-
https://m.facebook.com/tamlinhconngu...29698903868902
Tôn thần bản gia Thổ Công Địa chủ Ngũ phương Vạn phúc phu nhân.
Bản gia Đông trù Tư mệnh Táo phủ thần quân.
Bản xứ Thổ địa Phúc đức chính thần. Ngũ phương Long mạch Tiền hậu Địa chủ tiếp dẫn Tài thần.Liệt chư vị tôn thần bản gia (Nếu thờ Thần cùng Gia Tiên thì lễ thỉnh thêm đường khấn Gia tiên họ tộc).
https://es-la.facebook.com/thayquyco...16548098499865
==============
Khoa lễ đương niên đương cảnh
Khoa lễ đương niên đương cảnh
* Hương phụng hiến, cúng dàng thái tuế Lý Vực Quan, kiểm sát cát hung du thế giới, quyền hành thiện ác giám nhân gian tín chủ thành tâm, kiền khẩn đảo nguyện kỳ tích phúc bảo bình an
* Phù dĩ pháp duyên bài biện lễ vật cụ trần dục nghinh thái tuế dĩ lai tâm, tái vọng thành hoàng đồng chứng giám Tư bằng chú lực dụng khiết hoa duyên giáo hữu tịnh uế chân ngôn cẩn đương trì tụng
+ Án bắc đế tra thiên thần La na địa tra sa hạ (3 lần )
Thiết dĩ thánh hiền tuy viễn, phàm hữu cảm dĩ giai thông, ẩn hiển hà thù cố sở cầu nhi tất dĩ kim phần hương kiền thành cúng dàng. Đương niên hành khiển trí đức tôn thần, đương cảnh thành hoàng bản thổ đại vương, kiểm sát nhân gian, tuần hành thế giới, khứ tai khứ họa, cấp như mãnh hỏa tu du giáng phúc giáng tường tốc nhược uy phong khoảnh khắc, từ bi tại niệm, thiện ác tòng tâm, giáng phó pháp duyên chứng minh đau khổ
Kim cứ vì Việt Nam… xã phường… số nhà
Tên tuổi… tình chỉ kỳ vì dục bảo bình an, cung trần lễ đảo, thủ kim nguyệt cát nhật, kiến thỉnh mệnh tăng, tưu vu (gia tư) sứ thu tuyên diễn thỉnh chân ngôn cẩn đương trì tụng.
- Dĩ thử linh thanh thân triệu thỉnh
- Đương niên đương cảnh tất văn tri
- Ngưỡng bằng tam bảo lực gia trì
- Nguyện tại kim thời lai giáng phó
+ Nam mô bộ bộ đế lị dá lị giá lị đát đa nga đá da. (7 lần)
+ Thượng lai triệu thỉnh chân ngôn tuyên dương dĩ kính chúng đẳng kiền thành thượng hương nghinh thỉnh.
* Nhất tâm phụng thỉnh thượng thừa đế mệnh, bình an nhân gian thiện ác chi hành, hạ chiếu dân tình, định số cát hung chi diệu, kim niên hành khiển thái tuế trí đức tôn thần, công tào quan hành binh bộ chúng.
- Duy nguyện lễ thiên địa phát sinh chi đức trừ phần khí dẫn xuân phong, hoàng càn khôn hóa dạc chi nhân, tiêu tai thành vận giáng phó hương duyên chứng minh công đức hương hoa thỉnh.
+ Thượng lai triệu thỉnh chân ngôn tuyên dương dĩ kính an tọa chân ngôn cẩn đương trì tụng.
- Niên cảnh nhị tôn đồng giáng hạ,
- Khoát nhiên tâm nguyệt thính gia đà
- Tùy phương ứng hiện biến quang minh
- Nguyện giáng pháp duyên an vị tọa
* án tra ma la sa ha (7 lần)
* An tọa chân ngôn tuyên dương dĩ kính nhiếp bị bài nghi, thượng hiến tôn từ phủ thủy nạp thụ, tín chủ kiền thành thượng hương phụng hiến.
(chú biến thực cam lộ)
Phục vọng thần từ; trức tư sở chí, thậm đa lễ vật cụ trần đa thiểu dục linh dục túc, tất đáo gia trì, biến thiểu thành đa, hóa vô vi hữu, pháp chúng huyền ngôn cẩn đương trì tụng.
- Tự nhiên thiên trù thực
- Vô lượng diệc vô biên
- Tùy niệm giai dục túc
- Liệt vị tiền cúng dạng
* Thần quang bất muội thánh nhãn phi giao cụ hữu sơ văn cẩn đương tuyên đọc (đọc sớ )
* Thượng lai văn sớ tuyên đọc dĩ chu, động giám vô tư mật thùy chiếu giám, kim hữu sớ văn, dụng bằng hỏa hóa.
+ án bạt dà lư ly chỉ linh sa hạ (7 lần)
(tụng bát nhã hồi hướng)
Thượng lai lễ đương niên đương cảnh, sự tất vô ngần, lương nhân khể thủ hòa nam, tam tôn thánh chúng.
Hết
http://www.dongaphu.vn/2011/08/khoa-...uong-canh.html
-
[转载]土地公签卦与福德老爷灵签28
2014-05-21 00:47阅读:2,107
原文地址:土地公签卦与福德老爷灵 28
原文作者:剑胆琴心的心
土地公签卦与福德老爷灵签
一、土地公签卦
一 .三圣杯:
卦曰:参宿星吉,君不用疑,所求称 ,好大家知.
解曰:好花芳菲,未曾结籽, 风吹着,依旧和平,故事相同.
断曰:讼吉事好,病可安,财 婚平,行人至,小儿有难但命大,应 宿.
二 .三笑杯:
卦曰:皎月挂云,鱼上水滩, 月戏鱼,上下两闲.
解曰:天地祥和,龙门方开, 名守得,好事自来,东风不顺,祇于 州.
断曰:讼平财无,病作福,行 至,孕男婚可求,有耕有收,应科应 信.
三 .三阴杯:
卦曰:女子不媒,通音就是, 阳对调,应有天意.
解曰:卦有异象,暗内穿针, 得小心,凡事莫急.
断曰:讼凶财有,觅物不见, 平孕女,急作福,应一五十五头凶尾 .
四 .圣圣笑:
卦曰:角声三弄,无雪心寒, 君休虑,眷多骄蹇.
解曰:哑子得梦,前程阻扰, 人扶事,喜得平安,到老双全.
断曰:讼凶财平,行人止,婚 孕男,家宅安,应三六九.
五 .圣圣阴:
卦曰:亢宿金龙,行子丑宫, 身在未,且避他乡.
解曰:缺月再圆,并蒂莲开, 年宝镜,故月重新,依旧成双.
断曰:讼吉财有,行人至,婚 孕女,月底吉,应二四八子丑日求财 吉.
六 .圣笑圣:
卦曰:昂戴日,炎焚茅,去雨 ,被他磨.
解曰:凿石得玉,淘沙见金, 船过滩,前程有路,贵人扶持.
断曰:讼平病难,行未至,婚 孕男,财有望,应月运.
七 .圣笑笑:
卦曰:奎星振兴轮,汝且听知 ,上看十一口,下看十八分.
解曰:劝读书,功名遂,清云 路,开山得宝,宽心待时.
断曰:财无孕女,物自找,缘 终成,病作福,鸡鸣大命无事,应季 .
八 .圣笑阴:
卦曰:毕竟风起,定招客惊, 高秋爽,还有月明.
解曰:人生志健,星宿相扶, 天动地,得水还衬,明月照旧,二次 吉.
断曰:财有讼平,行未至,婚 孕女,诸 事大吉,病占卦吉,应星月.
九 .圣阴圣:
卦曰:虚心拜神,世事灵灵, 求称遂,颇知汝情.
解曰:日月被云遮,云开依旧 ,前世婚缘,万物生来.
断曰:讼吉财无,行人至,凡 平隐,应一五七.
十 .圣阴笑:
卦曰:娄氏头载米,身穿子路 ,人人道是,我且堪疑.
解曰:一时鲤鱼变成龙,西京 路直透天,平安走马,顺利行舟.
断曰:讼吉财有,宜有志,婚 孕男,宜作福应潮信.
十一.圣阴阴:
卦曰:胃腹调,睡一宵,在他 ,我无聊.
解曰:自食恶果,寒心鬼扰, 事虽成,不宜安身.
断曰:讼凶病平,行人止,凡 凶险应时.
十二.笑圣圣:
卦曰:箕帚是扫泥,一朝便得 提.
解曰:身闲不闲卜中知,知足 乐自有福.
断曰:讼吉财有,事可成,婚 孕男,病可安,有耕有收,应潮信.
十三.笑圣笑:
卦曰:柳舞风,西又东,行人 ,作老翁.
解曰:万里家州好,作事虎问 ,饶人不可进,息人应自洁.
断曰:讼平病凶,求财难,小 不吉,婚不成,凡事应季节,头好尾 .
十四.笑圣阴:
卦曰:甘井泉,熏南风,呼童 ,上高峰.
解曰:逢事须心诚,自有贵人 .
断曰:讼吉财有,仙人至,婚 孕男,病可安,应求者.
十五.笑笑圣:
卦曰:张舍出贤,流传年年, 头归真,好事连绵.
解曰:前人栽果后人收,凡事 疑不可取,当时进步,退后难留.
断曰:讼平财无,行人止,婚 孕女,病作福,晨散午后大吉应时.
十六.笑笑阴:
卦曰:斗称不公平,到底亦相 .
解曰:摘来钱财,如何得久, 伤和气,且宜退后,多种善果,恶事 为.
断曰:讼吉财无,行人至,凡 终成,婚不成应时.
十七.笑阴圣:
卦曰:翼风万里,志在云霄, 云忽起,异姓同骄.
解曰:志同道合能成事,开花 春喜气扬,步步相宜,宅旺家兴.
断曰:讼凶病吉,行人至,财 婚好,宜祈福,事应月底大吉.
十八.笑阴笑:
卦曰:若要心头快,青云足下 .
解曰:好花冽雪里,开时不遇 ,宜退不可进,宜守免灾殃.
断曰:讼吉病安,行可至,财 孕女,婚不成应月令.
十九.笑阴阴:
卦曰:心事未分明,又恐被鬼 ,细思犹难解,暗路失明灯.
解曰:人逢恶贼心存扰虑,虽 贵人徒劳开心,休贪他人马,自失手 牛.
断曰:讼平病凶,行人止,财 孕女,婚不遂,应五六七九,占此卦 .
二十.阴圣圣:
卦曰:头尾相似,不寒不温, 人觅宿,就近山村.
解曰:先取无长,后取无短, 事迟疑,眼前未遂,日后遇时,云开 日,依旧光辉.
断曰:讼吉财有,行未至,婚 孕男,急病应时.
廿一.阴圣笑:
卦曰:星辰灿烂,河汉相通, 女相见,泪后西东.
解曰:牛郎识女难会,佳期好 难过,不可向前.
断曰:讼平财无,病祈福,好 男,多折磨,应月令应七.
廿二.阴圣阴:
卦曰:危途千里外,山水两悠 .
解曰:他要进前,事有难言, 中得宝,醒后全无.
断曰:讼凶财无,凡事空,病 孕女,婚不成,应作福.
廿三.阴笑圣:
卦曰:轸当未位,想不甘心, 有不合,依然自吟.
解曰:世事混沌没定数,劝君 心莫嗟迟,
天高地低原有意,远处 景不胜情.
断曰:讼凶财有,行人至,婚 孕男,凡事成,有种有收,应五六七 .
廿四.阴笑笑:
卦曰:牛饱眠,牧童前,人知 ,快如仙.
解曰:无私作事最开心,前路 阻必有因.
断曰:讼平孕女,婚不成,财 病凶,急作福应,季节而行.
廿五.阴笑阴:
卦曰:鬼崇作殃,事要关防, 中走马,四蹄尽伤.
解曰:往事劳伤,求财问事, 破人亡,食无求饱,居无求安.
断曰:讼凶财失,凡事凶,婚 孕女,行人止应一五七.
廿六.阴阴圣:
卦曰:山中瑞草,摘取艰难.
解曰:凡事多磨,小船过河, 急滩险,往西无路,石头粉碎.
断曰:讼平财无,行人至,病 孕男,婚不好,应六七九.
廿七.阴阴笑:
卦曰:低头偷看,暗想佳人, 君舌巧,恐未成亲.
解曰:求财问事,退步回头, 费心机,贪财人散.
断曰:讼吉财难,行人止,病 婚未,孕妇负应潮信.
廿八.竖杯:
卦曰:嘴占碧玉,人知吉凶, 君退步,恐堕坑中.
解曰:神龙伐恶,吉者没事, 人遭殃,天诛地灭,会有预兆.
断曰:讼凶事恶,财免问,婚 孕绝,天行道全应.
二、福德老爷灵签
福德正神签,有廿八签,每签用「驳 」掷在地下三次,组成一签,这样的 合共廿七签。三次掷杯之中,如有一 杯或二杯竖起,称之竖杯,是神灵的 重示警。
「驳杯」,用老竹的根茎部,切 二至五寸长,头尾细中间粗,对半切 ,竹节越多越好。轻轻掷地有声,有 清脆的响声为佳。而传统的「驳杯」 寸长,隐其五方五土土地长出之意, 多内实喻求签人之节义分明,心诚意 实,非邪心诈术也。
杯每次掷下,二杯的内切面都向 ,称「笑杯」或「阳杯」。
杯每次掷下,二杯的外表面都向 ,称「阴杯」。
杯每次掷下,一杯内切面一杯外 面向上,称「圣杯」或「胜杯」或「 杯」。
杯的内切面称「阳」,杯的外表 称「阴」。善信如用古铜钱或硬币作 来求签亦可,正面为阳,背面为阴。
求签时,应摒弃杂念,诚心诚意 默祷事由,恭请神明指示,双手奉杯 起,将二杯并合,轻轻掷下,即是一 杯,合掌谢过神灵之后,再拾取地下 杯,如是者三次得三驳即一签。求签 ,应跪拜谢神。
第一类
一. 三圣杯:上签.郭子仪全禄.
福如东海寿南山,君尔何故苦 间?
富贵荣华天注定,太白贵人守 边。
凡事大吉,暗劝世人.
二. 三笑杯:上吉.四皓八仙,十 学士.
风恬浪静好行舟,高歌鼓舞乐 悠;
四皓八仙齐畅饮,十八学士登 洲。
功名大吉,出外大吉.
三. 三阴杯:下下.武则天坐天.
鬼门关上撞无常,破船更遇浪 风;
久远冤家相罗网,运交吉时也 殃。
暗阴有财气,光阳则不吉.
四. 圣圣笑:中平.孔子在陈.
哑子得梦事难言,瞎子穿针更 然;
九曲明珠穿得过,在陈绝粮全 贤。
凡事艰难,有贵人助.
五. 圣圣阴:上吉.王安石小登科
宝镜团圆似月明,琴瑟和鸣畅 情;
红杏枝头春意闹,登科一举状 名。
照时婚姻买卖大吉,初一至十 求大吉.
六. 圣笑圣:中平.刘福妻劝夫.
叶落根深霜不怕,枯木逢春再 芽;
虽是中间多进退,钱财到底属 家。
求财照时吉,事磨但终成.
七. 圣笑笑:中平.张飞义释严颜
梅花冻雪抖芳菲,江上渔翁把 飞;
夜静水寒鱼不饵,满船空载月 归。
凡事平常,心诚运至.
八. 圣笑阴:上吉.刘秀兴汉.
皇天降下紫微星,除妖灭怪得 宁;
二十八宿扶圣主,汉王家国再 兴。
暗时星出大吉,凡事二次大吉
九. 圣阴圣:上吉.舜历山耕田.
富贵总是天注定,五谷丰登胜 年;
共享太平歌舜日,含哺鼓腹乐 天。
凡事大吉,白天大吉.
十. 圣阴笑:中吉.吕蒙正破窑齐 .
鲤鱼志气本英雄,屈守池中运 通;
一旦峥嵘头角现,风云际会化 龙。
求财潮涨吉,出外风雨吉.
十一.圣阴阴:下下.韩信逼钟离眛 刎.
白虎出山欲害人,鱼入罗网难 身;
害人之心则害己,飞虫扑火自 生。
宜守本份,谨防口舌.
十二.笑圣圣:中吉.太公遇文王.
太公钓鱼八十秋,除商灭纣再 周;
民安国定太平日,江山万里任 游。
凡事照旧,潮涨大吉.
十三.笑圣笑:下下.夷齐耻食周粟
鱼在小涧生长难,深处安身浅 寒;
清冷香中抱膝吟,夷齐饿死首 山。
头好尾衰,财气趋淡.
十四.笑圣阴:中吉.释迦,老君, 宗,梁纥.
释迦幻化妙应身,老君拋送玉 麟;
真宗求嗣生太子,梁纥祷丘出 人。
诚信立世,有求必应,添油向 .
十五.笑笑圣:上吉.观音渡众生.
日上东方如火轮,十分光彩照 坤;
二十四气尽清洁,一年四季太 春。
凡事大吉,日照大吉.
十六.笑笑阴:中平.朱寿昌弃官寻 .
一盏孤灯对面休,富贵钱财水 舟;
任他险处不见险,主人有福再 油。
凡事不须强求,向善即逢凶化 .
十七.笑阴圣:中吉.桃园结义.
三人各姓同一心,桃园结义情 深;
山中石头皆是宝,运来都能变 金。
凡事人和,能成事业.
十八.笑阴笑:中平.程咬金遇赦.
囚人出禁上酒楼,畅饮宽杯解 头;
劝君慎忍一时气,非干己事且 饶。
宜守本份,以退为进.
十九.笑阴阴:下下.梅妃的故事.
若要求财未得时,只恐鬼贼相 害;
关门闭户家中坐,灾祸偏从天 来。
遇事不吉,须防小人,防患灾 .
二十.阴圣圣:笑中吉.苏小妹答诗
夫妇有意两相求,绸缪未合各 愁;
心有灵犀一点通,天注姻缘不 忧。
逢春大吉,暗事大吉,凡事有 .
廿一.阴圣笑:中吉.七夕相会.
牛郎织女各天边,阻隔银河路 然;
百年富贵风前烛,一旦荣华云 仙。
凡事无实,财气五分.
廿二.阴圣阴:中平.后羿射日,嫦 奔月.
张弓射日总虚空,朽木难雕白 工;
平生常念千声佛,作恶枉烧万 香。
凡事慎言,事满招损.
廿三.阴笑圣:中平.刘文定买父.
