https://www.youtube.com/watch?v=ntwjE-vakYY
聽即解脫咒.wmv
Printable View
【聽即解脫咒】
此咒語傳承自蓮花生大士的伏藏法, 藏於文武百尊守護的壇城中。
由於偉大的慈悲心,蓮師給予懶惰的 類及無知的動物這些咒語,讓他們得 從下三道獲得解脫,最終證入佛道。
蓮師說:「聽即解脫,只要聽到這些 音就已足夠。 」
聽到咒音之後,心中所留下的感官印 ,將成為未來中陰身時普賢王如來引 此人的吉祥徵兆,並成為獲得未來成 佛之功德益利的器皿,進入密宗之道 確定未來可以成佛。
根據這個預示,虔誠祈禱持誦此咒者 將帶給眾生無量功德利益,小至昆蟲 大到人類。
~ 第十二世嘉察仁波切開示
聽即解脫咒
Ah Ah Sha Sa Ma Ha
Ma Ben Dharma Ra Ra
Ha Gan K(g)a Ah Sha La
Sa Den Dharma Da Li
Ga Ha Na Ah Li Ta
Ha Ma Sa Sha K(g)i U
阿 阿 夏 沙 嘛 哈
嘛 北ㄣ 當 嘛 ㄖㄚ ㄖㄚ
哈 港 嘎 阿 夏 拉
沙殿ㄣ 當 嘛 達 哩
嘎 哈 哪 阿 哩 答
哈 嘛 撒 夏 給 優
咒語 :蓮花生大士
持誦 :嘉察仁波切
風鈴聲:錫金拉浪寺門口兩座大風鈴
http://www.lama.com.tw/content/meet/act.aspx?id=2631
BUDDHA-NAYA (Ly thu cua su giac ngo)
TADYATHA OM VAJRA-AGRIYA AVA BUDDHANAYA SVAHA (7x).
《福份无量》--积福之道开示熏烟供养仪轨- 祈竹仁波切- 显密文库佛教文集 ...
fowap.goodweb.net.cn/news/news_view.asp?newsid=3399
- Dịch trang này
om vajra amrita kundali hana hana hum phat ... om svabhava shuddah sarva dharma svabhava shuddho hang ... tadyatha om panji griya awa bodhani soha. +1.
班禅善慧法幢所造熏烟供养法_显密文 佛教文集佛教电子书佛教图书 ...
http://www.hglws.com/e/action/ShowIn...id=567&id=8969
- Dịch trang này
7 thg 8, 2009 - om vajra amrita kundali hana hana hum phat. 唵森巴华淑打沙华打玛森 ... tadyatha om panji griya awa bodhani soha. QQ空间 新浪微博 腾讯微 .
积福之道开示熏烟供养仪轨- 密宗功法- 修真|修真世界|修真功法论坛|修 ...
http://www.xiuzhen123.com/forum.php?...hread&tid=5704...
- Dịch trang này
24 thg 3, 2015 - om vajra amrita kundali hana hana hum phat 唵森巴华淑打沙华打玛森巴 ... 打尼 疏哈 (圆满成就真言) tadyatha om panji griya awa bodhani soha .
PHÁP CÚNG KHÓI GOM TỤ TIỀN CỦA (.PDF)
Phục hồi Phạn Chú và Việt dịch: HUYỀN THANH
(Đại Bảo Pháp Vương đời thứ 13: Cát Mã Ba Đôi Đốc Đa Kiệt (Karmapa Dudul Dorje) truyền thừa Pháp gom chứa Phước Đức tư lương. Thượng Sư hứa là không cần truyền miệng, đều có thể tu trì)
http://lopdayhocchophat.blogspot.com...-mat-giao.html
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...1%BB%95/page48
===========
TƯ LIỆU VỀ PHÁP CÚNG DƯỜNG KHÓI / Đăng bởi: Trần Ngọc Nguyên | 21/02/2017
_PHÁP CÚNG KHÓI GOM TỤ TIỀN CỦA (.PDF)
Phục hồi Phạn Chú và Việt dịch: HUYỀN THANH
_TỔNG QUAN VỀ PHÁP CÚNG DƯỜNG KHÓI (.PDF)
Soạn dịch: Trần Ngọc Nguyên
_NGHI THỨC TỊNH HÓA CÚNG DƯỜNG KHÓI – NGUỒN TĂNG TRƯỞNG CÁT TƯỜNG (.PDF)
Việt dịch: Trần Ngọc Nguyên
CÚNG KHÓI GOM TỤ TIỀN CỦA & TIÊU TRỪ CHƯỚNG NẠN
Trong các loại thức ăn có đoạn thực, xúc thực, thức thực và tư niệm thực. Chư Thiên Thần, Hộ Pháp, các vị Thánh đa phần tiếp nhận thức ăn thông qua xúc thực và thức thực.
Bằng cách gia trì vào phẩm vật cúng dường, đốt lên và thông qua việc kết thủ ấn cộng với tâm quán tưởng, miệng trì niệm mantra các phẩm vật cúng dường (đặc biệt là khói hương) mang đến cho Chư Vị những thức cúng dồi dào và thanh tịnh.
Bột hương đốt tạo nên khói cúng là một nghi thức quan trọng trong việc hành trì.
Nhiều hành giả hành trì không tiến bộ hoặc bị chướng ngại phần lớn là do bỏ qua phần nghi thức này.
Cúng khói cũng bao gồm cả việc cúng cho oan gia trái chủ và những tinh linh ác muốn gây hại cho việc thực hành mật pháp.
--
Tất nhiên tâm thành kính là quan trọng nhất trong nghi thức cúng, nhưng bên cạnh đó việc lựa chọn mùi hương để cúng cho Bổn Tôn cũng quan trọng không kém.
Bằng việc thực hành đúng cả sự lẫn lý, hành giả được sự gia hộ lớn và dễ dàng hơn cho việc thực hành của mình.
Hương bột cúng Bổn Tôn, giá thỉnh 95/1 gói và 85k/1 gói.
https://www.facebook.com/tuongmatton...4790464889579/
KINH NHẬT TỤNG
Nghi Thức Phổ Thông
--- o0o ---
NGHI THỨC CÚNG VONG
(PHỔ THÔNG)
(Có rất nhiều nghi thức cúng hương linh. Nhưng đây là nghi thức đơn giản nhất. Trong trường hợp không có chư Tăng hành lễ và sau khi tụng niệm cầu siêu ở bàn Phật xong rồi, chư Phật tử có thể sang bàn thờ hương linh tụng niệm theo nghi thức sau đây để cúng hương linh.)
Tâm nhiên ngũ phận,
Phổ biến thập-phương,
Hương yên Ðồng-tử ngộ Chơn thường,
Tỷ quán thiệt nan lường,
Thoại ái tường quang.
Kham biến pháp trung vương,
Nam-mô Hương-Vân-Cái Bồ-tát. (3 lần)
Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới đại-từ đại-bi A-Di-Ðà Phật. (3 lần)
Nam-mô Bát-nhã Hội-Thượng Phật Bồ-tát Ma-ha-tát. (3 lần)
MA-HA BÁT-NHÃ BA-LA MẬT-ÐA TAÂM-KINH
Quán-tự-tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã Ba-la mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá-Lợi-Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.
Xá-Lợi-Tử ! Thị chư Pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão-tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, tâm vô quái-ngại; vô quái-ngại cố, vô hữu khủng-bố, viễn ly điên-đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại-thần chú, thị đại minh chú, thị vô-thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết:
Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha. (3 lần)
__________
VÃNG-SANH QUYẾT-ÐỊNH CHƠN-NGÔN:
Nam-mô a di đa bà dạ, Ða tha dà đa dạ, Ða địa dạ tha.
A di rị đô bà tỳ,
A di rị đa tất đam bà tỳ,
A di rị đa tì ca lan đế,
A di rị đa, tì ca lan đa,
Dà di nị dà dà na,
Chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lần)
Ái hà thiên xích lãng,
Khổ-hải vạn trùng ba,
Dục thoát luân-hồi khổ,
Tảo cấp niệm Di-Ðà.
Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới, đại-từ đại-bi, A-Di-Ðà Phật.
Nam-mô A-Di-Ðà Phật. (30 lần)
Nam-mô Quán-thế-âm Bồ-tát. (3 lần)
Nam-mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát. (3 lần)
Nam-mô Ðại-Tạng Vương Bồ-tát. (3 lần)
Nam-mô Thanh-tịnh Ðại-Hải chúng Bồ-tát. (3 lần)
SÁM THẬP PHƯƠNG
Thập-phương Tam-thế Phật,
A-Di-Ðà đệ nhất,
Cửu-phẩm độ chúng-sanh,
Oai-đức vô cùng cực.
Ngã kim vị hương-linh,
Sám-hối tam-nghiệp tội.
Phàm hữu chư phước-thiện.
Chí tâm dụng hồi-hướng,
Nguyện đồng niệm Phật nhơn
Vãng-sanh Cực-lạc quốc.
Kiến Phật ngộ pháp-tánh,
Phát đại Bồ-đề tâm,
Vô-biên phiền-não đọan,
Vô-lượng pháp-môn tu,
Ðộ nhất thế chúng-sanh,
Giai cộng thành Phật-đạo.
(Rót trà cúng)
BIẾN THỰC CHƠN-NGÔN:
Nẳn mồ tát phạ đát tha, nga đa phạ lồ chỉ đế, án tam bạt ra tam bạt ra hồng. (3 lần)
CAM-LỒ THỦY CHƠN-NGÔN:
Nẳn mồ tô rô bà da, đát tha nga đa da, đát điệt tha. Án tô rô tô rô, bát ra tô rô, bát ra tô rô ta bà ha. (3 lần)
PHỔ CÚNG-DƯỜNG CHƠN-NGÔN:
Án nga nga nẳng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng. (3 lần)
Nguyện sanh Tây-phương Tịnh-độ trung,
Cửu phẩm Liên-hoa vi phụ-mẫu,
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,
Bất thối Bồ-tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công-đức,
Phổ cập ư nhứt thiết,
Ngã đẳng dữ chúng sanh,
Giai cộng thành Phật-đạo.
***
PHỤC NGUYỆN
Hữu sanh hữu tử hữu luân hồi
Vô sanh vô tử vô khứ lai
Sanh tử khứ lai đô thị huyễn
Bất lao đàn chỉ đáo Tây phương
Nam Mô Lạc Bang Giáo Chủ Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật thùy từ phóng quang tiếp dẫn phục vì hương linh ... pháp danh ... thệ thế ư ... niên ... nguyệt ... nhựt.
Nguyện hương linh thừa tư Tam Bảo lực tốc xả mê đồ, trực vãng Lạc Bang siêu sanh Tịnh Ðộ.
Nhứt thành thượng đạt, vạn tội băng tiêu.
Nguyện hương linh đắc độ cao siêu, kỳ thân quyến hàm triêm lợi lạc.
Nam Mô Siêu Lạc Ðộ Bồ Tát. (3 lần)
TAM TỰ QUY-Y
Tự quy-y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại-đạo, phát vô-thượng tâm. (1 lạy)
Tự quy-y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh-tạng, trí huệ như hải. (1 lạy)
Tự quy-y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống-lý đại-chúng, nhứt thiết vô ngại. (1 lạy)
http://www.tuvienquangduc.com.au/Ngh...hattung11.html
56、护生咒:唵,缚悉波罗摩尼,娑诃 。或念:嗡瓦悉波罗。摩呢娑诃(念7 ��佛前一杯水八万四千虫若不持
此咒如食众生肉供圣水杯时,看到水 �,到海鲜酒楼时应念,坡度鱼,虫 � ��鲜.无意中踏死,伤害到的众生 都 得往生)
56、Hộ Sanh Chú: OM VASI PRAMANI SVAHA
https://wenku.baidu.com/view/fd3ad4717c1cfad6185fa75f
18、洒甘露水咒:唵打得打得嘛哈打得 梭哈
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...%BB%80N/page93
. 决定往生真言:“om:amrto-dbhave svaha.”念“嗡:阿弥利都婆毗·梭哈”
. Quyết Định Vãng Sanh Chơn Ngôn: OM AMRTODBHAVE SVAHA
http://blog.sina.com.cn/s/blog_50b1513b0100tebg.html
HƯỚNG DẪN HỘ NIỆM
http://www.drukpavietnam.org/huong-dan-ho-niem
=======
THỰC HÀNH SINH TỬ
http://www.drukpavietnam.org/huong-dan-ho-niem
Thứ Sáu, ngày 04.01.2019:
9.00 sáng – 1.00 chiều: Pháp Na Phật (Đại Nhật Như Lai) dành cho người quá vãng.
http://sakya-vietnam.org/wp-content/...PM-600x277.png
Đức Thế Tôn Đại Nhật Như Lai được coi là Báo Thân hoặc thân Nhiếp Thụ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lịch sử. Trong thân thể tinh tế của hình dạng vô hạn này, “Người vĩ đại đến từ mặt trời” được dịch từ tiếng Phạn cư trú trong vương quốc thuần khiết cao nhất của Cỏi Trời Sắc Cứu Cánh Thiên (Akanistha).
Ngài được ca ngợi là Đức Phật nguyên thủy của sự thanh tịnh và hòa bình 來 日 如 來 (Dàrì Rúlái) hay 毘盧遮那 佛 trong các trường phái Phật giáo Trung Quốc, và một vị Phật phổ quát có giá trị to lớn – nguồn gốc của tất cả chư Phật như được giải thích trong Mật pháp Đại Nhật Toàn Giác ( Mahāvairocana-abhisaṃbodhi- tantra) hoặc đầy đủ hơn như Mật pháp Đại Nhật Toàn Giá Thần Lực Gia Trì (Mahāvairocana Abhisaṃbodhi Vikurvita Adhiṣṭhāna Tantra) là một thành viên của Thiền Mật (Tantra Yoga), lớp Mật pháp (Tantra). Nhiều vị phật hóa thân từ Pháp tướng Phật Đảnh Tôn Thắng (Usnisha), Bồ Tát hóa thân từ nhiều bộ phận khác nhau của Pháp Thân, Đại Hắc Thiên (Mahakala) từ trái tim của ngài, các vị Phật Độc Giác (pratyeka) từ đầu gối của ngài… vân vân vân vân.
Ở đây, nguồn gốc của tất cả các vị Phật không nên được coi là thượng đế nhưng là nhận thức trần tục thuần khiết và trạng thái giác ngộ mà tất cả chúng ta đều có từ thời gian vô tận.
Đức Phật này được mô tả như là Đấng không có mặt sau không có mặt trước và là một tầm nhìn toàn cảnh đồng thời cảm nhận mọi hướng, một biểu hiện mang tính biểu tượng của sự cởi mở của ý thức vượt qua ngay cả tổng hợp của ý thức.
Sự hùng vĩ vĩ đại này và hình thức tinh tế nhất của Đức Phật chỉ có thể được cảm nhận trực tiếp bởi các vị Phật khác và những vị Bồ tát được nhận thức cao về công đức to lớn. Từ bi lớn, Như Lai dạy mật pháp cho Phổ Hiền cũng như cho 8 đại Bồ Tát vĩ đại như Quán Thế Âm, Địa Tạng và Hư không Tạng và những vị tương tự. Trong mật pháp, Như Lai đã giảng dạy sơ bộ, ứng dụng, và thành tựu và 3 mạn đà la tương ứng với lời nói và thân tâm của Đại Nhật Như Lai.
Người ta nói rằng chỉ cần chiêm bái đồ hình tâm linh tuyệt vời và kỳ diệu hoàn chỉnh với trú xứ của như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, 8 vị Bồ Tát vĩ đại cùng với những người phối ngẫu, thị giả, hầu cận và các hộ pháp, sẽ thanh tẩy những món nợ xấu lưu truyền, tất cả những trở ngại của tín chúng đều bị tiêu trừ, sẽ được ban cho với trí huệ, công đức, thanh sắc và đức tin.
Không giống như kinh điển và mật pháp khác, mật pháp Đại Nhật Như Lai Toàn Giá Thần Lực Gia Trì này không bắt đầu bằng ‘do đó tôi đã nghe,’ biểu thị thời gian và địa điểm có thể truy nguyên trở lại Phật Thích Ca Mâu Ni lịch sử. Mật tông bắt đầu với một cuộc đối thoại giữa đức Phật và Kim Cang Tát Đỏa và phần lớn là Bồ Tát Kim Cang Thủ, người làm sáng tỏ và yêu cầu làm sáng tỏ thêm về giáo lý.
Mật tông cũng được viết theo một cách khác biệt giống như những mật pháp khác được mã hóa và chứa đầy ý nghĩa kép hoặc nghĩa ẩn.
Mật pháp Đại Nhật Như Lai Toàn Giá Thần Lực Gia Trì được viết theo một hình thức rất thẳng về phía trước mặc dù một đọc phải quen thuộc với sự kết hợp của thủ ấn (mudras) và các hệ thống khác nhau.
Cuối cùng, mặc dù người ta đã nhận ra sự trống rỗng thực sự của cá nhân và hiện tượng, người ta vẫn chưa nhận ra rằng trạng thái tự nhiên của tâm là nhận thức vốn có của Như Lai và rằng nó là Pháp Thân Đại Nhật Như Lai (Vairocana) phổ hóa với tất cả các cõi Phật được biểu hiện. Do đó người ta phải vượt qua ngay cả tánh Không với sự trống vắng của tánh Không, khi nó được thấy rằng cái trí là nguyên thủy chưa sinh và không được liệt kê, trích dẫn từ một nguồn tài nguyên học thuật của Mật pháp. Điều này nhiều có thể được tiết lộ qua phần Mật pháp sau đây.
Tầm quan trọng của Đại Nhật Như Lai Tịnh Nghiệp cho người quá vãng
Lời giới thiệu:
Đại Nhật Như Lai Tịnh Nghiệp là một nghi thức rất sâu sắc để biểu diễn. Nếu nó được thực hiện bởi một Lạt ma rất có năng lực, nó ban cho lợi ích to lớn cho những người tham gia và người quá vãng. Nghi lễ này luôn luôn là lớn trong trung tâm của chúng tôi. Hàng năm, một đám đông đông đảo có mặt để tỏ lòng kính trọng với những người thân yêu đã qua đời vì đây là cách tốt nhất và hiệu quả để tiếp tục thể hiện lòng biết ơn và sự quan tâm của chúng tôi đối với họ. Chúng tôi muốn họ chia tay khỏi đau khổ và được giải phóng đến cõi Phật. Đây là món quà tốt nhất mà chúng tôi có thể tặng cho người đã yêu thương và chăm sóc chúng tôi suốt đời.
Thu thập những suy nghĩ tương tự cho nghi thức: Trong một đám đông lớn ở lại để tập trung với một trái tim chân thành về ý định chăm sóc và yêu thương người đã chết, chúc họ tái sinh tốt hơn, cùng với các hoạt động nghi lễ hiệu quả được thực hiện bởi các Lạt ma đủ điều kiện , các điều kiện được tạo ra sẽ mang lại lợi ích to lớn cho người đã qua đời cũng như tất cả những người tham gia. Bản chất cực kỳ hiệu quả của nghi thức này đã từng được đề cập bởi chính ngài Chogye Trichen Rinpoche, người đã nhận xét rằng chỉ bằng cách nhìn vào cử chỉ tay / mudras) trong một nghi lễ hành trì Đại Nhật Như Lai , chính mình có thể thanh lọc vô số thời kiếp của các tạp chất và nghiệp xấu. Do đó, các nghi lể như vậy sẽ mang lại lợi ích to lớn nếu được thực hiện để công chúng xem
(Pháp này được Ngài Luding Khenchen Rinpoche trước tác và được dịch sang tiếng Anh bởi Lama Choedak T. Yuthok tại Sakya Choephel Ling, Kuching vào tháng 11 năm 1991.)
http://sakya-vietnam.org/phaphoisaky...noFUuYT6NU4UV0
Hộ Niệm.
do THÍCH HẠNH TẤN vào ngày 06/04/2018
Trong những ngày gần đây một vấn đề mà tôi được hỏi đến rất nhiều là việc hộ niệm.Phần đông những vị đặt ra câu hỏi này hoặc là ủng hộ vấn đề mà cũng có một số là phản đối hoặc là còn đang lưỡng lự.
Nhân đây tôi xin đưa ra một nhận xét chủ quan để mọi người có thể tham khảo thêm, có thêm một ý thì cũng có thêm một khía cạnh để nghiên cứu phải không_ Riêng đối với cá nhân tôi, thì tôi thấy trong mọi vấn đề, mọi hiện tượng đều luôn có hai măt cả, khi chúng ta còn nhìn nó theo cái nhìn tương đối của pháp nhị nguyên.Vì vậy hô ̣niệm cũng thế có cái ưu điểm và có khuyết điểm. Thật ra, cái được gọi là ưu hay khuyết đều không nằm ở nơi sự kiện được thực hiện (tức là việc hộ niệm); có lẽ đây là một nguyên tắc chung cho hầu hết các hiện tượng, không có một cái gì nằm ở nơi vấn đề cả, mà nằm ở nơi người thực hiện vấn đề đó!
Trước tiên xin nêu lên cái ưu điểm của việc hộ niệm. Hộ niệm là sự thể hiện tình cảm trong đạo của nhau vào giờ phút cuối cùng của người lâm chung, đức Phật cũng dạy cận tử nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong việc tái sanh của một chúng sanh, vì vậy nếu cận tử nghiệp được tác động bởi sự hộ niệm thì nó sẽ lợi lạc vô cùng, làm cho người lâm chung dễ dàng nhận biết được sự tiếp dẫn vãng sanh của đức Phật A Di Đà mà vào pháp giới tự tánh A Di Đà của chính mình. Ngoài ra việc hộ niệm còn thể hiện tình đạo vị của những người bạn đạo với nhau một sự quan hoài cho nhau và sự tiễn biệt để còn ngày gặp nhau nơi cảnh giới tịnh độ.
Tuy nhiên, đức Phật cũng có dạy rằng: “ta là kẻ chỉ đường trong các vị đều phải tự đốt đuốc lên mà đi”, vì vậy tất cả những người con Phật nên chuẩn bị một cái chết cho nghiêm túc bằng cách mỗi ngày mỗi giờ trong đời sống hiện tại nên hướng về tâm linh của mình. Dầu sao đi nữa, chúng ta cũng không thể nào chối cãi được là mỗi một ngày đi qua, mỗi một giờ, một phút, một giây đi qua là một ngày, một giờ, một phút chúng ta bước gần đến cửa tử hơn. Đây không phải là bi quan, mà là một cái nhìn đúng đắn, nhìn thẳng vào sự thật để chuẩn bị cho nghiêm túc mà thôi.
