https://vi.scribd.com/document/23539...olden-Ganapati
http://call999.com/cgi-bin/cblook.pl...friend=&fpass=
http://www.doczj.com/doc/fc7ae248cf84b9d528ea7a60.html
唵嚩素驮隶娑嚩贺. Om wa su tuo li svaha
Printable View
Quan Công đốn ngộ
Chia sẻ
nguoiphattu.com - Ngủ Tổ nói, “Người kiến tánh ngay lời nói phải thấy, nếu như người này dù khi múa đao giữa trận cũng thấy được tánh.”
Cơn mộng của Lương Gia và Nho Giáo chỉ là mộng chứ chưa phải là huyễn, hãy lắng nghe và quán bài kệ thâm diệu Lục Như trong Kinh Kim Cang dịch bởi Pháp Sư Cưu Ma La Thập.
Phật nói trong kinh Kim Cang rằng:
Nhất thiết hữu vi pháp,
Như mộng, huyễn, bào, ảnh,
Như lộ diệc như điện,
Ưng tác như thị quán.
Dịch là
Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng, như huyễn, như bọt, như bóng
Như sương, như điện chớp,
Nên quán tưởng như thế.
Cõi mộng trong bài kệ Lục Như trên là cõi-đời-mộng dưới sự quán chiếu của bậc đại giác, đại tuệ. Các Bồ Tát đạt đến cảnh giới đó bằng cách dùng như huyễn tam muội quán chiếu thế gian bằng Diệu Quán Sát Trí, bằng nội lực của thiền quán và còn đạt đến trình độ thâm huyền hơn nữa, vì quán chiếu thế gian như là huyễn mộng, sắc sắc, không không để đạt được trạng thái an lạc tâm linh.
Trong Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa có một đoạn Quan Công hiển thánh có thể được xem như là phần minh họa cho cảnh giới được mô tả trong kinh Lăng Già, theo tinh thần của bài kệ Lục Như.
Sau khi thất thủ Kinh Châu, Quan Vân Trường bị Quân Đông Ngô phục kích, bị tử trận và ngài đã vi thần. Theo tương truyền thì linh hồn Quan Công, cởi ngựa Xích Thố, tã hữu có Quan Bình và Châu Thương, đêm đêm bay phiêu diêu khắp nơi, kêu gào, “Trả đầu cho ta,” tiếng kêu như sấm rền khiến bá tánh thảy điều kinh hồn động phách. Khi đến núi Ngọc Tuyền nơi Ngài đã có duyên gặp gỡ lúc trước, Sư Phổ Tĩnh nghe và biết (quán và kiến) tiếng kêu trên không, liền bước ra khỏi am, cầm cây phất trần gõ vào cửa chùa mà hỏi “Vân Trường an tại?” Câu hỏi đơn giản đó lại giống tiếng hét của Lâm Tế, cây gậy của Đức Sơn, khiến hồn ngài sực tỉnh, liền hạ mã xuống trước am để nghe thuyết pháp và quy y cửa Phật. Câu này thường được dịch là “Vân Trường ở đâu?” mà lẽ ra nên hiểu là “Vân Trường có chăng?” nghĩa là “Vân Trường có thực sự tồn tại chăng?” mới đúng tinh thần của Sư Phổ Tĩnh muốn điểm hóa cho vị danh tướng huyền thoại này.
Thật ra câu chuyện không đơn giản như vậy, sau khi nghe Quan Công từ lưng trời đòi “Trả đầu cho ta.” Thì Sư Phổ Tĩnh gọi, “Vân Trường ngươi ở đâu?” Quan Vân Trường, “Sư phụ ơi, ta đi khắp nơi kiếm cái thủ cấp mình mà không thấy. Xin sư phụ chỉ đường cho.” Sư Phổ Tĩnh , “Lúc trước Tướng Quân chém biết bao nhiêu thủ cấp; có ai đòi lại đâu mà bây giờ lại đi đòi cái thủ cấp của mình?” Vì câu hỏi đó mà Quan Công đã tức khắc Giác thành Thần, và sau đó tu và Ngộ thành Thánh? Phàm phu tin đồn như vậy!
Nhà phê bình Mao Tôn Cương cho rằng chỉ một câu đó của Sư Phổ Tĩnh cũng bao hàm cả diệu nghĩa của cuốn kinh Kim Cương. Nhận xét đó quả vô cùng sâu sắc. Chính tại sát na thù thắng mà vị danh tướng đó nhận ra diệu nghĩa của chữ Mộng, chữ Không, và tạo được sự chuyển ý trong tâm thức. Lúc đó, ắt hẳn anh hồn Vân Trường hoang mang trước cảnh tượng tất cả đều đột nhiên biến mất, cũng hoang mang trước câu hỏi, “Vân Trường an tại?” Đó là một công án giúp Quan Công hoát nhiên đốn ngộ - “Quan Công anh hồn đốn ngộ.” Chuyện thành bại thị phi đáo cùng cũng chỉ là hư không mộng ảo. Kinh Châu chỉ là mộng. Thục cũng chỉ là mộng. Ngụy hay Ngô cũng chỉ là mộng. Tham vọng tranh bá đồ vương cũng chỉ là mộng. Mà cả đến bản thân của Vân Trường cũng là mộng nốt. Vân Trường an tại? Có nghĩa là “Nhất thiết Ngụy Ngô Thục, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán.” Bởi vậy, sau khi nghe Sư Phổ Tĩnh thuyết pháp, Quan Công mới đại ngộ rồi cúi đầu làm lễ quy y mà đi - “mang nhiên đại ngộ, khể thủ quy y nhi khứ” (Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, hồi 77.)
Ngủ Tổ nói, “Người kiến tánh ngay lời nói phải thấy, nếu như người này dù khi múa đao giữa trận cũng thấy được tánh.” Quan Vân Trường lúc còn là tướng Thục Hán giữa trận múa đao chém tướng, công thành, vạn cốt khô. Vì chưa quy theo Phật Pháp cho nên chưa kiến tánh, cho đến khi chết, hồn phiêu du vô định không biết chỗ nào mà trụ, mà đi. Cho đến khi được Sư Phỗ Tĩnh khai ngộ, thuyết pháp, mới đốn ngộ quy y tam bão.
Thật ra Quan Công đã có duyên phận với Sư Phỗ Tĩnh từ trước. Quan Công cũng đã sẳn có căn tu từ tiền kiếp, dù trong kiếp này làm tướng, theo phò Lưu Bị, xông pha trận mạc, công thành, chém giết không chùn tay nhưng chưa kiến tánh giữa trận tiền. Sau khi tử trận, hồn lìa khỏi xác và nhất là khi nghe câu: Vân Trường ngã sở ở đâu, trụ ở đâu, an tại đâu? Ngài đột nhiên đốn ngộ, mới quán được Vân Trường là không (vô ngã, no-self,) ưng vô sở, an vô trụ. Trã đầu cho Ta (self) mà Ta không có (no-self,) thân ngũ uẩn giai không, thì đầu có không? Trong sátna đó, Quan Công đốn ngộ được câu“độ nhất thiết khổ ách”chêm vào trong Bát Nhã Tâm Kinh của Đường Tam Tạng.
Trong Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, đoạn văn tả lại cảnh trên chỉ ngắn ngủi có vài dòng nhưng đó mới chính là chỗ mà ngọn bút của La Quán Trung đã đạt đến mức “đăng phong tháo cực, lô hỏa thuần thanh,” giúp người đọc liên hệ đến bài kệ Lục Như.
Quan công hiển thánh ở núi Ngọc Tuyền
Trong lịch sử nhân loại, có nhửng anh hùng vô danh đã vị quốc vong thân hay những tướng quân, ‘sinh vi tướng, tử vi thần,’ chẳng hạng như Tướng Nguyễn Viết Thanh và sau này, 30-4-1975, là Tướng Nguyễn Khoa Nam đã vị quốc vong thân cho miền Nam Việt Nam. Tướng Nguyễn Viết Thanh và Tướng Nguyễn Khoa Nam khi còn cầm quân cùng các quân sĩ đánh nhau với VC, các ngài đã ăn chay, sùng đạo Phật. Họ vừa công thành, vạn cốt khô, vừa giữa trận tiền múa súng, sát phạt mà vừa kiến được tánh? Họ phải là những thánh nhân, Bồ Tát nguyện đầu thai vào trong những hoàn cảnh thử thách đặc biệt, mà những kẻ phàm phu tục tử như chúng ta không có thể hiễu để mà giải thích các trường hợp hy sinh, tử trận, tuẫn tiết vì dân vì nước của họ được.