雷霆霹雳震虚空,天公差我察 凶;
积善之家有余庆,积恶之家有 殃。
作事应随运,求财遇春吉.
廿四.阴笑笑:中平.伏羲画八卦.
伏羲八卦最精灵,六十甲子推 星;
暗虚亏心天地见,举头三尺有 明。
隐
http://blog.sina.cn/dpool/blog/s/blo...50101fnqy.html
-
Hán văn: chỉnh lý Nhiên Đăng tạp chí biên tập bộ
Việt dịch: HUYỀN THANH
Nguồn: Kinh Mật Giáo
Liên Sinh Hoạt Phật (Phật sống Liên Sinh) thường thường dạy bảo Đại Gia niệm một Chú Ngữ ấy. Chú Ngữ ấy chẳng phải là Đại Chú, chẳng phải là Bí Mật Chú, chẳng phải là Phóng Đại Quang Minh Chú, chẳng phải là Vô Đẳng Đẳng Chú, chẳng phải là Vô Thượng Chú, mà là Tiểu Chú Ngữ phổ thông, ngay trên bất kỳ Kinh Điển nào đều có thể nhìn thấy rất bình thường. Bình thường đến độ khiến cho nhiều người xem thường điều ấy. Điều ấy chính là “An Thổ Địa Chân Ngôn”
Chú này như bên dưới: “Nam ma tam mãn đa mẫu đà nam. Ông, độ lỗ độ lỗ, địa vĩ, thoa cáp”
NAMAḤ SAMANTA BUDDHANĀ_ OṂ DHURU DHURU DHIVI SVĀHĀ
(Theo người dịch thì câu Chú này là: NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ OṂ DHURU DHURU DEVĪ SVĀHĀ)
Liên Sinh Hoạt Phật trung thực mách bảo cho Đại Gia chính là Chú Ngữ ấy, thuận theo có thể dùng cải biến vận mạng, cái ấy chẳng phải là An Thổ Địa Chân Ngôn ư? Chẳng sai lầm, chỉ là cái ấy có đủ lực lượng lớn để cải biến vận mạng, chân chính chẳng phải đột nhiên nhìn thấy
Có người trì An Thổ Địa Chân Ngôn thời da dẻ bị bệnh tật đã lâu rất khó chữa trị, đều được khỏi
Có người, khuôn mặt có My Khí một đời nghèo khó, do lâu dài trì An Thổ Địa Chân Ngôn được ánh sáng Phước chiếu mệnh, nên mạng vận sửa đổi hoàn toàn, chuyển nghèo thành giàu có.
Có người trì An Thổ Địa Chân Ngôn trọn mười năm chẳng mang thai, lại có con
Có người trì An Thổ Địa Chân Ngôn mà một đời mạnh khỏe không có bệnh.
Có người trì An Thổ Địa Chân Ngôn được nhân duyên tốt, trên sắc mặt (hoặc gò má) của người ấy hiện ánh sáng màu hồng.
Có người trì An Thổ Địa Chân Ngôn, mọi việc xưa nay chẳng thuận lợi, cuối cùng mỗi mỗi loại đều thuận lợi, không có một việc nào chẳng như ý.
Có người trì An Thổ Địa Chân Ngôn, trong sự khen thưởng lớn, quay trở lại mách bảo cho Đại Gia một bí mật ấy. Bí Mật ấy xưa nay chẳng thể nói, chỉ cần nhẫn chịu chẳng trụ, chẳng đắc được, chẳng nói… anh chị chỉ cốt yếu thường trì An Thổ Địa Chân Ngôn, đầy đủ “Lạp Tư Duy Gia Tư” gắng sức thì anh chị gặp được sự đặc biệt như ý.
Trì lâu dài Chú Ngữ ấy, căn bản không có người đề xướng, chỉ có Liên Sinh Hoạt Phật đề xướng. Liên Sinh Hoạt Phật lãnh ngộ đầy đủ một nguyên lý: học Phật đương nhiên có thể dùng cải biến mạng vận. Học Tiên cũng có thể dùng cải biến mạng vận. Chỉ cần trực tiếp niệm An Thổ Địa Chân Ngôn thì sự cải biến mạng vận ấy liền thay đổi trực tiếp.
Điều thiết yếu cải biến mạng vận của chính mình là nắm giữ then chốt của Tạo Hóa, đích xác dùng một loại Pháp Thuật nào, đều cần thiết phải hợp với Khế Cơ, khế hợp với Cơ Duyên. Còn chỉ cốt yếu niệm An Thổ Địa Chân Ngôn thì hơn hẳn ngàn lần, hơn hẳn vạn lần, hơn hẳn ức lần. Một lòng phụng trì thì ánh sáng Phước của Địa Thần chiếu mạng, ắt có thể cải vận. Điều ấy là chân thật vậy.
17/01/2014
https://www.facebook.com/chanphatmat...69430743278399
-
-
-
Saturday, March 4, 2017
TÀI THẦN (財神)
Ai cũng muốn giàu sang, ai cũng mong tài lộc dồi dào, cho nên ai cũng phải thờ cúng ông Thần Tài để cầu nguyện cho giàu sang phú quý. Theo truyền thuyết TQ ông Thần Tài không chỉ một mà có rất nhiều tùy từng địa phương và phong tục bản xứ. Tôi đọc qua một tài liệu TQ, sơ sơ có 16 tên Thần Tài và từ sáng tới giờ tôi phải dò tới dò lui trên mạng để tìm hình mấy ông Thần Tài TQ để giới thiệu qua cho các bạn biết mặt. Tin ông nào hay có duyên với ông nào thì thờ ông đó. Tôi sẽ giới thiệu Thần tài VN ở bài sau.
Bây giờ mời các bạn tìm hiểu và chiêm ngưỡng dung nhan các vị Thần Tài TQ qua bài dịch sau đây:
TÀI THẦN TRONG DÂN GIAN CÙNG DỊ THUYẾT
Rốt cuộc ai là Tài Thần có rất nhiều thuyết, do bởi địa phương khác nhau, ngành nghề khác nhau. Dưới đây nêu lên một số thuyết.
https://4.bp.blogspot.com/-5ZiFNqyqh...CEw/s640/1.jpg
- Ngũ Lộ Tài Thần 五路財神: Huyền Đàn Chân Quân Triệu Công Minh 玄壇真君趙公明 cùng 4 vị thần linh nắm giữ tài phú gồm Chiêu Bảo Thiên Tôn 招寶天尊, Nạp Trân Thiên Tôn 納珍天尊, Lợi Thị Tiên Quan 利市仙官, Chiêu Tài Sứ Giả 昭財使者 ở Chung Nam sơn 終南山 Thiểm Tây 陝西.
- Thủ Tài Chân Quân 守財真君: Tỉ Can 比干 trong Phong thần diễn nghĩa 封神演義, là trung thần của triều Thương, bị Trụ vương mổ tim mà chết. Vũ Vương thắng nhà Ân, Khương Thái Công 姜太公 phong Tỉ Can là Văn Khúc Tinh Quân 文曲星君, Đạo giáo tôn ông là Thủ Tài Chân Quân守財真君. Dân gian cho rằng Tỉ Can không có tim nên không thiên vị, tôn là “Tài Thần”, cũng nhân vì Tỉ Can là một văn thần, nên cũng được gọi là “Văn Tài Thần” 文財神.
https://2.bp.blogspot.com/-g0qi0875B...CEw/s640/3.jpg
- Tăng Phúc Chân Quân 增福真君: quan viên Lí Quỷ Tổ 李詭祖 thời Hiếu Văn Đế triều Bắc Nguỵ yêu dân như con, thường lấy bổng lộc bố thí cho dân nghèo, dân cho là có đức. Sau khi mất, ông được tôn làm Tài Thần.
- Thiên Quan Đại Đế 天官大帝: trong Đạo giáo, Tam Quan Đại Đế chia nhau nắm giữ việc giáng phúc, xá tội và tiêu tai, trong đó Thiên Quan chuyên việc giáng phúc. Người Hoa có thuyết “Thiên Quan tứ phúc” 天官賜福.
https://3.bp.blogspot.com/-p8mAFkn6v...CEw/s640/5.jpg
- Thổ Địa Thần 土地神: đại bộ phận người Đài Loan cho rằng, Thổ Địa Thần có thể mang lại tài phú cho dân. Hương Cảng cũng có tập tục thờ Thổ Địa Tài Thần.
- Bố Đại hoà thượng 布袋和尚: truyền thuyết cho rằng Phật Di Lặc hoá thân thành Bố Đại hoà thượng. Nụ cười và bao bố của hoà thượng cũng thường được xem là tượng trưng cho hoan hỉ, chiêu tài, nên xem như là Tài Thần.
- Phúc Lộc Thọ tam tiên 福祿壽三仙: cũng gọi là “Tam tinh” 三星 là 3 vị thần nổi tiếng ở Trung Quốc. Phúc tinh, Lộc tinh, Thọ tinh đại biểu cho cát lợi.
- Đoan Mộc Tứ 端木賜: chính là Tử Cống 子貢, học trò của Khổng Tử 孔子, giỏi về ngôn ngữ, nổi tiếng về kinh thương, rất giàu có.
- Phạm Lãi 范蠡: chính trị gia nước Việt, về sau từ quan chuyên kinh thương làm giàu, hiệu xưng là “Đào Chu Công” 陶朱公.
- Ngô Vương Tị 吳王濞: phiên vương triều Hán, đúc tiền nấu muối, cự phú trong thiên hạ. Do bởi người con bị Hán Cảnh Đế giết nhầm nên đã phát động “thất quốc chi loạn”, cuối cùng bị chết trận.
- Hàn Tín 韓信: truyền thuyết cho rằng Hoài Âm Hầu Hàn Tín triều Hán phát minh ra nhiều dụng cụ đánh bạc, cung cấp cho binh sĩ vui chơi. Một số tay đổ bác cung phụng Hàn Tín, gọi ông là “Thiên Tài Thần 偏財神.
- Quan Vũ 關羽: truyền thuyết cho rằng Quan Vũ sở trường về cách ghi chép sổ sách, có thể bảo vệ lợi ích của thương nghiệp, tại Đài Loan, Hương Cảng, Nam Dương tương đối phổ biến. Cũng nhân vì Quan Vũ là một võ tướng, nên cũng được gọi là “Võ Tài Thần” 武財神.
- Hoà Hợp nhị thánh 和合二聖: cũng gọi là “Hoà Hợp nhị tiên” 和合二仙. Hàn San 寒山 và Thập Đắc 拾得 là hai vị cao tăng thời Đường Thái Tông, tương truyền là hoá thân của Văn Thù Bồ Tát 文殊菩薩và Phổ Hiền Bồ Tát 普賢菩薩. Hai người tình cảm hoà hợp, tượng trưng cho hoà mục và “hoà khí sinh tài”. Rất nhiều tranh tết lấy hai vị này làm chủ đề.
- Chung Li Quyền tổ sư 鍾離權祖師, Lã Thuần Dương tổ sư 呂純陽祖師: cũng gọi là “Chung Lã nhị tiên”. Tương truyền Chung Li Quyền và Lã Thuần Dương, hai người có thể “điểm thạch thành kim” (lấy đá biến thành vàng) nên một số thợ kim hoàn và thương nhân tôn làm Bảo Hộ Thần, Tài Thần.
- Lưu Hải Thiềm 劉海蟾: dân gian gọi là Lưu Hải 劉海, Tể tướng của Yên vương Lưu Thủ Quang 劉守光 thời Ngũ đại thập quốc. Về sau bỏ quan tu đạo (tương truyền là Chung Li Quyền hoá thân, Lã Thuần Dương truyền cho phép), đạo hiệu là Hải Thiềm Tử 海蟾子, là tổ sư phái Hải Thiềm của Đạo giáo toàn chân đạo. Dân gian tương truyền “Lưu Hải Thiềm đùa với con cóc vàng, mỗi bước nhả ra một tiền). Cóc vàng được xem là thần thú có thể ban cho tiền bạc, tượng trưng cho nguồn kim tiền tuôn tới, còn Lưu Hải coi giữ cóc vàng (Lưu Hải Thiềm) tượng trưng cho Tài Thần. Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt 忽必烈 phong là “Hải Thiềm Minh Ngộ Hoằng Đạo Chân Quân” 海蟾明悟弘道真君, Nguyên Vũ Tông gia phong là Đế Quân 帝君.
- Thẩm Vạn Tam 沈萬三: trong truyền thuyết dân gian là thương nhân triều Minh. Nguyên nhân Thẩm Vạn Tam giàu có là nhân vì có “tụ bảo bồn” 聚寶盆, thuyết kể rằng họ Thẩm có một chiếc chậu, đem bất cứ vật gì bỏ vào đều có thể biến thành trân bảo.
Dịch giả: Huỳnh Chương Hưng
(Sưu tầm trên mạng
http://luukhamhung.blogspot.com/2017/03/tai-than.html
-
當山土地尊神.
当山护教土地尊神.
当境土地尊神: ĐƯƠNG CẢNH THỔ ĐỊA TÔN THẦN.
当処土地尊神: đương xứ thổ địa thần.
本処土地尊神
Cung thỉnh bản cảnh sơn thần thổ địa liệt vị:.
Nguyện đương cảnh thổ địa long thần già lam chơn tể, thính tụng chơn ...
giống như viên đá bàn thờ Thần Thổ Địa (God of the Soil)
http://luanvan.co/luan-van/khao-sat-...ien-hue-38475/
http://nguyensongviet3979.blogspot.c...ng-tho-ky.html
https://www.slideshare.net/anhhng196...hoa-1-54146662
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...85%AC-)/page40
-
[PDF]Title フエ地域におけるキン族の城隍神と インフック村の 事例 Author(s ...
https://kuir.jm.kansai-u.ac.jp/.../2...ình%20Hang.pd... - Translate this page
by チャン,ディン・ハン - 2012
Mar 1, 2012 - 本境城隍霊応尊神、加贈広厚尊神(B n Cảnh Thành hoàng Linh Ứng tôn ...... 耕廟でもあり、本社当境城隍武叡胡 将軍尊神(Bản xã Đương cảnh ...
You've visited this page 2 times. Last visit: 3/21/18
https://kuir.jm.kansai-u.ac.jp/dspac...Cnh%20Hang.pdf
-
-
TỪ LỜI PHẬT DẠY TRONG KINH TRƯỜNG BỘ
NGHĨ VỀ VIỆC CẦU, CÚNG THẦN TÀI.
Chúc Phú
Hết thảy do hành nghiệp, cầu Trời ích lợi gì?[1]
1. Đề dẫn và định danh.
cung-than-taiCầu cúng thần tài là một trong những tín niệm phổ biến của nhiều thể thức tôn giáo ở Ấn Độ, xuất hiện từ thời cổ đại và tồn tại cho đến ngày nay. Đứng trước thực trạng đó, Đức Phật đã mở một lối đi riêng qua lời khẳng định trong kinh Trường Bộ:
Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn, dầu đã dùng các món ăn tín thí cúng dường, vẫn còn tự nuôi sống bằng những tà mạng. Như sắp đặt ngày lành để rước dâu hay rể, lựa ngày giờ tốt để hòa giải, lựa ngày giờ tốt để chia rẽ, lựa ngày giờ tốt để đòi nợ, lựa ngày giờ tốt để mượn hay tiêu tiền, dùng bùa chú để giúp người được may mắn, dùng bùa chú để khiến người bị rủi ro, dùng bùa chú để phá thai, dùng bùa chú làm cóng lưỡi, dùng bùa chú khiến quai hàm không cử động, dùng bùa chú khiến cho người phải bỏ tay xuống, dùng bùa chú khiến cho tai bị điếc, hỏi gương soi, hỏi phù đồng, thiếu nữ, hỏi thiên thần để biết họa phước, thờ mặt trời, thờ đại địa, phun ra lửa, cầu Siri thần tài. Còn Sa-môn Gotama tránh xa các tà mạng kể trên[2].
Trong đoạn kinh trên, vấn đề trọng yếu nằm ở câu cuối. Đó là sự kiện Đức Phật không cho phép cầu Siri thần tài (sirivhāyanaṃ)[3]. Vậy, thực sự vị đó là ai?
Siri thần tài được định danh với nhiều tên gọi như thần May mắn (siridevatā)[4], nữ thần Śrī, nhưng tên gọi phổ biến nhất chính là nữ thần Lakṣmī (लक्ष्मी)[5], vợ của thần Vishnu[6]. Dấu hiệu xưa nhất của vị nữ thần लक्ष्मी (Lakṣmī) có mặt trong Atharvaveda (VII.115.2)[7]. Trong kinh Tiểu Bộ, vị nữ thần này cũng xuất hiện trong ba truyện tiền thân (Jataka) mang số 40, 284, 382.
Trong Hán tạng, vị nữ thần này được phiêm âm hoặc dịch nghĩa trong vô số tên gọi như Lạc-khất-sử-mính (洛乞史茗 = Lakṣmī), Thất-lợi (室唎 = Śrī)[8], Ma-ha-thất-lợi (摩訶室利 = Mahā Śrī), Cát-tường thiên nữ (吉祥天女), Đại cát tường thiên nữ (大吉祥天女), Công đức thiên (功德天)[9]…Tuy đa dạng về tên gọi nhưng thực chất cũng chỉ là tên khác của Siri thần tài, theo ghi nhận trong kinh Trường Bộ.
2. Nguồn gốc và tập tục thờ cúng thần tài ở Ấn Độ.
Trong tín niệm đa thần của Ấn Độ, có nhiều vị nữ thần có công năng ban phúc phát lộc cho những ai phát tâm quy ngưỡng. Trong số đó phải kể đến thiên nữ Thất-lợi (室唎= Śrī), phối ngẫu của Vishnu và thiên nữ Tỳ-ma (毘摩天女= Parvati), phối ngẫu của thần Shiva. Ngoài ra còn có Biện tài thiên nữ (辯才天女 = Sarasvatī) là phối ngẫu của Phạm thiên (Brahma). Cả ba vị nữ thần này thống hợp nhất thể với ba vị thần Brahma, Vishnu và Shiva[10] và đều có chức năng đóng vai trò thần tài cho bất cứ ai phát tâm cầu nguyện và thờ cúng.
