http://www.kagyulibrary.hk/uploads/e...ure/file/3.pdf
Printable View
https://img.upanh.tv/2023/11/02/Scre...9_Facebook.jpg
陳健民居士傳承的關公咒:嗡雲長拉薩 吽呸 吳潤江傳承的關公咒:Om raja kingkara vajra siddhi hum
Gesar 和戰神眷屬咒:Om mani raja haha hihi hehai hohau sarva vijaya siddhi hum 關公咒一般可以求開運,藏傳的關公財 。
各位這是我在這群內分享過大家可以 試的咒,共86 個 - Facebook
https://m.facebook.com/groups/287000...8511354792926/
Sogyal Rinpoche: bậc thầy và tai tiếng (bài dịch)
https://i.imgur.com/nZLOevg.jpg
https://img.upanh.tv/2023/11/25/a83d...7a94732374.jpg
• Sogyal Rinpoche, một bậc thầy Mật tông Tây Tạng, người nhiều lần kinh nghiệm điều mà Mật tông Tây Tạng gọi là Tâm bản nhiên hay Bản chất của Tâm hay Rigpa, đã qua đời cùng với những cáo buộc lạm dụng từ chính học sinh của mình.
• Đức Đạt Lai Lạt Ma đã quở trách ông ấy, ông nói “Bây giờ ông ấy đã bị thất sủng,”.
• Trong thời gian đó, ông đã ghép hai chữ cái đầu tiên của tên mình và bốn chữ cái đầu tiên của tên đệm thành Sogyal và lấy họ là Rinpoche, một danh hiệu kính trọng dành cho các lạt ma.
https://spiderum.com/bai-dang/Sogyal...h-NAdRJKoWwM94
P/s: Quá trời luôn, giờ mới bik " RINPOCHE " là họ ngak! Chứ không phải là " Đức RINPOCHE " thứ thiệt ak!
Kỳ tích đi tìm vị Rinpoche tái sinh
Đó là câu chuyện về Ngài Geshe Lama Konchog Rinpoche qua đời năm 2001. Có nhiều chuyện kỳ lạ trở thành mầu nhiệm sau khi Ngài ra đi.
• Trước khi lên đường, Tenzin Zopa mang theo vài Pháp khí của Ngài Geshe Lama Konchog Rinpoche đương thời vẫn dùng, trong đó có chuỗi hạt màu trắng.
• Trong phòng là ba vị Rinpoche, ba và mẹ đứa trẻ cùng sư Tenzin Zopa. Ở giữa là một cái bàn trải tấm khăn mầu đỏ trầm, phía trên có ba cái chày Kim Cang để cạnh ba cái chuông, kế đó là ba xâu chuỗi ba màu là: nâu, vàng, trắng. Các vị Thánh Tăng chỉ vào chày Kim Cang hỏi “Cái nào trước đây thường dùng?”, bé Tenzin Nyudrup đã cầm đúng cái chày Kim Cang của Ngài Geshe Lama Konchog Rinpoche. Rồi đến chuông, chuỗi hạt cũng được bé chọn chính xác đến kinh ngạc.
Bé Tenzin Nyudrup đã được Ngài Datlai Latma 14 làm lễ công nhận là vị hóa thân của Ngài Geshe Lama Konchog và thụ phong cho bé Tenzin Nyudrup được đặt tên Phật là Tulku Tenzin Phuntsok Rinpoche.
• ba xâu chuỗi ba màu là: nâu, vàng, trắng
• Có lần Tulku Tenzin Phuntsok ngồi một mình với bức tượng Đức Thích Ca trên tay – do một Phật tử cúng dường, Tulku Tenzin Phuntsok ngắm rất lâu như tìm gì đó bí ẩn trong bức tượng rồi giơ lên cao, cụng đầu vào tượng không muốn rời xa.
https://www.daophatngaynay.com/vn/ti...-tai-sinh.html
Đôi Nét Về Ngài Pabongka Rinpoche
https://www.phatan.org/a2797/doi-net...ongka-rinpoche
“Karmapa Khyenno"
Lama khyenno!
Guru-Rinpoche Khyenno!
Đạo Sư Oddiyana, Ngài biết con! (Orgyen Khyenno!)
https://rinchenphuntsokblog.wordpres...chen-phuntsok/
https://thuvienhoasen.org/a36133/tin...n-duong-sau-xa
=====
He has particular devotion for the Karmapa and Sangye Nyenpa Rinpoche. He often sings the mantra „Karmapa khyenno” or „Sangye Nyenpa, Sangye Nyenpa…” It happened that he took a pin with the image of His Holiness, which was worn by one of the visitors and didn’t want to give it back, repeating: „This is OUR Karmapa”.
https://www.benchen.org.pl/en/histor...inpoche-yangsi
Nếu con liên tục thực hành như vậy, Tập Hội Tám Heruka Hoàn Toàn Viên Mãn tuyên bố rằng:
Chỉ riêng Lời Cầu Khẩn Bảy Dòng là đủ;
Nhờ sức mạnh của lời cầu nguyện này, con sẽ trực tiếp diện kiến tôn nhan Đạo Sư.
Nếu con tụng lời cầu nguyện này liên tục trong bảy hay hai mươi mốt ngày, các thành tựu và gia trì sẽ trút xuống con,
Và con sẽ thoát khỏi mọi chướng ngại.
Và:
Nếu con thiết tha cầu khẩn Ta, hát lên bảy dòng cầu khẩn này bằng giai điệu mong mỏi cùng với tiếng trống sọ, Ta, Liên Hoa xứ Oddiyana, sẽ đến từ Núi Vinh Quang ở Camara để gia trì con – chẳng thể nào kháng cự, như mẹ nghe thấy tiếng con khóc. Đây là lời hứa của Ta và phá vỡ nó sẽ đẩy Ta vào địa ngục sâu nhất.
Điều trọng yếu là phát triển sự xác quyết với những điều này cùng nhiều lời hứa khác được tìm thấy trong khẩu kim cương chẳng dối lừa của Guru Rinpoche và giữ chúng trong sâu thẳm trái tim. Cầu khẩn Ngài dứt khoát sẽ đem đến gia trì lớn lao bởi Guru Rinpoche không bao giờ lừa dối. Hơn thế nữa, câu khắc kinh văn thành tựu từ Đạo Sư Mật Tập (Lama Sangdu) có đoạn:
Nếu con muốn thu thập hai tích lũy một cách nhanh chóng và chứng ngộ tinh túy của thực hành, thiền định về đạo sư ưu việt hơn nhiều so với các kinh văn và Mật điển của Kim Cương quả thừa Chân ngôn Bí mật.