‘Kiến tánh giữa trận tiền’ không phải là chuyện dễ dàng để làm và mấy ai có thể đạt được ngoại trừ Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Phật Hoàng đã kiến tánh giữa trận tiền trong lúc cùng quân dân, tướng sĩ giết giặc Mông Cổ xâm lăng cứu nước. Ngài không thấy câu, hay cần câu “độ nhất thiết khổ ách” để tự hết khổ. Những bật Bồ Tát này quý trọng sanh mạng, sự sống của chúng sinh nặng như núi Thái Sơn nhưng cũng xem cái tử vong giữa chiến trường hay trên giường bệnh nhẹ tựa lông hồng. Họ ngộ đã được cái chân lý sống ở thác về mà cửa tử vong là phương tiện (mechanism, time machine) để về.
Trần Huyền Trang thêm vào 5 chữ Tàu này cùng với 255 chữ của Bát Nhã Tâm Kinh trở thành câu kinh ngắn gọn tổng cọng 260 chữ Hán. Ngài đã ngấm ngầm gói ghém một công án đầy viên diệu dành riêng cho những kẻ phàm phu, với đầu óc thiển cận, còn vô minh, hiểu lầm phương tiện khổ ách là cứu cánh của Phật Giáo để thỏa mãn lòng ích kỷ của chính riêng mình.
Ngài là học trò của Đại Dược Vương (Phật Thích Ca) cho thuốc bệnh với lời khuyên tâm lý cho những kẻ phàm phu: Thuốc này trị bá bệnh! Đức Thế Tôn đã đích thân chứng nghiệm và cho phép (approved.)
Nhưng Bồ Tát vô nhiễm! Các Ngài đã giác ngộ, miễn dịch, không nhiễm bệnh dịch khổ đau để cần thuốc cứu khổ.
Hay cùng một lời khuyên cho những kẻ mê tín ngưỡng: Những câu mật chú này có uy lực vô biên cầu gì được nấy.
Cái lời khuyên này không áp dụng cho bồ tát vì Bồ Tát vô cầu!
“Cố tri Bát nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Nên biết Bát nhã ba la mật đa là thần chú lớn, là chú minh lớn, là chú vô thượng, là chú không chi sánh bằng, trừ được tất cả khổ ách, chắc thật không dối.
Chú là dịch chữ mạn trà (mantra) trong tiếng Phạn. Theo nghĩa hẹp, mạn trà là những lời cầu đảo, nghĩa rất bí hiểm khi đọc lên, có tác dụng biến hóa ra các hiện tượng thiên nhiên, cả lành lẫn dữ. Theo nghĩa rộng, và đích thực của nó, mạn trà là cái gây cho ta suy nghĩ, có công năng nắm giữ tóm thâu mọi nghĩa lý, làm tiền đề cho việc tham khảo của ta, từ đó, đẻ ra mọi công đức, mọi diệu dụng. Trong nghĩa này, mạn trà thuộc một trong bốn thứ đà la ni, tức: pháp đà la ni, nghĩa đà la ni, nhân đà la ni và chú đà la ni. Chữ chú trong bài kinh này thuộc loại chú đà la ni.”
Cả hai phương thuốc ảo trên cũng chỉ cùng một mục đích nhưng khác phương tiện chữa bệnh tâm lý, Phật nói hay Ma nói thôi. Phần còn lại của hành giả là ‘tục diệm truyền đăng’ trí tuệ từ Đức Thế Tôn mà tự mình đi đêm - gặp Phật giết Phật; gặp Ma giết Ma.
Phật internet tuyên bố: Như Lai không tranh luận với đời, chỉ có đời tự tranh luận với...đời. Những gì các thiện tri thức y kinh giải đúng nghĩa, Như Lai ‘tâm chứng’ (approve.)
Người bình dân nói: ‘Kinh không được thêm một chữ;’ Chú không được bớt một ‘âm’ cũng nên hiểu phiến diện chứ đừng quá cuồn tín như những tôn giáo thờ thánh kinh vì Phật Kinh không phải là thánh kinh mật khải bất khả bác. Uống thuốc trị bệnh không không được gia giảm mà phải theo đúng lời dặn (toa) của bác sĩ nhưng bác sĩ có thể gia giảm ‘đô’ thuốc hay đổi thuốc nếu không hiệu nghiệm vì bác sĩ cũng là người, thỉnh thoảng cũng sai lầm chết người. Cho nên có lúc thêm một chữ Có hay Không làm thay đổi hoàn toàn ý kinh, oan cho tam thế Phật nhưng có lúc thêm 5 chữ ‘độ nhất thiết khổ ách’ nó có chút mùi Chinese Food ngon hơn Cà ri Ấn Độ? Rồi thì ‘vượt qua mọi khổ ách’ và Cố thuyết Bát nhã ba la mật đa chú, thuyết chú viết: ‘Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề. Tát bà ha.’ Hình như tượng hình nước mắm, và tượng thanh tiếng Nôm hay tiếng Quốc Ngữ? Tam sao thất bổn hay y ý bất y ngữ?
Bát Nhã Tâm Kinh, Diamond Sutra, Perfection of Wisdom (Prajñāpāramitā,) The long version of the Sanskrit Heart Sutra is a prose text of some 280 words. In the Chinese version of the short text attributed to Xuanzang (T251), it has 260 Chinese characters. In English it is composed of sixteen sentences, là kinh Phật ‘gián tiếp’ giảng chỉ dành riêng cho những bật bồ tát đã giác ngộ.
“Quán tự tại bồ tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Bồ tát Quán tự tại khi hành trì bát nhã ba la mật đa sâu xa, soi thấy năm uẩn đều không, [tự động] vượt qua tất cả khổ ách.”
‘Vượt [được] qua tất cả khổ ách’ có thể không tự động ‘soi thấy năm uẩn đều không’ nhưng không quán tự tại để soi thấy năm uẩn là vô thường, là như ảo thì khó mà ‘Vượt qua tất cả khổ ách.’ Đó là diệu ý của ngón tay chỉ mặt trăng.
Cho nên, Tổ nói: Y kinh giảng nghĩa, tam thế Phật oan. Ly kinh nhất tự tức đồng Ma thuyết là ý như vậy.
Hòa Thượng Thích Trí Thủ viết: Đoạn văn mở đầu này trực tiếp hiển thị cái thực chất vô ngã rốt ráo và trọn vẹn ở nơi mỗi chúng sanh (hay nói theo nghĩa hẹp, ở nơi mỗi con người) mà thánh trí của Bồ Tát chứng đắc khi hành trì Bát nhã ba la mật đa sâu xa, và nhờ đó giải thoát tất cả khổ ách.
Lời mở đầu này bao hàm tất cả nội dung của giáo nghĩa Bát nhã. Trọn phần chánh tôn kế tiếp về sau, chỉ làm công việc quảng diễn nội dung này về hai mặt triết học và đạo học mà thôi. Ta có thể nói rằng, nếu lời Tâm kinh Bát nhã gồm 260 chữ này là tinh yếu của hệ thống Đại Bát nhã dày 720 quyển, thì đoạn mở đầu gồm có 25 chữ này lại thêm một lần nữa cô súc tinh yếu của bài Tâm kinh. Phần ròng của giáo nghĩa Bát nhã được kết tinh trong lời mở đầu này.
Phạm Đình Nhân (Pháp danh Chánh Tuệ Định) tóm gọn: Ý nghĩa thâm diệu Bát Nhã Tâm kinh, cần phải đề cập đến mấy luận điểm cơ bản như lý thuyết duyên sinh, vô ngã, vô thường, tính không, lý thuyết bát bất, văn tự bát nhã, phép quán chiếu bát nhã, lý luận phủ định và khẳng định.
