-
Vương Hồng Sển
Sinh ở Sóc Trăng, trong gia đình gốc Phúc Kiến đã định cư từ lâu đời ở Sóc Trăng. Ông là nhà văn rất Nam bộ trong cuộc sống và phong cách viết văn. Những tư liệu, dữ kiện, biến cố, nhân vật và nhận xét ông thâu thập trong suốt từ các năm ở thập niên 1920 cho đến hết thế kỷ 20 ở miền Nam và các nơi ông có dịp viếng thăm mà ông viết ra là những tài liệu lịch sử và văn hóa quý giá cho những ai muốn tìm hiểu về những vùng đất, tỉnh thành ở miền Nam. . Khi còn trẻ ở Sóc Trăng, ông làm công chức Phó ban hành chánh của chính phủ thời Pháp thuộc rồi sau đó lên Saigon làm quản thủ thư viện trong Viện bảo tàng Saigon. Ông có trí nhớ rất giỏi từng chi tiết, rất mê sưu tầm tư liệu lớn, nhỏ và đồ cổ như đồ gốm sành, sứ.
Cùng thời với Sơn Nam, ông ít viết truyện nhưng rất nhiều bút ký. Văn ông rất bình dân, dễ đọc và có duyên. Ngoài các nhân vật nổi tiếng ông có gặp và viết như Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Nguyễn Văn Sâm, Ngô Đình Nhu.., ông còn viết về những người thân, người thầy, người bạn, quen biết trong sở làm, học đường, nhà trọ… đủ mọi tầng lớp trong xã hội. Hãy xem một đoạn ông viết về Nguyễn An Ninh
” Tôi làm quen với ông Ninh nhờ mua báo bằng Pháp văn đối lập chống chánh phủ đương thời, gọi là La Cloche fêlée (Cái chuông rè) do ông một mình vừa chủ trương, vừa viết báo, và vừa bổn phận đứng khắp Sài Gòn, mình mặc áo trắng, đi xe đạp, tay ôm mớ nhật trình, miệng rao lanh lẹ và chạy bán từ số, từ tờ cho mấy ông mấy thầy, bất chấp cách lườm ngó đầy ác ý và tiếng nặng nhẹ của nhóm thực dân, từ thằng biện chà gác đường đến thằng Cọt (Corse) ngồi nhà hàng uống rượu khai vị xưng mình là người cai trị da trắng mà sức học chưa có tới mảnh xẹt-ti-fi-ca (certificat)…
Nhưng mỗi tuần vào khoảng tháng hai tháng ba tây năm 1926 cứ mỗi thứ hai và thứ năm lối bảy tám giờ tối không sót ngày nào, ai muốn gặp Ninh cứ lại trước nhà hàng Yeng yeng thì gặp, không trật bữa nào… Trước khi giáp mặt chị em, tôi thường mua một tờ Chuông Rè để lấy le. Nhưng ông Ninh sau khi bán cho tôi đều đều, lại lầm tưởng, cho tôi đúng là nhà ái quốc có gan, không nữa cũng một tay cừ nào đó có sạn trong đầu. Một đôi khi sau khi nhận của tôi một cắc bạc tiền mua báo, ông chồng báo qua tay trái và chìa tay mặt bắt tay tôi niềm nở như hai bạn tương tri cách mặt lâu ngày. Có mấy lần tôi thẳng thắng kéo tay mời ông vô dùng cơm Yeng Yeng, nhưng ông lắc đầu lia lịa, xổ một dọc tiếng Tây cám ơn không ngớt, và tỏ vẽ cảm động thật tình. Nói cho đúng lúc ấy ai ai đều ngán ông Ninh và không dám giao thiệp công khai, vì sợ liên lụy không nhỏ. Riêng tôi, tôi lại nghĩ lại. Lúc bấy giờ chưa ai biết là nhà ái quốc dám hy sinh tánh mạng như ngày nay đã rõ, lúc ấy ông là người ai cũng e dè không dám lại gần, trừ những người cùng một chủ nghĩa với ông, Việt Tha, Le Jean de la Bâtie, Paul Marchet, vân vân. Còn tôi, tôi vẫn phục ông thật tình…”
Những bút ký ông viết cho ta thấy toàn thể đời sống, suy nghĩ, văn hóa của thời bấy giờ rất sống động và quý giá về xã hội năm xưa. Các tác phẩm nổi tiếng của ông gồm có: Saigon xưa và nay, Hơn nữa đời hư.
Khi ông mất, ông cống hiến hết thảy tài sản, tư liệu và đồ sưu tập của ông cho chính quyền thành phố. Hiện nay căn nhà của ông ở Saigon số 9/1 Nguyễn Thiện Thuật, phường 14, quận Bình Thạnh, được Bảo tàng Lịch sử Việt Nam TP HCM quản lý, sử dụng. Theo báo Người Lao Động thì năm 2002, tức 6 năm sau khi VHS qua đời, qua căn nhà của cố học giả gần như vô chủ và bị xuống cấp nặng nề. Theo di chúc, ông hiến toàn bộ tài sản của mình tại ngôi nhà cho Nhà nước, nhưng do có tranh chấp về quyền thừa kế nên thời gian qua các cơ quan chức năng chưa quản lý ngôi nhà này. Chỉ có số cổ vật và sách quý được Bảo tàng Lịch sử Việt Nam TP HCM và Thư viện Khoa học Tổng hợp tạm thời cất giữ.
Ngôi nhà cổ này hiện nay đã được trùng tu và có thể viếng thăm để hiểu và biết được cuộc đời của một con người rất Nam bộ đặc sắc đam mê văn hóa, nghiên cứu viết sách, hiến trọn đời mình cho sự đam mê ấy và những di sản quí báu mà ông để lại. Trong Viện bảo tàng lịch sử, Thảo cầm viên Saigon, có một phòng đặt tên Vương Hồng Sển, trưng bày những hiện vật quý mà ông bỏ cả đời để thu thập như các đồ gốm Trung hoa, men lam Huế..
https://cvdvn.net/2016/05/21/ve-lich...-nam-bo%CC%A3/
-
-
MÙA XUÂN và TỤC XIN XĂM
Tháng Một 25, 2015 by phanhanhthuc Bạn nghĩ gì về bài viết này?
Hằng năm, cứ mỗi độ xuân về cũng là lúc mọi người tạm quên đi bao nỗi lo toan nhọc nhằn của cuộc sống để thư thả hơn, tươm tất hơn chuẩn bị đón chào một năm mới an lành và hạnh phúc. Ngoài việc chuẩn bị, sắp xếp lại nhà cửa, các phẩm vật dâng cúng ông bà gia tiên, đón con cháu đoàn viên sau một năm bôn ba vất vả, lắng đọng trong sâu thẳm mỗi người vẫn có một miền riêng trong cõi tâm linh. Và vì đó là miền riêng nên dù được thể hiện ở bất kỳ dưới hình thức nào cũng đều toát lên nét đa dạng, đầy màu sắc và cần được tôn trọng. Nó như một thứ tài sản riêng có trong lòng mỗi người, thứ tài sản vô hình nhưng lại giống như lá bùa hộ mệnh sẽ giúp họ vượt qua một năm mới sắp đến dễ dàng hơn, an lòng hơn. Thứ đó không có gì khác hơn ngoài lòng tin và đức tin vào chốn tâm linh, có thể là một tôn giáo, một tín ngưỡng hay giản đơn chỉ là tin vào những điều chỉ bản thân người tin mới cảm nhận được.
Trong vô số những phong tục tập quán người ta hay thực hiện mỗi bận xuân về không thể không nhắc đến tục xin xăm. Đã là phong tục thì cũng chẳng ai dám nói chắc chắn nó có tự bao giờ, chỉ biết rằng tổ tiên ông bà mình đã theo, lớp mình rồi đến lớp con cháu mình cũng sẽ theo. Bởi đó vốn là phong tục đẹp, chứa đựng một phần cái hồn văn hóa dân tộc. Dưới con mắt của tự nhiên, xin xăm âu cũng là trò chơi may rủi nhưng dưới con mắt tín ngưỡng xin xăm là một việc làm đầy thành kính bởi nó mang ý nghĩa thỉnh cầu thần ý. Thần ý cho biết trước về bổn mạng, gia đạo, mưu sự và cả chuyện tình duyên….theo ý nguyện của người xin xăm. Với ý nghĩa thứ hai này mà tục xin xăm trở thành điều không thể thiếu trong những ngày đầu năm mới.
Vậy mọi người đi đâu xin xăm? Thông thường, tại các chùa, đền miếu hay hội quán….là nơi có thể tiến hành cho việc xin xăm. Về cấu tạo, Xăm là một hình thẻ dài làm bằng cật tre vót mà thành. Mỗi thẻ xăm dài khoảng 20 cm, ngang 1 cm, dày 0,2cm và được đánh số theo thứ tự từ số 1 đến số 100. Phần đầu xăm chiếm 2/3 độ dài của cả thẻ xăm và bên trên được đánh số bằng chữ Nho, bên dưới là chữ số thập phân. Phần còn lại gọi là đuôi xăm chiếm 1/3 độ dài và cũng là phần tay cầm được đựng trong các ống xăm cũng là những đốt tre. Mỗi nơi chỉ để một ống xăm nhưng cũng có những nơi có nhiều ống xăm phục vụ nhiều khách cùng lúc tham gia xin xăm.