Điều này nó đúng ngay từ lúc chúng ta vừa chào đời, hay xa hơn nữa chính ngay lúc chúng ta nhập vào noãn bào của người mẹ để làm bào thai rồi. Trở lại cái khuyết điểm “có thể xảy đến” nếu người làm việc hộ niệm vì quá hăng hái mà quyên đi việc chủ yếu của hộ niệm là giúp cho người lâm chung vãng sanh về thế giới Cực Lạc, mà cứ chú tâm để chờ xem có một “thoại tướng” hay “thoại ứng” gì xuất hiện hay không! Như vậy tâm thức người lâm chung sẽ bị lôi kéo vào cái chấp hiện tượng của của người hộ niệm mà khó nhận biết được đức Phật A Di Đà đang luôn luôn cận kề và tiếp dẫn mình, rồi cứ chạy theo sắc trần, thanh trần, hương trần v.v. Để rồi tiếp tục trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
Lại nữa, nếu được vãng sanh thì chắc chắn là có thoại tướng xuất hiện, nhưng có thoại tướng xuất hiện chưa hẳn là được vãng sanh! Điều này có một số vị lại không nghĩ đến. Vì sao lại có hiện tượng tốt mà không vãng sanh, bởi tất cả các pháp đều do tâm thức tạo ra, khi nhiều vị cùng nhau cầu nguyện để có được hiện tượng tốt xuất hiện thì hiện tượng này lại có thể được thành tựu, nhất là khi chất liệu xúc tác lại là danh hiệu của Phật A Di Đà. Vì thế cần nên cẩn trọng lắm thay. Một vần đề khác “có thể xảy đến” là người đi hộ niệm cảm thấy vai trò tiếp dẫn của mình rất ư quan trọng, thậm chí có thể trong tâm thức còn nảy sanh ý nghĩ là nếu mình không đi hộ niệm thì đức Phật A Di Đà sẽ không biết là người chết ấy cần được tiếp dẫn nữa.
Như vậy người đi hộ niệm bắt đầu bước vào con đường tà kiến rồi, vì không nhận rõ được bản chất Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ của đức Phật A Di Đà mà trong kinh đức Bổn Sư luôn tán thán và cố gắng trình bày để nó đi sâu vào tâm thức của chúng ta. Vấn đề thứ ba “có thể xảy đến” là người đi hộ niệm, bắt đầu đi tìm người để hộ niệm, nếu không ai chết mình cảm thấy buồn, và trông có người chết đi làm chức năng hộ niệm của mình. Nếu việc này xảy ra, thì tâm không phải chỉ là tà mà còn là ác tâm nữa. Với tâm ác như vậy đi hộ niệm sẽ làm cho người lâm chung và cả chính bản thân người đi hộ niệm sẽ dần đi vào quỹ đạo của tam đồ và kết chặt cộng nghiệp với nhau trong đó. Ở đây tôi nhấn mạnh vấn đề “có thể xảy đến” tức là việc này không nhất thiết xảy ra, và cũng cầu nguyện là không bao giờ xảy ra.
Tôi chỉ nêu lên để quý vị phát tâm thù thắng hy sinh thời gian và công sức của mình để giúp đỡ người thân quen hay bạn lữ trong giờ phút cuối cùng có thể nhìn lại và chỉnh đốn tâm thức mình để chính mình và người đều được lợi lạc. Nhờ đó mà việc hộ niệm trở nên quý báu và đúng đắn. Nhân đây tôi cũng xin góp ý với người đi hộ niệm là mặc dầu mình còn đang mạnh khỏe và trẻ trung nhưng trong lúc hộ niệm cần phát tâm tự cầu vãng sanh một cách mạnh mẽ, nếu đức Phật A Di Đà có đến thay vì tiếp dẫn người lâm chung mà tiếp dẫn chính bản thân mình, thì mình cũng phải vui mừng mà vãng sanh; với một tâm niệm như vậy đi hộ niệm, chắc chắn người, trời đều hoan hỷ và không bao giờ có một trắc trở nào xảy đến cho mọi người.
Mong lắm thay.
Tóm lại, tất cả những điều viết trên đây chẳng qua chỉ là tư kiến, chắc chắn là do vọng niệm và vô minh mà phát xuất ra; mặc dầu tôi cố gắng cầu sự gia bị của chư Phật, chư Bồ Tát, các vị thượng sư của tôi để các ngài khai mở cái nhìn của tôi cho đúng pháp. Nên quí vị, khi đọc thấy sai lầm, xin vui lòng góp ý để chúng ta cùng nhau học tập, tư duy và tu trì.
Nam Mô Cầu Vãng Sanh Bồ Tát Ma Ha Tát.
Xem (629)
http://www.amitayus.net/vn/2018/04/ho-niem/
Lời Khuyên cho những Hành Giả cận kề cái chết.
do THÍCH HẠNH TẤN vào ngày 26/03/2018
sterbende_valentinedo Dodrupchen Jikmé Tenpé Nyima
Dịch sang Anh Ngữ bởi Adam Pearcey, 2006, hồi hướng cho Ian Maxwell.
dịch Việt Ngữ Vô Thức Tỳ Kheo – Thích Hạnh Tấn
Bạn cần phải chuẩn bị cho giờ phút lâm chung. Có rất nhiều điều cần phải lưu ý trong việc này, nhưng tôi chỉ nói về một số chi tiết ở đây thôi. Tóm lại, những điều được nói ở đây là thiết yếu để các bạn sử dụng vào lúc lâm chung.
Hãy tự nhắc nhở thật nhiều lần: “cái chết có đến muộn hơn hay sớm hơn, cuối cùng thì cũng không làm sao thoát được việc phải bỏ lại thân thể này và tài sản này. Đó là một nguyên tắc chung cho cả thế giới này”. Khi nghĩ như vậy hãy cố gắng hoàn toàn triệt bỏ mọi sự tham chấp và bám víu vào nó. Hãy sám hối tất cả các ác nghiệp mà bạn đã tạo ra trong đời này và nhiều đời trước, cũng như việc cố ý hay vô tình không giữ đúng những lời thệ nguyện mà bạn đã hứa, lại phải cầu xin thật nhiều lần là sẽ không bao giờ tái phạm vào những sai lầm như thế nữa.
Đừng cuống quít và sợ hãi đối với cái chết. Hãy cố gắng lấy tinh thần và phát một niềm vui thích, hãy nghĩ đến những pháp thiện và lành mà bạn đã tạo trong quá khứ. Không cảm nhận một niềm tự hào hay tự mãn nào, hãy mừng rỡ thật nhiều lần đối với những thắng lợi này. Hồi hướng tất cả những thiện nghiệp của bạn cũng như phát những lời thệ nguyện cao cả thật thiết tha và nhiều lần, để những đời sau bạn có cơ duyên thâm nhập đạo cao cả theo con đường đại thừa, dưới sự hướng dẫn của Thiện Hữu Tri Thức, và có đủ những đức tính như niềm tin, tinh tấn, trí tuệ và tỉnh giác – nói cách khác, những điều kiện thù thắng nhất, bên trong cũng như bên ngoài. Cũng hãy cầu nguyện để đừng bao giờ gặp phải Ác Hữu Tri Thức và có những cảm thọ bất thiện.
Trong luật tạng cũng ghi lại là nhân căn bản để có thể có được tái sanh thù thắng, như có một cuộc sống thánh thiện vào lúc đức Phật còn tại thế, là cầu khẩn và phát nguyện vào lúc lâm chung. Vì vậy nên có lời hướng dẫn là những gì gần nhất và quen thuộc nhất sẽ có ảnh hưởng cao nhất.<1>
Lời phát nguyện nào của bạn cũng cần nên gia tăng động lực bằng sự cầu khẩn quyết liệt như: “Trong tất cả đời, tôi sẽ làm những gì có thể để tu tập pháp Không với tâm Từ Bi một cách rốt ráo nhất!” để nhận biết giá trị của điều này; qua sự so sánh xem cái nào có tác dụng hơn, khi bạn nói là “tôi sẽ dậy sớm vào buổi sáng!” hay “ước gì tôi dậy sớm”.
Để có thể thành tựu được dễ dàng những lời nguyện hay những dự tính của bạn, điều lợi lạc căn bản là sự nương tựa vào hiện thân của một năng lực thiêng liêng. Vì vậy hãy nhớ nghĩ về một vị nào mà bạn có được niềm tin chắc thật, hay đến vị nào mà bạn cảm thấy có sự liên hệ mạnh mẽ nhất trong sự tu tập của mình; có thể vị đó là vị Đại Sư cao cả của xứ Oddiyana, Liên Hoa Sanh, hay đức Quán Thế Âm, vị Bảo Hộ của Thế Gian, với một sự tin thành vị đó là hiện thân của nguồn lực để bạn có thể nương tựa, hướng đến vị đó một lòng cẩu khẩn cho sự thành tựu nguyện lực của bạn.
Vào giờ phút lâm chung rất khó mà tập trung tư tưởng được để thiền quán về một cái gì mới mẻ hay không thuần thục, vì vậy bạn cần phải chọn một pháp tu trước và thực hành nó cho đến lúc thuần thục. Sau đó, trong quá trình chết, bạn cần phải chuyên chú vào pháp tu này càng tập trung càng tốt, như là nhớ nghĩ đến đức Phật, hay phát tâm Từ Bi, hay phát sự kiến giải về Tánh Không, hay nhớ nghĩ về Pháp hoặc về Tăng. Để có thể thành công trong việc này, bạn cũng cần phải tu tập trước nghĩ rằng: “Từ giờ trở đi, khi tôi đi qua ngưỡng cửa của cái chết này, tôi sẽ không cho phép bất cứ ý niệm bất thiện nào khởi lên cả!”.
Những vị thánh đời trước có dạy thế này: “Một ngày sống tỉnh giác với đủ thiện pháp hơn hẳn làm thật nhiều điều phước thiện với tâm mê mờ và tăm tối.” Theo lời dạy này, trước khi bạn khởi sự một việc gì hãy bắt đầu bằng một lời phát nguyện và tâm hoan hỷ, nó sẽ có lợi hơn rất nhiều.
Mặc dầu đối với một người như tôi, sẽ khó có thể làm lợi cho người khác, nhưng tôi cũng sẽ tụng bài kệ quy y và cầu nguyện cho các bạn trong những đời sau sẽ gặp được pháp Đại Thừa.
Viết bởi người được mang tên là Vô Úy (Jikme)
<1> nói cách khác, tư tưởng mà chúng ta có vào lúc sắp chết và những tư tưởng quen thuộc trong lúc còn mạnh khỏe sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự tái sanh của chúng ta.
Xem (413)
http://www.amitayus.net/vn/2018/03/l...n-ke-cai-chet/
Giải Thoát Thông Qua Sự Thấy (Liberation upon seeing)
Giải Thoát Thông Qua Sự Thấy (Liberation upon seeing)
Chúng ta đã quen thuộc với bản văn “Giải Thoát Thông Qua Lắng Nghe” (Bardo Thodol – The Tibetan Book Of The Death) của người Tây Tạng. Nay xin giới thiệu “Giải Thoát Thông Qua Sự Thấy” (Liberation Upon Seeing).
Vì lòng đại bi thương xót chúng sanh, Chư Phật và Bồ Tát đã tạo ra những phương tiện thật thiện xảo để cứu vớt chúng sinh. Xin giới thiệu một phương pháp thanh tịnh nghiệp chướng thông qua sự thấy cho những người hữu duyên. Trong Kinh Thác Nước Mạnh Mẽ(Forceful Waterfall Sutra) có chép: Chỉ cần nhìn thấy câu chú này một lần có thể thanh tịnh nghiệp chướng của ba trăm triệu kiếp trong quá khứ.
Giải Thoát Thông Qua Sự Thấy là một Terma (kho tàng giáo pháp do Đức Liên Hoa Sanh và Yeshe Tsogyal ẩn dấu, sẽ được phát hiện tại thời điểm thích hợp bởi một bậc thầy giác ngộ) viết bằng ngôn ngữ của những Không Hành Nam (Dakas) và Không Hành Nữ (Dakinis).
This terma revelation (below) by Terton Migyur Dorje, is written in dakini script (yellow letters outlined in orange on blue background).
“Those who see this script will not experience the three lower realms and will be liberated from the fear of falling into the lower realms; will be purified of the five poisons and will be freed from the results of one’s karma; will be freed from the fear of remaining in samsara.”
http://4.bp.blogspot.com/-ApFYG_nRZ-...fall_sutra.jpg
http://lienhoasanh.blogspot.com/2012...a-su-thay.html
http://lienhoasanh.blogspot.com/2012....rLnFkZWb.dpuf
PHẬT THUYẾT LÂM CHUNG BẤT ĐOẠN KINH
佛說臨終不斷經
@佛說臨終不斷經 (1)
2011/04/06 15:13瀏覽3,147迴響0推薦3引用0
@佛說臨終不斷經 (1)
南無本師釋迦牟尼佛
南無多寶如來
南無寶勝如來
南無妙色身如來
南無廣博身如來
南無離怖畏如來
南無甘露王如來
南無阿彌陀如來
南無毘盧遮那如來
南無佛說臨終不斷經
如是我聞,一時薄伽梵成就一切自性 淨法性摩訶毘盧遮那如來,在於超三 越身口意廣大法界越量宮中,一切如 來常所遊處,吉祥稱歎,金剛心明殿 種種間錯鈴鐸繒幡,微風搖擊,珠鬘 珞半滿月等,以牟尼為燈而為莊嚴, 與自內證眷屬,以金剛秘密主為上首 所謂四方四佛、四波羅密、十六八供 四攝智,如是等無量諸菩薩摩訶薩, 恭敬周匝圍繞,各各放光,光光相涉 交映重重,有如帝網。
時毘盧遮那世尊住於法界理趣三昧, 心中放出無量百千萬億大光明,與自 證眷屬入我我入,成一大光明藏。時 虛空藏菩薩摩訶薩手結密契,口誦真 ,心觀理趣,是時放光,於空中雨妙 花鬘、天衣、飲食而作供養,一一世 界、一一微塵、一一不同種性、一一 同眷屬,皆大歡喜,一一各放不同種 之光,其光聚成金剛起,恭敬啓請如 來。時薄伽梵世尊即從三昧起,從眉 白毫相放大光明,其光周遍,加持大 ,大眾悉皆嘆為希有。
爾時,金剛秘密主乘佛神力,即從座 ,偏袒右肩,右膝著地,合掌向佛, 敬啓請:惟願世尊為我等宣說自性清 淨法性成就一切眾生,所有諸法與法 ,本源純一圓滿清淨大光明藏,救攝 切中有證入光明理趣微妙句門。時毘 盧遮那世尊熙怡微笑,而作是言:善 !善哉!秘密主,汝等一心諦聽,我 為汝等一一宣說此自性清淨法性成就 一切眾生所有諸法與法相,本源純一 滿清淨大光明藏,救攝一切中有證入 明理趣微妙句門,令一切眾生臨命終 時,於中有身,咸令得度,融入佛性 光明中,終不墮落,輪迴苦趣。
秘密主,世間所有諸法與法相,皆由 等各各不同種性之光,因緣和合寄宿 生法宮中,依如來自性法輪羯摩之力 所摧,集聚法界六大種性,蘊成各自 同法相而出生於世,經由自性法輪營 ,成住異滅,生死出歿。世間所有諸 法,異滅交謝,幻化種種相狀,皆由 王心所各各不同之種性攝收於識體, 自認此為真,沉迷幻化之境,自感苦 樂。臨命終時,中陰之境,不能認證 來法界正位,自畫三界六道,出歿其 。三界六道四聖同住一大法界曼荼羅 ,如共住一國,其住於皇城之內者為 官,其住於皇城之外者為販夫走卒, 活環境感受迥然不同,爾等應知。
秘密主,人之命終是法之異滅遷化。 種性靈識低劣者,如置身於睡眠中之 境,理智迷失,覺醒無由,其靈識於 時空交錯之間,翻閱昔時經驗之境, 受各不同之苦樂,若遇得善知識教示 一夢醒覺,即覺空空本無大千耶。眾 生認幻為真,為六道各不同之光徑所 ,其境實不可採信。秘密主,人命將 之時,需不斷提醒其靈識,令其觀想 面前空中有清淨月輪放大光明。復以 按其喉,壓住靜脈跳動,迫使靈力活 ,由頂輪而出,直至身體某竅流出黃 色液時始可停止。其人善行若多,定 足者,黃色液體流出較遲;其人若惡 多,定力弱者,黃色液體淌流特速。 靈識離體未能立即認證大光明得解脫 ,即呈昏睡狀態,經三日半至四晝夜 歷經光消滅、識消滅、識又生,人始 自知其將死。自念或他人助念,呼其 名,而提示曰:
OOO汝今聽到山崩地裂之恐怖聲音 不要驚惶,此乃是地大降入水大之境 聽到海嘯巨浪之恐怖聲音,不要驚惶 ,此乃是水大降為火大之境;聽到飈 烈火之恐怖聲音,不要驚惶,此乃是 大降為風大之境;聽到暴風吹襲之恐 怖聲音,不要驚惶,此乃是風大降為 大之境矣。善自作意,汝者應知。時 提示曰: OOO所謂死之一法,即道之本體本 之法,一切所有幻相,無一能免。今 之命將終,當專心作意思維,而自念 言:我今報盡命終之時刻已到,我當 此機緣,實證菩提正果,廣盡我之大 大悲願力,普令十方世界一切有情, 一一同證菩提,達到極圓滿地。OO 此正是利樂一切眾生之妙明淨智法界 之實相。汝應知,此當為汝認證體合 之極大機緣,汝唯專念作意,慎勿失 交臂,且應自思維:我至今尚未認證 然已了解中有境中,有究竟真實之法 界光明,任其現相種種,我唯認證投 其中任一勝妙之體,誓不捨離。OO 汝如平昔有修習種種勝上妙嚴之本尊 道場觀法者,今時更應慇勤憶念本尊 種勝妙壇場,堅固不捨。 OOO請善住,專念作意,觀合融入 本淨光。 OOO請一心諦聽:今者汝當證驗, 真實清淨之法界體性所發放之妙明淨 ,汝速認知之、體合之,當入我我入 。汝之心體本源真空,無色無相,唯 真空,同此法界之真實體性,無二無 。但此空者,並非空無所有之空。所 謂空者,無障礙故、無不照故、無不 故、大自在故、等同諸佛真實體性故 又此心體雖實空寂而常攝照,雖常攝 照而實空寂,此寂與照不可分離,即 如來法性之身。又此心體恒寂常照, 生不滅,即是如來之無量光、無量壽 。汝能證得如此,則一切皆俱。汝既 汝心性本空,同諸佛性,又此真空即 之心性,汝應認證之,即能入諸佛心 中,和合無間,成就一切。秘密主, 等要反覆提示彼之亡者。
爾時,毘盧遮那世尊復說中有靈識之 ,而作是言:秘密主,中有靈識總有 相,一者處胎、二者睡夢、三者禪定 、四者報盡命終、五者命終入法界觀 六者又復轉生。秘密主,要呼其姓名 而提示曰:OOO汝今所經歷者為上 述之後三,即報盡命終,命終入法界 ,以及又復轉生等三種境界。次應再 示而云:汝自命終至於今日止,其間 有兩次法界體性真實妙明淨光照臨於 ,然汝不勝昏沉迷惚,未能隨引導、 示、起觀:入我我入證合之。此時也 汝之初期中有已過,汝已將入中期中 矣。OOO汝勿再昏迷,汝當一心諦 聽吾言,應知此後汝仍有觀、入、證 合、妙明淨光之機,切勿昏沉迷惚, 堅信遵從所提示與汝者。汝今所經歷 者,乃死之境界,汝已脫離此生之世 ,此並非汝一人如此,同一世界之中 各各有情皆當如是,汝決不可痴戀、 怯懦、貪著。汝於此生世界,雖欲再 著不捨,亦已不可能,縱能得之,亦 過再度隨波逐流,茫茫生死苦海頭出 頭沒而已,斯有何樂?故汝決不可痴 、怯懦、貪著世事,最重要者,當念 不忘皈命三寶。於中有中期境界,若 遇有使汝驚惶恐怖莫知所措者,今有 偈言,乃無上秘訣,堅誠持念,汝即 得度。偈曰:(誦三遍)
我今正入中有身 妙明淨光當應證 有驚惶與恐怖 今我觀之如幻境,認 一切諸幻相 皆我心識所變現 又知 幻中諸有境 即是中有幻法影,此時 一之大事 一心諦觀妙淨光 喜怒諸 齊現前 毫無恐怖相應境 (續~2.http://blog.udn.com/shiglfs/5057774 / http://blog.udn.com/shiglfs/5057774 )
@ 佛說臨終不斷經(~2)
