến thỉnh chư phật roãn hài sở thỉnh
Vọng tứ giáng lâm, chúng đẳng kiền thành thượn hương bái thỉnh
Tái vận chân hương
Chí tâm bái thỉnh
Nguy nguy càn đức hoằng khôi phú đảo ư quần sinh
Đãng đãng thiên tâm
Đại tỵ bao hàm ư vạn tượng quang minh biến chiếu thế giới
Lâm chiếu phả nhân gian
Tổng nguyên phạm ư cửu cai tạo đại hình ư ức kiếp
Cung duy
Hiệu thiên chí tôn
Kim quyết ngọc hoàng huyền cung cao thượng đế ngọc bệ hạ.
Phả cập nhất thiết trì tòng thánh chúng
Thị thính đàn duyên
Chứng minh công đức hương hoa thỉnh
Tái vận chân hương
Chí tâm bái thỉnh
Nam thiên hiển thánh Trần triều thân vương
Lục thao tam lược. Tinh minh tam bảo
Ngũ tài quýnh dỵ. Ninh dân hộ quốc. Vũ công nhiếp hồ tao trung
Phụ phượng phàn long.
Văn giáo chấn hồ tượng quận
Cung duy
Trần triều hiển thánh nhân vũ Hưng Đạo Đại Vương. Thượng thượng thượng đẳng vạn thế phúc thần ngọc điện hạ.
Tặng phong thái sư. Thượng phụ thượng quốc công. Táng vũ dịch tiết tuy ru
Hùng biệt anh tuệ tuấn đức phong công
Vỹ tích hiển ứng linh thanh. Phả tế duyên hưu nhân vũ Hưng đạo Đại Vương ngự tiền
DUY NGUYỆN
Thừa phong giá vụ kỵ vũ đằng vân
Quang dáng hương duyên chứng minh công đức hương hoa thỉnh.
CHÍ TÂM BÁI THỈNH
Thiên hoàng phái diễn nhân kiệt địa linh vũ thí vân hành. Ngưỡng càn khôn chi bá quyết
Hà thanh hải yến
Bằng đới lệ rỹ phù trì
Tưởng thần minh chi sở do lai
Tri lễ nghĩa tất phàn tự thủy
CUNG DUY
Trần triều khải thánh an sinh vương
Tặng phong hiển hoàng khán minh đại vương điện hạ
DUY NGUYỆN
Vân đằng hạc giá phong ủng loạn sa
Quang dáng hương duyên chứng minh công đức hương hoa thỉnh
CHÍ TÂM BÁI THỈNH
Khôn đức phối càn mẫu nghi khắc tử
Chấn nam quốc bính tốn nữ hoàng phi
Sinh tiền ý đức khổng chương hóa hậu anh linh mặc tắc
CUNG DUY
Trần triều khải thánh. An sinh phu nhân
Tặng phong thiện đạo quốc mẫu điện hạ
Trần triều vương phi. Nguyên từ quốc mẫu điện hạ
DUY NGUYỆN
Vân đằng hạ giá. Phong ủng loan sa
Quang giáng hương duyên chứng minh công đức hương hoa thỉnh.
CHÍ TÂM BÁI THỈNH
Kim chi ngọc diệp. Vương thất ý thân
Văn vũ kiềm ưu. Anh hùng mạc dịch
Phụng phụ vương tiết chế
Lĩnh binh tiền. Vãng vu tảo nha
Tùy phụng vương bình nhung
Sứ chúng vân đồn vi vũ dực
Bình la đẫu chàng phong. Chi cơ tiếp cung
Thủy tương nhi hằng quán ứng huyền
Đằng giang dương diệu nhật chi tinh kỳ
Kiếm nhất chỉ nhi. Nhi linh hiến quắc
Xuất kỳ binh ư vạn kiếp
Hoan duy riệc lậu linh tâm
Dương thần vũ ư hải tân
Phần vọng chỉ huy nhi thất sắc
Bắc quân phiên giảo vĩ giải
Nam thiên tòng thử âu an
Tương tướng nhất môn hiếu trung kiêm tận
Thánh thần thiên cổ Sưng tụng bất vương
CUNG DUY
Trần triều vương tử khai quốc công
Hưng vũ đại vương
Hưng hiến đại vương
Hưng nhượng đại vương
Hưng trí đại vương
Liệt vị điện hạ
DUY NGUYỆN
Phi khai pháp giá. Chuyển vận thần cơ
Quang giáng hương duyên. Chứng minh công đức hương hoa thỉnh
CHÍ TÂM BÁI THỈNH
Đường phù thác tích. Phạm tộc giáng sinh vương kỳ chi. Rỹ dáng nữ
Cung tàng thao lược vương tiến chi nhi Bình nhung
Chế thắng riệu tôn ngô dung binh ưu tú tĩnh
Hoạnh thiết tháo nhi lã thành ngọa giải
Chỉ hoàng kỳ nhi nguyên tặc Thổ Băng
Bình sinh phụ tá Trần triều
Hiển trung nghĩa nhân cường chi tướng
Siêu hóa hậu hộ Ninh nam quốc
Chân thông minh chính trực chi thần
CUNG DUY
Trần triều phạm điện súy thượng tướng quân
Sắc phong chiêu cảm hùng văn đại vương Điện Hạ
DUY NGUYỆN
Vân đằng thân mã. Vũ giá long sa
Quang giáng hương duyên. Chứng minh công đức hương hoa thỉnh.
CHÍ TÂM BÁI THỈNH
Vân hồi súy tục linh cung minh nguyệt.
Chiếu loan rư phong động hành tinh
Lãng uyện xuân hoa nghinh phương liễn
Khôn nghi quảng đại. Hậu giáo tích tinh
Khuê khổn lưu vi. Nữ trung anh kiệt
Bồng hồ sinh sắc. Thế thượng thần tiên
Ngưỡng thánh đức chi khổng chương
Bản mẫu nghi. Chi duy tắc
Thiên cổ do lưu ý phạm vạn dân cộng mộc hồng ân.
CUNG DUY
Trần triều thánh nữ. Quyên thanh công chúa điện hạ
Trần triều dưỡng nữ. Đại hoàng công chúa điện hạ
Vương tôn thuận thánh. Bảo từ hoàng hậu điện hạ
Vương ngoại tôn. Tĩnh huệ công chúa điện hạ
Phả cập thị tòng thái nữ. Liệt vị uy linh từ hạ
DUY NGUYỆN
Vân sa vũ dáng Hạc giá vân lai
Quang dáng hương duyên chứng minh công đức hương hoa thỉnh.
CHÍ TÂM BÁI THỈNH
Thiên tinh dáng việt. Hổ tướng Phu Trần
Phản kỳ Tảm tướng phấn hùng uy
Tao loạn bình tàn tư toán lược
Quần hùng vân tập. Vạn nhuệ tinh phi
Sác bàn gian giang khẩu độc thị thuyền
Trợ hồng cốc cao phi chi dực
Điên nguy tế quân trung đa hiến sách
Táng tý hưu dũng dược chi uy
Thiết sỉ duyệt bội nghịch chi đồ
Lục lực tảo quần hung chi bối
Sở hướng phong phi. Nhược nhập vô nhân chi trường
Thủ tặc tướng đầu như thám lang trung chi vật
Sinh tiền danh tướng hóa hậu linh thần
CUNG DUY
Trần triều khống bắc tướng quân
Tả hữu tiền hậu vệ úy
Yết kiên tướng quân. Dã tượng tướng quân
Cao mang tướng quân. Đại hành tướng quân
Huyền du tướng quân. Hùng thắng tướng quân
Nghĩa xuyên tướng quân. Hà đặc tướng quân
Địa lô tướng quân. Nguyễn khuấy tướng quân
Lê phu Trần tướng quân. Khắc Trung tướng quân
Khánh Dư tướng quân. Nguyễn Thời Kiến tướng quân
Hán Siêu tướng quân. Vân Đồn tướng quân
Trần Bình Trọng tướng quân. Tào Bân tướng quân
Trần triều thánh giám quan, Quế lâm linh từ Hội đồng thần quan
DUY NGUYỆN
Kim thời triệu thỉnh. Các nguyên bộ ngũ quân thuộc uy nghi
Quang giáng hương duyên chứng minh công đức hương hoa thỉnh
CHÍ TÂM BÁI THỈNH
Lưỡng gian dục tú. Ngũ hạnh thành hình
Nịch thủy tiêu rao. Bồng sơn sái lạc đam đam chi khí
Mục lộ tắc quỷ khốc thần kinh tục quỷ khu lôi
Thanh hám tắc hà phiên hải phí tùy sư thượng tận
Lục đầu giang nhi thanh tĩnh ba kình vi vương tiền khu
Ngũ phương tấn nhi hạn lao hãn mã
Tảo tận hồ khâu huyệt thử
Dân lại rĩ sinh Cử an thử chử hồng hưu. Dan an sự nghiệp
CUNG DUY
Trần triều ngũ hổ thần quan từ hạ
Cập thiên thiên lực sỹ. Vạn vạn hùng binh. Từ hạ
DUY NGUYỆN
Tục quỷ khu lôi. Thừa phong giá vũ
Quang dáng hương duyên chứng minh công đức hương hoa thỉnh
CHÍ TÂM BÁI THỈNH
Tả hữu giám đàn
Dương liên đương cảnh. Phả cập thổ trạch thần quan. Án hạ.
DUY NGUYỆN
Tuân thừa sắc hạ
Phủ vận thần thông
Quang giáng hương duyên. Chứng minh công đức hương hoa thỉnh
Thượng lại triệu thỉnh. Ký mộc quang lâm Như lai giáo hữu an tọa chân ngôn Cẩn đương trì tụng
Thánh đức tòng không lai giáng hạ
Khoát nhiên tâm nguyệt thính giá đà
Tùy phương ứng hiện biến quang minh
Nguyện tại pháp duyên an vị tọa
An già ma ha sa hạ
Lễ thánh khoa hoàn!
TRUNG CÚNG THỈNH BỔ
CHÍ TÂM BÁI THỈNH
Nam vô Tây thiên tứ thất, đông độ nhi tam tổng. Ngũ giai nhi rĩnh ngộ nhất quan đại địa nhi quán thông chích nhãn!
Phù bồi phi tích cơ quan nhi hoành việt.
Nhị thừa dưỡng hổ sý miêu độ
Lương nhi cao siêu, độc giác vi tiến chiêm hoa
Thượng tuất tràng giang, vĩ độ trung lai.
Pháp pháp lưu truyền, đẳng đẳng tương trụ
CUNG DUY
Tây thiên đông độ nam việt.
Lịch đại tổ sư thuyền tọa hạ.
DUY NGUYỆN
Phù bồi thượng hải, tát tích sơn xuyên
Hổ tỷ bất can tòng, đẩu xuất long duyên
Hữu vì tái chiêm lai. Giáng phó đàn tràng chứng minh công đức, hương hoa thỉnh.
TÁI VÂN CHÂN HƯƠNG
CHÍ TÂM BÁI THỈNH
Di la hóa cảnh đản giáng ư cực lạc
Tịnh bang thống độ nghị huyền
Độ thùy cung ư ngọc kinh sơn
Thượng khí nhân bá đức, thượng đế hiếu sinh
Quá khứ thanh tĩnh, pháp thân Như Lai
CUNG DUY
Hiện thiên chí tôn kim quyết
Ngọc hoàng thượng đế ngọc bệ hạ
Phả cập dục giới vô sắc giới
Thiên quan, Địa quan, Thủy quan
Thiên Phủ, Địa Phủ, Thủy Phủ
Dương gian thượng nguyên tích phúc thiên quan
Trung nguyên xá tội địa quan
Lục nguyên giả ách Thủy quan
Cập bát bộ long thần. Bát bộ thần tướng hộ kinh, hộ chú, hộ giới hộ đàn mật tích uế tích. Đẳng chư thần
Vương biên tài tiêm. Nữ diệu giáng cát tường
Thập nhị dược xoa đại tướng
Bát bộ hộ pháp long thiên
Càn sát bà ha, tu na ca lâu la, khẩu lá na.
Na hầu na già nhân phi nhân đẳng.
DUY NGUYỆN
Bất sả uy quang. Thỉnh giáng đạo tràng chứng minh công đức hương hoa thỉnh.
TÁI VẬN CHÂN HƯƠNG
CHÍ TÂM BÁI THỈNH
Chức tứ thập điện, liệt vị mục tào
Chưởng ác xích phù chưởng lục thú
Tam đồ chi khổ, yêu chiều hồng thái
Tiếp tứ sinh thập loại chi thăng
Đãng đãng thí nhân chiêu chiêu bá đức
Thiện chi sở. Khuyến hạnh phùng chiết
Ngục chỉ lương ác hữu sở
Từng giám kiến tường hình hữu khánh
CUNG DUY
Minh phủ thiện tử thập điện từ vương
Điện ngục chúa tể công tào phán quan
Nhất thiết bộ thuộc đẳng chúng
DUY NGUYỆN
Thượng tuân như lai giáo sắc hạ.
Miễu trai chủ khấn trình lai tự phí phóng khứ
Như thiết điện giáng phó đạo tràng chứng minh công đức hương hoa thỉnh.
TIẾP LINH KHOA
Đại thánh cứu bạt minh đồ bản tôn đại tạng vương bồ tát (3)
T. Từ bi quảng đại diệu nan lường cứu bạt minh bồ địa tạng vương.
P. Tích tương khao thời khai địa ngục thần châu chiếu sứ tiệt cung sương.
T. Bi quang chủng tế u minh giới, pháp lực đề tê bát nhã hàng.
P. Nhiếp dẫn linh hồn nhiên tuệ cự đường đường phả phóng ngọc hào quang.
Nam mô dẫn linh hồn bồ tát ma ha tát(3)
PC: THIẾT RỸ
U minh giáo chủ địa tạng đại sư hành khai phương tiện chi môn môn đại bá từ bi nhi niệm.
T. Nhân hưng vạn thiện quá khứ lịch sự ư Như Lai. Vị độ quần mê hiện tại kim sinh vì bồ tát.
P. Bá từ quang ủ tuyền lô yết tuệ nhật ư thiết.
Vi huề chúng sinh nhập chính giác chi môn độ khổ thú đạt bồ đề chi lộ!
PC: Kim giả trai chủ…………………………
Hợp đồng gia đẳng nhân hưng hiếu khổn túc khai trai duyên tượng bí mật chi chân xuyên chưng mê đồ chi hiểm ải!
PHỤC NGUYỆN
Nhiếp ngô thân ư tĩnh phách trực giáo bộ bộ quang minh
Tượng ngã phật sỹ từ bi toái phá trùng trùng u ám. Giáo hữu dẫn bộ chân ngôn cẩn đương trì tụng!
T. Kim thần tử mỵ triệt tiêm ai
Phả phóng hào quang biến cửu cai
P. Tễ phách u hồn thùy nhiếp dẫn
Mê đồ hóa tác cửu niên khai
PC. Nam mô dẫn đạo lộ bồ tát ma ha tát (3)
Thượng lai tiên tương từ bi nhi tiếp dẫn đề huề vong giả dỹ lai lâm thư thỉnh linh hồn phần hương triệu thỉnh
T.
https://www.otofun.net/threads/ho-ng...-o-dau.368760/
THỈNH PHẬT KHOA
- 3 hồi trống thỉnh
- Pháp chủ phân ban, tín chủ tựu vị.
- Pháp chủ tịnh đàn an úy cẩn bạch
Pc: Thiết rỹ: Đàn tràng dỹ biện, minh minh đăng
chúc dỹ dao gia pháp nhạc phu trần ái ái hương
hoa nhi đấu thể.
P. Đạo tràng dỹ tập đại chúng ban hành tín chủ chí
thành nhất tâm cảm cách.
T. Tiên lãi kim chung kích thứ hậu khả ngọc khánh
minh thời điền điền chung cổ ưởng niên thiên, Dát dát bạt nạo văn chấn địa
P. Thượng thông kiền thượng hạ đạt khôn duy, nhiễu
nhiễu động triệt sơn hà. Lưỡng lưỡng kình dao thế giới.
P. Các sinh hoan hỷ. Cộng chứng viên minh nghiêm
chỉnh y quan, thượng thừa phật lực
Pc: Như lai giáo hữu an úy thổ địa long thần chân
ngôn cẩn đương trì tụng
P. Nhạc độc sơn xuyên chư linh huống. Thế gian thổ
địa chúng long thần.
T. Tài văn tuyên diễn diệu chân ngôn, các chấn
phương ngung sinh hoan hỷ.
Nam mô sinh hoan hỷ địa bồ tát ma ha tát (3)
PC: Kích cổ tam thông, cung nghinh thập phương
chư phật, chư thánh tốc giáng đàn chung.
- Rung 3 hồi
- Tín chủ kiền thành kính lễ ngũ bái
- Pháp chủ kiền thân đính lễ
- Rung 3 hồi => chuyển=> vào khoa
Lô hương xạ nhiệt, pháp giới mông huân,
Chư phật hải hội tất giao văn
Tùy sứ kết tường vân,
Thành ý phương ân
Chư phật hiện toàn thân
Nam-mô Hương vân cái Bồ - Tát ma ha tát (3lần)
PHÙ DĨ
Hương hoa đấu thể, Đăng chúc giao huy
Phạm tướng trang nghiêm, Hoàn ưng tán lễ ( nhạc)
CỬ TÁN
Chí tâm tán lễ Đạo tràng chân pháp giới
Ngã phật sơ đăng giác đàn nội
Y chính hộ trang nghiêm,
Thánh phàm giao tự tại, phóng quang minh
Bất khởi, tọa chu sái hải,
Ngũ quả cập ngũ nhân,
Tập sứ tinh thập hội.
Đế võng trùng trùng vô quải ngại,
Phả hiền tác truyền trì,
Văn thù khai ám muội,
Nhất sái la thành chính giác,
Viên hành giải nguyệt,
Tín chủ bảo bình an tăng phúc tuệ.
Đương lai thế xả diêm phù sinh tịnh độ.
Như lai diệu sắc thân,
Thế gian vô dữ đẳng
Vô tỷ bất tư nghì, Thị cố cung kính lễ.
P. Thập phương chư phật thái hư không,
Bách ức phân thân, hiển hiện đồng.
T. Biến hóa vạn ban bích ngọc tướng
Trang nghiêm thiên xích tử kim dung.
P. Từ phong hiệu hiệu tường vân nhiễu.
Pháp vũ phi phi thụy khí lùng.
T. Giáo vọng tây kiền thân lễ thỉnh,
Giáng lâm đông độ giám vô cùng.
Thích Ca Mầu Ni Phật (họa) (3 lần)
Đại thánh tam giới sư như lai
Nam mô Đại Giác tôn,
Thiên phúc tướng thanh liên tọa hạ,
Thường trụ phật đà gia
Nam mô kim khẩu diễn đàn diệu pháp
Bí mật bảo tạng, thường trụ đạt ma gia ( 2 lần)
Nam mô du tam giới lịch tứ châu
Thần thông diệu dụng thường trụ tăng già da (3 lần)
Nam mô sam tam bảo hộ, chính pháp
phạm vương đế thích, bát bộ long thiên chúng.
NHẤT THIẾT CUNG KÍNH TÍN LỄ LỄ THƯỜNG TRỤ TAM BẢO
P. Phù dỹ:
Pháp duyên quang khải,
Thành ý tinh kiền, dục nghinh chư phật dĩ lai lâm,
Tu đương tứ phương nhi thanh tịnh.
Nghi bằng pháp thủy, quán sái đàn tràng,
Nhất trích tài chiêm, thập phương câu khiết,
Ngã phật giáo tại chung hữu, sái tịnh.
Đà na ni. Cẩn đương trì tụng. ( nhạc)
( niệm đại bi thần chú)
Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát ( 3 lần )
Thiên-Thủ-Thiên-Nhãn-Vô-Ngại-Đại-Bi Tâm Đà-La-Ni
Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ Đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án .Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát toả. Nam mô tất kiệt lật đỏa y mông a rị da. Bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị, ma ha bàn đa sa mế. Tát bà tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đa . Na ma bà dà. Ma phạt đạt đậu đát điệt tha. Án A bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Cu lô cu lô yết mông. Độ lô đồ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà la đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê di hê. Thất na thất na. Ra sâm Phật ra xá lợi. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê lỵ. Ta ra ta ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ Đề dạ Bồ Đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế lỵ dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắc ni na. Bà dạ ma na. Ta bà ha. Tất đà dạ. Ta bà ha. Ma ha tất đà dạ. Ta bà ha. Tất đà dũ nghệ. Thất bàn ra dạ. Ta bà ha. Na ra cẩn trì. Ta bà ha. Ma ra na ra . Ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da. Ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ. Ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ. Ta bà ha. Ba đà ma kiết tất đà dạ. Ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ. Ta bà ha. Ma bà rị thắng yết ra dạ. Ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô kiết đế. Thước bàn ra dạ. Ta bà ha
Án Tất điện đô Mạn đà ra Bạt đà gia Ta bà ha.
THỦY TÁN
Dương chi tịnh thủy biến sái tam thiên
Tĩnh không bất đức lợi nhân thiên
Pháp giới quảng tăng duyên,
Diệt tội tiêu khiên, hỏa diệm hóa hồng liên
Nam mô thanh lương địa bồ tát ma ha tát (3lần)
T. CUNG VĂN:
Dục nghinh thập phương Chư Phật)
Tu bằng ngũ phật pháp hương
Yên ái, tường vân mật bá Thiên Đường Phật Quốc.
Phong phiêu thụy khí
Tu đạt địa phủ long cung
Ký năng cảm động vu thánh hiền,
Tất thị vô tư ư ảnh ưởng.
Cố kinh vân tín căn sinh nhất niệm,
Chư Phật tận giao chi,
Phần hương đạt tín đà la ni
Cẩn đương trì tụng.
P. Giới hương định hương giữ tuệ hương.
Giải thoát, giải thoát tri kiến hương
T. Quang minh vân đài biến pháp giới,
Cúng giàng thập phương vô lượng Phật
P. Hương tài nhiệt lộ phần bảo định chung.
Chiên đàn trầm nhũ chân kham cúng.