Trong 100 thẻ xăm thì thường được chia làm 3 loại thẻ như sau:
-Thẻ Thượng thường gồm 38 lá xăm: (1,2,7,8,9,10,11,19,21,22,24,30,32,40,45,50,54,55, 57,58,60,64,65,66,68,69,74,78,79,80,87,89,92,93,97 ,98,99,100)
-Thẻ Trung thường gồm 50 lá xăm:
(3,5,12,13,16,18,20,23,36,27,28,29,31,33,34,35,36, 37,39,41,42,43,44,46,48,51,52,53,56,61,62,63,67,71 ,72,73,75.76,77,81,82.83,84,85,86,88,90,91,94,95)
-Thẻ Hạ thường gồm 12 lá xăm:
(4,6,14,15,17,25,38,47,49,59,79,96)
Ngoài ra còn có xăm thuốc hay còn gọi là Tả Tướng Quân Hoàng Tiên Lương Phương, cũng gồm 100 lá, chỉ một màu vàng, không phân biệt tốt xấu, đánh số từ 1 tới 100. Xăm thuốc cho biết thần ý về mọi thứ bệnh tật để phòng tránh.
Việc xin xăm được chia làm hai giai đoạn: Xin thẻ xăm và bàn xăm.
Giai đoạn xin thẻ xăm: thường thì người xin xăm sau khi lễ Phật( nếu ở chùa), hoặc lạy thần linh(nếu ở đền miếu hay hội quán) thì cầm ống xăm quỳ xuống chiếu thành kính khấn xin những điều mong đợi trong năm tới sẽ ứng trên thẻ xăm, ai cũng muốn mình có một thẻ xăm tốt cho năm mới suôn sẻ, may mắn. Sau khi khấn xong thì cầm ống xăm để lắc theo chiều thẳng đứng làm sao chỉ cho một thẻ xăm rơi ra thì xem như việc xin thẻ thành công. Nếu người nào để nhiều thẻ xăm cùng rơi ra thì người ấy phải xin lại, việc xin xăm xem như không thành công nếu 3 lần xin xăm mà xăm không rơi ra hoặc số thẻ rơi nhiều hơn một. Riêng xăm thuốc, người lớn phải xin 3 thẻ, thiếu niên 2 thẻ và trẻ em 1 thẻ.
Giai đoạn bàn xăm: sau khi xin được thẻ xăm, người xin xăm phải tới chỗ để tờ diễn giải,thường là chiếc tủ có 10 hộc, mỗi hộc có mười ngăn dán số từ 0 đến 9 cứ thế cho đủ 100. Riêng về xăm thuốc được xếp trong một cái tủ có 100 hộc, mỗi ngăn đựng lá phiếu xăm màu vàng tương ứng với số của thẻ. Với xăm thường, tương ứng mỗi số trên thẻ xăm là một miếng giấy quyến màu đỏ hoặc hồng( loại giấy lụa rất mỏng và dai) dài khoảng 10 cm, rộng 3cm có ghi số thẻ và nội dung diễn giải được trình bày cả hai mặt. Mặt trước ghi thứ tự thẻ xăm, một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt diễn tả thần ý gồm 3 phần: gồm phần chữ Hán,phần phiên âm và phần dịch nghĩa. Mặt sau ghi lời bàn xăm. Những lời bàn trên lá xăm đều có đặc điểm chung là ghi vắn tắt, nặng nề về phương diện luân lý đạo đức. Nhiều người đọc xong lời xăm nếu không rõ nghĩa thì có thể nhờ thầy ở đó giải hộ.
Việc xin xăm thường kéo dài từ đầu năm mới đến rằm tháng giêng. Tuy nhiên, có nhiều người có thể do bận rộn, chưa có dịp hay bất kỳ lý do gì mà chưa xin cho mình một thẻ xăm thì cũng có thể thực hiện việc ấy sau khi qua hết tháng giêng. Bởi ai cũng mong cho mình có một năm mới nhiều may mắn, đầy tài lộc và hạnh phúc! Mặt khác, qua đó cũng biết trước những điều không may nhằm kịp thời tránh đi, sống tốt hơn để được quả lành. Ngày nay, tục xin xăm này vẫn còn ở rất nhiều nơi, nó giúp con người chúng ta giữ gìn các giá trị văn hóa một cách có chọn lọc và có ý thức. Nhưng cũng không tránh khỏi việc một số nơi, một số người làm cho ý nghĩa của việc xin xăm bị biến tướng, dựa vào đó để trục lợi và biến nó thành thứ mê tín dị đoan đáng bài trừ. Nàng xuân nay lại sắp về, mong rằng mọi khách du xuân sẽ chọn được thẻ xăm như ý và không bị cái xấu làm mất đi ý nghĩa của nét văn hóa đẹp đẽ này.
https://phanhanhthuc.wordpress.com/2...-xuan-xin-xam/
-
-
Cách xin xâm, xin keo, gieo quẻ đầu năm
Theo phong tuc tap quan người Việt Nam, hàng năm cứ vào dịp tết, đón năm mới, nhiều người già trẻ, trai gái đều đến chùa, đền miếu lễ Phật, lễ Thánh cầu bình an cho bản thân và gia đình, người thân… Khi lễ Phật, lễ Thánh xong nhiều người muốn xem quẻ đầu năm để biết tử vi, vận hạn, vận mệnh của mình trong năm tốt, xấu ra sao? Có hàng vạn người xin xâm nhưng rất ít có người biết cách xin như thế nào để được kết quả chính xác nhất cho bản thân. Chúng tôi xin trình bày Cách xin xâm, xin keo, gieo quẻ đầu năm 2017 như sau:
phong thuy
Cách xin xâm, xin keo, gieo quẻ đầu năm 2017
1. Xâm là gì ?
Xâm ở đây gọi là Tướng Quân Linh Sám (xâm thường) và Tả Tướng Quân Hoàng Tiên Lương Phương (xâm thuốc). Với con mắt tự nhiên, xin xâm chỉ là một trò chơi may rủi, nhưng dưới con mắt tín ngưỡng, xin xâm là thỉnh Thần y.
Có 2 loại: Xâm thường và xâm thuốc.
Xâm thường: Gọi là Tướng Quân Linh Sám, gồm có 100 lá xâm, đánh số từ 1 tới 100. Xâm thường cho biết Thần ý về bổn mạng, gia đạo, mưu sự, cưới gả, bịnh tật, cầu tài, cầu quan, xuất hành, kiện cáo và mất trộm.
Xâm thuốc: Còn gọi là Tả Tướng Quân Hoàng Tiên Lương Phương, cũng gồm 100 lá, chỉ một màu vàng, không phân biệt tốt xấu, đánh số từ 1 tới 100. Xâm thuốc cho biết Thần ý về mọi thứ bệnh tật.
2. Quy trình xin xâm, xin keo:
Người muốn xin keo trước tiên cầm hai cái keo lên vái tên, tuổi, địa chỉ chỗ ở hiện tại của mình và khấn vái nói những điều mình cầu xin trước Thánh Thần. Lời cầu xin này sau khi xin keo sẽ được hiển thị qua lá xâm. Sau khi cầu xong lại để hai lá keo xuống đất.
Người xin đi một vòng trong chùa hay đền đến vái các tượng Phật, Thánh độ hai ba phút sau đó trở lại nơi có hai lá keo lúc đầu. Cầm hai lá keo vái lại lần nữa những lời cầu xin của mình. Sau khi cầu xong, hai tay chụm lại giữ hai lá keo trong lòng hai bàn tay, đưa lên cao ngang mặt rồi buông xuống. Nếu một lá keo sấp, một lá ngửa thì coi như xin được keo. Khi đã được quẻ rồi thì bước kế tiếp là hai tay cầm ống đựng những lá xâm và lắc ống xâm. Nếu thấy lá xâm nào nhảy ra thì cầm lấy lá xâm đó, tìm số ghi trên lá xâm là số nào thì đi tìm tờ giấy ghi lời giải của số đó. Những câu thơ hay lời giải trên tờ giấy là vận tốt, xấu của mình trong năm, xem tu vi 2017 để biết thêm chi tiết.
Trường hợp không xin được keo
Có hai trường hợp xảy ra là: cùng sấp hay cùng ngửa.
* Nếu hai lá keo cùng ngửa (cùng Âm) thì đó là lời cầu xin của người cầu không rõ, không cụ thể nên Thánh chưa trả lời được. Người xin xâm có thể cầu lại rõ ràng theo trình tự như trên rồi xin lại quẻ khác.
* Nếu thấy hai lá xâm cùng sấp (cùng dương) thì không nên xin lại quẻ khác vì Thánh không cho biết kết quả có thể lúc mình cầu không nghiêm túc, không thành tâm.
3. Rút quẻ - phong tục lâu đời
Đi lễ chùa đầu năm và xin quẻ là phong tục lâu đời của người Việt. Theo tục cũ, người đi chùa sau khi dâng lễ chọn lấy một quẻ thẻ thường làm bằng tre có ghi số hiệu hoặc ghi một câu ngắn gọn bằng tiếng Hán nêu tổng quát về cuộc đời, vận hạn của người rút quẻ trong năm đó. Ngày nay, thay vì thẻ tre, các chùa thường dùng thẻ giấy và chữ quốc ngữ để người xem dễ hiểu, không cần nhờ đến các thầy đồ luận giải.
Tại một số đình chùa, người đi lễ được rút thẻ miễn phí. Nội dung các quẻ thẻ tập trung nói đến vận hạn của mọi người trong năm. Quẻ tốt hay xấu thể hiện ngay ở tên quẻ: quẻ đại cát, quẻ thượng thượng, quẻ hạ hạ.... Cũng có những quẻ luận giải cụ thể các vấn đề hôn nhân, cầu tài, cầu danh, gia trạch.... và tổng giải.