Nếu tôi nhớ không lầm thì khi Đức Phật Thích Ca giảng kinh này ở núi Linh Thướu có tới 5000 thượng mạn tăng đứng dậy bỏ đi vì không đúng với ý mà họ muốn tới nghe. Cũng như đa số chúng ta, những kẻ tục tử, phàm phu thượng mạn với lòng ích kỷ đầy tham sân si chỉ muốn nghe và biết cái “độ nhất thiết khố ách” đó thôi. Vì nếu, tụng mớ kinh Bát Nhã dày cộm mà không có độ được hết tất cả khổ nạn thì ích lợi gì để tụng vừa mất thời giờ vừa khổ thân? Thuốc đắng mà không giã bệnh thì cho bệnh nhân uống có ích lợi gì? Thoáng nghe qua có vẽ rất chí lý và rất là logic tuy thấy vậy chứ không phải vậy. Đó là lý do chúng ta không thấy 5 chữ “Độ nhất thiết khổ ách” trong tự kinh, nguyên thủy (original) bằng tiếng Phạn.
Cái 5 chữ ‘Độ nhất thiết khổ ách’ này tương tự như cái ý niệm của cái vòng Kim Cô trên đầu Tôn Ngộ Không trong Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân. Khi tới Tây Phương cực lạc rồi thì nó tự động biến mất nhưng Tôn Ngộ Không vẫn chưa hoàn toàn đại ngộ, chưa quán tự tại, nên nhờ Phật Bà Quan Âm thâu hồi cái vòng kềm tỏa cái Ngã của mình. Cho nên, khi đã đạt được ‘chiếu kiến ngũ uẩn giai không’ thì ‘độ nhất thuyết khổ ách’ không cần thiết để bồ tát, kẻ giác ngộ quan tâm, sở trụ.
Tóm lại, tất cả chỉ là vô thường, khi có khi không như ảo mộng chứ không phải là tự tánh, bất sinh bất diệt.
Nhà thơ Tô Đông Pha, khi được một sư trụ trì ở chùa Cát Tường xin đặt tên cho một căn gác, đã làm bài thơ Cát Tường tự tăng cầu các danh như sau:
Quá nhãn vinh khô điện dữ phong
Cửu trường na đắc tự hoa hồng
Thượng nhân yến tọa Quán Không các
Quán sắc quán không, sắc tức không.
Tạm dịch: Chuyện thịnh suy thành bại lướt qua trước mắt nhanh như tia điện chớp hoặc như ngọn gió bay. Sự lâu bền của nó chẳng được như màu hồng của đóa hoa. Bậc thượng nhân ngồi yên lặng trên căn gác quán Không; quán tưởng Sắc, quán tưởng Không rồi ngộ ra rằng Sắc chính là Không.
Kinh Kim Cang dạy chúng ta quán chiếu thế gian bằng tinh thần của bài kệ Lục Như là để “Nhậm vận thịnh suy vô bố úy” như Thiền sư Vạn Hạnh viết, và để đạt đến cảnh giới “vô hữu khủng bố, viễn ly điên đão, mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn” của Trí Tuệ Bát Nhã. Phần này có thể được coi là quan trọng nhất trong kinh. Lục Tổ giảng về pháp Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa (Maha Prajna Paramita,) có nghĩa là đại trí huệ đến bờ bên kia. Pháp tu này đạt thẳng mục đích của Thiền là Kiến Tánh Thành Phật. Tất cả chúng sinh, từ người ngu đến kẻ trí đều có Phật Tánh như nhau. Có khác nhau chăng chỉ là kẻ mê, người ngộ. Vì vậy nên Lục Tổ chỉ rõ thêm, "Phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ đề; niệm trước mê tức phàm phu, niệm sau ngộ tức Phật. Niệm trước chấp cảnh tức phiền não, niệm sau lìa cảnh tức Bồ đề." Thế nào là mê, mê đây là không thấy được tự tánh của mình. "Bản tánh là Phật, lìa tánh chẳng có Phật ... Trí Bát Nhã đều từ bản tánh mà sanh, chẳng phải từ bên ngoài vào, không nên lầm với ý thức." Tất cả muôn pháp đều ở trong tự tánh của con người hoặc nói cách khác là tự tánh bao hàm muôn pháp, vô sanh vô diệt.
Y kinh giải nghĩa như vậy nhưng tôi vẫn còn đại nghi sợ tam thế Phật oan - Tại sao chỉ có con người nhỏ bé trong vũ trụ bao la mới có tự tánh Phật? Lượng tử có Phật Tánh không? Vũ trụ có Phật Tánh không? Nếu câu trả lời là không thì tại sao chỉ có con người, quá nhỏ bé, không đáng kể như những vi trần trong vũ trụ vô lượng, vô cực mới có Phật Tánh? Mà nếu câu trả lời là có thì tại sao những lượng tử này chui vào trong vũ trụ và tại sao vũ trụ chứa những lượng tử trong khi kinh viết tự tánh đã bao hàm muôn pháp thì cần gì phải chứa (sở) phải đựng (trụ)hay chui vào chui ra nữa?
“Biết vậy nhưng vẫn cố phạm!” Ai cố phạm? Câu trã lời này của tiền nhân hình như hơi gượng gạo không hoàn toàn ổn thoả cho suy tư của chúng ta trong thời hiện đại thay vì thành tâm thú thật là ‘Ngộ hổng piết!’ Hay, ly kinh nhất tự: Ohm!
Phật nói: Người phỉ báng Như Lai là người giảng kinh sai lại khẳng định là đúng; nghe kinh đúng lại phủ nhận là sai. Người không phỉ báng Như Lai là người thấy kinh nói đúng thì công nhận đúng; nghe kinh nói sai thì nói là sai.
Sai nói đúng,
Đúng nói sai.
*
Đúng nói đúng,
Sai nói sai.
*
Sai biết sai,
Đúng biết đúng.
*
Sai không sai,
Đúng không đúng.
*
Đúng là sai,
Sai là đúng.
*
Oan cho Phật,
Tội cho Ma.
(Lê Huy Trứ)
‘Phỏng’ theo Vô Tự Kinh, Tác Giả Lê Huy Trứ
Happy New Year!
1/01/2016
http://nguoiphattu.com/thu-vien/tho-...g-don-ngo.html
===============
QUAN CÔNG ĐỐN NGỘ
Chùa A Di Đà | 2/1/2016 | 0 Bình luận
Trong Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa có một đoạn Quan Công hiển thánh có thể được xem như là phần minh họa cho cảnh giới được mô tả trong kinh Lăng Già, theo tinh thần của bài kệ Lục Như.
Quan Công Đốn Ngộ
*
Lê Huy Trứ
Happy New Year!
1/01/2016
Cơn mộng của Lương Gia và Nho Giáo chỉ là mộng chứ chưa phải là huyễn, hãy lắng nghe và quán bài kệ thâm diệu Lục Như trong Kinh Kim Cang dịch bởi Pháp Sư Cưu Ma La Thập.
Phật nói trong kinh Kim Cang rằng:
Nhất thiết hữu vi pháp,
Như mộng, huyễn, bào, ảnh,
Như lộ diệc như điện,
Ưng tác như thị quán.
Dịch là
Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng, như huyễn, như bọt, như bóng
Như sương, như điện chớp,
Nên quán tưởng như thế.
Cõi mộng trong bài kệ Lục Như trên là cõi-đời-mộng dưới sự quán chiếu của bậc đại giác, đại tuệ. Các Bồ Tát đạt đến cảnh giới đó bằng cách dùng như huyễn tam muội quán chiếu thế gian bằng Diệu Quán Sát Trí, bằng nội lực của thiền quán và còn đạt đến trình độ thâm huyền hơn nữa, vì quán chiếu thế gian như là huyễn mộng, sắc sắc, không không để đạt được trạng thái an lạc tâm linh.