當知此偈義諦至為妙要,汝當一心持 牢記為要,反覆持誦,切勿忘失。但 知通達,汝即可認知一切皆如幻之境 ,無復有驚恐耶。汝纔作意欲轉身他 ,必立即感受有法界真空之無比大光 驟然閃亮,光芒炫耀,莫可仰視,如 秋雲善變,忽現奇形怪相,咄咄逼人 須知此皆汝之心識所變現發射者,不 驚恐,但如是認知之。又此極強大光 焰照射之中,忽然伴有無比巨大之聲 千倍雷電之烈,此亦皆汝之心識所變 者,不必驚惶。須知汝之身乃靈識之 身,非復是四大和合之血肉身。所有 烈之光燄聲浪,固不能壞汝之靈識身 此靈識身實更無可壞滅死亡者。汝但 如是知、如是解,則可認知種種幻相 皆是汝心識變現所成,亦即汝中有之 相。今汝若再昏沉迷惚不自振作,則 汝生時所有修行之觀法、定法,亦均 勞無益,而未能使汝得免於幻境之驚 。又汝若仍未能了知通達此等偈文之 義諦者,亦不能依此總持偈語悟入實 之道,結果終不能免生死輪迴之苦趣
爾時,毘盧遮那世尊復說初日中有證 妙法,而作是言:秘密主,人死後三 半至四晝夜間,多呈昏沉狀態,四晝 夜後識乃又生,是為甦醒之第一天, 時自有不同變幻境界顯現。爾時,需 引導令其證入實相光明,呼其姓名而 提示曰:
OOO在此時之前三日半至四晝夜期 內,汝仍痴迷。今如夢初醒,必自驚 而曰:究竟何事發生?汝今當諦聽: 此中有境,生死業輪轉動之時,汝當 有種種光燄及各聖尊等。汝今所見宛 晴明之藍色天空,前面諸尊之中央, 當現法界體性智種之發生土,此中有 訶毘盧遮那如來,坐白色獅子蓮花座 手結智拳印,由心中放出強烈無上淨 白光,直射汝身,汝身應融入於大白 明中。另有薄弱之灰白色光者,乃是 道之光,不可愛著。強烈之光是我於 汝中有證道之期前來攝受汝者,惟當 敬信受,且自誦偈言:
嗚呼茫茫生死海,皆由無始無明覆, 界體性大智光,今幸炳然照我身,
毘盧遮那我世尊,願為攝受作我怙, 量眷屬諸聖者,前後放光擁護我,
中有境界證道中,攝我安然無障礙, 入絕大光明聚,清淨佛性光明中。
爾時,毘盧遮那世尊復說第二天中有 入妙法,而作是言:秘密主,第二天 有金剛部諸尊放光攝引,應呼其姓名 而提示曰:
OOO汝心莫散亂,諦聽我言。此第 天者,將有根本清淨水大之藍色光明 現。當此之時,東方有寶藍色之上勝 妙樂國土,有佛名曰持金剛部主阿閦 世尊,身藍色,手執五股金剛杵及金 鈴,坐象王蓮花座,有無量眷屬前後 圍繞,現在汝前。今汝之本源清淨識 ,大圓鏡智之藍色光明,映入部主心 ,反射一道清淨藍色光明,入於汝心 中,入我我入,汝融於藍色光中直證 果。另有煙霧之光者,乃地獄之光, 決不可喜愛,且自誦偈言曰:
嗚呼茫茫生死海,由於瞋業深重力, 圓鏡智清淨光,今幸照耀於我身,
阿閦金剛我世尊,願為攝受作我怙, 量眷屬諸聖尊,前後放光擁護我,
中有境界證道中,攝我安然無障礙, 入絕大光明聚,清淨佛性光明中。
爾時,毘盧遮那世尊復說第三天中有 入妙法,而作是言:秘密主,第三天 有不同之光發射,應呼其姓名而提示 曰:
OOO汝要一心諦聽。第三天者,當 根本地大中射出黃色妙淨光明。當此 時,南方有眾寶莊嚴之上勝妙樂佛土 ,有佛名曰寶部主寶生如來世尊,身 金色,手執妙寶,坐於馬王蓮花寶座 有無量眷屬圍繞,現在汝前。其圓光 聚中,放射平等性智之黃色寶光,其 燄各各毫端皆俱無上妙寶,發射光明 量,燦爛眩耀,此強烈之光直射於汝 心中,汝融入光中,此乃智慧之光不 捨離,入我我入,即得頓證佛果。另 淡黃藍色之弱光者,乃人道之光,汝 不可喜愛。汝要自念,寶生如來之恩 光燄,我唯一心皈命如來恩光,鈎召 汝,汝當信受,虔誠祈願而誦偈言:
嗚呼茫茫生死海,由於我慢性太深, 等性智清淨光,今幸照耀於我身,
寶生如來我世尊,放光攝受作我怙, 眼佛母放光明,前後赫赫擁護我,
中有境界證道中,攝我安然無障礙, 入絕大光明藏,清淨佛性光明中。
爾時,毘盧遮那世尊復說第四天中有 入妙法,而作是言:秘密主,第四天 有佛光照射,應呼其姓名而提示曰:
OOO汝要一心諦聽。此第四天者, 有根本清淨火大之紅光,由西方極樂 土中所放射。當此之時,西方有阿彌 陀如來世尊,身紅色,手執妙寶蓮花 坐於孔雀王蓮花寶座,有無量眷屬前 圍繞,現於汝前,各放妙寶紅光,照 射汝身。此妙觀察智光,紅色寶燄, 烈燦爛眩耀,出自彌陀心中,汝融入 光,入我我入,當證佛果。另有薄弱 之淡紅色光,乃餓鬼道之光,不可喜 。汝當自念,阿彌陀恩光,我一心皈 ,而誦偈言:
嗚呼茫茫生死海,由於貪欲性太深, 觀察智清淨光,今幸照耀於我身,
阿彌陀佛我世尊,放光攝受作我怙, 音諸大菩薩眾,前後放光擁護我,
中有境界證道中,攝我安然無障礙, 入絕大光明聚,清淨佛性光明中。
爾時,毘盧遮那世尊復說第五天中有 入妙法,而作是言:秘密主,此中尚 機緣證入佛果,應呼其姓名而提示曰 :
OOO汝要一心諦聽,此第五天者, 有根本清淨風大綠色光,由北方無上 成就佛土中所放射。當此之時,北方 有佛名曰不空成就如來世尊,身綠色 手執交叉羯摩金剛杵,坐於伽努羅飛 獸王蓮花寶座,有無量眷屬前後圍繞 ,現於汝前,由不空成就世尊心中放 強烈綠色光,閃耀奪目射入汝身,同 之清淨自性威光,不可怖畏,汝融入 其光,入我我入,即證無上佛果。另 黯淡綠色光者,乃阿修羅道之光,不 喜愛。汝要自念堅固,祈禱偈言:
嗚呼茫茫生死流,由我嫉妬性太深, 所作智清淨光,今幸照耀於我身,
不空成就我世尊,放光攝受作我怙, 量眷屬放光護,其為我之保祐者,
中有境界證道中,攝我安然無障礙, 入絕大光明聚,清淨佛性光明中。
爾時,毘盧遮那世尊復說第六天中有 入妙法,而作是言:秘密主,中有第 天,自有五大五部諸尊放射慈光攝受 ,應呼其姓名,而提示曰:
OOO訖於今日止,五部佛尊已一一 光攝受於汝。然汝宿障業力故,使汝 縮未得觀入,徘徊此間。汝若明了彼 五佛光明,乃由汝之自性清淨識中映 而生,則汝應早為五尊所攝而得證入 今者汝當一心自念,彼五佛五智合體 光明,同時放照攝受令汝證入,汝當 自了知。又第六天中,彼五根本清淨 大佛土,各色光明同時再放,由中央 法界體性發生土毘盧遮那佛自心,向 放射強烈白色淨光;由東方上勝妙樂 土阿閦佛自心,向汝放射強烈藍色淨 光;由南方眾寶莊嚴淨土寶生佛自心 向汝放射強烈黃色淨光;由西方極樂 土阿彌陀佛自心,向汝放射強烈紅色 淨光;由北方無上妙行成就淨土不空 就佛自心,向汝放射強烈綠色淨光, 一佛部眷屬,一一皆汝之自性清淨心 、菩提種性所出生者,皆來放光攝受 汝當善識為要。此等勝上境界,非汝 外,乃汝自心中央及四方,即彼五佛 五部眷屬之一大曼荼羅。彼諸尊亦非 他處來,原是汝自心清淨識所變現。 應如是覺知。
諸尊之體非大非小,皆應感受不同而 差別,其莊嚴各別、其色各別、其坐 各別、其寶座各別、其標幟各別。此 大曼荼羅諸尊,共有五大圓光,其四 各圓光,各有主尊,各有菩薩,各有 屬。菩薩有定慧男女之相,共成一大 曼荼羅,皆齊向汝放光攝照,與汝相 以為恃怙。汝要如是覺知又此時各部 尊,各由自心中放出光明,聯合四智 之和合光,猶如日體之光明,此乃各 之光融合而成。向汝直射、照耀之光 ,諦觀即乃法界體性智大白光,成倒 置半球形作光球中心,周邊復圍繞較 之白光球,各小白光球周邊又復圍繞 數小光星,層層光球光星周匝圍繞, 成一無比眩耀大白光球,向汝直射、 耀。東方阿閦如來心中大圓鏡智,放 無比眩耀藍色大光明聚,如同中央形 體光球光星,向汝直射。南方寶生如 心中平等性智放射無比眩耀黃色大光 聚,如同中央形體光球光星,向汝直 射。西方阿彌陀如來心中妙觀察智, 射無比眩耀紅色大光明聚,如同中央 體光球光星,向汝直射。此時若未見 綠色大光明聚照耀者,即因汝之心智 能猶未通逹與彼相應之故。汝應當覺 ,各各光明照攝汝者,並非來自他處 ,乃是汝之自性清淨心智所映現,汝 可矜持,亦不可怯懦畏懼,唯當制伏 著、安和身心,住於三摩鉢提觀。住 此觀時,則所有各相及光明等,自然 汝入我我入融合不二,汝當即入佛性 中。
(~續~3 / http://blog.udn.com/shiglfs/5058007 )
@佛說臨終不斷經(~3)
汝能信解般若實相,真空不空,無有 異,則汝自心自能進入安祥之三摩地 舉體融合於圓滿覺性,證得報身佛果 而不退轉。對於彼六道之幻色淡光決 喜愛,勿為所動;對於強烈之智光, 生畏懼驚惶,住於正念,堅定信心, 應自思維曰:五方五佛大慈悲智光, 照耀我,已發悲願攝我,我誓皈依, 今持念偈言:
嗚呼茫茫生死流,皆由五毒諸妄念, 妙種智和光明,今幸炳然照我身,
五方五佛大慈尊,放光攝受作我怙, 尊眷屬齊放光,前後赫赫擁護我,
六道不淨劣等光,救我不為其所奪, 有境界證道中,攝我安然無障礙,
置我五佛淨土中,攝入大光明寶聚, 淨佛性光明中。
爾時,毘盧遮那世尊復說第七天中有 入妙法,而作是言:秘密主,第七天 ,尚有清淨識性各色光明照射,應呼 其姓名,而作提示曰:
OOO汝要一心諦聽。此第七天者, 有清淨識性放出各色光明,向汝直射 即由勝樂國土出生之持明部諸尊,前 來攝汝。於一大曼荼羅中心及東西南 四隅,均有持明主,或作種種舞勢, 放所屬不同之光,照射汝身。此五清 淨識性智種之俱生淨智,發為五色光 ,晃耀放射,猶如無色絲,盪漾空際 人驚眩,不敢迫視,由諸持明主心中 齊向汝直射。汝須棄捨暗弱之光,舉 投入強烈光明中,須知彼即汝之清淨 光明。彼光明發射時,有真性巨聲, 如千倍雷鳴之音,有喊殺怖畏之明咒 ,切勿畏懼驚怖,須知此亦由汝之本 清淨光明而來。不可為畜生道弱光所 惑,應自思維而憶念曰:今者,持明 尊、勇勝諸尊,已皆降臨接引於我, 唯皈依,倚為依怙。因我直至今日, 雖經三世五部佛尊,一一不捨悲願放 接引,而我未悟,自失證入機緣,愚 太甚。我今唯願持明部諸尊,不捨悲 願攝受我,以清淨智光鈎住我,令我 復下墮,攝我證入勝樂國土中,而誦 言:
嗚呼漂流生死海,皆由愚痴性太深, 生清淨智道光,今幸照耀於我身,
持明勝者諸聖尊,攝受垂聽我訴言, 捨悲願攝受我,攝我融入於證道,
我今志願投向彼,俱生智道清淨光, 明諸尊放光明,導引攝我遂剋證,
眷屬放光擁護我,中有境中無障礙, 我安然證無生,令我如願得證入,
勝上樂土光明中。
爾時,毘盧遮那世尊復說於此意生身 未能證入者,自有司命鬼王等恐怖諸 出現,威迫拘提等境界。秘密主,此 乃自性清淨智種所變現者,須呼其姓 ,而提示曰:
OOO汝今所見司命閰王惡鬼等來威 者,皆是汝識體自心所變現,或於平 所信諸教中,所見陰府地獄鬼王獄卒 圖像等潛意識之重現,不必驚怖,一 住於三摩地。須知唯一根本清淨本性 實有,此為一切本來空空無有此事, 一心祈願而誦偈言曰:
嗚呼茫茫獨行身,今捨一切怨朋親, 前所見唯是幻,自心所映原空境,
願祈諸佛我世尊,大慈大悲加持我, 除中有證道中,各種畏懼恐怖心,
倘緣惡業諸幻相,苦受將來現前時, 尊勝上作依怙,消滅諸有苦受身,
在此真空妙有中,若遇千倍雷電震, 响一一皆轉成,明王慈救咒音聲,
如有業力追逐我,有失所有保護時, 慈大悲聖者眾,祈願為我化無蹤,
若有此中惡業習,任何有所未斷者, 摩地中清淨光,攝我證入佛性中。
眾皆聞法已,一一信受奉行。所有意 身者,悉皆融入阿字法界體性中。
佛說臨終不斷經 ~ 終
南無佛說臨終不斷經
南無阿字法界體性
南無本師釋迦牟尼佛
南無毘盧遮那如來
嗡阿吽娑哈
__/|\__
) (
( )
O
__/|\__
願以此功德
普皆回向:
無緣大慈 同體大悲
有情無情 同圓種智
冤親平等 同證菩提
吽~
(back回~1.)
http://blog.udn.com/shiglfs/5057774
=============
A DI ÐÀ KINH HỢP GIẢI
Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa hợp dịch
Phụ Lục
A Di Ðà Chân Ngôn
(theo Nguyên Âm thượng sư)
Những người tu theo đường lối Tịnh Mật Song Tu, ngoài việc trì danh, có thể kiêm tụng các chân ngôn sau:
1. Nhất Tự Chân Ngôn:
a) Kinh Bất Không Thần Biến, quyển 28 chép: “Biến Giải Thoát Nhất Tự Chân Ngôn là: “Án, ác, sa phạ ha” (Om, Ah, svaha). Nếu có kẻ sáu thời theo đúng pháp trì tụng đủ số một lạc xoa (100 ngàn lần) thì nghiệp (1) này thành tựu. Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân kim sắc, sẽ diệt được hết thảy trọng tội căn bản từ vô thỉ. Nếu Bồ Tát chẳng hiện thì càng tinh tấn tụng niệm bội phần, đủ số hai lạc xoa hoặc ba lạc xoa thì nghiệp này sẽ thành tựu, Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ hiện thân, cầm tay chỉ bày đức Phật A Di Ðà ngồi trên tòa sư tử hoa sen báu nơi cõi Tây Phương Tịnh Ðộ, lại được A Di Ðà xoa đầu”.
b) Sách Lý Thú Thích chép: “Chữ Hất Rị (Hrih) gồm có bốn chữ cái ghép thành câu chân ngôn một chữ... Nếu ai trì Nhất Tự Chân Ngôn sẽ có thể trừ được hết thảy tai họa, tật bệnh. Sau khi mạng chung, sẽ sanh về cõi nước An Lạc, được Thượng Phẩm Thượng Sanh”.
2. Tâm Chú (còn gọi là Vô Lượng Thọ Như Lai Tâm Chân Ngôn):
Kinh Vô Lượng Thọ Tu Nguyện Hạnh Cúng Dường Nghi Quỹ chép:
“Vô Lượng Thọ Như Lai Tâm Chân Ngôn là: ‘Án, A mật lật đa đế tế hạ ra hồng’ (Om, amrte teje hara hum). Nếu tụng chân ngôn đủ mười vạn biến thì được thấy A Di Ðà Như Lai, mạng chung quyết định được sanh về Cực Lạc”.
(1) Chữ Nghiệp (karma) ở đây chỉ pháp tu. Ðôi khi còn phiên là Yết Ma.
https://hoavouu.com/p16a18886/phu-luc
Giác Ngộ Online
Độ người hấp hối theo kinh tạng Nikàya
NSGN - Hấp hối có nghĩa là gần chết. Có nhiều từ đồng nghĩa cùng biểu đạt cho trạng thái này như đang lâm chung, thời gian cận tử, lúc sắp chết… Độ ở đây mang ý nghĩa chuyển hóa, giúp người vượt qua, giáo hóa cho người.
Có một bài kinh thuộc Trung bộ mang tựa đề Anāthapiṇḍikovāda suttaṃ được Hòa thượng Thích Minh Châu dịch là kinh Giáo giới Cấp Cô Độc1. Tương đương với bản kinh này trong Hán tạng, thuộc bộ Tăng-nhất A-hàm, cũng được Hòa thượng Thích Nhất Hạnh dịch là kinh Độ người hấp hối2.
donguoihaphoi (2).jpg
Thực ra, trong bộ Tăng-nhất A-hàm, bản kinh tương đương kinh Trung bộ này không có tên kinh, mà được các nhà biên tập Đại tạng kinh đánh dấu bản kinh theo số thứ tự3. Trong kinh Trung A-hàm, cũng tồn tại một bản kinh tương đương kinh Trung bộ, khi dịch ra tiếng Việt, Hòa thượng Tuệ Sỹ giữ nguyên tựa đề là kinh Giáo hóa bệnh (教化病)4.
Ở đây, theo nguyên tác Pāli hay Hán tạng của bản kinh này, sự gần giống nhau của cụm từ giáo hóa và giáo giới của hai bản dịch nêu trên, có lẽ sát nghĩa với từ vāda, có căn ngữ vad, có nghĩa là nói, giảng thuyết5.
Cần thấy rằng, trong kinh tạng Nikāya, có rất nhiều bài kinh liên quan đến việc giáo hóa người đang hấp hối, từ hàng cư sĩ cho đến bậc xuất gia, và cũng từ đây đã mở ra nhiều phương cách yểm trợ cho người hấp hối. Do vậy, việc gắn thêm tựa đề Độ người hấp hối đối với một bản kinh trong bộ Tăng-nhất A-hàm thuộc hệ Hán tạng, tương đương với kinh Ānathapiṇḍikovāda suttaṃ dễ tạo ra hiểu lầm về giới hạn các giải pháp độ người hấp hối. Điều này sẽ được chúng tôi làm sáng tỏ hơn trong chuyên khảo dưới đây.
1. Vai trò quan trọng của tâm thanh tịnh lúc cận tử
Ngoại trừ các bậc tự chủ lẽ sống chết thì hầu hết chúng sanh đều không biết được thời điểm lâm chung của mình, nên khó có thể tự chủ tâm tư khi hấp hối. Chính vì vậy, đã có những trường hợp chết với lòng sùng kính hoan hỷ và cũng có những trường hợp phải từ bỏ xác thân trong tâm thế đọa đày. Theo kinh Ví dụ tấm vải, Đức Phật dạy rằng, với tâm cấu uế sẽ sanh về cõi ác và cõi lành sẽ mở ra với tâm thanh tịnh, an nhiên6. Khảo sát một vài trường hợp đặc biệt được ghi nhận trong kinh tạng Nikāya, đã cho thấy tâm thế của người lâm tử có liên hệ đặc biệt đối với nơi sẽ thác sanh về.
Thứ nhất, đó là trường hợp của Tôn giả Pukkusāti. Đã từ lâu, Pukkusāti quy ngưỡng Đức Phật và tự mình xuất gia, tuy chưa chính thức gặp Ngài, dù chỉ một lần. Nhân một chuyến du hành, cả hai cùng lưu trú trong căn nhà của người thợ gốm Bhaggava. Tại đây, Pukkusāti lần đầu tiên hạnh kiến Đức Phật, được nghe Đức Phật thuyết giảng và Tôn giả đã phát tâm cầu thỉnh giới pháp. Trong thời gian đi tìm y bát để như lý tác pháp thọ giới Tỳ-kheo, một con bò cuồng chạy, đoạt mất mạng sống của Tôn giả7. Đối với trường hợp này, Đức Phật xác chứng rằng Pukkusāti đã chứng đệ tam Thánh quả8.
Thứ hai, có một phụ nữ nghèo đang rang lúa, biết được Tôn giả Kassapa vừa xuất định sau bảy ngày miên mật thiền tư, bà đã phát tâm cúng dường phần lúa ít ỏi của mình cho Tôn giả. Sau khi dâng cúng xong và hoan hỷ trở về nhà với thiện sự vừa làm, trên đường đi, tín nữ bất ngờ bị một con rắn độc cắn chết. Do vì chết trong tín tâm, cộng với thiện sự vừa làm, nên tín nữ tức khắc sanh lên cõi trời Ba mươi ba với tên gọi mới là thiên nữ Lājā9.
Thứ ba, thân phụ của Tôn giả Soṇa trước đây làm nghề săn bắn, về già ông bỏ nghiệp sát phát tâm xuất gia và trở thành một vị Tỳ-kheo. Khi lâm chung, những ác nghiệp trong quá khứ diễn ra kinh hoàng làm cho ông sợ hãi tột độ. Thấy vậy, Tôn giả Soṇa đã cho người khiêng cha đến gần một bảo tháp, cắt những cành hoa rồi yêu cầu cha hướng tâm cúng hoa lên tượng Phật và cây bồ-đề. Ngay khi ấy những cảnh tượng kinh hoàng kia biến mất và sau đó ông được sanh Thiên10.
Thứ tư, theo kinh Trung bộ, Bà-la-môn Dhānañjāni là một người, vừa ỷ thế vua, bóc lột các Bà-la-môn gia chủ, ỷ thế các Bà-la-môn gia chủ, bóc lột vua11. Vị Bà-la-môn này có thiện cảm với Tôn giả Sāriputta trong bài thuyết giảng trước đó, mặc dù chưa phát tâm quy y Tam bảo, nhưng lúc lâm chung, Bà-la-môn Dhānañjāni đã cho người mời Tôn giả Sāriputta đến thăm mình. Tại tư thất Bà-la-môn Dhānañjāni, Tôn giả Sāriputta trầm tư: Vị Bà-la-môn này rất luyến ái Phạm thiên giới. Vậy ta hãy thuyết giảng con đường cộng trú với Phạm-thiên12, để ngay đó, Bà-la-môn Dhānañjāni đã mệnh chung và sanh lên Phạm thiên giới13.
Thứ năm, trong kinh Đại bát Niết-bàn, đã ghi nhận rằng, có bốn thánh tích, gọi là Tứ động tâm (saṃvejanīyāni ṭhānāni cattāri), đó là chỗ Như Lai đản sanh, là nơi Như Lai chứng Vô thượng Chánh giác, là nơi Như Lai thuyết pháp lần đầu tiên và là nơi Như Lai nhập Niết-bàn14. Nếu như bất cứ ai, trong khi chiêm bái những Thánh tích mà từ trần với tâm thâm tín hoan hỷ, thời những vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung sẽ được sanh cõi thiện thú, cảnh giới chư Thiên15. Đây là một câu điều kiện, với lưu ý quan trọng rằng, trong khi chiêm bái những Thánh tích (Cetiyacārikaṁ āhiṇḍantā)16, mà từ trần (kālaṁ) với tâm thâm tín hoan hỷ (pasannacittā), thì mới được sanh vào cảnh giới chư Thiên (saggaṃ lokaṃ)17.
Như vậy, tính chất và sự chuyển vận của tâm thức lúc cận tử có ý nghĩa quan trọng trong việc thọ sanh. Ngoài năm nguồn tư liệu nêu trên, thì tác phẩm Thắng pháp tập yếu luận cũng khẳng định rõ việc này18. Ở đây, việc giữ gìn tâm thức cận tử an trú trong Chánh pháp, bên cạnh nỗ lực chủ yếu của chính cá nhân, thì người thân và bằng hữu, tùy theo hoàn cảnh cụ thể, vẫn có thể trợ duyên, làm cho người lâm tử có một chốn an nhiên để sanh về. Trong kinh tạng Nikāya đã ghi nhận nhiều trường hợp, cũng như nhiều cách thức độ người hấp hối.
2. Các phương thức độ người hấp hối
Tùy theo nghiệp lực dắt dẫn mà mỗi người có một trạng thái hấp hối khác nhau. Chúng tôi sẽ khái quát và điểm qua những phương thức độ người hấp hối tiêu biểu.