Người đi lễ chùa rút quẻ đầu năm xuất phát từ mong muốn sẽ gặp nhiều may mắn, an lành trong cả năm trước mắt. Đây là phong tục đã được nhân dân ta lưu giữ từ lâu và trở thành nét đẹp văn hóa mỗi dịp tết đến, xuân về.
4. Phương pháp gieo quẻ dịch truyền thống
xem ngay tot xau
Cách xin xâm, xin keo, gieo quẻ đầu năm 2017
Trước tiên ta làm quen với hình dáng và đặc điểm nhận dạng của đồng Càn Long thông bảo. Đồng Càn Long thông bảo được đúc bằng đồng, hình tròn và có lỗ vuông ở chính giữa. 1 mặt ghi bốn chữ "Càn Long thông bảo" bằng chữ Hán, mặt còn lại có họa tiết ký hiệu riêng của đồng tiền.
Trong phương pháp gieo quẻ dịch, người xưa đã quy định mặt có chữ "Càn Long thông bảo" là mặt ngửa, mặt còn lại là mặt sấp
Trước khi bắt đầu gieo quẻ ta cần chuẩn bị sẵn giấy bút và ghi rõ năm tháng ngày giờ gieo quẻ, 1 cái đĩa hoặc 1 tờ giấy sạch để ta gieo 3 đồng xu đó xuống.
Khi gieo quẻ thì lấy 3 đồng tiền đặt trong lòng bàn tay, úp 2 tay lại, để im và suy nghĩ đến việc cần hỏi trong vòng 1 phút để cho từ trường của đồng tiền và từ trường của cơ thể ta liên thông với nhau. hoặc cũng có thể khấn 1 câu đơn giản như sau:
Vd: "con là..........ở tại..............xin thần linh chỉ cho con biết bao giờ thì khu vực con đang sinh sống có mưa"
Mục đích của việc này giúp cho tinh thần ta được tập trung, càng tập trung thì quẻ hiện càng rõ và càng ứng. hơn nữa có câu "trên đầu 3 tấc có quỷ thần". kính thần thì thần tại là vì vậy .
Khi đã tập trung ý niệm xong ta lắc đều 3 đồng xu lên, vừa lắc vừa tập trung ý niệm về việc hỏi, sau đó gieo cả 3 đồng xu xuống đĩa.
Nếu 1 đồng sấp là hào dương
2 đồng sấp là hào âm
3 đồng đều sấp là dương động
3 đồng đều ngửa là âm động
Gieo 6 lần như vậy thì thành quẻ
Để thuận tiện cho các bạn chưa biết dịch lý, khi gieo các bạn ghi rõ mặt của từng đồng xu ra. Ví dụ lần thứ nhất gieo được 2 đồng ngửa 1 đồng sấp thì các bạn ghi là “lần 1 N N S” trong đó chữ “N” là ngửa, chữ “S” là sấp. cứ như vậy gieo thành 6 lần.
Lần 1. N N N
Lần 2. N S S
Lần 3. S N N
Lần 4. S S S
Lần 5. N S N
Lần 6. S N N
Gieo xong là có căn cứ để luận giải.
-
DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA
Bửu Sơn Tự (Chùa Đất Sét)-Khám phá nét riêng tài hoa và sáng tạo
(04/11/2011)
Chùa Đất Sét có tên là Bửu Sơn Tự, tọa lạc tại số 286, đường Tôn Đức Thắng, khóm 1, phường 5, cách trung tâm Thành phố Sóc Trăng khoảng 1km về hướng Bắc, Nếu nhìn dáng vẻ bề ngoài thì chánh điện chùa chỉ là căn nhà rất đổi bình thường với diện tích khiêm tốn khoảng 370 m2, mái lợp tôn, vách tường xây gạch, khung bằng gỗ dầu, gỗ đước. Bố trí nội thất bên trong thì thể hiện dấu ấn của tôn giáo và tín ngưởng dân gian bởi ở đây vừa thờ phật Thích Ca Mâu Ni, Như Lai, Quán Thế Âm, bên cạnh lại có các vị thần Thiện, Ác và cũng có các “Mẫu” đặc trưng tín ngưởng của người Việt.
Bửu Sơn Tự là cơ sở thờ tự thuộc hệ phái Bửu Sơn Kỳ Hương do gia đình ông Ngô Kim Tây lập am thờ trên đất nhà có diện tích khoảng 2.582 m 2 để tu tại gia vào năm 1906 với 24 cột bằng đước, mái lợp lá.
Năm 1909, ông Ngô Kim Đính, sinh hạ được một người con trai là Ngô Kim Tòng, từ nhõ đã có thiên hướng say mê nặn tượng bằng đất sét, đầu tiên, ông phơi đất sét thật khô, sau đó bỏ vào cối giã thật nhuyễn, rồi sàng lọc bỏ rễ cây, rễ cỏ, lấy đất mịn trộn với bột nham, ô dước … để tạo sự kết dính, có tính đàn hồi nên khi khô lại thì tượng không bị nứt nẻ, tạo thành một hỗn hợp dẻo, thơm để sử dụng, khi nắn tượng Phật, ông Tòng dùng lưới kẽm, cây gỗ dựng sườn, lấy vải màn bao lại rồi mới đắp đất lên, sau đó dùng kim nhũ, dầu bóng kéo lên… và sau 42 năm miệt mài sáng tạo, hiện Bửu Sơn Tự đang lưu giữ gần 1900 pho tượng phật, cùng biết bao linh vật… thoạt nhìn, nhiều người tưởng là đúc bằng đồng, mạ kim nhũ với dầu bóng, nhưng tất cả đều được làm từ đất sét.
Trong số đó có 3 công trình bằng đất sét tiêu biểu là tòa Tháp Đa Bảo, tháp bảo tòa trụ thế chuyển pháp luân và Lục Long Đăng. Bằng trí tưởng tượng và đôi tay khéo léo của mình, ông đã tạo nên những tác phẩm nghệ thuật độc đáo được tạo tác hoàn toàn bằng chất liệu đất sét. Làm nên nét khác biệt của Bửu Sơn Tự với các ngôi chùa khác, thu hút du khách hành hương đến lễ bái và chiêm ngưỡng những tác phẩm độc nhất vô nhị tại đây.
Cổng vào chùa được thiết kế theo mô hình tam quan gồm cổng chính và hai cổng phụ, chóp cổng được trang trí đắp nổi biểu tượng lưỡng long tranh châu, 4 cột cổng đều có đắp nổi chữ hán đối nhau, giống như những cổng chùa của người Hoa.
Từ cổng vào là tượng voi trắng cao gần 2 mét, chú voi đưa vòi lên cao như chào đón khách, đối diện cửa hông là một long mã được tạo tác bởi sự tưởng tượng phong phú, kỳ diệu, đầu rồng có một sừng lực lưởng ngẩng cao, bờm và đuôi là hình ngựa được thay bằng vẩy rồng, đuôi rồng. bên trong là đôi thanh sư, bạch hổ đang canh giữ hòn núi vàng, núi bạc. Đôi kim lân kế bên ở thế ngẩng cao đầu trước bệ thờ giữa chánh điện, miệng ngậm trái châu, chân gác lên quả , trông oai phong lẫm liệt.
Khuôn viên phía trước chánh điện được tôn trí phật di lặc, tượng quan âm cao trên 2 mét, được đặt ở vị trí trung tâm, hai bên là miếu thờ ông hổ, ông tà, giữa sân có bàn thờ thiên phụ địa mẫu, ở bốn góc là tượng tứ linh Long Lân, Quy, Phụng. Cổng chánh điện hướng ra phía đông, bên trong gồm 24 cột bằng gỗ đước được đắp bằng đất sét có trang trí đắp nổi kim long bạch rất sinh động, các gian thờ được ngăn cách thông qua lối đi lại và phân bố đối xứng ở 2 bên hành lang với kiểu bố trí theo chiều đọc ngang.
Bên trong chánh điện là trang thờ diêu trì kim mẫu, đầu đội kim mão, mình khoác áo dài, tay nâng đỡ quả địa cầu, ngồi trên ghế, được đặt trong lòng kính cao trên 1 mét, phía sau là mẹ đất kim mẫu, ngự trên quả địa cầu, cao 0,5 mét, hai bên là tượng thích ca đứng trên 7 ngọn núi, cạnh bên là tượng bồ tát ma ha tát, phía dưới là bộ tượng thất phật dược sư. Kế gian thờ mẫu là nơi thờ tượng nam tào, bắc đẩu cùng các quan được đặt trong lồng kính hình chữ nhật như một bức tranh, bên trong là những tượng nhỏ được tạo tác tinh xảo nhiều màu sắc.
Giữa bàn thờ tam bảo là tác phẩm lục long đăng là tác phẩm cuối đời của ông Ngô Kim Tòng. Lục Long Đăng gồm 3 chóp đỉnh với 6 con rồng lớn uốn cong, đuôi chụm vào nhau, đầu trổ ra các phía. Đáy đèn là một bông sen Thân rồng được làm bằng đất sét với ngàn vạn chi tiết tinh vi, trãi qua thời gian đến nay vẫn chưa hề biến đổi.