Và:
Thành tựu Ta là thành tựu tất cả chư Phật,
Thấy Ta là thấy tất cả chư Phật –
Bởi Ta là hiện thân của tất cả chư Thiện Thệ.
Mọi lúc, dù vui hay buồn, tốt hay xấu, với những vị còn sống hay đã qua đời, vì đời này hay các đời tương lai, bất kể lúc nào, vì lợi lạc tạm thời hay rốt ráo, vào lúc thuận lợi hay khó khăn, hãy biết rằng chẳng có hy vọng nào ngoài Ta. Hãy nghĩ về Ta lặp đi lặp lại nhiều lần. Hãy thấy rằng: Đạo Sư Oddiyana, Ngài biết con! (Orgyen Khyenno!)
https://thuvienhoasen.org/a36133/tin...n-duong-sau-xa
☆ CHƠN NGÔN KÍNH LỄ TAM BẢO:
• Om̐ namo ratnatrayāya.
( Om̐ homage to the three jewels. )
☆ CHƠN NGÔN CỦA CHƯ LAMA:
• Om̐ lāmāyai svāhā.
https://ir.library.oregonstate.edu/downloads/z890s231t
☆ NAMO GURUBHYAH.
1. NA MÔ QUY Y KIM CANG THƯỢNG SƯ ( từ HỒNG DANH BỬU SÁM ).
2. NA MÔ KIM CANG ĐẠO SƯ ( từ LA DUY KHÁNH dịch )
=]> KIM CANG THƯỢNG| ĐẠO SƯ CHƠN NGÔN:
Om̐ gurubhyo namaḥ.
Om̐ to the gurus, homage.
https://www.chuabuuchau.com.vn/chuon...h-am_2076.html
https://www.scribd.com/document/5837...BA%A1o-S%C6%B0
https://studybuddhism.com/en/advance.../the-guru-puja
TIỂU SỬ ĐỨC JIGTEN SUMGON
TỔ SÁNG LẬP DÒNG TRUYỀN THỪA DRIKUNG KAGYU
https://dieungu.org/a17637/tieu-su-d...-drikung-kagyu
Niệm ân Sư Tổ – cố Mật giả Thích Liễu Minh
https://daotrangtuphat.com/niem-an-s...ich-lieu-minh/
Niệm ân Sư Tổ – cố Mật giả Thích Liễu Minh
https://iili.io/FiXkdmJ.md.jpg
https://i.ibb.co/wrC51hRJ/ht-li-u-minh.jpg
Sư cô Thích Nữ Tịnh-Hoa tại chùa Nhơn-Phước ngày 27-1-2020 (mùng 3 Tết Canh-Tý)
Diệu Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật _()_
Diệu A Di Đà Phật _()_
Đệ tử Pháp Lạc quỳ kính đảnh lễ Quý-Thầy _()_
Kính bạch Quý-Thầy _()_
Một mùa xuân nữa lại về, có dịp về quê nhà ở Mỹ-Tho, nhớ Ân Sư Tổ – cố Hòa thượng Mật giả Thích-Liễu-Minh tôn kính, sáng ngày mùng 3 Tết Canh-Tý (27/01/2020), con đã về Chùa Nhơn-Phước (ấp 1, xã Tam Hiệp, huyện Châu-Thành, tỉnh Tiền-Giang) để đảnh lễ Giác linh Sư-Tổ.
Con đã hữu duyên gặp lại Sư cô Thích nữ Tịnh-Hoa, vị đã được Sư-Tổ hóa độ hết bệnh Hạch di-căn (ung-thư) giai đoạn cuối mà con được biết qua đoạn video clip (ngày 13/6/2014) trong bài Phật Pháp vi diệu nhiệm mầu 3 đăng trên website của Đạo-tràng Tu-Phật.
Kính bạch Quý-Thầy _()_
Con thật hoan hỷ khi được Sư-cô cho biết cô phát bệnh năm 2012, đến giữa năm 2013 ở giai đoạn cuối của bệnh ung-thư thì thắng duyên được Sư-Tổ hóa độ khỏi bệnh, cho đến nay đã hoàn toàn khỏi bệnh, duy trì sức khỏe tốt và đã hoàn thành xong các chương trình Thạc-sĩ, rồi Tiến-sĩ Phật-học tại Trung-Quốc… Hiện Sư-cô tu tại Chùa Thiền-Vân (ấp 1, xã An-Thái-Trung, huyện Cái-Bè, tỉnh Tiền-Giang).
Quý báu hơn, qua lời chia sẻ của Sư-cô, con được biết về một trong những Mật-Nguyện của Sư-Tổ khi Ngài đã ân cần dặn dò mọi người trước khi viên-tịch:
Sau khi Ngài viên-tịch, hễ ai có bệnh gì thì hãy THÀNH-TÂM SÁM-HỐI nghiệp chướng đã gây tạo, TU-TÂM BỒI-ĐỨC hồi hướng cho oan gia trái chủ từ bao đời, khởi TÍN-TÂM khẩn thiết nơi Tam-Bảo:
– Nếu hữu duyên về chùa Nhơn-Phước, người bệnh trước hãy quỳ kính lễ Phật, sau lễ lạy trước Tôn ảnh Sư-Tổ (Tôn ảnh Ngài hiện đang được tôn trí tại gian hậu liêu của chùa) và trì niệm Pháp-hiệu của Ngài: “NA MÔ THÍCH-LIỄU-MINH BỒ TÁT”;
– Hoặc ở tại gia nếu có bàn thờ Phật thì hãy dâng nước cúng Phật, lễ Phật, chí thành niệm Phật hoặc niệm Pháp-hiệu của Ngài: “NA MÔ THÍCH-LIỄU-MINH BỒ TÁT” rồi thỉnh dùng nước đó thoa vào các chỗ đau bệnh trên thân;
Tất cả đều sẽ được Ngài gia-trì hóa-độ cho như khi Ngài còn tại-thế.
Sư-cô cũng chia sẻ thêm: Sư-cô có người bạn (ở Huế) bị ung-thư vú, nhờ thành-tâm sám-hối các nghiệp-chướng, tín-tâm vào sự cứu-độ nơi Tam-Bảo, thường hay về chùa Nhơn-Phước lễ Phật, lễ lạy trước Tôn ảnh và trì niệm Pháp-hiệu của Ngài mà đến nay cũng đã đặng khỏi bệnh.
Qua đó, con càng tín sâu về Nhân – Quả nghiệp báo phân minh và Phật-Pháp thậm thâm vi diệu không thể nghĩ bàn mà trường hợp của Sư cô Tịnh-Hoa là một điển hình tiêu biểu trong số rất nhiều người bệnh nan-y (bên cạnh những bệnh do âm phần Tà trược nương gá) đã được Sư-Tổ độ cho khỏi bệnh, từ đó tăng huy tín tâm tinh tấn tu Phật.