Tư liệu khả tín về một trong ba vị thần tài được ngài Huyền Tráng (602-664) xác tín trong tác phẩm Đại đường tây vức ký, quyển hai:
Từ thành Bạt-lỗ-xa đi hơn 50 dặm về phía Đông Bắc thì đến núi cao. Núi này có một tảng đá xanh mang hình dáng phu nhân của vua trời Đại-tự-tại (Shiva), là Tỳ-ma-Thiên nữ (毘摩天女). Nghe phong tục địa phương kể rằng, tượng Tỳ-ma Thiên nữ này do thiên nhiên tác tạo và rất linh thiêng. Dân chúng các nước thuộc Ấn Độ, dù gần hay xa, dù sang hay hèn, thảy đều cùng đến cầu phước, cầu thọ, tuỳ tâm thỉnh nguyện. Bất kỳ ai muốn thấy được hình tượng Thiên nữ thì lòng phải chí thành, tâm phải chuyên nhất, nhịn ăn bảy ngày, nếu thấy được tôn nhan thì sở nguyện sẽ viên thành[11].
Theo huyền thoại và truyền thuyết Ấn Độ, thiên nữ Lakṣmī, cũng còn gọi là Śrī[12], được sinh ra từ sự khuyấy động biển sữa (The churning the milk ocean), trong quá trình tìm kiếm bình nước bất tử (amṛta: अमृत), giữa các vị chư Thiên và chúng A-tu-la (Asura). Lakṣmī là thiên nữ chủ về sắc đẹp, tình yêu và sự thịnh vượng[13].
Trong truyền thống Ấn giáo, việc kính lễ thiên nữ Lakṣmī có thể thực hiện hằng ngày. Tuy nhiên, đại lễ tôn vinh nữ thần Lakṣmī diễn ra trong tết Diwali hay còn gọi là Dīpāvali được diễn ra vào tháng Kartika theo lịch Ấn Độ, hiện còn được sùng phụng cho đến ngày nay[14].
Thần chú về thiên nữ Lakṣmī rất phong phú và đa dạng tùy theo tập tục, vùng miền, tuy nhiên điểm chung nhất là sự tôn kính, kính lễ (namo) thiên nữ Lakṣmī[15].
3. Vài cứ liệu về thiên nữ Lakṣmī của Ấn giáo trong Phật giáo Bắc truyền.
Trong quá trình du nhập và phát triển tại Trung Hoa, các nhà hoằng pháp buổi đầu đã vận dụng chú ngữ làm phương tiện bổ trợ. Một trong những đại diện tiêu biểu cho phương cách giáo hóa đặc thù này chính là ngài Đàm-vô-sấm (385-433).
Theo Cao Tăng Truyện, ngài Đàm-vô-sấm vốn người trung Ấn Độ, mười tuổi đã đọc thông nhiều thể loại thần chú. Ông rành rẽ các loại chú thuật và đạt được nhiều thành tựu trong lãnh vực này. Cụ thể, ông đã gia tâm trì mật chú để mạch nước có thể xuất hiện từ tảng đá khô (枯石生泉). Do thành tựu nhiều thể loại chú thuật nên ở Tây-vức ông được tôn xưng là Đại chú sư (大呪師).
Di sản dịch phẩm kinh điển do Đàm-vô-sấm để lại khá nhiều, trong số chúng có bản kinh Kim-quang-minh, gồm bốn quyển[16]. Với sơ khảo bước đầu cho thấy, bản kinh Kim-quang-minh có nhiều dấu hiệu kỳ đặc, pha tạp nhiều yếu tố ngoài Phật giáo. Vấn đề này, chúng tôi sẽ trình bày trong một khảo cứu khác.
Ở đây, riêng về bài thần chú cầu thần tài, nằm trong phẩm Công đức Thiên (功德天品)[17] trong bản dịch của ngài Đàm-vô-sấm, hoặc hoặc ở phẩm Đại cát tường Thiên nữ tăng trưởng tài vật (大吉祥天女增長財物品) trong bản dịch của ngài Nghĩa Tịnh (635-713)[18].
Bản thần chú của ngài Đàm-vô-sấm thì khuyết, thiếu ở phần đầu, bản của ngài Nghĩa Tịnh đầy đủ hơn nhưng do vừa phiên âm, vừa dịch nghĩa nên ít phổ biến. Tồn bản thần chú cầu thần tài trong kinh Kim Quang Minh theo chúng tôi hiện được sử dụng cho đến ngày nay được trích xuất từ Kim Quang Minh sám pháp bổ trợ nghi (金光明懺法補助儀)[19], được tập thành vào thời Tống Nhân Tông (1010-1063), do ngài Từ Vân sám chủ, húy là Tuân Thức (遵式: 964-1032)[20], bậc cao tăng thời Bắc Tống (960-1127).
Nguyên văn bài thần chú cầu thần tài trong bản dịch của ngài Đàm-vô-sấm cũng như của Nghĩa Tịnh không có phần đảnh lễ Tam Bảo (南無佛陀南無達摩南無僧伽). Riêng bản tập thành của ngài Tuân Thức thì gia thêm phần này. Toàn văn bài chú ấy như sau:
南無佛陀南無達摩南無僧伽南無室利 訶提鼻耶怛儞也他波利富樓那遮利 三曼陀達舍尼摩訶毘訶羅伽帝三曼陀 尼伽帝摩訶迦利野波禰波羅波禰薩利 栗他三曼陀修鉢梨帝富隸那阿夜那達 摩帝摩訶毘鼓畢帝摩訶彌勒帝婁簸僧 帝 醯帝簁僧祇醯帝三曼陀阿咃阿㝹婆羅 [21].
Phiên âm:
Nam mô Phật đà nam mô Đạt ma nam mô Tăng già nam mô thất lợi ma ha đề tị da đát nễ dã tha ba lợi phú lâu na già lợi tam mạn đà đạt xá ni ma ha tì ha la già đế tam mạn đà tì ni già đế ma ha ca lợi dã ba nễ ba la ba nễ tát lợi phạ lật tha tam mạn đà tu bát lê đế phú lệ na a dạ na đạt ma đế ma ha tì cổ tất đế ma ha di lặc đế lâu bá tăng kì đế ê đế si tăng kì ê đế tam mạn đà a tha a nâu bà la ni.
Bài thần chú này về sau được thâu nạp vào trong Chư kinh nhật tụng tập yếu, quyển Hạ[22], và từng bước đi vào thời khóa tụng kinh buổi sớm (晨朝課誦) của nhiều chùa, viện Phật giáo Bắc truyền, trong đó có cả Phật giáo Việt Nam, với tên gọi là bài chú Thiện thiên nữ (善天女咒).
Có thể nói, do đặc thù của Phạn ngữ là đa âm còn ngôn ngữ Trung Hoa là đơn âm, nên khi phiên dịch những bài thần chú từ Phạn sang Hán thì đã có nhiều khác biệt, tùy theo quy ước của các nhà phiên kinh. Riêng về bài chú Thiện thiên nữ, ngay câu đầu tiên là lời kính lễ thiên nữ Đại cát tường. Nói cách khác, đó vốn là bài chú liên quan đến thần tài Lakṣmī của Ấn giáo.
Theo tác phẩm Cổ Phạn văn Phật giáo chú ngữ toàn tập, tác giả Giản Phong Kỳ (簡豐祺) đã nỗ lực khôi phục Phạn ngữ bài chú này. Nguyên tác như sau:
namo buddhāya, namo dharmāya, namo saṃghāya. namo śri-mahā-devīya, tadyathā: oṃ paripūruṇa carye samanta darśanī mahā vihāra gate, samanta vidhānagate, mahā kārya pratiṣṭhāpane, sarvārtha samanta suparipūruṇe, āyāna dharmate mahā vikurvite, mahāmaitrī upasaṃhite, hite susaṃgṛhīte, samanta artha anupālane svāhā[23].
Nếu trừ đi câu đảnh lễ Tam Bảo đầu tiên được thêm vào, so với hai bản dịch của ngài Đàm-vô-sấm và của ngài Nghĩa Tịnh, thì câu: 南無室利摩訶提鼻 nguyên tác Phạn ngữ chính là namo śri-mahā-devīya. Nghĩa là, Kính lạy đại thiên nữ Śri.
Cũng câu thần chú này, nhưng có vài thay đổi chi tiết trong Nghi quỹ Hồng Ca Đà Dã (吽迦陀野儀軌)[24], do ngài Kim Cang Trí (671?-741)[25] trước thuật, đó chính là:
唵麼賀室唎提婆毘娑婆賀
(Án, ma hạ thất lợi đề bà tì sa bà hạ)
Căn cứ vào dòng ghi chú phía trên câu thần chú này, ở Nghi quỹ Hồng Ca Đà Dã, đã cho thấy đây là câu chú triệu thỉnh thiên nữ Cát tường (吉祥天女). Vị nữ thần có thể ban cho chúng sanh nhiều thứ như: bệnh tật thì sẽ được chóng lành, đói khát thì được no đủ, nghèo khổ thì có y vật, của báu…. Đặc biệt, trong phần quán tưởng khi niệm thần chú, phải tưởng đến hình ảnh lưu xuất từ biển sữa (乳海), giống như nguồn cội của thiên nữ Lakṣmī trong thần thoại của Ấn giáo.
Cùng mang nội dung liên quan đến thiên nữ Cát tường, bản kinh Phật thuyết Đại cát tường thiên nữ thập nhị danh hiệu (佛說大吉祥天女十二名號經)[26] do ngài Bất Không (705-774) phiên dịch. Bản kinh đã quảng diễn mười hai tên gọi khác nhau của vị thiên nữ này và những khả năng tương ứng với từng tên gọi. Đặc biệt, trong bài thần chú cũng chuyển tải một cách phiên âm mới của thiên nữ Lakṣmī là Lạc-khất-sử-mính (洛乞史茗).
4. Hiệu năng của chú ngữ và tham chiếu với lời Phật dạy.
Có nhiều bằng chứng cho thấy, nếu lòng thành khấn nguyện và trì tụng bài chú cầu thần Cát tường hoặc nữ thần Lakṣmī đúng pháp, tất sẽ tạo nên nhiều lợi lạc tức thời. Thực tế năng lực gia trì thần chú của ngài Đàm-vô-sấm ghi nhận trong Cao Tăng Truyện được gói gọn trong bốn chữ Sở hướng giai nghiệm (所向皆驗), đã phần nào chứng tỏ hiệu năng của thần chú nói chung và chú thần tài nói riêng.
Không những thế, trong kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương đã ghi nhận lời phát nguyện mang tính bảo chứng của thiên nữ Đại Cát Tường, rằng:
Bạch Thế Tôn! Nếu có người trì tụng thần chú này đúng như vậy để triệu thỉnh con, con nghe được lời cầu thỉnh, tức sẽ đến bên và khiến cho sở nguyện kẻ kia thành tựu[27].
Dẫu rằng cần phải khảo cứu lại tính thuần túy Phật giáo của bản kinh này, nhưng qua đó đã cho thấy nếu như trì tụng thần chú thần tài, cầu thỉnh thiên nữ Đại Cát Tường, tất sẽ có nhiều điều hoạch đắc.
Theo Phật tổ lịch đại thông tải, quyển 18, vào niên hiệu Thiên Thánh năm thứ tư (1026), triều Tống Nhân Tông, lúc ấy trời đại hạn, ngài Tuân Thức (遵式) cùng các vị Sa-môn dùng kinh Kim Quang Minh để cầu đảo thì mưa gió liền gội nhuần. Nhân đó, ngài Tuân Thức đã trước thuật Kim Quang Minh Sám Pháp bổ trợ nghi (金光明懺法補助儀)[28].
Từ thực tế kinh nghiệm của các bậc cổ đức trong chốn tùng lâm, mỗi khi cần tu bổ thiền lâm, hoặc lúc bị khuyết thiếu các vật dụng cần dùng thì các ngài tổ chức trì tụng chú Thiện thiên nữ. Người viết chưa thống kê đầy đủ về vấn đề này nên chưa rõ hiệu năng thực tế, nhưng được biết rằng, vào mỗi sớm mai, chú Thiện thiên nữ vẫn được trì tụng trong phần lớn các chùa, viện Phật giáo Bắc truyền.
Một điều cần phải thấy rằng, từ thực tế lịch sử đã chứng tỏ, những lợi lạc do thần chú, cụ thể ở đây là chú thần tài đưa đến là nhất thời và không có giá trị vững chãi, nếu không nói là chứa đựng nhiều nỗi sợ hãi, bất an. Câu chuyện về mối tương quan thầy trò giữa Thư-cừ-mông-tốn và ngài Đàm-vô-sấm được ghi nhận ở Cao Tăng truyện là một ví dụ cụ thể[29].
Vốn có cơ tâm, nên khi biết được khả năng chú thuật của Đàm-vô-sấm, Hà Tây Vương Thư-cừ-mông-tốn (河西王沮渠蒙遜: 368-433) đã triệu kiến ngài và tiếp đãi trọng hậu nhằm chủ ý phò trợ cho đế nghiệp của mình. Khi vương vị lung lay, ông cho rằng thờ Phật không thiêng (事佛無應) nên đã bức ép các vị Sa-môn dưới năm mươi tuổi hoàn tục. Không những vậy, khi hay tin Ngụy-lỗ-thác-bạt-đảo (魏虜託跋燾: 408-452) cầu thỉnh Đàm-vô-sấm vì khả năng chú thuật của ngài thì Thư-cừ-mông-tốn không vui. Thậm chí, ông còn tỏ ra buồn bực vì Đàm-vô-sấm nhiều lần xin phép đi Tây-vức tìm lại phần sau của kinh Niết-bàn. Lo sợ quân cơ bị tiết lộ, ưu tư về khả năng chú thuật của Đàm-vô-sấm có thể tạo thuận lợi cho kẻ thù, nên Thư-cừ-mông-tốn đã âm thầm sai thích khách giết hại ngài trên đường đi, vào niên hiệu Nghĩa Hòa (義和) năm thứ ba (433), khi đó ngài Đàm-vô-sấm mới được 49 tuổi.
Trước khi đại nạn xảy ra, ngài Đàm-vô-sấm đã cơ cảm về cái chết của mình, thế nên vào ngày khởi hành, ngài đã rơi lệ mà bảo chúng rằng: Nghiệp cũ của Sấm sắp đến. Chư vị Thánh hiền cũng không thế cứu vậy.[30]
Với một bậc thầy về chú thuật, được tôn xưng là bậc Đại chú sư (大呪師), thế nhưng vẫn không thể vượt qua được nghiệp cũ của mình, thế mới hay việc vận dụng nhuần nhuyễn các thể loại thần chú, mà ở đây là chú thần tài không thể vượt qua nghiệp quả, quả đúng như sự ghi nhận trong Tỳ-nại-da:
Mạng người khi nghiệp tận,
Chú thuật hoặc y phương,
Đều không thể cứu được,
Thần tiên hoặc thánh hiền,
Đành xuôi tay, buông bỏ.[31]
Tương tự, câu chuyện được ghi lại trong kinh Tạp Bảo Tạng là một minh họa sống động về việc cầu khẩn thần tài, lược truyện như sau.
Có hai anh em nghèo khó nhưng tính cách khác nhau. Người em thì siêng năng làm lụng để được giàu có, còn người anh vì muốn nhanh giàu có nên không chịu làm gì mà chỉ cầu vị trời Tỳ-ma, chủ về thần tài.
Một thời gian sau, vị trời Tỳ-ma liền hóa hiện thành người em đến thăm anh. Người anh liền cáu gắt, nói: sao em không lo trồng tỉa mà đến đây làm gì. Người em đáp, tôi muốn học theo anh, trai giới cầu nguyện, mong mau được giàu to.
Người anh bảo: Không cày bừa gieo giống, siêng năng làm lụng thì làm sao mà giàu to được?
Ngay đó, người em liền bảo: Có phải nhờ trồng tỉa mới giàu có được sao? Nghe vậy người anh yên lặng, không nói được gì. Lúc ấy, vị trời Tỳ-ma liền hiện nguyên hình và dạy:
Ngươi phải biết, ngày nay ngươi phải tu hành, bố thí thì ngày sau mới hưởng được phúc quả giàu sang. Bởi nhiều kiếp ngươi không tu bố thí nên cứ mãi bần cùng. Dù ngày nay người siêng năng cầu khẩn ta để mong nhanh chóng giàu sang nhưng làm sao mà thành tựu được. Cũng như cây xoài vào mùa Đông, dù cầu khẩn cả ngàn vạn thiên thần cũng không thể đơm hoa, kết trái. Không tu nhân mà chỉ lo cầu ta để được giàu có là điều không không thể xảy ra vậy[32].
Sau khi dạy bảo xong, vị trời Tỳ-ma liền nói một bài kệ ngắn, với hai câu kết:
Hết thảy do hành nghiệp,
Cầu Trời ích lợi gì?[33]
Một trường hợp khác liên quan đến việc phụng thờ vị trời chủ về tài vật, hạy còn gọi là Cát tường thiên của Đề-bà-đạt-đa,được mô tả sống động qua câu kinh:
Chống nghịch Phật Thế Tôn,
Phụng thờ trời Cát-tường,
Sẽ đọa ngục Vô gián,
Bức vây khổ tai ương.[34]
Không những vậy, trong kinh Ban chu Tam muội, một vị cư sĩ thọ trì năm giới thì không được lễ bái miếu thờ các vị Trời. Bài kệ sau đã cho thấy điều đó:
Ưu-bà-di muốn học thiền Tam-muội.
Hãy giữ gìn năm giới chớ hư hao
Kính thờ thầy như Phật hằng chỉ bảo.
Không bái lạy miếu Trời hoặc cúng thần.[35]
Bản kinh này xuất hiện khá sớm ở thời Hậu Hán do ngài Chi-lâu-ca-sấm dịch và được lưu hành khá rộng rãi ở thế kỷ thứ II. Chính vì vậy, bản kinh là một trong những luận cứ quan trọng trong một tờ nghị trạng của Trường Sử Vương Huyền Sách (長史王玄策), nhằm phản kháng vương quyền bắt Tăng, Ni lễ bái vương quan:
Hàng Ưu-bà-tắc giữ năm giới đã không được lạy Trời, huống hồ Tăng, Ni thọ cụ túc giới mà phải lễ bái hàng bạch y[36].
Trong kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức do ngài Huyền Tráng dịch, trong những điều kiện căn bản để không thọ ba đường ác, đó là tùy theo khả năng của mình mà tuân giữ giới pháp, và đặc biệt là không được thờ Trời. Kinh ghi: cho đến trọn cả cuộc đời không thờ vị Trời nào khác, mà chỉ nhất tâm quy y Phật, Pháp, Tăng (乃至盡形不事餘天,惟當一心歸佛,法, )[37].