Bên phải chánh điện là tượng mẹ sanh, mẹ độ, kim tinh thánh mẫu, hình tượng sự tích phật đản sanh được đặt trong lồng kính, cạnh chính điện thờ đức thầy và cư sĩ Ngô Kim Tòng. Hai bên chính điện thờ thập điện minh vương, mỗi dẫy gồm 5 vị, tiếp đến là gian thờ quan thánh đế quân, địa tạng bồ tát, thái tử du hành, phật du ngoạn, phật giáng sanh, bà chúa thượng, tượng cửu huyền. Bên trái chính điện, thờ tượng phật thuyết pháp, phật cảm hóa ma vương, phật khổ hạnh, tượng cửu tiên huyền nữ, đạt ma tổ sư, được đặt trong lồng kính. Nổi bật ở giữa là thờ sự tích phật di lạc, phật thích ca nhập niết bàn, ngọc hoàng thượng đế với cách thiết kế nữa tranh, nữa tượng, đối diện trang thờ này là bàn thờ chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh được tôn trí rất trang trọng.
Cạnh gian thờ của Bác là tòa sen 1.000 cánh, mỗi cánh sen là 1.000 vị phật ngự, trên đài sen cùng vầng haò quang ẩn hiện 500 vị phật. Dưới đài sen có hình bát giác tiên thiên gồm tám cung tượng trưng cho : trời, đất, sét, sấm, gió, nước, đồi và đầm trũng. Tám cung có 16 tiên nữ ứng hầu, dưới bát quái là bốn phương Đông – Tây – Nam – Bắc, mỗi phương có tứ đại thiên vương trấn giữ, chân tòa sen là Long – Lân – Phụng và 12 con cá hóa long chầu quanh bảo tòa cao 2,5 mét
Ngoài ra còn có tháp đa bảo 13 tầng, 208 cửa, 208 vị phật, mỗi vị trấn một cửa, 156 con rồng uốn khúc chầu quanh đỡ từng mái tháp. Đây là tác phẩm có kỹ thuật , nghệ thuật tinh tế, thể hiện nhiều chi tiết, họa tiết. Mỗi tầng tháp có ý nghĩa riêng diễn tả từng giai đoạn phát triển lịch sử Đức Phật. Đối diện với tháp bảo tọa là tòa tam giáo cộng đồng, gồm các tượng A di đà, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Bổn Sư Thích Ca, A Nan, Ca Diếp, Khổng Tử, Lão Tử, Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm, Địa Tạng, Di Lặc. Bộ tượng được đặt trên hai tầng kệ, hai cột phía trước để chống đỡ tòa tháp đắp nổi hình rồng (gọi là long trụ) được sơn son thếp vàng điểm xuyến cho bộ vây xanh trông rất lạ mắt, 4 cột nhỏ bên trong cũng đắp hình rồng uốn lượng khá công phu.
Phía sau các gian thờ chính là nhà tổ được thiết kế theo dạng “tiền phật hậu tổ”, đây là nơi đặt bài vị và hình ảnh các ông, bà, anh, chị em trong thân tộc họ Ngô đã sáng lập, trùng tu ngôi chùa từ khi thành lập đến nay cùng lư hương, đỉnh thờ, cũng đều làm bằng đất sét sơn son thếp vàng và những bức hoành phi do ông Tòng tự vẻ, thiết kế.
Ngoài các công trình bằng đất sét, Bửu Sơn Tự còn đặc biệt nổi tiếng bởi 04 cặp nến ở các gian thờ, mà việc đổ đúc đèn ngoại cở là quá trình kỳ công, đầu tiên ông mua sáp bạch lạp nguyên chất rồi cùng các đệ tử chặt vụn sáp nguyên khối nấu chảy ra rồi mới đổ vào khuôn. Do các đôi đèn này có kích thước quá to nên ông Ngô Kim Tòng đã dùng tôl lợp làm khuôn, nấu sáp đổ liên tục trong nhiều ngày đến khi đầy ống với chiều cao 2 mét.
Sau mấy tháng ròng làm việc, ông Tòng đúc được 6 cây đèn cầy lớn, mỗi cây nặng 200 kg, và theo ước tính thì mỗi cặp đèn sẽ cháy liên tục trong thời gian hơn 70 năm mới hết sáp.
Bửu Sơn Tự được xem là một công trình văn hóa vật thể nổi tiếng bởi sự tưởng tượng phong phú và bàn tay tài hoa đầy sáng tạo của ông Ngô Kim Tòng, một nghệ nhân dân dã luôn miệt mài nâng niu từng vốc đất.. đã tạo dáng, phả hồn vào đất và biến đất trở thành hàng ngàn bức tượng lớn nhỏ, không trùng lắp, mỗi tượng một vẻ, làm nên đặc điểm riêng thu hút sự tìm tòi khám phá của du khách gần xa đến với Thành phố Sóc Trăng.
Hoàng Danh (Đài Truyền thanh TPST)
https://www.soctrang.gov.vn/wps/port...svh/buu+son+tu
https://www.soctrang.gov.vn/wps/wcm/...fde4d50738ae/4
-
100 Quẻ Quan Thánh Đế (51-60) 越南道教SỐ 51 THƯỢNG CÁT
第五十一号簽 上吉
君今百事且隨緣
水到渠成聽自然
莫嘆年來不如意
喜逢新運稱心田
碧仙注
一生勞碌不曾閒
也是心緣倍累開
漸遇亨通有生意
後來容易只先難
Xăm chữ hán việt
Quân kim bá sự thả tùy duyên
Thủy đáo cừ thành thính tự nhiên
Niên lai mạc thán bất như ý
Hỷ phùng tân vận xứng tâm điền
Dịch
Nay làm trăm việc phải tùy duyên
Nước tói đê cao phải đắp liền
Đừng than năm tới không như ý
Hợp lòng vận mới tốt triền miên
Tích : Ngự Câu lưu hồng nhan
Thánh ý : Danh dần hiển , tụng dần mở , tài sung túc , bệnh tự an , đi có tin , hôn nên định , mệnh dần thông , hợp ý lòng .
Tô đông pha giải : Trước mắt mưu vọng , tạm tùy duyên phận , có ngày vinh đạt , hiển hách như nguyện , đừng nên than oán , biến đổi theo thời , dần thấy hanh thông , gặp toàn việc tốt.
Thơ Bích tiên
Nhất sinh lao lục bất tăng nhàn
Dã thị tâm duyên bội lụy khai
Hanh thông tiệm ngộ hữu sinh ý
Hậu lai dung dị chỉ tiên nan
Dịch
Cả đời cực nhọc vẫn chưa nhàn
Cũng tại tâm tư mỏi mệt mang
Thuận lợi đến rồi như muốn tính
Lúc sau gặp dể trước gian nan .
http://thantienvietnam.com/kinh-dich...-de-51-60.html
-
Công việc bếp núc sẽ dễ dàng hơn nhiều nhờ những mẹo này
17/07/2017 14:32 GMT+7
Những việc như cắt trái cây, luộc trứng hay bóc vỏ tôm chúng ta vẫn làm có thể trở nên đơn giản hơn bao giờ hết nhờ những mẹo vặt này.
http://vietnamnet.vn/vn/doi-song/meo...ay-384436.html
-
https://www.youtube.com/watch?v=HkThNydjz-A
MIỄU BÀ HỎA
Clip LE KY YEN 2017 MIEU BA LONG PHU SOC TRANG 1
-
https://www.youtube.com/watch?v=oFnVg3rcHk4
Dạy cúng rằm tháng 7 tiến mã cho vong và những điều cần lưu ý-Cậu Khang Nam Định
-
-
Đặt hũ gạo chỗ này gia đình nghèo cỡ nào cũng giàu lên nhanh chóng và bất ngờ
-
Chuyện xin xăm
2016/03/11 bởi levinhhuy
Một bộ xăm của Đài Loan.
Một bộ xăm của Đài Loan.
“Xăm” vốn tiếng Hán là “Thiêm” (籤), nhưng lại thường được phiên âm thành “Sám” (như Xăm Tả quân của Lăng Ông Bà Chiểu được gọi là “Tướng quân linh sám”), có lẽ từ chỗ đọc trại âm tiếng Tàu của nó là “qiān”.
“Xăm” hay “Thiêm”, là những thẻ tre dùng để bói toán, rất tiện dụng để đáp ứng nhu cầu “tiên tri” họa phước hên xui khi ai đó cảm thấy bối rối trước một vấn đề cụ thể. Đây là một dạng vấn bốc, dùng bói toán để mượn năng lực siêu nhiên giải đáp cho những nghi vấn của mình. Nhờ đó, trò xin xăm được phổ biến khắp các chùa chiền, đạo quán cõi Á Đông.
Xuất xứ
Tất nhiên, các dạng “khoa học huyền bí” (ngôn ngữ Việt Nam hiện đại gọi là “văn hóa tâm linh”) của Á Đông đều khởi nguồn từ Trung Hoa.
Từ xa xưa, người Tàu đã dùng cách gieo quẻ âm dương (xin keo) để hỏi ý thần linh mỗi khi phải lựa chọn quyết định trước những vấn đề quan trọng.
Hơn 2.500 năm trước công nguyên, Hiên Viên (Hoàng đế) đã gieo quẻ âm dương khi ra trận đánh nhau với thủ lĩnh Xi Vưu (và ở Việt Nam, vào đầu năm 2016, tức mới tuần trước thôi, thằng cha Năm Tuấn quán cà phê chợ xã chỗ tôi cũng dùng cách tung hai chiếc dép tổ ong để có quyết định theo kèo nào trước một trận bóng Cúp C1). Nhưng gieo quẻ âm dương chỉ cho câu trả lời tối giản “Yes or No”, trong khi người ta thường có khuynh hướng muốn được đối thoại nhiều hơn với thần linh để có thông tin tối đa, nên đã sáng chế ra các thẻ xăm.