Hóa giải ước nguyện lúc lâm chung
Với một số người, đôi khi ôm ấp những tâm nguyện mà mãi đến cuối đời vẫn chưa thể hoàn thành, và tâm nguyện đó bất chợt được thổi bùng lên trong lúc lâm chung. Trong vai trò yểm trợ người hấp hối, tùy theo từng loại tâm nguyện, tùy theo hoàn cảnh thực tế, chúng ta tìm cách giúp người hấp hối tháo gỡ những tâm nguyện này. Tháo gỡ không mang nghĩa đáp ứng mọi loại tâm nguyện, mà có thể giúp người hấp hối nhận ra những tâm nguyện tốt thì nên duy trì, và những tâm nguyện sai thì cần phải buông bỏ.
Trước hết, với người cư sĩ tại gia, do đặc thù của đời sống nên cũng có lắm ưu tư lúc cuối đời. Câu chuyện vợ giúp chồng tháo gỡ những lo toan khi bệnh nặng tưởng chừng sắp chết của gia đình Nakula, là một trường hợp đáng suy gẫm. Đặc thù của đoạn hội thoại này là người vợ giả định những ưu tư của chồng, và cũng tự mình đưa ra hướng giải quyết. Xin lược nêu câu chuyện an ủi đó như sau:
1- Thưa gia chủ, gia chủ có thể suy nghĩ: “Nữ gia chủ, mẹ của Nakula, sau khi ta mệnh chung, không có thể nuôi dưỡng các con và duy trì nhà cửa”.
- Thưa gia chủ, tôi khéo léo dệt vải và chải lông cừu. Thưa gia chủ, sau khi gia chủ mệnh chung, tôi có thể nuôi dưỡng các con và duy trì nhà cửa.
2- Thưa gia chủ, gia chủ có thể suy nghĩ như sau: “Nữ gia chủ, mẹ của Nakula, sau khi ta mệnh chung, sẽ đi đến một gia đình khác”.
- Thưa gia chủ, chớ có suy nghĩ như vậy! Thưa gia chủ, gia chủ cũng đã biết, trong mười sáu năm chúng ta sống làm người gia chủ, tôi đã sống thực hành Phạm hạnh như thế nào.
3- Thưa gia chủ, gia chủ có thể suy nghĩ như sau: “Nữ gia chủ, mẹ của Nakula, sau khi ta mệnh chung, sẽ không còn muốn yết kiến Thế Tôn, sẽ không còn muốn yết kiến chúng Tăng”.
- Thưa gia chủ, chớ có suy nghĩ như vậy! Sau khi gia chủ mệnh chung, tôi sẽ muốn yết kiến Thế Tôn nhiều hơn, sẽ muốn yết kiến chúng Tăng nhiều hơn.
4- Thưa gia chủ, gia chủ có thể suy nghĩ như sau: “Nữ gia chủ, mẹ của Nakula, sau khi ta mệnh chung, sẽ không giữ giới một cách đầy đủ”.
- Thưa gia chủ, chớ có suy nghĩ như vậy! Thưa gia chủ, cho đến khi nào, các nữ đệ tử gia chủ mặc áo trắng của Thế Tôn còn chứng được nội tâm tịnh chỉ, tôi sẽ là một trong những vị ấy.
5- Thưa gia chủ, gia chủ có thể suy nghĩ như sau: “Nữ gia chủ, mẹ của Nakula, trong Pháp và Luật này không đạt được thể nhập, không đạt được an trú, không đạt được thoải mái, không vượt khỏi nghi hoặc, không rời được do dự, không đạt được vô úy, còn phải nhờ người khác sống trong lời dạy Đức Bổn Sư”.
- Thưa Gia chủ, chớ có suy nghĩ như vậy! Thưa Gia chủ, cho đến khi nào, các nữ đệ tử gia chủ mặc áo trắng của Thế Tôn, trong Pháp và Luật này đạt được thể nhập, đạt được an trú, đạt được thoải mái, vượt khỏi nghi hoặc, rời được do dự, đạt được vô úy, không phải nhờ người khác sống trong lời dạy Đức Bổn Sư, tôi sẽ là một trong những người ấy19.
Sau những lời động viên, an ủi chuyên chở chất liệu từ mẫn của người phối ngẫu, đặc biệt là bảy lần nhắc lại lời Đức Phật: Thế Tôn quở trách người khi mệnh chung còn mong cầu ái luyến, cha của Nakula đã bất ngờ lành bệnh và vượt qua cái chết. Khi biết được câu chuyện này, Đức Phật đã tán thán Nakulamātā, xem bà là một trong mười nữ đệ tử tại gia nói chuyện thân mật một cách tối thắng20.
Trong những trường hợp khác, người yểm trợ cùng tùy theo ước nguyện của người lâm chung để an ủi. Chẳng hạn như:
- Nếu vị ấy nói: “Tôi còn có lòng thương nhớ cha mẹ”, thời nên nói với vị ấy như sau: “Thưa Tôn giả, Tôn giả thế nào cũng phải chết. Dầu Tôn giả có lòng thương nhớ cha mẹ, Tôn giả cũng sẽ chết. Dầu Tôn giả không có lòng thương nhớ cha mẹ, Tôn giả cũng sẽ chết. Vậy tốt hơn là Tôn giả hãy từ bỏ lòng thương nhớ đối với cha mẹ của Tôn giả”.
- Nếu vị ấy nói: “Tôi có lòng thương nhớ vợ con”, thời vị ấy cần phải được nói như sau: “Tôn giả thế nào cũng chết. Dầu Tôn giả có lòng thương nhớ vợ con, Tôn giả cũng sẽ chết. Dầu Tôn giả không có lòng thương nhớ vợ con, Tôn giả cũng sẽ chết. Vậy tốt hơn là Tôn giả hãy từ bỏ lòng thương nhớ đối với vợ con của Tôn giả”21.
Từ những trường hợp cụ thể này, liên hệ đến hoàn cảnh thực tế của người cư sĩ thời nay, chúng ta có thể linh động về phương diện nội dung, nhằm hóa giải ưu tư của người sắp mất một cách hiệu quả nhất.
Với người xuất gia, đành rằng không có những lo toan như thế tục, nhưng đôi khi cũng có những tâm nguyện vi tế, và chúng đã tồn tại ngay cả lúc lâm chung. Đoạn hội thoại trong kinh Tương ưng (S.iii,119), giữa Đức Phật và Tỳ-kheo Vakkali đang hấp hối, tiêu biểu cho trường hợp này:
- Này Vakkali, ông có gì phân vân, hối hận không?
- Bạch Thế Tôn, thật sự con có nhiều phân vân, có nhiều hối hận!
- Này Vakkali, ông có gì tự trách mình về giới luật không?
- Bạch Thế Tôn, con không có gì tự trách mình về giới luật.
- Này Vakkali, nếu ông không có gì tự trách mình về giới luật, vậy ông có gì phân vân, có gì hối hận?
- Ðã từ lâu, bạch Thế Tôn, con muốn đến để được thấy Thế Tôn. Nhưng thân con không đủ sức mạnh để được đến thấy Thế Tôn.
- Thôi vừa rồi, này Vakkali, có gì đáng thấy đối với cái thân hôi hám này. Này Vakkali, ai thấy Pháp, người ấy thấy Ta. Ai thấy Ta, người ấy thấy Pháp. Này Vakkali, đang thấy Pháp, là thấy Ta. Ðang thấy Ta, là thấy Pháp22.
Từ câu chuyện trên đã cho thấy, Đức Phật luôn quan tâm và lắng nghe tâm nguyện của chúng sanh nói chung lúc cuối đời. Trong trường hợp Tỳ-kheo Vakkali, Đức Phật đã chỉ ra tâm nguyện đó vẫn còn vướng mùi tục lụy, và Ngài đã trang bị một nhận thức mới cho Tỳ-kheo Vakkali.
donguoihaphoi (3).jpg
Có thể nói, quan tâm đến tâm nguyện lúc cuối đời của người hấp hối là một phương cách sống đượm tính nhân văn, làm cho đời sống không có nhiều dư tàn sau khi quá vãng. Tùy theo từng loại tâm nguyện lúc cuối đời của từng người mà định hình nên những phẩm tính giá trị của đời sống. Ngay như triết gia Socrates (470-399 B.C), sau khi uống ly thuốc độc của thể chế dân chủ Athena, trước thời khắc biệt ly, còn dặn dò học trò hãy thay thầy trả dùm con gà trống mà mình còn nợ Aesculapius23.
Trong các loại tâm nguyện của người sắp mất, việc nhận ra đâu là tâm nguyện chính đáng và ngược lại, đòi hỏi người yểm trợ phải có một tuệ giác nhất định. Mức độ tuệ giác của người yểm trợ đôi khi góp phần quyết định sự đọa lạc hay thăng hoa cho người hấp hối.
Như vậy, việc tháo gỡ hợp lý những tâm nguyện lúc cuối đời của người hấp hối, là một trong những giải pháp trợ tử mang tính nhân văn, mà chính bản thân Đức Phật đã từng thực hiện.
Trang bị nhận thức về Tứ bất hoại tín và Tam pháp ấn
Thân vương Mahānāma là người khơi mở nhiều nhân duyên để Đức Phật có nhiều bài pháp quan trọng dành cho hàng cư sĩ24. Ông có nhiều trăn trở gắn với đời sống thực tế của người tại gia mà mỗi khi gặp Phật, ông đều đem ra thưa hỏi. Câu hỏi dưới đây của ông là một trong những minh chứng đó:
- Bạch Thế Tôn, một cư sĩ có trí bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh, cần phải được một cư sĩ có trí giáo giới như thế nào?
Từ câu hỏi này, Đức Phật đã chỉ dạy một phương pháp quan trọng có thể sử dụng độ người hấp hối:
- Này Mahānāma, một cư sĩ có trí bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh, cần phải được an ủi với bốn pháp an ủi như sau (assāsaniya dhamma):
Tôn giả hãy yên tâm, với lòng tịnh tín bất động của Tôn giả đối với Đức Phật: “Ðây bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn”.
Tôn giả hãy yên tâm, với lòng tịnh tín bất động của Tôn giả đối với Pháp: “Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có hiệu quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu”.
Tôn giả hãy yên tâm, với lòng tịnh tín bất động của của Tôn giả đối với chúng Tăng: “Diệu hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Trực hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Ứng lý hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Chơn chánh hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử của Thế Tôn là đáng cung kính, đáng cúng dường, đáng tôn trọng, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời”.
Tôn giả hãy yên tâm, với các giới của Tôn giả được các bậc Thánh ái kính không bị phá hoại, không bị đâm cắt, không bị nhiễm ô, không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến Thiền định.
Một cư sĩ có trí bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh, này Mahānāma, phải được một cư sĩ có trí giáo giới với bốn pháp an ủi này. Cần phải nói như vậy25.
Bốn pháp này còn được gọi là Tứ bất hoại tín (bốn niềm tin bất hoại), Tứ chủng chứng tịnh (bốn niềm tin trong sạch tuyệt đối: cattaro aveccappasādā), tức là tin Phật, tin Pháp, tin Tăng và tin Giới. Thành tựu được bốn pháp này, người hấp hối sẽ không bị đọa lạc, chứng quả Dự lưu và sẽ thiên về Niết-bàn, hướng về Niết-bàn, xuôi về Niết-bàn26.
Thông thường, Tứ bất hoại tín do tha nhân thuyết giảng cho người lâm chung, tuy nhiên, đối với cư sĩ Citta là một trường hợp đặc biệt.
Theo kinh Tương ưng (S.iv, 302), trong thời khắc mệnh chung, cư sĩ Citta được chư Thiên vây quanh trợ niệm, đó là các vị chư Thiên ở hoa viên, chư Thiên ở rừng, chư Thiên ở cây, chư Thiên ở rừng các dược thảo, các cây trong rừng27. Cuộc trao đổi giữa các vị chư Thiên và cư sĩ Citta rất mực kỳ thú:
- Này gia chủ, hãy nguyện: ‘Trong tương lai, ta sẽ thành vua Chuyển luân Thánh vương’”. Cho nên tôi (Citta - người viết chú) mới trả lời với họ: ‘Cái ấy là vô thường, cái ấy là không thường hằng, cái ấy cần phải bỏ đi và vượt qua’”28.
Sau đó, mặc dù nằm trên giường bệnh, nhưng trước yêu cầu của đông đảo chư Thiên và bà con thân quyến, cư sĩ Citta đã giảng về niềm tin vững chắc vào ba ngôi Tam bảo và sau đó còn căn dặn: Tất cả những gì có thể đem cho trong gia tộc, tất cả phải đem cúng dường, phân phát cho những vị trì giới và có thiện tánh29. Khi gia chủ Citta khiến cho các bạn bè thân hữu, các bà con huyết thống có tịnh tín đối với Đức Phật, đối với Pháp, đối với chúng Tăng và khuyên họ bố thí, vị ấy liền mệnh chung30.
Từ đây có thể thấy, mặc dù đang hấp hối, nhưng trước cầu thỉnh của chư Thiên và thân quyến, cư sĩ Citta vẫn nỗ lực thuyết bài pháp cuối cùng. Chính vì vậy, cư sĩ Citta được Đức Phật tán thán là một trong mười vị nam cư sĩ tối thắng, với mỹ hiệu: thuyết pháp tối thắng31.
Trong đời sống ngày nay, để đạt được niềm tin bất động đối với Tam bảo và Thánh giới là điều rất khó. Tuy nhiên, từ lời dạy của Đức Phật, từ gương sáng của các vị cư sĩ tối thắng nêu trên, chúng ta có thể vận dụng bằng nhiều cách để người hấp hối hoàn thiện, củng cố phẩm chất đạo đức cơ bản của mình (ngũ giới, Bồ-tát giới, Tỳ-kheo giới…), và giữ vững niềm tin Tam bảo đến mức cao nhất có thể. Trong thực tế hiện nay, nội dung tương tự vẫn được các truyền thống Phật giáo vận dụng trợ niệm cho người hấp hối, nhưng mang nhiều biến tấu khác biệt so với kinh văn.
Bên cạnh việc củng cố và trang bị cho người hấp hối Tứ bất hoại tín; trong nhiều trường hợp, Đức Phật còn triển khai nội dung Tam pháp ấn khi ai đó đang lâm chung.
Kinh Tương ưng (S.iv, 46) ghi, có một vị Tỳ-kheo bị trọng bệnh, ít người biết đến, được Đức Phật quang lâm vấn bệnh. Ngài hỏi:
Ông nghĩ thế nào, này Tỳ-kheo, mắt là thường hay vô thường?
- Là vô thường, bạch Thế Tôn...
- Tai... Mũi... Lưỡi... Thân... Ý là thường hay vô thường?
- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
- Là khổ, bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Thấy vậy, này Tỳ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt... “... không còn trở lui trạng thái này nữa”.
Thế Tôn thuyết như vậy, Tỳ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy. Và trong khi lời dạy này được nói lên, Tỳ-kheo ấy khởi lên pháp nhãn ly trần vô cấu: “Phàm cái gì sanh khởi, tất cả đều chịu sự đoạn diệt”32.
Có thể thấy, nội dung giáo giới cho vị Tỳ-kheo đang lâm bệnh nặng trong đoạn kinh trên chính là Tam pháp ấn. Nhận thức đầy đủ về Tam pháp ấn giúp cho người hấp hối không còn tham lam hay chấp thủ về thân. Vì càng ít luyến ái thì càng vơi chấp thủ. Mức độ giải thoát của mỗi chúng sanh chủ yếu căn cứ vào hai tiêu chí này. Theo khảo sát, Tam pháp ấn được trình bày sinh động và đầy đủ nhất trong bài kinh Vô ngã tướng (Anattalakkhaṇa Suttaṃ). Đây là bài pháp thứ hai mà Đức Phật thuyết giảng cho năm anh em Kiều Trần Như sau khi thành đạo33.
Từ cơ sở này cho thấy, trong việc yểm trợ cho người hấp hối thì có thể khai triển giáo nghĩa Tứ bất hoại tín hay Tam pháp ấn, hoặc trì tụng bài kinh Vô ngã tướng nhiều lần. Sau khi đối khảo nhiều bản dịch khác nhau, chúng tôi cho rằng bản dịch kinh Vô ngã tướng theo dạng thi kệ (gātha) trong Nghi thức tụng niệm của hệ phái Phật giáo khất sĩ Việt Nam, rất phù hợp trong việc trợ duyên cho người hấp hối34.
Vài phương cách trợ tử không thông dụng
Không chấp thủ (na upādiyissāmi)35
Đại thương gia Anāthapiṇḍika là người trưởng thành và tắm gội trong Phật pháp; có đến 18 bản kinh được ghi nhận liên quan đến ông36. Khi lâm chung, ông được ngài Sāriputta thuyết giảng bằng một bài pháp có nội dung sâu sắc.
Bài thuyết giảng của Tôn giả Sāriputta mang tên Anāthapiṇḍikovāda suttaṃ, được Hòa thượng Thích Minh Châu dịch là kinh Giáo giới Cấp Cô Độc, là kinh số 143, thuộc Trung bộ.
Do vì thương gia Anāthapiṇḍika đã thành tựu quả vị Dự lưu trong cuộc hội kiến với Đức Phật ở thành Rajaghaha37, chính vì vậy bài thuyết giảng của Tôn giả Sāriputta dành cho Anāthapiṇḍika khi ông lâm chung, chỉ tập trung vào một vấn đề quan trọng duy nhất, đó chính là quan điểm không chấp thủ (na upādiyissāmi). Suốt cả bài kinh, cụm từ không chấp thủ được nhắc đến 48 lần.
Theo kinh, sau khi thăm hỏi tình trạng bệnh tình, Tôn giả Sāriputta lần lượt khuyên bảo Anāthapiṇḍika không nên chấp thủ sáu căn, sáu trần, sáu thức… cho đến không nên chấp thủ ngũ đại, tứ thiền, cả thế giới này hay thế giới khác. Bài thuyết giảng của Tôn giả Sāriputta xoay quanh chủ điểm chính là không chấp thủ (na upādiyissāmi), với những dẫn dắt và liên hệ sinh động.
Sau khi nghe xong bài thuyết pháp, thương gia Anāthapiṇḍika đã ngạc nhiên thưa với Tôn giả Sāriputta:
- Dầu cho Bậc Ðạo sư được con hầu hạ đã lâu và dầu con đã từng gần gũi các vị Tỳ-kheo tu tập ý lực, con chưa từng được nghe một thời thuyết pháp như vậy.
- Này cư sĩ, thuyết pháp như vậy không nói cho các hàng cư sĩ mặc áo trắng. Này cư sĩ, thuyết pháp như vậy nói cho các hàng xuất gia.
- Vậy thưa Tôn giả Sāriputta, hãy thuyết pháp như vậy cho hàng cư sĩ mặc áo trắng. Thưa Tôn giả Sāriputta, có những thiện gia nam tử sanh ra với cấu uế không nhiều, nếu không được nghe pháp, sẽ bị đọa lạc; nhưng nếu được nghe, họ có thể biết được (Chánh) pháp38.
Quả đúng như Tôn giả Sāriputta đã nói, quan điểm không chấp thủ được Đức Phật dạy cho Tỳ-kheo vô danh khi vị ấy lâm bệnh. Kinh Tương ưng (S.iv, 47) ghi:
Này Tỳ-kheo, nếu ông không hiểu pháp Ta dạy về mục đích thanh tịnh trì giới, thời này Tỳ-kheo, ông hiểu pháp Ta dạy như thế nào?
- Bạch Thế Tôn, con hiểu pháp Thế Tôn dạy là với mục đích tịch tịnh hoàn toàn, không chấp thủ.
- Lành thay, lành thay, này Tỳ-kheo! Lành thay, này Tỳ-kheo! Ông hiểu pháp Ta dạy là với mục đích tịch tịnh hoàn toàn, không có chấp thủ39.
Quan điểm không chấp thủ còn được Đức Phật đặc biệt nhấn mạnh trong trường hợp lâm chung hết sức đặc dị của Tôn giả Channa, do vì bệnh tật quá đau đớn nên Tôn giả đã dùng dao tự sát. Ngài Sāriputta nghi vấn về sanh thú và đời sau của Tôn giả Channa, nên được Đức Phật giải thích:
Này Sāriputta, với sự việc như vậy, Ta không nói Channa là có lỗi. Này Sāriputta, ai bỏ thân này và chấp thủ thân khác; người ấy, Ta nói là có lỗi. Nhưng Tỳ-kheo Channa thời không vậy40. Sở dĩ Đức Phật khẳng định như vậy vì trước đó, Tôn giả Channa đã thành tựu tuệ tri: Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi41.
Việc nỗ lực tu tập để thành tựu tâm không chấp thủ (na upādiyissāmi) mang một ý nghĩa quan trọng lúc còn sống và ngay cả khi hấp hối. Vì khi chấp thủ bị bẻ gãy, thì chuỗi 12 nhân duyên sẽ rời ra, và người hấp hối sẽ chạm ngõ giải thoát.
Sáu minh phần pháp (cha vijjā bhāgiye dhamme)
Cư sĩ Dīghāvu là một người thân cận Tam bảo, đã đắc quả Dự lưu. Khi bệnh nặng, biết mình không qua khỏi, ông đã nhờ cha tên là Jotika đến tinh xá Trúc Lâm cầu thỉnh Đức Phật quang lâm tư gia vì lòng từ mẫn.
Sau khi thăm hỏi bệnh tình, Đức Phật trùng tuyên Tứ bất hoại tín mặc dù cư sĩ Dighāvu đã thành tựu trước đó. Sau đây, Đức Phật dạy thêm:
- Do vậy, này Dīghāvu, sau khi ông đã an trú trong bốn Dự lưu phần này, ông hãy tu tập thêm sáu minh phần pháp (cha vijjā bhāgiye dhamme).
- Ở đây, này Dīghāvu, ông hãy trú, quán vô thường trong tất cả hành, quán khổ tưởng trong vô thường, quán vô ngã tưởng trong khổ, quán tưởng đoạn tận, quán tưởng ly tham, quán tưởng đoạn diệt42.
Sáu minh phần pháp này có thể tìm thấy rải rác trong kinh Tăng chi, từ chương 6 pháp đến chương 9 pháp. Trong kinh Phúng tụng số 33, thuộc Trường bộ, sáu minh phần pháp này còn được gọi là Sáu quyết trạch phần tưởng: Vô thường tưởng, khổ tưởng trên vô thường, vô ngã tưởng trên khổ, đoạn tưởng, vô tham tưởng, diệt tưởng43.
Sáu minh phần pháp này là pháp tu bậc cao, phần lớn chỉ dành cho giới xuất gia hoặc bậc thượng căn thượng trí. Chỉ xét riêng minh thứ nhất, tức quán vô thường trong tất cả hành, đã cho thấy điều này:
Thật vậy, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo nào thấy bất cứ hành nào là vô thường, sẽ thành tựu được nhẫn nhục tùy thuận, sự kiện này có xảy ra. Thành tựu nhẫn nhục tùy thuận, sẽ nhập vào chánh tánh quyết định, sự kiện này có xảy ra. Nhập vào chánh tánh quyết định, sẽ chứng ngộ quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả Bất lai, hay quả A-la-hán, sự kiện này có xảy ra44.