Từ những cứ liệu minh giải ở trên đã cho thấy, chú thuật nói chung và chú thần tài nói riêng vẫn tạo nên những hiệu năng nhất định nhưng không có giá trị vững bền, vì chưa thống hợp với lời Phật dạy. Không những vậy, việc kính lễ thiên thần là điều không đúng phép, ngay cả một vị Ưu-bà-di, huống chi là một bậc xuất gia với chí xuất trần vi thượng sĩ.
5. Nhận định.
Phật giáo xuất hiện giữa một rừng tín niệm đa thần, vốn đã bắt rễ sâu xa trong mọi giai tầng của xã hội Ấn Độ ở thời kỳ cổ đại. Việc khẳng định một lối đi riêng không cầu khẩn, tế tự trời thần, là một tia sáng vạch thời đại của chính Đức Phật Thích Ca.
Xem ra, cùng tương sinh và tồn tại trong mối giao thoa giữa các tôn giáo cùng thời; đặc biệt là khi giáo đoàn chấp nhận nhiều thành phần xã hội được tham dự vào đời sống Tăng-già, là điều kiện thuận lợi để nảy sinh các tập tính tế tự xưa cũ, cụ thể là vận dụng chú thuật của Ấn giáo, kể cả việc thờ Trời.
Ngay trong thời Phật, việc vận dụng chú ngữ của Ấn giáo ngoài mục tiêu hoằng đạo thỉnh thoảng đã xảy ra và Đức Phật đã có những khuyến nghị, cấm chỉ. Những cổ tục này ngày càng xuất hiện nhiều hơn sau khi Đức Phật diệt độ và trong sinh hoạt Thiền gia ở những vùng đất mới, đặc biệt là kể từ khi có sự trỗi dậy và âm thầm tác động của xu hướng tân Vệ-đà.
Từ lời dạy cô động của Đức Phật trong kinh Trường Bộ ở tạng Nikāya, từ những bằng chứng tương đồng về lời dạy đó trong kinh văn Hán tạng, đã xác quyết rằng, việc cầu khẩn thần tài Siri và các danh xưng tương ứng như Cát tường thiên, Thiện thiên nữ cùng các bài chú ngữ… đều không đúng với giáo nghĩa thuần túy của Phật giáo.
Nói cách khác, trì tụng chú thần tài là không thuận hợp với Phật đạo, nếu không nói là gián tiếp hành pháp Bà-la-môn[38].
[1]大正藏第 04 冊 No. 0203 雜寶藏經,卷第九, 求毘摩天望得大富緣. Nguyên văn: 一切由行得,求天何所為
[2] Kinh Trường Bộ, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr.23. Xem thêm, kinh Sa-môn quả, tr.75
[3] Xem tại: http://www.tipitaka.org/romn/
[4] Milindapañhapāḷi. Xem tại: http://www.tipitaka.org/romn/
[5] M.Monier-Williams, A Sanskrit English Dictionary. Springfield,VA: Nataraj Books, 2014, p.892
[6]George M. Williams. Handbook of Hindu Mythology. Santa Barbara, California: ABC-CLIO, Inc. 2003. p.196-198.
[7] The Atharva-Veda (Sanskrit text), Devi Chand M.A Trans. New Delhy: Munshiram Manoharlal Publishers Pvt. Ltd, Reprinted 2014, p. 333.
[8]大正藏第 54 冊 No. 2135 梵語雜名
[9]大正藏第 04 冊 No. 0201 大莊嚴論經, 卷第四
[10] Donald Alexander Mackenzie. Indian Myth and Legend. London: The Gresham Publishing Company. 1913, p. 150-151.
[11]大正藏第 51 冊 No. 2087 大唐西域記, 卷第二. Nguyên văn: 跋虜沙城東北五十餘里,至崇山.山有青 石大自在天婦像, 毘摩天女也.聞諸土俗曰: 此天像者,自然有也.靈異既多,祈禱亦 ,印度諸國,求福請願,貴賤畢萃,遠近咸 會.其有願見天神形者,至誠無貳,絕食 日,或有得見,求願多遂
[12] George M. Williams. Handbook of Hindu Mythology. Santa Barbara, California: ABC-CLIO, Inc. 2003. p.21.
[13]Donald Alexander Mackenzie. Indian Myth and Legend. London: The Gresham Publishing Company. 1913, p. 144, 149. See also, Mahābhārata. Krishna-Dwaipayana Vyasa trans. vol 1. 65-67
[14] Encyclopedia of Hinduism. Constance A. Jones and James D. Ryan. New York: Facts On File, Inc. 2007.p.135-136.
[15]Lakshmi Puja. Kanai L. Mukherjee ed. Nashville: Association of Grandparents of Indian Immigrants. 2012.p.92. Cf: Om Lakshmi devi khamasya.
[16]大正藏第 16 冊 No. 0663 金光明經.
[17]大正藏第 16 冊 No. 0663 金光明經. Nguyên văn bài chú thần tài (Công đức Thiên) như sau: 波利富樓那遮利三曼陀達舍尼羅佉摩 毘呵羅伽帝三曼陀毘陀那伽帝摩訶迦 波帝波婆禰薩婆哆㖃三曼陀脩鉢梨富 隷阿夜那達摩帝摩訶毘鼓畢帝摩訶彌 簸僧祇帝醯帝簁三博祇悕帝三曼陀阿 阿㝹婆羅尼.
[18]大正藏第 16 冊 No. 0665 金光明最勝王經, 卷第八. Nguyên văn bài thần chú tăng trưởng tài vật của thiên nữ Đại cát tường: 南謨室唎莫訶天女怛姪他鉢唎脯𠷈拏 囇三曼䫂達喇設泥 (去聲,下皆同爾)莫訶毘訶囉揭諦 三曼哆毘曇末泥莫訶迦哩也鉢喇底瑟 鉢泥薩婆頞他娑彈泥蘇鉢喇底晡囇㢌 娜達摩多莫訶毘俱比諦莫訶迷咄嚕鄔 波僧呬羝莫訶頡唎使蘇僧近(入聲)哩呬 羝三曼多頞他阿奴波喇泥莎訶.
[19]大正藏第 46 冊 No. 1945 金光明懺法補助儀.
[20]大正藏第 49 冊 No. 2035 佛祖統紀, 卷第十. Xem thêm, 大正藏第 49 冊 No. 2036 佛祖歷代通載, 卷第十八
[21]大正藏第 46 冊 No. 1945 金光明懺法補助儀, 第四召請誦呪方法(次當胡跪手執香爐 眾名香.一心召請三寶及功德天等.起 重心涕淚悲泣.一一想至道場.其辭出 助儀.應檢閱.口作是言)
[22]嘉興藏第 19 冊 No. B044 諸經日誦集要, 卷下
[23]簡豐祺. 古梵文佛教咒语全集 (修正版). 佛陀教育差会會, 印贈. 2007. p.250.
[24] 大正藏第 21 冊 No. 1251 吽迦陀野儀軌
[25]大正新脩大藏經第 50 冊 No. 2061 宋高僧傳卷第一
[26] 大正藏第 21 冊 No. 1252a 佛說大吉祥天女十二名號經
[27]大正藏第 16 冊 No. 0665 金光明最勝王經, 卷第八. Nguyên văn: 世尊!若人誦持如是神呪請召我時,我聞 請已,即至其所,令願得遂
[28]大正藏第 49 冊 No. 2036 佛祖歷代通載, 卷第十八
[29]大正藏第 50 冊 No. 2059 高僧傳, 卷第二.
[30]大正藏第 50 冊 No. 2059 高僧傳, 卷第二. Nguyên văn: 臨發之日.讖乃流涕告眾曰.讖業對將至 .眾聖不能救矣
[31]大正藏第 23 冊 No. 1442 根本說一切有部毘奈耶, 卷第四十五. Nguyên văn: 人命將盡時,呪藥不能救;神仙及諸聖, 能違拒者. Xem thêm, 大正藏第 12 冊 No. 0338 佛說離垢施女經. Nguyên văn: 若墮惡趣,生死之難,雖有父母,不能救 ,亦無餘人,及財神呪,獨斯等類,乃能救 脫.
[32]大正藏第 04 冊 No. 0203 雜寶藏經, 卷第九, 求毘摩天望得大富緣
[33]大正藏第 04 冊 No. 0203 雜寶藏經,卷第九, 求毘摩天望得大富緣. Nguyên văn: 一切由行得,求天何所為
[34]大正藏第 04 冊 No. 0193 佛本行經, 卷第六. Nguyên văn: 拒逆佛世尊,為祀吉祥天;若入無擇獄, 連曳吾等.
[35]大正藏第 13 冊 No. 0417 般舟三昧經. Nguyên văn: 優婆夷欲學三昧,奉持五戒勿缺毀,承事 善師視如佛,不得拜天祠祀神
[36]大正藏第 52 冊 No. 2108 集沙門不應拜俗等事,卷第四, 右驍衛長史王玄策騎曹蕭灌等議狀一 . Nguyên văn: 五戒優婆塞尚不得禮天.況具戒僧尼而 拜俗
[37]大正藏第 14 冊 No. 0450 藥師琉璃光如來本願功德經
[38] 大正藏第 23 冊 No. 1442 根本說一切有部毘奈耶, 卷第三十一. Nguyên văn: 諸外道輩於晨朝時禮諸天廟
https://thuvienhoasen.org/images/fil...g-than-tai.jpg
https://thuvienhoasen.org/a29421/tu-...cung-than-tai-
-
-
「福祿壽」三星或「五路財神」、「 福財神」
tượng ba ông Phước, Lộc, Thọ; “Ngũ Lộ Tài Thần”, “Tăng Phước Tài Thần”.
tượng ba ông Phước, Lộc, Thọ; “Ngũ Lộ Tài Thần”, “Tăng Phước Tài Thần”.
http://hocthuatphuongdong.vn/index.p...=2748.105;wap2
-
-
đối thoại
Đọc Chuyện Đông – Chuyện Tây (P.1)
Vương Trung Hiếu
Trước đây, trên Kiến Thức Ngày Nay (KTNN) có mục Chuyện Đông – Chuyện Tây của tác giả Huệ Thiên (An Chi). Mấy ngày nay, tình cờ vào vnthuquan.net chúng tôi thấy đăng lại một số bài viết trong mục Chuyện Đông - Chuyện Tây năm 1992 -1993. Tò mò chúng tôi đọc rồi giật mình vì nhận ra có những chi tiết “đáng ngờ” trong loạt bài ấy. Chúng tôi trích đăng lại ở đây một số nhận định của ông An Chi và nêu quan điểm của chúng tôi để bạn đọc đối chiếu, ngõ hầu làm sáng tỏ đôi điều về chữ nghĩa. Do trích từ bản sao trên mạng nên có thể một số chi tiết trong loạt bài ấy bị lỗi kỹ thuật, không chính xác như bản gốc trên KTNN. Bạn đọc nào phát hiện ra những sai sót so với bản gốc, xin vui lòng gởi email thông báo để chúng tôi kịp thời chỉnh sửa. Xin chân thành cám ơn.
KTNN 95, ngày 01-11-1992
AC (An Chi): Trước hết xin nói rằng đây là rể Đông sàng, dâu Nam giánchứ không phải là "Đông sàn" và “Nam giáng". Sàng là giường: vậy Đông sàng là giường phía Đông. Gián là khe núi: vậy Nam gián là khe núi phía Nam. Vế rể Đông sàng bắt nguồn ở tích Đông sàng thản phúc, nghĩa là nằm thẳng bụng trên giường phía Đông. Chuyện rằng nhà Vương Đạo có nhiều con trai chưa vợ nên Hy Giám mới cho người sang đọ để kén chồng cho con gái. Đám con trai nhà họ Vương biết thế nên anh nào cũng lăng xăng tìm cách làm cho khách để ý. Chỉ có Vương Hy Chi là nằm khểnh trên giường ở phía Đông, coi như không có chuyện gì xảy ra. Nghe người nhà thuật lại, Hy Giám biết Hy Chi ắt là rể quý, bèn chọn ngày lành tháng tất mà gả con gái cho. (…) Còn vế dâu Nam gián thì bắt nguồn từ lời của một bài trong Kinh Thi của Trung Hoa: Vu dĩ thể tần, Nam gián chi tânnghĩa là đi hái rau tần bên khe núi phía Nam . Chỉ sự tần tảo của người con gái. Dâu Nam gián là con dâu chịu thương chịu khó. Truyện Lục Vân Tiên có câu:
Xem đà đẹp đẽ hòa hai:
Này dâu Nam gián, nọ trai Đông sàng.
VTH (Vương Trung Hiếu): Phần giải thích trên có những chi tiết nhầm lẫn sau:
- Trong điển cố Đông sàng thản phúc 東床坦腹, quan Thái Uý Si Giám 郗鑒 là người kén chồng cho con gái chứ không phải là Hy Giám. Si Giám chọn rể từ những học trò, con cháu của Vương Đạo王導 chứ không phải từ “đám con trai” của Vương Đạo. Bởi vì, cha của Vương Hi Chi 王羲之 là Vương Khoáng chứ không phải là Vương Đạo. Vương Đạo là bá phụ của Vương Hi Chi, tức anh của Vương Khoáng.
- Nếu chỉ căn cứ vào chi tiết: “Vương Hy Chi nằm khểnh trên giường ở phía Đông, coi như không có chuyện gì xảy ra” thì làm sao có thể biết đó là rể quý? Thật ra, nội dung điển cố cho biết Vương Hi Chi 王羲之nằm trên giường, ăn bánh và cầm cọ viết thư pháp, không quan tâm đến chuyện chung quanh. Đây mới là chi tiết khiến Si Giám cho rằng Vương Hi Chi có tài, xứng đáng là rể quý. Đúng như dự đoán của Si Giám, Hi Chi là người học giỏi, có tài viết chữ đẹp, về sau làm đến chức Hữu Quân 右军. Ông còn là nhà thư pháp vĩ đại nhất thời Đông Tấn (317-420), được người đời sau tôn là Thư Thánh.
- “Vu dĩ thể tần, Nam gián chi tân” là câu sai, viết đúng phải là Vu dĩ thái tần, nam giản chi tân, 于以采蘋, 南澗之濱 (trích từ bài thơ Thái Tần 采蘋trong Kinh Thi 詩經).
- “Thể” không có nghĩa là “hái”. Những từ Hán có âm Hán Việt là “thể” (婇, 体, 躰, 體, 醍) đều không có nghĩa là “hái”. Thái 采 mới có nghĩa là “hái”.
- Nam gián là cách viết sai, viết đúng phải là Nam giản. “Gián” không có nghĩa “khe núi”. Tất cả những chữ Hán có âm Hán Việt là “gián” (谏, 瞷, 覸, 諫, 僩, 閒) đều không có nghĩa là “khe núi”. Giản 澗 mới có nghĩa là “khe, suối, dòng nước giữa hai núi”. Vì thế, câu Vu dĩ thái tần, nam giản chi tân có nghĩa là “Đi hái rau tần, ở khe suối phía Nam”.
- Câu “Này dâu Nam gián, nọ trai Đông sàng” trích trong Lục Vân Tiên bị sai ở chữ “gián”, viết đúng phải là “giản”.
Lạm bàn: Thoạt nhìn, Đông sàng 東床 có nghĩa “là giường phía Đông”, nhưng nếu biết về nghi thức xưa của người Trung Hoa thì có thể hiểu khác hơn về hai chữ này. Ngày xưa, nơi ngủ của hoàng tử sắp kế vị vua thường được xây ở phía Đông (Đông cung), còn nơi ngủ của giới sĩ phu thường tuân theo nguyên tắc: giường đặt ở phía Bắc, còn đầu giường thì quay về phía Đông. Vậy, có thể hiểu đông sàng là “giường quay đầu về phía Đông” được chăng? Điều này có ghi rõ trong thiên Kí tịch lễ 既 夕禮, trích từ Nghi lễ 儀 禮: “Sĩ xứ thích tẩm, tẩm đông thủ vu bắc dong hạ 士 處 適 寢, 寢 東 首 于 北 墉 下” (Phòng ngủ của kẻ sĩ, giường được đặt ở phía Bắc, đầu quay về phía Đông). Câu trả lời xin dành cho những bậc thức giả uyên bác về Hán học.
KTNN 96, ngày 15-11-1992
AC: Tổ tiên của người Pháp là người Gô-loa (Gaulois). Người Gô-loa, tiếng La Tinh gọi là Gallus. Danh từ Gallus trong tiếng La Tinh lại có một từ đồng âm tuyệt đối là gallus, có nghĩa là con gà trống. Thế là cái vỏ ngữ âm gallus của tiếng La Tinh vừa biểu hiện khái niệm "người Gô-loa" lại vừa biểu hiện khái niệm con gà trống". Vậy cứ theo ngôn ngữ này, người ta có thể chơi chữ bằng đẳng thức: Người Gô-loa (Gallus) = con gà trống (gallus). (…) Nếu ta biết rằng tiếng Pháp hiện đại là do tiếng La Tinh thông tục (latin populaire) mà ra thì ta cũng sẽ không lấy làm lạ tại sao người Pháp lại căn cứ vào tiếng La Tinh để chọn biểu tượng cho dân tộc mình như thế.
VTH: Trước hết, cần khẳng định rằng người Pháp không căn cứ vào tiếng Latin để chọn gà trống làm biểu tượng cho dân tộc mình và người Pháp không phải là người nghĩ ra cách chơi chữ gallus. Có lẽ người đầu tiên nhận thấy sự đồng âm của từ gallus là Gaius Suetonius Tranquillus. Vào thời La Mã cổ đại, trong bộ De Vita Caesarum, Suetonius đã nhận xét rằng trong tiếng Latin, gà trống (gallus) và người Gaulois (Gallus) là từ đồng âm. Tuy nhiên, kể cả ông và người Pháp cũng không phải là người nghĩ ra cách chơi chữ gallus. Cách chơi chữ này do chính kẻ thù của nước Pháp đặt ra từ thời Trung cổ nhằm để chế giễu người Pháp. Song, việc cho rằng gà trống là biểu tượng của dân tộc Pháp là điều không chính xác, vì thời đó gà trống không được xem là sự nhân cách hoá dân tộc của người Pháp và nó cũng không phải là con vật thiêng của người Gô –loa trong thần thoại của họ. Mặt khác, không có khái niệm “quốc gia Gô -loa”, chỉ có sự liên kết lỏng lẻo những quốc gia thuộc vùng Gaule (*). Oái oăm thay, những vị vua của nước Pháp vào thời kỳ ấy lại chấp nhận cách chơi chữ gallus và phát triển nó để củng cố vững chắc cho biểu tượng của Cơ Đốc giáo, đó là hình ảnh của con gà trống. Trước khi bị bắt, Chúa Jésus có nói với thánh tông đồ Peter về tiếng gà gáy. Tiếng gáy vào mỗi sáng được xem là biểu tượng chiến thắng hàng ngày của ánh sáng trước bóng tối và sự chiến thắng của cái thiện trước cái ác. Ngoài ra, nó còn là sự biểu trưng cho thái độ thận trọng và sẵn sàng của người Công giáo đối với sự trở lại đột ngột của Chúa, hiện tượng phục sinh sau khi Chúa qua đời và sự phán quyết cuối cùng của nhân loại. Đó là lý do tại sao, trong thời Phục Hưng, gà trống trở thành biểu tượng của nước Pháp, vì nước này chủ yếu là người Công giáo. Gà trống đã trở thành hình ảnh Công giáo phổ biến trên những cái chong chóng chỉ hướng gió (weathervanes). Tóm lại, người Pháp chọn biểu tượng gà trống Gô-loa cho dân tộc mình không phải xuất phát từ tiếng Latin, mà vì chính họ là người Công giáo.