T. Hương yên liễu nhiễu liên hoa động,
Chư Phật bồ tát hạ thiên cung
P. Thanh lương sơn la hán, nạp thụ nhân gian cúng
Nam mô: hương cúng giàng Bồ Tát ma ha tát (3 lần)
CUNG VĂN
Phật chân pháp thân, do nhược hư không,
Vô lượng công đức sở thành tựu cố,
Tiên tương pháp thủy, quán sái đàn tràng,
Thứ bị danh hương, phả thân cúng dạng.
Dĩ thử thỉnh Phật, chư Phật giáng lâm,
Dĩ thử sám hối tội diệt phúc sinh,
Kỳ phúc bách phúc tự chí,
Độ sinh, chúng sinh giải thoát
Giáo hữu phụng thỉnh chân ngôn
Cẩn đương trì tụng.
Nam mô: bộ bộ đế, lị già, lị đá, rị đát,
đá nga đá ra (3)
Tín chủ kiền thành phần hương bái thỉnh
Giới định chân hương phần khởi xung thiên thượng
Tín chủ……Kiền thành nhiệt tại kim lô phóng
Khoảnh khắc nhân huân tức biến mãn thập phương,
Tích nhật gia du, miễn nạn tiêu tai chướng
Nam mô: hương cúng dàng bồ tát ma ha tát (3lần)
CẨN VẬN CHÂN HƯƠNG CHÍ TÂM BÁI THỈNH:
Nam mô: Thiên hoa đài thượng bách bảo quang trung
Quá hiện vị lai:Nhất thiết thường trụ, Phật đà gia tôn
Quá hiện vị lai:Nhất thiết thường trụ, Đạt ma gia tạng
Quá hiện vị lai:Nhất thiết thường trụ, tăng già da chúng
DUY NGUYỆN:
Thiên thùy bảo cái, địa dũng kim liên,
Giáng phó đạo tràng, thụ tư cúng giàng
Hương hoa thỉnh
TÁI VẬN CHÂN HƯƠNG CHÍ TÂM BÁI THỈNH:
Đại hùng Giác phụ lưỡng túc Y Vương,
Biến hóa ức thiên độ nhân vô lượng.
Thanh tịnh pháp thân, tỳ lư Xá Na Phật.
Viên mãn báo thân, lư Xá Na Phật
Thiên bách ức hóa thân, thích ca Mâu Ni Phật.
Đương lai hạ sinh Di Lặc tôn Phật
Tây phương giáo chủ cửu phẩm đạo sư A Di Đà Phật
Đông phương Dược Sư lưu ly quang vương Phật.
Ngũ phương, ngũ Phật, Thập phương, thập Phật
Tam thập ngũ Phật, Ngũ thập tam Phật
Trang nghiêm kiếp thiên Phật, Hiền kiếp thiên Phật,
Tinh tú kiếp thiên Phật
Tận thập phương tam thế nhất thiết chư Phật.
DUY NGUYỆN:
Ngã Phật từ bi, bất vi bản thệ,
lân mẫn hữu tình, quang giáng đạo tràng chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh!
P. TÁI VẬN CHÂN HƯƠNG CHÍ TÂM BÁI THỈNH:
Tam thừa bí điển, Ngũ bộ Huyền văn,
Giá lý đẳng đệ nhất, nghĩa thiên ngôn
Chỉ đích chân tam muội hải.
Xuân lôi phạm hưởng khai huyền nghĩa
Ư lộc giã, uyển trung ca lăng tiên âm,
Tuyên văn cú ư kim cương tọa thượng.
Nha tiêm thôi xám ngọc trục tâm lương,
Lý triệt, nhất thừa, thanh,hòa, hải.
Triều văn thứu lĩnh; Kinh Phiên tam tạng,
Công kiên kiếp thạch bí long cung,
Tượng bán ngôn nhi thiên chướng tiêu trừ,
Bằng tứ cú nhi lục trần thanh tịnh.
Duy – Nguyện:
Tam thừa bảo tạng chư phẩm tôn kinh,
Tử- Kim- Quang tụ diệu thập phương,
Bạch ngọc hào phân huy sa giới,
Giáng phó đạo tràng
Chứng minh công đức.
Hương hoa thỉnh!
T. TÁI VẬN CHÂN HƯƠNG, CHÍ TÂM BÁI THỈNH:
Nhập Bi- Nguyện hải thụ công đức
Lâm chủng chủng trang nghiêm từ bi vô lượng.
Nam- Mô: Đại- chí Văn thù sư lợi Bồ- Tát.
Đại- Hành- Nguyện Phổ- Hiền………....Bồ tát.
Đại từ- bi Quan thế âm………………....Bồ tát.
Lương- Hữu – Đức Đại- thế - Chí ……..Bồ tát.
Vô- Tận- Ý- ……………………………Bồ tát,
Bảo-Đàn – Hoa…………………………Bồ tát.
Dược vương ……………………………Bồ tát,
Dược – thượng …………………………Bồ tát.
Nhật- Cung ……………………….. …..Bồ tát.
Nguyệt –cung…………………………..Bồ tát.
Trường – Thọ ………………………….Bồ tát,
Duyên thọ ……………………………...Bồ tát.
Di – Lặc ………………………………Bồ tát;
Thất – Câu -Chi Phật Mẫu Đại - Chuẩn - Đề minh vương.. Bồ Tát
Minh – Dương cứu khổ bản tôn địa tạng vương Bồ Tát.
Phả quang giải – oan – kết …………….Bồ Tát
Thanh tịnh Đại - Hải- chúng…………... Bồ Tát
Duy nguyện:
Chư tôn Bồ Tát, Ma ha tát.
Bất vi bản thệ, phủ vận thần thông,
Giáng phó đạo tràng chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh!
P. TÁI VẬN CHÂN HƯƠNG CHÍ TÂM BÁI THỈNH:
Nam mô tiểu xưng la bốc, trưởng hiệu Mục Liên
Thiện tâm xuất, hiếu tử chi môn.
Tu thân thiệu, Phật Pháp chi đạo.
Thần thông đệ nhất, vận từ bi,
Nhi cứu khổ, chúng sinh,
Hiếu thuận cư tiên, trì trai giới
Nhi, báo ân phụ mẫu,
Bi ca xa trì tích trượng, Diêm vương,
Văn nhi hợp trưởng hàng tâm,
Viên đính tướng quải phương bào
Ngục tốt, kiến nhi đê đầu cung thủ
CUNG DUY:
Đại bi, Đại nguyện, Đại Thánh, Đại từ,
ma ha Mục Kiền Liên tôn giả liên tọa hạ.
DUY NGUYỆN:
Bất vi bản thệ, lân mẫn hữu tình
Quang giáng đạo tràng chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh!
T. TÁI VẬN CHÂN HƯƠNG CHÍ TÂM BÁI THỈNH
Nam vô từ tâm quảng đại, hoàng thệ vô biên,
Xả huyễn thân nhi đốn liễu vọng duyên
Đầu giác hoa nhi, tảo mông thụ ký.
Thủ chung tích trượng,
Chấn khao địa ngục, chúng môn khai,
Chưởng thượng minh châu
Chiếu triệt thiên đường, chư lộ thấu.
Chúng sinh độ tận phương chứng Bồ Đề,
Địa ngục vị không thệ bất thành Phật,
Thù thâm ân ư Phụ Mẫu,
Thí quảng lợi ư quần sinh
Cung duy:
Nam mô: Đại bi đại nguyện, Đại Thánh, Đại từ
U Minh cứu khổ bản tôn
Địa Tạng Vương Bồ Tát Liên tọa hạ.
Duy nguyện:
Bất vi bản thệ, Phủ vận thần thông
Giáng phó đạo tràng chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh!
P. TÁI VẬN CHÂN HƯƠNG CHÍ TÂM BÁI THỈNH
Tứ quảng tứ hướng tích chi Phật.
Thanh Văn La Hán hiền Thánh tăng,
Phả thiên ứng cúng tận đầu lư
Đại Đức Tôn giả:
A nhã kiều trần như ………………...Tôn giả
Ma ha ca diếp ………………………. Tôn giả
Ưu lâu tần loa ca diếp………………..Tôn giả
La đề ca diếp ………………………...Tôn giả
Xá lợi phất ………………………….. Tôn giả
Đại mục Kiền Liên …………………. Tôn giả
Ma ha ca chiên duyên………………..Tôn giả
A lâu nâu đà …………………………Tôn giả
Kiếp tân la ………………………….. Tôn giả
Kiều Phạm Ba Đề……………………Tôn giả
Li bà đa …………………………… Tôn giả
Tất lăng già bà đa……………………. Tôn giả
Bạc câu la ……………………...…… Tôn giả
Ma ha câu hi la………………...……. Tôn giả
Nan đà ………………………………. Tôn giả
Tôn đà la, nan đà……………………. Tôn giả
Phú lâu na, di đa la ni tử……………. Tôn giả
Tu Bồ Đề …………………………… Tôn giả
Át nan ………………………...…….. Tôn giả
La hầu la………………………… …..Tôn giả
Như thị chúng sở tri thức, đại A La – Hán,
Phụ hữu học, vô học, nhị thiên nhân đẳng,
Tây thiên đông độ, Nam Việt – Lịch đại tổ sư, Tào khê nam hoa, tự đại giám chân không,
Phả giác viên minh, thiền sư nhục thân Bồ Tát.
Yên Tử sơn Đầu Đà,
Điều Ngự,Giác Hoàng, Tĩnh Tuệ Thiền sư,
Báo nghiêm Tháp Hoằng, Pháp độ nhân,
Chuyết Công Hòa Thượng, Phổ Giác quảng tế,
Đại Đức Thiền Sư nhục thân Bồ Tát.
Tại cộng Hào Thượng, Minh Hạnh Thiền sư,
Anh Công, Chí Công, Đại Đức thiền sư,
Lương Vũ Đế Quân, Tam Châu Cảm Ứng,
Hộ Pháp Vi Đà, Tôn Thiên Bồ Tát.
Nhị thập ngũ vị Giới thân, Nhất thập bát vị
Hộ giáo Già Lam Thánh Chúng Bồ Tát.
DUY NGUYỆN:
Chư tôn Bồ Tát, bất vi bản thệ, lân mẫn hữu tình
Quang giáng đạo tràng chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh !
P. TAI VẬN CHÂN HƯƠNG CHÍ TÂM BÁI THỈNH
Vô sắc giới chung,tư không, tứ thiên thượng đế.
Sắc giới tứ thuyền, nhất thập bát thiên, thiên đế.
Dục giới Thiên Chung, lục thiên Thiên Đế.
Hiệu Thiên chí tôn Kim Quyết Ngọc Hoàng Thượng Đế
Thái thượng Tam Nguyên, Tam phẩm tam quan Đại Đế.
Nam cực Bắc Đẩu trường sinh tử vi đại đế
Nhị Thập bát tú, Thập nhất liệt điệu Tinh Quân
Thập nhị Cung Phận, Tôn Thần,
Trai Chủ hợp gia, sở thuộc
Bản Mệnh nguyên thần, chân quân,
Tinh đẩu hà hán, vạn trượng cao chân,
Chủ thiện phạt ác, hộ thế tứ phương, bát bộ kim cương, Thập Nhị Dược Xoa đại tướng,
Bát Bộ Hộ Pháp long thiên,
Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn lá la, Ma hầu la già, nhân phi nhân đẳng, nhất thiết thánh chúng.
Duy nguyện:
Bất khả uy quang, thỉnh giáng đạo tràng chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh !
T. TÁI VẬN CHÂN HƯƠNG CHÍ TÂM BÁI THỈNH:
Nhạc phủ chí tôn Đông nhạc
Thiên tề đại nhân sinh thánh đế quân.
Nam nhạc tư thiên, chiêu thánh đế quân
Tây nhạc kim thiên, thuận thánh đế quân.
Bắc nhạc an thiên nguyên thánh đế quân.
Trung nhạc Trung thiên, sùng thánh đế quân.
Nhạc phủ gia khánh nhất thiết quyến thuộc tôn thần.
Duy nguyện:
Bất xả uy quang, thỉnh giáng đạo tràng
Chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh!
P. TÁI VẬN CHÂN HƯƠNG CHÍ TÂM BÁI THỈNH:
Địa phủ chí tôn, bắc âm phong đô
nguyên thiên đại đế, quan thánh đế quân.
Phong đô lục động các vương quyến thuộc,
Minh phủ Thập điện Minh vương:
Đệ nhất điện………Tần quảng Minh vương
Đệ nhị điện ………Sở giang Minh vương
Đệ tam điện………Tống đế Minh vương
Đệ tứ điện ……….Ngũ quan Minh vương
Đệ ngũ điện………Diêm la Minh vương
Đệ lục điện ….....Biến thành Minh vương
Đệ thất điện…….Thái sơn Minh vương
Đệ bát điện …….Bình chính Minh vương
Đệ cửu điện…….Đô thị Minh vương
Đệ thập điện……Chuyển luân Minh vương
Phả cập lục viện, thượng thư tào liêu
Điển trưởng, tư quan địa phủ chư ngục đẳng thần.
Duy nguyện:
Bất xả uy quang, thỉnh giáng đạo tràng
Chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh!
P. TÁI VẬN CHÂN HƯƠNG CHÍ TÂM BÁI THỈNH:
Thủy Phủ chí tôn
Phù Tang Cam Lâm Đại Đế.
Tứ độc giang hà, hoài hải
Quảng Nguyên Đại Vương,
Cửu giang tứ hải Bát đại……….Long vương
Hải vân uy đức luân cái………..Long vương
Bạt nan đà ……………………. Long vương
Sa già la ………………………. Long vương
Hòa tu cát …………………….. Long vương
Đức soa ca…………………….. Long vương
A na bà đạt đa…………………. Long vương
Ma na tư ………………………. Long vương
Ưu bát la………………………. Long vương
Nhất thiết bát hải……………….Long vương
Thuộc xuyên tự điển khê uyên đàm
động thủy phủ nhất thiết chư ty chân tể.
Duy nguyện:
Bất xả uy quang thỉnh giáng đạo tràng
Chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh!
TÁI VẬN CHÂN HƯƠNG CHÍ TÂM BÁI THỈNH:
Kim Niên, Kim nguyệt, Kim nhật, kim thời
hư không quá vãng, thần tiên
tứ trực công càn, ngũ phương sứ giả,
trì phán đồng tử, dẫn đạo tướng quân.
Kim niên đương cai thái tuế chí đức tôn thần,
bản phủ châu huyện, Thành Hoàng tôn thần,
bản cảnh đương cai xã lệnh
Thủ thổ chí thần gia cư phụng sự
Hương hoa hữu cảm nhất thiết minh thần,
Môn thừa hộ úy, tỉnh táo long quan
giám trai sứ giả, kiên lao địa thần.
Pháp Duyên hữu cảm, vô lượng thần kỳ.
Thị thánh thị phàm, viết u viết hiển.
Duy nguyện:
Lai lâm pháp hội, chiêm ngưỡng thế tôn,
Thủ hộ đàn tràng chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh!
THƯỢNG LAI PHỤNG THỈNH:
Ký hạ quang lâm, an tọa chân ngôn
cẩn đương trì tụng
P. Thập phương chư phật giáng đạo tràng,
Hộ pháp long thiên giáng đạo tràng
T. Thụ thử hương hoa phả cúng dàng
Thụ thử trai duyên phả cúng dàng.
P. Bất xả từ bi tác chứng minh
T. Bất xả uy quang tác chứng minh
Nam mô vân lai tập Bồ Tát ma ha tát (3)
Ân cần phụng thỉnh:Phật Pháp Tăng Tam Bảo,
Thiên địa thủy vạn linh, Lượng Phật Thánh Dĩ Từ Bi
tất thùy lân nhi cảm ứng.
Cung vọng:
Thập phương Tam Bảo, Chư Phật, ThếTôn,
Hộ Pháp long thiên,vô biên thánh tiết
Thị nhật kim thời bất xả từ bi,
Quang giáng hương duyên,Chứng minh công đức.
Dĩ kim tín chủ kiền cụ hương hoa,
Đăng, trà, quả, thực, lý đương phụng hiến:
Nam mô tát phạ, tát tha nga, đá phạ rô chỉ đế án tam bạt ma tam bạt la hồng (3)
Nam mô tô rô bà ra, đát tha nga, đá ra, đát điệt tha án tô rô, tô rô bát na tô rô sa bà ha (3)
Thử thực sắc hương vị
Thượng cúng Thập Phương Phật
Trung phụng chư Thánh Hiền
Hạ cập lục đạo phẩm
Đẳng thí vô sai biệt
Tùy duyên giai báo mãn.
Năng linh chí giả,
Đắc vô lượng ba na mật,
Tam đức lục vị cúng Phật,Cập tăng
Pháp giới, Hữu tình phả đồng cúng giàng.
Án nga nga nẵng tam bạt phạ phiệt nhật la hộc ( 3)
Nam mô phả cúng giàng Bồ Tát Ma Ha Tát (3)
Khể thủ bạc già, phạm viên mãn tu đà la,
Thượng thừa Bồ - tát tăng công đức nan tư nghì.
Ngưỡng duy: Tam – Bảo chư phật, thế tôn,
Chứng minh công đức
Nam mô…………………Phật đà gia.
Nam mô…………………Đạt ma gia.
Nam mô…………………Tăng già gia.
Nam mô…………………Đa bảo Như – lai
Nam mô…………………Bảo thắng Như – lai
Nam mô……………Diệu sắc thân Như – lai
Nam mô……………Quảng bác thân Như - lai
Nam mô…………………Ly phố úy Như-lai
Nam mô……………Cam lộ vương Như – lai
Nam mô…………………A-Di-Đà Như – lai
Duy nguyện:
Thường trụ Tam – Bảo Thất Phật thế tôn,
Bất xả từ bi, vị tác chứng minh, cúng dàng, dĩ tất,
cụ hữu đầu từ kim đương tuyên đọc
P. Tín chủ hộ quỳ phụng sớ văn kỳ đảo
T. Khể thủ chúc kiền điều ngự chủ
Kim thân trượng lục độc xưng tôn
P. Diện như mãn nguyệt bạch hào quang
Giám sát sự thời kiền đảo sớ
T. Kim thời khải thỉnh
Hữu sớ tuyên dương, hạnh đối uy quang,
Cung duy từ thính cẩn đương tuyên bạch,
Tuân phụng Như – lai,
Thần tuân phụng Thích ca Như lai,
Di giáo, đệ tử chúng đẳng
Thành hoàng thành khủng, khể thủ
Khấu thủ bách bái cẩn từ
Tuyên bạch thượng ngôn.
Thượng lai sớ văn các đạo cung đối phật tiền, thê tỳ bát nhã bổ khuyết phó lô hoa hóa.
Quán tự tại bồ tát hành thâm Bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh diệc vô vô minh tận; nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, bồ đề tát đỏa y Bát nhã ba la mật đa cố tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố vô hữu khủng bố; viễn ly điên đảo mộng tưởng; cứu cánh niết bàn, tam thế chư Phật y Bát nhã ba la mật đa cố đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Cố tri Bát nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề. Tát bà ha.
Bát nhã ba la mật đa(3)
Cúng giàng công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phúc giai hồi hướng
Phổ nguyện tầm lịch chư hữu tình
Tốc vãng vô lượng quang phật sái
Hồi hướng nhân duyên tam thế phật
Văn thù phổ hiền quan tự tại
Nguyện dữ thử công đức
Phổ cập ư nhất thiết ngã đẳng chúng sinh
Giai cộng thành phật đạo
Thập phương tam thế nhất thiết phật
Chư tôn bồ tát ma ha tát
Ma ha bát nhã ba la mật
Tứ sinh cửu hữu đồng đăng
Hoa tạng huyền môn bát nạn tam đồ
Cộng nhập tỳ lư tính hải
Nam vô sa bà thế giới
Tam giới đại sư tứ sinh từ phụ
Nhân thiên giáo chủ
Thiên bách ức hóa thân
Bản sư thích ca mâu ni phật (3)
Tự quy y phật đương nguyện chúng sinh
Thể giải đại đạo pháp vô thượng tâm
Tự quy y pháp đương nguyện chúng sinh
Thâm nhập kinh tạng trí tuệ như hải
Tự quy y tăng đương nguyện chúng sinh
Thống lý đại chúng nhất thiết vô ngại
Hòa nam thánh chúng
Nguyện dĩ thử công đức
Phả cập ư nhất thiết
Ngã đẵng dữ chúng sinh
Giai cộng thành phật đạo
BẢNG KINH
Pc: Bảng kinh tuyên bạch
P. Trinh quán Đường triều thập nhị niên
Khâm sai Tam Tạng vãng Tây Thiên
T. Bạch Long, Đại Thánh tùy tòng hậu
Bát Giới, Sa Tăng ứng bệ tiền
P. Lĩnh đắc chân kinh đa hiểm trở
Tương hồi đông độ cứu oan khiên
T. Công kiên kiếp thạch lan xưng tán
Bắc đẩu nguy nguy vọng đại thiên
DỊCH NGHĨA
P. Triều nhà Đường vừa năm trinh quán
Khâm sai thầy Tam Tạng lĩnh kinh
T. Đường Tăng vâng chiếu lệnh truyền
Nào thầy nào tớ nhật trình ra đi
P. Ông Bát Giới Sa Tăng đi trước
Mở đường ra nhẹ bước như không
T. Sau quan Đại Thánh Bạch Long
Đằng vân giá vũ như không tức thì
P. Sang đến nước Lưu Ly Phật Quốc
Vào tâu quỳ lĩnh được kinh ra
T. Biết bao hiểm trở sơn hà
Biết bao quỷ quái yêu ma đón đường
P. Thầy cùng tớ dặm trường non nước
Lĩnh kinh về cứu được oan khiên
T. Ngày nay ứng phó tùy duyên
Phụng kinh nghinh tiếp thay quyền diễn nghi
PC: Dương cũng được kỳ ri thọ khảo
Âm cũng được hồn phách siêu thăng
Bảng này diễn nghĩa rõ ràng
Tín chủ quỳ tấu tâm tình phụng kinh
Tụng kinh thời phải tôn kinh
Phật cho phú quý hiển vinh đời đời
Tín chủ kiền thành liên liên bái
TỤNG KINH DI ĐÀ
Tín chủ kiền thành tạ lễ tam bái!
TẠ ĐÀN
Đàn nghi cáo tất. Pháp sự vân chu.