Quá trình
Ban đầu, lời thánh phán được ghi trực tiếp trên 49 thẻ xăm cả thảy, đó là những câu văn ngắn cực kỳ cô đọng do các vu sư đời Đường đặt ra.
Qua các đời sau, theo sự phát triển của Đạo giáo, dần dần hình thành các loại xăm khác nhau, từ 49 thẻ thành 64 thẻ theo Dịch quái, rồi thành 100 thẻ để dự đoán thế sự. Đời sống ngày càng phát triển, những câu hỏi do con người đặt ra mong cầu thần linh giải đáp ngày thêm đa dạng, chỉ một câu văn ngắn trên thẻ không hiển thị đủ mặc khải của thần linh, nên xuất hiện thêm “thơ xăm” (thiêm thi). Trên thẻ xăm do đó chỉ còn ghi những ký hiệu hoặc đánh số để phân biệt, người xin quẻ theo đó lãnh “thơ xăm” để đọc. Thơ xăm thường là một bài tứ tuyệt ngũ ngôn hoặc thất ngôn, lời lẽ mông lung bao la, lại phải có thêm lời “giải xăm” (thiêm giải). Nhưng chỗ gọi “lời giải” này thường lại dẫn điển tích cổ xưa, phải người có căn bản Nho học mới lãnh hội được ít nhiều huyền cơ trong đó, vậy là nghề bàn xăm ra đời, thường do các thầy đồ đảm trách.
Nội dung thẻ xăm nhờ các thầy bàn này ngày thêm phong phú đa dạng, có thể giải đáp hầu hết những thắc mắc về công danh tài lộc, hôn nhân gia đạo, mùa màng thất bát, thậm chí cả buôn bán đi xa, giới tính thai nhi, tìm lại của rơi… Nghi thức xin xăm cũng theo đó ngày một trang trọng, được bổ sung thêm lối gieo quẻ âm dương (xin keo) xác nhận lá xăm để tăng phần trang trọng, tạo thêm sự tin tưởng vào hiệu nghiệm linh ứng của quẻ xăm.
Đến khoảng đời Nguyên, cuối thế kỷ XIII trở về sau, ống đựng thẻ xăm và hai miếng gỗ hình bán nguyệt dùng xin keo nghiễm nhiên đã có chỗ trên hương án chánh điện của các danh lam cổ tự, và gian ngoài đền miếu thường có chỗ riêng cho thầy bàn xăm cũng như kệ hộc đựng những tờ xăm. Mỗi chùa đều có bản khắc để có thể tự in xăm ra những tờ giấy mỏng.
Nghi thức
Người xin sau khi thắp nhang đèn trước tượng thần phải làm lễ ba quỳ chín lạy, bày tỏ mục đích mình muốn tham vấn thần ý. Sau đó hai tay nâng ống xăm quá đầu để xóc cho đến khi có một thẻ văng ra (nếu ra quá một thẻ thì không tính, phải xóc lại). Khi thẻ xăm đã ra, lại phải gieo âm dương (xin keo) để được thần linh xác nhận thẻ đó. Hạn trong ba lần gieo âm dương, nếu không được thần ý “xác nhận” tức là thiên cơ bất khả lậu, phải trả thẻ, qua tháng sau mới được xin lại.
Phổ biến
Những thẻ xăm của Trung Hoa được lan truyền sang Nhật, Hàn, Miến, Việt, và biến thể ra nhiều lối khác nhau tùy phong hóa thủy thổ mỗi nơi. Như ở Nhật, ống xăm chỉ chừa lỗ nhỏ vừa đủ một thẻ rơi ra, khi đọc xong quẻ, tờ xăm xấu sẽ được đặt lại trên giá, ngụ ý ký thác, nhờ thần Phật giúp mình sửa đổi vận khí. Gần đây, Nhật lại có máy xin xăm, chỉ cần nhét đồng xu vào, tờ xăm sẽ rơi ra.
Lưu truyền văn hóa
Một lá xăm trong Lăng Tả quân Lê Văn Duyệt (Lăng Ông - Bà Chiểu).
Một lá xăm trong Lăng Tả quân Lê Văn Duyệt (Lăng Ông – Bà Chiểu).
Những bài thơ xăm tuy tùy mỗi đền chùa có khác nhau (như xăm Chùa Ông, xăm Chùa Bà, xăm Quan Âm, xăm Thiên Hậu…), nhưng đều do những bậc văn tài, sở học uyên thâm quảng bác chế tác. 100 thẻ xăm không chỉ ẩn tàng nguyên lý Dịch học(*) mà còn chứa đựng nhiều điển tích văn học, lịch sử, địa lý, v.v…
Người Trung Hoa thuở xưa vì thời cuộc hoặc sinh kế phải lưu lạc tứ tán muôn phương, họ hầu như chỉ có đôi tay trắng và một nhiệt huyết sinh tồn. Theo bước chân những người Tàu trôi dạt, đền chùa, hội quán được dựng lên, làm nơi đoàn kết tụ họp và gìn giữ văn hóa nghìn đời; những lá xăm trong chùa Tàu chính là một phần của kho tàng văn hóa đó. Người ngoài đọc xăm thường thấy rối rắm lung tung, nhưng với Ba Tàu, họ thể nghiệm được nhiều huyền cơ giúp thân tâm an lạc, điềm đạm.
Tôi bắt nhớ hoài hình ảnh bà nội tôi trong một lần xin xăm ở Chùa Ông bên Cù Lao Phố. Khi đó, nhà chỉ còn nội và tôi, có hai ông chú sống chung thì đều bị bắt cải tạo. Một hôm, vào đầu mùa mưa, nội đón xích lô để hai bà cháu đi xin xăm: của cải đồ dùng trong nhà, tivi, máy hát đĩa, rồi cả bộ ván gõ, tủ thờ cũng lần lượt theo nhau ra chợ trời. Bà nội gần như kiệt sức vì gánh mưu sinh và nỗi thương nhớ hai chú, bà muốn xin xăm để biết bao giờ mấy chú được tha về.
Tiếng chuông mõ khoan thai điểm nhịp hòa theo tiếng lóc xóc của ống xăm, nội tôi an nhiên thư thả lắc đều đều. Chừng xin được thì lại là lá xăm “Hạ hạ” xấu nhất, cho biết tương lai còn mờ mịt lắm, hai chú chưa biết chừng nào mới về được. Tôi những tưởng nội sẽ gục xuống vì thất vọng, nhưng bà lại điềm tĩnh mỉm cười trấn an tôi: “Không sao, vậy cũng được!” Với bà, xin xăm không chỉ để cầu lời dự đoán tiên tri, mà chính là một dịp được giao tiếp với thần linh, qua đó được tiếp sức để đi tới, vô cầu vô oán.
“Tập tục” cần gìn giữ?
Cách mạng văn hóa do Mao Trạch Đông phát động đã gần như xóa sạch văn hóa ngàn đời của Trung Hoa. Chùa chiền, đạo quán ở đại lục bị đập phá tan tành, tượng thần bị kéo sập cho rụng đầu gãy tay, kinh sách bị thiêu hủy hầu như tuyệt diệt thất truyền, những lá xăm linh thiêng cũng thành đối tượng cần đấu tranh tiêu diệt. 10 năm Văn cách là một trường ác mộng, mãi đến chừng Đông tắt thở, người dân đại lục mới được thở phào nhẹ nhõm biết mình còn sống.
Phải qua đến thập niên 90 thế kỷ trước, sau cuộc chiến tranh Trung-Việt, Trung Nam Hải mới cho phục hồi tái thiết nền văn hóa cổ truyền. Nhưng huyết mạch đã đứt đoạn, nguyên khí văn minh học thuật đã thành tàn lụi, cái được dựng lại chỉ là bản sao mờ nhạt nhiều khiếm khuyết. Những bản khắc in xăm còn lại đều chẳng vẹn toàn, các xăm đa phần thất lạc, được chép lại theo trí nhớ; đã vậy, chúng được in lại theo lối giản thể do Trung cộng bày ra, chữ nghĩa đều bị biến dạng, một trong những phương pháp quan trọng để giải xăm là cách chiết tự đã không còn thể vận dụng để giải đoán các xăm mới này; và chủ yếu là thơ xăm bị kiểm duyệt cải sửa thêm thắt cắt xén để khỏi có tư tưởng đi ngược với chủ trương của đảng.
Ở đại lục đã vậy, ở xứ ta thì “văn hóa xin xăm” lại càng tệ lậu bội phần. Chùa miếu chính là những công trình được “xã hội hóa” thành công nhất của chế độ, đó không còn là chỗ thanh lọc, di dưỡng tâm hồn, mà biến thành nơi khai thác lợi nhuận. Việc xin xăm cúng bái nhang đèn trong chùa đều được đấu thầu; hòm công đức được phát minh, đặt chễm chệ nơi chánh điện như đấm vào mặt khách thập phương, và thường xuyên có nguy cơ bị kẻ gian moi móc xén bớt công quả; những lá xăm nhỏ bằng bàn tay, lời lẽ ngây ngô xàm xí, được bán với giá 5, 10 ngàn, kèm theo đó là những dịch vụ giải hạn trừ căn dành cho những người bị nhằm xăm xấu. Và đến gieo quẻ âm dương như thằng cha Năm Tuấn xã tôi, khi xin kèo bóng đá C1 cứ tung đôi dép nhựa hàng chục lần cho đến khi “thần ý” phán đoán kết quả khớp với dự đoán của y mới thôi. Thần thánh phải chìu theo sở thích và dục vọng của con người; và giới hữu trách cũng như các nhà nghiên cứu văn hóa thì cứ lớn tiếng bảo rằng xin xăm là một tập tục cổ truyền của người Việt, cần phải giữ gìn!