Trong Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa có một đoạn Quan Công hiển thánh có thể được xem như là phần minh họa cho cảnh giới được mô tả trong kinh Lăng Già, theo tinh thần của bài kệ Lục Như.
Sau khi thất thủ Kinh Châu, Quan Vân Trường bị Quân Đông Ngô phục kích, bị tử trận và ngài đã vi thần. Theo tương truyền thì linh hồn Quan Công, cởi ngựa Xích Thố, tã hữu có Quan Bình và Châu Thương, đêm đêm bay phiêu diêu khắp nơi, kêu gào, “Trả đầu cho ta,” tiếng kêu như sấm rền khiến bá tánh thảy điều kinh hồn động phách. Khi đến núi Ngọc Tuyền nơi Ngài đã có duyên gặp gỡ lúc trước, Sư Phổ Tĩnh nghe và biết (quán và kiến) tiếng kêu trên không, liền bước ra khỏi am, cầm cây phất trần gõ vào cửa chùa mà hỏi “Vân Trường an tại?” Câu hỏi đơn giản đó lại giống tiếng hét của Lâm Tế, cây gậy của Đức Sơn, khiến hồn ngài sực tỉnh, liền hạ mã xuống trước am để nghe thuyết pháp và quy y cửa Phật. Câu này thường được dịch là “Vân Trường ở đâu?” mà lẽ ra nên hiểu là “Vân Trường có chăng?” nghĩa là “Vân Trường có thực sự tồn tại chăng?” mới đúng tinh thần của Sư Phổ Tĩnh muốn điểm hóa cho vị danh tướng huyền thoại này.
Thật ra câu chuyện không đơn giản như vậy, sau khi nghe Quan Công từ lưng trời đòi “Trã đầu cho ta.” Thì Sư Phổ Tĩnh gọi, “Vân Trường ngươi ở đâu?” Quan Vân Trường, “Sư phụ ơi, ta đi khắp nơi kiếm cái thủ cấp mình mà không thấy. Xin sư phụ chỉ đường cho.” Sư Phổ Tĩnh , “Lúc trước Tướng Quân chém biết bao nhiêu thủ cấp; có ai đòi lại đâu mà bây giờ lại đi đòi cái thủ cấp của mình?” Vì câu hỏi đó mà Quan Công đã tức khắc Giác thành Thần, và sau đó tu và Ngộ thành Thánh? Phàm phu tin đồn như vậy!
Nhà phê bình Mao Tôn Cương cho rằng chỉ một câu đó của Sư Phổ Tĩnh cũng bao hàm cả diệu nghĩa của cuốn kinh Kim Cương. Nhận xét đó quả vô cùng sâu sắc. Chính tại sát na thù thắng mà vị danh tướng đó nhận ra diệu nghĩa của chữ Mộng, chữ Không, và tạo được sự chuyển ý trong tâm thức. Lúc đó, ắt hẳn anh hồn Vân Trường hoang mang trước cảnh tượng tất cả đều đột nhiên biến mất, cũng hoang mang trước câu hỏi, “Vân Trường an tại?” Đó là một công án giúp Quan Công hoát nhiên đốn ngộ - “Quan Công anh hồn đốn ngộ.” Chuyện thành bại thị phi đáo cùng cũng chỉ là hư không mộng ảo. Kinh Châu chỉ là mộng. Thục cũng chỉ là mộng. Ngụy hay Ngô cũng chỉ là mộng. Tham vọng tranh bá đồ vương cũng chỉ là mộng. Mà cả đến bản thân của Vân Trường cũng là mộng nốt. Vân Trường an tại? Có nghĩa là “Nhất thiết Ngụy Ngô Thục, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán.” Bởi vậy, sau khi nghe Sư Phổ Tĩnh thuyết pháp, Quan Công mới đại ngộ rồi cúi đầu làm lễ quy y mà đi - “mang nhiên đại ngộ, khể thủ quy y nhi khứ” (Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, hồi 77.)
Ngủ Tổ nói, “Người kiến tánh ngay lời nói phải thấy, nếu như người này dù khi múa đao giữa trận cũng thấy được tánh.” Quan Vân Trường lúc còn là tướng Thục Hán giữa trận múa đao chém tướng, công thành, vạn cốt khô. Vì chưa quy theo Phật Pháp cho nên chưa kiến tánh, cho đến khi chết, hồn phiêu du vô định không biết chỗ nào mà trụ, mà đi. Cho đến khi được Sư Phỗ Tĩnh khai ngộ, thuyết pháp, mới đốn ngộ quy y tam bão.
Thật ra Quan Công đã có duyên phận với Sư Phỗ Tĩnh từ trước. Quan Công cũng đã sẳn có căn tu từ tiền kiếp, dù trong kiếp này làm tướng, theo phò Lưu Bị, xông pha trận mạc, công thành, chém giết không chùn tay nhưng chưa kiến tánh giữa trận tiền. Sau khi tử trận, hồn lìa khỏi xác và nhất là khi nghe câu: Vân Trường ngã sở ở đâu, trụ ở đâu, an tại đâu? Ngài đột nhiên đốn ngộ, mới quán được Vân Trường là không (vô ngã, no-self,) ưng vô sở, an vô trụ. Trã đầu cho Ta (self) mà Ta không có (no-self,) thân ngũ uẩn giai không, thì đầu có không? Trong sátna đó, Quan Công đốn ngộ được câu“độ nhất thiết khổ ách”chêm vào trong Bát Nhã Tâm Kinh của Đường Tam Tạng.
Trong Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, đoạn văn tả lại cảnh trên chỉ ngắn ngủi có vài dòng nhưng đó mới chính là chỗ mà ngọn bút của La Quán Trung đã đạt đến mức “đăng phong tháo cực, lô hỏa thuần thanh,” giúp người đọc liên hệ đến bài kệ Lục Như.
Quan công hiển thánh ở núi Ngọc Tuyền
Trong lịch sử nhân loại, có nhửng anh hùng vô danh đã vị quốc vong thân hay những tướng quân, ‘sinh vi tướng, tử vi thần,’ chẳng hạng như Tướng Nguyễn Viết Thanh và sau này, 30-4-1975, là Tướng Nguyễn Khoa Nam đã vị quốc vong thân cho miền Nam Việt Nam. Tướng Nguyễn Viết Thanh và Tướng Nguyễn Khoa Nam khi còn cầm quân cùng các quân sĩ đánh nhau với VC, các ngài đã ăn chay, sùng đạo Phật. Họ vừa công thành, vạn cốt khô, vừa giữa trận tiền múa súng, sát phạt mà vừa kiến được tánh? Họ phải là những thánh nhân, Bồ Tát nguyện đầu thai vào trong những hoàn cảnh thử thách đặc biệt, mà những kẻ phàm phu tục tử như chúng ta không có thể hiễu để mà giải thích các trường hợp hy sinh, tử trận, tuẫn tiết vì dân vì nước của họ được.
‘Kiến tánh giữa trận tiền’ không phải là chuyện dễ dàng để làm và mấy ai có thể đạt được ngoại trừ Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Phật Hoàng đã kiến tánh giữa trận tiền trong lúc cùng quân dân, tướng sĩ giết giặc Mông Cổ xâm lăng cứu nước. Ngài không thấy câu, hay cần câu “độ nhất thiết khổ ách” để tự hết khổ. Những bật Bồ Tát này quý trọng sanh mạng, sự sống của chúng sinh nặng như núi Thái Sơn nhưng cũng xem cái tử vong giữa chiến trường hay trên giường bệnh nhẹ tựa lông hồng. Họ ngộ đã được cái chân lý sống ở thác về mà cửa tử vong là phương tiện (mechanism, time machine) để về.
Trần Huyền Trang thêm vào 5 chữ Tàu này cùng với 255 chữ của Bát Nhã Tâm Kinh trở thành câu kinh ngắn gọn tổng cọng 260 chữ Hán. Ngài đã ngấm ngầm gói ghém một công án đầy viên diệu dành riêng cho những kẻ phàm phu, với đầu óc thiển cận, còn vô minh, hiểu lầm phương tiện khổ ách là cứu cánh của Phật Giáo để thỏa mãn lòng ích kỷ của chính riêng mình.