Riêng con, cũng như nhiều lần trước, khi về chùa lễ lạy trước Tôn ảnh Sư-Tổ và ở nơi Bảo-Tháp lưu giữ nhục-thân của Ngài, trong con lại trào dâng niềm xúc động khó tả… Trước đó nhiều ngày, con bị đau đầu suốt nhưng vẫn không khỏi, lúc lễ lạy Giác-linh Ngài thì tuy con chưa được biết về Mật-Nguyện trên của Ngài nên không tác-ý nguyện xin Ngài chữa bệnh nhưng khi về nhà dù giữa trưa nắng gắt nhưng chứng nhức-đầu đã hết lúc nào không hay, thân-tâm nhẹ nhàng thư thái (con cảm nhận rất rõ) và hoan-hỷ vô cùng! Thật là vi-diệu nhiệm-mầu!
Sư-Tổ đã nhập diệt, con thường nuối-tiếc vì đã không được diện-kiến Ngài khi còn tại thế, nay nhân duyên được tiếp xúc với Sư cô Tịnh-Hoa, qua đó được biết về một trong những Mật-Nguyện của Ngài, con rất xúc động khi Sư-Tổ vẫn luôn thùy-từ gia-hộ hóa-độ chúng sanh trầm mê khổ não. Mật-Nguyện – Mật-Hạnh từ bi vô lượng của Ngài vẫn âm thầm cứu độ tất cả dù Ngài đã nhập-diệt, thật là bất khả tư nghì! Con xin quỳ kính đảnh lễ Giác-linh Sư-Tổ _()_
Kính bạch Quý Thầy _()_
Nhận thấy việc chia sẻ Mật-Nguyện của Ngài sẽ mang đến lợi lạc cho nhiều người, nhất là những người đang bệnh-khổ, đồng thời là bổn-phận mà hàng hậu-sinh cần làm để góp chút phần nhỏ-nhoi tưởng nhớ đến Ân-Đức cao dày của Sư-Tổ, con kính thỉnh Quý-Thầy phổ truyền cho nhiều người được biết!
Con kính cảm tạ Quý-Thầy _()_
Diệu A Di Đà Phật _()_
Đệ tử Pháp- Lạc kính bút
—————————————–
https://daotrangtuphat.com/niem-an-s...ich-lieu-minh/
Phật Pháp vi diệu nhiệm mầu 3
https://youtu.be/kfTkBLcC-QA?si=PhjackMWB0_BjEkQ
Tiếp theo loạt bài trước về sự Vi Diệu Nhiệm Mầu của Phật Pháp và Hạnh Nguyện Chơn Tu bất khả tư nghì, đoạn video clip dưới đây ghi lại (vào ngày 13/6/2014):
1. Hình ảnh cố Hòa thượng Thích Liễu Minh (trụ trì chùa Nhơn Phước tại tỉnh Tiền Giang) đang dùng Mật-hạnh từ bi và Vô Vi Ấn Pháp nhà Phật để hóa độ người bệnh cho “âm siêu – dương thới”.
2. Tiếp sau đó là lời tự thuật của Sư cô Thích Nữ Tịnh Hoa, đang tu tại Chùa Thiền Vân (ấp 1, xã An Thái Trung, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang) đã được Sư Ông (cố Hòa thượng Thích Liễu Minh) trị hết bệnh “Hạch di căn” (ung thư) giai đoạn cuối, có thể tóm gọn như sau:
– Sư cô đi du học Thạc sĩ Phật học ở Trung Quốc, sau đó bị bệnh HẠCH DI CĂN. Sau khi phát nguyện trì Chú Đại Bi, Sư cô nằm mơ thấy Sư Ông liên tục 2 đêm trước khi về Việt Nam dù chưa 1 lần gặp mặt.
– Khi đã về Việt Nam, thông qua lời 1 vị Tăng, Sư cô mới nghe tiếng lành có Hòa thượng ở chùa Nhơn Phước trị bệnh hóa độ chúng sanh. Sau khi đến chùa gặp trực tiếp, Sư cô mới biết Ngài đúng là vị mình đã mơ thấy khi phát nguyện trì chú Đại Bi lúc còn ở Trung Quốc.
– Ung thư hạch đã biến chứng di căn giai đoạn cuối, Sư cô không nghĩ mình có thể qua khỏi. Thế nhưng, với Mật hạnh từ bi vô lượng của Ngài, chỉ 2 bàn tay (Vô Vi Ấn Pháp nhà Phật), thậm chí “nước miếng”, Ngài đã trị khỏi ung thư hạch di căn giai đoạn cuối trong khoảng 5 ngày, hóa kiếp cho oan gia trái chủ bao đời của Sư cô hỷ xả oán duyên, quy Phật vãng sanh.
– Trong lúc Ngài mật trì hóa độ các khối u, Sư cô “cảm” nghe được có đủ tiếng của các loài heo, mèo… hú lên. Rõ thấy, với sát nghiệp nặng nề từ tiền kiếp mà hiện tiền Sư cô phải chịu căn bệnh ung thư hạch di căn hành hạ đau đớn, khổ sở dường nào. Nếu không nhờ phước duyên nơi Tam Bảo để gặp được Ngài, chắc chắn Sư cô sẽ không “qua khỏi” mà giữ thân tu hành như lời tự thuật.
– Nếu không nhờ phước đức vun bồi nhiều đời nơi Tam Bảo, không có tín tâm kiên định nơi Phật Pháp, nguyện một lòng quy Phật, sám hối… khi bị “nghiệp hành” (oan gia trái chủ) thì sẽ khó có được thắng duyên gặp Bậc chơn tu đạo hạnh xuất thế gia trì – hóa độ…
Thế mới biết, chỉ có Phật Pháp thậm thâm vi diệu mới độ tận nghiệp chướng và khai ngộ tất cả chúng sanh, không thể nghĩ bàn. Đừng tầm thầy tà (bùa, ngãi…) mà tiền mất – tật mang, mai hậu nhập vào Tà chúng là điều không thể tránh khỏi, mọi người hãy ghi nhớ!
Luật Nhân-Quả nghiệp báo phân minh, mong tất cả tỉnh tâm tu Phật!