Thỉnh chư Phật biệt vu tĩnh cung
Thỉnh chư thánh hoàn quy tiên giới
Hương trà ngọc truyện tửu lạnh kim bôi
Thị chi nhi phất kiến kỳ hình
Thúc nhĩ nhi mạc ty kỳ tạng
Nhất chiếm nhất lễ, tái bái tái từ lai vô khứ tích vô tông thần minh xuất hiện
Thủy hữu nghinh, chung hữu tạ
- Nhất bái tạ cầu phúc phúc lai
- Nhị bái tạ, trừ tai tai diệt
- Tam bái tạ, cầu địa linh nhân kiệt
- Tứ bái tạ cầu vong linh siêu sinh tịnh độ
- Dương quyến thụ phúc, thụ lộc, thụ thiên ân.
- Các xướng phương ngung vạn vạn tuế
Sở hữu kim ngân, chỉ tiền cúng tiến cô hồn rụng bằng hoa hóa.
Khoa Hoàn
https://www.facebook.com/thayquycoct...6532485168093/
TUYỆT ĐỐI – KHÔNG DÙNG TIỀN ÂM PHỦ – ĐỂ THỜ CÚNG THẦN LINH
16/01/2019 by dangmang
1. Khi cầu cúng, người ta thường hay đặt TIỀN ÂM PHỦ kèm hương hoa, biện quả, phẩm vật. Lễ xong, thì đốt gửi đến gia tiên và các vị thần linh. Thế nhưng, CHỌN LOẠI TIỀN NÀO, CÁCH HÓA ra sao, thực hư các cụ có NHẬN được không – hầu như không mấy người hiểu.
2. Đầu tiên quý vị cần biết rằng, thật ra các cụ CÓ NHẬN ĐƯỢC. (Khi áp vong, thì 2/3 đều nói là nhận được vàng mã con cháu gửi).
3. Nhưng tiền đó không phải lấy để mà tiêu được. Cái các cụ nhận, thật ra là TẤM LÒNG THƠM THẢO của con cháu khi sắp lễ, có CHU ĐÁO, có một lòng TƯỞNG NHỚ BIẾT ƠN, có CHÂN THÀNH dâng lễ hay không. Nên là, không phải cứ đốt một trời vàng mã là có nhiều lộc nhiều tài. Hay cụ nào nhận được nhiều nhà, nhiều xe, nhiều tiền, nhiều mã – thì “dưới ấy” GIÀU HƠN các cụ khác.
4. TIỀN ÂM PHỦ có mệnh giá 50k, 500k, 100 dollars, rồi thì tiền polymer cũng có luôn. (Nhân kể chuyện vui, hồi năm 2016, hải quan Mỹ tịch thu 4,6 triệu dollar… âm phủ của 2 người Việt đem vào đất Mỹ, suýt thì đi tù mọt gông.)
5. Thật ra, TIỀN ÂM PHỦ chỉ dùng cúng GIA TIÊN, hoặc cúng VONG thì được. Khi cầu đến THẦN LINH (Thần Tài, Sơn Thần, Long Thần, Thổ Địa, Thổ Công, Táo Quân, Thổ Kỳ, các đức Thánh Mẫu…), hoặc khi ban thờ gia tiên chung với thần linh, thì TUYỆT ĐỐI KHÔNG DÙNG TIỀN ÂM PHỦ. Điều đó vô tình thể hiện sự THIẾU TÔN TRỌNG thần linh. Tiền âm phủ gửi về CÕI DƯỚI âm tào địa phủ. Còn thần linh – các ngài ở CÕI TRÊN.
6. Vậy thì dùng gì thay thế? Nếu quý bạn có hay theo dõi Thầy Lương Ngọc Huỳnh, thì ngoại trừ các lễ cầu siêu dùng tiền âm phủ ra, tất cả các lễ cầu đến thần linh – Thầy đều dùng 2 loại mã là VÀNG THỎI và VÀNG THUYỀN (quý vị có thể xem ảnh chụp). Hai loại vàng mã này bán nhiều ngoài chợ, nhưng mọi người không để ý. Tất nhiên, các vị Thần Linh không cần vàng của chúng ta (nói chi là vàng mã), nhưng Thần Linh sẽ CHỨNG cho sự CHU TOÀN và THÀNH TÂM của NGƯỜI sắp lễ. Đối với gia tiên, con cháu sắp lễ dùng vàng thỏi vàng thuyền – thì càng thêm phần chu đáo.
7. Cuối năm, nếu quý vị có đi tảo mộ, nhớ là lúc xin Địa Tạng Vương Bồ Tát – cho phép gia tiên về nhà ăn Tết cùng con cháu, thì đừng có gửi cho Ngài tiền âm phủ mà Ngài sẽ không vui đâu.
8. Trên đây chỉ là đôi chút kiến thức nhỏ nhoi về việc thờ cúng của trường phái Phong Thủy Lương Ngọc Huỳnh, nhưng thiết nghĩ, hẳn có ích với nhiều người. Vậy, quý bạn hãy cùng CHIA SẺ – để gia đình và bạn bè cùng được biết nhé. Âu cũng là cho đi những điều tốt đẹp, gieo thêm mầm cho CHÂN TÂM KHỞI PHÁT, để từ đó tạo thêm được nhiều PHÚC ĐỨC TRẦN GIAN.
9. Kiến thức cho đi là còn mãi. Hãy chia sẻ kiến thức cả ở ngoài đời thực, để mọi người cùng nhau biết tưởng nhớ công ơn tổ tiên. Người sống có ân, thì mới có tài, có lộc, có bình an.
http://motgiadinh.net/tuyet-doi-khon...than-linh.html
https://upanh1.com/images/Untitled8f8d161514e5527f.png
Túi kinh Tinh Tấn
Bởi admin - 6 Tháng Bảy, 2018 40
http://vietrigpalungta.com/wp-conten...%E1%BA%A4N.jpg
A. Ý nghĩa Pháp Bảo:
-Tinh tấn là một trong sáu ba la mật để nhắc nhở chúng ta nỗ lực một cách đúng đắn thì mới đem lại hạnh phúc.
B. Chất liệu và Sử dụng:
-Túi kinh tinh tấn được may thủ công bằng chất liệu gấm sang trọng.
-Túi dùng để đựng kinh, sách. Túi mang ý nghĩa nhắc người tu về tinh tấn ba la mật.
C. Mức phí thỉnh pháp bảo: 100k
D. Cách thức thỉnh Pháp Bảo:
Cảm phiền các bạn giúp chúng tôi bằng cách không dùng từ “bán”, xin hãy dung từ “Thỉnh”. Trên mỗi Pháp Bảo chúng tôi đã có đề mức phí thỉnh phù hợp, xin vui lòng giúp chúng tôi không trả giá. Vì đây là một dự án từ thiện, tất cả những tịnh tài thu được đều tiếp tục tạo ra các Pháp Bảo khác để tiếp tục làm lợi ích cho chúng sinh. Vì vậy mọi hình thức không đúng đắn như là kinh doanh qua lại v.v.. đều không được khuyến khích, và xin hãy tỉnh thức về nhân quả. Nếu các bạn thấy hài lòng xin mời các bạn thỉnh, nếu không hài lòng xin các bạn từ bi đóng góp ý kiến để chúng tôi được phục vụ tốt hơn.
~ Viet Rigpa Lungta Project
http://vietrigpalungta.com/?m=pc&a=p...000519&paged=4
https://upanh1.com/images/Untitled8f8d161514e5527f.png
https://upanh1.com/images/Untitled8f8d161514e5527f.png
Vòng tay Giải thoát qua sự xúc chạm
Bởi admin - 6 Tháng Bảy, 2018 127
http://vietrigpalungta.com/wp-conten...%E1%BA%A0M.jpg
A. Ý nghĩa Pháp Bảo:
Vòng đeo tay “Giải thoát qua sự xúc chạm” chứa câu thần chú Giải thoát thông qua sự tiếp xúc như nhìn, chạm v.v.. giúp bảo vệ tâm ta không bị tán loạn, giúp người đeo giữ được sự sáng suốt, tỉnh thức, tạo duyên hướng về mục đích tối thượng là đạt đến giải thoát.
Trong Kinh Thác Nước Mạnh Mẽ (Forceful Waterfall Sutra) có chép: Chỉ cần nhìn thấy câu chú này một lần có thể thanh tịnh nghiệp chướng của ba trăm triệu kiếp trong quá khứ.
Giải Thoát Thông Qua Sự Thấy là một Terma (kho tàng giáo pháp do Đức Liên Hoa Sanh và Yeshe Tsogyal ẩn dấu, sẽ được phát hiện tại thời điểm thích hợp bởi một bậc thầy giác ngộ) viết bằng ngôn ngữ của những Không Hành Nam (Daka) và Không Hành Nữ (Dakini).
Những người may mắn được thấy hình này sẽ không kinh nghiệm qua ba cõi thấp và sẽ được giải phóng khỏi nỗi sợ rơi vào các cõi thấp; sẽ được thanh lọc ngũ độc (tham, sân, si, kiêu mạn và đố kị) và giải thoát khỏi nghiệp chướng, được giải thoát khỏi nỗi sợ hãi của phần còn lại trong luân hồi.
B. Cách Sử dụng:
– Vòng có hai mặt, mặt bên trong giúp người đeo tịnh hóa bản thân và mặt bên ngoài giúp chúng sinh nhìn vào để tịnh hóa.
– Dùng để đeo tay cho mọi lứa tuổi, thông thường nam đeo tay trái và nữ đeo tay phải và có thể dùng như một sự hộ thân v.v..
– Dùng làm quà tặng cho bạn bè kết duyên Phật Pháp v.v..
C. Mức phí thỉnh pháp bảo: 25k
D. Cách thức thỉnh Pháp Bảo:
Cảm phiền các bạn giúp chúng tôi bằng cách không dùng từ “bán”, xin hãy dùng từ “Thỉnh”. Trên mỗi Pháp Bảo chúng tôi đã có đề mức phí thỉnh phù hợp, xin vui lòng giúp chúng tôi không trả giá. Vì đây là một dự án từ thiện, tất cả những tịnh tài thu được đều tiếp tục tạo ra các Pháp Bảo khác để tiếp tục làm lợi ích cho chúng sinh. Vì vậy mọi hình thức không đúng đắn như là kinh doanh qua lại v.v.. đều không được khuyến khích, và xin hãy tỉnh thức về nhân quả. Nếu các bạn thấy hài lòng xin mời các bạn thỉnh, nếu không hài lòng xin các bạn từ bi đóng góp ý kiến để chúng tôi được phục vụ tốt hơn.
~ Viet Rigpa Lungta Project
http://vietrigpalungta.com/?p=633
https://upanh1.com/images/Untitled8f8d161514e5527f.png
https://upanh1.com/images/Untitled8f8d161514e5527f.png
Vòng cổ Dewachen
Bởi admin - 6 Tháng Bảy, 2018 30
http://vietrigpalungta.com/wp-conten...4-DEWACHEN.jpg
9.VÒNG CỔ DEWACHEN
A. Ý nghĩa Pháp Bảo:
Vòng đeo chứa hình ảnh của Đức Phật A Di Đà , vị Phật hộ chủ Cõi Tây Phương Cực Lạc. Với đôi mắt từ của một Đấng Bảo Hộ Vô Lượng Quang, ngày đêm sáu thời Ngài luôn dõi nhìn chúng sinh với tình yêu thương vô bờ bến. Tâm giác ngộ của Ngài luôn thấu biết tất cả những niệm tưởng khởi lên trong tâm chúng sinh. Đôi tai giác ngộ của Ngài luôn nghe rõ mọi âm thanh, giọng nói của muôn loài chúng sinh.
Ngoại trừ những ai đã chối bỏ giáo pháp hay tạo tội vô gián, còn tất cả những ai phát lòng sùng tín nơi Ngài, cùng phát nguyện sanh về Cực Lạc, đều sẽ được viên thành ý nguyện. Trong cõi trung ấm, ngài sẽ hiện ra tiếp dẫn đến cõi nước này.
Vòng cổ Dewachen có 2 mặt, mặt ngoài là hình ảnh Đức A Di Đà Phật để nhắc nhở mọi người luôn luôn nhất tâm niệm Phật thành kính khẩn cầu Ngài và mặt kia là biểu tượng Kalachakra. Biểu tượng Kalachakra (Kim Cang Thời Luân) là sự kết hợp của 10 chủng tự Mật tông kết hợp với nhau. Là biểu tượng cho 10 quyền lực của Phật (Thập lực). Là tinh hoa của tất cả tinh hoa.
B. Cách Sử dụng:
Dùng để đeo cổ cho mọi lứa tuổi như là một sự nhắc nhở tu tập và hộ thân.
Dùng làm quà tặng cho bạn bè kết duyên Phật Pháp …
C. Mức phí thỉnh pháp bảo: 20k
D. Cách thức thỉnh Pháp Bảo:
Cảm phiền các bạn giúp chúng tôi bằng cách không dùng từ “bán”, xin hãy dùng từ “Thỉnh”. Trên mỗi Pháp Bảo chúng tôi đã có đề mức phí thỉnh phù hợp, xin vui lòng giúp chúng tôi không trả giá. Vì đây là một dự án từ thiện, tất cả những tịnh tài thu được đều tiếp tục tạo ra các Pháp Bảo khác để tiếp tục làm lợi ích cho chúng sinh. Vì vậy mọi hình thức không đúng đắn như là kinh doanh qua lại v.v.. đều không được khuyến khích, và xin hãy tỉnh thức về nhân quả. Nếu các bạn thấy hài lòng xin mời các bạn thỉnh, nếu không hài lòng xin các bạn từ bi đóng góp ý kiến để chúng tôi được phục vụ tốt hơn.
~ Viet Rigpa Lungta Project
http://vietrigpalungta.com/?p=602
https://upanh1.com/images/Untitled8f8d161514e5527f.png
https://upanh1.com/images/Untitled8f8d161514e5527f.png
Phong bao Cát Tường
Bởi admin - 6 Tháng Bảy, 2018
http://vietrigpalungta.com/wp-conten...E1%BB%9CNG.jpg
A. Ý nghĩa Pháp Bảo:
Phong bao với 8 biểu tượng cát tường biểu trưng cho những vật phẩm cúng dường tối thượng dâng lên Tam Bảo mang lại ý nghĩa vô cùng sâu sắc thể hiện tấm lòng trân quý Phật bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo. Ý nghĩa của 8 biểu tượng cát tường:
PHÁP LUÂN tượng trưng cho Phật pháp, cho sự chuyển động của vạn pháp trong vũ trụ.
ỐC PHÁP (PHÁP LOA) tượng trưng cho sự truyền bá Phật pháp đến bốn phương.
LỌNG CHIẾN THẮNG tượng trưng cho sự chiến thắng tà ma ngoại đạo, hàng phục ma chướng.
Ô BÁU tượng trưng cho sự che chở, bảo vệ, đại diện cho khả năng hoá độ chúng sinh tránh xa tội ác, sự sợ hãi.
BẢO BÌNH thể hiện sự tôn kính Phật pháp
HAI CÁ thể hiện sự giàu có sung túc, trường thọ, cát tường
HOA SEN biểu hiện sự thuần khiết, thanh tịnh
NÚT CÁT TƯỜNG là dạng nút thắt đan cài vào nhau liền mạch không có điểm đầu, không có điểm cuối. Dùng để biểu hiện Phật pháp vĩnh hằng vô cùng không bờ bến.
B.Giá trị:
Phong bao cát tường thể hiện sự trân quý Giáo Pháp của Đức Phật, tôn kính Đạo Sư – vị thầy vô cùng trí tuệ và từ bi kham nhẫn giúp chúng ta thoát khỏi bể khổ của luân hồi do tham lam, sân hận và vô minh.
C.Cách sử dụng:
Có 5 mầu phong bao: Trắng, Xanh lam. Vàng, Đỏ, Xanh lá cây và dùng để bỏ tịnh tài để cúng dường các Thầy hoặc thay cho phòng bao sử dụng trong các hoạt động xã hội và văn hóa.
D.Mức phí thỉnh Pháp bảo: 3k
E.Cách thức thỉnh Pháp Bảo:
Cảm phiền các bạn giúp chúng tôi bằng cách không dùng từ “bán”, xin hãy dùng từ “Thỉnh”. Trên mỗi Pháp Bảo chúng tôi đã có đề mức phí thỉnh phù hợp, xin vui lòng giúp chúng tôi không trả giá. Vì đây là một dự án từ thiện, tất cả những tịnh tài thu được đều tiếp tục tạo ra các Pháp Bảo khác để tiếp tục làm lợi ích cho chúng sinh. Vì vậy mọi hình thức không đúng đắn như là kinh doanh qua lại v.v.. đều không được khuyến khích, và xin hãy tỉnh thức về nhân quả. Nếu các bạn thấy hài lòng xin mời các bạn thỉnh, nếu không hài lòng xin các bạn từ bi đóng góp ý kiến để chúng tôi được phục vụ tốt hơn.
~ Viet Rigpa Lungta Project
http://vietrigpalungta.com/?p=647
https://upanh1.com/images/Untitled8f8d161514e5527f.png
https://upanh1.com/images/Untitled8f8d161514e5527f.png
Thời gian thỉnh Pháp Bảo
Bởi admin - 11 Tháng Bảy, 2018 19
Thời gian thỉnh online từ 14h chiều đến 18h tối từ thứ 2 đến thứ 6 và chúng tôi sẽ chuyển tới các bạn trong thời gian sớm nhất.
Các bạn có thể nhắn tin qua Fanpage hoặc Email và tin nhắn điện thoại. Chúng tôi sẽ trả lời lại sớm nhất trong khả năng có thể.
Viet Rigpa Lungta Project sử dụng dịch vụ vận chuyển của Viettel vì thế mức phí vận chuyển sẽ căn cứ theo qui định của đơn vị cung cấp dịch vụ. Cảm phiền các bạn cung cấp cho chúng tôi địa chỉ và số điện thoại để chuyển hàng. Các bạn vui lòng chuyển khoản mức phí thỉnh cho chúng tôi thông qua số tài khoản sau:
TK: Nguyễn Quỳnh Hoa – 0691000358459 Ngân hàng Vietcombank – Chi Nhánh Thanh Xuân – Hà Nội.
Ngay sau khi nhận được thông tin chuyển khoản của bạn, Viet Rigpa Lungta sẽ chuyển Pháp Bảo tới địa chỉ các bạn đã cung cấp. Xin vui lòng thanh toán cước phí giúp chúng tôi cho bên vận chuyển.
– Email: vietrigpa.lungta@gmail.com /Website: www.vietrigpalungta.com/Mobile: 0915.436.810
Xin chân thành cảm ơn.
(ĐÂY LÀ DỰ ÁN TỪ THIỆN – VUI LÒNG GIÚP ĐỠ CHÚNG TÔI KHÔNG THỈNH VỀ ĐỂ BÁN)
http://vietrigpalungta.com/?p=882
https://upanh1.com/images/Untitled8f8d161514e5527f.png
4 BƯỚC LOẠI TRỪ ÂM KHÍ VÀ ÁM KHÍ
2 years ago admin
www.dudoanhoc.com
Gần đây có một học viên Khí Công của Tử Minh có kể rằng vô tình đưa em bé còn nhỏ – khoảng 5 tháng tuổi, đi viếng 1 đám ma người thân. Về nhà em khóc đêm dữ dội làm bố mẹ rất phiền lòng và lo lắng. Đó là em bé đã được 5 tháng rồi.
Cũng thế, người nhà của Tử Minh có kể lại ngày xưa khi em họ của Tử Minh còn bé. Chú đi viếng 1 đám tang sau về nhà ôm em bé vào lòng. Em bé sau đó khóc đêm liên tục 3 tháng mới hết.
Thường thì là vì em bé rất nhạy cảm với năng lượng. Nên năng lượng ở đâu mà rối loạn thì sẽ khiến năng lượng của em bé rối loạn theo. Không phải chỉ đám ma đâu mà thật ra các đám tiệc tùng, hội họp mà năng lượng những người tham dự tiêu cực và hỗn loạn quá mà ta không biết cách tẩy trừ chúng đi mà cứ để nó bám vào cơ thể và mang theo mình về nhà cũng có thể khiến cho khí trường của em bé hoặc những người nhạy cảm bị nhiễu loạn theo. Nhiễu loạn như vậy đương nhiên sẽ khiến cho bé bất an và khóc đêm rồi.
Tử Minh cũng có em bé còn trong tháng, lại vừa phải chạy về nhà phụ với gia đình lo cho đám tang của bà ngoại. Vì biết điều này nên cũng có một số cách để làm thanh sạch lớp năng lượng bám quanh người mình. Nghĩ là ích lợi cho mọi người nên Tử Minh quyết định chia sẻ với mọi người phương pháp gọi “BỘ PHÁP BẤT BẠI – LOẠI TRỪ NHIỄU LOẠN”
Thông thường chúng ta nghĩ rằng tắm rửa có thể loại trừ. Hoặc kỹ lưỡng hơn thì đốt lửa rồi nhảy qua nhảy lại. Thật sự chúng có khả năng loại trừ năng lượng bị nhiễu loạn thật nhưng đôi khi vẫn chưa đủ. Nếu người vừa qua đời bệnh tật quá nặng, môi trường khu vực nào đó quá u ám. Khí lực quá tiêu cực và nặng nề thì khả năng đeo bám vẫn còn rất cao. Vậy nên ta phải lần lượt làm 4 phương pháp như sau mới có được hiệu quả toàn vẹn:
4 BƯỚC BẤT BẠI LOẠI TRỪ ÁM KHÍ & ÂM KHÍ
1) ĐỐT LỬA rồi bước qua bước lại:
- Điều này rất tốt vì lửa phát nhiệt và xua đi những lớp khí lực u ám bao bọc xung quanh ta nhất là ở khu vực bên dưới hông – chân.
2) TẮM NƯỚC MUỐI NÓNG:
- Muối có tính dương rất cao. Muối biển dương tính lại còn cao hơn nữa do được phơi dưới nắng lâu ngày. Nước muối nóng sẽ hút hết những âm khí, ám khí ở phần trên cơ thể chúng ta và những khí lực nặng nề bám ở những kẽ nhỏ trên cơ thể.
3) TẮM LẠI NƯỚC NÓNG:
- Đôi khi có những ám khí & âm khí quá mạnh sẽ bám vào các hạt muối mà không bị trung hoà đi. Vậy nên nước nóng sẽ rửa sạch những hạt muối hút âm khí.