Ngài là học trò của Đại Dược Vương (Phật Thích Ca) cho thuốc bệnh với lời khuyên tâm lý cho những kẻ phàm phu: Thuốc này trị bá bệnh! Đức Thế Tôn đã đích thân chứng nghiệm và cho phép (approved.)
Nhưng Bồ Tát vô nhiễm! Các Ngài đã giác ngộ, miễn dịch, không nhiễm bệnh dịch khổ đau để cần thuốc cứu khổ.
Hay cùng một lời khuyên cho những kẻ mê tín ngưỡng: Những câu mật chú này có uy lực vô biên cầu gì được nấy.
Cái lời khuyên này không áp dụng cho bồ tát vì Bồ Tát vô cầu!
“Cố tri Bát nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Nên biết Bát nhã ba la mật đa là thần chú lớn, là chú minh lớn, là chú vô thượng, là chú không chi sánh bằng, trừ được tất cả khổ ách, chắc thật không dối.
Chú là dịch chữ mạn trà (mantra) trong tiếng Phạn. Theo nghĩa hẹp, mạn trà là những lời cầu đảo, nghĩa rất bí hiểm khi đọc lên, có tác dụng biến hóa ra các hiện tượng thiên nhiên, cả lành lẫn dữ. Theo nghĩa rộng, và đích thực của nó, mạn trà là cái gây cho ta suy nghĩ, có công năng nắm giữ tóm thâu mọi nghĩa lý, làm tiền đề cho việc tham khảo của ta, từ đó, đẻ ra mọi công đức, mọi diệu dụng. Trong nghĩa này, mạn trà thuộc một trong bốn thứ đà la ni, tức: pháp đà la ni, nghĩa đà la ni, nhân đà la ni và chú đà la ni. Chữ chú trong bài kinh này thuộc loại chú đà la ni.”
Cả hai phương thuốc ảo trên cũng chỉ cùng một mục đích nhưng khác phương tiện chữa bệnh tâm lý, Phật nói hay Ma nói thôi. Phần còn lại của hành giả là ‘tục diệm truyền đăng’ trí tuệ từ Đức Thế Tôn mà tự mình đi đêm - gặp Phật giết Phật; gặp Ma giết Ma.
Phật internet tuyên bố: Như Lai không tranh luận với đời, chỉ có đời tự tranh luận với...đời. Những gì các thiện tri thức y kinh giải đúng nghĩa, Như Lai ‘tâm chứng’ (approve.)
Người bình dân nói: ‘Kinh không được thêm một chữ;’ Chú không được bớt một ‘âm’ cũng nên hiểu phiến diện chứ đừng quá cuồn tín như những tôn giáo thờ thánh kinh vì Phật Kinh không phải là thánh kinh mật khải bất khả bác. Uống thuốc trị bệnh không không được gia giảm mà phải theo đúng lời dặn (toa) của bác sĩ nhưng bác sĩ có thể gia giảm ‘đô’ thuốc hay đổi thuốc nếu không hiệu nghiệm vì bác sĩ cũng là người, thỉnh thoảng cũng sai lầm chết người. Cho nên có lúc thêm một chữ Có hay Không làm thay đổi hoàn toàn ý kinh, oan cho tam thế Phật nhưng có lúc thêm 5 chữ ‘độ nhất thiết khổ ách’ nó có chút mùi Chinese Food ngon hơn Cà ri Ấn Độ? Rồi thì ‘vượt qua mọi khổ ách’ và Cố thuyết Bát nhã ba la mật đa chú, thuyết chú viết: ‘Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề. Tát bà ha.’ Hình như tượng hình nước mắm, và tượng thanh tiếng Nôm hay tiếng Quốc Ngữ? Tam sao thất bổn hay y ý bất y ngữ?
Bát Nhã Tâm Kinh, Diamond Sutra, Perfection of Wisdom (Prajñāpāramitā,) The long version of the Sanskrit Heart Sutra is a prose text of some 280 words. In the Chinese version of the short text attributed to Xuanzang (T251), it has 260 Chinese characters. In English it is composed of sixteen sentences, là kinh Phật ‘gián tiếp’ giảng chỉ dành riêng cho những bật bồ tát đã giác ngộ.
“Quán tự tại bồ tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Bồ tát Quán tự tại khi hành trì bát nhã ba la mật đa sâu xa, soi thấy năm uẩn đều không, [tự động] vượt qua tất cả khổ ách.”
‘Vượt [được] qua tất cả khổ ách’ có thể không tự động ‘soi thấy năm uẩn đều không’ nhưng không quán tự tại để soi thấy năm uẩn là vô thường, là như ảo thì khó mà ‘Vượt qua tất cả khổ ách.’ Đó là diệu ý của ngón tay chỉ mặt trăng.
Cho nên, Tổ nói: Y kinh giảng nghĩa, tam thế Phật oan. Ly kinh nhất tự tức đồng Ma thuyết là ý như vậy.
Hòa Thượng Thích Trí Thủ viết: Đoạn văn mở đầu này trực tiếp hiển thị cái thực chất vô ngã rốt ráo và trọn vẹn ở nơi mỗi chúng sanh (hay nói theo nghĩa hẹp, ở nơi mỗi con người) mà thánh trí của Bồ Tát chứng đắc khi hành trì Bát nhã ba la mật đa sâu xa, và nhờ đó giải thoát tất cả khổ ách.
Lời mở đầu này bao hàm tất cả nội dung của giáo nghĩa Bát nhã. Trọn phần chánh tôn kế tiếp về sau, chỉ làm công việc quảng diễn nội dung này về hai mặt triết học và đạo học mà thôi. Ta có thể nói rằng, nếu lời Tâm kinh Bát nhã gồm 260 chữ này là tinh yếu của hệ thống Đại Bát nhã dày 720 quyển, thì đoạn mở đầu gồm có 25 chữ này lại thêm một lần nữa cô súc tinh yếu của bài Tâm kinh. Phần ròng của giáo nghĩa Bát nhã được kết tinh trong lời mở đầu này.
Phạm Đình Nhân (Pháp danh Chánh Tuệ Định) tóm gọn: Ý nghĩa thâm diệu Bát Nhã Tâm kinh, cần phải đề cập đến mấy luận điểm cơ bản như lý thuyết duyên sinh, vô ngã, vô thường, tính không, lý thuyết bát bất, văn tự bát nhã, phép quán chiếu bát nhã, lý luận phủ định và khẳng định.
Nếu tôi nhớ không lầm thì khi Đức Phật Thích Ca giảng kinh này ở núi Linh Thướu có tới 5000 thượng mạn tăng đứng dậy bỏ đi vì không đúng với ý mà họ muốn tới nghe. Cũng như đa số chúng ta, những kẻ tục tử, phàm phu thượng mạn với lòng ích kỷ đầy tham sân si chỉ muốn nghe và biết cái “độ nhất thiết khố ách” đó thôi. Vì nếu, tụng mớ kinh Bát Nhã dày cộm mà không có độ được hết tất cả khổ nạn thì ích lợi gì để tụng vừa mất thời giờ vừa khổ thân? Thuốc đắng mà không giã bệnh thì cho bệnh nhân uống có ích lợi gì? Thoáng nghe qua có vẽ rất chí lý và rất là logic tuy thấy vậy chứ không phải vậy. Đó là lý do chúng ta không thấy 5 chữ “Độ nhất thiết khổ ách” trong tự kinh, nguyên thủy (original) bằng tiếng Phạn.
Cái 5 chữ ‘Độ nhất thiết khổ ách’ này tương tự như cái ý niệm của cái vòng Kim Cô trên đầu Tôn Ngộ Không trong Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân. Khi tới Tây Phương cực lạc rồi thì nó tự động biến mất nhưng Tôn Ngộ Không vẫn chưa hoàn toàn đại ngộ, chưa quán tự tại, nên nhờ Phật Bà Quan Âm thâu hồi cái vòng kềm tỏa cái Ngã của mình. Cho nên, khi đã đạt được ‘chiếu kiến ngũ uẩn giai không’ thì ‘độ nhất thuyết khổ ách’ không cần thiết để bồ tát, kẻ giác ngộ quan tâm, sở trụ.