Diệu Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật _()_
Diệu A Di Đà Phật _()_
Cổ Thiên
https://daotrangtuphat.com/phat-phap...u-nhiem-mau-3/
Lịch sử Mật tông
Mật giáo được thành lập vào thế kỷ thứ VII ở vùng Nam Ấn với sự xuất hiện của bộ kinh Đại Nhật (Mahàvairocana sùtra). Đây là bộ kinh căn bản của Mật tông. Ở Ấn Độ, giai đoạn mà Mật giáo phát triển mạnh mẽ nhất là dưới thời các vương triều Pàla (750-1150) ở Bengale. Nhà vua Dharmapala (thế kỷ VII), người đã nhiệt thành ủng hộ xây dựng tu viện Vikramasilà, làm trung tâm truyền bá Mật giáo.
Ngài Long Thọ (Nagarjuna, 600-650) được coi là vị Tổ sư của Mật giáo. Ngài thuộc dòng Bà la môn, thọ giới tại Nalanda, sau đó đến Vương Xá tu 12 năm đắc thánh quả Đại thủ ấn tất địa (Mahamudràsiddhi). Theo truyền thuyết, có lần Ngài gặp đứa trẻ chăn cừu giúp Ngài qua sông; để đền ơn, Ngài thi triển thần thông giúp đứa trẻ làm vua. Tranh tượng vẽ về Ngài có hình rắn phủ quanh đầu. Phật giáo Tây Tạng cho rằng Long Thọ (thế kỷ VII) và Long Thọ luận sư (thế kỷ II) là một, tức Long Thọ đầu thai trở lại. Ngài có đệ tử truyền pháp là Long Trí.
Long Trí (Nagabodhi) là truyền nhân của ngài Long Thọ. Ngài dòng dõi Bà la môn, nhưng lại thường đi ăn trộm, khi ngài Long Thọ đang ở tịnh xá Suvarna, Long Trí đến rình xem thấy ngài Long Thọ đang ăn bằng một cái bát vàng, bèn nảy ý trộm lấy cái bát. Ngài Long Thọ biết tâm ý của Long Trí, liền ném cái bát cho Ngài. Ngài kinh ngạc và cảm phục bèn xin đi theo tu học. Ngài Long Thọ làm phép quán đỉnh cho Ngài nhập môn. Sau 12 năm tu luyện, Ngài chứng ngộ thánh quả.
Kim Cương Trí (Vajrabodhi, 663-723) người Nam Ấn, tu học ở Nalanda. Năm 15 tuổi qua Tây Ấn học về Nhân Minh luận với ngài Pháp Xứng, sau đó tham học về Luật, Trung Quán luận, Du Già luận, Duy Thức luận…, sau cùng tu học và nghiên cứu Kim Cương Đỉnh (Vajra-Sekhàra) và các kinh Mật giáo với ngài Long Trí ở Nam Ấn 7 năm. Năm 720, Ngài qua Trung Hoa, đến Lạc Dương truyền bá Mật giáo. Ngài được coi như vị Tổ đầu tiên của Mật tông Trung Hoa đồng thời với ngài Thiện Vô Úy.
Bất Không Kim Cương (Amoghavajra, 750-774) là đệ tử xuất sắc của ngài Kim Cương Trí. Ngài người Bắc Ấn, thọ Sa di năm 15 tuổi, theo thầy đến Lạc Dương thọ Tỳ kheo giới năm 20 tuổi. Tu học 12 năm thông suốt Mật giáo. Sau khi thầy mất, Ngài cùng với các đệ tử qua Tích Lan nghiên cứu giáo lý Kim cương đỉnh du già và Đại Nhật thai tạng. Trở về Trường An với số kinh điển đồ sộ, Ngài khởi công dịch thuật. Ngài Bất Không Kim Cương là Quốc sư của ba triều vua Huyền Tông, Túc Tông và Đại Tông.
Thiện Vô Úy (Subhakarasimha, 637-735) là đệ tử của ngài Long Trí, tức là huynh đệ với ngài Kim Cương Trí, từng là vua xứ Orissa, tu học ở tu viện Nalanda, thâm hiểu Du Già, chân ngôn và ấn quyết. Ngài đến Trung Hoa năm 716, đời vua Huyền Tông, trước ngài Kim Cương Trí 4 năm và cũng được coi là vị Tổ sư của Mật tông Trung Hoa, được vua Huyền Tông trọng đãi. Ngài dịch nhiều kinh quan trọng của Mật tông như Đại Nhật kinh, Tô Tất Địa Yết La kinh… Đệ tử của Ngài có các ngài Nhất Hạnh, Huyền Siêu, Minh Trí, Nghĩa Lâm…
Ngài Nhất Hạnh (638-727) quê quán ở Thuận Đức, tỉnh Nhật Lệ, Trung Hoa, là người tinh thông Tam luận, Thiền học, Thiên Thai…, đặc biệt tinh thông cả thiên văn học. Khi ngài Thiện Vô Úy đến Trung Hoa, Ngài được truyền pháp “Thai tạng giới” của Mật giáo. Ngài cùng với thầy dịch kinh Đại Nhật và trước tác bản sớ Đại Nhật kinh. Sau đó, Ngài cũng học với Kim Cương Trí, được truyền cho nghi quỹ của Kim Cương giới. Ngài được lãnh hội cả hai phái của Mật giáo Ấn Độ.
Mật giáo Ấn Độ được khởi xướng và truyền bá do các cao tăng như Long Thọ, Long Trí, Kim Cương Trí, Thiện Vô Úy. Trên mặt giáo nghĩa và hành trì thì chia làm hai phái Chân ngôn thừa (Mantrayàna) và Kim cương thừa (Vajrayàna), dựa theo tư tưởng của hai bộ kinh Đại Nhật và Kim Cương Đỉnh. Qua Trung Hoa, cả hai dòng hợp lưu ở Nhất Hạnh, đường lối Mật tông Trung Hoa tổng hợp của lý luận và thực tiễn. Mật tông phát triển mạnh và đã tạo nhiều ảnh hưởng đến nền văn hóa nghệ thuật Trung Hoa, được các triều vua ủng hộ nên rất hưng thịnh. Công đức truyền bá Mật giáo Trung Hoa do các ngài Thiện Vô Úy, Kim Cương Trí, Bất Không, Nhất Hạnh, Vô Hành…
Mật giáo được truyền vào Tây Tạng thế kỷ VIII do ngài Liên Hoa Sinh (Padmasambhava), người Ấn Độ, sống cùng thời với vua Tây Tạng Ngật Lật Song Đề Tán (755-797). Ngài đến Tây Tạng, đem Mật giáo truyền bá và sáng lập tông phái Ninh Mã (Nuyingmapa), một trong bốn phái lớn của Mật giáo Tây Tạng. Ngài được coi là Đức Phật Thích Ca tái thế, có tài chinh phục ma quỷ, thiên tai và các giáo phái. Ngài xây dựng tu viện Tang Duyên (Samye) năm 775 và trước tác nhiều tác phẩm quan trọng như bộ Tử thư… Ngài là Tổ sư của Phật giáo Tây Tạng.