Ở đây, riêng trong trường hợp Đức Phật dạy cho cư sĩ Dīghāvu sáu minh phần pháp (cha vijjà bhàgiye dhamme), vì ông ta là một trong những đệ tử tại gia có căn tánh thông tuệ, được Đức Phật xác tín:
Hiền minh, này các Tỳ-kheo, là cư sĩ Dīghāvu! Cư sĩ Dīghāvu thực hiện các pháp và tùy pháp, không làm phiền nhiễu Ta với những kiện tụng về pháp. Cư sĩ Dīghāvu, sau khi đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh nhập diệt ở tại đấy, không còn trở lui thế giới này nữa45.
Từ trường hợp lâm chung của thương gia Anāthapiṇḍika và cư sĩ Dīghāvu, đã xác tín rằng, thời Phật tại thế, có nhiều cư sĩ tại gia với căn cơ ưu thắng. Không những vậy, căn cứ vào nội dung thuyết giảng dành cho hai vị cư sĩ đặc biệt này đã cho thấy, đây là những pháp tu tập bậc cao, không thể dễ dàng vận dụng trợ niệm cho số đông quần chúng.
donguoihaphoi (1).jpg
3. Kết luận
Theo quan điểm Phật giáo, nghiệp có thể thay đổi. Dù chỉ thay đổi nghiệp lực một chút nhỏ nhoi, nhưng theo chiều hướng tích cực, thì người đệ tử Phật vẫn nỗ lực thực hành. Trong kinh Pháp cú, Đức Phật đã khích lệ việc này46. Việc độ người hấp hối tuy chỉ mang tính trợ duyên nhưng cũng nằm trong ý nghĩa đó.
Theo tư liệu đã dẫn, việc độ người hấp hối đúng với nghĩa đen của cụm từ này. Tức là những hoạt động trợ niệm diễn ra khi người ấy còn sống, khi các chỉ số sinh tồn (vital signs) còn được ghi nhận, khi người lâm tử còn có ý thức phản hồi. Kinh văn Nikāya không ghi nhận hoạt động trợ niệm sau khi chết.
Từ những khảo sát ở trên cho thấy, có năm nội dung cơ bản trong việc trợ duyên cho người hấp hối. Thứ nhất, lắng nghe, an ủi và tháo gỡ tâm tư của người sắp chết. Thứ hai, trùng tuyên những giới luật mà người sắp chết đã thọ, củng cố những sút kém về giới luật, nếu có, bằng các hình thức sám hối47. Thứ ba, định hướng người sắp mất vững niềm tin Tam bảo. Thứ tư, triển khai giáo nghĩa Tam pháp ấn, hoặc trì tụng bài kinh Vô ngã tướng nhiều lần. Thứ năm, bằng những dẫn dụ cụ thể, khuyên người hấp hối từ bỏ luyến ái và chấp thủ. Đây là những phương cách độ người hấp hối được ghi nhận từ kinh tạng Nikāya.
Độ người hấp hối tuy chỉ là phương cách mang tính trợ duyên, nhưng do chuyên chở chất liệu thương yêu, nên đã tạo ra những giá trị đặc thù của Phật giáo.
Chúc Phú
_____________________
(1) Kinh Trung bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2012, tr.601-606.
(2) http://langmai.org/tang-kinh-cac/kin...-nguoi-hap-hoi.
(3)大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第四十九, 非常品, 八.
(4) Kinh Trung A-hàm, tập 1, Tuệ Sỹ dịch và chú, NXB.Phương Đông, 2009, tr.263-279.
(5) M.Monier-Williams. A Sanskrit English Dictionary. Springfield, VA: Nataraj Books, 2014. p.939.
(6) Nguyên văn: Cõi ác chờ đợi một tâm cấu uế…Cõi thiện chờ đợi một tâm không cấu uế. Xem, Kinh Trung bộ, tập 1, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2012, tr.61.
(7) Kinh Trung bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2012, tr.588.
(8) Ibid.
(9) Tích truyện Pháp cú, tập 2, Viên Chiếu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2012, tr.135-137
(10) Pa-Auk Tawya Sayadaw. The Workings of Kamma. Helicon Publishing and Penguin Books Ltd: 1996, p.196.
(11) Kinh Trung bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2012, tr.225.
(12) Con đường cộng trú với Phạm thiên là phải hoàn thiện bốn phẩm chất cao quý: Từ, Bi, Hỷ và Xả. Ibid, tr.234.
(13) Kinh Trung bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2012, tr.235.
(14) Kinh Trường bộ, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2013, tr.328.
(15) Ibid.
(16) Tỳ-kheo Thanissaro dịch cụm từ này là: on such a pilgrimage. Tác giả Maurice Walshe dịch là: while making the pilgrimage. Cf: The Long Discourses of the Buddha -Maha-parinibbana sutta. trans. Maurice Walshe. Boston: Wisdom Publications, 1995. p.264.
(17) Có ba yếu tố hiện diện đầy đủ mới được sanh thiên giới. Thứ nhất là trong khi chiêm bái thánh tích, thứ hai là với tâm thâm tín cao độ và thứ ba chết trong khi đang chiêm bái. Vì lẽ, nếu như chiêm bái thánh tích, nhưng trong tâm không khởi lòng thâm tín, dù có chết tại chỗ ấy thì cũng không thể sanh thiên. Trong một trường hợp khác, đã từng chiêm bái thánh tích và đã khởi tín tâm ngay khi đó, nhưng khi lâm chung mà tâm tư tán loạn, thì cũng không thể sanh thiên.
(18) Theo Thắng pháp tập yếu luận, HT.Thích Minh Châu dịch và giải, chương năm, nghiệp, nghiệp tướng và thú tướng, thì: Gatinimitta (Thú tướng) là một hình tướng gì của cảnh giới mà người ấy sắp được tái sanh, một sự kiện luôn luôn xảy ra với người sắp chết. Nếu là một hình tướng không tốt đẹp, thời có thể thay đổi chúng bằng cách ảnh hưởng đến tư tưởng của người sắp chết, và như vậy thiện niệm của người ấy biến thành cận tử và thay thế cho sanh nghiệp của người ấy.
(19) Kinh Tăng chi bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2015, tr.43-45.
(20) Kinh Tăng chi bộ, tập 1, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2015, tr.63.
(21) Kinh Tương ưng bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2013, tr.771-772.
(22) Ibid, tr.743-744.
(23) The Phaedo of Plato. Harold Williamson, B.A Ed. New Yord: The Macmillan Company, 1904. p. 245. Cf: Pay a cock to Aesculapius.
(24) Nhờ ông, Đức Phật đã định nghĩa thế nào là cư sĩ: Bạch Thế Tôn, cho đến như thế nào là người cư sĩ? - Này Mahānāma, khi nào quy y Phật, quy y Pháp, quy y chúng Tăng, cho đến như vậy, này Mahānāma, là người cư sĩ. Xem, kinh Tăng chi bộ, tập 3, chương 8 pháp, phẩm Gia chủ, kinh Thích tử Mahānāma, VNCPHVN, 1996, tr.584.
(25) Kinh Tương ưng bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2013, tr.771.
(26) Ibid, tr.744.
(27) Ibid, tr.353.
(28) Ibid, tr.354
(29) Quan điểm chia sẻ vật dụng của người hấp hối, hoặc vì người hấp hối bố thí tài sản thường xuất hiện trong kinh điển Bắc truyền. Đây là trường hợp hiếm hoi xuất hiện trong kinh tạng Nikāya.
(30) Kinh Tương ưng bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2013, tr.354 .
(31) Kinh Tăng chi bộ, tập 1, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2015, tr.62.
(32) Kinh Tương ưng bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2013, tr.143.
(33) Kinh Tương ưng bộ, tập 1, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2013, tr.694-696.
(34) http://daophatkhatsi.vn/giao-phap-kh...nga-tuong.html.
(35) http://www.accesstoinsight.org/tipit...8.html#pts.258.
(36) Nyanaponika Thera & Hellmuth Hecker. Great Disciple of the Buddha. Bhikkhu Bodhi, Edited. Boston: Wisdom Publications, 2003. p. 360.
(37) Cullavagga, chương Sàng tọa thứ 6, tụng phẩm thứ nhì, câu 250. Tỳ-kheo Indacanda Nguyệt Thiên dịch.
(38) Kinh Trung bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2012, tr.604-605.
(39) Kinh Tương ưng bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2013, tr.143-144.
(40) Ibid, tr. 153.
(41) Ibid, tr. 152.
(42) Ibid, tr.724.
(43) Kinh Trường bộ, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2013, tr. 674.
(44) Kinh Tăng chi bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2015, tr.164.
(45) Kinh Tương ưng bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2013, tr.724.
(46) Nguyên văn: Chớ chê khinh điều thiện/ Cho rằng “Chưa đến mình”/ Như nước nhỏ từng giọt/ Rồi bình cũng đầy tràn/ Người trí chứa đầy thiện/ Do chất chứa dần dần. Xem, kinh Tiểu bộ, tập 1, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2015, tr.59.
(47) Trong tang lễ hiện nay của người xuất gia, có mục Bố-tát, tức tụng giới. Thực ra, việc tụng giới sẽ có ý nghĩa hơn nếu như người hấp hối còn nghe được giới pháp. Vì khi ấy, tâm của người hấp hối có khả năng chuyển biến tích cực và đó là mục tiêu chính của hoạt động trợ niệm. Trong tang lễ của người tại gia không có mục tụng giới. Theo chúng tôi, nếu như cư sĩ đó đã từng thọ Tam quy và giữ năm giới, thì cần nên nhắc lại khi người ấy hấp hối. Trong trường hợp người hấp hối tự nhận giới bị sút kém, thì nên hướng họ thành tâm sám hối. Ngay như Devadatta, tuy phạm trọng tội, nhưng nhờ tâm niệm sám hối lúc cuối đời, nên đã mở ra con đường bước lên Thánh quả.
Ý kiến của bạn:
<>
https://giacngo.vn/PrintView.aspx?Language=vi&ID=7ED69A
https://www.youtube.com/watch?v=-dgtNcrUvvM
『圓覺蘭若』智成上師佛法講座《 一乘法》《 臨終不斷經》
[PDF]Những Vấn Đề Cần Biết Khi Lâm Chung
ftp.budaedu.org/ebooks/pdf/VI151.pdf
Translate this page
mắc, sai lầm trong giờ phút lâm chung của người Phật tử tại gia. Chúng tôi là hàng ... Cấp Cô Ðộc đã thuyết Kinh A Di Ðà, Ngài ca ngợi tán thán sự trang nghiêm ... ngợi tán thán cái lợi công đức bất khả tư nghì của Phật A Di. Ðà, ở phương ... phút lâm chung chỉ sợ chết, như có bệnh mà chưa đến giai đoạn trầm trọng, tuy ...
http://ftp.budaedu.org/ebooks/pdf/VI151.pdf
Đốt vàng mã và những nguyên tắc bắt buộc khi đốt vàng mã
19:23 03/08/2016
Đốt vàng mã và những nguyên tắc bắt buộc khi đốt vàng mã. Người Việt Nam từ xưa tới nay đã coi nghi thức đốt vàng mã như một việc không thể thiếu mỗi khi lễ tết, rằm, mùng 1, giỗ...
Đốt vàng mã và những nguyên tắc bắt buộc khi đốt vàng mã. Người Việt Nam từ xưa tới nay đã coi nghi thức đốt vàng mã như một việc không thể thiếu mỗi khi lễ tết, rằm, mùng 1, giỗ chạp,... Người Việt coi việc đốt vàng mã không chỉ là nghi thức mà còn là cách con cháu thể hiện lòng hiếu thảo với cha mẹ, tổ tiên.
Đốt vàng mã và những nguyên tắc bắt buộc khi đốt vàng mã
Đốt nhiều vàng mã trong Lễ vu lan và Xá tội vong nhân hay các ngày lễ tết, ngày rằm đã trở thành tập tục truyền đời của người Việt Nam. Tuy nhiên, theo các chuyên gia nghiên cứu Phật học, các tôn túc trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam thì trong giáo lý Phật giáo không có quy định đốt vàng mã.
Đốt vàng mã và những nguyên tắc bắt buộc khi đốt vàng mã (4)
Đốt vàng mã và những nguyên tắc bắt buộc khi đốt vàng mã: Đốt nhiều vàng mã trong Lễ vu lan và Xá tội vong nhân hay các ngày lễ tết, ngày rằm đã trở thành tập tục truyền đời của người Việt Nam
Các tôn túc cho rằng, “Âm - dương là hai thế giới hoàn toàn khác nhau không thể cảm ứng được... Người phàm trần chỉ cần ăn chay, niệm Phật để tưởng nhớ”...
Đốt vàng mã và những nguyên tắc bắt buộc khi đốt vàng mã: Đốt vàng mã có từ bao giờ
Tập tục đốt vàng mã đã có từ rất lâu đời. Chuyện xưa kể rằng, đốt vàng mã là một tục lệ dân gian, xuất phát từ thời nhà Hán (Trung Quốc). Do nhà vua muốn thực hành lời dạy của Đức Khổng Tử: “Sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn”, nghĩa là thờ người chết như thờ người sống, thờ người mất như thờ người còn. Vậy nên khi nhà vua băng hà, chúng thần và hậu cung đã phải bỏ tiền bạc thật vào trong áo quan để vua tiêu dùng.
Đốt vàng mã và những nguyên tắc bắt buộc khi đốt vàng mã (3)
Đốt vàng mã và những nguyên tắc bắt buộc khi đốt vàng mã: Tập tục đốt vàng mã đã có từ rất lâu đời
Sau đó quan bắt chước vua, dân bắt chước quan. Ai cũng chôn tiền thật theo người chết thành một tục lệ. Bọn trộm cướp biết vậy nên đào trộm mồ những người giầu có, như mộ vua Hán Văn Đế bị trộm khai quật lấy hết vàng bạc châu báu.
Từ đó về sau từ quan đến dân thấy việc chôn tiền bạc thật quá tốn kém nên mới nảy sinh ra dùng giấy cắt ra làm tiền giả, vàng giả để thay thế. Chuyện đốt tiền giấy (vàng mã) ra đời từ đó và trở thành tập tục. Kể từ đó tập tục này được du nhập vào Việt Nam theo những người Trung Hoa.
TS Nguyễn Mạnh Cường, Viện Nghiên cứu Tôn giáo, cho rằng: “Việc đốt vàng mã là do ảnh hưởng của người Trung Hoa. Tích kể rằng: Vào đời Hán có đôi vợ chồng là Thái Mạc và Tuệ Nương học nghề làm giấy chưa thạo đã về quê mở xưởng. Giấy làm ra xấu và khó viết chữ nên bị ế không bán được. Tuệ Nương bèn giả chết để thực hiện phương kế bán giấy.
Ngày thứ 3, trước khi đi chôn, Thái Mạc đem một ôm giấy ra đốt bên cạnh quan tài vợ. Sau khi Thái Mạc đốt giấy xong thì Tuệ Nương ở trong quan tài kêu to gọi chồng, đẩy nắp quan tài bước ra hát rằng: “Dương gian tiền năng hành tứ hải. Âm gian chỉ tại tố mãi mại. Bất thị trượng phu bả chỉ thiêu. Thùy khẳng phóng ngã hồi gia lai”.
Đốt vàng mã và những nguyên tắc bắt buộc khi đốt vàng mã (1)
Đốt vàng mã và những nguyên tắc bắt buộc khi đốt vàng mã
Nghĩa là: “Trên dương gian đồng tiền có thể làm được mọi việc ở mọi nơi, dưới âm phủ giấy cũng có thể dùng để mua bán. Nếu không phải chồng đốt cho giấy thì ai lại cho tôi quay về dương gian”. Nói rồi lại mang thêm 2 bó giấy nữa để đốt. Những người chứng kiến đều tin là đốt giấy thành tiền cho người âm phủ rất có lợi nên ai nấy đều về nhà lấy tiền đến nhà Thái Mạc mua giấy về đốt.
“Tin lành” đồn xa, người các nơi tranh nhau đến nhà Thái Mạc mua giấy. Không đến 2 ngày, bao nhiêu giấy ế của hai vợ chồng Tuệ Nương đã hết sạch”.
Đốt vàng mã và những nguyên tắc bắt buộc khi đốt vàng mã: Ý nghĩa của việc đốt vàng mã
Theo các nhà khảo cổ cho biết khi tìm lại các tư liệu thì đúng ra việc đốt vàng mã có từ trước thời Nam Bắc triều, vào thời Ngụy Tấn (220-420 SCN). Họ có tìm thấy tiền âm dương tại di chỉ các nước Phật giáo như Vương quốc Cao Xương (Qara-hoja) tại Tây Vực (Vương quốc này bị nhà Đường hủy diệt vào năm 640 SCN).
Đốt vàng mã và những nguyên tắc bắt buộc khi đốt vàng mã (7)
Đốt vàng mã và những nguyên tắc bắt buộc khi đốt vàng mã: Việc đốt vàng mã cũng có liên quan với Phật giáo, cùng với việc Phật giáo truyền vào Trung Hoa, qua phương pháp làm lễ hỏa tịnh, đàn hỏa thực
Các tài liệu ghi chép lại như trong "Thanh Dị lục" của Đào Cấu người đời Tống thì từ thời kỳ Ngũ Đại (907 - 960), tiền giấy vàng mã đã khá thịnh hành, và bắt đầu phân biệt tiền màu vàng là thay thỏi vàng, tiền màu trắng dùng chung cho cõi âm gian.
Việc đốt vàng mã cũng có liên quan với Phật giáo, cùng với việc Phật giáo truyền vào Trung Hoa, qua phương pháp làm lễ hỏa tịnh, đàn hỏa thực (dùng lửa đốt đồ cúng) của tăng đoàn, việc chuyển sang đốt tiền giấy càng phổ biến.
Quan niệm từ thời đó cho rằng, có thể dùng lửa để chuyển đồ cúng cho thần linh, hay chư Phật. Trong Đạo Bà la môn, lửa có tác dùng truyền tải vật cúng dường; trong Phật giáo Mật tông, lửa kết hợp với mạn đà la cũng được coi là có "thần lực" "diệu kỳ".
Ngày nay, lễ Hỏa tịnh được dùng với mục đích cao đẹp hơn, như "tiêu trừ ác nghiệp và chướng ngại trên con đường tu tập hành trì", hoặc "tống khứ ma lực",... nhưng chất liệu cúng dường thì đa dạng, bao gồm nhiều loại đồ cúng ăn được, chứ không chỉ thuần túy là tiền giấy.
Đốt vàng mã và những nguyên tắc bắt buộc khi đốt vàng mã (6)
Đốt vàng mã và những nguyên tắc bắt buộc khi đốt vàng mã: Quan niệm từ thời đó cho rằng, có thể dùng lửa để chuyển đồ cúng cho thần linh, hay chư Phật
Tôn giáo tín ngưỡng, và các quan niệm dần dần được thay đổi, tiền giấy ban đầu không dùng để đốt, mà chủ yếu chôn cùng, treo xung quanh, hoặc rải quanh mộ, nhưng khi đốt tạo ra khói, có cảm giác huyền hoặc hơn, nên rất nhanh sau đó đốt tiền vàng mã được sử dụng phổ biến, từ nghi lễ của vua quan, đến người dân thường.
Từ thời Ngụy Tấn, do ảnh hưởng của Phật giáo và các phong tục tập quán của người Ấn Độ truyền tới, các quan niệm "Tứ Đại đều không", không ham tài sản, sau khi chết cần hỏa thiêu để linh hồn sang thế giới cực lạc,... được phổ cập, quan niệm truyền thống của Trung Hoa là chôn tài sản theo người chết, đã nhuốm sắc màu Phật giáo, chuyển sang "hỏa thiêu" tài sản mang theo, để đưa đồ vật từ "thế giới thực" sang "cõi âm", "niết bàn", cũng dần dần được mọi người tiếp nhận và làm theo, bao gồm cả việc đốt tiền giấy.
Đến thời Đường - Tống, đồ tuẫn táng hay tùy táng (chôn theo) bằng gốm sứ hay kim loại ít dần, mà tang lễ người ta thay bằng ngựa giấy, bát giấy, người giấy, gia súc giấy,... vừa đáp ứng nhu cầu tuẫn táng cho người thân, vừa thông qua hỏa thiêu "thần thánh" để chuyển hóa được sang cho cõi âm sử dụng.
Đốt vàng mã và những nguyên tắc bắt buộc khi đốt vàng mã (3)
Đốt vàng mã và những nguyên tắc bắt buộc khi đốt vàng mã: Việc đốt vàng mã đã thành tập tục lâu đời
Tiền giấy khai quật cho đến nay sớm nhất từ khu mộ cổ tại Turfan (Tân Cương, Trung Quốc), trong mộ có túi tiền giấy màu vàng, hình tròn có lỗ vuông, một số tờ tiền còn in chữ "卍" kiểu Ấn độ, với nghĩa cát tường như ý, đây chính là loại tiền âm dương đã nói ở trên.
Việc đốt vàng mã đã thành tập tục lâu đời. Có thể thấy, đốt tiền vàng mã có khởi nguồn từ quan niệm luân hồi của Phật giáo. Mọi người tin rằng, sau khi mất đi linh hồn vẫn tồn tại, để người âm bớt tội, bớt khổ nên mọi người thành tâm đốt tiền giấy để họ có thể sống tốt hơn.
Tất nhiên đốt tiền giấy linh hồn hay người âm không thể nhận được, nhưng người dân vẫn mong thông qua phương thức này để giải tỏa tâm lý cho bản thân, cũng như để báo hiếu công dưỡng dục, cũng là để mình yên tâm hơn.
Tốt nhất, chúng ta chỉ nê đốt một ít cho gia tiên vào ngày giỗ, hoặc gần cuối năm, cho yên tâm là chính. Tục hóa vàng đầu năm bản chất liên quan đến văn hóa đón Tài thần và Hỷ thần nhưng ở Việt Nam không ai còn để ý, chỉ còn thói quen hóa vàng vào mùng 3 mà không hiểu lý do.
Đúng ra là từ mùng 2, theo phong tục cũ là ngày đón Tài thần, lúc này dán ảnh Thần tài trong gia đình (lưu ý không dán lên bàn thờ), rồi làm lễ, và hóa vàng để đón thần Tài. Nhiều người nghĩ là lễ tiễn gia tiên sau khi về ăn Tết cũng không đúng.
Đốt vàng mã và những nguyên tắc bắt buộc khi đốt vàng mã (2)
Đốt vàng mã và những nguyên tắc bắt buộc khi đốt vàng mã: Đốt vàng mã cho người đã chết, không bằng hiếu thuận khi cha mẹ còn sống
Một số trang web xuyên tạc ra mùng 10 là ngày vía thần Tài để bán vàng trang sức đầu năm cũng không đúng (không có tài liệu nào ghi chép, cũng như hoạt động tế lễ trong thực tế. Cụ thể vía thần tài vào 22 tháng 7, còn ngày đón thần tài là mùng 2 tháng giêng).