Tóm lại, tất cả chỉ là vô thường, khi có khi không như ảo mộng chứ không phải là tự tánh, bất sinh bất diệt.
Nhà thơ Tô Đông Pha, khi được một sư trụ trì ở chùa Cát Tường xin đặt tên cho một căn gác, đã làm bài thơ Cát Tường tự tăng cầu các danh như sau:
Quá nhãn vinh khô điện dữ phong
Cửu trường na đắc tự hoa hồng
Thượng nhân yến tọa Quán Không các
Quán sắc quán không, sắc tức không.
Tạm dịch: Chuyện thịnh suy thành bại lướt qua trước mắt nhanh như tia điện chớp hoặc như ngọn gió bay. Sự lâu bền của nó chẳng được như màu hồng của đóa hoa. Bậc thượng nhân ngồi yên lặng trên căn gác quán Không; quán tưởng Sắc, quán tưởng Không rồi ngộ ra rằng Sắc chính là Không.
Kinh Kim Cang dạy chúng ta quán chiếu thế gian bằng tinh thần của bài kệ Lục Như là để “Nhậm vận thịnh suy vô bố úy” như Thiền sư Vạn Hạnh viết, và để đạt đến cảnh giới “vô hữu khủng bố, viễn ly điên đão, mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn” của Trí Tuệ Bát Nhã. Phần này có thể được coi là quan trọng nhất trong kinh. Lục Tổ giảng về pháp Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa (Maha Prajna Paramita,) có nghĩa là đại trí huệ đến bờ bên kia. Pháp tu này đạt thẳng mục đích của Thiền là Kiến Tánh Thành Phật. Tất cả chúng sinh, từ người ngu đến kẻ trí đều có Phật Tánh như nhau. Có khác nhau chăng chỉ là kẻ mê, người ngộ. Vì vậy nên Lục Tổ chỉ rõ thêm, "Phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ đề; niệm trước mê tức phàm phu, niệm sau ngộ tức Phật. Niệm trước chấp cảnh tức phiền não, niệm sau lìa cảnh tức Bồ đề." Thế nào là mê, mê đây là không thấy được tự tánh của mình. "Bản tánh là Phật, lìa tánh chẳng có Phật ... Trí Bát Nhã đều từ bản tánh mà sanh, chẳng phải từ bên ngoài vào, không nên lầm với ý thức." Tất cả muôn pháp đều ở trong tự tánh của con người hoặc nói cách khác là tự tánh bao hàm muôn pháp, vô sanh vô diệt.
Y kinh giải nghĩa như vậy nhưng tôi vẫn còn đại nghi sợ tam thế Phật oan - Tại sao chỉ có con người nhỏ bé trong vũ trụ bao la mới có tự tánh Phật? Lượng tử có Phật Tánh không? Vũ trụ có Phật Tánh không? Nếu câu trả lời là không thì tại sao chỉ có con người, quá nhỏ bé, không đáng kể như những vi trần trong vũ trụ vô lượng, vô cực mới có Phật Tánh? Mà nếu câu trả lời là có thì tại sao những lượng tử này chui vào trong vũ trụ và tại sao vũ trụ chứa những lượng tử trong khi kinh viết tự tánh đã bao hàm muôn pháp thì cần gì phải chứa (sở) phải đựng (trụ)hay chui vào chui ra nữa?
“Biết vậy nhưng vẫn cố phạm!” Ai cố phạm? Câu trã lời này của tiền nhân hình như hơi gượng gạo không hoàn toàn ổn thoả cho suy tư của chúng ta trong thời hiện đại thay vì thành tâm thú thật là ‘Ngộ hổng piết!’ Hay, ly kinh nhất tự: Ohm!
Phật nói: Người phỉ báng Như Lai là người giảng kinh sai lại khẳng định là đúng; nghe kinh đúng lại phủ nhận là sai. Người không phỉ báng Như Lai là người thấy kinh nói đúng thì công nhận đúng; nghe kinh nói sai thì nói là sai.
Sai nói đúng,
Đúng nói sai.
*
Đúng nói đúng,
Sai nói sai.
*
Sai biết sai,
Đúng biết đúng.
*
Sai không sai,
Đúng không đúng.
*
Đúng là sai,
Sai là đúng.
*
Oan cho Phật,
Tội cho Ma.
‘Phỏng’ theo Vô Tự Kinh, Tác Giả Lê Huy Trứ
Tác giả: Lê Huy Trứ
http://chuaadida.com/chi-tiet-quan-c...-ngo-6829.html
http://s2.upanh123.com/2017/07/19/qu...thanhd0eab.jpg
Quan công hiển thánh ở núi Ngọc Tuyền
https://www.youtube.com/watch?v=WDG5HPCl62A
འབྲི་གུང་ཨ་ཕྱི་ཆ � �ས་ཀྱི་སྒྲོལ་མའི � ��ཚན་སྔགས། 直貢噶舉阿企護法心咒- 拉桑仁波切 Drikung Achi Chokyi Drolma
SIMHA MUKHA VAHRA DAKINI MANTRA
A. KA. SA. MA. RA. CHA. SHA. DA. RA. SA. MA. RA. YA. PHATU.
http://www.bdcu.org.au/pdf/Prajna-Pa...tra.pdf?x58958
Previous Entry Share Next Entry
Дхарани-мантры Джамбхалашри
nandzed
June 11th, 2014
Склоняюсь пред Джамбхалашри!
Так я слышал однажды.
Благословенный Ваджрапани пребывал в окружении множества якшей в святом месте Адакавати. В это время к царю якшей Джамбхалашри обратился Владыка Сокровенного, Ваджрапани: "Прошу тебя показать мантру знания и сущность своей жизненной силы, чтобы успокоить страдания и нищету живых существ! Мной будет даровано благословение!"
Затем Джамбхалашри сказал:
"Владыка Сокровенного, Благословенный! Я должен разъяснить мантру знания ради успокоения страдания живых существ. [Пусть они] отбросят страдание и обретут счастье! Желая завершить два великих накопления, пусть запонят и повторяют эту мантру знания, чтобы защитить собственное тело:
nama Arya jambhala mahA jambhala tadyathA rararara kunu kunu khunu khunu gunu gunu sapa sapa kara kara mahA viraram mahA karado marasha harsha tuma sarva satvA nAnca svAhA".
Благословенный Владыка Сокровенного повторил эту мантру и повторил семикратно мантру над синей нитью. Если завязывая при каждом повторе узел, опутаешь плечо, то достгнешь желаемого и отсутствия вреда, что хорошо. Следует даровать и лекарство, составленное из ладана, сандала, пихты (duruska) и растения катара (katara).
nama Arya jambhala namo dantAya danti shvarAya Akarshaya akarmita danti sharvAya varma karduniya sarva satva hitajiti mama danta nama: variyasha samaya Akarsha svAhA.
Эту мантру следует повторять семикратно для очищения-чистоты. Далее следует осуществление сердца-сущности сокровенного. Также как ранее, осуществи подношения Трём Драгоценностям и Владыке Сокровенного, Ваджрапани. Сделав так, затем произноси всё, начиная с собственного имени. Сделав так, осуществишь обретение материального богатства и всего желаемого и будет даровано счастье. Затем мной будет повторена эта драгоценность исполнения желаний, тайная мантра. Если осуществлять для [осуществления практики] божества медитации, достигнешь всего необходимого и желанного, что будет хорошо.