Sự truyền thừa của Mật tông Tây Tạng không rõ nét và rất phức tạp; những bậc đại sư nổi bật đóng góp làm hưng thịnh và sáng rỡ Phật giáo Tây Tạng sau Liên Hoa Sinh có Atisa (A Đề Sa, 982-1054), thế kỷ X, Ngài người Đông Ấn, được mời sang Tây Tạng và sống ở đó 12 năm, đóng góp rất nhiều cho Phật giáo Tây Tạng nói chung và Mật giáo Tây Tạng nói riêng. Ngài sáng lập ra trường phái Kadampa (Cam Đan) ảnh hưởng lớn Phật giáo Tây Tạng, trước tác Bồ đề đạo đăng luận, đặc biệt công trình sắp xếp hệ thống kinh sách Phật giáo Tây Tạng, lấy triết học Tánh không và Duy thức làm tư tưởng cho Phật giáo Tây Tạng, điều đó ảnh hưởng đến các hệ tư tưởng Mật giáo Tây Tạng rất lớn.
Người cải cách nổi tiếng của Mật giáo Tây Tạng là Tông Khách Ba (1357-1419), Ngài sinh tại Amdo, thuộc vùng Đông bắc Tây Tạng. Xuất gia khi còn nhỏ, tham học với nhiều vị đại sư khác nhau, tư tưởng của Ngài ảnh hưởng của Atisa. Ngài sáng lập tông phái Gelugpa (Hoàng Mạo phái), một tông phái quan trọng nhất của Tây Tạng hiện nay. Ngài chủ trương xét lại toàn bộ kinh điển và tổng kết thành hai tác phẩm chính: Lamrin Chenmo (Bồ đề đạo thứ đệ) tiêu biểu cho đường lối tu tập Hiển giáo, Ngagrim Chenmo (Chân ngôn đạo thứ đệ) tiêu biểu cho đường lối tu tập của Mật giáo. Phật giáo Tây Tạng được chấn chỉnh và phát huy rực rỡ nhờ Tông Khách Ba. Trước khi mất, Ngài phó chúc cho hai đệ tử là Dalai Blama và Panchen Blama, tức Đạt lai Lạt ma và Ban thiền Lạt ma; theo truyền thuyết thì hai vị này chuyển sinh để tiếp tục cai trị Tây Tạng, được dân chúng coi là hai vị Phật sống. Mật tông được Phật giáo Tây Tạng bảo tồn và phát triển, còn ở các nơi khác không phát triển mấy.
===
ngài Kim Cương Trí thì truyền giáo pháp cho ngài Bất Không Tam Tạng. Ngài Bất Không truyền cho ngài Huệ Quả A-xà-lê. Ngài Huệ Quả truyền cho ngài Không Hải (tức Hoằng Pháp Đại Sư) người Nhật Bản.
https://thienphatgiao.org/gioi-thieu...giao-mat-tong/
LỢI-ÍCH
Mật-Chú Kim-Cang Thượng-Sư
https://fr.scribd.com/document/19938...E3NTM3MjczNTU.
Tế Điên, ông là ai?
https://iili.io/KqOSR9f.jpg
https://i.ibb.co/s9FfD8H8/img-5368-1...5afb-large.jpg
Trong Phật Quang đại từ điển, trang 5661, ghi sơ lược như sau: Đạo Tế (1150-1209). Ông là Thiền sư Trung Quốc thuộc phái Dương Kỳ, tông Lâm Tế, sống vào đời Tống, người Lâm Hải (Chiết Giang), họ Lý, tên Tâm Viễn, tự Hồ Ẩn, hiệu Phương Viên Tẩu.Năm 18 tuổi, ông xuất gia ở chùa Linh Ẩn và lần lượt tham học với các vị: Pháp Không Nhất Bản ở chùa Quốc Thanh, Đạo Thanh chùa Kỳ Viên, Đạo Tịnh chùa Quán Âm. Sau, Sư vào núi Hổ Khâu làm môn hạ ngài Hạt Đường Huệ Viễn và nối dòng pháp này. Sư lại đến ở chùa Tịnh Từ, chùa này bị thiêu hủy vì hỏa tai, Sư đi hành hóa ở Lăng Nghiêm trùng tu lại. Cư dân ở vùng Tần Hồ ăn ốc thường chặt đuôi ốc để ăn. Sư xin những con ốc này thả lại trong nước, ốc phần lớn sống lại mà không có đuôi. Bình sinh, tánh tình Sư cuồng phóng, thích rượu thịt, nên người đời gọi Sư là Tế Điên.Năm 1209, Sư thị tịch, thọ 60 tuổi, nhục thân của Sư nhập tháp tại Hổ Bào. Tiểu sử của Ngài tóm tắt là thế. Tuy nhiên ta cũng thấy ở Ngài một vài điểm đặc biệt: tánh tình cuồng phóng, thích rượu thịt, có những hành động không giống ai nên có hỗn danh là Tế Điên.Tuy “Điên” nhưng không phải là Điên quậy phá làm người kinh người sợ, mà là đem lại cho kẻ ác một số báo ứng kinh sợ khiến phải chừa bỏ và người thiện sự vui mừng thích thú. Việc hiển lộng thần thông cứu sống một số lớn ốc bị chặt đuôi biểu hiện lòng từ bi vô lượng đối với quần sanh của Ngài là một bằng chứng cụ thể. Cuộc sống lạ lẫm có nhiều cống hiến “đem lợi ích cho đời” của Ngài, dưới con mắt của người bình dân, trở thành một bậc siêu nhân. Siêu nhân đối với họ là một nhân vật bất tử đủ mọi quyền phép và tài năng làm được bất cứ việc gì mà vị ấy cần làm. Từ đó, họ tô đắp vào cuộc đời Tế Điên biết bao nhiêu hành tung kỳ bí với mục đích cứu người giúp đời. Một truyền mười, mười truyền trăm, khắp nơi kẻ chợ cũng như ngõ hẻm xóm làng, qua lời kể chuyện của người bán hàng và qua bao nhiêu sự chắt lọc thêm bớt theo trí tưởng tượng của từng nhóm người.