4) XÔNG TRẦM:
- Sau 3 bước trên, cơ thể chúng ta đã sạch hoàn toàn trước những ám khí & âm khí bám vào cơ thể. Nhưng ta vẫn nên xông trầm để nâng năng lượng và sự rung động của cơ thể lên một mức độ mới. Ngăn cản những âm khí đã bị phát tán xung quanh có thể quay trở lại.
- Để thu được kết quả tốt hơn các bạn có thể vừa xông trầm vừa đưa khay trầm chuyển động theo vòng vô cực ở bốn phía xung quanh của mình như hướng dẫn trong video clip này của Tử Minh: https://youtu.be/T2GiIXLK9RQ
Sau bốn bước này, chắc chắn âm khí & ám khí sẽ không thể nào dính vào cơ thể các bạn được nữa. Các bạn đã hoàn toàn loại trừ được sự tác động tiêu cực ở môi trường bên ngoài vào cơ thể mình. Không chỉ ứng dụng cho khi đi dự đám ma về mà còn có thể dùng cho bất cứ nơi nào bạn đến thấy đầy u ám như là vùng đất heo hút, ngôi nhà hoang, bữa tiệc của những người tiêu cực hoặc thậm chí là tiếp chuyện với một người quá hắc ám.
Vài điều chia sẻ, hi vọng đem lại lợi lạc cho tất cả mọi người!
~ Tử Minh
\\Sen Hana
Em góp ý như sau: nếu không có trầm để xong thì ở bước 3 thay vì tắm nước nóng thì cho vào đó vài giọt dầu hoặc các loại lá dùng để xông như xả, bưởi, tràm, ổi, khế, tía tô, hương nhu, tre (thích hương nào thì cho vào nồi nước dun rồi pha ra tắm, có thể cho cùng lúc nhiều loại tuỳ thích). Om Mani Padme Hum
http://www.dudoanhoc.com/tu-minh/4-b...va-am-khi.html
Jumat, 14 April 2017
SUTRA PANJANG USIA YANG DISABDAKAN BUDDHA (TENTANG PENGGUNAAN KERTAS MANTRA PANJANG USIA) Fú Shuō Shòu Shēng Jīng / 佛說壽生經
Cetya Tata / 21.33.00
SUTRA PANJANG USIA YANG DISABDAKAN BUDDHA (TENTANG PENGGUNAAN KERTAS MANTRA PANJANG USIA)
Fú Shuō Shòu Shēng Jīng / 佛說壽生經
CATATAN:
Terjemahan Sutra ini masih jauh dari sempurna. Oleh karenanya, segenap kritik dan saran akan diterima dengan senang hati
Sutra ini boleh diperbanyak dan disebar luaskan, dengan TIDAK MENGUBAH apa pun (tanpa menambah dan mengurangi apa pun) sebagaimana yang tercantum di sini.
Sebagai tambahan, karena ada istilah-istilah khas China, seperti hun dan po, maka kemungkinan besar sutra ini dikarang di China; sehingga tidak mengherankan jika terdapat ajaran yang berbeda atau mungkin bertentangan dengan ajaran Agama Buddha lainnya.
Kendati demikian, karena merupakan bagian budaya dan agama China, maka saya tetap menerjemahkan sutra ini.
Diharapkan agar terjemahan sutra ini dapat membantu memahami perkembangan agama dan tradisi China.
Segenap pahala kebajikan yang didapatkan dari penerjemahan Sutra ini akan dilimpahkan bagi Guru, Buddha, Dharma, Sangha, Leluhur, bangsa dan negara, serta semua makhluk.
貞觀十三年有唐三藏法師 . 往西天求教
Zhēnguàn shísān nián yǒu táng sānzàng fǎshī, wǎng xītiān qiújiào
Pada tahun Zhenguan ketigabelas, Biksu Tripitaka pergi ke India mencari kebenaran ajaran Buddha.
因檢大藏經, 見壽生經一卷
Yīn jiǎn dàzàng jīng, Jiàn shòu shēng jīng yī juàn
Saat hendak memeriksa Tripitaka, ia berjumpa dengan segulung Sutra Panjang Usia.
有十二相屬南贍部洲生下為人,
Yǒu shí’èr xiāng zhǔ nán shàn bù zhōu shēng xià wéi rén
Terdapat dua belas jenis kelahiran umat manusia di Jambudvipa.
先於冥司下, 各借壽生錢
Xiān yú míng sī xià, gè jiè shòu shēng qián
Sebelumnya berada di bawah kendali kegelapan, masing-masing berhutang uang panjang usia.
有注命官秪揖人道, 見今庫藏空閒
Yǒu zhù mìngguān zhī yī réndào, jiàn jīn kùcáng kōngxián
Bagi masing-masing umat manusia terdapat pejabat pencatat hutang tersebut.
催南贍部洲眾生交納壽生錢,
Cuī nán shàn bù zhōu zhòngshēng jiāonà shòu shēng qián
Oleh karenanya, para penghuni Jambudvipa harus membayar hutang uang panjang usia.
阿難又問世尊. 南瞻部洲眾生多有大願不能納得。
Ānán yòu wèn shìzūn. Nán zhān bù zhōu zhòngshēng duō yǒu dàyuàn bùnéng nàdé.
Ananda lalu bertanya pada Buddha, “Para insan yang hidup di Jambudvipa mempunyai begitu banyak hawa nafsu keinginan yang mustahil dipuaskan.”
佛言道教看金剛經受生經。
Fú yán dàojiào kàn jīngāng jīngshòu shēng jīng.
Buddha membabarkan Sutra Panjang Usia.
能折本命錢為祗證經力甚大。
Néng shé běnmìng qián wèi zhī zhèng jīng lì shéndà.
Dapat melunasi hutang nasib, yakni berkat kekuatan Sutra tersebut.
三魂杳杳。七魄幽幽。微生空中。
Sān hún yǎo yǎo. Qī pò yōuyōu. Wéi shēng kōngzhōng.
Tiga Hun memasuki kegelapan. Tujuh Po menjadi terpisah satu sama lain. Tercerai berai di udara.
共亡人語話相逐攝人魂魄。減人精神
Gòng wáng rén yǔ huà xiāng zhú shè rén húnpò.Jiǎn rén jīngshén.
Suara dan wujud orang yang meninggal akan terserap dalam anasir kehidupan (hun dan po) manusia. Sehingga merampas semangat seseorang [yang masih hidup].
若有善男子。善女人。破旁納得壽生 。免得身邊一十八般橫災。
Ruò yǒu shàn nánzǐ. Shàn nǚrén. Pò páng nàdé shòu shēng qián. Miǎndé shēnbiān yīshíbā bān héng zāi.
Apabila terdapat putera dan puteri yang bajik, yang mempersembahkan Uang Panjang Usia, maka ia akan terbebas dari delapan belas bencana, yakni:
第一遠路波陌內被惡 人窺算之災。
Dì yī yuǎnlù bō mò nèi bèi èrén kuī suàn zhī zāi.
Pertama, bencana yang ditimbulkan orang-orang jahat.
第二遠路風雹雨打之災。
Dì èr yuǎnlù fēng báo yǔ dǎ zhī zāi.
Kedua, bencana yang diakibatkan oleh cuaca (angin, es dan hujan).
第三過江度河落水之災。
Dì sānguò jiāng dù hé luòshuǐ zhī zāi.
Ketiga, bencana sewaktu menyeberangi sungai dan perairan.
第四牆倒屋塌之災。
Dì sì qiáng dǎo wū tā zhī zāi.
Keempat, bencana berupa robohnya tempat kediaman.
第 五火光之災。
Dì wǔ huǒguāng zhī zāi.
Kelima, bencana karena kebakaran (api).
第六血光之災。
Dì liù xuèguāngzhīzāi.
Keenam, bencana berupa pertumpahan darah.
第七勞病之災。
Dì qī láo bìng zhī zāi.
Ketujuh, bencana berupa penyakit.
第八疥癩之災。
Dì bā jiè lài zhī zāi.
Kedelapan, bencana berupa penyakit kulit.
第九咽喉閉塞之災。
Dì jiǔ yānhóu bìsè zhī zāi.
Kesembilan, bencana karena tersedak atau tercekik.
第十落馬傷人之災。
Dì shí luòmǎ shāng rén zhī zāi.
Kesepuluh, bencana luka akibat terjatuh dari kuda.
第十一車碾之災。
ì shíyī chē niǎn zhī zāi.
Kesebelas, bencana karena terlindas kendaraan (kereta).
第十二破傷風死之災。
Dì shí’èr pòshāngfēng sǐ zhī zāi.
Kedua belas, kematian yang diakibatkan oleh demam.
第十三產難之災。
Dì shísān chǎn nàn zhī zāi.
Ketiga belas, bencana karena sulit melahirkan.
第十四橫死 之災。
Dì shísì hèngsǐ zhī zāi.
Keempat belas, kematian yang tidak wajar.
第十五卒中風病之災。
Dì shíwǔ cùzhòng fēng bìng zhī zāi.
Kelima belas, penyakit karena serangan angin jahat.
第十六天行時氣之災。
Dì shíliù tiān xíng shí qi zhī zāi.
Keenam belas, bencana karena bintang buruk.
第十七投井自繫之災。
Dì shíqī tóu jǐng zì xì zhī zāi.
Ketujuh belas, bencana karena terjerumus ke dalam sumur.
第十八官事 口舌之災。
Dì shíbā guān shì kǒushé zhī zāi.
Kedelapan belas, bencana karena perkataan.
若有善男子善女人。納得壽生錢。免 身邊一十八般橫災。若有
Ruò yǒu shàn nánzǐ shàn nǚrén. Nàdé shòu shēng qián. Miǎnle shēnbiān yīshíbā bān héng zāi.
Jikalau terdapat pria dan wanita bajik yang mempersembahkan Uang Panjang Usia, maka ia akan terbebas dari delapan belas bencana di atas.
人不納不折 壽生錢。後世為人多注貧賤。壽命不 。醜陋不堪。
Rén bùnà bù zhéshòu shēng qián. Hòushì wéi rén duō zhù pínjiàn. Shòumìng bù cháng. Chǒulòu bùkān.
Orang yang tidak mempersembahkan dan tidak menjalankan praktik Uang Panjang Usia, di kehidupan mendatang akan miskin, usia tidak panjang, serta berpenampilan buruk.
多饒殘疾。但看注壽生經。又名壽 生經。真經不虛除了身邊災。
Duō ráo cánjí. Dàn kàn zhù shòu shēng jīng. Yòu míng shòu shēng jīng. Zhēn jīng bù xū chúle shēnbiān zāi.
Ia akan mempunyai kelemahan atau kekurangan. Namun bila ia berjumpa dengan Sutra Panjang Usia, maka sutra sejati yang bukan palsu ini akan menyingkirkan bencana darinya.
免了身邊禍。又說十地菩薩。長壽王 薩摩訶薩。延壽王 菩薩摩訶薩。增福壽菩薩摩訶薩。消 障菩薩摩訶薩。救苦難觀世音菩薩摩 薩。長安樂菩薩摩訶薩。長歡喜菩薩 摩訶薩。解冤結菩薩摩訶薩。福壽王 薩摩訶薩。延壽長菩薩摩訶薩。
Miǎnle shēnbiān huò. Yòu shuō shí dì púsà. Chángshòu wáng púsà mó hē sà. Yánshòu wáng púsà mó hē sà. Zēng fú shòu púsà mó hē sà. Xiāo zāi zhàng púsà mó hē sà. Jiù kǔnàn guānshìyīn púsà mó hē sà.Cháng ānlè púsà mó hē sà. Zhǎng huānxǐ púsà mó hē sà. Jiě yuān jié púsà mó hē sà. Fú shòu wáng púsà mó hē sà. Yánshòu zhǎng púsà mó hē sà.
Terbebas dari segenap kemalangan dan mendapatkan perlindungan sepuluh Bodhisattva Bumi, yakni:
(1) Changshouwang Pusa Mohesa (Bodhisattva Mahasattva Raja Panjang Usia)
(2) Yanshouwang Pusa Mohesa (Bodhisattva Mahasattva Raja Pemanjang Usia)
(3) Zengfushou Pusa Mohesa (Bodhisattva Mahasattva Peningkat Keberuntungan dan Usia)
(4) Xiaozaizhang Pusa Mohesa (Bodhisattva Mahasattva Pelindung dari Bencana)
(5) Jiukunan Guanshiyin Pusa Mohesa (Bodhisattva Mahasattva Avalokitesvara Pelindung dari Segenap Kesusahan)
(6) Chang Anle Pusa Mohesa (Bodhisattva Mahasattva Kedamaian dan Kebahagiaan Abadi)
(7) Zhang Huanxi Pusa Mohesa (Bodhisattva Mahasattva Kegembiraan Abadi)
(8) Jieyuanjie Pusa Mohesa (Bodhisattva Mahasattva Pembebas Belenggu)
(9) Fushouwang Pusa Mohesa (Bodhisattva Mahasattva Raja Keberuntungan dan Usia)
(10) Yanshouzhang Pusa Mohesa (Bodhisattva Mahasattva Pemanjang Usia)
本宅龍宅土地罪消滅。滿宅家眷罪消 。惡口浪舌罪消滅。殺生害命罪消滅 。前生冤業罪消滅。今生冤業罪消滅 前生父母罪消滅。今生父母罪消滅。 說災星。
Běnzhái lóng zhái tǔdì zuì xiāomiè. Mǎn zhái jiājuàn zuì xiāomiè. È kǒu làng shé zuì xiāomiè. Shāshēng hài mìng zuì xiāomiè. Qián shēng yuān yè zuì xiāomiè. Jīnshēng yuān yè zuì xiāomiè. Qián shēng fùmǔ zuì xiāomiè. Jīnshēng fùmǔ zuì xiāomiè. Yòu shuō zāi xīng.
Naga pengganggu yang berdiam di bumi akan sirna. Kejahatan yang mengganggu keluarga akan sirna sepenuhnya. Perkataan-perkataan jahat akan sirna. Hal-hal yang membahayakan kehidupan akan sirna. Kesalahan-kesalahan yang berasal dari kehidupan lampau akan disirnakan. Kesalahan yang dilakukan pada kehidupan sekarang akan disirnakan. Kesalahan orang tua di kehidupan lampau akan disirnakan. Kesalahan orang tua pada kehidupan sekarang akan disirnakan. Begitu pula halnya dengan pengaruh bintang-bintang pembawa kemalangan.
懺悔已後。願災星不照。福曜長臨。 時無疾。八節無災。
Chànhuǐ yǐ hòu. Yuàn zāi xīng bù zhào. Fú yào zhǎng lín. Sì shí wú jí. Bā jié wú zāi.
Dengan mengakui kesalahan yang telah dilakukan, bintang pembawa kemalangan akan menyingkir. Keberuntungan akan gemilang. Di keempat kurun waktu terbebas dari penyakit. Pada kedelapan penjuru bebas kemalangan.
若有善男子善女人。早納壽生錢。分 解脫。漏貫薄消納在庫中。
Ruò yǒu shàn nánzǐ shàn nǚrén. Zǎo nà shòu shēng qián. Fēnmíng jiětuō. Lòu guàn báo xiāo nà zàikù zhōng.
Apabila terdapat pria dan wanita berbudi, yang di saat pagi mempersembahkan Uang Panjang Usia pada pejabat pencatat hutangnya.
庫官收付。至百年命終之後。七七已 。
Kù guān shōu fù. Zhì bǎinián mìng zhōng zhīhòu. Qīqī yǐ qián.
Dengan demikian pejabat pencatat hutang menerima pembayarannya. Ia akan hidup hingga berusia seratus tahun. Tujuh kali tujuh kehidupan setelahnya.
早燒取壽生經。救度三世父母七代先 。九族冤魂。皆得生天。儒流學士。 尼道俗。或貴或賤。
Zǎo shāo qǔ shòu shēng jīng. Jiù dù sānshì fùmǔ qī dài xiān wáng. Jiǔzú yuānhún. Jiē dé shēng tiān. Rú liú xuéshì. Sēngní dào sú. Huò guì huò jiàn.
Di saat pagi membakar Uang Panjang Usia, maka dapat menyelamatkan orang tua selama tiga kurun kehidupan hingga tujuh generasi sebelumnya. Membebaskan sembilan arwah (hun) pendendam. Dapat memperoleh kelahiran di alam dewa. Dapat meraih kedudukan sebagai sarjana. Dapat menjadi pemuka agama, baik berkedudukan tinggi atau rendah.
若有善男子善女人。今生早燒壽生錢 三世富貴。今生不燒三世貧賤。後世 得人身。
Ruò yǒu shàn nánzǐ shàn nǚrén. Jīnshēng zǎo shāo shòu shēng qián. Sānshì fùguì. Jīnshēng bù shāo sānshì pínjiàn. Hòushì nándé rénshēn.
Apabila terdapat pria dan wanita berbudi, pada kehidupan sekarang di saat pagi membakar Uang Panjang Usia, maka pada tiga kurun waktu akan terlahir kaya serta mulia. Jika pada kehidupan sekarang tidak membakar Uang Panjang Usia, maka pada ketiga kurun waktu akan miskin. Kelahiran sebagia manusia akan sulit diperoleh.
縱得為人瘸手瘸足。無目跛腰。癡聾 啞。衣不蓋形。食不充口。被人輕賤 若 早燒壽生錢。注衣注食注命注祿。本 星官。本命判官。修羅王事。天龍八 。聞佛所 說。皆大歡喜。信受奉行壽生經。
Zòng dé wéi rén qué shǒu qué zú. Wú mù bǒ yāo. Chī lóng yīn yǎ. Yī bù gài xíng. Shí bù chōng kǒu. Bèi rén qīngjiàn. Ruò zǎo shāo shòu shēng qián. Zhù yī zhù shí zhù mìng zhù lù. Běnmìng xīng guān. Běnmìng pànguān. Xiūluó wáng shì. Tiānlóng bā bù. Wén fú suǒ shuō. Jiēdàhuānxǐ. Xìn shòu fèngxíng shòu shēng jīng.
Kalau pun terlahir sebagai manusia ia akan cacat kaki dan tangannya. Terlahir buta dan cacat pada pergelangan tangannya. Terlahir tuli dan bisu. Pakaiannya akan compang camping. Mulutnya akan berbau. Akan dipandang rendah oleh orang lain. Apabila tiap pagi membakar Uang Panjang Usia, maka sandang, pangan, dan keberuntungan akan gemilang. Pejabat Bintang Nasib, Pejabat Bintang Hakim Nasib, raja asura, dewa, naga, dan kedelapan kelompok makhluk, sangat bersuka cita setelah mendengarkan sutra ini serta membangkitkan keyakinan terhadapnya.
即說咒曰。天羅咒。地羅咒。日月黃 咒。一切冤家離我身。摩訶般若波羅 。一解冤 經。二延壽真言。三滅五逆之罪。誦 經。免地獄之罪。便得生天不虛矣。
Jí shuō zhòu yuē. Tiān luó zhòu. De luó zhòu. Rì yuè huáng luó zhòu. Yīqiè yuānjiā lí wǒ shēn. Mó hē bōrě bō luó mì. Yī jiě yuān jīng. Èr yánshòu zhēnyán. Sān miè wǔ nì zhī zuì. Sòng cǐ jīng. Miǎn dìyù zhī zuì. Biàn dé shēng tiān bù xū yǐ.
Selanjutnya dilafalkan mantra sebagai berikut: “TIAN LUO ZHOU. DI LUO ZHOU, RI YUE HUANG LUO ZHOU, YI QIE YUAN JIA LI WO SHEN. MO HE BO RE BO LUO MI. YI JIE YUAN JING. ER YAN SHOU ZHEN YAN. SAN MIE WU NI ZHI ZUI. SONG CI JING. MIAN DI YU ZHI ZUI. BIAN DE SHENG TIAN BU XU YI.
願以此功德 普及於一切
Yuàn yǐ cǐ gōngdé pǔjí yú yīqiè.
誦經還庫藏 消災增福壽
Sòng jīng hái kùcáng xiāo zāi zēng fú shòu
Segenap pahala kebajikan yang diperoleh akan dilimpahkan pada semua insan. Melafalkan Sutra akan melimpahkan perbendaharaan. Menyirnakan bencana dan melimpahkan keberuntungan serta usia panjang.
Diterjemahkan dari bahasa Mandarin ke bahasa Indonesia oleh Ivan Taniputera
https://2.bp.blogspot.com/-CM6xwqf2r...91729555_n.jpg
http://www.cetyatathagata.com/2017/0...isabdakan.html
49 Ngày Sau Khi Chết Gia Quyến Nên Làm Gì?
1. THỰC HÀNH THEO PHẬT PHÁP
– Điều căn bản và quan trọng nhất là gia đình nên y theo Phật pháp để giúp cho vong linh được siêu thoát.
– Trong đám tang người quá cố, khi nhập liệm, gia đình nên mang những đồ quý báu của người mất bố thí cho người nghèo rồi hồi hướng công đức ấy cho người chết.
– Nên làm lễ tang đơn giản, vì càng rườm rà càng hao tốn tiền của, sức lực một cách vô ích, người chết không những không được lợi ích gì, có khi còn phải gánh chịu thêm nghiệp quả xấu do thân nhân gia đình không biết tạo thêm nghiệp tội. Gia đình phải biết tiết kiệm phước, không được có bất cứ hành vi phung phí gạo, rau… Phải vì người chết mà tích phước, làm việc công đức như: cúng dường Tam bảo, phóng sanh, in kinh, cứu giúp người nghèo khổ… Đem những công đước này hồi hướng cho người vãng sanh, họ sẽ được lợi ích thù thắng, không gì sánh bằng.
– Từ lúc người chết ra đi cho đến 49 ngày, gia đình thân quyến chớ có sát sanh đãi đằng cúng tế, vì làm vậy người mất sẽ bị oan đối không được siêu thoát. Cả nhà ai nấy đều phải nhất luật giữ gìn trai giới, dù có khách khứa cũng không được thiết đãi rượu thịt, tránh làm các thứ ô uế khác như phải cữ việc vợ chồng, giữ ngũ giới thập thiện, tuyệt đối không được sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu.