Giải pháp
Ngoại trừ số ít chùa chiền trong Nam còn giữ được nét đẹp của văn hóa xin xăm (như Lăng Ông Bà Chiểu Sài Gòn, Chùa Ông Cù lao Phố Biên Hòa…), còn thì đều là những thứ bát nháo thần chẳng ra thần ma chẳng ra ma.
Thiết nghĩ, cần phải quét sạch những thứ xăm nhảm nhí ta bà trên khắp tổ quốc thương yêu của chúng ta. Bên cạnh đó, cần thiết lập loại xăm mới phục vụ cho mục đích tuyên truyền. Các đền chùa ngày nay đều có đặt tượng Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp cạnh thiên binh thần tướng, vậy sao chúng ta không trứ tác ra loại xăm mới, kêu bằng “Lãnh tụ linh sám”, “Đại tướng thần sám”? Chất liệu để sáng tác những thơ xăm sẽ là những điển tích trích dẫn từ cuộc đời và sự nghiệp của hai vị Minh và Giáp, qua đó tư tưởng cách mạng cũng như trình độ lý luận của toàn đảng toàn quân toàn dân sẽ được nâng cao. Còn chờ gì nữa? Muốn có chùa chiền chủ nghĩa xã hội thì cần phải có những lá xăm xã hội chủ nghĩa thôi, nam mô!
_______
(*) Có thuyết cho rằng con số 100 đó là do sự kết hợp của bát quái và lục hào mà ra:
(8 × 8) + (6 × 6) = 100
Advertisements
https://uphinhnhanh.com/images/2017/08/25/x1.jpg
https://levinhhuy.files.wordpress.com/2016/03/x2.jpg
https://issuu.com/ngoquanghoang/docs..._xin_x__m.docx
-
-
Đến miếu xin số đề
Dưới ánh sáng lù mù, men theo con đường đất, dòng người nối đuôi nhau, khệ nệ xách những bao giấy tiền vàng bạc, trứng gà, hũ xăm từng bước tiến vào miếu ông Hổ ở quận 8, TP HCM. Họ đến để xin số đề.
Khu miếu thờ.
Khu miếu thờ.
Khu miếu nằm trên một mô đất cao, rộng rãi, nền được lát gạch tàu hẳn hoi, phía trên có hẳn một khung mái che sắt được dựng rất bài bản. Miếu chính điện là nơi thờ cúng Mẫu mẹ nằm dưới tán một cây đa khổng lồ. Ở đấy cũng đặt miếu thờ cô Chín. Bên tả là miếu ông Hổ cùng hai am thờ bài vị của cậu Hai, cô Ba.
Trong đó đã có mười mấy người đang dâng hương, hành lễ cầu khấn, tổng cộng cũng gần bốn, năm chục người. Bà chủ đò bấm tay, cho hay: "Hôm nay 28 cúng Mẫu mẹ nên linh lắm, mấy cô mấy cậu dễ về. Trước đây hễ mùng 1, 14, 16 mỗi đêm có đến vài trăm người đến cúng lận".
Nhóm thanh niên từ Vĩnh Long mới lên, lom khom chui vào trong miếu chính đốt nhang, rồi đem cắm đều vào những lư hương xung quanh trong tiếng chuông vang vọng.
Bà chủ đò kể: "Cô, cậu là hai anh em ruột, vì chuyện gia đình mà cùng quyên sinh, được đưa về đây an nghỉ. Nhiều người nghe tội nghiệp, thắp nhang không ngờ được phù hộ, linh lắm, xin số nào là trúng số đó". Hành lễ phía trước xong, đoàn người dò dẫm theo con đường đất tiến ra những ngôi mộ nằm lạnh lẽo phía sau. Đây chính mộ phần của cậu Hai, cô Ba mà bà chủ đò vừa nói; xung quanh đấy, nhiều hũ cốt không biết của ai nằm trơ trọi giữa cánh đồng hoang.
Cắm xong mấy cây nhang lên ngôi mộ, Tài, đi cùng nhóm Vĩnh Long nói: "Mấy ông cảm thấy hợp với ai thì đến mà xin, khấn tên tuổi, ngày giờ, đài nào xổ, đánh mấy con thì xin mấy con, hai con, ba con rồi thành tâm cúng".
Khu vực xin số bằng trứng gà.
Khu vực xin số bằng trứng gà.
Nhóm Tài không xin trứng gà, không xin xăm cũng không đốt giấy mà ngồi đồng, gọi cô cậu nhập xác để xin số. Tài kể lúc trước cũng hay xin theo kiểu "trứng gà" nhưng không tin lắm, trứng gà sống đặt dựng đứng lên mấy ô số vẽ bằng phấn, trứng đứng được ở ô nào thì cô cậu cho số đó. Nhóm của Tài chỉ xin số ở ngoài mộ. "Càng gần người chết càng linh!", Tài đúc kết kinh nghiệm.
Bửu bối mà nhóm Tài trải ra là một "bàn cờ" có 30 chữ cái, 10 con số, 4 ô chữ Ma, Quỷ, Thánh, Thần, hai bên Tả, Hữu. Cả nhóm ngồi vòng tròn, Tài khều nhỏ: "Ông còn con trai không, vào ngồi cúng mới dễ lên. Ngồi đồng cầu hồn kiểu này chỉ những ai thân thể trong trắng thì cô, cậu mới dễ nhập xác". Tài quay sang bảo Huy vào giữa đội trên đầu miếng vải đỏ đốt 3 cây nhang miệng lẩm bẩm khấn rồi ngồi gật gù chờ đợi. Ngồi gần 10 phút, không được ai nhập, Tài lại đổi người.
Quay trở vào trong "học hỏi" những cách xin số lạ thường khác. Có một nhóm chừng mười người phụ nữ sồn sồn nghe đâu ở quận 1 đang rất thành tâm quây quần dưới gốc đa trước miếu cô Chín. Người phụ nữ tên Mai đại diện cả nhóm khấn vái một hồi rồi xé một miếng giấy nhỏ thấm nhẹ vào bình rượu. Sau đó, Mai dán miếng giấy lên ngôi miếu cô Chín, ít phút sau Mai gỡ xuống dùng quẹt lửa hơ nhẹ miếng giấy.
Tờ giấy ngả màu, xuất hiện những vằn đen, vàng lộn xộn. Mai quay lại bảo: "Số 2, cô Chín cho số 2!". Nhóm người chụm đầu vào, săm soi, một phụ nữ buột miệng: "Nhìn giống số 6 hơn, không phải số 2 đâu". Không biết cô Chín linh thiêng ban cho nhóm người ấy số 2, số 6, hay là số 3, số 8? Bởi lẽ do hơ nóng không đều nên tờ giấy xuất hiện vô số những lằn ngang dọc. Nếu "cô Chín" có thật, có lẽ cô cũng chưa chắc biết là con số mấy!
Quay sang miếu ông Hổ thì được ông Uăt, người coi miếu ở đây chỉ dẫn cách xin số bằng trứng gà. Sau khi đốt nhang, lấy ra 3 quả trứng mang theo rồi lần lượt dựng đứng trứng vào các ô số từ 0 đến 9 được vẽ bằng phấn trên một tấm đan bê tông. Theo hướng dẫn của ông Uăt, nếu trứng đứng ở ô nào là ông Hổ "cho" số ấy. Dựng từ số 0 đến số 3 quả trứng cứ ngã tới ngã lui, bất ngờ đến ô số 4 nó đứng thẳng thật, cố tình chạm vào quả trứng vẫn không ngã. Tiếp tục dựng quả thứ hai đứng được ở ô thứ 7. Ông Uăt bảo: "Mấy cậu hợp, mới dựng đã đứng, có người dựng cả giờ còn không được. Đánh số nào thì bốc trứng đó lên rồi đập vỡ ra".
Ở một góc khác, lại có nhóm xin số bằng hũ xăm của chủ đò cho mượn (được đánh từ số 0 đến 99), xin được cây xăm nào rồi ghép nó lại mà đi đánh. Trong đêm khuya mà miếu nào cũng có nhiều đám đông tụ tập, người hợp chỗ này, người thích chỗ kia. Mỗi chỗ các cô các cậu đều "cho" những con số khác nhau.
Vừa định rút lui thì bất thần có tiếng la: "Cô Chín về, cô Chín về" của gã nhà đò. Tất cả mọi người chạy ra phía trước và thấy bà Mai đang nhảy múa bù lu bù loa. Vừa nhảy Mai vừa la hét: "Cô Chín về muộn vì hôm nay lễ thánh Mẫu. Kia kìa âm binh đứng đầy trên cây kìa, đòi bắt cô Chín đó".
Vài phút sau, bất ngờ Mai ngã quỵ xuống đất: "Cô Chín mượn cái xác này xấu quá, mấy con làm đẹp cho cô Chín đi", Mai yêu cầu. Nói thêm dăm ba câu thì Mai bình thường trở lại. Tiếp đó, một phụ nữ khác cũng "bị nhập" rồi bằng thứ giọng eo éo của một đứa trẻ, người phụ nữ này tự xưng là Vũ Sinh, chết oan, và khuyên cả đám đông: "Đừng nghe theo cô Chín nha!".