Lâu dần, Tế Điên hòa thượng hay Tế Công Hoạt Phật trở thành câu chuyện dân gian được lưu truyền qua cửa miệng mọi người.Các văn sĩ, sưu tập sửa đổi lại, gọt đẽo thành tập truyện nhan đề là “Tế Công Hoạt Phật” – nhưng vẫn xếp vào loại văn học dân gian, với hình bìa: ông Hòa thượng đội mũ lệch, mắt láo liêng, tay cầm chiếc quạt rách. Tác phẩm gồm hai phần: phần chánh truyện 240 hồi và phần tục biên 40 hồi.Đọc truyện Tế Điên, ta thấy thấp thoáng bóng hình đi mây về gió của Tây du, đậm nét hơn là tánh tình hành hiệp trượng nghĩa, cứu khổn phò nguy của anh hùng Lương Sơn Bạc. Điều đó cũng dễ hiểu, vì Tế Điên sống vào thời nhà Tống với biết bao rối ren phát xuất từ lòng tham, hết cướp cạn đến cướp ngày, gây cho dân chúng khổ đau không ít. Trước nỗi khổ đau hằng gánh chịu, gặp được bậc siêu nhân luôn tế khổn phò nguy, qua đó gởi gắm những ước mơ của mình, dù là kể lại hay nghe kể, cũng giải tỏa chút nào phiền muộn, quên đi những thực tại trước mắt, âu cũng là một điều thống khoái. Vì thế, ta không lạ gì chuyện Tế Điên với chiếc quạt rách đã gần gũi và phổ biến trong mọi giới quần chúng.Tuy nhiên, đây là quần chúng viết để quần chúng đọc, và vì người viết không thông hiểu Phật lý, cho nên ta không thể bắt buộc tác phẩm phải thể hiện đúng theo tinh thần Phật giáo thuần túy. Quan niệm “giết người ác là một việc làm tốt” không phải xuất phát từ lòng từ bi. Đạo Phật chỉ có hóa giải chớ không có đối nghịch. Nhưng nhìn chung, tác phẩm cũng đem lại lợi ích “tránh ác, làm lành” một cách sâu xa trong lòng dân chúng, được coi như là một thành tựu đáng khích lệ. Vui mà nghe, nghe mà nhớ, nhớ để làm điều tốt. Bấy nhiêu đó được thành tựu cũng là đạt yêu cầu rồi.Truyện Tế Điên mấy năm gần đây đã dựng thành phim nhiều tập. Phim ảnh tuy sống động nhờ những động tác diễn đạt, mặc dù có thêm phần hư cấu sáng tạo nhưng lại không diễn hết những tình tiết tế nhị mà lời văn thể hiện.
Để bổ túc những cái chưa đủ đó, dịch giả cố gắng khắc phục bệnh lười của mình, gắng dịch cho xong, để gọi là “mua vui cũng được một vài tí ti”, nhằm cung ứng cho người đọc thưởng thức thêm những điều mà phim ảnh đã lược bớt.Tiếc rằng cái biết của mình chỉ là khung trời nhỏ hẹp của đáy giếng, không thể chuyển tải trọn vẹn ý tứ cũng như cái hay của ngôn từ được. Những chỗ sai sót được quý vị thức giả phủ chính cho lần tái bản sau là một điều “xin chắp tay vạn tạ”.
ĐỒ KHÙNG
https://thuvienhuequang.vn/blogs/bai...en-ong-la-ai-1
ĐÈN SOI NẺO GIÁC VÀ LUẬN GIẢI
Nguyên tác: Bodhi-patha-pradìpa
Tác giả: Atisha
Dịch giả: Thích Nữ Trí Hải
https://lienhoaquang.com/thu-vien_DE..._tuequang.html
Đạt-Lai Lạt-Ma (達賴喇嘛) là danh hiệu của một nhà lãnh đạo tinh thần của Phật giáo Tây Tạng thuộc trường phái Cách-Lỗ (格魯派, gelugpa) hay còn gọi là Hoàng mạo phái (黃帽派) tức phái mũ vàng.Đạt-Lai Lạt-Ma là đọc theo phiên âm Hán Việt (達賴喇嘛). “Đạt-Lai” có gốc từ tiếng Mông Cổ nghĩa là “biển cả” còn “Lạt-ma” là từ tiếng Tây Tạng được dịch từ tiếng Phạn “guru” là từ xưng hô dành cho các vị Đạo sư. “Đạt-Lai Lạt-Ma” có nghĩa là “Đạo sư với trí huệ như biển cả”. Trong lối dùng hàng ngày nhiều người còn dùng từ Phật sống (hoạt Phật) để chỉ Đạt-Lai Lạt-Ma.
Danh hiệu Đạt-Lai Lạt-Ma được vua Mông Cổ Altan Khan phong cho phương trượng của trường phái Cách-Lỗ (còn gọi phái Hoàng giáo) vào năm 1578. Kể từ 1617, Đạt-Lai Lạt-Ma thứ 5 trở thành người lãnh đạo chính trị và tinh thần của Tây Tạng. Kể từ đó, người Tây Tạng xem Đạt-Lai Lạt-Ma là hiện thân của Bồ tát Quán Thế Âm, và Ban-Thiền Lạt-Ma (Panchen Lama) là người phụ chính. Mỗi một Đạt-Lai Lạt-Ma được xem là tái sinh của vị trước.Tính đến nay Phật giáo Tây Tạng đã có 14 vị Đạt-Lai Lạt-Ma lãnh đạo phái Cách-lỗ như sau:
1, Căn-đôn Châu-ba (根敦珠巴, Gendun Drub, 1391-1474)
2, Căn-đôn Gia-mục-thố (根敦嘉穆錯, Gendun Gyatso, 1475-1542)
3, Toả-lãng Gia-mục-thố (瑣朗嘉穆錯, Sonam Gyatso, 1543-1588)
4, Vinh-đan Gia-mục-thố (榮丹嘉穆錯, Yonten Gyatso, 1589-1616)
5, La-bốc-tạng Gia-mục-thố (羅卜藏嘉穆錯, Losang Gyatso, 1617-1682)
6, Thương-ương Gia-mục-thố (倉央嘉穆錯, Jamyang Gyatso, 1683-1706)
7, Cách-tang Gia-mục-thố (格桑嘉穆錯, Kelsang Gyatso, 1708-1757)
8, Khương-bạch Gia-mục-thố (姜白嘉穆錯, Jampel Gyatso,1758-1804)
9, Long-đa Gia-mục-thố (隆多嘉穆錯, Lungtog Gyatso, 1806-1815)
10, Sở-xưng Gia-mục-thố (楚稱嘉穆錯, Tsultrim Gyatso, 1816-1837)
11, Khải-châu Gia-mục-thố (凱珠嘉穆錯, Kedrub Gyatso, 1638-1856)
12, Xưng-lặc Gia-mục-thố (稱勒嘉穆錯, Trinle Gyatso, 1856-1875)
13, Thổ-đan Gia-mục-thố (土丹嘉穆錯, Tubten Gyatso, 1876-1933)
14, Đăng-châu Gia-mục-thố (登珠嘉穆錯, Tenzin Gyatso, 1933-nay)
Ngài chào đời tại làng Taktser, vùng Đông Bắc Tây Tạng vào ngày 6/7/1935 (Ất Hợi) trong một gia đình nông dân. Tên trước khi được thừa nhận trở thành vị Đạt-Lai Lạt ma thứ 14 là “Lhamo Dhondup”. Ngài được thừa nhận là Đạt-Lai Lạt-Ma vào năm 2 tuổi theo truyền thống Tây Tạng như là Hoá thân của Đạt-Lai Lạt-Ma thứ 13.Đạt-Lai Lạt-Ma được tấn phong tước vị vào ngày 22/2/1940 tại Lhasa, thủ đô của Tây Tạng, chính thức là người lãnh đạo chính trị và tôn giáo cho 6 triệu người Tây Tạng.