– Gia đình tiếp tục luân phiên niệm Phật và khai thị nhắc nhở hương linh, thì nhất định sẽ giúp người thân mình được giải thoát.
– Đối với Pháp sư, gia đình nên chọn mời những bậc đạo hạnh chân chính. Còn những hạng phóng đãng phá giới và chỉ biết nhìn đến tài lợi, thì ta không nên cầu thỉnh. Nếu gia đình không biết đó là hạng pháp sư vi phạm giới luật, tịnh hạnh không nghiêm, không đúng đắn, ngông cuồng… thì người chết lúc này là thân trung ấm nên có sự cảm nhận rất bén nhạy, nếu biết kẻ ấy lừa gạt, người chết sẽ thất vọng sanh ra hối hận, tức giận, phải đọa vào khổ thú. Cho nên, gia đình phải cẩn trọng việc này.
– Trường hợp này, các thiện tri thức phải dùng những lời như sau đây mà khai thị cho hương linh: “Phật biết rằng thân của bậc tăng-già tên… tức là thân của Phật. Ngươi phải khởi ý tưởng rằng chỉ nương theo pháp, chứ không nương theo người. Mặc dù người tác pháp đó có lầm lỗi thế nào đi nữa, đều là do cái lỗi của ý thức chưa được trong sạch đó thôi. Tỷ như người soi gương, vì mặt mình không sạch, nên cái bóng trong gương cũng nhơ bẩn. Vậy thì biết chắc rằng sở dĩ kẻ tác pháp có sai lầm, đều do tâm niệm của ngươi chưa trong sạch vậy. Ngươi nên khởi tưởng như thế và phải hết lòng cung kính ái mộ, thì việc làm gì cũng đều biến thành Phật sự thanh tịnh và mình vẫn không mất lợi lạc”.
– Gia quyến trước khi rước Pháp sư làm Phật sự, cũng nên đối trước bàn hương linh mà khai thị bảy phen như thế, thì dù trong khi làm Phật sự có đôi chút sai lầm, cũng vẫn được.
2. CÁCH LÀM VIỆC PHƯỚC THIỆN
Điểm trọng yếu của việc phước thiện là phải lấy hạnh bố thí làm gốc. Để hương linh được lợi ích, gia đình đem di sản của người chết đi bố thí là tốt hơn hết. Nếu không, thì bố thí của cải của gia đình người thân hoặc của bà con, bạn bè mà giúp vào cũng được, người chết chắc chắn được lợi ích. Kinh Vô thường đã nói: “Sau khi người thân mất, gia đình nên lấy y phục mới mẻ của người chết, hoặc lấy những vật thọ dụng của kẻ còn sống: chia làm 3 phần, vì người chết đó mà cúng dường Phật-đà, Đạt-ma và Tăng-già (Tam bảo). Nhờ đó mà người chết dù nghiệp nặng cũng trở thành nhẹ và được công đức phước lợi thù thắng. Không nên đem những y phục tốt đẹp mặc cho người chết để đem đi tống táng. Vì sao? Vì không có lợi gì. Chỉ nhờ những công đức làm việc phước báu nói trên, người chết dù đọa vào Ngạ quỉ, cũng được hưởng rất nhiều lợi ích”. Trong kinh Ưu-bà-tắc cũng có nói: “Nếu người cha chết rồi bị đọa vào trong Ngạ quỉ, mà người con vì cha làm những việc phước đức, nên biết, người cha liền được hưởng thọ. Nếu được sanh lên Trời thì người chết không còn nghĩ đến vật dụng trong cõi Người nữa. Vì sao? Vì ở cõi Trời, người ta đã được đầy đủ bảo vật thù thắng rồi. Nếu phải đọa vào địa ngục, thì thân họ phải chịu bao nhiêu khổ não, không được thảnh thơi để nhớ nghĩ luyến tiếc mọi vật, vậy nên không được hưởng thọ. Kẻ đọa vào súc sanh, nên biết cũng như thế. Nếu hỏi tại sao ở trong ngạ quỉ người chết có thể liền được hưởng thọ lợi ích, thì biết vì người ấy sẵn có lòng tham lam bỏn xẻn, cho nên phải đọa vào ngạ quỉ. Khi đã làm ngạ quỉ, họ thường hay hối hận tội lỗi ngày trước, suy nghĩ muốn được lợi ích, bởi thế họ được hưởng lợi ích”.
Đấy là nói rõ chỗ lợi của quỉ thú, còn đối với công phu làm việc phước thiện, thật không luống uổng, vì không những kẻ chết, mà người sống hiện tại cũng chung phần được hưởng. Như trong kinh nói: “Nếu như kẻ chết đã thác sinh vào ác đạo khác, nhưng còn bao nhiêu bà con còn đọa trong ngạ quỉ, nếu người sống có làm việc phước đức, tức thì họ cũng đều được lợi ích. Vì thế, người có trí, nên vì ngạ quỉ mà siêng năng làm việc công đức”.
Lưu ý rằng khi lấy di sản của kẻ chết làm việc phước đức, trước hết phải xét rõ người ấy lúc còn sống, tính tình có bỏn sẻn không. Điều này rất quan trọng, vì khi thấy gia đình người thân đem di sản của mình ra làm Phật sự hay bố thí, thấy vật dụng đó bây giờ thành sở hữu của kẻ khác, người chết liền sanh lòng giận hờn, tiếc nuối, rồi khởi lên tà niệm, liền bị nghiệp lực dắt vào ác đạo. Cho nên thiện tri thức hoặc người thân gia đình phải khai thị cho người chết những lời như sau đây “Ông/bà tên… Nay ta vì ông/bà mà đem di sản của ông/bà làm Phật sự hay bố thí. Làm như thế, tức là lấy của cải hữu lậu làm việc vô lậu, nhờ ở công đức này, ông/bà sẽ được siêu sanh Tịnh độ, thoát khỏi cảnh sanh tử luân hồi. Ông/bà phải chăm lòng thành kính niệm Phật A-di-đà, cầu Ngài đến cứu độ cho. Đối với di sản, ông/bà cần phải rời bỏ, chớ nên bận lòng, phải hoàn toàn không mến tiếc tham đắm mới được. Vì những thế tài (tài sản thế gian) dù có hoàn toàn để lại, ông/bà cũng không thể thọ dụng được nữa. Như thế, đối với ông/bà, chúng đã thành vô dụng, còn luyến tiếc làm gì?”.
3. CÁCH SẮP ĐẶT CÚNG TẾ
Về cách sắp đặt cúng tế, thì rất kỵ việc sát sanh, vì việc sát sanh càng làm liên lụy khổ quả cho người chết. Thân trung ấm nếu một phen thấy được việc ấy lập tức bảo thôi; nhưng ngặt nỗi âm, dương cách trở, người thân gia đình không thể nào nghe được, vẫn trở lại sát sanh như thường. Kẻ chết không thể ngăn nổi sân niệm khởi lên, liền phải đọa vào địa ngục. Cho nên người sắp đặt cúng tế cần phải cẩn thận chú ý.
Nếu muốn cúng tế, thì nên dùng đồ chay, hương, hoa, sữa, bánh và trái cây, chớ dùng những đồ uế tạp và sát hại sanh vật. Kinh Địa Tạng đã nói: “Làm những việc sát hại, cho đến bái tế quỉ thần đã không có một mảy may phước đức, không có lợi gì mà còn kết thêm tội lỗi sâu nặng cho người chết. Dù cho người chết, đời sau hoặc đời này có thể chứng được Thánh quả, hoặc sanh lên Trời, nhưng khi lâm chung bị gia đình làm những ác nhân ấy (tức là nhân sát hại) làm cho họ phải liên lụy nhiều bề, chậm sanh về chỗ lành. Huống chi kẻ chết đó khi sống còn chưa từng làm một chút việc lành, chỉ một bề nương theo gốc nghiệp mà tạo tác, theo lý phải chịu vào ác thú. Nỡ nào gia đình người thân lại gây thêm nghiệp cho họ?”. Gia đình nên lưu tâm đến điều này.
PHẦN THAM KHẢO THÊM
1. Khai thị cho người bệnh
Bất luận người bệnh đã tắt thở hay chưa, đều phải khai thị. Xin gợi ý các lời khai thị như sau:
– Bài thứ nhất
“Kính thưa cư sĩ… A-di-đà Phật! Ông/bà nên buông xả vạn duyên, nhất tâm cầu sanh Tịnh độ nơi Tây phương Cực Lạc. Con cháu tự có phước phần riêng của họ. Thế gian này rất khổ, không nên lưu luyến. Thế giới Cực Lạc của Phật A-di-đà có bảy hàng cây báu, tám loại nước công đức, đất trải bằng vàng, vô cùng trang nghiêm đẹp đẽ không thể diễn tả hết được. Ông/bà nên lập tức phát nguyện đến thế giới Cực Lạc, một lòng cầu Phật từ bi đến tiếp dẫn ông/bà vãng sanh Tây phương. Chỉ khi gặp Phật A-di-đà hoặc thấy ánh hào quang màu vàng (kim sắc) ôn hòa của Tây phương Tam Thánh, ông/bà mới theo các Ngài đi. Ngoài ra, khi thấy bất cứ cảnh tượng nào khác, tuyệt đối không thèm để ý đến. Như vậy, ông/bà nhất định được vãng sanh về Tây phương. Bây giờ chúng tôi niệm Phật, xin ông/bà hãy cùng niệm Phật với chúng tôi”.
– Bài thứ hai
Nam mô A-di-đà Phật.
Phật tử…, pháp danh…
Sanh lão bệnh tử là con đường mọi người phải đi qua, không ai có thể tránh được. Đã có sanh ắt phải có tử.
Phật đã nói thể gian này là khổ, là vô thường. Lúc này, Phật tử hãy buông xả mọi việc, tâm không nên gợi lên những than hận hay cố chấp. hãy thành tâm niệm Phật với lòng tin và sự khẩn cầu sanh về Tây phương Cực Lạc quốc. Hãy niệm Phật với chánh niệm để tiêu tan nghiệp chướng, cho thân tâm được tự tại.
Hãy khẩn cầu với lòng thành kính. Nhất tâm niệm Phật, khẩu cầu đức Đại từ đại bi A-di-đà Phật đến tiếp độ, phóng quang soi sáng và dùng Phật lực để giúp người niệm A-di-đà Phật với chánh niệm.
Hãy khẩn vầu Phật A-di-đà đến tiếp độ, niệm niệm A-di-đà Phật, niệm niệm cầu sanh về Tây phương Cực Lạc quốc.
Nam mô A-di-đà Phật.
2. Khai thị cho oan gia trái chủ
Nam mô A-di-đà Phật.
Phật tử…, pháp danh… từ nhiều đời nhiều kiếp đã gây ra nhiều oan gia trái chủ.
Ông/bà… và quí vị đã có duyên với nhau. Phật nói kết thân tâm pháp duyên là thù thắng nhất. Cho nên, quí vị nên kết thân tâm pháp duyên với ông/bà…, đừng nên gây chướng ngại cho ông/bà…, mà hãy cùng niệm Phật với chánh niệm để cầu sanh về Tây phương Cực Lạc quốc.
Giờ đây xin khẩn cầu quí vị và các thân hữu hãy nhất tâm niệm Phật để giúp đỡ ông/bà… được vãng sanh Tây phương Cực Lạc quốc, hoàn thành Phật sự. Vô lượng công đức sẽ hồi hướng cho quí vị thoát mọi khổ ải và được an lạc.
Cầu xin quí vị hãy vì nhân duyên thù thắng này mà phát tâm Bồ-đề, với lòng tin tưởng sâu sắc mà niệm Phật cầu sanh Tây phương Cực Lạc quốc, toại nguyện vô lượng Phật độ.
Nam mô A-di-đà Phật.
Trích : TRỢ GIÚP NGƯỜI KHI LÂM CHUNG
Tỳ kheo Thích Nhuận Nghi cẩn biên
facebook – PHÒNG PHÁT HÀNH DẦN NGUYỆT
www.dannguyet.com.vn
http://maygiangphap.com/tin-tuc/49-n...en-nen-lam-gi/
Sau Khi Chết Ta Sẽ Đi Về Đâu?
Tùy theo nghiệp nhân con người đã gây tạo trong qúa khứ có sai khác, mà đến khi lâm chung mỗi người hấp hối đều có những biểu hiện lâm chung khác nhau. Hoặc có người biết trước giờ chết vui vẻ niệm Phật mà chết, hoặc có người đầy sự thảng thốt, run sợ… thậm chí có người khi sắp chết đã có những tướng biểu hiện của các cảnh giới Ngạ quỷ, Súc sanh… Như thế tuỳ theo nghiệp nhân thiện hay ác mà con người sắp chết có những biểu hiện lâm chung khổ đau hay hạnh phúc để rồi tái sanh về cảnh giới lành hay dữ. Chung quy, cảnh giới mà con người tái sanh là cảnh giới tương ưng với sự khao khát và thoả mãn tự thân của mỗi người.
a7
CÁC CẢNH GIỚI TÁI SANH
A. DẪN NHẬP:
Tựu trung các cảnh giới mà con người sẽ tái sanh vào là cảnh giới gì ? Do động lực căn bản nào dẫn dắt thần thức con người đi tái sanh? Sự thọ dụng khổ đau hay hạnh phúc của từng cảnh giới ra sao? Nỗi bình an hay hốt hoảng để tương ứng với từng cảnh giới chuẩn bị tái sanh của con người như thế nào? Các yếu tố cần và đủ để biện minh về sự hình thành một cảnh giới là yếu tố gì? Đó là những vấn đề mà người Phật tử chúng ta không thể không biết.
B. CHÁNH ĐỀ
I. NGHIỆP VÀ CÁC CẢNH GIỚI TÁI SANH
1. Nghiệp – Nhân tố quyết định cho sự tái sanh:
Theo quan điểm đạo Phật con người sau khi chết không phải là mất hẳn, đó chỉ là một trạng thái biến dạng của nghiệp thức. Thể xác phân tán nhưng phần tâm thức tiếp tục cuộc truy cầu trong sự khao khát được thoả mãn về đối tượng ( cảnh giới) tương ứng. Và cứ như thế con người chúng ta khi chưa đạt đến Thánh vị, thì mãi luẩn quẩn trong cuộc rượt bóng bắt hình nơi trò chơi luân hồi huyễn mộng hư hư thực thực này.
Ai là tác giả của cuộc chơi hư hư thực thực này ? Đó chính là nghiệp- là nguyên động lực dẫn dắt con người đi vào tái sanh trong các cảnh giới luân hồi. Nghiệp là những hành động có tác ý, từ nghiệp tạo thành sức mạnh của nghiệp hay còn gọi là nghiệp lực. Nghiệp lực chi phối tái sanh của con người qua một trong bốn loại sau:
a. Cực trọng nghiệp : Nghĩa là những hành động trọng yếu hay là những hành nghiệp nhân cực trọng. Nếu Cực trọng nghiệp thuộc về loại bất thiện đó là những nghiệp như : Ngũ nghịch, Thập ác. Bằng như Cực trọng nghiệp thuộc về loại thiện đó là những nghiệp như: Người chứng đắc các quả vị tứ thiền sắc giới trở lên.
b. Tập quán nghiệp: Còn gọi là Thường nghiệp. Tập quán nghiệp là những việc làm, lời nói hàng ngày chúng ta hay làm và thường nhớ đến ưa thích hơn hết. Những thói quen lành hay dữ dần dần uốn nắn tạo thành bản chất của con người. Ngay trong lúc vô thức đôi lúc nó vẫn hiện khởi. Trong các loại nghiệp thì nghiệp này đóng vai trò rất quan trọng.
c. Tích lũy nghiệp: Đời sống của con người hôm nay là sự tích góp bởi vô số các nghiệp từ trong quá khứ đã tạo. Trong sự luân hồi bất tận con người ai cũng đã tích luỹ cho mình một số lượng lớn tài sản nghiệp. Như thế, Tích luỹ nghiệp là những nghiệp do tích luỹ nhiều đời. Nghiệp này có công năng dẫn dắt con người đi tái sanh, khi ba loại nghiệp trên vắng mặt.
d. Cận tử nghiệp: là nghiệp nhân sau cùng con người nhớ tưởng lúc lâm chung. Tâm niệm sau cùng của con người nếu là niệm ác tức sẽ tái sanh vào một trong các cảnh khổ. Tâm niệm sau cùng của con người nếu là niệm thiện tức sẽ tái sanh vào một trong các cảnh giới lành, đây gọi là Cận tử nghiệp.
Khi con người lâm chung, nếu không có Cực trọng nghiệp hay Tập quán nghiệp nào làm động cơ cho sự thúc đẩy tái sanh thì Cận tử nghiệp sẽ dẫn dắt con người thọ sanh. Hoặc nếu không có cả ba loại nghiệp kể trên thì Tích luỹ nghiệp sẽ dẫn dắt con người tái sanh.
a3
2. Các cảnh giới tái sanh:
Trong vũ trụ mênh mông có tất cả mười cảnh giới mà tuỳ theo nghiệp lực của mỗi người tạo ra, tương ứng để tái sanh vào một trong mười cảnh giới đó. Mười cảnh giới đó bao gồm bốn cảnh giới Thánh và sáu cảnh giới phàm.
Thần thức con người sau khi chết sẽ có hai tình huống xảy ra. Nếu người nào có công phu tu hành đạt đến được cảnh giới nghiệp sạch tình không, tuỳ mức đoạn vô minh vi tế có sâu hay cạn hoặc dứt sạch mà sanh về một trong bốn cảnh giới Thánh là Phật, Bồ Tát, Duyên giác và Thanh Văn. Hoặc như người nào tuy tu hành nhưng chưa đoạn được phiền não, chưa đạt đến cảnh giới nghiệp sạch tình không…nhưng do tâm nguyện khẩn thiết cầu sanh thế giới Cực lạc và thường trì Thánh hiệu Phật A Di Đà, người đó cũng được thoát ly sanh tử, khi lâm chung được vãng sanh về thế giới Tịnh độ của chư Phật, lần hồi tiến tu cho đến ngày thành Phật.
Còn bằng người nào còn nghiệp sau khi chết đều phải tái sanh vào một trong sáu cảnh giới luân hồi. Tuỳ theo nghiệp nhân quả của mỗi con người có sai khác mà họ phải sanh vào cảnh giới khổ đau hay hạnh phúc. Sáu cảnh giới mà con người phải luân hồi qua lại đó là: Thiên đạo, Nhân đạo, A tu la đạo, Súc sanh đạo, Ngạ quỷ đạo và Điạ ngục đạo. Trong đó hai cảnh giới đầu là cảnh giới thiện đạo đây là cảnh giới hạnh phúc, bốn cảnh giới sau là cảnh giới ác đạo là cảnh giới khổ đau. Chung quy, con người trong dòng sống bất tận, phần nhiều vì vô minh che lấp tạo ra các nghiệp lành hay dữ rồi phải tùy theo nghiệp lành hay dữ mà tái sanh vào một trong sáu cảnh giới luân hồi.
II. Luân hồi trong lục đạo
Trong phạm vi bài viết chúng tôi xin trình bày giản lược về cảnh giới thọ dụng và nghiệp nhân tái sanh, biểu hiện lâm chung… trong sáu cảnh giới luân hồi và cảnh giới Tịnh độ mà thôi. Nơi cảnh giới Tịnh độ chúng tôi triển khai về cảnh giới Tây phương Tịnh độ (thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà) làm đại biểu.
a4
1. Sanh về ác đạo
a. Địa ngục đạo:
Địa ngục tiếng phạn là Nại lạc ca, có nghĩa là Khổ cụ, Phi đạo, Ác nhân… Địa ngục là cảnh giới trong đó không có hạnh phúc, nơi có đầy đủ muôn vàn sự khổ đau mà những người tạo ác nghiệp phải sanh về để trả lại những nghiệp nhân bất thiện trong quá khứ.
a.1 Cảnh giới thọ dụng:
* Khổ lạc thọ dụng:
Chúng sanh ở cảnh địa ngục phải chịu sự thống khổ vô cùng, như trong kinh Địa tạng có dạy: Chúng sanh ở cõi này, một ngày một đêm trải qua trăm vạn lần chết đi sống lại để chịu các khổ báo như ăn hoàn sắt nóng, uống nước đồng sôi, bị kéo lưỡi cho trâu cày…
* Ẩm thực thọ dụng:
Chúng sanh ở cảnh dịa ngục đều dùng thức thực mà duy trì thân. Loại này cũng có thọ dụng phần đoạn thực vi tế, tạng phủ có hơi gió thoảng động, do nhân duyên này mà được sống lâu.
* Dục nhiễm thọ dụng:
Chúng sanh ở cảnh địa ngục không có hành dâm, vì bị quá nhiều sự hình phạt đau khổ.
a.2 Nghiệp nhân và biểu hiện lâm chung:
* Nghiệp sanh tái sanh:
Người nào hiện đời bất tín Tam bảo, tạo các nghiệp cực ác như ngũ nghịch, thập ác… sau khi chết sẽ đoạ vào cảnh giới khổ đau này.
* Biểu hiện lâm chung:
Nếu ai lâm chung, đoạ vào cảnh giới địa ngục sẽ có những biểu hiện sau:
– Nhìn ngó thân quyến với con mắt ghét giận.
– Đi đại tiện, tiểu tiện mà không hay biết.
– Nằm úp mặt hoặc che dấu mặt.
– Thân hình và miệng mồm đều hôi hám.