*
(*): (http://www.wallonie-en-ligne.net/Enc...s/DrapeauW.htm
KTNN 96, ngày 15-11-1992
AC: Sở dĩ sách xưa không có tên Hồng Hà vì đây là một cái tên rất mới do chính người Việt chúng ta dịch từ tiếng Pháp, gọi nôm na hơn một chút là sông Hồng. Sông Hồng có đặc điểm nổi bật là nước của nó về mùa lũ thì rất đỏ, nên người Pháp dựa vào đó mà gọi nó là fleuve Rouge (sông Đỏ). (…) Vậy Hồng Hà hay sông Hồng chỉ là những "bản dịch" sang tiếng Việt của tiếng Pháp fleuve Rouge mà thôi. Xin phân biệt với Hồng Giang, một chi lưu xưa của sông Hồng, chảy qua tỉnh Hải Dương.
VTH: Hồng Hà không phải là cái tên dịch từ tiếng Pháp. Nó là tên con sông 红河 bắt nguồn từ Trung Quốc, được người Việt gọi theo âm Hán Việt là Hồng Hà. Chính người Pháp đã dịch cái tên Hồng Hà hoặc 红河 sang tiếng Pháp là fleuve Rouge (sông Đỏ). Theo Wikipedia, Hồng Hà bắt nguồn từ Trung Quốc chảy vào Việt Nam rồi đi ra biển Đông. Đoạn chảy trên lãnh thổ Trung Quốc gọi là Nguyên Giang 元江, đoạn đầu nguồn gọi là Lễ Xã Giang 禮社江. Đoạn trên lãnh thổ Việt Nam còn được người Việt gọi là sông Hồng hay sông Cái (người Pháp phiên tên gọi này thành Song-Koï). Sử Việt còn ghi tên Hồng Hà là Phú Lương. Đoạn chảy qua Phú Thọ gọi là Sông Thao, đoạn qua Hà Nội còn gọi là Nhĩ Hà hoặc Nhị Hà. Xin lưu ý, ở tỉnh Hà Nam, Trung Quốc cũng có một con sông khác với tên gọi là Hồng Hà 洪河, đây là chi lưu của Hoài Hà 淮河 (hay Hoài Thủy 淮水).
KTNN 99, ngày 01-01-1993
Tiếng Anh đã có từ Christmas để chỉ lễ Giángsinh, lại còn có cả từ Yule nữa. Xin cho biết xuất xứ của từ này.
AC: Yule là hình thái hiện đại bắt nguồn từ tiếng Anh trung đại yol, tiếng Anh cổ đại geol, với biến thể geohhol. Đồng nghĩa và cùng gốc với nó hiện nay là tiếng Thụy Điển, tiếng Na Uy và tiếng Đan Mạch jul mà tiếng Phần Lan láng giềng đã mượn và phát âm thành joulu. Theo Eric Partridge, hình thái cổ đại geol bắt nguồn từ một hình thái tiền thân là geol, một kiểu hoán vị ngữ âm (metathesis) cùng gốc với tiếng La Tinh gelu, có nghĩa là băng giá. Do đó mà tiếng Anh cổ đại còn có danh từ geola để chỉ tháng December (tháng Chạp dương lịch), mà nghĩa từ nguyên là tháng băng giá. Còn geol, nay là Yule, là ngày lễ của tháng geola, tức là ngày Giáng sinh.
VTH: Theo sử gia người Anh Bede (thế kỷ thứ 8), trong lịch Anglo-Saxon có tháng geola hay giuli tương ứng với tháng 12 hoặc tháng 12 và tháng giêng trong dương lịch. Vì thế có thể khẳng định rằng Yule không chỉ là ngày lễ của tháng geola. Mặt khác, ngay từ lúc mới xuất hiện với tư cách là lễ hội, Yule cũng không phải là từ dùng để chỉ ngày Giáng sinh của đạo Cơ Đốc.
Theo Wikipedia, Yule hay Yuletide là từ dùng để chỉ giai đoạn mùa đông và là lễ hội mà người Đức sử dụng ngôn ngữ thuộc hệ Ấn Âu (Germanic peoples) và vài dân tộc láng giềng khác tổ chức, xem như một lễ hội tôn giáo, về sau được đánh đồng với lễ Giáng sinh (Christmas, 25 tháng 12) của người Cơ Đốc giáo. Dấu tích xưa nhất cho sự kiện này là dựa theo lịch địa phương Đức (Germanic calendars). Vào thế kỷ thứ 4, Yule là tên tháng xuất hiện trong ngôn ngữ của người Goth (Gothic), gọi là fruma jiuleis. Nhìn chung, Yule là một lễ hội hoạt động kéo dài từ giữa tháng 11 đến đầu tháng Giêng, giai đoạn tập trung nhất là vào khoảng giữa mùa đông (winter solstice). Những nhà nghiên cứu đã nối kết lễ này với thần thoại dân gian cổ Wild Hunt và thần Odin để tăng thêm hoạt động có tính siêu nhiên và sự kiện đêm Modranicht của người Anglo-Saxon ngoại giáo.
Xét về từ nguyên, Yule trong tiếng Anh hiện đại có nguồn gốc từ những chữ trong tiếng Anh cổ: ġéol hay ġéohol và ġéola hay ġéoli, với nghĩa cổ là “lễ hội Yule 12 ngày”, sau đó có nghĩa là nghĩa “mùa Giáng sinh” (Christmastide, từ 24/12 đến 06/01) và cuối cùng là nghĩa “tháng Yule”. Vì thế ǽrra ġéola có nghĩa là giai đoạn trước lễ Yule (tháng 12), còn æftera ġéola là giai đoạn sau lễ Yule (tháng Giêng). Cả hai từ ġéol và ġéola được tin là có nguồn gốc từ nhóm ngôn ngữ Germanic và có cùng gốc với từjiuleis trong ngôn ngữ của người Goth (Gothic), từ jól trong tiếng Đức cổ, từ jul trong tiếng Đan Mạch và Thụy Sĩ , từ jul hoặc jol và ýlir trong tiếng Na Uy (1). Tuy nhiên, gốc từ nguyên của Yule không còn dấu tích đáng tin cậy, mặc dù đã có một số nghiên cứu cố gắng suy đoán về những từ cùng gốc trong hệ ngôn ngữ Ấn Âu bên ngoài nhóm Germanic (2). Danh từ Yuletide (mùa giáng sinh, mùa Nô en) được chứng thực lần đầu tiên vào khoảng năm 1475 (3). Ngày nay, trong những quốc gia nói tiếng Anh,Yule là từ được dùng trong phạm vi hẹp để nói về mùa Giáng sinh. Thí dụ, trong mùa Giáng sinh, có những tục lệ như Yule log, Yule goat, Yule boar, Yule singing…, ngoài ra cũng có những thuật ngữ khác xuất phát từ chữ Yule.
*
(1): Bosworth & Toller (1898:424); Hoad (1996:550); Orel (2003:205).
(2) Proto-Germanic (thường viết tắt là PGmc.) hay Common Germanic là tiền ngôn ngữ của tất cả các ngôn ngữ thuộc nhóm Germanic được tái thiết, thí dụ như tiếng Anh hiện đại, tiếng Frisian, Hà Lan, Afrikaans, Đức, Luxembourgish, Đan Mạch, Na Uy, Icelandic, Faroese và Thụy Điển. Proto-Germanic là giai đoạn ngôn ngữ tạo thành hình thức sơ khai phổ biến nhất gần đây của nhóm ngôn ngữ Germanic. Proto-Germanic có nguồn gốc từ ngữ hệ tiền Ấn Âu (Proto-Indo-European - PIE).
(3): Barnhart (1995:896).
KTNN 100, ngày 15-01-1993
AC: tư trong "tư niên” thì lại không liên quan gì đến tư trong "ngày tư ngày tết" cả. Nó là tư trong tư bề, tư mùa, nghĩa là một biến thể ngữ âm của tứlà bốn. Tư bề là bốn bề, nghĩa là mọi phía; tư mùa là suốt bốn mùa, nghĩa là quanh năm. Sự di chuyển tự nhiên và hợp lý từ bốn sang mọi, sangquanh trong nghĩa của tư bề, tư mùa đã dẫn đến cách hiểu sai lệch rằngtư có nghĩa là quanh, là khắp, là cả, v.v.. Với cách hiểu sai lệch này, người ta đã nói tư niên mà hiểu là quanh năm.
VTH: tư không phải là nghĩa biến âm của tứ (bốn), do đó nó không liên quan gì với chữ tư trong tư bề và tư mùa. Trong tiếng Hán, tư 茲 thuộc bộ thảo, có nghĩa là “năm”. Chữ niên 年 thuộc bộ Can , cũng có nghĩa là “năm”. Chính từ sự giống nhau giữa tư (năm) với niên (năm) nên người ta mới ghép chung thành “tư niên” (từ ghép đẳng lập), dùng để nhấn mạnh khái niệm thời gian nói chung là “năm”. Từ ghép đẳng lập kiểu này xuất hiện khá nhiều trong tiếng Việt. Thí dụ: bằng 朋 (bạn cùng chí hướng) vàhữu友 (bạn quen biết), gọi chung là bạn bè; Hiểm 險 và trở 阻 đều là chỗ trọng yếu hay hiểm yếu, gọi chung là nơi trọng yếu hay hiểm yếu…
KTTN 103, ngày 01-3-1993
Tại sao người Việt Nam lại gọi người Trung Hoa là “Tàu”?
AC: Chúng tôi cho rằng Tàu là âm cổ Hán Việt của từ ghi bằng 曹 mà âm Hán Việt hiện đại là tào, có nghĩa là “quan”. Trong thời kỳ Bắc thuộc, nói chung quan cai trị là người Trung Hoa cho nên dân chúng đã quan niệm rằng người Trung Hoa là tàu, nghĩa là quan. (…) Do quan niệm trên mà về sau tất cả mọi người Trung Hoa dù không làm quan – đây là tuyệt đại đa số - cũng được "vinh dự" gọi là Tàu.
VTH: Phần đầu bài viết, ông An Chi cho biết: “Đã có nhiều người liên hệ tên gọi này với từ tàu trong tàu bè. Xin chép Huình-Tịnh Paulus Của làm dẫn chứng: “Người An Nam thấy tàu bè khách qua lại nhiều, lấy đó mà gọi là nước Tàu, người Tàu” (Đại Nam quấc âm tự vị, t.II, Saigon, 1896, tr.346)”. Theo chúng tôi, đây là cách giải thích hợp lý, thế nhưng ông An Chi lại bác bỏ ý kiến này rồi khẳng định “tàu có nghĩa là quan” như trên. Chúng tôi không đồng ý cách giải thích của ông An Chi. Thứ nhất, chúng tôi không nghĩ rằng “tàu là âm cổ Hán Việt” (ông An Chi không có dẫn chứng về nhận định này); thứ hai, trên thực tế, người Hoa sinh sống tại Việt Nam không thích bị gọi là “người Tàu” hay “ Ba Tàu”, vì theo họ đó là hai cách gọi có tính chế giễu, miệt thị. (Nếu “tàu” có nghĩa là “quan” thì tại sao họ lại không thích chứ?). Ngày xưa người Trung Hoa dùng tàu chở hàng hóa sang nước ta buôn bán khá nhiều nên dân ta thường gọi họ là “người Tàu” và gọi hàng hóa của họ là “hàng Tàu, đồ Tàu”. Trong khi đó, quan niệm cũ trước đây ở nước ta là “Nhất sĩ, nhì nông, tam công, tứ thương”. Phải chăng, vì thế mà người buôn bán “bị” xem là có đẳng cấp thấp trong xã hội? Nếu thật vậy thì cách gọi “người Tàu”, có thể hiểu là chê người Hoa thuộc thành phần thấp kém nên họ không thích. Mặt khác, người Hoa là người Việt gốc Hoa, họ không muốn bị xem là “người lạ”, “người ngoại quốc” trên đất Việt Nam. Còn “Ba Tàu” xuất phát từ “ba vùng đất mà chúa Nguyễn cho phép người Hoa làm ăn sinh sống: vùng Cù Lao Phố (Đồng Nai), Sài Gòn Chợ Lớn, Hà Tiên, từ Tàu bắt nguồn từ phương tiện đi lại của người Hoa khi sang An Nam, nhưng dần từ Ba Tàu lại mang nghĩa miệt thị, gây ảnh hưởng xấu.” (trích từ mục Tạp vụ trong Gia Định báo, số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16 tháng 2 năm 1870).
KTTN 105, ngày 01-4-1993
Xin cho biết vắn tắt sự tích của ông Thần Tài.
AC: Theo truyền thuyết thì thần tài chính là Triệu Công Minh, người đã sống vào thời nhà Tần. Ông đã lánh đời mà dốc lòng tu tiên ở núi Chung Nam. Về sau đắc đạo, được phong làm Chính Nhất Huyền Đàn Nguyên soái, coi việc xua ôn đuổi dịch, cứu bệnh trừ tai. Lại nữa, phàm ai bị oan ức đến cầu cứu nơi ông đều được ông giúp làm cho sáng tỏ. Người buôn bán cúng ông để cầu tài cầu lộc cũng được ông giúp cho như ý muốn. Người ta thường vẽ ông thành hình một người mặt đen, râu rậm, tay cầm roi, mình cỡi trên lưng một con cọp đen. Người ta cũng thường hay vẽ hình ông trên ảnh đăng (một loại đèn cù) và còn gọi ông là Tài Bạch Tinh Quân hoặc Triệu Công Nguyên Soái.
VTH: Cách giải thích trên có hai điểm chưa chính xác như sau: thứ nhất, người Việt Nam và Trung Quốc thờ nhiều vị thần tài chứ không phải duy nhất một thần là Triệu Công Minh. Thứ hai, Triệu Công Minh không phải là “Tài Bạch Tinh Quân”.
Theo truyền thuyết Trung Hoa, tài thần (hay thần tài) được chia thành những nhóm sau:
- Văn tài thần文財神: gồm có Tài Bạch Tinh Quân 財帛星君,Tỉ Can 比幹, Phạm Lãi 範蠡, Phúc Lộc Thọ Tam Tinh (Tam Đa) và Tài Hòa Hợp nhị tiên (hai nữ tài thần của người sản xuất đồ gốm sứ, chạm khắc gỗ, thợ nung vôi và người bán quạt).
- Vũ Tài thần 武財神: gồm có Quan Thánh Đế quân 關聖帝君 (tức Quan Vũ - 關羽, Quan Vân Trường 關雲長) và Triệu Công Minh 趙公明.
- Thiên Tài thần 偏財神: gồm có Ngũ Hiển Tài thần 五顯財神 và Ngũ Lộ Tài thần 五路財神.
- Chuẩn Tài thần 准財神 : Lưu Hải Thiềm 劉海蟾.
- Các tài thần trong Phật giáo Mật tông: gồm có Hoàng Tài thần黄财神, Tài Nguyên Thiên Mẫu 財源天母, Ngũ Tính Tài thần 五姓財神 - còn gọi là Ngũ sắc tài thần 五色財神.
Ở đây, chúng tôi xin phép trình bày về hai vị tài thần có liên quan với bài viết của ông An Chi, đó là Triệu Công Minh và Tài Bạch Tinh Quân.
- Triệu Công Minh 趙公明: là Thần tài âm phủ, có gương mặt đen sạm, bộ râu rậm rạp, tay cầm chiếc roi sắt cưỡi trên lưng con cọp đen (gọi là Hắc Hổ Huyền Đàn 黑虎玄壇). Vị Thần tài này là một vị võ tướng có khả năng phục yêu trừ ma, có thể chiêu tài lợi thị. Theo Đạo giáo, Triệu Công Minh là người Chung Nam Sơn 終南山, sống vào thời nhà Tần (秦朝). Ông sinh ngày mùng 5 tháng giêng, được Ngọc Hoàng Đại đế phong là Chính Nhất Huyền Đàn Nguyên Súy 正一玄壇元帥, do đó ông còn có tên gọi là Triệu Huyền Đàn. Nhưng theo “Phong Thần bảng”, Triệu Công Minh sinh vào thời Ân Thương 殷商, sống ở động La Phù 羅浮 núi Nga Mi 峨眉, được phong là Kim Long Như Ý Chính Nhất Long Hổ Huyền Đàn Chân quân 金龍如意正一龍虎玄壇真君, thống lĩnh bốn bộ hạ là Nạp Trân Thiên tôn Tào Bảo 納珍天尊曹寶, Chiêu Tài Sứ giả Trần Cửu Công 招財使者陳九公, Chiêu Bảo Thiên tôn Tiêu Thăng 招寶天尊蕭升 và Lợi Thị Tiên quan Diêu Thiếu Tư 利市仙官姚少司. Bộ năm này có nhiệm vụ coi việc tài phú trong dân gian. Hiện nay, ở miền bắc Trung Quốc, phần lớn các cửa hàng đều thờ cúng Triệu Công Minh, còn miền nam thì đa số thờ Quan Công.