Затем царь якшей Джамбхалашри даровал славному Ваджрапани подобную драгоценности исполнения желаний собственную сущность-сердце:
nama Arya jambhala mahA jambhala tadyathA simi simi sumu sumu shcanda shcanda cara cara sara sara kara kara kiri kiri kuru kuru muru muru curu curu sadaya dama mama nidama ananta dAnate svAhA Arya jambhala svAhA dhantAya svAhA manoratha varipUra kAya svAhA
Затем славный якша, что владеет якшами, произнес для окружающих [мантру] своей собственнoй сущности-сердца:
om jambhala mani bhadrAya svAhA
om jambhala pUrna bhadrAya svAhA
om jambhala dhanadAta bhadrAya svAhA
om jambhala mahA dhana dAta bhadrAya svAhA
om jambhala civi kundali svAhA
om jambhala kili mAlini svAhA
om jambhala mukhendrAya svAhA
om jambhala jalendra bhadrAya svAhA
Затем Владыка Сокровенного сказал:
Владыка богатства! Всем, кто хранит это твое заклинание-дхарани, повязывает [вокруг тела], испрашивает или читает - будет даровано счастье в соответствии с устремлениями.
Затем владыка якшей сказал Владыке Сокровенного:
Это так!
Обойдя троекратно в соответствии с учением, уселся.
Так завершается заклинание благородного Джамбхалашри.
источник: http://dharmalib.ru
Tags: Дзамбхала, ваджраяна, дхарани, крия-тантра, ритуалы
http://nandzed.livejournal.com/4068844.html
宝藏神三摩地与心想事成的秘密_倾莲 _新浪博客
blog.sina.com.cn/s/blog_598808180102wlax.html
Dịch trang này
9 thg 11, 2016 - 汉传「宝藏神真言」与藏传「黄财神 咒」应是同一咒文,都是jambhala的咒 , ... 另外,在东大的梵文写本中,还有六 篇名为「jambhala-jalendrasya ...
Pháp giới sở hiện Phước Đức Tôn
Bất li tự tánh chi hộ pháp
Đích thị từ bi Kim Cang Thủ
Đảnh lễ trí huệ Đại Hắc Thiên
Nam Mô Đại Phươc Đức Tự Tại Đại Hắc Thiên Bồ Tát
Namo Samanta Buddhanam - Om Mahakalaya Svaha
https://www.facebook.com/pages/%C4%9...04520419885142
“摩诃羯唎曳”:mahakaliye大黑天 。大黑天为mahakala
DHARANI SUTRA OF THE GOLDEN GANAPATI
https://dokumen.tips/documents/dhara...-ganapati.html
唵(引)毘止毘止舍婆嚟(引)多(引)囉羯 尾(二合引)娑嚩(二合引)訶(引)唵(引) 訶
(引)迦(引)攞(引)耶娑嚩(二合引)訶(引)
O3, vi-ci vi-ci 0abare t2rakatve sv2h2. O3, mah2-k2l2ya sv2h2.
http://www.dharanipitaka.net/2011/20...a/MahaKala.pdf
藏密大黑天財神修持儀軌(出自大正 脩大藏經、密教部、No.1287)
[日期:2016-03-13] 如覺得此文不錯,請按
東密大黑天神法修持儀軌供養法亦從 大藏經大黑天神法」演繹而來,兩者 通可共用,原始出處如下:
大正新脩大藏經第21冊 No.1287
大黑天神法
嘉祥寺神愷記
大黑天神者。大自在天變身也。五天 並吾朝諸伽藍等皆所安置也。有人云 大黑天神者。堅牢地天化身也。伽藍 安 之。每日所炊飯上分供養此天。誓夢 語詞之中曰。若吾安置伽藍。日日敬 者。吾寺中令住眾多僧。每日必養千 人之眾。乃至人宅亦爾也。若人三年 心供吾者。 吾必此來。供人授與世間富貴乃至官 爵祿。應惟悉與焉。吾體作五尺。若 尺若二尺五寸亦得通免之。膚色悉作 黑色。頭令冠烏帽子悉黑色也。令著 驅褰不垂。 令著狩衣。裙短袖細。右手作拳令收 腰。左手令持大袋。從背令懸肩上其 之色為鼠毛色。其垂下裎余臀上。如 是作畢。居大眾食屋禮供者。堂屋房 必自然之 榮。聚集湧出。又若人常持念吾咒。 季大備餚膳酒羹飯食乃至百味。以五 時不知眾多人供吾者。決定與富。
其咒曰:
唵.密止密止.捨婆隸.多羅羯帝. 婆訶
【身密】:(大手印)
【密】唐密大藏经大黑天神法秘传仪
印者。二手內縛舒二地二水。來去是 。供養印者用常途法。禮供人者。必 此神成父母之想。於三寶成外護。於 眾人成父母故也。余久聞天竺土風並 當朝土風。諸寺安此天莫非豐饒。因 為斷後輩之疑。以野客夢事引尋貽之 焉。
大黑天神法師雲。此最秘密也。不入 弟子不可傳受。千金莫傳努力贊(天贊 )。
種子字
【大黑天神法】之一(有关于大黑天 尊)
大黑天神者:
胎藏界梵號雲摩訶迦羅天。亦云大黑 神。用普印。三摩耶形劍。青色三面 臂。前左右手橫執劍左次手執人頭( 髻提也)右次手執羊牝。次左右象皮張 背後。以髑髏為瓔珞也。故本雲黑淺 也。仁王經良賁疏雲。言塳間者所住 也。言摩訶者。此翻雲大。言迦羅者 。此雲黑天也。上句梵語。下句唐言 大黑天神鬥戰神也。若禮彼神。增其 德。舉事皆勝。故向祀也。何以知者 。三藏引別梵筴雲。
孔雀王經說。烏屍尼國國城東。有林 奢摩奢那。此雲屍林。其林縱橫滿一 旬。有大黑天神。是摩醯首羅變化之 身。與諸鬼神無量眷屬。常於夜間遊 林中。有大 神力。多諸珍寶。有隱形藥有長年藥 遊行飛空。諸幻術藥與人貿易。唯取 人血肉。先約斤兩而貿藥等。若人欲 往。以陀羅尼加持其身。然往貿易。 不加持。彼 諸鬼神。乃自隱形盜人血肉。令減斤 。即取彼人身上血肉。隨取隨盡。不 先約。乃至取盡一人血肉。斤兩不充 藥不可得。若加持者貿得寶貝及諸藥 。隨意所為 皆得成就。若向祀者。唯人血肉也。 有大力即加護人。所作勇猛鬥戰等法 得勝也。故大黑天神即鬥戰神也。此 天即七母天為眷屬(云云)有七姊妹者。 一左閟 拏。二嬌吠哩。三吠瑟拏微。四嬌麼 。五印五印𢴉裡。六勞𢴉裡。七末 呬弭。是七名皆是真言也。大日經疏 。荼吉尼真言。此是世間有造此法術 者。亦自 在咒術能知人欲命終者。六月即知之 知已。即作法取其心食之。所以爾者 身中有黃。所謂人黃猶牛有黃也。若 得食者能得極大成就。一日周遊四域 隨意所為皆 得。 亦能種種治人。有嫌者以術治之極令 苦。然彼法不得殺人。要依自計方術 人欲死者去。六月即知之。知已以術 取其心。雖取其心然有法術。要以余 代之。此人 命亦不終。至合死時方壞也。大都是 叉大自在。於世人所說大極。屬摩訶 羅。所謂大黑神也。毗盧遮那以降伏 三世法門。欲除彼故化作大黑神。過 彼無量示 現。以灰塗身在曠野中。以術悉召一 法成就乘空履水皆無礙諸荼吉尼而訶 之。猶汝常啖人故。我今亦當食汝。 即吞啖之。然不令死彼。伏已放之悉 斷肉。彼白 佛言。我今悉食肉得存。今如何自濟 佛言聽汝食死人心。彼言人欲死時。 天夜叉等知彼命盡。爭來欲食。我雲 何得之。佛言為汝說真言法及印。六 未死即能知 之。知已。以法加護勿令他畏得損。 命盡時聽汝取食也。如是稍引令得入 故。