Nguyên quán & cơ duyên
Khi Đạt-Lai Lạt-Ma thứ 13 viên tịch vào năm 1933, chính phủ Tây Tạng gặp khủng hoảng trong v Theo truyền thống của người Tây Tạng, Đạt-Lai Lạt-Ma là hiện thân lòng từ của chư Phật và Bồ Tát, người chọn con đường tái sinh trở lại kiếp người để cứu giúp chúng sanh. Danh hiệu Đạt-Lai Lạt-Ma cũng được hiểu là Hộ Tín,”Người bảo vệ đức tin” (Defender of the Faith), Huệ Hải, “Biển lớn của trí tuệ” (Ocean of Wisdom), Pháp vương,”Vua của Chánh Pháp” (King of Dharma), Như ý châu, “Viên bảo châu như iệc tìm kiếm một người thừa kế. Năm 1935, vị nhiếp chính đi đến hồ thiêng Lhamo Lhatso ở Chokhorgyal, khoảng 90 dặm từ thủ đô Lhasa. Theo truyền thống của Tây Tạng, người ta có thể nhìn thấy mọi việc ở tương lai từ hồ linh thiêng này. Lúc bấy giờ vị nhiếp chính thấy ba chữ Tây Tạng Ah, Ka vàMa hiện lên giữa mặt nước trong vắt của hồ thiêng, theo sau ba mẫu tự này là bức tranh của một ngôi chùa ba tầng với mái ngói màu xanh lục và một căn nhà có chiếc máng xối kỳ lạ.
Năm 1937, chính phủ Tây Tạng đã gởi những hình ảnh thiêng liêng từ hồ thiêng đến các tỉnh thành của Tây Tạng để tìm kiếm nơi tái sinh của Đạt-Lai Lạt-Ma. Một phái đoàn tìm kiếm tái sanh được thành lập và đi về hướng Đông Bắc Tây Tạng, vị trưởng phái đoàn là Lạt-ma Kewtsang Rinpoche, Tu viện trưởng Tu viện Sera. Khi phái đoàn đến làng Amdo, họ thấy quang cảnh nơi này giống y như hình ảnh đã thấy dưới hồ thiêng. Lobsang Tsewang cải trang thành người trưởng đoàn, và Lạt-ma Kewtsang cải trang thành người thị giả và họ vào thăm một căn nhà với chiếc máng xối kỳ lạ. Bấy giờ Lạt-ma Kewtsang có mang một xâu tràng hạt (rosary) của Đạt-Lai Lạt-Ma thứ 13 và chú bé trong căn nhà ấy đã nhận ra nó và yêu cầu được cầm xem. Lạt-ma Kewtsang hứa sẽ cho nếu chú đoán được ngài là ai. Và chú bé liền trả lời ngay bằng một loại tiếng lóng của địa phương là “Sera aga”, nghĩa là “Lạt-ma ở tu viện Sera”. Tiếp đó, sư hỏi chú bé vị trưởng đoàn là ai và chú bé đã trả lời đúng, và chú cũng cho biết tên chính xác của người thị giả. Theo sau đó là một loạt trắc nghiệm khác để chú bé chọn lựa những đồ dùng thường ngày của Đạt-Lai Lạt-Ma thứ 13 và chú bé cũng nhận ra tất cả và nói: “của tôi, của tôi”. Chú bé ấy chính là Đạt-Lai Lạt-Ma hiện nay.
Từ những kết quả của cuộc kiểm tra này giúp họ đoán chắc rằng họ đã tìm ra hóa thân mới và niềm tin của họ càng được vững mạnh thêm bởi những ý nghĩa từ ba mẫu tự Tây Tạng đã từng thấy dưới hồ thiêng: Ah là hàm nghĩa cho tỉnh limdo, nơi chú bé chào đời, Ka là chỉ cho Tu viện Kumbum, một ngôi Tu viện lớn nhất với ba tầng gần nhà của chú bé và Ma là ám chỉ cho ngôi tu viện Karma Rolpai Dorje ở trên ngọn núi của ngôi làng gần bên. Cuối cùng phái đoàn quyết định chú bé ấy là hậu thân của vị Đạt-Lai Lạt-Ma thứ 13.
Quá trình tu học tại Tây Tạng
Đạt-Lai Lạt-Ma bắt đầu sự nghiệp học vấn của mình vào năm 6 tuổi và hoàn tất học vị cao nhất của Phật giáo Tây Tạng là Geshe Lharampa, tương đương với Tiến sĩ Phật học (Doctorate of Buddhist Philosophy) ở tuổi 25 vào năm 1959. Năm 24 tuổi, Ngài đã tham dự kỳ thi đầu tiên tại các đại học Phật giáo Drepung, Sera và Ganden. Kỳ thi cuối cùng được tổ chức tại Jokhang, thủ đô Lhasa trong thời gian lễ hội Monlam, tháng giêng theo lịch Tây Tạng.
Trước đó Ngài phải học tất cả các môn học chính như Luận lý (logic) văn hóa và nghệ thuật Tây Tạng (Culture & Tibetan Art), Phạn ngữ (sanskrit), Y học (medicine), Triết học Phật giáo (Buddhist philosophy). Riêng môn Phật học này là khó nhất, được chia ra làm năm phần là Bát-nhã-ba-la-mật-đa (prajñāpāramitā), Trung quán (mādhyamika), Giới luật (vinaya), A-tỳ-đạt-ma và Lượng học (pramāṇa). Và các môn học phụ khác là: biện luận (dialetics), thi ca (poetry), âm nhạc (music) và kịch nghệ (drama), thiên văn (astrology), văn phạm (metre and phrasing). Vai trò và trách nhiệm lãnh đạo
Vào ngày 17/11/1950, Đạt-Lai Lạt-Ma 14 đã khoác lên mình một trọng trách là người lãnh đạo thế quyền của người dân Tây Tạng (head of the State and Government) sau khi có khoảng 80.000 quân lính của Trung Quốc tấn công vào Tây Tạng.