- Tài Bạch Tinh Quân 財帛星君: là Thần tài trên trời. Tài Bạch Tinh Quân còn được gọi là Tăng Phúc Tài thần增福財神, một vị thần tài phổ biến và tôn quý nhất. Tương truyền ông là sao Thái Bạch 太白, thuộc Kim Thần 金神, có chức vụ trên trời là Đô Thiên Chí Phú Tài Bạch Tinh Quân, chuyên quản kim ngân, tiền tài. Ông là vị thần có vẻ ngoài phúc hậu, đầu đội mão Tể Tướng, mặt trắng, có 5 chòm râu dài, mặc áo hồng bào, thắt dây lưng ngọc đái, tay cầm một cái bồn chứa đầy vàng bạc, trên bồn có bốn chữ Chiêu Tài Tiến Bảo 招財進寶. (Có tài liệu cho rằng ông cầm thỏi vàng Nguyên Bảo trên bàn tay trái, bàn tay phải cầm cuộn sớ cũng ghi chữ Chiêu Tài Tiến Bảo hoặc tay cầm bảng Thiên Quan Tứ Phúc 天官賜福).
http://tunguyenhoc.blogspot.com/2012/07/
-
-
Bài gửiTiêu đề: Ngày Vía Đại Bá Công - Thổ Địa Công 13/3/2013, 8:47 pm
Vào các ngày mùng 10 tháng 1 âm lịch là Vía Thần của Địa Thần Tài; ngày mùng 2 tháng 2 âm lịch, là ngày Vía Thần của Đại Bá Công "Phúc Đức Chính Thần" cũng còn gọi là "Thổ Địa Công". Địa Thần Tài là vị Thần Tài ở dưới sát mặt đất, thường giúp gia chủ chiêu tài tiến bảo, thương mãi hiệp thuận; Đại Bá Công là vị Thần chư trở thủ hộ Gia Đình, chiếu cố sự nghiệp, cũng là vị Tài Thần theo tín ngưỡng dân gian, cũng là vị thần giúp đỡ cho tổ tiên gia đình, bởi thế cho nên nên sắm sửa hoa quả tươi đẹp, sữa tươi mật ong, gạo muối tạ ơn cung phụng Thần Tài và Đại Bá Công tức sẽ được bình an phát tài. Ngày mùng 10 tháng 1 âm lịch nên đi mua chút vàng để cầu may mắn cả năm
Tâm Hương một nén, cảm ơn đảnh lễ Phúc Đức Chính Thần, bào hộ gia đình Chúng Ta Bình An, Vui Vẻ, Sung Túc, sáu thời cát tường !
Phong Tục Trung Hoa thường vào ngày Vía Thổ Địa Công (Mùng 5 Tháng Giêng) Địa Tài Thần (Mùng 10 Tháng Giêng) người ta thường đi mua Vàng về bỏ lên thắp hương rồi cất vào két, tục gọi là "Kim Bảo Quy Khố" để cầu may mắn, một năm làm ăn thịnh vượng, nhiều Vàng Báu đi vào kho.
Thổ Địa Công đúng là một vị Tiểu Thần Tiểu Linh nhưng chính xác là có sự giúp đỡ con người rất tốt, nếu mỗi tháng âm lịch trong khoảng từ mùng 2 đến mùng 6 mà sắp lễ cúng bái được càng tốt. Nếu trong tiết Trung Thu mà tế bái thì lực giúp càng mạnh. Ắt được lợi ích lớn.
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...85%AC-)/page40
-
https://books.google.com.vn/books?id...%9C%B0&f=false
=====
https://www.homes.co.jp/chintai/b-1217980021820/
日神パレス板橋 6階/-の賃貸マンション【HOME'S】 - ホームズ
https://www.homes.co.jp › ... › 東京都 › 東京23区 › 板橋区 - Dịch trang này
5 giờ trước - 日神パレス板橋 6階/-の物件詳細ページ。東武東 ... 建てる: 土地 · 注文住宅 ... POINT: 当物件は契約金分割払い可/クレジットカードで分割も可能です.
-
Ban Thờ Thần Tài Thổ Địa Công, tức gồm hai Ông là Thần Tài (Tay ôm đĩnh vàng) và Thổ Địa Công (Bụng lớn vấn khăn) ... Nên bày Thần Tài ở bên trái Ban Thờ (Tức bên phải của người thắp hương) Thổ Địa thì ở bên phải, hai Vị hơi quay mặt vào nhau
Tại Tiệm Quán Kinh Doanh nên vào mùng 10 mỗi tháng lúc buổi chiều cúng Thịt Quay Muối Hạt tại ban thờ ...
http://phongthuy.forumvi.net/t475-topic
-
CÁCH THỜ CÚNG ÔNG ĐỊA – THẦN TÀI NGÀY LỄ VÍA MỒNG 10 HÀNG THÁNG
Published on September 8, 2016
Khuong Bui
Khuong Bui
FollowKhuong Bui
CÔNG TY CỔ PHẦN DỊCH VỤ ĐỒ CÚNG TÂM LINH
Thần Tài – Ông Địa sẽ đem đến may mắn và tài lộc trong công việc kinh doanh của chúng ta. Tuy nhiên, nói đến cách thờ cúng 2 vị Thần Tài, Ông Địa này không phải ai cũng biết và hiểu cặn kẽ.
Xem thêm: Hướng dẫn cách đặt và bài trí bàn thờ ông Địa
Ông Thần Tài, ông Địa rất gần gũi với dân chúng, nhất là ông Địa lúc nào cũng vui vẻ cười đùa và rất thương con nít. Vì vậy mà khuyên quý vị có điều gì lo lắng bức xúc thì nên nguyện với ông Địa, Thần Tài hóa giải phù hộ cho, sẽ như ý.
Ngày vía của Thần Tài là ngày mùng 10 âm lịch hàng tháng. Ngày này tất cả mọi nhà, công ty, cửa hàng…có thờ Thần Tài, thì đều sắm lễ vật để cúng lấy vía Thần Tài, cầu xin một năm mới làm ăn được thịnh vượng về tài lộc. Đặc biệt là vía thần tài ngày mùng 10 Tết.
Lễ cúng Thần Tài – Ông Địa cũng phải chăm chút cho thật kỷ thì mới có kết quả tốt. Đa phần, các vị thần đều dùng mặn, đặc biệt chỉ có Thần Tài, Thổ Địa dùng vừa mặn vừa chay. Lễ cúng nửa năm đầu thì mặn, mà từ tháng 7 âm lịch đến cuối năm là chay.
Bàn thờ Ông Địa – Thần Tài
https://www.linkedin.com/pulse/c%C3%...%C6%B0%C6%A1ng
-
Thăm dò: Bạn đã từng bị quấy rối tình dục?
Đã từng
Chưa từng
Quấy rối tình dục là gì vậy?
Bình chọn Xem kết quả
Tìm Hiểu Về Thần Tài Và Linh Vật Chiêu Tài Trong Dân Gian (158 lượt xem)
7 31
Truyền thuyết về Thần tài. 財神爺爺傳
Thờ phụng Thần tài là một tín ngưỡng phổ biến trong dân gian, Tài thần là một thiện thần. Mỗi khi năm hết, tết đến, nhà nhà treo hình tượng Tài thần với mong muốn cầu mong đại cát đại lợi. Cát là bình an, lợi là tài phú.
Có nhiều truyền thuyết về Tài thần. Những người được dân gian bái làm Tài thần cũng nhiều.
CHÍNH TÀI THẦN TRIỆU CÔNG MINH - 正財神趙公明.
Tài thần Triệu Công Minh còn gọi là Triệu Công Nguyên sư - 趙公元師, Triệu Huyền Đàn - 趙玄壇. Thần họ Triệu - 趙 , tên là Lãng - 朗, hay Huyền Lãng - 玄朗, tên chữ là Công Minh - 公明,là người núi Chung Nam sơn - 終南山. Theo phú của Thái Kinh đời Tống có nói Thần sinh vào ngày mùng 5 tháng giêng.
IMG]http://img261.imageshack.us/img261/4374/trieucongminh2rl5.jpg[/IMG]
Trong “Phong Thần bảng”, Tài thần sinh vào thời Ân Thương - 殷商, ở động La Phù 羅浮 núi Nga Mi 峨眉 tu đạo đắc phép. Triệu Công Minh vì phò Trụ diệt Chu mà tử trận, khi Khương Tử Nha -姜子牙 phụng mệnh Nguyên Thỉ Thiên tôn - 元始天尊 đăng đàn phong thần cho các tướng tử trận, Triệu Công Minh được sắc phong là: Kim Long Như Ý Chính Nhất Long Hổ Huyền Đàn Chân quân - 金龍如意正一龍虎玄壇真君, thống lĩnh bốn bộ hạ là Chiêu Bảo Thiên tôn Tiêu Thăng - 招寶天尊蕭升, Nạp Trân Thiên tôn Tào Bảo- 納珍天尊曹寶, Chiêu Tài Sứ giả Trần Cửu Công - 招財使者陳九公, Lợi Thị Thiên quan Diêu Thiếu Tư - 利市仙官姚少司, có chức trách liên quan đến tài phú của dân gian.
http://img526.imageshack.us/img526/4...ongminhaz5.jpg
Đạo giáo cung phụng Tài thần cũng là Triệu Công Minh. Theo truyền thuyết của Đạo giáo, Triệu Công Minh là người Chung Nam Sơn - 終南山, từ thời Tần 秦 ẩn cư ở thâm sơn, chuyên tu đạo mà thành, được Ngọc Hoàng Đại đế phong là Chính Nhất Huyền Đàn Nguyên sư - 正一玄壇元帥, vì đó có tên gọi là Triệu Huyền Đàn.
http://img261.imageshack.us/img261/8...ngminh3cl5.jpg
Dung mạo thần hung dữ, râu rậm (烏面濃須), mắt trợn tròn (怒睜圓眼), đầu đội mão sắt (鐵冠), một tay cầm roi sắt (鋼鞭), một tay bê Nguyên bảo, cưỡi trên con hắc hổ, do đó còn gọi là Hắc Hổ Huyền đàn - 黑虎玄壇. Triệu Công Nguyên sư có chức trách trừ ôn diệt ác, trừ bệnh diệt tai. Phàm kẻ có oan khuất cầu khấn thần chủ trì công đạo. Người buôn bán cầu tài có thể thu lợi lớn. Vì cầu thần mà thu hoạch tài lộc nên dân gian xem thần như là Tài thần.
Về sau, Tài thần có Văn, có Vũ. Dân gian trọng văn kính võ không giống nhau. Nhà trọng văn chương thờ Văn Tài thần, trọng võ nghiệp, thương buôn thờ Vũ Tài thần. Văn, Vũ tuy khác nhau nhưng đều phát tài hưng lộc.
Ngoài Triệu Công Minh là Chính Tài thần, dân gian còn có Thiên Tài thần- 偏財神, Văn Tài thần - 文財神, Vũ Tài thần - 武財神. Chuẩn Tài thần - 准財神.Và các tài thần trong Phật giáo
THIÊN TÀI THẦN - 偏財神: có Ngũ Hiển Tài thần, Ngũ Lộ Thần,…
NGŨ HIỂN TÀI THẦN - 五顯財神: Tín ngưỡng này lưu hành nhiều ở vùng đất Lam Nguyên, Đức Hưng, Giang Tây, Trung Quốc. Chuyện kể có 5 anh em, lúc sống thường cướp phú tế bần, khi chết thì trừng ác khuyến thiện, phù hộ người dân nghèo khổ. Trước cửa cung An Định ở Bắc Kinh hiện có miếu thờ thần.
http://img526.imageshack.us/img526/1...taithanie6.jpg
Ngũ Hiển Tài thần -五顯財神
NGŨ LỘ THẦN -五路神, còn gọi là Ngũ Lộ Tài thần, ngũ là chỉ năm hướng đông, tây, nam, bắc và trung ương. Ý là khi ra khỏi cửa về phương nào cũng gặp vận tốt, có tài lộc.
Ngũ Lộ thần -五路神
Nhưng theo Cố Lộc 顧祿 trong “Thanh gia lục - 清嘉錄” thì ngũ lộ lại liên quan đến nghi thức ngũ tế 五祀, là cúng tế Hộ thần 戶神, Táo thần 灶神, Thổ thần 土神, Môn thần 門神, Hành thần 行神.
Cũng có thuyết nói Ngũ Lộ Tài thần là Tài thần Triệu Công Minh và bốn thuộc hạ: Chiêu Tài, Nạp Trân, Chiêu Bảo và Lợi Thị.
Ngũ Lộ Tài thần -五路財神
VĂN TÀI THẦN - 文財神:Tài Tuyền Tinh quân, Tể tướng Tỷ Can, Đào Chu Công Phạm Lãi,…
TÀI TUYỀN TINH QUÂN - 財帛星君: còn gọi là Tăng Phúc Tài thần - 增福財神, thường được vẽ cùng Phúc, Lộc, Thọ và Hỉ thần. Tài Tuyền Tinh quân là một vì sao trong Bắc Đẩu thất tinh được miêu tả là vị thần da vẻ trắng trẻo, tay cầm một cái bồn chứa đầy vàng bạc, trên bồn có bốn chữ Chiêu Tài Tiến Bảo - 招財進寶.
http://img408.imageshack.us/img408/9...taithanej6.jpg
Tăng Phúc Tài thần - 增福財神
TỶ CAN - 比幹 :
Hình tượng Tỉ Can được mô tả là một văn quan, đầu đội mũ tể tướng, râu dài năm chòm, tay cầm gậy ngọc như ý, mình mặc áo thêu mãng (hình dạng giống rồng nhưng chỉ có 4 vuốt), đầy đủ bảo vật. Mặt tươi sáng, mắt nhìn nghiêm nghị.
http://img408.imageshack.us/img408/4433/ticanhq5.jpg
Văn Tài thần Tỉ Can -比幹
Theo truyện Phong thần, Tỉ Can là chú của Trụ Vương đời Ân, là người trung nghĩa. Trụ Vương bạo ngược, hoang dâm vô đạo, si mê hồ yêu Đát Kỉ - 妲己 mà bỏ bê triều chính. Tỉ Can nhiều lần can ngăn mà có thù với Đát Kỉ. Đát Kỉ giả bệnh, lập mưu lấy trái tim bảy lỗ (玲瓏七竅之心) của Tỉ Can để làm thuốc. Trụ Vương lầm mê muội mà ép chết Tỉ Can. Vì thấy Tỉ Can trung chính vô tư, không thiên vị nên thương nhân vì đó mà phụng thờ.
http://img403.imageshack.us/img403/2...taithanmi1.jpg
Văn Tài thần Tỉ Can -比幹
PHẠM LÃI - 範蠡 :
Phạm Lãi là một chính trị gia thời Xuân thu chiến quốc. Phạm Lãi tự là Thiếu Bá - 少伯. Phạm Lãi từ nhỏ đã có thiên chất thông minh. Sau được Việt Vương Câu Tiễn - 越王勾踐 bái làm sĩ đại phu. Khi Việt quốc chiến bại, Phạm Lãi cùng đi khổ sai với Câu Tiễn ở Ngô quốc rồi lập mưu mà giúp Câu Tiễn về nước, chiêu tập binh lính lương thực đánh bại Ngô quốc. Việc lớn thành, Phạm Lãi nhận thấy Câu Tiễn là người nhỏ nhen không thể cùng chung phú quý nên đã từ quan, thoái ẩn, cưỡi thuyền nhỏ mà ngao du đông hải, đi đến Tề quốc - 齊國.
http://img408.imageshack.us/img408/447/daochucogso3.jpg
Văn Tài thần Phạm Lãi
Sau lại bỏ Tề quốc mà đến đất Đào sinh sống. Khi giàu có, ông phân hai gia sản chia cho dân chúng, dân chúng ngợi khen và gọi ông là Đào Chu Công -陶朱公 và bái ông làm Tài thần. Phạm Lãi một thân lập nghiệp, tích góp nên vạn lượng, kinh doanh thiện lương mà sử dụng tiền tài cũng vì việc thiện ích nên dân thương buôn rất kính trọng bái làm Văn Tài thần.
http://img408.imageshack.us/img408/5...chucongje9.jpg
Văn Tài thần Đào Chu Công Phạm Lãi
VŨ TÀI THẦN - 武財神: Quan Thánh Đế quân 關聖帝君, tức là Quan Vũ - 關羽, Quan Vân Trường - 關雲長.
Quan Vũ một đời trung nghĩa, dũng vũ kiên trinh, trọng chữ tín, nghĩa khí. Dân thương buôn vì đó mà rất sùng tế, xem ông là Thủ Hộ thần cho ngành nghề của mình.
http://img136.imageshack.us/img136/8145/quandehi5.jpg
Vũ Tài thần Quan Thánh Đế quân - 武財神關聖帝君
Đời Minh, Thanh tôn là Vũ Vương - 武王, Vũ Thánh Nhân -武聖人, xưng tụng là “Vạn năng chi thần- 萬能之神”. Quan Vũ đồng thời được xem như là Chiêu Tài Tiến Bảo Tài thần gia - 招財進寶的財神爺. Phật, Đạo, Nho đều sùng tín.
CHUẨN TÀI THẦN LƯU HẢI THIỀM - 准財神 劉海蟾.
Lưu Hải Thiềm nguyên họ Lưu - 劉, tên Hải - 海, quê tại Yến Sơn - 燕山 (nay là Bắc Kinh), Ông sinh vào thời ngũ đại, từng đỗ tiến sĩ triều Liêu - 遼朝, làm đến chức thừa tướng. Có cơ duyên học đạo với Lữ Động Tân -呂洞賓, lấy đạo hiệu là Hải Thiềm Tử -海蟾子, thường vân du Chung Nam sơn, Đại Hoa sơn.
http://img136.imageshack.us/img136/6...aithiemhj8.jpg
Chuẩn Tài thần Lưu Hải Thiềm - 准財神劉海蟾
Nguyên Thế Tổ phong ông là Hải Thiềm Minh Ngộ Hoằng Đạo Chân quân -海蟾明悟弘道真君, Vũ Tông Hoàng đế gia phong là Hải Thiềm Minh Ngộ Hoằng Đạo Thuần Hữu Đế quân -海蟾明悟弘道純佑帝君. Dân gian thờ phụng ông như là một vị thần tài.