Đốt vàng mã cho người đã chết, không bằng hiếu thuận khi cha mẹ còn sống.
Không hiếu thuận với cha mẹ lúc sinh thời, đợi chết đi mới khóc thương ma quỷ. Hiếu thuận với cha mẹ lúc còn sống mới có giá trị.
Đốt vàng mã và những nguyên tắc bắt buộc khi đốt vàng mã: Tại sao đốt vàng mã phải thành tâm
Nói về câu chuyện nhà nhà mua vàng mã, người người đốt vàng mã cho người chết, các bậc cao tăng Phật giáo mà đại diện là Thượng tọa Thích Thanh Duệ, Phó Trưởng ban Nghi lễ Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam khẳng định: “Trong giáo lý nhà Phật không có việc đốt vàng mã cúng tế người chết. Quan điểm của đạo Phật hoàn toàn bác bỏ tục lệ mê tín này.
Đốt vàng mã và những nguyên tắc bắt buộc khi đốt vàng mã (1)
Đốt vàng mã và những nguyên tắc bắt buộc khi đốt vàng mã: “Trong giáo lý nhà Phật không có việc đốt vàng mã cúng tế người chết. Quan điểm của đạo Phật hoàn toàn bác bỏ tục lệ mê tín này
Phật giáo chỉ khuyên trong ngày Lễ vu lan (báo hiếu cha mẹ) thì nên ăn chay niệm Phật để tưởng nhớ. Và làm Lễ xá tội vong nhân (cúng chúng sinh) – cúng những vong hồn lưu lạc một mâm cỗ chay để bố thí siêu sinh. Đồng thời, giúp đỡ những người nghèo khổ chốn trần gian, ăn chay niệm Phật và phóng sinh tích đức để siêu độ vong linh”.
Còn Thượng toạ Thích Thanh Nhã, trụ trì chùa Trấn Quốc (Hà Nội) cũng khẳng định với rằng, kinh Phật không dạy đốt vàng mã cho người quá cố. Bản thân trụ trì cũng thường xuyên nhắc nhở Phật tử nên hạn chế đốt vàng mã. Theo ông thì nên dùng tiền mua vàng mã đốt để làm việc thiện cho đời sẽ tốt hơn rất nhiều.
Đại đức Thích Thiện Hạnh, trụ trì chùa Vinh Phúc (thôn Quang Độ, xã Văn Môn, huyện Yên Phong, Bắc Ninh) cũng cho rằng, việc đốt vàng mã là mê tín dị đoan và sai hoàn toàn. Đại đức Thích Thiện Hạnh giải thích: Chúng ta vẫn có câu: Dương sao âm vậy. Nhưng vàng mã của chúng ta về dưới đó có tiêu được không? Quần áo chúng ta đốt về có vừa với kích cỡ của ông bà chúng ta nữa không? Xe cộ, đồ dùng... có được gửi đúng địa chỉ không?
Thành thực trả lời những câu hỏi đó cũng đủ thấy đốt vàng mã là mê tín dị đoan, không hề phù hợp hay có cơ sở. Nếu cha mẹ cõi âm chỉ mong chờ ngày này để được miếng cơm, manh áo, căn nhà... thì những tháng ngày còn lại, tổ tiên ông bà, cha mẹ ăn, mặc, ngủ, nghỉ ở đâu?
Đốt vàng mã và những nguyên tắc bắt buộc khi đốt vàng mã (5)
Đốt vàng mã và những nguyên tắc bắt buộc khi đốt vàng mã: Cổ tục đốt vàng mã đã có từ lâu đời, ăn sâu vào tâm thức của người dân Việt Nam nên rất khó từ bỏ trong một sớm một chiều
Chúng ta vẫn thường nói “Dương thịnh âm siêu”. Người dương biết làm phúc, để người âm siêu thoát. Tôi nghĩ, chúng ta nên lên chùa, thành tâm cầu nguyện hồi hướng tâm đức. Nếu có tiền để mua sắm vàng mã đốt cho cha mẹ, thì nên dùng tiền đó để chia sẻ cho những người nghèo khó. Bởi “Cứu một người dương gian bằng ngàn người âm phủ”. Còn cầu nguyện, chỉ cần tấm lòng thành, nếu không thành tâm thì làm gì cũng vô ích”.
Cổ tục đốt vàng mã đã có từ lâu đời, ăn sâu vào tâm thức của người dân Việt Nam nên rất khó từ bỏ trong một sớm một chiều. Thậm chí, nhiều người coi đó là một trong những nét văn hoá của phong tục thờ cúng gia tiên. Nhưng sau khi biết rõ tích của việc đốt vàng mã, người dân liệu có nên gây ra những lãng phí như các cao tăng nói?
Đốt vàng mã và những nguyên tắc bắt buộc khi đốt vàng mã: Hóa vàng mã thế nào cho đúng cách
Ở nhiều nơi, việc đốt vàng mã đang bị người ta thực hiện một cách thái quá vì cho rằng, dâng cúng càng nhiều thì càng được thánh thần hay người âm phù hộ. Thực chất, đây chỉ là sự “phô trương” với người trần, hơn thế nữa là để thỏa mãn thói thường “con gà tức nhau tiếng gáy”, dẫn đến sự lãng phí tiền của một cách không cần thiết, điều này đáng phê phán.
Đốt vàng mã và những nguyên tắc bắt buộc khi đốt vàng mã (4)
Đốt vàng mã và những nguyên tắc bắt buộc khi đốt vàng mã: Ở nhiều nơi, việc đốt vàng mã đang bị người ta thực hiện một cách thái quá vì cho rằng, dâng cúng càng nhiều thì càng được thánh thần hay người âm phù hộ
Đồ mã ngày xưa đều làm nhỏ nhỏ xinh xinh, mỗi lễ gồm những loại tiền gì, bao nhiêu đều quy định rất cụ thể, chứ không phải cứ như bây giờ sính lễ hoành tráng, phải to như thật là không đúng, là tốn kém lãng phí.
Khi khách đến mua, đồ lễ đã được sắp sẵn theo đúng phong tục. Bộ đồ lễ cúng ông công ông táo gồm 3 chiếc mũ nhỏ, 3 đinh tiền, 3 thếp tiền vàng; hay lễ cúng giao thừa gồm 2 mũ áo cho quan hành khiển của năm cũ và năm mới và 2 lễ tiền; hoặc như lễ giải sao cũng chỉ vài nghìn.
Mỗi khi một người thân bốc mộ, chuyển về nhà mới thì mới hóa nhà cho họ. Nhà cũng nho nhỏ tượng trưng thôi, chứ không phải làm to như thật. Thêm vào đó, chỉ cần dâng cúng tiền vàng, tiền vàng đó có thể trao đổi và mua được các vật dụng cần thiết trong thế giới bên kia, chứ không phải hóa tủ lạnh, tivi, xe máy, ô tô như người ta vẫn làm. Hình thức hóa vàng giờ đây đã bị biến tướng so với cổ tục từ xa xưa đời đời đã truyền lại.
https://tintucvietnam.vn/dot-vang-ma...-vang-ma-14186
Hành Giả Kim Cương Thừa
18 tháng 12, 2018 lúc 17:23 ·
Cây thuốc lá hoang dại đã có cách đây khoảng 4.000 năm, trùng với văn minh của người da đỏ vùng Trung và Nam Mỹ. Lịch sử chính thức của việc sản xuất thuốc lá được đánh dấu vào ngày 12⁄10⁄1492 do chuyến thám hiểm tìm ra châu Mỹ của Christopher Columbus, ông đã phát hiện thấy người bản xứ ở quần đảo Antil vừa nhảy múa, vừa hút một loại lá cuộn tròn gọi là Tabaccos.
Thuốc lá du nhập vào Ấn Độ khoảng năm 1605 và được trồng đầu tiên ở quận Deccan. Ngay sau đó, Ấn Độ trở thành quốc gia sản xuất thuốc lá lớn và đóng góp đáng kể cho thị trường thuốc lá thế giới.
Thuốc lá đã được trồng ở Trung Quốc và Nhật Bản khoảng giữa thế kỷ 17 và nhanh chóng giúp các nước này trở thành những quốc gia sản xuất lớn với sản phẩm chủ yếu là thuốc lá sáng màu dành cho tiêu dùng nội địa. Cùng thời gian này, thuốc lá được người Hà Lan đưa vào Indonesia. Kể từ đó đất nước này được biết đến với sản phẩm thuốc lá cigar khá nổi tiếng được trồng ở quần đảo Sumatra.
Mặc dù thế các lời huyền kí về sự ra đời của loại độc chất chết người này ,đã xuất hiện từ khoảng thế kỉ thứ 8 đến thứ 10 do Đạo Sư Liên Hoa Sanh nói ra.Và giờ đây các nhà khoa học ngày càng tìm thấy những độc chất mới có trong chúng.Dường như Kim Cương thừa là tông phái duy nhất coi thuốc lá cũng như ma tuý không chỉ gây tác hại cho sức khoẻ thể chất mà còn làm tổn hại trầm trọng cho sức khoẻ tâm linh (tinh thần). Nó đặc biệt tác hại đối với hệ thống rTsa-rLung (nội hỏa) và làm cho mọi thực hành vô tướng trở thành vô ích. Có lần Ngak’chang Rinpoche nói: “Những người hút thuốc đi vào tọa thiền tĩnh lặng, họ chỉ ngồi một cách .Hãy đọc chúng và chia sẽ cho những người thân của bạn.Hy vọng đây là một nguồn động lực từ bỏ "cái chết treo trên đầu"
Thuốc lá:
‘kẻ dẫn đường dắt người mù trên con đường lầm lạc
kết thúc trong một vực thẳm’
OM SWASTI: Với sự cảm kích tối thượng và lòng tôn kính sâu xa đối với Đức Padmasambhava (Liên Hoa Sanh) – sự hiển lộ trí tuệ của tất cả chư Phật và sự hợp nhất của năm Phật bộ – tôi sẽ thuật lại lịch sử của thuốc lá. Khoảng một trăm năm sau khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập Niết Bàn, một con quỷ ở Trung Quốc, khi điên cuồng với nỗi ám ảnh đã thốt lên những lời trăng trối này:
“Với thân xác ta, ta muốn đưa chúng sinh trong trái đất này xuống những cõi thấp. Hãy chôn xác ta nguyên vẹn và cuối cùng một loại cây, khác biệt với tất cả những giống cây khác, sẽ mọc lên từ thi hài ta. Chỉ cần ngửi thấy nó là người ta sẽ kinh nghiệm sự khoái lạc trong thân và tâm, còn hỉ lạc hơn việc giao phối của người nam và nữ. Nó sẽ lan truyền xa rộng cho tới khi hầu hết chúng sinh trên trái đất này vui hưởng nó.”
Hiện nay, kết quả thực sự của nguyện ước này đã hết sức hiển nhiên. Thuốc phiện và những chất gây say có liên quan được sử dụng qua miệng hay mũi, không giúp người ta hết khát hay thoả mãn được cơn đói. Họ không thưởng thức được những mùi vị thơm ngon, và họ bị tước đi tất cả những gì giúp tăng cường sức khoẻ hay những gì làm kiên cố sinh lực của họ. Những chất này làm phát triển sự bồn chồn nóng nảy và làm tăng huyếp áp. Chúng cũng gây nên bệnh ung thư và bệnh phổi. Hiện nay, sự hấp dẫn không thể cưỡng lại được của chúng đã phát triển mạnh ở nhiều người trong mọi tầng lớp của xã hội, họ tiến tới việc tiêu thụ chúng mà không kiềm chế – và như thế sự chủ tâm ma quỷ này đã có kết quả.
Trong Terma của Chogyal Ratna Lingpa có nói:
“Đức Padmasambhava kết buộc Chín Anh em Quỷ ma phải giữ lời thệ nguyện, nhưng họ là những kẻ làm gãy bể samaya (giới nguyện), và người trẻ nhất trong số đó tìm ra một cách làm suy yếu dần hứa nguyện của họ trong việc bảo vệ chúng sinh. Hắn nói với các anh: “Các anh, đừng tuyệt vọng, hãy nghe em. Em sẽ tự hiện thân làm thuốc lá trong xứ Trung Quốc; tên của độc chất này sẽ là ‘thuốc độc đen’. Nó sẽ phát triển trong những vùng biên giới, từ nơi đó nó sẽ lan rộng tới Tây Tạng. Dân chúng Tây Tạng sẽ tiêu thụ chất sảng khoái này. Do sức mạnh của nó, năm chất độc ảnh hưởng tới thần kinh sẽ tăng trưởng. Khi ném bỏ mười thiện hạnh, người ta sẽ thực hành mười ác hạnh. Mạng sống của những vị nắm giữ dòng truyền thừa sẽ trở nên mong manh, và các ngài sẽ khởi hành tới các Cõi Phật. Khi thâm nhập trái đất, khói của chất độc này sẽ huỷ diệt hàng trăm ngàn thành phố của kLu. Mưa sẽ không đổ xuống, mùa màng và đàn thú nuôi sẽ không phát triển, trong dân chúng sẽ có sự rối loạn, những bệnh dịch, và các tai ương. Khói của chất độc bốc lên bầu trời sẽ huỷ diệt những chiều kích không gian, nhật (nguyệt) thực không đúng lúc và sao chổi sẽ xuất hiện. Các dịch chất trọng yếu và kinh mạch của những người hút thuốc sẽ bị mất nước. Nó khiến cho bốn trăm lẻ bốn bệnh tật xuất hiện. Bất kỳ ai hút thuốc cũng sẽ tái sinh trong những cõi thấp. Nếu một người hút thuốc và những người khác hít mùi thuốc thì như thể người ấy đang xé toạc trái tim của sáu triệu chúng sinh.”
Theo Terma của Sang-gyé Lingpa:
“Trong thời đại suy đồi này người ta sẽ đắm mình trong kành vi độc ác. Đặc biệt là hơn cả việc ăn thịt bổ dưỡng, người ta sẽ tiêu thụ những chất độc hại và có mùi vị khó chịu. Khi ngăn chặn những gì họ đang làm, họ sẽ tiêu thụ chất độc. Họ sẽ phải khạc nhổ, chảy nước mũi, sức khoẻ và sắc diện của họ tàn tạ.”
Terma của Rig’dzin Go’dem tiên đoán:
“Trong thời đại suy đồi sau cùng người ta sẽ hấp thu chất nôn mửa độc hại, thực phẩm của dri za’i. Chỉ cần ngửi nó, người ta sẽ đi tới Mar-med Myal-wa. Chính vì lý do này, hãy từ bỏ nó ngay lập tức.”
Từ những tiên tri được Dud’dul Dorje khám phá:
“Những hành giả sẽ vui thú khi hít chất khói của những thảo mộc này và hít bột của chúng, xứ sở sẽ bị những kẻ gãy bể samaya xâm lăng. Họ sẽ bị ảo tưởng lừa dối và sẽ kinh nghiệm sự xuất hiện của những tính chất đầy ám ảnh. Như một dấu hiệu của sự cạn kiệt công đức họ sẽ có những nguyên nhân làm cho nước mắt tuôn trào không ngăn lại được.”
Terma của Longsel cho biết:
“Lúc người ta hút những chất ghê tởm cũng là lúc những người bạn thân sẽ đầu độc tâm hồn những người khác.”
Terma của Thugchog Dorje nói rõ:
“Do bởi năm độc chất làm tổn hại thần kinh, những nỗi ám ảnh, thù hận, sự xung đột, tranh cãi, và nghèo khốn của chúng sinh sẽ bốc cháy dữ dội như một địa ngục. Bởi mười phẩm tính tốt lành bị loại bỏ, sự xấu xa tiêu cực sẽ hoành hành như một trận bão. Hành vi thiện lành sẽ bị xao nhãng, trong khi những thực hành hư hỏng sẽ được phổ biến. Trong thời đại xấu ác này những vị Bảo Trợ sẽ biến mất khi những loài quỷ ma củng cố thế lực. Người ta sẽ hút khói thuốc lá, và những kinh mạch mở trống của trí tuệ phân biệt (Diệu Quan sát Trí) sẽ bị bế tắc, trong khi sự lo âu và những cảm xúc méo mó trở nên cường liệt. Kinh mạch trung ương sẽ bị nghẽn lấp và sự quang minh của giác tánh tắt lịm. Sự cạn kiệt năng lực sẽ gây nên tâm trạng bất an khắp nơi trên thế giới. Những cơ sở tôn giáo, những đối tượng của sự tôn kính sẽ hư hoại; những ý thức hệ suy đồi và những tôn giáo lừa dối sẽ lan tràn. Những vị Bảo Trợ sẽ ngoảnh mặt đi và chỉ nhìn về hướng Núi Tu Di. Những người ngoại quốc sẽ xâm lăng Tây Tạng, và dân chúng Tây Tạng sẽ bị buộc phải lang thang trong những vùng biên giới. Giáo thuyết Ảo tưởng sẽ lan truyền và thế giới sẽ trở thành một chiều kích của địa ngục.”
Terma của Dro’dul Lingpa đã tiên đoán:
“Chỉ cần ngửi mùi hương phát sinh từ chất nhựa ma quỷ trong những cây cỏ và lá này, người ta sẽ thấy chính mình ở trong Địc ngục Kim Cương.”
Một tiên tri của Machig Labdron nói:
“Trong thời kỳ cuối cùng của sự tranh luận một chất thể sẽ xuất hiện mà người ta tiêu thụ qua miệng, và nó sẽ làm trầm trọng thêm cả năm chứng loạn thần kinh. Nó sẽ bắt nguồn từ Trung Quốc, phát triển sang Mông Cổ và Tây Tạng. Bất cứ nơi nào nó đi qua, nó sẽ được tiêu thụ, và bất kỳ nơi nào nó được tiêu thụ – lượng mưa sẽ trở nên không đều, kèm theo sương giá và mưa đá khắc nghiệt. Nếu hành giả tiêu thụ chất này, cho dù họ thực hành một trăm kiếp – họ sẽ không nhận ra được các Bổn Tôn của họ. Trong những đời tương lai, họ sẽ lang thang không dứt trong ba cõi thấp, ở đó ngay cả lòng bi mẫn của chư Phật cũng không đủ năng lực để cứu giúp họ.”
Có vô số những tiên tri khác liên quan tới thuốc lá – việc sử dụng nó được các Đạo sư thành tựu của các truyền thống Sarma và Nyingma đặc biệt ngăn cấm. Những lời chỉ dạy kim cương của Đức Padmasambhava không được ban cho những hành giả lọc lừa, vì thế đừng ấp ủ những mối hoài nghi: “làm thế nào có thể có quá nhiều vấn đề phát sinh từ việc hút một thảo mộc tự nhiên?” Cây phụ tử (aconite) cũng là một loại thảo mộc, nhưng chỉ cần ăn một lượng ít ỏi thì nó cũng làm chết người. Nếu đây là trường hợp xảy ra với một loại cây ở bình diện vật lý, thì tại sao hậu quả của một sự chủ tâm ma quỷ lại không thể gây nên cái chết về mặt tâm linh? Thấu hiểu điều này, người minh triết sẽ tự mình biểu lộ lòng từ bi vĩ đại của họ bằng cách từ bỏ thuốc lá và chất ma tuý. Khi hành động như thế, cầu mong người công chính và minh triết, là người xa lánh được con đường dẫn tới vực thẳm, có được may mắn ngơi nghỉ trong khu vườn tuyệt diệu của sự giải thoát.
Bài này được Dorje Yeshe (Đức Dudjom Rinpoche) viết theo lời cầu thỉnh của Gé-rTa Jig’med xứ Golok.
Sarva Mangalam.
Nguyên tác: “TOBACCO, ‘the guide that leads the blind on a false path which ends in a precipice’
By Kyabjé Jigdré Yeshé Dorje, Dudjom Rinpoche
Trong hình ảnh có thể có: 1 người, trong nhà
https://www.facebook.com/permalink.p...xqg&__tn__=K-R
ĐÂY CÓ PHẢI HÌNH ẢNH ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI KHÔNG?
Bình Anson
có phải đức thế tônThỉnh thoảng tôi thấy hình này truyền bá trên Internet. Đây có phải hình Đức Phật không? Có người giải thích đây là do Ngài Phú Lâu Na vẽ khi Đức Phật còn tại thế (41 tuổi), được lưu giữ tại viện bảo tàng Anh quốc.
Tôi đã biết đến hình này khoảng 20 năm trước. Một đạo hữu ở Bắc Mỹ gửi cho tôi bản photocopy kèm lời giải thích. Về sau, tình cờ tôi thấy được hình nầy trong trang cuối của một cuốn sách Phật học cũ, xuất bản tại Việt Nam trước 1975 (tôi không nhớ tên cuốn sách này). Như thế, có thể nói tấm hình và lời giải thích về xuất xứ đã được truyền bá trong 30, 40 năm qua.
Tôi có vài nhận xét riêng - cá nhân, như sau:
1) Gương mặt giống như người Tàu, người Mông Cổ, không có vẻ là người Ấn Độ.
2) Râu tóc xồm xoàm, không giống như các tỳ-khưu Phật giáo phải cạo râu tóc.
3) Đeo bông tai, một loại trang sức, trái nghịch với giới luật tỳ-khưu.
4) Trong kinh điển, mặc dù có đề cập đến Ngài Phú Lâu Na, nhưng không thấy nói Ngài có tài hội họa, vẽ chân dung.
5) Ấn Độ vào thời đức Phật chưa chế ra giấy để viết hay vẽ (giấy là do người Tàu sáng chế).
6) Vào thời Đức Phật cho đến khoảng 500 năm sau khi Ngài nhập diệt, người Ấn Độ không có truyền thống vẽ hay tạc tượng các vị đạo sư. Để tưởng nhớ hay để tôn kính Ngài, họ chỉ nắn, tạc hoặc khắc vào đá hình bánh xe Pháp hoặc hình cây và lá bồ đề. Đến khi đoàn quân Hy Lạp xâm lăng và định cư tại miền Tây Ấn, nghệ thuật tạc hình của Hy Lạp mới được truyền vào Ấn Độ, và từ đó, có hình tượng đức Phật.
7) Tôi tìm tòi trên mạng, về các cổ vật Phật giáo trưng bày tại các viện bảo tàng Anh quốc, chưa bao giờ tìm thấy hình vẽ này. Thật ra, tôi chưa bao giờ tìm thấy một hình vẽ nào của đức Phật – trên giấy hay trên vải – trong thời kỳ cổ xưa đó tại Ấn Độ.
😎 Nếu quả thật đây là hình vẽ đức Phật, lại được lưu giữ tại viện bảo tàng Anh quốc, ắt hẵn đây phải là một di tích quan trọng mà nhiều học giả Phật giáo trên thế giới biết đến. Tuy nhiên cho đến nay, qua những sách báo tài liệu về lịch sử và văn hóa Phật giáo (bằng tiếng Anh) của các học giả Phật học và các chuyên san Phật học có uy tín, tôi chưa thấy ai đề cập đến tấm hình này.