Gần 2 giờ sáng mà cả khu vực vẫn còn nhộn nhịp, nhang khói đầy trời. Nhóm người Vĩnh Long ra về khi trời bắt đầu mưa, con đò quay đầu ra chòng chành muốn lật. "Trước đây, mỗi đêm nơi này có đến hàng trăm lượt khách từ khắp nơi như Bình Trị Đông (quận Bình Tân); Bến Bình Đông (quận 8), quận 7, thậm chí tận Bến Tre, Vĩnh Long cũng đổ về", ông chủ đò nói. Rồi như để "tiếp thị" thêm cho công việc đưa khách của mình phát đạt, ông nhận xét: "Ở đây linh lắm, bất kể giờ nào cũng có khách đến xin, trừ duy nhất lúc xổ số. Bến đò hoạt động 24/24 giờ".
Lần khác, khi viện cớ đi trả lễ, nghe bà chủ đò kể: "Mấy em trúng vậy là ít, miếu này sạch sẽ và tươm tất vậy là nhờ một ông chủ áo cưới trên đường Trần Hưng Đạo đấy. Có lần ổng xin số về đánh trúng mấy tỷ nên quay lại sửa sang, thỉnh tượng Phật bà về thờ".
Cứ mỗi lần hành hương đến đây, những người đi xin số đều không phải hao tốn thứ gì ngoài thời gian và chút đỉnh lễ vật. Món tiền duy nhất mà những "ma đề" phải bỏ ra là 10.000 đồng/người, chi cho việc đi đò, giữ xe.
Ngày trước khu vực này luôn đông khách bến đò thi nhau đưa rước, nay lượng khách tuy có san sẻ bớt cho những khu vực khác, nhưng 24/24 trừ giờ xổ số thì các bến đò cứ luôn tấp nập người ra kẻ vào. Mỗi lượt một chiếc đò chở được hơn chục người, mỗi ngày, theo lời ông chủ đò, sơ sơ cũng hơn trăm khách thập phương tìm đến. Đó chính là nguồn lợi duy nhất để những ông bà chủ đò ở đây tồn tại.
(Theo Thanh Niên)
http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su...e-1965415.html
-
-
-
Miếu bà Thiên Hậu - di sản văn hóa tín ngưỡng dân gian tiêu biểu của người Hoa ở Long An
Miếu bà Thiên Hậu ở thị trấn Thủ Thừa được xem là di sản văn hóa vật thể và phi vật thể tiêu biểu của tín ngưỡng thờ bà Thiên Hậu của văn hóa Hoa ở Long An.
Miếu đề tên bằng chữ Hán Thiên Hậu Miếu nhưng người Việt vẫn quen gọi là chùa Bà
Tại huyện Thủ Thừa có một ngôi Miếu Thiên Hậu khá cổ kính mà dân gian gọi là Chùa Bà, tọa lạc tại số 25, đường Trương Công Định, thị trấn Thủ Thừa, mặt tiền miếu quay ra hướng kênh Thủ Thừa.
Người Hoa đến vùng Nam bộ nói chung và Long An nói riêng với hành trang văn hóa phát triển phong phú, đa dạng và đặc sắc, trong đó, có yếu tố văn hóa tâm linh - tín ngưỡng. Họ xây dựng các công trình tín ngưỡng như miếu thờ Thiên Hậu, miếu thờ Quan Công, Ông Bổn,… làm cho đời sống tâm linh thêm phong phú, viên mãn, vừa thiêng liêng, huyền ảo, vừa gắn với đời sống nhân sinh của con người.
Các giá trị văn hóa ấy thể hiện những đặc điểm riêng của người Hoa, hòa nhập với các cộng đồng khác, góp phần làm nên diện mạo văn hóa đặc thù của vùng đất Nam bộ cộng cư và dung hợp đa văn hóa.
Nhìn trên bình đồ, miếu gồm 3 dãy nhà kiểu tứ trụ nối tiếp nhau hình chữ Tam ㈢, từ trong ra ngoài gồm: Hậu điện, chính điện và tiền điện. Hai bên kiến trúc chính là 2 dãy Đông Lang và Tây Lang dùng để làm cơ sở dạy học tiếng Hoa, nơi tiếp khách và các hoạt động sinh hoạt khác. Tổng diện tích phần kiến trúc khoảng 500m2.
Thông tin từ các dòng lạc khoản ghi trên câu đối cho biết kiến trúc hiện trạng và hệ thống tượng thờ, bài vị, câu đối, hoành phi, bình phong, các chi tiết trang trí ở nóc mái, mặt tiền miếu, trống, chuông, thuyền gỗ,… có niên đại Quang Tư, năm Kỷ Hợi (1899). Các chi tiết trang trí mặt tiền miếu và mặt sau miếu đặc trưng văn hóa Hoa: Tượng gốm ông Nhật bà Nguyệt, Lưỡng Long Tranh Châu,… Năm 1996, miếu được trùng tu, nâng cấp phần nâng nền, lát gạch nền và thay ngói.
Cấu trúc bài trí thờ tự từ trong hậu điện nhìn ra ngoài: Hậu điện: Giữa là khám thờ Bà Thiên Hậu (tượng đá); Bài vị: “Sắc phong hộ quốc bĩ dân Thiên Thái Hậu nguyên quân”; Tượng hộ pháp (tượng đá, 2 tượng), tượng ngựa (tượng đá, 2 tượng), thuyền gỗ. Bên trái: Khám thờ Huệ Phúc Phu Nhân (tượng đá), bài vị: “Sắc tứ Kim Hoa phổ chủ Huệ Phúc Phu Nhân”.
Bên phải là khám thờ Long Mẫu Nương Nương (tượng đá), bài vị: “Sắc phong hộ quốc thông thiên huệ tế hiển đức Long Mẫu Nương Nương”. Vách phải là Thần Tài (viết bằng chữ Hán). Vách trái là Long Thần (viết bằng chữ Hán). Chánh điện còn đặt chiêng, trống và bàn lễ vật. Hai bên vách trang trí (đắp nổi) nói về sự tích Bà Thiên Hậu.
Ở chính điện có bình phong (gỗ) chữ Phúc; Hoành phi “Phúc Âm Sinh Dân”; 2 cặp đối liễng; 2 vách là bình phong (đắp nổi) Long Lân Qui Phụng. Tiền điện: Hoành phi “Mẫu Đức Cao Thâm” phía trên. Vách phải là khám thờ Phúc Đức Long Thần (tượng đá). Vách trái là khám thờ Môn Quan Gia Gia (tượng đá). Vách giữa là bình phong (đắp nổi) sự tích Thiên Hậu.
Trang trí tiểu tượng ở mặt tiền và nóc mái Miếu bằng gốm tráng men xanh được sản xuất ở lò gốm Cây Mai (Chợ Lớn) đặc trưng văn hóa Hoa
Về sinh hoạt tín ngưỡng, văn hóa, lễ hội vía Bà diễn ra vào ngày 22, 23 tháng 3 (âm lịch) hàng năm, thu hút đông đảo lượng khách tham quan, hành hương từ TP.HCM và ở địa phương. Từ ngày 19 đến 21 tháng 3, sư thầy chùa Long Vĩnh (thị trấn Thủ Thừa) đến tụng kinh cầu an. Đêm 22, sư cô tụng kinh bằng tiếng Hoa. Mỗi vị thần đều có riêng một bộ đồ mã bằng giấy. 6 giờ sáng ngày 23 thực hiện nghi thức đốt đồ mã là lễ tất, kết thúc lễ hội. Hằng năm, trong lễ hội có rước Đoàn ca múa nhạc Hoa Sen (của người Hoa, quận 5, TP.HCM) về phục vụ.
Về tổ chức tự quản, Ban quản trị gồm 11 người, do ông Hán Cao Sơn làm Trưởng ban. Thiết chế khác có liên quan là Nghĩa trang Minh Trí (dành cho người Hoa) và cơ sở dạy tiếng Hoa (Minh Trí) đặt tại miếu.
Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu có vai trò quan trọng trong đời sống của cộng đồng người Hoa ở Nam bộ, vì vậy, miếu Thiên Hậu được coi là “ngôi nhà chung” nên thường được xây dựng quy mô, trang trí công phu. Ở đó, quan niệm về thế giới quan, nhân sinh quan, về đạo đức, lối sống con người của người Hoa được thể hiện sâu sắc, đồng thời cũng cho thấy cách thức người Hoa bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình cộng cư, giao lưu, tiếp biến văn hóa với các tộc người khác tại quê hương thứ hai.
Truyền thuyết về Thiên Hậu trong văn hóa dân gian người Hoa có nhiều điểm dị biệt nhưng tựu trung bà sinh năm 960, đời Tống trong một gia đình họ Lâm ở huyện Bồ Điền, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, năm 27 tuổi giã từ cõi đời và hiển linh, đời Nguyên được phong Thiên Phi, đời Khang Hy nhà Thanh phong là Thiên Hậu tồn tại đến nay.
Từ truyền thuyết chuyển hóa thành tín ngưỡng dân gian, cộng đồng người Hoa đề cao, ngưỡng mộ và tôn thờ Nữ thần Thiên Hậu nhằm thông qua tam gương đức hạnh, hiếu thảo và xả thân cứu người của bà để giáo dục cộng đồng.
Mặt khác, bà được xem như vị thần biển nên trên con đường vượt trùng dương đầy gian truân và hiểm nguy đi về phía Nam đến vùng đất Nam bộ do những biến cố lịch sử ở Trung Hoa thời cuối Minh đầu Thanh, họ luôn cầu nguyện bà giúp đỡ, phù hộ. Khi đến định cư, ổn định đời sống trên vùng đất Nam bộ, họ lập miếu để thờ, tỏ lòng biết ơn sâu sắc.