THẦN TÀI TRONG PHẬT GIÁO
HOÀNG TÀI THẦN - 黄财神: tức là Hoàng Bố Lục Kim cang - 黄布禄金刚. Còn gọi là Tài Bảo Thiên Vương - 財寶天王, thống lĩnh Bát Tuấn Tài thần -八駿財神, Bát phương Thiên khố - 八方天庫. Mật Tạng - 佛教藏密 - gọi là “Tạng Ba Lạp ta pha” - "藏巴拉·些玻", là tài thần, chủ về tài phú, tế bần.
http://img408.imageshack.us/img408/3...hantai3of9.jpg
Đương thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tại núi Linh Thứu 灵鹫山 thuyết Đại Bát Nhã kinh 大般若经, các hạng Thần, Quỷ, Ma gặp chướng ngại ngăn trở, lúc ấy Hoàng Tài thần hiện thân bảo hộ, sau Đức Phật phó chúc Hoàng Tài thần là đại hộ pháp, vì lợi ích của chúng sinh cùng khổ mà hộ trì. Hoàng Tài thần có hình dáng bụng to, thân nhỏ, hai tay mạnh mẽ, sắc da ánh vàng kim, tay phải cầm Ma Ni bảo châu - 摩尼宝珠, tay trái ôm chuột 吐宝鼠, đầu đội mão ngũ Phật, thân mặc thiên y, ngồi trên hoa sen xanh lam, đeo châu báu Anh lạc trang nghiêm. Cổ đeo chuỗi hạt, chân trái đạp tòa sen như ý, chân phải đạp ốc biển 海螺宝.
http://img136.imageshack.us/img136/2...hantai2pg9.jpg
Hoàng Tài thần
Hoàng Tài thần chân ngon:OM DZAMBALA DZALEN TRAYE SOHA 唵 藏母巴拉 扎联扎耶 梭哈
Trì chú Hoàng Tài thần có thể đặng nguồn tài lộc rộng mở, khỏi phải khốn cùng, nếu phát tâm vô thượng bồ đề mà trì chú vì chúng sinh cùng khổ thì công đức to lớn vô cùng tận.
NGŨ TÍNH TÀI THẦN -五姓財神, với hình dạng khác nhau, bao gồm năm sắc là lục, bạch, hồng hoàng, hắc; do đó còn gọi là Ngũ sắc Tài thần -五色財神.
TÀI NGUYÊN THIÊN MẪU -財源天母 cũng là một vị Tài thần.
PHỤNG TẾ:
Tài thần Triệu Công Minh đản nhật vốn là ngày 22 tháng 7 nhưng dân gian quen cúng tế vào ngày Nghênh Tài thần mùng 5 tháng giêng.
Ngày mùng 5 tháng giêng, các cửa tiệm khai trương, đánh thanh la, đốt pháo trúc, sắm sửa đủ cả sinh lễ (sinh - 牲: con vật nuôi gọi là súc, dùng để cúng gọi là sinh), rượu lễ để nghinh tiếp Tài thần.
Tập tục nghênh Tài thần thịnh hành từ thời Minh, Thanh lưu truyền đến ngày nay.
Tế Ngũ Lộ Tài thần đản nhật vào ngày mùng 5 tháng giêng.
Thổ Địa thì có Thổ Địa bà, nhưng Tài thần thì không có. Chuyện liên quan đến truyền thuyết “Tài thần bồ tát bỏ vợ” , câu chuyện như sau: Tài thần vốn cũng có một cô vợ rất đẹp, lại có lòng thiện lương. Một bữa nọ có một gã ăn mày vì đói mà đến miếu Tài thần tá túc, vào miếu không lễ Tài thần nương nương, duy chỉ đến trước tượng Tài thần gia mà lạy, miệng cầu Tài thần cho tài lộc, Triệu Công Nguyên sư thấy gã ăn mày nhang đèn cũng không đốt, chỉ biết cầu tài. Nghĩ: thiên hạ thì quá nhiều kẻ ăn xin, ta có thể cứu giúp hết được sao? Lại nghĩ nếu cứu giúp hết kẻ nghèo, người giàu sẽ sinh oán, sẽ không cúng tế để cầu tài nữa nên không giúp gã ăn mày. Tài thần nương nương động lòng trắc ẩn, chuốc rượu trông đến lúc Tài thần ngủ say mong lấy được tiền để cho gã ăn xin. Nhưng tiền tài là do Tài thần nắm giữ, bà không thể lấy nên đành gỡ cái khoen tai nhắm gã ăn xin mà ném. Gã ăn xin dập đầu hô to “khấu tạ Tài thần Bồ tát”. Tài Thần gia giật mình thức dậy, phát hiện chiếc khoen tai là vật định tình đã bị vợ đem cho gã ăn xin, tức giận mà đẩy bà ra khỏi bệ thờ. Vì vậy về sau chỉ có Tài thần gia trong khám thờ, dân gian từ đó cũng có câu thành ngữ:không có kẻ nghèo nào lễ bái Tài thần mà phát tài.
Trong dân gian, hình tượng Thần tài rất phong phú và đa dạng với phong thái rất gần gũi.
http://img408.imageshack.us/img408/5...lw4.gif:finga:
Xem 31 bình luận của bài viết này tại đây.
Chia sẻ bởi: ma_xiao_ling
Chia sẻ Trả lời Thông báo Spam
ma_xiao_ling ma_xiao_ling 2 Chia sẻ Trả lời
Tên ban thờ các Thổ Địa
http://www.vatgia.com/pictures_mediu...1220865193.JPG
Cóc ba chân là 1 yêu quái,cốc này có biệt tài chuyên thu khí tài và nhả ngọc,Cóc đi làm hại dân lành có 1 vị tiên nhân tên là LƯU HẢI mà sau này trong bảng PHONG THẦN có ghi là Thần Tài Lưu Hải,vị này đã lừa Cóc và câu được Cóc thu phục nó,Cóc ta cải tà quy chánh và theo Thần Tài Lưu Hải đi khắp dân gian cứu giúp mọi người,sau này dân gian không để hình tượng Thần Tài Lưu Hải đi chung với Cóc nữa mà tách riêng ra chỉ có 1 mình Cóc ta mà thôi.
Mẹo dân gian hay dùng Cóc 3 chân miệng ngậm 1 đồng tiền để tại cung Tài Lộc hoặc trên ban thờ,để chéo cửa chính như là Cóc đang nhảy vào nhà,Nhưng Cóc khi mua về thì chỉ là 1 Linh vật bình thường,mọi phải cạo vía cho Cóc thì mới có linh nghiệm,nên chọn mua Cóc có thể tháo đồng tiền ở miệng ra,mọi người lấy 1 đồng tiền mà mình đã xin lộc may mắn rồi để vào miệng Cóc,sau đó có thể chọn giờ tốt bắt đầu ôm Cóc vào nhà tạo cảm giác như Cóc mang tiền vào,nếu cầu tài lộc hơn thì mua 1 bộ cóc 9 con,1 to 8 nhỏ sau đó cạo vía và để vào các góc,gầm bàn,ghế tránh cho người khác thấy được Cóc.Đó là mẹo chiêu tài của Trung Hoa rất linh nghiệm.
thanhcong102 thanhcong102 2 Chia sẻ Trả lời
LINH oi, nhà mình có ông cóc có cuốn thư to cỡ 40 x40 cm thì có để ở cạnh thần tài được ko? Nghe nói cóc có cuốn thư rồi thì sáng ko phải quay ra cửa, và tối ko phải quay vào thần tài nữa, có đúng ko? Ông cóc này to và nặng nên quay ra quay vào hàng ngày cũng hơi bất tiện. Nếu để được thì phải đặt ông cóc này ntn? ông cóc này mình mua ở Lạng Sơn, cứ thế mang về nhà chứ chưa làm gì cả? Bây giờ muốn thờ ông thì phải làm thế nào?
Ông xã mình mạng thổ nên mình định mua một ông cóc bằng đá để vào bàn thờ thần tài ở chỗ làm của OX, nhưng ko biết phải cạo vía cho ông cóc ntn? LINH chỉ giúp mình với nhé. Cám ơn LINH nhiều.
ma_xiao_ling ma_xiao_ling 2 Chia sẻ Trả lời
LINH oi, nhà mình có ông cóc có cuốn thư to cỡ 40 x40 cm thì có để ở cạnh thần tài được ko? Nghe nói cóc có cuốn thư rồi thì sáng ko phải quay ra cửa, và tối ko phải quay vào thần tài nữa, có đúng ko? Ông cóc này to và nặng nên quay ra quay vào hàng ngày cũng hơi bất tiện. Nếu để được thì phải đặt ông cóc này ntn? ông cóc này mình mua ở Lạng Sơn, cứ thế mang về nhà chứ chưa làm gì cả? Bây giờ muốn thờ ông thì phải làm thế nào?
Ông xã mình mạng thổ nên mình định mua một ông cóc bằng đá để vào bàn thờ thần tài ở chỗ làm của OX, nhưng ko biết phải cạo vía cho ông cóc ntn? LINH chỉ giúp mình với nhé. Cám ơn LINH nhiều.
Bạn đặt ông cóc quay vào hướng ban thờ tốt nhất là lưng chéo cửa chính như cóc nhảy vào nhà,còn chuyện sáng quay ra chiều quay vào là do quan niệm là cóc nhả tiền sáng ngày ra khi mình buôn bán cóc sẽ hút tài lộc,tối cóc sẽ nhả tài lộc ra cho nên tối nên quay vào,bạn để quay vào suốt ngày cũng được,còn cạo vía cóc là nếu cóc bạn mới mua về thì nên tắm rửa sạch sẽ và nếu có thầy phong thủy hoặc các pháp sư họ sẽ cạo vía vẽ mắt khai quang cho cóc,nếu bạn đã để cóc ở ban thờ lâu rồi thì cũng chả cần đâu vì để lâu rồi cũng có chút linh khí,Chồng bạn mạng thổ mua cóc Thổ hoặc Kim là tốt nhất.Nếu mua để trên bàn chiêu tài thì mua vật khác chứ không nên mua cóc.Sắp tới mình có người thân ở Hà Nội sẽ bán đồ về phong thủy,các đồ này toàn của mình gửi ở TQ về,bạn nào cần thì liên hệ nhé,sau vài ngày sẽ nhận được hàng,mong các bạn ủng hộ.kinh sách về Mật Tông bạn nào cần thì liên hệ mình sẽ ấn tống tặng cho các bạn.
Nếu bạn vẫn muốn Cạo Vía cho Cóc thì Pm cho Ling.Tôi sẽ chỉ cho bạn cách tự Cạo vía cho cóc theo cách dân gian của TQ.Đem nhờ các thầy gặp thầy tốt không sao gặp thầy dởm thì thà tiền đó để làm công quả sẽ tốt hơn.
thanhcong102 thanhcong102 2 Chia sẻ Trả lời
Cám ơn Ling nhiều nhé. Mình muốn Pm cho Ling thì phải làm thế nào?
Mình đăng ký một bộ kinh nhé. Ling có kim nguyên bảo và ông cóc bằng đá ko? Nêú có mình đăng ký 3 kim nguyên bảo và 1 ông cóc bằng đá nhé.
ma_xiao_ling ma_xiao_ling 2 Chia sẻ Trả lời
bạn bấm vào tên mình sẽ có mục nhắn tin riêng đó.Chồng bạn thỉnh cóc Kim Khí thì tốt hơn vì đá bây giờ toàn loại rẻ tiền chả có công năng gì với lại bằng kim khí sẽ có 1 lỗ rỗng dưới bụng để cho vật cạo vía vào trong còn cóc đá thì không có.Nếu vẫn muốn thỉnh cóc Thổ khí thì chọn loại bằng bột đá ép còn đẹp hơn và lại rẻ.Bạn cần loại gì thì pm cho mình sau 7 tuần sẽ nhận được.Kinh sách thì cần sách gì để mình bảo người ở Hà Nội ấn tống tặng bạn.
ma_xiao_ling ma_xiao_ling 2 Chia sẻ Trả lời
Bài này là nghiên cứu của hội THÔNG THIÊN HỌC dưới góc nhìn khoa học hiện đại>Hội Thông Thiên Học gồm những người có khả năng tâm linh giống như PHAN THỊ BÍCH HẰNG của Vn họ gặp gỡ và ghi chép lại qua sự tìm hiểu và đối thoại với những vong linh.Bài này rất phù hợp và trùng với những khảo cứu về cõi vô hình của 2 tác giả,1 của đại tá Minh Chánh và của tác giả cuốn sách Hành Trình Về Phương Đông,3 người này có những cuộc khảo cứu với thời gian bài này cách xa bài kia hàng chục năm và địa lý cũng khác nhau,nhưng lại rất giống nhau về quan điểm.Điều đó cũng nói lên sự xác thực của các tài liệu.Các bạn nên tìm hiểu vì vấn đề này trước sau gì chúng ta cũng sẽ phải gặp muốn né tránh cũng không được vấn đề là sớm hay muộn thôi.
ĐỜI SỐNG BÊN KIA CỬA TỬ
LỜI TỰA
Cửa Tử là cửa mà mọi người đều phải bước qua ! Vì sự bí mật cùa nó mà lắm người nơm nớp, lo âu và sợ hãi ! Họ sợ không biết mình sẽ đi về đâu, sẽ đến đâu và sẽ làm gì ? Họ sợ mình đã phạm lỗi ít nhiều, nay mình chết rồi, mình phải chịu sự hình phạt nào cho xứng đáng ? Mình có bị ngồi bàn chông, đầu đội chậu máu không ? Mình có bị cắt tai, cắt lưỡi không ? Ôi ! nghĩ tới bao nhiêu thì sợ hãi bấy nhiêu !
Nhưng quí bạn chớ quá kinh hoàng và buồn bực ! Biết rằng: Có tội phải trừng: nhưng trước lòng bác ái và minh triết của Đức Từ Phụ, tội nhơn phải đi vào qui luật tùy theo tội của mình nặng, nhẹ. Chính cái luật thiêng liêng đó dìu dắt mình bước qua các “ải”, rồi cũng chính cái luật thiêng liêng đó đưa mình từ từ đến cõi Bồng Lai Tiên Cảnh ! Các cửa “ải” nầy cũng như những viên đá nam châm thu hút tội nhơn. Hễ tội nhỏ thì cái “ải” nhỏ; tội lớn thì cái “ải” lớn. Mấy cái “ải” nầy tượng trưng bảy cảnh của cõi Trung giới, thanh, trược khác nhau. Cảnh thứ bảy thấp nhất sánh với cái ải lớn. Nó có một thứ từ điển xấu xa, và những vong linh thô tục; nó thu hút những người ô trược, say sưa, trộm cướp và dâm dật v.v…
Còn cảnh thứ nhất thì thanh bai, tốt đẹp, nhẹ nhàng, siêu việt. Nó thu hút những linh hồn trong sạch, hiền hòa, đạo đức. Chỉ có thể thôi ! Chớ thật ra, Đức Thượng Đế không có phạt ai cả ! Không có cưa ai cả ! Vì lẽ thứ nhất, người chết đâu còn có xác mà cưa ? Vì lẽ thứ nhì : Đức Từ Phụ của chúng ta giàu lòng bác ái đâu nỡ cưa con, nấu dầu con, mà Ngài để cho con tự sửa mình. Nếu con không sửa mình cứ làm sái, thì con sẽ bị rút vào cảnh thấp, chung sống với đồng bọn thấp hèn; đợi bao giờ cho tánh xấu sẽ tiêu mòn và sẽ trở thành tiêu cực trong mấy ngàn năm dài đăng đẳng: vì không được bồi bổ - (tỷ như thèm ăn, thèm uống r***, thèm tà dâm mà không được thỏa mãn) - bấy giờ linh hồn mới nhẹ nhàng mà thăng lên cảnh cao hơn. Sự đền tội xem dường quá nhẹ, nhưng nó kéo dài như vô tận, có khi cả chục ngàn năm trong cảnh bất mãn: vì các tánh xấu không có dịp hoành hành, mà phải trở thành tiêu cực. Thời gian dài ấy rất cần kíp cho tội lỗi tiêu mòn ! Nhưng trong khi đền tội đó, nếu có được một vị cứu tinh nào đến chỉ daỵ cách thức tu hành để tự cải sửa, thì tội sẽ tiêu mòn mau lẹ. Nhơn đó, sự cầu nguyện cho người chết có được các vị Thiên Thần giúp đỡ, chỉ dạy, là điều cần kíp !
Hỡi quí bạn đang buồn rầu kia ! Hãy vui lên và tràn trề hy vọng được cứu rỗi, nếu quí bạn sẵn sàng quên mình, độ chúng, đem tình thương xóa bỏ mọi lỗi lầm của kẻ khác và dang tay ôm vào lòng mình tất cả mọi người dưới thế gian !
________________________________
1.- DẪN KHỞI
Đề tài “Đời sống bên kia cửa tử” liên hệ đến mỗi người chúng ta: vì lẽ một ngày kia tất cả chúng ta đều phải từ bỏ cõi trần để qua thế giới khác. Vả lại hiện nay, trong chúng ta không ai mà không mất một người thân yêu, và không khỏi đôi lần bi khóc. Chúng ta đau khổ trước cảnh lâm chung của người quí mến. Chúng ta chẳng còn biết chi là sự vui vẻ ở đời nữa ! Chúng ta không còn ước vọng gì gặp lại người quá vãng nữa ! Chúng ta tưởng chừng như người ấy hóa ra mây khói, rồi tiêu tan đi mất ! Tưởng tới chừng nào, lòng dạ chúng ta như nung, như nấu: vì chúng ta không hiểu được người mất đó ra thể nào ? Và nếu người ấy không tiêu mất, thì ở tại đâu ? Tình trạng của y ra sao ? Đó là những câu hỏi mà chúng tôi ráng trình bày cho quí vị hôm nay, dưới ánh sáng Thông Thiên Học. Chúng tôi mong sao những chân lý về “Đời sống bên kia cửa tử” sẽ mang đến cho quí vị một niềm an ủi sâu xa và giải đặng nỗi lòng sầu muộn của quí vị. Vậy xin quí vị hãy bình tâm một lát để suy gẫm những lời của các huynh trưởng trong Hội Thông Thiên Học như bà Blavatsky, ông Olcott, bà Annie Besant và ông C.W.Leadbeater v.v. . . mà chúng tôi đã ra công góp nhặt.
Trước khi đi sâu vào vấn đề, chúng tôi xin lược giải về sự chết.
2.- SỰ CHẾT
Con người là một sinh linh gồm có hai phần :
a) Phần thể xác hữu hoại.
b) Phần linh hồn trường tồn.
Con người không phải là xác thịt; nó vốn là y phục của con người mặc. Khi y phục cũ, rách, dùng không được nữa, thì con người vứt nó đi để may cái mới. Sự chết là sự cởi cái áo rách đó.
Con người quả thật là linh hồn, là một điểm linh quang của Đức Thượng Đế. Linh hồn đã sống biết mấy vạn kiếp rồi, trước khi nó mặc bộ áo quần nầy, mà ta gọi là xác thịt. Và khi xác thịt đó tan ra tro bụi, thì linh hồn vẫn sống đời đời kiếp kiếp. Cái kiếp sống dưới thế gian nầy chẳng qua là một ngày của đời sống linh hồn. Bởi vậy người từ trần đâu có mất. Y chỉ bỏ xác thịt mà thôi.
Nhưng nơi đây, chúng tôi xin nói thêm một chút nữa.