– Cơ thể co lại, tay chân bên trái chấm xuống đất.
a5
b. Ngạ quỷ đạo:
Ngạ quỷ tiếng phạn Preta, Ngạ là đói khát, Quỷ là khiếp sợ. Ngạ quỷ là chỉ những chúng sanh thường xuyên bị nạn đói khát và khiếp sợ đe dọa đời sống. Thân tướng Ngạ quỷ có nhiều hình thù rất xấu xa, mắt thường con người không thể thấy được. Ngạ quỷ không có một cảnh giới riêng biệt, mà sống trong rừng bụi, ở những nơi dơ bẩn…
b.1 Cảnh giới thọ dụng :
* Khổ lạc thọ dụng:
Chúng sanh ở cảnh giới Ngạ quỷ chịu nhiều phần khổ não về sự đói khát chỉ có chút ít phần vui. Đại để loài Ngạ quỷ phân thành ba loại là: Quỷ đa tài, hạng Quỷ này do đời trước có tu phước nên hiện đời được ăn uống sung mãn có đầy đủ thần lực; loại thứ hai là Quỷ thiếu tài, hạng Quỷ này đời trước tuy có tu phước nhưng không nhiều, nên hiện đời tuy có đủ vật ăn uống nhưng không được như ý và thần lực kém cỏi; loại thứ ba là Quỷ Hy tự, hạng Quỷ này bụng to như cái trống cổ nhỏ như cây kim, bởi do đời trước tham lam bỏn xẻn, nên hiện đời luôn phải chịu cảnh đói khát liên tục…
* Ẩm thực thọ dụng:
Chúng sanh ở cảnh giới Ngạ quỷ đều dùng thô đoạn thực, tức ăn uống những vật thực như con người. Có điều, loài Ngạ quỷ Hy tự ( Quỷ kém phước) chỉ ăn thuần đồ bất tịnh. Loài Ngạ quỷ này khi thấy nước hay thức ăn thì những vật này đều hoá thành máu lửa và cát sạn.
* Dục nhiễm thọ dụng:
Chúng sanh ở cảnh giới Ngạ quỷ do vì có khổ vui xen lộn nên có sự dâm dục.Ở cõi này khi hai giống giao hợp, trong tâm khoái lạc tột độ liền có chất bất tịnh chảy ra.
b.2 Nghiệp nhân tái sanh và biểu hiện lâm chung:
* Nghiệp nhân tái sanh:
Người nào hiện đời tạo những nghiệp ác cộng với tánh hay tham lam keo kiệt, không thích làm các việc lành bố thí, cúng dường…sau khi chết sẽ đọa vào cảnh giới đau khổ này.
* Biểu hiện khi lâm chung:
Nếu ai lâm chung đọa vào cảnh giới Ngạ quỷ sẽ có những biểu hiện sau :
– Thân nóng như lửa.
– Thường lo nghĩ đói khát, hay nói đến việc ăn uống.
– Không đại tiện nhưng đi tiểu tiện nhiều.
– Đầu gối bên phải lạnh trước.
– Tay bên phải nắm lại biểu hiện lòng bỏn xẻn.
c. Súc sanh đạo:
Súc sanh hay còn gọi là bàng sanh. Bàng sanh là loại chúng sanh có xương sống nằm ngang. Lại chữ bàng có nghĩa là “biến mãn” vì bàng sanh có nhiều chi loại và các cõi đều có loài này. Đây là cảnh giới thuần đau khổ, hình thù kỳ dị.
c.1 Cảnh giới thọ dụng :
* Khổ lạc thọ dụng:
Chúng sanh ở cảnh giới bàng sanh chịu nhiều phần khổ về ăn nuốt lẫn nhau, chỉ có chút ít phần vui. Chúng sanh ở cảnh này phải chịu nhiều sự đánh đập, cày bừa, bị banh da xẻo thịt và nấu nướng, bị người nhai nuốt… Nói chung, họ luôn sống trong tâm trạng si mê xen lẫn đầy nỗi sợ hãi.
* Ẩm thực thọ dụng :
Chúng sanh ở cảnh giới súc sanh đều dùng thô đoạn thực. Các loài rồng thường dùng rùa, cá, ếch, nhái… làm thức ăn, loài kim suý điểu dùng rồng làm thức ăn, những vị long vương có phước báo cũng thọ dụng các trân vị như hương phạn, cam lồ, nhưng miếng ăn sau cùng đều biến thành ếch nhái. Còn lại các loài bàng sanh khác đều ăn uống những vật bất tịnh.
* Dục nhiễm thọ dụng:
Chúng sanh ở cảnh giới Súc sanh, do vì có khổ vui xen lộn nên có sự hành dâm. Ở cõi này khi hai giống giao hợp, trong tâm khởi niệm khoái lạc tột độ liền có chất bất tịnh chảy ra.
c.2 Nghiệp nhân tái sanh và biểu hiện lâm chung:
* Nghiệp duyên tái sanh:
Người nào hiện đời tạo các ác nghiệp cộng với tánh si mê, ngu độn…bướng bỉnh không nghe theo lời dạy của các bậc trưởng thượng, cố chấp không chịu sửa sai, sau khi chết đọa vào cảnh giới khổ đau này.
* Biểu hiện lâm chung:
Nếu ai lâm chung đoạ vào cảnh giới bàng sanh sẽ có những biểu hiện sau :
– Sanh lòng yêu mến vợ con đắm đuối không bỏ.
– Ngón tay và ngón chân đều co quắp.
– Ngu si mờ mịt như rơi vào mê sảng.
– Khắp trong thân mình đều toát mồ hôi.
– Tiếng nói khò khè miệng hay ngậm đồ ăn.
d. A tu la đạo
A tu la còn gọi là A tố lạc dịch là vô đoan chánh, phi thiên…. đây là hạng chúng sanh không bao giờ hớn hở tươi vui, đa số có hình tướng không được đoan chánh tâm luôn sân hận và hay sanh ái dục. A tu la có bốn bậc đó là Thiên A tu la, Nhân A tu la, Ngạ quỷ A tu la và Súc sanh A tu la.
d.1 Cảnh giới thọ dụng:
* Khổ lạc thọ dụng :
Chúng sanh ở cảnh giới A tu la thọ sự khổ vui xen tạp, hoặc nhiều hoặc ít tuỳ theo tội phước hơn kém của mỗi người. Nói chung, A tu la tuỳ theo ở cảnh giới nào thì có sự khổ lạc thọ dụng tương tự như ở cảnh giới đó, vì thế họ không có chủng loại và trụ xứ riêng biệt.
* Ẩm thực thọ dụng:
Chúng sanh ở cảnh giới A tu la thọ dụng có thô đoạn thực và tế đoạn thực. A tu la ở trong Súc sanh, Ngạ quỷ và cõi người dụng các vật bất tịnh. Riêng loài thiên A tu la dù có ăn các món ăn trân vị, song miếng sau cùng tự nhiên hóa ra bùn hay sâu nhái.
* Dục nhiễm thọ dụng :
Chúng sanh ở cảnh giới A tu la có sự hành dâm tương đồng như chúng sanh loài người, quỷ, bàng sanh.
d.2. Nghiệp nhân tái sanh và biểu hiện lâm chung.
* Nghiệp nhân tái sanh :
Người nào hiện đời tuy có tu ngũ giới nhưng tâm còn nhiều sân hận và lòng dục nhiễm, sau khi chết sẽ đoạ vào cảnh giới khổ đau này.
* Biểu hiện lâm chung :
Có thể nói A tu la là một dạng khác của Ngạ quỷ, do vậy biểu hiện lâm chung của người nào sắp tái sanh về cảnh giới A tu la, thời có những biểu hiện như chúng sanh tái sanh về cảnh giới Ngạ quỷ.
Có điều, tại sao trong A tu la có thiên A tu la thế mà loại này vẫn xếp sau nhân đạo. Sở dĩ như thế do vì hạng A tu la ở cõi trời, do tâm sân hận và ái nhiễm của họ mà có sự việc kém hơn cõi người:
– Dù loài này có ăn các món ăn trân vị song miếng ăn sau cùng tự nhiên hoá thành bùn hay ếch nhái.
– Ở trong cõi trời mưa hoa hoặc châu báu, nơi cõi người mưa nước cõi A tu la mưa xuống những binh khí dao gậy.
– Loài người tâm điềm tĩnh nên dễ thực hành theo chánh pháp của Như lai, loài A tu la tâm sôi nỗi hơn thua nên khó tu đạo giải thoát.
trang_dia_nguc3
2. Sanh về thiện đạo
a. Nhân đạo:
Nhân đạo là nẽo người. Nhân có nghĩa là nhẫn chỉ cho loài người khi gặp cảnh thuận nghịch đều có năng lực nhẫn nại an chịu với duyên phần. Chúng sanh ở cảnh giới này sự thọ hưởng có hạnh phúc lẫn đau khổ chứ không phải thuần khổ như bốn cảnh giới trước. Ở loài này có đầy đủ những thuận lợi để học và thực hành các giáo lý của đức Phật.
a.1 Cảnh giới thọ dụng :
* Khổ lạc thọ dụng :
Chúng sanh trong cảnh giới nhân đạo thọ sự khổ vui xen tạp, hoặc ít hoặc nhiều tuỳ theo nghiệp nhân mỗi người đã tạo ra. Nói chung, bên cạnh sự hạnh phúc đôi chút con người phải bị chi phối tám nỗi khổ lớn. Đó là : Sanh là khổ, bịnh là khổ, già là khổ, tử là khổ, cầu bất đắc là khổ, ái biệt ly là khổ, oán tắng hội là khổ và ngũ ấm xí thạnh là khổ.
* Ẩm thực thọ dụng :
Chúng sanh trong cảnh giới nhân đạo về ẩm thực thọ dụng có tế đoạn thực và thô đoạn thực. Tế đoạn thực là khi ở trong thai thọ dụng huyết phần của mẹ. Thô đoạn thực là ăn những thức ăn như: cơm, rau, cá, thịt… Nói rộng ra, các sự thọ dụng khác như: phòng nhà, chiếu, gối, tắm… cũng gọi là tế đoạn thực.
* Dục nhiễm thọ dụng :
Chúng sanh ở cảnh giới nhân đạo vì có sự khổ vui xen lộn nên có hành dâm. Sự hành dâm tương đồng như loài bàng sanh, quỷ, thần… khi hai thân khác giống giao hợp, trong tâm khởi niệm khoái lạc tột cùng, liền có chất bất tịnh chảy ra.
a.2 Nghiệp nhân tái sanh và biểu hiện lâm chung:
* Nghiệp nhân tái sanh :
Người nào hiện đời có niềm tin kiên cố đối với Tam Bảo và giữ gìn năm giới cấm, có lòng nhân từ hiếu đạo, giúp đỡ yêu thương kẻ nghèo khó, phát tâm bố thí kẻ cúng dường… sau khi chết sẽ được tái sanh vào cảnh giới người.
* Biểu hiện lâm chung :
Nếu ai lâm chung được tái sanh vào cảnh giới nhân đạo sẽ có những biểu hiện sau :
– Khởi niệm lành sanh lòng hòa dịu ưa việc phước đức.
– Sanh lòng chánh tín thỉnh Tam Bảo đến đối diện quy y.
– Thấy bà con trông nom sanh lòng vui mừng.
– Tâm chánh trực không ưa dua nịnh.
– Dặn dò giao phó các công việc lại cho thân quyến rồi từ biệt ra đi.
b. Thiên đạo :
Thiên đạo là nẽo trời, chữ Thiên có nghĩa là thiên nhiên, tự nhiên, lại chữ thiên ở đây còn có bốn nghĩa ẩn: Tối thắng, tối thiên, tối lạc, tối tôn. Chúng sanh ở cảnh giới này thân tướng trang nghiêm hưởng phước lạc tự nhiên, sự ăn mặc thọ dụng đều tùy niệm hóa hiện.
b.1 Cảnh giới thọ dụng :
* Khổ lạc thọ dụng :
Chúng sanh ở cảnh giới này khổ ít vui nhiều. Chư thiên ở cõi dục thọ dụng nhiều phần vui, có ít phần khổ về sự suy não đoạ lạc. Chư thiên ở cõi sắc giới từ sơ thiền đến tam thiền lấy định cảnh làm vui, sự vui cùng cực duy ở cõi tam thiền. Từ tứ thiền cho đến chư thiên cõi vô sắc thì không có khổ lạc thọ.
* Ẩm thực thọ dụng :
Chư thiên ở cõi dục thọ dụng những trân vị như cam lồ, tô đà. Tuy nhiên, tuỳ theo phước báu của mỗi vị sai khác mà có vị thọ dụng đầy đủ có vị thọ dụng không đầy đủ, đồng thời mùi vị của thức ăn có sự hơn kém. Chư thiên ở cõi sắc giới thọ phần tư thực, dùng sự vui thiền định để nuôi sắc thân. Còn chư thiên ở cõi vô sắc thì chỉ có thức thực.
* Dục nhiễm thọ dụng :
Chúng sanh ở cảnh thiên đạo, chỉ có chư thiên ở dục giới là có sự hành dâm, còn chư thiên ở cõi sắc và vô sắc giới đều tu phạm hạnh không có dục nhiễm thọ dụng.
Thiên chúng ở dục giới khi gần gũi với nhau không có chảy ra chất bất tịnh, chỉ nơi căn môn có hơi gió nhẹ thổi ra dục niệm liền tiêu. Trời Tứ thiên vương và Đao lợi có sự giao cảm cũng như loài người. Trời Dạ ma nam nữ chỉ ôm nhau là đã thoả mãn dâm dục. Trời Đâu suất hai bên nắm tay nhau dục niệm liền tiêu. Trời Hoá lạc hai bên nam nữ chỉ chăm nhìn nhau cười là dục sự đầy đủ. Trời Tha hoá chư thiên chỉ liếc mắt nhau là đã xong rồi dục sự.
b.2 Nghiệp nhân tái sanh và biểu hiện lâm chung :
* Nghiệp nhân tái sanh :
Người nào hiện đời tu Thập thiện và chứng đắc các thiền định, sau khi lâm chung sẽ được tái sanh về cảnh trời. Trong đó người nào thành tựu mười nghiệp lành, sẽ tái sanh về cảnh giới Dục giới, người nào tu mười nghiệp lành cọng với chứng đắc một trong bốn thiền định ( tứ thiền) sẽ tái sanh về cảnh trời Sắc giới, người nào tu mười nghiệp lành cọng với chứng đắc một trong bốn không định (tứ không) sẽ tái sanh về cảnh trời Vô sắc.
* Biểu hiện lâm chung :
Nếu ai lâm chung được tái sanh về cảnh trời sẽ có những biểu hiện sau :
– Phát khởi tâm lành.
– Chánh niệm rõ ràng.
– Đối với của cải, vợ con…lòng không lưu luyến.
– Không có những sự hôi hám.
– Ngữa mặt lên và mỉm cười, mà nghĩ tưởng thiên cung đến rước mình…
Lưu ý:
Biểu hiện lâm chung của sáu cảnh giới kể trên không phải con người khi sắp chết mỗi mỗi đều biểu hiện đầy đủ, mà đôi lúc chỉ có những điểm thiết yếu biểu hiện. Lại chúng ta cần phân biệt, ví như hai cảnh giới nhân đạo và thiên đạo thì tâm hồn họ đều trong sạch, nhưng một bên chỉ nghĩ đến thiên cung xao lãng việc đời, một bên thì thương nhớ bà con căn dặn việc nhà. Còn hai cảnh Ngạ quỷ và địa ngục thì tâm hồn họ đều mê man, nhưng một bên thì sanh tâm nóng nảy mất hết sự từ hòa, một bên thì biểu hiện tham lam hay nói đến chuyện ăn uống. Đến như loài Súc sanh thì thân thể tháo mồ hôi tiếng nói khàn nghẹt nhưng còn luyến tiếc bà con…. đó là những điểm dị biệt trong sáu cảnh giới để chúng ta xác định rõ từng cảnh giới tái sanh.
Lại có đôi người đến khi chết tâm hồn trở thành vô ký (không biểu hiện lành hay dữ như thế nào). Hạng người này muốn dự đoán họ sẽ tái sanh về cảnh giới nào, chúng ta chỉ xác định dựa theo hơi nóng nơi nào trên thân mới có thể quyết đoán được.
a6
III. BA YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH THÀNH TỰU MỘT CẢNH GIỚI:
Xưa nay có một số người quan niệm rằng : Con người chúng ta khi tâm thanh tịnh chính là đang sống trong cảnh giới Tịnh độ, khi tâm đang ngu si, mê mờ…là đang sống trong cảnh giới địa ngục chứ không có cảnh giới Tịnh độ hay cảnh giới địa ngục nào khác. Quan niệm về cảnh giới như thế là hoàn toàn không chính xác, đôi khi dẫn đến nhiều sự ngộ nhận gây tác hại không nhỏ. Với những biểu hiện của tâm con người như thế, chúng ta chỉ có thể nói đó là nghiệp nhân Tịnh độ hay nghiệp nhân địa ngục mà con người đang tạo mà thôi.
Chung quy, cảnh giới mà mỗi khi chúng sanh thọ dụng phải đầy đủ ba yếu tố mới có thể thành tựu :
Vũ trụ quan : Là xác định vị trí địa lý của mỗi cảnh giới, như cảnh Tây phương Tịnh độ là cõi cực kỳ trang nghiêm nằm ở phía tây cõi Ta Bà, địa ngục là cảnh giới thuần khổ đau vị trí ở ngoài mé núi Thiết vi.
Nhân sanh quan : Là xác định thân tướng sai biệt của mỗi cảnh giới, bởi thân tướng của mỗi loài tuỳ theo phước báu có hơn kém mà mỗi loài đều có hình tướng sai biệt, như thân tướng của Thánh chúng cõi Tây phương Tịnh độ thì trang nghiêm đủ ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp, còn thân tướng của chúng sanh ở cảnh giới Ngạ quỷ thì bụng to như trống, cổ nhỏ như kim, thân tướng chúng sanh ở cảnh địa ngục thì xấu xa kỳ dị, đầu trâu mặt ngựa…
Tâm lý quan : Là xác định tâm lý sai biệt của mỗi cảnh giới, như tâm của Thánh chúng cõi Tây Phương Tịnh độ thì luôn thanh tịnh, tâm các Ngài luôn an trụ vào thiền định đồng thọ hưởng pháp lạc của thiền định tương đồng với Phật A Di Đà; còn tâm chúng sanh ở cảnh giới Ngạ quỷ luôn bị sự đốt cháy của đói khát… tâm của chúng sanh ở cảnh giới địa ngục luôn sân hận, sợ hãi…
Như thế, chúng sanh hiện đời gây tạo nghiệp nhân gì sau khi lâm chung sẽ tuỳ theo nghiệp nhân đó mà tái sanh về một trong sáu cảnh giới luân hồi. Do đó, cảnh giới tái sanh chỉ xác lập khi đã đầy đủ ba yếu tố kể trên, nếu chưa đủ ba yếu tố đó thì chưa có thể nói đó là cảnh giới chúng sanh đang thọ dụng. Hay nói một cách khác, ở mỗi cảnh giới đều có vị trí, thân tướng và tâm lý sai khác mà chúng sanh ấy phải thọ dụng.
C. Kết luận:
Tóm lại, bởi do vô minh và ái dục chi phối mà chúng sanh cứ sống rồi chết, chết rồi lại sống, cứ thế mãi mãi trối lăn vào một trong sáu cảnh giới luân hồi. Trong sáu cảnh giới đó, bốn cảnh giới trước hoàn toàn khổ đau, hai cảnh sau trời và người tuy có hạnh phúc nhưng xét lại vẫn thuần là khổ.
Ví như chúng sanh ở cảnh giới địa ngục, thì một ngày một đêm phải trải qua cảnh vạn lần chết đi sống lại bị sự tra tấn của vạc dầu hầm lửa. Chúng sanh ở cảnh giới Ngạ quỷ thì bị sự thiêu đốt của nạn đói khát, ngàn vạn năm cái tên cơm, nước chưa từng nghe huống gì là được ăn no. chúng sanh ở cảnh giới Súc sanh thì bị sự khổ của si mê dày vò, bị người khác banh da xẻo thịt nhai nuốt vào bụng. Chúng sanh ở cảnh giới A tu la thì bị sự sân hận và tham dục chi phối, suốt ngày luôn đánh giết lẫn nhau để tìm cầu sự thoả mãn của xác thịt. Còn chúng sanh ở hai cảnh giới trời, người tuy có hạnh phúc xen lẫn khổ đau nhưng ở cảnh người, chúng sanh phải chịu tướng bát khổ; ở cảnh giới trời vẫn bị năm tướng suy hao. Chi bằng muốn thoát ly sanh tử luân hồi tránh sự nhọc nhằn khi phải làm kẻ lữ khách qua lại nơi tam giới, chúng ta nên cố gắng phát tâm tín sâu, nguyện thiết, chuyên trì danh hiệu Phật A Di Đà. Chúng ta chỉ mong làm sao hiện đời trả chút nghiệp còn lại lâm chung sớm được vãng sanh về nước Phật mà thôi.
Trích Lâm Chung Những Điều Cần Biết
facebook – PHÒNG PHÁT HÀNH DẦN NGUYỆT
www.dannguyet.com.vn
http://maygiangphap.com/tin-tuc/sau-...-se-di-ve-dau/
CHẾT VÀ TÁI SINH
LINH HỒN LÀ GÌ?
PHẬT GIÁO HIỂU THẾ NÀO VỀ LINH HỒN ĐI ĐẦU THAI
LN01
Do quan niệm linh hồn theo nhiều cách khác nhau nên người ta vẫn bàn cãi về có hay không có linh hồn. Thường thì linh hồn được hiểu là phần tinh anh, cái tinh thể, tinh thần của con người, đối lập với vật chất, với bất cứ cơ quan sinh học nào của cơ thể.
Linh hồn, tiếng Hy Lạp là “Psyche”, nghĩa là sự sống, tinh thần, ý thức. Socrates bảo linh hồn là tinh thể (Essence). Platon giảng rằng linh hồn bao gồm lý trí (Logos), tình cảm (Thymos) và ái dục (Eros). Aristote định nghĩa linh hồn là hoạt tính của một cơ thể sống và cho rằng linh hồn sẽ mất đi khi cơ thể không còn nữa, giống như hoạt tính của con dao là cắt, khi con dao bị hư hoại thì hoạt tính cắt không còn nữa (xem De Anima – Về Linh hồn).
Nhìn chung, các tín ngưỡng, tôn giáo thường cho rằng linh hồn là thiêng liêng, là bất diệt. Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo đều cho rằng linh hồn là bất diệt, do Thượng đế ban cho mỗi người như là sự sống, nếu một người sống thiện lành, thờ kính Thượng đế thì khi chết đi, linh hồn người ấy sẽ được về sống hạnh phúc đời đời bên cạnh Ngài; ngược lại, nếu sống mà làm ác, không tin vào Thượng đế thì linh hồn sẽ bị phạt sống khổ đau trong địa ngục.
Ấn giáo quan niệm linh hồn hay bản ngã, tự ngã (Atman, Jiva, Purusa) là trường tồn và hòa đồng được với Đại ngã hay Phạm thiên (Brahman), gồm ba tính chất là chân lý (Sat), trí tuệ (Chit) và hạnh phúc (Ananda). Kỳ-na giáo cho rằng linh hồn có trong con người, loài vật và cây cỏ và là những thực thể bất diệt.