Vì thế, cho đến khi nào tôi có được những bằng chứng, hay kiến giải, có tính thuyết phục, tôi vẫn cho rằng đây là một bức hình có xuất xứ nguồn gốc chưa rõ ràng, giải thích chưa có căn cứ. Chúng ta không nên tiếp tục truyền bá những thông tin chưa được kiểm chứng.
Bình Anson
Thư Viện Hoa Sen
https://upanh1.com/images/40139902_2...73671168_n.jpg
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
===========
Johnny Do ADiDa Phật. Bức hình này của bạn là bản được chép lại , không phải bản gốc. Chắc chắn nó được người trung hoa chép nên mắt ngài mới ti hí kiểu người trung hoa như vậy. Tôi có bản gốc, khuôn mặt của ngài đặc trưng Ấn Độ, đôi mắt ngài nhìn rất kỳ lạ, nó xa xăm vời vợi toát lên hình ảnh của 1 triết gia lỗi lạc nhưng có phần cô đơn.
Quản lý
12 tuần
Lê Nguyễn Quỳnh
Lê Nguyễn Quỳnh Lúc nhập thất, các vị hành giả không được cắt tóc, không cạo râu, thậm chí không tắm để không làm mất năng lực trên thân. Chuyện có râu tóc là bình thường. Đeo bông tai thì ai học kim cương thừa sẽ thấy có rất nhiều vị Đạo Sư đeo bông tai giống Bổn Tôn Mật tông. Và từng có câu chuyện Đức Phật giảng Đại Thừa, Mật thừa hơn 1250 các vị Tỳ kheo bịt tai, bỏ đi trong pháp hội nên không nhất thiết phải lấy giới Tỳ Kheo làm chuẩn với 1 vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác. Ngài Phú Lâu Na ko cần đề cập biết hội họa hay không vì các hành giả thời xưa đẳng cấp đều biết Ngũ Minh: văn võ, đàn hát, kinh điển nội giáo, ngoại giáo, hội họa... các vị đều tinh thông. Ai thiền định sâu tự não bộ khai mở, các năng lực như thiên nhãn, thiên nhĩ còn khai thông, việc vẽ đẹp là rất bình thường. Nên việc tìm hiểu kĩ là cần. Nhưng cũng phải lưu ý lại là Phật có 3 thân: Pháp thân, Báo Thân và Hóa Thân. Báo Thân luôn có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp, các thân đó ở trong các cảnh giới Tịnh Độ bằng ánh sáng. Khi nhập định hay thuyết pháp, các vị đó sẽ hiện thân đó. Còn Hóa thân ở cõi người, các vị cũng giống như con người, có tướng đẹp do công đức viên mãn nhưng không thể giống hệt hình xã hội loài người vẫn vẽ trong tranh ảnh có 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp được. Lịch sử các vị Tổ, các vị sau này còn tại thế không ai giống trong các tranh vẽ cả, các vị cũng như người bình thường. Vì các hình đó là ở các cõi Tịnh Độ, mô tả Báo Thân của các Ngài. Bổ sung vài ý kiến cá nhân vậy, còn mình ko quan tâm lắm bức tranh này có vẽ Ngài hay không bởi học Phật là tu tâm dưỡng tánh, Kiến nhập Phật tánh. Mọi đức hạnh, lời Pháp Ngài dạy để mình và cuộc đời tốt lên, giải thoát tam giới. Phật vốn vô tướng và tại tâm! Sửa mình, hiểu Tánh viên giác của mình là thấy Phật thật!
Pháp Hộ Ma
_ Ngoại Đạo có Pháp thờ thần lửa , từ lúc sanh cho đến lúc mất mọi tế nghi đều liên quan đến lửa . Vì thế mà chấp thủ cho rằng vạn vật đều sanh ra từ lửa .
_ Trong mật thừa chư Phật chỉ rõ 12 loại lửa dùng làm Pháp tu tập . Hành giả nương 12 loại lửa này giúp diệt tội sanh phước . Đây là Pháp phương tiện thể nhập Phật Tánh .
_ Dùng Pháp phương tiện không đúng thời , đúng lúc khiến hành giả xa rời chân tánh . Làm bạn với ngoại ma , chết đoạ địa ngục .
_ Mười hai loại lửa gồm : Bồ Đề Tâm ,hạnh mãn,bạt phong,huyết hoả,hoà hợp,điều phục , ôn phúc, trừ khiễn,ý sinh,thọ thực,tẩy uế ,hoàn mãn .
Lửa đầu tiên trong đây là ánh sáng tuệ của tâm Bồ-đề hình vuông sắc vàng tức là biểu thị cho tòa Kim cương, trang nghiêm là nội trang nghiêm. Nói lửa trí này là hình Bổn tôn, có tất cả công đức Phật. Tăng oai là ngoại sự, tức là mười lực dụng… Trí này tánh như thế. Công đức trong ngoài trang nghiêm đầy đủ, có khả năng cùng với lực nên gọi là tăng oai. Do biết lửa này đốt củi vô minh chứa từ vô thỉ đến nay khiến cháy không sót, như lửa kiếp thiêu, tro tàn đều, sạch mênh mông không bụi dơ, tất cả công đức Như Lai tự nhiên thành tựu. Nhưng thần lửa này tức gọi là trí, hình tướng trang nghiêm thành sắc Kim cương, dùng lửa tròn sáng để tự vây quanh, trong ánh sáng này là Tam-muội chánh thọ vắng lặng. Do trụ vào Tam-muội này mà trí tánh đầy đủ. Trí quang này là tên khác của Tỳ-lô-giá-na. Tức dùng tôn vị này để biểu thị cho trí này. Nếu trước quán tức quán thần lửa này, làm cho thành tựu tất cả việc. Nếu hiểu sâu tánh nó thì như trên nói. Đàn vuông trong đây tiếng Phạm là Ma-ha-nhân-đà-la là tên khác của Thích Tôn, lại là tên khác của Kim cương luân. Trí là nội chứng phát ra ngoài biểu thị cho hình chày Kim cương. Hình tòa vuông này cũng tương tự. Nhưng chỉ quán đàn bốn góc, trong có Bổn tôn. Trên nói tăng oai, nếu làm hình tượng, chỗ biểu thị mà nói tức là nói thể mạo phòng bị đầy đủ. Y cứ vào lý này mà nói thì tức là tâm pháp môn. Nhưng lửa có hai pháp. Nếu tu được Du-già, thì chỉ quán tướng, biểu thị cho tôn vị này mà tụng chân ngôn, gọi là pháp lửa nội tâm. Nếu thuận theo thế gian mà làm đàn thì phải làm lò vuông, chung quanh có lửa sáng. Thân mình thì đắp y vàng, tưởng trong lò lửa có bổn thần trụ ở Tam-muội như trên. Sau đó, mới làm sự thành, chẳng thế thì không thành. Pháp này tương ưng với tức tai là pháp bền chắc. Đây phối với sơ tâm Bồ-đề tự môn A, do nhân duyên này mà trí đầy đủ.
Om Ah Hum
https://www.youtube.com/watch?v=wZed...ature=youtu.be
Buddhist Fire Ceremony
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
https://upanh1.com/images/Untitled21d87b5f59fd0aa4.png
NỘI DUNG DI CHÚC NGƯỜI PHÁT NGUYỆN VÃNG SANH (NVS)
https://lienhoaquang.com/includes/download_hoasen.php?... - Translate this page
Có thể đắp sẵn mền QM, gắn Mạn đà la Shitro và dòng minh chú cho NVS, ... Cúng dường tu viện làm lễ SHITRO (quán đảnh cho hương linh vãng sanh.
LỊCH SỬ DÒNG TRUYỀN THỪA DRIKUNG PHOWA
Ngày xưa ở tại Tây Tạng có một vị Pháp Vương tên là Trisong Deutsen. Ngài cũng chính là Vua của nước Tây Tạng thời bấy giờ và là hiện thân của Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Vào lúc ấy, Ngài muốn xây dựng tu viện đầu tiên tại Tây Tạng mang tên Samye, nhưng Ngài đã phải đối đầu với rất nhiều chướng ngại. Vào ban ngày, mọi người cùng nhau xây dựng những tòa nhà, nhưng khi đêm xuống những vị thần địa phương đã phá hủy chúng đi. Họ mang gạch, đá, bùn, v.v… trả lại nơi mà người ta đã lấy nó. Vì thế, Pháp Vương Trisong Deutsen đã quyết định thỉnh cầu Đức Guru Liên Hoa Sanh sang từ Ấn Độ. Do bởi thần lực nhiệm mầu của Guru Rinpoche, những vị thần địa phương cũng như các chúng ma vương đã được hàng phục.
Họ đã hứa với Guru Rinpoche sẽ không tạo ra những chướng ngại cho Phật Pháp. Sau đó, công trình xây dựng tu viện Samye đã được hồi phục.
Vào ban ngày, mọi người lại tiếp tục xây dựng và vào ban đêm những vị thần địa phương cũng đã giúp cho đến khi hoàn tất. Đức Liên Hoa Sanh đã ban các giáo lý của Kim Cang thừa và Ngài đã lưu lại tại một hang động gần bên.
Vào lúc ấy, Pháp Vương Trisong Deutsen có một vị tể tướng tên là Nima. Vị tể tướng này có hai căn nhà. Một ngày kia, ông ta dọn từ ngôi nhà này sang ngôi nhà bên kia và vào một đêm ông ta cầm một ngọn đèn để đi tìm vật gì đó. Đốm lửa từ ngọn đèn đã rơi xuống và bốc cháy. Bên trong ngôi nhà là cha mẹ của ông, 13 người khác cùng toàn bộ đàn gia súc đã bị thiêu rụi.
Tể tướng Nima rất đau buồn bởi vì những người khác tỏ lòng kính trọng bằng cách cung cấp sự thoải mái và hầu hạ cha mẹ của họ, còn ông đã làm hại chết cha mẹ của ông. Giết chết cha mẹ là một trong những trọng tội mà người ta tạo tác. Vì thế, ông đã trải qua một nỗi thống khổ, tiếc nuối vô cùng tận. Sau sự kiện đó, ông đã không thể tiếp tục làm bất cứ công việc thế gian gì nữa cả. Nhìn thấy vậy, Pháp Vương Trisong Deutsen đã đến gặp Đức Liên Hoa Sanh và thỉnh cầu Ngài ban truyền cho tể tướng Nima một Pháp đặc biệt để có thể giải thoát ông ra khỏi ác nghiệp và đau khổ dày vò. Khi ấy, nương vào thần lực nhiệm mầu Đức Liên Hoa Sanh đã đến Cõi Tịnh Độ. Qua sự thỉnh cầu của Ngài, Đức Phật A Đi ĐÀ đã ban truyền giáo Pháp Phowa.
LyBui & Maithy
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
YOGA GIẤC MỘNG VÀ SỰ THỰC HÀNH VỀ ÁNH SÁNG TỰ NHIÊN - TÂM LINH VA ...
tamlinhvahanhphuc.forumvi.com/t240-topic - Translate this page
Jan 15, 2011 - Tôi đi vào và nhận thấy trên vách có một bức vẽ mạn đà la Shitro một ...... Trong nhập môn hay quán đảnh Mật thừa, có bốn quán đảnh bậc ...
http://tamlinhvahanhphuc.forumvi.com/t240-topic
AI MUỐN SẮM MỀN QUANG MINH THÌ ĐĂNG KÝ
Thảo luận trong 'TẤM LÒNG NHÂN ÁI - TỪ THIỆN CÙNG TÂM LINH VIỆT' bắt đầu bởi ngoalong, 1 Tháng bảy 2013.
ngoalong
ngoalong
T. Viên Chính Thức
Tham gia ngày:26 Tháng mười một 2012
Bài viết:94
Đã được cảm ơn:102
Một đạo tràng thiện nguyện đã nhập từ Đài Loan về Việt Nam một số mền Quang Minh bằng gấm rất đẹp, màu vàng, có đầy đủ cả sách chú giải, mandala và hướng dẫn cách sử dụng.
Đạo tràng có ý làm việc thiện nên mua giúp (không có tính chất kinh doanh) một số mền Quang minh để đạo hữu nào có nhu cầu thỉnh cho người thân. Giá mỗi bộ dao động khoảng 250.000 - 300.000 đồng (phụ thuộc vào cước vận chuyển, cước hải quan, và sẽ được tính tròn số, nếu còn dư thì ấn tống kinh sách).
Vậy đạo hữu nào có nhu cầu thỉnh cho người thân, hoặc chưa rõ thông tin thì liên lạc hoặc đăng ký qua số điện thoại: 0902 179 166.
Hoặc gửi lại email, số điện thoại ở đây. Chúng tôi sẽ cung cấp số tài khoản của đạo tràng để gửi tiền, hoặc thu trực tiếp và hẹn các bạn tới nhận mền.
VÀI NÉT VỀ MỀN QUANG MINH
Một trong 6 pháp giải thoát mà đức Liên Hoa Sanh đã giảng dạy, gồm có:
1. Giải thoát qua cái nghe.
2. Giải thoát qua cái mặc (ở đây ám chỉ áo mặc, hoặc phủ, hoặc đắp trên thân, mà cũng có thể là pháp bảo mà ta có thể đeo trên người.*)
3. Giải thoát qua cái thấy.
4. Giải thoát qua sự hồi nhớ.
5. Giải thoát qua vị nếm.
6. Giải thoát qua sự chạm xúc.
Ý nghĩa của “Giải Thoát Qua [Áo] Mặc:”
Người Tây Tạng gọi “Mền Quang Minh” đắp cho người đã qua đời là Tag-drol, nghĩa là “giải thoát qua cái mặc”. “Mền Giải Thoát” (hay “Áo Giải Thoát”) ở đây được kiến tạo dựa trên sự kết hợp của các câu chú nguyện, các biểu tượng và đồ hình. Trên thực tế, đây, là sự thiết lập của một mạn đà la tâm linh.
Người Việt gọi những chiếc “mền” đắp cho người quá cố là “Mền Quang Minh,” đó là vì ta muốn nhắc đến trạng thái tịnh quang chói sáng và trong suốt (Clear Light) của Chân Tâm khi đạt được giải thoát. Ta mong muốn người chết sẽ đạt được đến trạng thái này sau khi lìa đời, cho nên gọi bằng “Mền Giải Thoát” hay “Áo Giải Thoát” cũng mang cùng một ý nghĩa như gọi “Mền Quang Minh.” Cũng có những nơi, người Việt gọi “Mền Quang Minh” là “Áo Đà la ni.”
Đắp “Mền Giải Thoát” tạo được ba loại công đức và lợi lạc như sau:
1. Giúp bảo vệ người chết khỏi những chướng ngại hoặc những tai hại do các vong linh hiểm ác hoặc quỷ thần gây ra.
2. Trong tương lai, có thể giải thoát khỏi luân hồi và khổ não.
3. Trong cõi trung giới “Bardo,” có thể trực nhận được Tuệ Giác Nguyên Sơ, hoặc tái sinh vào cõi Tịnh Độ của đức A Di Đà, sau sẽ đắc được Phật quả.
Các giải thích về “Mền Giải Thoát” có nói về lợi lạc của việc “bảo vệ” người chết như trên, nhưng theo Garchen Rinpoche, ta nên hiểu rằng, “bảo vệ” ở đây không chỉ chú trọng vào việc bảo vệ thân xác của người đã qua đời theo nghĩa thế tục, mà chủ yếu là bảo vệ cho tâm của người chết không bị tán loạn, giúp cho họ giữ được sự sáng suốt, một mực hướng về mục đích cứu cánh là đạt đến giải thoát. Ở đây, giải thoát qua [áo] mặc, qua việc phủ đắp chiếc “Mền Quang Minh,” một phương tiện thiện xảo giúp cho người chết có thể chú tâm, không sao lãng, giữ vững ước nguyện muốn sinh vào cõi Phật, đạt được giải thoát.
Trong Mật điển cũng giải thích thêm như sau: Bất cứ ai có đủ phước duyên để nghe được, nhìn được, chạm được hoặc khoác được vào người tấm “Áo Giải Thoát” thì sẽ có thể được giải thoát xuyên qua Thân trung Ấm, hoặc tái sinh vào cõi Tịnh Độ. Ngoài ra, ngay cả loài súc sinh nếu có đủ phước duyên để đeo được giáo lý của “giải thoát qua cái mặc” quanh cổ cũng có thể sẽ được sinh vào các cõi cao, hoặc được giải thoát trong các giai đoạn chuyển tiếp. Ngay cả những kẻ đã tạo ác nghiệp khi còn sống và những kẻ đã qua đời mà không hề có được bất cứ ai trì chú, hay cầu nguyện hồi hướng cho, thì họ cũng vẫn có thể được tái sinh và cõi Tịnh Độ, và sau đó đạt được giải thoát.
“Mền Giải Thoát” là một phương pháp vô cùng thiện xảo của chư Phật để hoá độ chúng sinh. Khi mang trên người tấm “Mền Giải Thoát” thì người chết cũng có thể tịnh hoá được rất nhiều chướng ngại hoặc các che chướng.
Khi ta khoác trên người tấm “Mền Giải Thoát” hay “Áo Giải Thoát” thì những hạt mầm trong thân xác sẽ nhận được năng lực gia trì và năng lực chuyển hoá. Thân ta sẽ chuyển thành thân Phật. Những tư tưởng bất tịnh của xác phàm sẽ chuyển thành tâm tịnh khiết và trí tuệ của các vị Phật.
Thân ta có 9 khiếu (9 cửa thoát) là nơi mà thần thức sẽ thoát ra ngoài. Trong đó có 8 cửa thoát là 8 cánh cổng đưa đến luân hồi. Duy nhất cửa Phạm Thiên là dẫn đến Đại Thủ Ấn (Mahamudra).
Đắp “Mền Giải Thoát” có tác dụng che kín 8 cửa thoát - nơi ta không muốn thần thức thoát ra, mà chỉ chừa lại một cửa thoát duy nhất - cửa thứ 9 là cửa Phạm Thiên - để người chết sẽ được tái sinh vào cõi Tịnh Độ hoặc đạt được giải thoát.
Thần thức thoát ra cửa 1 (từ phía trên đầu tính từ đường chân tóc đo lên bằng bề ngang của bốn ngón tay chập lại), sẽ tái sinh vào cõi Trời thuộc Vô Sắc giới;
Cửa 2 từ mắt (kể cả mắt thứ ba), sẽ tái sinh vào cõi Trời thuộc Sắc giới;
Cửa 3 từ tai, sẽ tái sinh làm A-tu-la;
Cửa 4 từ mũi, sẽ tái sinh làm người hoặc làm yaksa (Dạ xoa);
Cửa 5 từ miệng, sẽ tái sinh làm ngạ quỷ;
Cửa 6 từ rốn, sẽ tái sinh làm chư Thiên trong cõi Dục giới;
Cửa 7 từ hậu môn, sẽ tái sinh vào địa ngục;
Cửa 8 từ bộ phận sinh dục, sẽ tái sinh làm súc sinh.
====
http://vietnalanda.org/Writings/Men%...hotos_2010.pdf
=
Gửi bạn Ngọc Long,
Mền Quang Minh dành đắp cho người sắp về cõi Tây phương cực lạc, có tác dụng chừa lại cửa thoát Phạm Thiên - để người chết sẽ được tái sinh vào cõi Tịnh Độ hoặc đạt được giải thoát, chứ không đơn giản là y phục, bạn ah. Nhà có người già có thể sắm mền này sẵn rồi nhờ được nhà chùa cho đặt gần Tam bảo, hoặc đặt ở gần ban thờ Phật ở nhà để hàng ngày mền được trì kinh niệm chú, đủ ngày tháng thì cất ngay dưới Tam bảo. Khi cần thì lấy ra dùng sẽ rất tốt cho người ra đi đấy bạn ah.
==
Theo giải thích của Ngài Hungkar Rinpoche, khi hộ niệm chúng ta nên làm như sau:
1. Đắp mền Giải thoát phủ kín suốt từ đầu tới chân thi hài.
2. Mạnđà la Shitro đặt nơi ngực, luân xa tim.
3. Gắn tấm giấy in dòng chữ Dzogchen (Đại Viên Mãn) tiếng Tây Tạng lên đỉnh đầu, nơi lỗ Phạm thiên, mặt có chữ quay xuống dưới.
4. Ngoài ra vẫn thực hiện các nghi thức hộ niệm khác như trì chú, trì danh hiệu Phật v. v.
Theo kinh nghiệm của một số đh thì mạn đà la Shitro nên in: hình màu, khổ giấy A 4 hoặc phân nửa khổ A 4, vì nếu in nhỏ quá các nét sẽ bị nhòe.
Bạn có thể vào đây tham khảo: http://kyduyenvn.vn/c6115/Men-Quang-Minh.aspx
http://hoibongsen.com/diendan/showthread.php?t=5147
http://www.thegioivohinh.com/diendan...ead.php?t=2761
Có cả ảnh mền rồi. Nhưng Ngoalong bận quá, chưa post lên được. Bạn chịu khó đọc ở các link trên nha. Cảm ơn bạn đã quan tâm tới bài viết của Ngoalong.
http://tamlinhhuyenbi.net/threads/ai...-k%C3%BD.2374/
Hành Giả Kim Cương Thừa
27 tháng 11, 2016 · Bình � ·
_Đây là một câu truyện tuyệt vời nhất nằm trong những kho tàng truyền miệng . Tôi đã đọc mẫu truyện này rất nhiều lần nhưng mỗi lần xem xong tôi đều cảm nhận sự tuyệt vời khác nhau. Guru Rinpoche dạy " Sự chí tâm chí thành cho phép lực gia trì thâm nhập . Khi tâm thoát khỏi mọi sự nghi ngờ , thì bất cứ điều gì các con mong muốn cũng có thể thành tựu ". Xin cúng dường câu truyện này đến chứ Hộ Pháp như một đảnh lễ đầy biết ơn .Chúc quý vị một ngày thực hành đầy ân sủng trong tình thương bao la của chứ Hộ Pháp . Om ah Hum
_Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
Cuối cùng thì bà được một người hành hương tốt bụng truyền cho một câu thần chú của Quán Thế Âm Bồ Tát. Câu thần chú gồm có sáu chữ Án Ma Ni Bát Di Hồng.. có thể dùng để giải trừ những nghiệp chướng.
Tội nghiệp cho bà già thôn dã, không biết chữ, nên trên đường về nhà bà lẩm bẩm cố học thuộc lòng, nhưng đã nhớ lôn cách phát âm trở thành Án Ma Ni Bát Di Xanh.
Để khích lệ cho việc đọc câu kinh sám hối này bà bày ra hai cái chén, một cái chén không, còn một cái thì để đầy những hạt đậu nành. Mỗi khi đọc xong một câu thần chú, bà nhặt một hạt đậu từ trong chén đầy bỏ sang cái chén không, đến khi cái chén không đã chứa đầy đậu thì bà làm ngược trở lại.