Chẳng phải đợi đến lúc lâm chung, con người mới bỏ bộ y phục bằng nhục thể đó đâu. Mỗi đêm trong lúc ngủ, con người phải lìa nó một ít lâu, rồi dùng cái Vía (là một cái thể thanh hơn xác thịt) để ngao du. Mắt phàm thấy không đặng cái Vía, trừ những người sống trong cái Vía (như những vong linh hay người ngủ) mới thấy đặng nó mà thôi, bởi vì những vật nào đồng tánh chất mới thấy nhau đặng. Vậy ngủ cũng giống như chết. Nhưng có khác nhau một chút là: sau giấc ngủ, hồn còn trở vô nhập xác, chớ khi thác rồi, thì hồn bỏ xác luôn, không trở lại nữa.
Chết tỷ như cởi áo choàng ngoài. Mà hễ cởi cái áo choàng ngoài ra, thì con người còn cái áo trong. Cái áo trong đó ví như cái Vía. Cái Vía làm bằng chất khi thanh hơn xác thịt. Nhờ xác thịt linh hồn mới thông đồng với cõi trần đặng. Cái Vía cũng hữu ích như xác thịt vậy. Nhờ nó, linh hồn thông đồng với cõi Trung giới đặng. Nếu không có cái Vía, linh hồn làm sao tiến hóa trong cõi ấy ? Nhưng chớ tưởng rằng: cõi Trung giới là mơ hồ và ở xa xăm lắm mà người ta không thể lên tới được. Không, cõi Trung giới cũng ở xung quanh ta đây, nó thấu nhập cõi trần và ló ra khỏi cõi ấy; để tạo thành cõi Trung giới với 7 lớp khí khác nhau. Ngoài cõi Trung giới, còn nhiều cõi khác cao xa hơn; song linh hồn người mới chết lên đó chưa được. Ta đã nói ở trước rằng: khi ta mặc áo choàng là ta ở cõi trần; và khi ta cởi áo choàng ra là ta ở cõi Trung giới. Con người của ta vẫn cứ y nguyên như trước. Ta không thay đổi gì cả. Cũng như ta đi đâu về, khi tới nhà, ta cởi áo choàng ra, hỏi ta có thấy mình thình lình bay bổng lên chót núi cao chăng ? Ta cũng vẫn đứng ở chỗ cũ mà thôi. Bởi vậy, lúc người bỏ xác thịt rồi, cũng vẫn còn ở trong nhà; chỉ có khác một chút là y thấy được cõi Trung giới, chớ không thấy được cõi trần. Y thấy cái Vía đồ vật trần gian, chớ không phải đồ vật thực sự.
Vậy, người khuất mặt không có xa ta đâu. Họ vẫn ở bên cạnh ta, mà ta không thấy đặng: là vì họ ở trong cái Vía, làm bằng chất Thanh khí, khác biệt với chất hồng trần của xác thịt; nó chẳng kích thích được nhãn quang của ta nên ta thấy không đặng.
Nếu ta tin ở lòng bác ái của Đức Từ Phụ, thì sẽ yên lòng mà giao phó đời ta trong tay Ngài. Trong lúc ta sống, Ngài ưu đãi ta – (nếu đời ta cao thượng) – thì không có lý do gì, khi ta chết, Ngài lại cất lộc ta, và làm cho ta phải bị đau khổ sao ?
Nếu ta có được đức tin nầy, thì ta không còn sợ chết nữa. Sự chết chỉ là một giai đoạn cần yếu cho sự tiến hóa của ta. Nó không phải là kẻ nghịch của ta, mà là một người bạn tốt; và cõi chết không phải một nơi kẻ du hành đi không bao giờ trở lại… Nó cũng không phải là nơi tăm tối, u minh, đưa người đến khoảng trống không, ghê rợn; và hễ ai bị rơi vào đó, thì phải mất tiêu !
Thông Thiên Học có sứ mạng giải đáp những điều trên đây. Nó tuyên bố rằng: cõi tử chẳng phải là một vực thẳm, mà là một thế giới ánh sáng và linh hoạt hơn cái đô thị mà ta sinh sống đây. Chính ta đã bày vẽ ra những chuyện ma quỉ rợn người, để nhát sợ trẻ em. Nếu ta chịu sưu tầm học hỏi về cõi Trung giới, thì những đám mây mù bao phủ ta sẽ tan mất, và ta sẽ thấy Tử Thần không có vẻ hung ác, với lưỡi hái sáng ngời như đang sắp chặt đầu ai; mà là một vị Thiên Thần xinh tươi, đẹp đẽ, cầm chiếc chìa khóa vàng để mở cửa cho ta thấy một thế giới vĩ đại hơn và linh hoạt hơn.
3.- SỰ TRƯỜNG CỬU CỦA LINH HỒN
Nhưng quí vị sẽ nói rằng :
- “Phải, những điều nói đó tốt đẹp quá, thơ mộng quá, nhưng làm sao cho chúng tôi tin mới được chớ !”
- Quí vị nói rất đúng. Vậy xin quí vị hãy theo dõi chúng tôi, rồi quí vị sẽ thấy được một phần nào cái thực trạng của sự tử.
Người nào có công thu nhặt thì không thiếu gì bằng cớ.
Từ nghìn xưa, ông cha của ta đều thí nghiệm và công nhận rằng: người chết không bao giờ mất. Họ vẫn còn sống, và còn sống mạnh hơn lúc ở trần nữa. Những vụ ma hiện hình, dời đồ vật, những lời báo một của người chết được thực hiện, những cuộc xây bàn, cầu cơ, giáng bút, là những bằng cớ hiển nhiên mà ai là người Việt Nam cũng đều biết.
MỸ QUỐC
Chính tại Mỹ quốc, vào năm 1848, quần chúng lưu ý đến những hiện tượng thần linh lần thứ nhất. Người ta nghe tiếng động trong nhiều nhà. Người ta thấy bàn ghế dời chỗ, do một sức mạnh vô hình. Chúng tự nhiên giở hỏng chơn, bay tuốt lên trần nhà hoặc giả chúng tự ên đập mạnh xuống đất. Thiên hạ xôn xao bàn tán. Có một vị khán giả có sáng kiến để cho chơn bàn nhảy đồm độp trên 25 chữ cái, rồi đọc lên thành câu để nói chuyện với những người khuất mặt. Trước những câu hỏi khó khăn, cái bàn ấy đều giải đáp được. Có khi vong linh đẩy cái bàn trên 25 chữ cái để nói đúng ngày giờ mình chết và chỗ ở khi xưa của mình.
Những hiện tượng thần linh nầy lan tràn ra mau lẹ, choán trọn cả xứ Hoa Kỳ lúc bấy giờ, khiến những nhà khoa học cho đó là một nguyên nhân dị đoan, gây rối và hăm dọa lẽ phải cùng sự hòa bình của dân chúng. Họ nhất định quan sát chúng nó kỹ lưỡng để tố giác với chánh quyền. Trong mấy vị nầy, có quan tòa thượng thẩm Edmonds ở New York kiêm giáo sư Hóa học tại Mapes của Hàn lâm viện Quốc gia và kiêm Chủ tịch Quốc hội. Sau khi quan sát sưu tầm và khảo sát, ông phải buộc lòng tuyên bố rằng: “Những hiện tượng thần linh là một điều có thật”. Đến năm 1852, có một lá đơn thỉnh nguyện, do 15 ngàn người ký tên, đệ lên Đại Hội Nghị Washington để yêu cầu công nhận và tuyên bố một cách chánh thức sự có thật của những hiện tượng thần linh đó [1].
Có một nhà thông thái trứ danh tên là Robert Hare, giáo sư đại học ở Pensylvanie (Mỹ quốc) có viết một quyển sách rất có giá trị nhan đề “Experiment investigations of the spirit manifestations” (Sự sưu tầm thực nghiệm về những hiện tượng thần linh). Trong đó ông hoàn toàn công nhận sự trường tồn của linh hồn.
Một nhà thông thái khác tên là Robert Dal Owen, văn sĩ nổi tiếng cũng hợp tác với phong trào thần linh. Ông có viết nhiều quyển sách rất có giá trị. Một trong nhiều quyển ấy, nhan đề là “Foot falls on the boundary of another world” (Bước qua biên giới của một cõi khác) làm chấn động cả thế giới.
Hiện nay: “phong trào thần linh học” đã quen thuộc với dân chúng Hoa Kỳ. Nó có hàng triệu người tham dự.
ANH QUỐC
Chính bên Anh Quốc, người ta phân tích một cách tỉ mỉ và có phương pháp những hiện tượng thần linh. Nhiều nhà thông thái Anh đã sưu tầm rất công phu và nhẫn nại về nó.
Năm 1869, có một nhóm người thông thái, thuộc về Hội Biện Chứng Pháp tại Luân Đôn gọi là La Société des recherches psychiques de Londres bầu cử một ban quản trị gồm có 33 người, toàn là những nhà tên tuổi, trí thức lỗi lạc như Sir John Lubblock (của Hội Hoàng Gia), Henri Lewes, Huxley, Wallace, Grookes v.v. . . để quan sát những hiện tượng đó một cách khoa học: vì họ cho rằng chúng nó chỉ là sự tưởng tượng của một trí óc dị đoan phi lý mà thôi.
Sau 18 tháng thí nghiệm và sưu tầm, ban quản trị mới làm một bản phúc trình công nhận sự hiện tồn của linh hồn. Chẳng những bản phúc trình nầy có nói về những cái gõ của bàn ghế, những dụng cụ âm nhạc tự nhiên phát lên âm điệu, mà còn diễn tả tỉ mỉ về ma hiện hình nữa. Trong đó có câu nầy: “Chúng tôi thấy ma hiện hình, có khi chỉ hiện ra cái mặt hoặc bàn tay mà thôi. Những hình hiện nầy giống như những hình sống, do sự linh hoạt và sự uyển chuyển của chúng nó”.
Một trong ba nhân viên của Hội là ông A. Russel Wallace - một đối thủ xứng đáng của Darwin. Sau khi ông Darwin chết, thì ông A. R. Wallace là đại diện cao cấp nhất của cơ quan Tiến hóa luận (Evolutionnisme) tiếp tục sưu tầm. Những sưu tầm của cơ quan nầy đều có ghi chép trong quyển sách của ông, nhan đề “Miracles and Modern spiritualism” (Sự phi thường và thần linh học tân tiến). Quyển sách ấy rất có giá trị bên kia trời Âu.
Còn một nhân viên tên tuổi của Hội nữa là ông William Crookes. Ông thuộc về Hàn lâm viện Hoàng gia. Ông có chụp hình được những bầu vũ trụ và nhờ ông mà ta thấy được mặt trăng một cách rõ rệt hơn. Ông có phát minh được một chất hóa học gọi là Thallium. Ông còn phát minh đặng trạng thái thứ tư của vật chất nữa, nên ông chiếm một ngôi vị tại Vĩ Nhân Đài của Anh quốc. Tên ông đứng bên tên ông Newton và ông Herschell là những nhân vật nổi tiếng khắp hoàn cầu.
Ông W. Crookes đã phí 4 năm trường để nghiên cứu về những hiện tượng thần linh. Ông có làm những khí cụ để kiểm soát một cách khoa học và rất tế nhị. Ông có dùng kính chụp hình đặc biệt có chất Magnésium để chụp hình ma. Trong quyển sách của ông nhan đề “Recherches sur le Spiritisme” (Tìm hiểu về Thần linh học) có phân tích nhiều thứ hiện tượng mà ông đã được mục kích, cũng như: sự cử động của những đồ vật nặng, những bàn bay lên dính trên trần nhà, đờn không ai đánh tự nhiên kêu, những hình ma hiện, những cây viết treo lên tường tự nhiên viết thành chữ v.v. . .
Có một hồn ma thiếu nữ, trẻ, đẹp, tự xưng là Katie King hiện lên với hình thể đầy đủ, mỗi buổi tối, trong nhiều tháng như vậy, để nói chuyện với ông bà Crookes và những vị khán giả khác. Cô chịu nhiều thứ thí nghiệm như: để cho người ta rờ, bắt mạch, chụp hình. Và khi xong rồi, cô từ từ biến tan mất ! Sự kỳ lạ nầy đã được ông W. Crookes điều tra tỉ mỉ, rõ ràng trong quyển sách của ông.
Ngoài ông Crookes ra, còn nhiều vị bác học như Myers, Gurney và Podmore của hội “Tìm hiểu Thần linh” (Society for psychical Researches) đã phí 30 năm trường để điều tra tận tường về Thần linh học; và tất cả đều công nhận rằng: “Người chết có trở về”. Có nhiều nhà trí thức lỗi lạc của Anh quốc viết sách để bào chữa và biện hộ cho Thần linh học như: ông Stainton Mases, Giáo sư Đại học Oxford, xuất bản hai quyển sách Psychography và Spirit identity.
Ông Oliver Lodge, Đại học Viện trưởng Birmingham (Recteur de l’Université de Birmingham), ông Varley Kỹ sư trưởng của Sở Bưu điện, ông A. de Morgan chủ tịch hội toán học ở Luân đôn, tác giả quyển “From Matter of Spirit” và ông Challis Giáo sư Đại học Cambridge, ông Barett Giáo sư Đại học Dublin đều phí nhiều năm khảo cứu về Thần linh học và đời sống bên kia cửa tử.
Ông Myers tại Cambridge có viết một quyển sách xuất bản hồi năm 1903, nhan đề là “Human personality and its survival of bodily death” (Bản ngã con người và sự trường tồn của nó sau khi xác thân chết). Sách nầy trình bày có phương pháp và đầy đủ những hiện tượng thần linh [2].
Ông Oliver Lodge Đại học Viện trưởng Birmingham có nói trong bài diễn thuyết của ông tại Browning Settlement ngày 22 tháng 11 năm 1914 như vầy:
“Chắc chắn là: sau khi bỏ xác chúng ta vẫn còn sống . . . Tôi nói như thế là vì tôi biết chắc rằng: Những người bạn thân của tôi đã từ trần mà vẫn còn sống; chính tôi đã có trò chuyện với họ y hệt như tôi nói chuyện với quí vị trong giảng đường nầy. Họ là nhà khoa học nên họ có cho tôi nhiều bằng cớ chứng thực rằng: họ quả còn sống sau khi bỏ xác lại trần.
Vậy tôi nói với quí vị, một cách hết sức mạnh dạn, với đức tin vững chắc rằng: chúng ta vẫn còn sống sau khi chết và những người quá vãng vẫn tiếp tục lo lắng đến những gì xảy ra tại cõi trần nầy. Họ còn biết nhiều chuyện ở thế gian hơn chúng ta biết. (trích trong Annales des Sciences psychiques, Janvier 1916).
Ý QUỐC
Chẳng những phong trào Thần linh học nổi lên tại Y pha nho, Đức quốc, mà còn tại Ý quốc nữa.
Tờ báo Milan nhan đề: Italia del Papolo xuất bản ngày 18 tháng 11 năm 1892, có đăng một bản phúc trình do các nhà thông thái ký tên để nhận thực như: các ông Schiaparelli giám đốc Thiên văn viện tại Milan, Aksakof, cố vấn chánh trị Nga. Bác sĩ Carl du Prel. Munich, Angelo Brofferie giáo sư triết học, Gerosa, giáo sư Vật lý học tại Portici, Ermacora và G. Finzi, tấn sĩ Vật lý học, Charles Richet giáo sư Đại học Y khoa, Lambroso, giáo sư Đại học Y khoa v.v. . .
Trong bản phúc trình đã có kể những hiện tượng như sau:
“Dời đồ vật không nhờ tay người, ghế bàn bay bổng, đờn tự nhiên khải. Trên đất sét hoặc trên giấy rắc khói đen có dấu tay in mà không thấy người. Một bàn tay hiện ra trong ánh sáng.
Ánh sáng xanh leo lét hiện lên, người đồng tử đang ngồi trên ghế, tự nhiên bị nhấc bổng lên khỏi mặt bàn, những khán giả cảm biết như có ai rờ rẫm mình, mà không thấy người, một gương mặt râu ria hiện lên”
Giáo sư Milési tại Đại học đường La Mã có viết rằng: “Có một vong linh nói với tôi: Tại sao ông lại phí thì giờ về chuyện nhỏ mọn nầy ? Tôi có thể cho ông thấy mặt mẹ ông. Nhưng trước đó, ông phải nhớ đến mẹ ông một cách mãnh liệt.
Tôi làm theo lời chỉ dẫn.
Thình lình, trong ánh sáng tờ mờ của bóng đèn đỏ, tôi thấy, giữa hai tấm màn, hiện lên một hình người, đứng hơi nghiêng nghiêng, có choàng một cái khăn. Ấy là mẹ tôi. Người đi xung quanh bàn để đến gần tôi, nói những lời mà nhiều người nghe được. Sau cùng người nói với tôi “mio fiol” (con của tôi ơi) rồi vén khăn choàng hôn tôi”.
PHÁP QUỐC
Có những nhà thông thái khảo cứu về Thần linh học như các ông L. Denis, tác giả quyển “Après la Mort” (Sau khi chết), Camille Flammarion tác giả quyển “L’inconnu et les problèmes psychiques” (Cõi lạ và những vấn đề thần linh) và Allan Kardec tác giả của những sách “Le livre des médium” (Sách về đồng tử), “L’Evangile selon le Spiritisme” (Phúc âm theo Thần linh học), “Le Ciel et l’Enfer selon le Spiritisme” (Thiên đàng và Địa ngục theo Thần linh học), “La Genèse” (Thỉ nguyên thuyết).
Vào năm 1889 và 1900 tại Paris có mở những Đại Hội nghị quốc tế về nhân sinh học có rất nhiều người tham gia. Có cả trăm đại biểu từ các xứ trên thế giới đến quan sát. Những ký giả của 80 tờ báo lớn ở Pháp quốc đều có mặt. Những nhà trí thức trứ danh, những vị đại diện cho chánh phủ cùng các bậc anh tài của thế hệ như: Bác sĩ, Chánh án, Giáo sư, Mục sư, Linh mục của những nước Âu châu đều đến đó để điều tra. Sau cùng, tất cả không thể nghi ngờ được sự hiện tồn của “ma”.
VIỆT NAM
Còn bên xứ Việt Nam ta thì có biết bao là hiện tượng thần linh. Nào là cơ bút, nào là ma hiện, nào là đồng cốt v.v. . . Bên Đạo Cao Đài, Hòa Hảo không ai mà phủ nhận được những hiện tượng thần linh.
https://sotaychame.com/thu-gian-giai...an-130192.html