Tây Khắc giáo (Sikh) bảo rằng linh hồn hay tự ngã (Atma) của mỗi người là một thành phần của linh hồn vũ trụ vĩnh hằng, của Thượng đế (Parmatma).
Tín ngưỡng dân gian còn cho rằng linh hồn người chết có thể nương gá vào đâu đó và có thể hiện hình trên đời mà người ta thường gọi là “ma”. Lắm người tin rằng khi một người chết đi, linh hồn người ấy sẽ đến cõi âm, sinh sống ở đấy, chờ sự phán xét của Diêm vương, linh hồn ác có thể bị hành hạ cho đến khi được đầu thai ở dương thế.
Phật giáo thuận theo ngôn ngữ, tín ngưỡng của dân gian, vẫn nói đến linh hồn, vong linh, hương linh… để chỉ cái phần còn lại sau khi chết của một người. Nhưng dù gọi là gì đi nữa thì theo giáo lý duyên sinh, vô thường, vô ngã, Phật giáo không bao giờ chủ trương cái phần phi vật chất này, hay linh hồn, là thường hằng, bất diệt.
Theo Phật giáo, “linh hồn” là tính biết, cái biết, sự nhận thức, tư duy…, gọi chung là Thức. Thức bao gồm một nội dung được xem là những dấu ấn, những hạt mầm (chủng tử – bija) được tạo nên bởi những hành tác của một người trong đời sống hiện tại và những đời sống trước kia, còn được gọi là nghiệp hay nghiệp thức.
Sau thời đức Phật, các luận gia suy diễn rằng có một cái thức gọi là A-lại-da hàm chứa mọi nội dung của thức. Nội dung này luôn luôn biến đổi theo hoàn cảnh sống và theo hành động của chúng sang mang nó. Chính đấy là năng lượng, là sức mạnh gọi là nghiệp lực mà khi một người chết đi, nó đẩy A-lại-da hay Thức nương gá vào một thân thể mới vừa tượng hình có hoàn cảnh phù hợp với nó. Đó là ý nghĩa của “linh hồn đi đầu thai” mà Phật giáo gọi là Thức đi đầu thai.
Trong kinh Đại Duyên (Mahanidanasutta) của Trường Bộ (Dighanikaya), Đức Phật cật vấn Tôn giả A-nan: “Này A-nan, nếu Thức không đi vào trong bụng mẹ thì danh sắc có thể hình thành trong bụng mẹ không?”
Tôn giả A-nan đáp: “Bạch Thế Tôn, không”. Rõ ràng Đức Phật đã dạy rằng chính cái Thức đi đầu thai.
Về sau, nhiều luận gia gọi cái Thức đi đầu thai này là Càn-thát-bà (Gandharva) hay thân Trung hữu (Antarabhavakaya), Trung ấm mà giới Phật học vẫn còn chưa thống nhất quan điểm về tính chất, sự hiện hữu và thời gian hiện hữu của nó trước khi nhập thai.
Nói tóm lại, Phật giáo gọi “linh hồn” là “Thức” hay “Nghiệp thức” do vô minh từ vô thỉ mà có. Nó là vọng thức, luôn luôn vận hành, biến đổi theo hoàn cảnh và hành tác của một người, và là động lực khiến chúng sinh trôi lăn trong sinh tử luân hồi.
Do tu tập, “Thức” sẽ biến thành “Trí tuệ tuyệt đối”, thành Giải thoát tối hậu, chấm dứt sinh tử, chứng đạt Niết bàn.
facebook – PHÒNG PHÁT HÀNH DẦN NGUYỆT
www.dannguyet.com.vn
http://maygiangphap.com/tin-tuc/chet-va-tai-sinh/
Vì sao phải siêu độ vong nhân
Nguồn gốc việc siêu độ
Trong nhà Phật, việc siêu độ vô cùng phổ biến. Có thể nói thời đại này, vong nhân là đối tượng chủ yếu của Phật sự. Trước đây Phật giáo dạy người sống, Phật giáo ngày nay lại độ cho người chết
Đó là lý do Phật giáo bị nhìn nhận dưới góc độ mê tín dị đoan. Nhiều người cho rằng Phật giáo là tôn giáo thấp kém, họ kịch liệt bài xích. Trong khi Phật giáo đích thực không phải để siêu độ người chết.
Lão pháp sư Đạo An đã từng giảng, nguồn gốc của việc siêu độ bắt đầu từ thời đại Đường Minh Hoàng. Thời đức Phật không có, Phật giáo truyền đến Trung Quốc thời kỳ đầu cũng không ghi chép sự việc này. Đến thời đại của Đường Minh Hoàng, vì vua Đường sủng ái Dương Quí Phi, khiến nhân dân và triều thần bất mãn, mới có loạn An Lộc Sơn nổi tiếng trong lịch sử suýt nguy cấp đến cả quốc gia dân tộc. Với sự đắc lực của Quách Tử Nghi, một vị đại tướng đương thời đã bình định cuộc nổi loạn, tuy nhiên, quân dân tử thương rất nhiều. Sau khi bình định cuộc nổi loạn, triều đình tại mỗi chiến trường chính, xây dựng một miếu thờ gọi là Khai Nguyên tự, vì đúng vào niên hiệu Khai Nguyên, thỉnh cao tăng đại đức, tụng kinh, bái sám truy điệu cho quân dân tử nạn. Đây là lễ truy điệu do triều đình cử hành, gọi là pháp hội siêu độ. Từ đó dân chúng học theo, mỗi khi có người qua đời, người dân cũng thỉnh pháp sư đến làm Phật sự siêu độ, tạo phong tục cho đến ngày nay.
Tuy nhiên pháp hội siêu độ vào thời đó cũng không nhiều, một năm chỉ có đôi ba lần, công việc chủ yếu của tự viện am đường vẫn là giảng kinh thuyết pháp. Chúng ta cần hiểu rõ đạo lý này. Chúng tôi đã xây dựng đạo tràng ở Đài Bắc, thư viện nghe nhìn Phật giáo, mỗi năm cũng chỉ có ba lần pháp hội siêu độ: Thanh Minh, Trung Nguyên, Đông Chí. Phương thức chủ yếu là mở khoá Phật thất, dùng công đức niệm Phật hồi hướng cho người mất. Ngày cuối cùng Phật thất, tổ chức tam thời hệ niệm. Hiện tại, rất nhiều nơi cũng dùng phương cách này. Ấn Quang đại sư năm xưa còn sống, niệm Phật đường của chùa Linh Nham Sơn không có Phật sự. Phật tử yêu cầu siêu độ tổ tiên, người thân quyến thuộc thì đều để bài vị ở niệm Phật đường, chùa không làm riêng lẻ cho bất cứ ai mà lấy công đức niệm Phật của đại chúng ở niệm Phật đường hồi hướng. Cách làm này rất đáng được học tập và nhân rộng.
NAM MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
NAM MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
Vì sao phải tụng kinh siêu độ?
Ý nghĩa của tụng kinh siêu độ so với hình thức truy điệu của thế gian hẳn nhiên là sâu hơn. Truy điệu thế gian chỉ mang mục đích kỷ niệm, tưởng nhớ, tuyên dương những cống hiến lúc người đó còn sống, xong rồi quên lãng. Nhưng ý nghĩa tưởng nhớ trong Phật pháp thì sâu hơn. Tụng kinh, niệm danh hiệu Phật Bồ Tát là kiểu truy điệu có ý nghĩa thực chất nhất.
Người xưa có câu: “Thế gian hảo ngữ Phật thuyết tận”. Việc tốt ở thế gian đức Phật đều đã làm. Cho nên chúng ta hãy học theo lời đức Phật để truy điệu người quá cố bằng những việc tốt mà thuật ngữ nhà Phật gọi là công đức chân thực. Người mất nhìn thấy việc làm của chúng ta, họ vô cùng hoan hỷ. Người sống thực tập như lý như pháp thì lợi ích người mất nhận được một phần. Đạo lý này người bình thường khó có thể hiểu được, đôi khi còn cho là hoang đường. Chỉ khi tu học, chúng ta mới liễu ngộ, mới hiểu được chân tướng sự thật. Ngày nay ít người hiểu hoặc hiểu sai quá nhiều. Cho nên cần phải nâng cao cảnh giới của mình thì mới có thể có nhận thức chân thực triệt để.
Kinh Địa Tạng đưa ra hình ảnh nữ Bà la môn siêu độ mẹ mình, không thỉnh pháp sư đến làm Phật sự, không hề mời người đến tụng kinh, mà cô dùng phương pháp tu học. Dùng bản thân đích thực quay đầu, đoạn ác tu thiện, sửa chữa lỗi lầm, chân thành sám hối. Sau đó lấy công đức này để tưởng nhớ mẹ. Mẹ cô nhờ đó mới triệt để đoạn ác tu thiện, đích thực phá mê khai ngộ, bà từ địa ngục liền được sinh thiên. Thế nhưng nếu tư duy và quan sát tỉ mỉ, chúng ta sẽ thấy nữ Bà la môn nhờ mẹ tạo ác, đọa địa ngục, nên cô mới có động lực quyết tâm tu hành nghiêm túc. Công phu của cô là cảnh giới A La Hán, thật sự chuyển phàm thành thánh. Người giúp cô đạt đến cảnh giới này chính là mẹ cô. Nhờ duyên của mẹ thúc đẩy cô tu hành chứng quả. Khi đã chứng quả, công đức đạt được lại làm vẻ vang cho mẹ mình. Mẹ cô siêu sinh từ địa ngục lên cung trời Đao Lợi. Chúng sinh ngày nay chỉ biết làm theo hình tướng mà không hiểu nội dung thực chất cho nên không đạt hiệu quả lớn.
Vì sao phải tạo nhiều tượng Phật? Số tiền này đem cứu giúp người nghèo khổ bị nạn không tốt hơn sao?
Không thể nói không có lý, cũng không thể nói hoàn toàn có lý. Vì sao? Chúng ta chỉ thấy gần mà không thấy xa. Cứu giúp người nghèo khổ là giải pháp nhất thời, còn tạo nhiều tượng Phật là việc cứu người dài lâu. Nhà Phật tạo tượng không phải vì niềm tin mê tín. Ông Dương, trưởng ban tôn giáo nhà nước Trung Quốc, thời gian qua tiếp xúc với chúng tôi đã nói đến ý nghĩa giáo dục của tượng Phật. Chúng tôi cũng đã bày tỏ, nhà Phật đem giáo dục và nghệ thuật hợp lại thành một thể. Giáo dục đạt đến nghệ thuật hóa tối cao, nhà trường và bảo tàng cùng kết hợp, không những tạo tượng mà tất cả các thiết chế đều là công cụ dạy học, từ tượng Phật đến kiến trúc của nhà Phật. Đời sống cũng là công cụ dạy học, thậm chí tham gia sự kiện, chúng tôi ăn mặc không khác người bình thường. Chúng tôi đặc biệt tìm bộ áo tràng lam màu cà phê vì màu này tượng trưng của nền văn hoá đa nguyên. Các loại màu sắc trộn lẫn với nhau, gồm đỏ, vàng, lam, trắng, đen, mà người Trung Quốc thường gọi là ngũ sắc tượng trưng cho năm chủng tộc thống nhất thành một. Màu sắc này là màu của hợp nhất. Thân thể này của chúng tôi là tổng hợp của tất cả tôn giáo, tất cả các chủng tộc, tất cả chúng sinh tận hư không khắp pháp giới.
Theo kinh Hoa Nghiêm, “một chính là tất cả, tất cả chính là một”. Một màu áo này của chúng tôi chính là các loại màu khác nhau của mọi người. Chúng ta ngày nay cần phải đoàn kết tôn giáo, hòa hợp chủng tộc, đó là giáo học của nhà Phật. Đại kinh thường nói “tâm bao thái hư, lượng chu sa giới”, màu này là màu tâm bao thái hư, lượng khắp pháp giới. Chúng ta ăn cơm, dùng bát, thức ăn mỗi nhà cho đều đựng chung một bát, ẩm thực khác nhau hợp lại thành một. Cũng vậy, chúng ta hoà trộn các chủng tộc khác nhau, tôn giáo khác nhau, hợp lại thành một. Đời sống đều là biểu pháp, mỗi niệm không quên.
Từ đó mà đạo tràng của nhà Phật có hình thức thống nhất. Ở Trung Quốc, bước vào trước tiên phải từ tam môn, tam môn Thiên Vương Điện, thấy được bồ tát Di Lặc với hình ảnh hòa thượng Bố Đại, bụng rất to bao dung khắp cả pháp giới, mỉm cười đón mọi người, tâm thường hoan hỷ, điều gì cũng có thể chịu đựng. Tứ Đại Thiên Vương biểu tượng hộ pháp cho chính mình. Ở phương Đông, Trì Quốc Thiên Vương biểu trưng cho chức trách. Dù địa vị là gì, trong ngành nào, chúng ta phải nỗ lực làm tốt. Cống hiến cho xã hội, cho chúng sinh không phải vì bản thân. Tạo phước cho chúng sinh, nhất định phải làm hết chức trách.
Trên tay cầm đàn tỳ bà, không phải vì vị đó thích ca hát. Tỳ bà là biểu pháp, đại biểu cho trung đạo, nhà Nho gọi là trung dung. Có nghĩa là làm việc phải đến nơi đến chốn, vừa đủ, không nên quá mức. Chúng ta đối với người, với việc, với vật cũng vậy, đều phải vừa chừng, giữ nề nếp và tròn bổn phận. Chẳng hạn, hiện nay trên thế giới lễ tiết của mỗi nước khác nhau. Lễ kính nhất là ba lần cúi chào, dành cho tình huống gặp người tôn kính. Hai lần cúi chào chứng tỏ người ngạo mạn. Bốn lần cúi chào chứng tỏ người đó nịnh bợ.
Phương nam có Tăng Trưởng Thiên Vương, “tăng trưởng” là cầu tiến, mỗi ngày mỗi mới, quyết không dừng ở hiện tại, cầu trí tuệ, trí tuệ phẩm đức phải tiến bộ, sự nghiệp thăng hoa, đời sống ngày càng viên mãn.
Cho nên tạo tượng có ý nghĩa giáo dục vô cùng sâu sắc, giúp chúng ta hiểu và sửa sai. Nhìn thấy bồ tát Di Lặc bao dung, chúng ta liền nghĩ mình chưa bao dung, sinh tâm hổ thẹn mà quyết tâm học tập theo ngài. Ý nghĩa của công đức tạo tượng so với cứu giúp người nghèo khổ sâu xa vô cùng. Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên, tướng tốt vô lượng vô biên. Ý nghĩa giáo dục là như vậy
Phật giáo là trường đại học đầy đủ các khoa, nhưng chỉ dùng danh hiệu Phật Bồ Tát làm đại diện. Nó là giáo dục mà không phải là tôn giáo, là trí tuệ, nghệ thuật mà không phải là mê tín. Nơi nào phổ biến giáo dục Phật pháp, nơi đó không có người nghèo khổ. Phương cách cứu giúp này mới triệt để. Vì mỗi người đều có tâm thiện, nghĩ thiện, làm việc thiện, mỗi người đều có thể hiến dâng mình, vì xã hội, vì chúng sinh, tạo phước thì thế giới này là thế giới của hạnh phúc.
Đem tiền đi cứu giúp người nghèo khổ là việc tạm thời, còn dùng tiền để tạo tượng, hoằng dương giáo dục của Phật Đà mới là cách cứu giúp lâu dài, triệt để, và viên mãn nhất. Kinh Phật nói, dùng bảy báu của đại thiên thế giới đem cứu khổ cứu nạn, công đức đó không bằng người có tâm vì tất cả chúng sinh nói chỉ vỏn vẹn bốn câu kệ khiến người khai ngộ. Cứu tế không thể giải quyết vấn đề vì đời sống dựa vào cứu giúp. Phật không dùng cách cứu tế để giúp đỡ người, ngài dạy chúng ta mở trí tuệ, có năng lực, dạy chúng ta tự sản xuất không những có thể nuôi sống mình mà còn có thể giúp ích xã hội. Vì vậy lợi ích công đức thù thắng của Phật pháp là vô lượng vô biên. Tiếc là ngày nay rất ít người giảng giải, rất ít người phát huy rộng rãi nên khiến mọi người trong xã hội hiểu lầm. Đây cũng là lỗi của bốn chúng đệ tử Phật môn chúng ta do chưa làm hết trách nhiệm.
ST : PHÒNG PHÁT HÀNH DẦN NGUYỆT
website : dannguyet.com.vn
http://maygiangphap.com/tin-tuc/vi-s...ieu-vong-nhan/
Nói Xấu Người Khác – Những Hậu Quả Và Cách Chuyển Hóa
“Tôi nguyện không nói lỗi lầm của người khác”. Trong truyền thống Phật giáo, đây là một trong những lời nguyện của Bồ tát. Đối với những vị tu sĩ thọ Cụ túc giới, một nguyên tắc tương tự được đề cập đến trong lời phát nguyện là không nói lời phỉ báng.
noi xau
Điều này cũng được nhắc đến trong lời khuyên của Đức Phật đối với tất cả mọi người để tránh 10 bất thiện nghiệp, đó là bất thiện nghiệp thứ năm: nói những lời gây bất hòa, chia rẽ.
Nhiều người có thói quen ưa nói lỗi lầm của người khác. Và đôi khi chính họ không nhận thấy thói quen ấy và chỉ nhận diện được nó sau khi đã nói xong. Vậy thì động cơ ở đằng sau việc nói lỗi lầm của người khác, đằng sau xu hướng muốn hạ thấp người khác là gì? Một trong số những minh sư của tôi, ngài Ngawang Dhargye, đã từng nói: “Quý vị ngồi lại với nhau và nói về lỗi lầm của một người khác, về những việc làm sai trái của người đó. Thế rồi quý vị tiếp tục thảo luận về những sai phạm và những phẩm chất tiêu cực của người khác, bởi vì quý vị tự thừa nhận với nhau rằng quý vị là những người tốt nhất trên thế giới”.
Khi tôi nhìn sâu vào bên trong, tôi nhận thấy rằng ngài Ngawang Dhargye đã nói đúng. Bị nung nấu bởi cảm giác bất an, tôi đã nghĩ sai rằng nếu người khác sai, xấu, đầy khuyết điểm, theo phép so sánh, thì tôi phải là người đúng, tốt và có năng lực. Chiến thuật hạ nhục người khác để tạo dựng lòng tự trọng của mình theo cách này rất khó có kết quả.
Lúc chúng ta tức giận người khác cũng là lúc chúng ta thường nói xấu họ. Trong trường hợp này chúng ta có thể nói lỗi của người khác vì một vài nguyên do khác nhau. Đôi khi chúng ta nói xấu người khác để kéo mọi người đứng về phía mình. Chúng ta nghĩ rằng, nếu ta kể cho mọi người nghe về sự tranh luận giữa ta với anh A rồi thuyết phục mọi người rằng anh A sai và mình đúng. Như thế thì mọi người sẽ đứng về phía chúng ta. Chính vì ý nghĩ rằng: “Nếu mọi người nghĩ mình đúng thì chắc hẳn là mình đúng”. Việc tự nghĩ rằng mình đúng như thế ấy là một việc làm kém cỏi trong khi chúng ta không chịu dành thời gian để đánh giá một cách trung thực đối với những việc làm và động cơ của mình.
Có khi chúng ta nói xấu người khác vì ganh ghét họ. Chúng ta muốn được mọi người tôn trọng và đánh giá cao như người kia vậy. Từ trong sâu thẳm, chúng ta nghĩ rằng: “Nếu mọi người thấy những phẩm chất xấu của người mà mình nghĩ là tốt hơn mình thì thay vì tôn trọng và giúp đỡ người đó, họ sẽ khen ngợi và hỗ trợ mình”. Chiêu bài mà chúng ta dùng để giành lấy sự tôn trọng và đánh giá cao của người khác theo cách này rất khó mang lại hiệu quả.
nói xấu
Nói xấu người khác đem đến những hậu quả gì?
Trước hết, chúng ta sẽ được biết đến như là một người thường gây ra sự bất hòa. Người ta sẽ không muốn tâm sự với chúng ta vì họ sợ chúng ta sẽ nói với người khác, thêm thắt những lời đánh giá của ta khiến cho họ bị xem là không tốt. Theo kinh nghiệm cá nhân, tôi nhận thấy rằng người nào hay nói xấu người khác với tôi thì chắc hẳn họ sẽ đi nói xấu tôi với người khác. Hay nói cách khác, tôi không tin tưởng những ai thường hay phê bình người khác.
Thứ hai, chúng ta phải đối mặt với người bị chúng ta nói xấu khi họ phát hiện ra những gì chúng ta đã nói, và phiền phức hơn là lúc họ nghe được những gì chúng ta đã nói xấu về họ thì những điều đó đã bị phóng đại lên nhiều lần. Người đó có thể nói với người khác về lỗi của mình để trả đũa.
Thứ ba, một số người có thể sẽ bị kích động khi nghe nói về lỗi của người khác. Chẳng hạn, nếu một người ở trong văn phòng hoặc trong nhà máy nói xấu sau lưng người khác, mọi người ở tại nơi làm việc có thể sẽ tức giận và công kích người đã bị nói xấu. Điều này có thể sẽ làm dấy lên việc nói xấu sau lưng người khác ở sở làm và gây ra tình trạng bè phái. Điều này gây tổn hại đến một môi trường làm việc hòa hợp.
Thứ tư, chính bản thân ta cũng không có hạnh phúc khi mình luôn phanh phui lỗi của người khác. Khi chúng ta tập trung vào những điểm tiêu cực, hoặc là những sai lầm, chính tâm của chúng ta cũng không an vui. Những ý nghĩ rằng người này xấu, người kia không tốt,… thường không có lợi cho tinh thần của chúng ta.