有此真言訶唎(二合訶定行利垢)訶(行 彼邪術之垢也)瑜祇經疏云。吽迦羅( 降三世降伏義)迦羅(又雲黑闇)大日經 雲摩訶迦羅大黑天神。
又雲大闇夜天。以迦羅翻黑闇。仁王 雲摩訶迦羅神(云云)摩訶迦羅用普印 摩訶迦羅野娑婆(二合)賀(引)南 海傳雲。又復西方諸大寺處。鹹於食 柱側。或在大庫門前雕木表形。或二 三尺為神王狀。坐把金囊卻踞小床。 一腳垂地每將油拭黑色為形。號曰莫 呵羅。即大 黑神也。古代相承雲。是大天之部屬 性愛三寶護持五眾。使無損秏。求者 情。但至食時。廚家每薦香火。所有 飲食隨列於前。曾親見說大涅槃處般 那寺。每常 僧食一百有餘。春秋二時。禮拜之際 期而至。僧徒五百臨中忽來。正到中 無宜更煮。其知事人告廚家曰。有斯 倉卒事欲如何。於時有一淨人老母而 之曰。此乃 常事無勞見憂。遂乃多然香火盛陳祭 。告黑神曰。大聖涅槃爾徒尚在。四 僧至為禮於聖蹤。飲食供養勿令闕乏 。是仁之力幸可知時。尋即總命大眾 坐。以寺常 食次第行之。大眾鹹足。其餐所長還 常日。鹹皆唱善贊天神之力。親行禮 。故睹黑神。見在其前食成大聚。問 其何意報此所由。淮北雖復先無江南 有置處。求 者效驗。神道非虛。大覺寺目真鄰陀 。亦同斯異矣。
唵.密止密止.捨婆隸.多羅羯帝訶 娑婆訶(引).唵.摩訶迦羅耶.娑婆
口傳雲常途法者十八道口傳雲。仁王 雲塚間摩訶迦羅大黑天神。理趣釋雲 母女天者是摩訶迦羅天眷屬。可居東 北方。最秘最秘。
【唐密】大黑天神法儀軌
此法最極秘密法也。不入室乃無名薄 人。不可傳受。莫傳千金努努先可儲 一面次可儲少少之果次備香水一杯( 加散杖)次塗香一杯花鬘一杯燒香一杯 酒一杯 (若無者用茶)次洗米一杯(若飯)銀錢一 (若加用幣帛用普供養明)次於房中洗 嗽口次護身(淨三業三都被甲如十八 )次入堂(持珠杵)次禮佛著座次塗香 塗手次加持香水(用辦事印明)次灑淨供 物次加持飯食印真言左手作拳押腰。 手五指直立。屈中指節。以空指置火 。每誦真言摩中指甲上兩三遍。余舒 之。然後 以大指頭指三遍。彈指舒之。
真言曰:
namaḥrvatathāgatāvaru
曩莫.薩縛怛他(引).櫱多(引).縛路
kiteoṃsabharasabharahūṃ
枳帝.唵.三婆羅.三婆羅.吽
次施甘露印明作施無畏印以右手豎展 指。直上即是。
真言曰:
namaḥsrūpayatathāgatā
曩莫.蘇嚕(二合).跛野怛他.櫱多( )
yatadyatāoṃsrūsrū
野怛你也(引).他.唵(引).蘇嚕(二合 ).蘇嚕(二合)
prasrūprasrū
缽羅(二合.)蘇嚕(二合).缽羅(二合) 蘇嚕(二合)
svāhā
娑縛(二合).賀(引)
次鍐字心水輪觀先作施無畏印。右手 心觀vaṃ字誦vaṃ字。此咒一七遍。即 展開五指。向下臨食器中觀。
真言曰:
namaḥsamantabuddhānāṃvaṃ
曩莫.三曼多.沒馱南.鍐
次勸請(用堅實合掌)。
至心謹請摩訶迦羅大黑天神與諸眷屬 降於此受此供養(三遍)
真言曰:
oṃmahakarayaehyehi
唵.摩訶迦羅耶.曳醯呬(三反普印明)
以二空招之(三反)次閼伽(取散杖誦闕 明於座前灑之三遍)次華座(取一房花 花座明置於座所或亦用印明)次塗香次 華鬘次燒香次飲食(先果子次酒次飲食) 次燈明次銀錢(或加用幣帛)次普供養( 十八道也)次贊印(用普諸天贊)次諦緣 (用普印)次心經(用普印)次隨意祈願 根本印真言(同印)次念誦(極少 百遍)次閼伽(如先)次啟白(用普印)所設 供養可笑粗惡攀緣覺觀多不如法惱亂 眾唯願慈悲佈施歡喜
次禮拜次撥遣右手作拳。以大指捻頭 。仰掌彈指作聲七遍是也。
真言曰:
oṃvajramukṣabhuḥ
唵.拔折羅(二合).母乞叉(二合).穆
次護身(三部被甲如先)次著座
諸天贊
ayaṃtudevasagasrakaṃnare
阿演都泥縛左哦素羅緊那黎
ndrasakaradayāpravara
捺羅(二合)娑羯羅娜臾缽羅(二合)縛羅
dharmmakṛtadhikaravidharmma
達麼枳裡(二合)多地伽羅尾達麼
caprasamasaukhyainimeta
左缽羅(二合)娑麼操企也(二合)你銘多
bhutametaprakaṣayatadiha
部多銘多缽羅(二合)迦捨夜怛你賀
śramathāyadhamaṃ
室羅(二合)摩拏也馱च
大黑天神法(終)
下載:大正新脩大藏經《大黑天神法 CBETA 電子版
http://mahakala.book853.com/show.aspx?id=875&cid=178
◆御覧頂きありがとうございます
◆◆◆商品◆◆◆
クベーラ、あるいはジャンバラは富 財宝をもたらす神として崇拝されて り、一般的にはクベーラ(ジャンバ ラ)も毘沙門天も同じルーツを持つ です。
一般的に、天部の神は大変強力なお があるのが広く知
られるところであり、この神も富と 運の神として利益
が大きく期待され今日まで広く信仰 れてきました。
マントラは
Om Yakshaya Kuberaya Vaishravanaya Dhana-Dhanyadi, Pataye Dhana Dhanyadi Samruddhim Me, Dehi Dapaya Swaha.
大きさ約6cm
他にも
独鈷、金剛杵、羯磨杵、ラピスラズ 、マニ車、ヤントラ
インド
ラクシュミー吉祥天、坐像、立像、 ラスヴァティー弁才天坐像、シヴァ 。ブラフマン梵天、ガネーシャ、踊 るシヴァ、アプサラ天女、インドラ 釈天、クリシュナ、パールバティー ドゥルガー、ダッタートレーヤ、ヤ ントラ、ハヌマーン
チベット
タンカ、マンジュシュリー文殊菩薩 マハーカーラ大黒天、弥勒菩薩マイ レーヤ、五智如来、アミターバ阿弥 陀如来、釈迦如来、金剛薩たヴァジ ラサットヴァ、千手観音、六字観音 パドマサンバヴァ(チベットの高僧 )
観音菩薩、白ターラ観音、緑ターラ 音,独鈷、金剛杵、羯磨杵、ヤブユム ダーキニー荼吉尼天、バジュラヨー ニー、
カーリー女神、ヤブヨム持金剛歓喜 、チャクラサンバラ勝楽尊、クーベ 毘沙門天
日本
阿弥陀如来、文殊菩薩、釈迦如来、 ンダーラブッダ、大日如来、不動明
中国
関羽雲長、白衣観音、布袋尊
等ございます
https://page.auctions.yahoo.co.jp/jp/auction/k205519070
・Om vasudhara ratnanidhanaksetre svaha ....
https://www.logsoku.com/r/2ch.net/kyoto/1180535690/
象头王财神咒2016象头王财神咒唵嘎唵 嘎唵梭哈(om.gāommǎgā.omsuowahe)象头王 神藏名(毗那夜迦),象鼻天,亦为 ...
https://www.youtube.com/watch?v=Qkurv4nQ96s
大黑天神法03_供養大黑天神之手印與 持法
寶藏天陀羅尼法
【蔡文端修正版】
O3, dhana-d2 dhana-d2 vitte0var2ya sv2h2.
http://www.dharanipitaka.net/2011/20...ishoNo1282.pdf