Trải qua bao thăng trầm lịch sử cộng cư với người Việt, tín ngưỡng thờ bà Thiên Hậu không những giữ vai trò hết sức quan trọng trong đời sống văn hóa - tâm linh của người Hoa trên quê hương thứ 2 của họ mà miếu Thiên Hậu và lễ hội ở đây còn là điểm đến của người Việt với lòng thành kính, chân thành bởi tính tương đồng, gần gũi về văn hóa; từ đó, hình thành nên sự giao thoa, tiếp biến văn hóa, làm nên tính cộng đồng Hoa Việt trong lịch sử khai mở đất phương Nam.
Là cơ sở tín ngưỡng dân gian đẹp nhất của văn hóa Hoa còn lại ở Long An, miếu bà Thiên Hậu Thủ Thừa thể hiện tất cả những ý nghĩa trên, biểu hiện ở dấu ấn về niên đại, kiến trúc vật thể, sinh hoạt tín ngưỡng - văn hóa đặc thù, hệ thống hiện vật, vật thờ, các mô típ trang trí trên kiến trúc, các thiết chế có liên quan… đặc trưng văn hóa Hoa, phản ánh lịch sử định cư và cộng cư của cộng đồng người Hoa trên đất Long An trong lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất Nam bộ, xứng đáng được nghiên cứu, lập hồ sơ xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa./.
Nguyễn Tấn Quốc
Chia sẻ bài viết
http://baolongan.vn/mieu-ba-thien-ha...an-a12510.html
http://image.baolongan.vn/news/2016/...Untitled-1.jpg
-
Người Việt gốc Hoa ở Los Angeles tổ chức Lễ Vía Bà Thiên Hậu
Lâm Hoài Thạch/Người Việt
April 22, 2017
Bàn thờ Bà Thiên Hậu. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)
LOS ANGELES, California (NV) – Trưa Thứ Tư, 19 Tháng Tư, nhằm ngày 23 Tháng Ba Âm Lịch, đông đảo đồng hương người Việt gốc Hoa và nhiều sắc dân khác đến dự Lễ Vía Bà Thiên Hậu, do Hội Đồng Hương Cà Mau, Los Angeles, trang trọng tổ chức tại chùa Bà Thiên Hậu.
Ông Phương Đạt Vĩnh, hội trưởng Hội Đồng Hương Cà Mau, Los Angeles, trụ trì chùa, cho biết, “Hôm nay đúng là ngày sinh nhật của Bà Thiên Hậu. Hàng năm, vào ngày này, hội có tổ chức ngày vía của bà để nhớ đến bà, hơn 1,000 năm trước, hy sinh cứu những ngư dân sống bằng nghề biển và những ai kém may mắn khi đi trên biển. Khi mất, bà chỉ có 28 tuổi. Những người dân vì nhớ ơn bà nên mới lập đền thờ bà.”
Cũng theo ông hội trưởng, Bà Thiên Hậu quê đảo My Châu, tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa. Chùa luôn tổ chức ngày vía của bà đúng vào ngày sinh nhật của bà, tuy không trùng hợp vào những ngày cuối tuần, nhưng các cư dân tại đây và nhiều nơi khác đều đến tham dự đông đảo hàng năm. Và vì thời gian không cho phép, nên cũng có rất nhiều người đến cúng trước hoặc sau ngày vía chánh của bà.
“Chùa này được thành lập từ năm 1990, từ đó cho đến bây giờ, mỗi năm đều có tổ chức ngày vía của bà. Tượng của bà được hội thỉnh từ quê hương Cà Mau. Tại vì ở Cà Mau cũng có lập chùa Bà Thiên Hậu đã hơn 170 năm, và hàng năm cũng đều có tổ chức ngày vía của bà rất trang trọng. Vì ngưỡng mộ sự linh ứng của bà, trước khi ra biển, rất nhiều người đến nơi thờ bà để cầu nguyện bà được bình an khi ra khơi cũng như lúc trở về,” ông hội trưởng cho biết thêm.
Từ trái, ông James Phạm (giám sát trưởng), ông Phương Đạt Vĩnh (hội trưởng), và ông Trần Đức Khánh (cựu hội trưởng). (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)
Từ trái, ông James Phạm (giám sát trưởng), ông Phương Đạt Vĩnh (hội trưởng), và ông Trần Đức Khánh (cựu hội trưởng). (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)
Chương được khai mạc lúc 11 giờ trưa. Đại diện ban tổ chức gồm có các ông Phương Đạt Vĩnh (hội trưởng), Trần Đức Khánh (cựu hội trưởng), và James Phạm (giám sát trưởng) cùng đến bàn thờ bà thắp ba cây hương thật to khấn vái. Mọi người đến tham dự cũng niệm hương khấn vái.
Tiếp theo là Lễ Bàn Ông Thiên, Lễ Phật Quan Âm, Lễ Phật Địa Tạng, Lễ Thần Quan Công, Lễ Thần Phước Đức, Lễ Thần Thái Tuế, và Lễ Cúng Oan Hồn.
Sau đó, đoàn lân Wong Tai Sen múa cúng dường Bà Thiên Hậu, các vị Phật, và thần linh. Sau đó ban tổ chức mời mọi người dùng buổi cơm trưa cơm miễn phí.
Trong số những người phương xa đến tham dự, đặc biệt có một chiếc xe buýt đưa phái đoàn từ Little Saigon đến.
“Hàng năm, theo truyền thống của chùa Bà Thiên Hậu, đồng hương của mình ai đã biết lịch sử của bà thì họ thường về đây để tham dự ngày tổ chức vía bà. Tôi hân hạnh được ban tổ chức giao phó hướng dẫn một phái đoàn người Việt từ Orange County lên dự ngày lễ này,” nghệ sĩ Triệu Mỹ Ngân cho biết.
Cô cho biết thêm, “Được biết, có rất nhiều đồng hương của mình ở trong nước cũng như hải ngoại đã tín ngưỡng những vị thần linh; những vị thánh mà họ tôn thờ và xem họ như những vị cứu tinh cho cuộc sống cũng như công việc làm ăn về mặt tâm linh, Bà Thiên Hậu cũng là một trong những vị ấy, nhất là những vùng sống bằng nghề biển tại quê nhà, gần như tỉnh nào cũng có chùa để thờ phượng vị thánh mẫu Thiên Hậu. Hôm nay, đoàn hành hương này được xuất phát vào lúc 7 giờ sáng từ chùa Bát Nhã, Santa Ana, với sự đồng ý của Hòa Thượng Thích Nguyên Trí, viện chủ chùa.”
Theo cô Triệu Mỹ Ngân, bá tánh đến đây hôm nay, ngoài vấn đề nhờ bà phù hộ cho công việc làm ăn và sức khỏe, còn được xin xăm để xem vận mạng, tài lộc, trong năm, và còn được mượn tiền của bà. Tiền này là chỉ 1 đồng mà thôi, vì đây là tiền tượng trưng vay mượn công đức của bà để được may mắn trong vấn đề làm ăn.
Đông đảo cư dân đến tham dự Lễ Vía Bà Thiên Hậu. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)
Đông đảo cư dân đến tham dự Lễ Vía Bà Thiên Hậu. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)
Bà Như Hảo, giám đốc đài phát thanh Mẹ Việt Nam, Little Saigon, chia sẻ, “Được biết danh của bà từ lâu, hôm nay, tôi mới có cơ hội tháp tùng cùng phái đoàn người Việt từ Orange County đến tham dự lần đầu tiên ngày vía Bà Thiên Hậu. Đối với Như Hảo, đây là vấn đề tâm linh, và khi thấy rất nhiều người đến đây tham dự lễ vía thì mình cũng biết được sự linh thiêng của bà đối với nhân gian như thế nào. Theo tôi, còn người sống không phải sự ăn uống là cần thiết để có sức khỏe làm việc, mà còn phải có niềm tin về tâm linh, cũng quan trọng trong đời sống cần thiết của con người.”
Ông Lý Vĩnh Phong, cư dân Los Angeles, chia sẻ với nhật báo Người Việt, “Hàng tuần, gia đình chúng tôi thường xuyên đến thắp hương bà. Chùa này rất gần gũi đối với đồng hương người Việt gốc Hoa, nhất là đồng hương Cà Mau. Lúc ở trong nước cũng có đền thờ bà rất nhiều nơi, vì bà là một vị thánh mẫu được rất nhiều người Á Châu tin và tôn thờ, do bà đã phù hộ cho những ngư dân, cũng như những người sống bằng phương tiện chuyên chở bằng đường thủy trên biển cả.”
Theo ban điều hành chùa cho biết, ban trai soạn của chùa gồm những tình nguyện viên đến làm việc, có người đến từ Los Angeles, và cũng có một số người Việt từ vùng Little Saigon và nhiều nơi khác. Cứ mỗi Chủ Nhật, họ đều đến chùa để nấu những món ăn chay để cúng bà, đồng thời thết đãi cư dân đến ăn miễn phí.
Trong lúc mọi người dùng cơm, có chương trình văn nghệ hát cải lương của người Hoa và người Việt, do ban văn nghệ Đông Phương Văn Hóa Tiều Châu và ban cải lương của hai nghệ sĩ Ngân Linh và Hồng Phượng, trình diễn trích đoạn vở “Đường Về San Hậu.”
https://www.nguoi-viet.com/little-sa...o-los-angeles/
-