Bà lão đã không ngừng nghỉ, thành tâm tụng niệm suốt 30 năm.
Lòng thành kính của bà đã ứng hiện cho nên sau này những hạt đậu không còn cần đến bàn tay của bà nhặt lấy, cứ một câu thần chú vừa được phát ra thì một hạt đậu tự động nhảy sang cái chén bên cạnh.
Bà lão thấy những hạt đậu tự động nhảy nhót, cộng hưởng với âm điệu của câu thần chú thì biết rằng sự tu hành đã đúng đường và giai đoạn sám hối sắp sửa chấm dứt cho nên bà càng phấn khởi tụng niệm hăng say hơn.
Hôm nọ có một vị cao tăng từ Tây Tạng vân du qua đó, khi đi ngang qua chiếc lều tranh lụp xụp của bà, nhà sư thấy có ánh hào quang tỏa ra rực rỡ.
Vị cao tăng này lấy làm kinh ngạc, ông nghĩ rằng bên trong chiếc lều tranh thế nào cũng có một vị chân tu đắc đạo. Ông vội vã ghé vào thăm hỏi.
Bà lão lấy làm vui mừng khi thấy vị cao tăng đến thăm, bà quỳ xuống đảnh lễ, mà miệng thì vẫn cứ tiếp tục lẩm bẩm câu thần chú Án Ma Ni Bát Di Xanh.
Vị cao tăng lấy làm ngạc nhiên vì không hiểu ánh hào quang rực rỡ mà ông thấy phía bên ngoài phát xuất từ nơi đâu ?
Ông lần lần hỏi thăm :
- Chẳng hay nữ thí chủ tu luyện bao nhiêu năm rồi và ở đây còn có ai khác nữa hay không ?
- Thưa ngài, ở đây chỉ có một mình tôi sống cô độc hơn ba mươi năm nay.
- Thật tội nghiệp, bà ở một mình chắc hẵn rất buồn ?
- Không đâu, tuy chỉ ở một mình nhưng hàng ngày tôi tu hành và tụng kinh sám hối để kiếp sau có thể hưởng được nhiều phúc đức của kiếp này, nhờ vậy mà tôi không cảm thấy buồn khổ. Nhất là từ lúc được một người hảo tâm chỉ cho cách tu luyện thì tôi càng có nhiều can đảm để sống hơn.
- Bà đang tu luyện kinh sách nào vậy ?
- Thưa ngài , tôi không biết chữ, cho nên chỉ tụng niệm duy nhất một câu thần chú Án Ma Ni Bát Di Xanh.
Nhà sư thở dài tiếc nuối :
- Bà lão ơi, bà đã đọc sai câu thần chú đó rồi, phải phát Âm là Án Ma Ni Bát Di Hồng mới đúng.
Đến lúc này thì bà lão mới biết là đã đọc sai câu thần chú hơn ba mươi năm.
Bà rất đau buồn vì sự nhầm lẫn trọng đại này, như vậy thì công trình 30 năm tụng niệm coi như xe cát biển đông. Tuy nhiên bà cũng cảm ơn sự cải chính của nhà sư.
- Dù sao thì ngài cũng đã đính chính kịp lúc, bằng không thì tôi còn tiếp tục sai mà không biết cho đến bao giờ mới điều chỉnh cho đúng được.
Nhà sư từ giã bà lão để tiếp tục con đường truyền đạo của ông.
Bà lão lại tiếp tục công việc tụng niệm của bà mà lần này với câu thần chú mới Án Ma Ni Bát Di Hồng.
Thế nhưng tâm tư của bà còn hỗn độn vì sự việc vừa rồi cho nên ý chí của bà không được tập trung.
Mỗi câu thần chú của bà đã không còn làm cho những hạt đậu hứng khởi nhảy sang cái chén bên cạnh như lúc trước. Bà lão vừa tụng niệm mà nước mắt cứ tuôn rơi, bà thầm tiếc cho công trình tu luyện hơn ba mươi năm như trôi theo dòng nước vì đã đọc sai câu thần chú.
Nhà sư đi được một đỗi xa, ông ngoái đầu nhìn lại thì thấy căn nhà của bà lão không còn hào quang chói sáng. Bây giờ túp lều tranh hiện hình dột nát mà lại âm u buồn bã. Nhà sư giật mình và nghĩ rằng chính ông đã làm hại người Phật tử này không còn tập trung được tư tưởng như lúc trước. Ông vội vã trở lại túp lều tranh và nói với bà lão rằng :
- Lúc nãy ta chỉ đùa với bà thôi, câu thần chú của bà tụng mới thật là đúng.
- Nhưng tại sao sư phụ lại dối gạt tôi như vậy ?
- Ta muốn thử xem lòng thành kính của bà đối với Tam Bảo như thế nào vậy thôi. Từ nay về sau bà cứ tiếp tục tụng niệm y như cũ là phải phép rồi.
- Xin tạ ơn Đức Phật, vậy mà con cứ tưởng rằng công lao 30 năm tụng niệm đã trôi theo dòng nước, xin đa tạ sư phụ chỉ bày.
Sau khi nhà sư ra đi, bà lão lại tiếp tục công việc tụng niệm, mỗi một câu Án Ma Ni Bát Di Xanh được niệm ra thì tâm hồn bà rộn rã tươi vui và một hạt đậu tự động nhảy sang cái chén bên cạnh.
Nhà sư đi lên đến đỉnh núi, ông ngoái đầu nhìn trở lại thì thấy hào quang phát ra từ túp lều tranh của bà lão đã làm sáng rực cả một góc trời.
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
SỰ GIẢI THOÁT KỲ DIỆU NHỜ GHI NHỚ THANGKA 100 VỊ BỔN TÔN AN BÌNH VÀ UY MÃNH
Trước kia, ở Tây Tạng, ở một thôn nhỏ, có một cụ bà, nhà của bà ở đầu thôn, còn phía cuối thôn là một hộ gia đình giàu có. Một ngày nọ, hộ gia đình giàu có kia có người mất, người mất chính là bạn thân của cụ bà, cụ bà biết tin đã tới tham gia lễ tang. Trong tang lễ, gia đình giàu có này đã thỉnh rất nhiều các vị Lama tới để làm đàn pháp “ Trung ấm văn võ bách tôn – Cứu độ trung ấm pháp”.
Trong đàn thành, các vị Lama treo rất nhiều thangka các vị Bổn tôn khác nhau. Khi ấy cụ bà trông thấy rất nhiều Pháp tướng Bổn tôn mà trước giờ cụ chưa từng nhìn thấy, cụ liền hỏi một vị Lama. Vị Lama liền nói với cụ bà, những vị Bổn tôn này đều là những vị Bổn tôn sẽ xuất hiện khi người mới lâm chung. Cụ bà hỏi lại vị Lama với lòng đầy hoài nghi: “Thật vậy sao? kì lạ thật, người mới mất, những vị Bổn tôn này sẽ xuất hiện sao? ”
Ba năm sau, cụ bà đó cũng qua đời. Sau đó, một người con trai của cụ đã mang rất nhiều vàng bạc đá quý đến cúng dường Đại Bảo Pháp Vương Karmapa...
Đại Bảo Pháp Vương nói: “Ba năm trước trong thôn của anh có người mất, mẹ anh đã tới tham gia lễ tang, đúng lúc các vị Lama đang làm đàn pháp, mẹ anh đã trông thấy ảnh rất nhiều vị Bổn tôn, có một vị Lama đã trả lời mẹ anh rằng, người mới mất sẽ được gặp các vị Bổn tôn này. Cho nên khi mới mất, mẹ anh đã gặp những vị Bổn tôn này, liền nhận ra, và đã được giải thoát rồi. Nếu anh không tin, khi trở về anh tìm gia đình đó, hỏi họ, hỏi vị Lama đó sẽ rõ thôi."
Sau khi về nhà, người con trai liền tìm gặp hỏi vị Lama làm đàn pháp năm ấy, thì biết rằng mọi lời Đại Bảo Pháp Vương nói là hoàn toàn đúng, trong lòng anh rất vui vì điều đó, vui vì mẹ mình quá may mắn, chỉ vì một lần được nhìn qua hình các vị Bổn tôn, ghi nhớ, khi lâm chung, nhận ra các vị Bổn tôn mà được giải thoát.
~ Đức Yongey Mingyur Rinpoche
Tôn ảnh: Shitro Mạn đà la
www.vietrigpabardo.org
https://scontent.fsgn5-1.fna.fbcdn.n...b8&oe=5CBFF9E5
https://vi-vn.facebook.com/shitro100/
SHITRO TERMA
Shitro là một Terma của Terton Karma Lingpa. Sự thực hành 58 hóa thần hung nộ và 42 hóa thần an bình, các vị này khởi lên như những cái nhìn thấy trong chonyid bardo. Shitro được phối hợp với tiến trình chết, đem đến sự sáng tỏ cho những người thực hành nó và chuẩn bị cho họ vượt qua những chướng ngại vào lúc chết. Nó cũng được người sống thực hành cho lợi lạc của những người vừa mới chết.
Trích từ "Yoga giấc mộng và sự thực hành ánh sáng tự nhiên" của Namkhai Norbu Rinpoche
Ảnh: Shitro Terma và Terton Karma Lingpa
https://vi-vn.facebook.com/shitro100/
=========
SHITRO - 100 BỔN TÔN AN BÌNH VÀ PHẪN NỘ
100 Bổn tôn An Bình và Phẫn Nộ (Shitro 100 Deities) gồm có 42 bổn tôn An bình và 58 bổn tôn Phẫn nộ.
https://scontent.fsgn5-6.fna.fbcdn.n...a8&oe=5CB7B41F
https://www.facebook.com/shitro100/p...type=3&theater
Nyongdrol
liberation by tasting (amrita) (Tib. nyongdrol, Wyl. myong grol)
嚐甘露得解脫
Giải thoát qua vị nếm.
=> THẬP CAM LỘ CHÚ
GIỚI THIỆU VỀ VIÊN THUỐC CẦU VỒNG (JASTUG RILBU)
31/08/2014 9:26 Sáng
TGPG.VN – Kính lạy Bồ-tát Quan Thế Âm, tâm từ bi của ngài đối với chúng sanh giống như tình thương yêu của người mẹ dành cho đứa con một của mình. Để làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, ngài đã hóa hiện ra dưới nhiều hình dạng khác nhau – cả hữu tình lẫn vô tình. Những hành động yêu thương của ngài thật là vô biên. Ngài đã ban phúc lành cho chúng con để chúng con có thể phát triển tâm từ bi vô lượng vô biên, vô điều kiện nơi chúng con.
Dù cho mặt trăng có phản chiếu xuống hàng nghìn hồ nước khác nhau thì mặt trăng nguyên thủy của nó vẫn không rời khỏi bầu trời đêm. Tương tự như thế, từ quan điểm của thực tại tuyệt đối, các bậc giác ngộ vẫn sống trong pháp thân vi diệu của mình, dù là đang hóa hiện ra vô số báo thân hay ứng hóa thân để làm lợi ích cho chúng sanh. Đấy chỉ là sự hóa hiện tùy theo mong cầu tại những thời điểm khác nhau và tùy theo nghiệp lực cũng như khả năng của mỗi chúng sanh. Chư Phật và chư Bồ-tát đã phát nguyện rằng, các ngài sẽ hóa hiện không ngừng để làm lợi ích cho chúng sanh, thậm chí là nếu còn có một chúng sanh nào bị đọa đày trong biển khổ sanh tử thì vẫn hóa hiện ra để cứu độ chúng sanh đó. Cho nên, với tâm thức thường tình thì thật khó để chúng ta có thể hiểu được sự biến hóa vô biên trong thân hình, lời nói và tâm ý của các bậc giác ngộ.
http://www.thegioiphatgiao.vn/wp-con...ow-550x368.jpg
big_tibet_rainbow
Các ứng hóa thân thì không chỉ giới hạn ở hình dạng của chúng sanh hữu tình như là thân người hay chư thiên, mà còn hóa hiện thành những vật thể, những thứ thuộc vô tình chúng sanh và những thứ ấy có thể ban phúc lành hoặc truyền sức mạnh giác ngộ đến mọi người thông qua việc nhìn, chẳng hạn như những xá lợi, những pho tượng, nhục thân; hoặc thông qua việc nghe, chẳng hạn như Tâm thức Bardo; hoặc thông qua việc cảm nhận, chẳng hạn như năng lượng trị liệu.
Có một loại cỏ thiêng được gọi là Tsa Lu-du-dorjee, được tìm thấy tại vùng đất thiêng của Tsari (cõi tịnh độ của Ngài ChakraSamvara hay là Demchok Khorlo) ở vùng hẻo lánh của Tây Tạng. Loại cỏ này được cho là thiêng liêng nhất và quý giá nhất trong việc giải thoát qua việc nếm. Có một hiện tượng thường được chứng kiến tại vùng Tsari là khi những loài động vật hoang dã bị chết thì có một ánh sáng cầu vòng mầu nhiệm xuất hiện bên trên cơ thể của những con vật đó. Người ta cho rằng, những loài động vật hoang dã đó có phước duyên là đã ăn được loài cỏ thiêng liêng này và bây giờ được tái sanh về miền tịnh độ.
Trong dòng truyền thừa Dongyud Pelden Drukpa, loại cỏ thiêng giống như thế cũng đã được sử dụng như một trong những thành phần chính quan trọng để bào chế ra viên thuốc cầu vòng hay còn gọi là viên Jastug Rilbu (nghĩa là viên thuốc giúp đạt được thân cầu vòng). Truyền thuyết kể lại rằng, loại cỏ thiêng này chỉ có thể tìm thấy bởi những bậc tái sinh thuộc dòng truyền thừa Gyalwang Drukpa vì họ là những thân tái sinh của Bồ tát Quán Thế Âm. Vì thế, chỉ duy nhất dòng truyền thừa Drukpa mới có những viên thuốc cầu vòng.
Thành phần quan trọng khác được dùng để bào chế ra những viên thuốc cầu vồng là những hạt xá lợi còn lại từ thân của các Đức Phật và chư vị Bồ-tát. Trong quá trình thực hành sáu ba-la-mật, chư Bồ-tát đã tích lũy được những công đức vĩ đại thông qua nhiều phương tiện giáo hóa khác nhau, kể cả việc bố thí, cúng dường những vật sở hữu của cá nhân, bố thí thân thể và thậm chí là bố thí cả sinh mạng của mình. Chư Bồ-tát dùng công đức có được từ những việc bố thí, cúng dường vĩ đại ấy để làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, không chỉ là ngay lúc các ngài còn tại thế mà cả sau khi các ngài đã viên tịch, qua những viên xá lợi được lưu lại từ thân thể của các ngài. Đấy là lý do tại sao chúng ta tìm thấy những viên xá lợi sau khi hỏa thiêu thân thể của các bậc đại sư. Những sự hóa hiện này tồn tại trong khuôn khổ của luật nghiệp báo và hỗ trợ cho sự phát triển lòng vị tha và trí tuệ của chư Bồ-tát trên lộ trình hướng đến sự giác ngộ vĩ đại.
Những viên thuốc cầu vồng được bào chế ra từ sự hòa trộn nhiều vật thể thiêng liêng khác nhau, như là: cỏ Tsa Lu-du-dorjee; xá lợi của các bậc giác ngộ, nước cam lồ của Đức Liên Hoa Sinh và nhiều thứ linh thiêng khác được hòa trộn với nhau. Những viên thuốc ấy được gia trì trong các khóa lễ về ChakraSamvara trong một khoảng thời gian nhất định cho đến khi thấy những dấu hiệu phước lành phát ra từ những viên thuốc ấy, chẳng hạn như là những tia sáng, hương thơm và ánh lửa.
Trong kinh điển có nói rằng, người nào uống hoặc đeo viên thuốc cầu vồng với tất cả sự thành tâm thì người đó sẽ chứng ngộ được chân lý tuyệt đối của Đại Thủ Ấn hay Tánh Không. Và việc uống hoặc đeo viên thuốc cầu vòng còn giúp chữa lành mọi bệnh tật, bảo vệ người đó khỏi bị xâm hại bởi những chất độc, các loại vũ khí, làm cho các giác quan của họ trở nên thanh tịnh và còn đem lại lợi ích cho họ trong nhiều phương diện của cuộc sống, bao gồm cả việc giúp người đó không bị đọa vào ba đường ác (địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh).
Hiệu quả của những viên thuốc cầu vồng là tùy thuộc vào mức độ thành tâm và sự hiểu biết của mỗi người. Sư ban phúc lành gia trì của những viên thuốc cầu vồng dựa trên chân lý duyên khởi. Người ta không thể nào đóng tất cả các cánh cửa mà vẫn mong những tia sáng mặt trời chiếu qua.
Theo truyền thống, những viên thuốc cầu vồng này chỉ dành cho những người đang hấp hối. Người ta làm thế với lòng thương xót rằng, người hấp hối cảm thấy hoàn toàn tuyệt vọng về những gì họ đã làm trong suốt cuộc đời. Những người gây ác nghiệp như vậy sẽ phát khởi niềm tin và lòng thành kính nếu họ được nghe giảng dạy giáo pháp và nhận được những vật thiêng liêng, khi kết hợp được cả 2 yếu tố này thì sẽ tạo ra thiện nghiệp rất mạnh. Và điều này có thể giúp người hấp hối tái sinh vào những cảnh giới thanh tịnh được hình thành từ những lời phát nguyện của chư Phật. Vì thế, ở Tây Tạng, người ta dù ở rất xa cũng đã tìm đến để xin cho được những viên thuốc cầu vồng ấy, còn được gọi là những viên thuốc cầu vồng của Drukpa. Người nào được uống viên thuốc cầu vồng này thì khi chết sẽ được chết trong sự thanh thản và tin chắc rằng người đó sẽ không bị đọa vào ba ác đạo.
Công đức của những viên thuốc này, là hiện thân của chư Phật (vì trong đó có xá lợi Phật), tương đương với công đức của việc đảnh lễ hoặc cúng dường chư Phật.
Những viên thuốc cầu vồng rất là thiêng liêng, hiện trên thế giới chỉ có vài trăm viên, trừ khi Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa quyết định điều chế thêm. Do tính chất thiêng liêng của viên thuốc và vì không thể nào kiếm được nhiều hơn nữa, cho nên chúng tôi không thể nào tặng nguyên cả viên thuốc. Để đảm bảo những lợi lạc có được từ những viên thuốc cầu vồng được phân phối một cách bình đẳng đến tất cả những ai đang tìm kiếm nó, chúng tôi đã lấy những phần nhỏ của viên thuốc hòa trộn vào trong những viên thuốc thiêng khác do dòng truyền thừa Drukpa bào chế. Những viên thuốc có một phần nhỏ tinh chất từ viên thuốc cầu vồng thiêng liêng thì có sẵn tại tất cả các trung tâm và các tu viên Drukpa trên khắp thế giới.
———
Đây chỉ là phần giới thiệu ngắn và chưa đầy đủ về những lợi ích của viên thuốc cầu vồng, bởi vì lợi ích của một vật thể thiêng liêng như thế thì không thể nào đo lường được.
Để biết chi tiết hơn về những xá lợi trong viên thuốc cầu vòng thì hãy đọc bài “Giới thiệu về Damzey Nyongdrol” (An Introduction to Damzey Nyongdrol) của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ 8, ngài Kunzig Choenang và được Dasho Karma Ura dịch qua tiếng Anh.
Cầu nguyện cho tất cả chúng sanh đều được giác ngộ thông qua những phương tiện và những sự hóa hiện khác nhau.
Nhiếp chính vương Gyalwa Dokhampa
Minh Nguyên chuyển ngữ
http://www.thegioiphatgiao.vn/dactru...g-jastug-rilbu
Five practices of enlightenment without meditation無修成佛五法
204本覺維基 ‧ 藏密詞彙選譯
Five practices of enlightenment without meditation無修成佛五法
The five practices of enlightenment without meditation (Wyl. ma sgom sangs rgyas chos lnga) are sometimes given as:
(མ་སྒོམ་སངས་རྒྱས ཆོས་་ལྔ་):見解脫、聞解 、嚐解脫、配解脫、念解脫(頗瓦往 生法)
· liberation through seeing (chakras) (Tib. tongdrol; Wyl. mthong grol); 見咒輪得解脫
· liberation on hearing (mantras and dharanis) (Tib.tödrol, Wyl. thos grol); 聞咒音(咒語和陀羅尼)得解
· liberation by tasting (amrita) (Tib. nyongdrol, Wyl.myong grol); 嚐甘露得解脫
· liberation by touch[1] (mudra) (Tib. takdrol, Wyl.btags grol); and 觸手印得解脫
· liberation by recollection or thinking (which includes the practice of phowa) (Tib. drendrol)[2] 念(憶及或思及)得解脫,頗瓦法也 之
Alternative Lists
· liberation by touching (Tib. regdrol, Wyl. reg grol) is sometimes added to the list, making six methods that lead to liberation.[3]
https://blog.xuite.net/yeshi_tsogyal...BA%94%E6%B3%95
Snake Lake - Page 117 - Google Books Result
https://books.google.com.vn/books?isbn=1582436126
Jeff Greenwald - 2010 - Religion
We call this nyong drol: 'eating liberation.'” I raised my eyebrows. “I'm not joking! Liberation through eating. Meaning, it makes a karmic connection. So even if .
https://books.google.com.vn/books?id...ngdrol&f=false
In Tibet besteht die Auffassung von "Fünf Methoden zur Erlangung von Erleuchtung ohne Meditation (Wyl. ma sgom sangs rgyas chos lnga):
Befreiung durch Sehen (chakras) (Tib. tongdrol; Wyl. mthong grol) - durch Sehen eines großen Meisters oder eines heiligen Objekts (daher auch durch Lesen heiliger Bücher bzw. von Büchern der Meister)
Befreiung durch Hören (Mantras und Dharanis) (Tib. tödrol, Wyl. thos grol) - durch Tragen speziell gesegneter Zeichnungen von Mandalas mit heiligen Mantras (Tib. takdrol)
Befreiung durch Schmecken (Amrita) (Tib. nyongdrol, Wyl. myong grol) - durch Verkosten von heiligem Nektar, der von Meistern durch spezielle intensive Praxis geweiht wurde
Befreiung durch Berührung (Mudra) (Tib. takdrol, Wyl. btags grol) - durch Hören bestimmter tiefgründiger Lehren wie die Große Befreiung bzw. durch Hören im Bardo.
Befreiung durch Erinnerung oder Denken (einschließlich der Phowa - Praxis) (Tib. drendrol) - durch Erinnerung der Übertragung des Bewusstseins (phowa) im Augenblick des Todes
Eine weitere Methode ist das NangJang[4] des Dudjom Lingpa aus dem Nyingma.
Die wahre vollständige Erleuchtung ist neben vielen anderen Dingen wie 'Moksha' mit einem kosmischen Bewußtsein verbunden.
http://www.spiritwiki.de/w/Bodhi