Thứ năm, khi ta nói xấu người khác tức là chúng ta đã gây ra tác nhân để cho người khác nói xấu mình. Điều này có thể xuất hiện ngay trong đời này nếu người mà ta phê bình muốn hạ nhục mình, hoặc có thể xuất hiện trong tương lai khi mình bị người khác buộc tội một cách vô lối hoặc là bị vu oan. Khi chúng ta là người nghe những lời nói thô tục, chúng ta cần nhớ rằng đấy là kết quả từ hành động của chính chúng ta, chúng ta đã tạo ra nhân, nay đã đến lúc phải nhận quả. Chúng ta đã gây ra sự tiêu cực ở trong vũ trụ và trong tâm thức của mình, bây giờ nó trở lại với chúng ta. Không có lý do gì để giận hay buộc tội người khác khi chúng ta là người đã tạo ra nguyên nhân chính yếu đối với rắc rối của mình.
noi-xau
Tuy nhiên, có một số trường hợp có vẻ như là nói lỗi của người khác nhưng lại là cần thiết, nên nói. Mặc dù những trường hợp này rất giống với việc phê bình người khác, nhưng thực ra thì chúng không giống nhau. Điểm khác nhau ở đây là gì? Đấy chính là động cơ của ta. Nói lỗi của người khác thường là có ác tâm ở bên trong và thường bị thúc đẩy bởi động cơ ích kỷ. Bản ngã của ta muốn có được điều gì đó từ việc nói xấu người khác, muốn được tốt bằng cách hạ nhục người khác. Ngược lại, sự bàn thảo chính đáng về những lỗi lầm của người khác thường xuất phát từ sự quan tâm giúp đỡ và tâm thương yêu, chúng ta muốn làm rõ sự tình, ngăn chặn nguy hại, hoặc là muốn giúp đỡ. Chẳng hạn như khi chúng ta phải viết thư giới thiệu cho ai đó mà người ấy không được tốt lắm, chúng ta phải trung thực, phải đề cập đến những ưu điểm cũng như nhược điểm của anh ta để cho người chủ tương lai hoặc là chủ nhà của họ có thể quyết định xem người đó có thể làm những gì mà họ mong muốn hay không. Tương tự như vậy, chúng ta có thể phải báo trước về những thói quen của ai đó để cảnh báo những rắc rối có nguy cơ xảy ra. Trong cả hai trường hợp này, động cơ của ta là không phải để phê bình người khác, cũng không phải để thêm thắt những điều mà người đó không có. Chúng ta chỉ muốn đưa ra một lời diễn tả không có thành kiến về những gì chúng ta thấy mà thôi.
Đôi khi ta nghi ngờ rằng việc nhìn nhận của chúng ta về những tiêu cực của một ai đó có thể bị hạn chế, bị định kiến, cho nên ta nói với một người bạn mà người bạn đó không hề biết gì về người kia, nhưng người bạn đó có thể giúp ta nhìn thấy những khía cạnh khác. Điều này đem đến cho ta những ý tưởng, quan điểm có tính xây dựng, tích cực hơn và giúp cho ta biết cách để ứng xử với người kia. Người bạn của ta cũng có thể chỉ cho ta thấy những điểm nút của mình – những sự phản kháng và các vấn đề tế nhị – những điều mà ta đang phóng đại về điểm yếu kém của người khác, nhờ vậy mà ta có thể điều chỉnh cho phù hợp.
Có khi chúng ta không rõ về những việc người khác làm nên nhờ một người bạn – là bạn của mình và người đó – tư vấn để biết thêm về hoàn cảnh người đó, và từ đó đánh giá, ứng xử với họ một cách hợp lý. Hoặc là chúng ta phải tiếp xúc với một người mà mình nghi là họ có vấn đề, nên mình nhờ đến các chuyên gia tư vấn để biết cách ứng xử với người đó. Trong cả hai trường hợp này, chúng ta phải nói cho người bạn hoặc là chuyên gia nghe về những vấn đề, những việc không tốt của người khác, nhưng động cơ của mình là muốn giúp họ và muốn giải quyết sự khó khăn.
Trong một trường hợp khác, một người quen của mình có thể không biết là họ đang có hành vi gây tổn hại người khác hoặc là hành xử theo lối hạ nhục người khác. Để bảo vệ người ấy khỏi phải tai họa do sự thiếu sáng suốt của chính họ gây ra, chúng ta có thể nói cho họ biết rõ điều mà họ làm. Ở đây chúng ta nói không phải với giọng phê bình hay là thái độ xét nét mà nói với lòng thương yêu, nhằm chỉ ra lỗi lầm hoặc sai phạm của người đó để rồi anh ta có thể khắc phục.
Chúng ta thường có thói quen nói lỗi của người khác. Để từ bỏ thói quen này, chúng ta phải bắt đầu từ việc điều chỉnh thói quen đánh giá người khác. Thay vì đánh giá, phê bình người khác, chúng ta hãy lưu tâm đến những phẩm chất tốt và sự tử tế của họ. Chúng ta cần phải rèn luyện tâm mình, chỉ nhìn những điểm tốt, những điều tích cực của người khác. Rèn luyện như thế thì sẽ tạo nên sự khác biệt giữa niềm hạnh phúc, cởi mở và thương yêu của ta với sự buồn khổ, khó gần và khắt khe.
Chúng ta cần phải cố gắng để trau dồi thói quen chú ý vào những điều tốt đẹp, đáng yêu, đáng quý ở người khác. Nếu chúng ta để ý những thứ đó thì chúng ta sẽ không lưu tâm đến những lỗi lầm của họ. Thái độ vui vẻ và lời nói bao dung xuất phát từ việc này sẽ cải thiện những người xung quanh và sẽ nuôi lớn hạnh phúc, sự mãn nguyện và tình thương yêu ở trong ta. Vì thế, chất lượng cuộc sống của ta tùy thuộc vào việc chúng ta tìm thấy lỗi lầm với kinh nghiệm của mình hay là thấy những gì tốt đẹp ở bên trong nó.
Khi chúng ta nhìn thấy lỗi lầm của người khác là chúng ta bỏ lỡ cơ hội để thương yêu. Điều đó cũng có nghĩa là chúng ta không có khả năng để nuôi dưỡng bản thân một cách hợp lý với những sự hiểu biết chân tình khi chúng ta đem vào tâm mình những độc tố. Khi chúng ta có thói quen săm soi lỗi của người khác thì chúng ta cũng có xu hướng chỉ nhìn thấy những khuyết điểm, những lỗi lầm của bản thân. Điều này có thể đưa chúng ta đến việc làm giảm giá trị toàn bộ cuộc sống của mình. Thật bi thảm nếu chúng ta bỏ qua những điều quý giá và cơ hội trong cuộc sống của mình, không nhìn thấy khả năng thành Phật trong bản thân mình. Vì thế, chúng ta phải chấp nhận chính mình như những gì mình đang có trong hiện tại, đồng thời chúng ta cố gắng để trở nên những con người tốt hơn trong tương lai. Nói vậy không có nghĩa là chúng ta làm ngơ trước những lỗi lầm của mình, mà là chúng ta không quá miệt thị về chúng. Chúng ta mừng vì mình được làm người, tự tin về khả năng của mình và tự tin về những giá trị chân thực mà chúng ta đã gầy dựng từ trước đến nay.
Mọi người đều muốn được thương yêu – muốn được mọi người chú ý và thừa nhận những khía cạnh tích cực của bản thân, muốn được quan tâm và tôn trọng. Hầu hết chúng ta đều không muốn bị đánh giá, bị phê bình và từ chối. Việc trau dồi thói quen nhìn thấy những điều tốt đẹp của bản thân và của người khác mà có thể đem lại cho mình và người niềm hạnh phúc khiến cho chúng ta cảm nhận và mở rộng tình thương yêu. Từ bỏ thói quen nhìn thấy lỗi lầm sẽ giảm thiểu sự đau khổ cho mình và người. Vấn đề này nên được xem là trọng tâm trong lộ trình tâm linh của chúng ta. Chính vì lý do này mà Đức Dalai Lama đã nói: “Tôn giáo của tôi là lòng tốt”. Chúng ta có thể vẫn thấy những điều chưa hoàn thiện của mình và của người khác, nhưng tâm chúng ta hiền dịu hơn, biết chấp nhận và rộng lượng hơn.
Đối lập với việc nói xấu người khác là nói với sự hiểu biết và thương yêu. Những ai đang đi trên lộ trình tâm linh và những ai muốn sống hòa hợp với người khác thì việc phát ngôn với sự hiểu biết và thương yêu là điều rất quan trọng. Khi chúng ta nhìn vào những phẩm chất tốt của người khác, chúng ta cảm thấy hạnh phúc. Việc thừa nhận những phẩm chất tốt của người khác sẽ khiến cho lòng mình cảm thấy hạnh phúc, và tạo được bầu không khí hài hòa, đem đến cho người khác thông tin phản hồi hữu ích.
Khen ngợi người khác là một việc mà chúng ta cần phải thực tập trong quá trình tu tập của mình. Nếu chúng ta thường nghĩ đến những tài năng, những phẩm chất tốt của người khác thì chúng ta cảm thấy hạnh phúc hơn và người khác cũng vậy. Chúng ta sẽ tạo được mối quan hệ tốt đẹp với người khác, và gia đình của chúng ta, môi trường làm việc cũng như hoàn cảnh sống của chúng ta sẽ hòa hợp hơn. Gieo những hạt giống từ những hành vi tích cực ấy ở trong tâm thức của mình, chúng ta sẽ tạo nhân duyên cho những mối quan hệ hòa ái và cho sự thành tựu những mục đích tâm linh cũng như những mục đích trong cuộc sống đời thường.
=========================
PHÒNG PHÁT HÀNH DẦN NGUYỆT
Điện thoại : 0943-666-589 — 04-66-534-534
Địa chỉ : Số 10 ngõ 43 phố Cầu Cốc – Nam Từ Liêm – Hà Nội
www.facebook.com/TrungTamPhatHanhDanNguyet
Website : www.dannguyet.com.vn
http://maygiangphap.com/tin-tuc/noi-...ch-chuyen-hoa/
Đọc xong bạn sẽ biết sống tốt hơn với chính mình
Bạn chỉ sống có một lần trong đời, nên “miệng lưỡi thế gian” có nói gì không tốt đến tai bạn thì bạn hãy cứ bơ đi mà sống, đơn giản vì họ không sống cho cuộc đời của bạn.
1. Nếu họ chê bai rằng cái váy của bạn không đẹp, chiều cao của bạn khiêm tốn quá, gương mặt bạn trang điểm kém xinh, mũi bạn thấp lè tè… vân vân và vân vân mà mục đích là “đâm chọt” nhiều hơn góp ý xây dựng thì bạn đừng vội buồn.
2. Với những kẻ chuyên đi nói xấu sau lưng bạn, đâm bị thóc chọc bị gạo khi bạn không có mặt thì hãy mỉm cười và “bơ” chúng đi nào. Cả đời họ chỉ có thể đứng sau lưng bạn mà thôi.
3. Rồi sẽ có lúc bạn bị chính bạn bè của mình phản bội, làm tổn thương.
Đừng dằn vặt, dù có tiếp tục trở lại làm bạn hay không thì cũng hãy cố gắng tha thứ cho họ.Tha thứ không phải để trở nên vĩ đại, mà là để hạnh phúc hơn. Việc bạn dằn vặt, mắng chửi, thù ghét người khác cũng đồng thời gây tổn thương cho chính bạn.
4. Tập sống thật với chính mình.
Vui thì cười, buồn thì khóc, thương ai đó thì nói cho họ nghe, ghét ai đó thì góp ý để họ trở nên đáng yêu hơn. Đừng giữ buồn phiền trong lòng quá lâu kẻo bị “ung thư tâm hồn” nha các ấy!
5. Cuộc sống không phải lúc nào cũng êm đềm.
Những kẻ không ưa bạn sẽ chực chờ sơ hở để làm bạn buồn, bạn khóc, bạn tổn thương và mục đích là khiến bạn không gượng dậy được. Đó là những lúc bạn cần mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
6. Cách tốt nhất để kết thúc một cuộc tranh cãi là im lặng.
Nếu cả hai cùng gân cổ lên để cãi như hai chiếc loa phát thanh, không ai nhường ai thì câu chuyện sẽ kết thúc một cách rất tồi tệ, tình cảm sẽ sứt mẻ. Hãy thử im lặng nghe họ trút hết bực dọc trước. Bạn sẽ có thời gian để suy nghĩ ai đúng ai sai và giải quyết mâu thuẫn êm thắm hơn hẳn.
7. Trong cuộc đời của mỗi người, có 4 từ được nói nhiều nhất: Xin chào, Tạm biệt, Cám ơn và Xin lỗi.
Hãy nói xin chào với những người bạn mới, những điều tốt đẹp. Nói Tạm biệt với những mối quan hệ xấu, những điều không vui.
DAN NGUYET
Tại sao bạn luôn gặp chuyện không vừa ý, hóa ra chính bởi vì thiếu 3 điều này
Trên đời có rất nhiều chuyện mới nhìn quả thực không vừa ý chút nào. Tại sao chúng ta luôn phải đối mặt với biết bao nhiêu điều không thuận mắt như thế? Câu trả lời thực ra khá đơn giản.
Mỗi người một cách sống, cách nghĩ. Bạn thực ra chỉ cần sống tốt cuộc đời của mình là đủ, những chuyện khác chớ nên quan tâm quá nhiều. Tục ngữ có câu: “Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh”, mỗi người là một bông pháo hoa mang một màu sắc, ảnh hình khác nhau.
Đừng bao giờ bận tâm xem người khác sống thế nào hay mình trong mắt họ ra sao. Nếu chỉ hướng tầm mắt mình ra bên ngoài, bạn sẽ chỉ thấy những nỗi muộn phiền, chuyện ganh đua hơn thiệt, mình chẳng bằng người, cuộc đời sao khốn khó làm vậy.
Sở dĩ người ta thường xuyên gặp chuyện không vừa ý, không thuận mắt là bởi:
1. Không đủ tu dưỡng
Tô Đông Pha là một thi nhân nổi tiếng thời Tống, được hậu thế xưng tụng là “Đường Tống bát đại gia” (8 đại gia văn học lớn thời Đường Tống). Ông có tài nhưng đôi khi cũng khá kiêu ngạo. Một hôm, Tô Đông Pha lên chùa, ngồi thiền cùng một lão tăng.
Một lúc sau, ông mở mắt ra hỏi: “Ngài thấy dáng ngồi thiền của tôi ra sao?“.
Lão tăng nhìn khắp một lượt rồi gật đầu khen ngợi: “Trông giống như một vị Phật vậy, cao quý và trang nghiêm“. Tô Đông Pha nghe thấy rất cao hứng.
Lão tăng lại hỏi: “Thế ngài nhìn tôi ngồi ra sao?“.
Vốn thích hay trêu chọc người khác, Tô Đông Pha nghĩ ngợi một lát rồi đáp: “Tôi nhìn thấy ngài quả giống như một đống phân bò“.
Lão tăng nghe xong ngửa mặt lên trời cười, cũng không phản bác lại gì. Về nhà Tô Đông Pha hào hứng đem câu chuyện kia kể lại với em gái Tô Tiểu Muội của mình. Không ngờ nghe xong, Tô Tiểu Muội phá lên cười, cho rằng anh trai mình thật ngốc nghếch.
Đông Pha không hiểu chuyện, liền gặng hỏi. Tô Tiểu Muội đáp: “Lão tăng ấy có tâm Phật nên mới nhìn huynh giống như Phật. Còn trong tâm huynh lại có đầy phân bò, rác bẩn nên mới nói lão tăng như vậy đó!“.
Đây chẳng phải chính là câu chuyện về cảnh giới tu dưỡng tâm hồn hay sao? Người đức cao vọng trọng thì trong tâm chứa đầy thiện tâm, từ câu nói, ánh nhìn đều toát ra vẻ thuần thiện, mỹ hảo, nhìn người khác đều bằng một lòng từ bi, hoà ái, trông thấy ai cũng giống như Phật, đều nhìn ra vẻ thánh thiện của người ta.
Còn người tu dưỡng không đủ, cảnh giới tinh thần thấp thì trong tâm chứa đầy rác của lòng đố kỵ, tâm oán ghét, thói tự phụ, sự khoe khoang, một khi nhìn người khác thì chỉ thấy cái xấu xa, thấp hèn, đáng phê phán, nhìn bằng một tâm đố kỵ dâng đầy.
Tâm thái của bạn như thế nào sẽ quyết định cách bạn đối nhân xử thế ra sao. Chỉ trích người khác, soi mói cuộc sống của người xung quanh kỳ thực thường là do sự tu dưỡng của bản thân không đủ.
Sở dĩ gặp quá nhiều điều không thuận mắt không phải là vì người ta bị ghét bỏ, mà chính bởi thái độ đối nhân xử thế của họ có vấn đề.
Thầy Pháp Hoà
2. Không đủ tầm nhìn
Con ếch suốt đời chỉ ngồi đáy giếng, khoảng trời của nó chỉ nhỏ con con đúng bằng miệng giếng. Bảo nó rằng vũ trụ này bao la ra sao, có biết bao tinh tú thế nào, nó thực chẳng tin, còn cho là người ta nói chuyện viển vông, nhăng cuội.
Thấy người khác không thuận mắt kỳ thực chính là bản thân mình đang sống như ếch ngồi đáy giếng. Vì hiểu biết và tầm nhìn của cá nhân bị giới hạn nên tư duy cũng nhỏ hẹp, không thoát khỏi lớp vỏ do chính mình tạo ra.
Những người này hàng ngày chỉ thích quan sát cuộc sống của người khác, bình phẩm này nọ, bàn ra tán vào. Họ dùng tiêu chuẩn của cá nhân, quan điểm của bản thân mà đánh giá người khác. Kỳ thực làm sao mà đánh giá được đây?
Rất nhiều người bản thân đã không biết cố gắng, lại mang lòng ghét bỏ, oán hận khi thấy người khác quá nỗ lực, chế giễu người khác là kẻ ngốc chỉ biết vùi đầu làm việc, không hiểu cách hưởng thụ cuộc sống.
Lại có người cả cuộc đời ngồi rỗi, ăn không mà cứ thấy gai mắt khi nhìn thấy người khác dốc sức phấn đấu. Bản thân không đạt được còn muốn ngăn trở người khác giành lấy.
Rất nhiều chuyện không thuận mắt, kỳ thực xét tới tận cùng vẫn là vì cảnh giới nhận thức của bản thân còn thấp, kiến giải chưa nhiều.
3. Không đủ bao dung
Khi không đủ thiện tâm, bao dung, người ta nhìn gì cũng chẳng thấy vui. Chính là “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du), cũng lại là “Tướng tuỳ tâm sinh, cảnh tuỳ tâm chuyển” (Tướng mạo do tâm mà sinh ra, cảnh vật do lòng người mà thay đổi).
Đây chẳng phải chính là câu chuyện về cảnh giới tu dưỡng tâm hồn hay sao? Người đức cao vọng trọng thì trong tâm chứa đầy thiện tâm, từ câu nói, ánh nhìn đều toát ra vẻ thuần thiện, mỹ hảo, nhìn người khác đều bằng một lòng từ bi, hoà ái, trông thấy ai cũng giống như Phật, đều nhìn ra vẻ thánh thiện của người ta.
Còn người tu dưỡng không đủ, cảnh giới tinh thần thấp thì trong tâm chứa đầy rác của lòng đố kỵ, tâm oán ghét, thói tự phụ, sự khoe khoang, một khi nhìn người khác thì chỉ thấy cái xấu xa, thấp hèn, đáng phê phán, nhìn bằng một tâm đố kỵ dâng đầy.
Tâm thái của bạn như thế nào sẽ quyết định cách bạn đối nhân xử thế ra sao. Chỉ trích người khác, soi mói cuộc sống của người xung quanh kỳ thực thường là do sự tu dưỡng của bản thân không đủ.
Sở dĩ gặp quá nhiều điều không thuận mắt không phải là vì người ta bị ghét bỏ, mà chính bởi thái độ đối nhân xử thế của họ có vấn đề.
thầy Pháp Hoà
3. Không đủ bao dung
Khi không đủ thiện tâm, bao dung, người ta nhìn gì cũng chẳng thấy vui. Chính là “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du), cũng lại là “Tướng tuỳ tâm sinh, cảnh tuỳ tâm chuyển” (Tướng mạo do tâm mà sinh ra, cảnh vật do lòng người mà thay đổi).
Nhìn một người không thuận mắt, thì người thấy khó chịu lại chính là bản thân mình. Không bao dung cho người hoá ra chính là không thể từ bi với bản thân, không cho bản thân một lối thoát.
Mỗi người có một cuộc đời, số phận đã được định mệnh an bài sẵn. Tiền tài, danh vọng, quyền lực… không phải do tranh giành mà có được, nếu có được cũng chẳng lâu bền. Phúc phận của người ta được quyết định bởi cách sống và thái độ ứng xử trên đời. Sống tốt thì có phúc báo, bao dung, lấy thiện đãi người thì ắt được thanh thản, thoải mái.
Không vừa mắt với người khác chính là do thấy họ khác mình quá xa, có thể hơn, có thể kém mình. Nhưng kỳ thực, mỗi người sinh ra đều có một cuộc đời khác biệt nhau từ đầu. Mọi sự khác biệt đều có thể bao dung, đều có thể dùng lòng từ bi mà dung chứa, đó mới là cảnh giới cao nhất của đạo làm người.
Vậy nên, đừng quá bận tâm người khác sống ra sao
Bạn có cuộc sống của bạn, tôi có truy cầu của tôi, mỗi người đều là những bông pháo hoa khác nhau.
Con người có cả trăm kiểu, mỗi người lại có một cảnh giới cao thấp khác nhau. Người có tầng thứ cao thường chỉ chú tâm tới cuộc sống của mình, không đố kỵ và ghét bỏ người khác, lại luôn âm thầm nỗ lực, tu sửa bản thân.
Còn người ở tầng thứ thấp mới bỏ mặc đời mình, quá chú tâm tới cách sống của người khác. Họ nhìn người khác không thuận mắt, thấy toàn chuyện trái tai gai mắt, cuộc sống ngột ngạt biết bao. Họ đã đánh mất đi hoàn toàn cái ngây thơ, hồn hậu thuở ban đầu của mình với cuộc sống này.
Và bạn hãy nhớ:
Không bình phẩm người khác là một loại tu dưỡng nhưng không để ý đến những bình phẩm của người khác lại là một loại tu hành.
http://maygiangphap.com/tin-tuc/rat-hay-nen-chia-se/