Năm 1954, Ngài đã đến Bắc Kinh thương thuyết hòa bình với Mao Trạch Đông và những nhà lãnh đạo Trung Hoa khác, gồm Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình. Tuy nhiên, các cuộc đàm phán trong chuyến đi này không mang lại kết quả, cuối cùngNgài đã quyết định muốn cứu vãn cho Tây Tạng, đành phải ra nước ngoài.Năm 1954, Ngài đã đến Bắc Kinh thương thuyết hòa bình với Mao Trạch Đông và những nhà lãnh đạo Trung Hoa khác, gồm Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình. Tuy nhiên, các cuộc đàm phán trong chuyến đi này không mang lại kết quả, cuối cùngNgài đã quyết định muốn cứu vãn cho Tây Tạng, đành phải ra nước ngoài.
Đào thoát khỏi Tây Tạng
Nỗ lực mang lại một giải pháp hòa bình của Ngài cho người dân Tây Tạng đã bị cản trở bởi một chính sách tàn bạo của nhà cầm quyền Bắc Kinh. Cũng trong lúc đó, tại miền Đông Tây Tạng, dân chúng đã đứng lên kháng cự mạnh mẽ chống đối sự đàn áp của Trung Hoa. Sự kháng cự này đã lan ra trên nhiều tỉnh thành của Tây Tạng. Vào ngày 10/3/1959, một cuộc biểu tình lớn nhất trong lịch sử của Tây Tạng tại thủ đô Lhasa để kêu gọi binh lính Trung Quốc phải rút khỏi Tây Tạng và tái xác định rằng Tây Tạng là một quốc gia độc lập. Cuộc biểu tình ôn hòa này đã bị bẻ gãy một cách tàn nhẫn của quân đội điên cuồng của Hoa lục. Kết quả của cuộc xâm lăng này đã giết chết hàng triệu người Tây Tạng vô tội và phá hủy 6 triệu chùa chiền tại đất nước này. Để tìm con đường giải phóng nỗi khổ đau ấy, 80.000 người dân Tây Tạng cùng với Đạt-Lai Lạt-Ma 14 vượt qua dãy Hy Mã Lạp Sơn để đến tị nạn tại miền bắc Ấn Độ vào năm 1959.
Ngày nay, với hơn 120.000 người Tây Tạng lưu trú tại vùng đất Dharamsala, Ấn Độ, được biết như là một “Lhasa nhỏ”, lập thành một chính quyền lưu vong Tây Tạng với một Hội đồng Dân cử Tây Tạng (Commission of Tibetan People’s Deputies) vào năm 1960.
Trong những năm đầu lưu vong, Đạt-Lai Lạt-Ma đã kêu gọi Hoa Kỳ lên tiếng về vấn đề của Tây Tạng, kết quả ba quyết nghị đã được thông qua tại Hội đồng Lập Pháp của Hoa Kỳ vào năm 1959, 1961 và 1965, kêu gọi nhà cầm quyền Bắc Kinh phải tôn trọng nhân quyền của người Tây Tạng và ước muốn tự trị của họ. Với việc thành lập một chính phủ lưu vong Tây Tạng, Đạt-Lai Lạt-Ma thấy rằng công việc khẩn cấp phải làm là cứu nguy dân tị nạn và nền văn hóa của Tây Tạng. Các lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế, văn hóa, giáo dục đã dần được tái hoạt động tại Ấn Độ. Trẻ em Tây Tạng được đi học và một Đại học Tây Tạng được thành lập tại Ấn Độ. Có khoảng 200 tu viện Tây Tạng được xây dựng tại Ấn Độ để tăng chúng tu học, duy trì và bảo vệ văn hóa và tôn giáo của Tây Tạng.
Năm 1963, Đạt-Lai Lạt-Ma đã ban hành một hiến pháp dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên giới luật của nhà Phật và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên hiệp quốc để biên soạn và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai.
Năm 1965, Ngài đến tham dự đại lễ Phật Đản Phật lịch 2500 tại Ấn Độ, đã gặp được Thủ tướng Ấn Độ là ông Jawaharlal Nehru, và ông Chu Ân Lai, đàm phán về vấn đề của Tây Tạng.
Ngày nay, thành viên của quốc hội Tây Tạng sẽ được bầu cử bởi dân chúng. Hội đồng nội các được bầu cử bởi quốc hội. Đạt-Lai Lạt-Ma nhấn mạnh rằng nhiệm vụ chính của chính quyền Tây Tạng là chăm lo cho đời sống người dân và Ngài cũng nói thêm, khi Tây Tạng giành lại nền độc lập, Ngài sẽ không còn ngồi ở văn phòng chính phủ nữa.
Năm 1987, Đạt-Lai Lạt-Ma tham dự một hội nghị nhân quyền tại thủ đôWashington, Hoa Kỳ. Ngài đề xuất một Chương trình Hòa bình Năm điểm bao gồm:
1, Biến Tây Tạng thành một khu vực hòa bình;
2, Chấm dứt việc di dân Trung Hoa đang de dọa sự tồn tại của dân tộc Tây Tạng;
3, Tôn trọng các quyền dân chủ, tự do và quyền làm người của dân Tây Tạng;
4, Phục hồi và bảo vệ môi sinh của Tây Tạng và chấm dứt việc sử dụng đất Tây Tạng để sản xuất vũ khí nguyên tử và bỏ đồ phế thải nguyên tử; và
5, Khởi sự thương thảo ngay về quy chế tương lai của Tây Tạng và bang giao giữa Tây Tạng với Trung Hoa.
Ngày 15/6/1988, tại Strassbourg – Pháp, Ngài nhắc lại Chương trình Hòa bình Năm điểm và yêu cầu nhà cầm quyền Bắc Kinh trao trả lại nền độc lập cho Tây Tạng. Ngày 9/10/1991, trong khi phát biểu tại Đại học Yale – Hoa Kỳ, Ngài bày tỏ ý định muốn trở về thăm Tây Tạng để đích thân đánh giá tình hình chính trị nơi ấy. Ngài nói:
– Tôi thật sự lo lắng vì tình cảnh bạo động có lẽ sẽ bùng nổ. Tôi muốn làm cái gì đó để chận đứng lại… chuyến viếng thăm của tôi sẽ là một cơ hội mới để làm tăng thêm sự cảm thông và tạo ra một nền tảng để giải quyết.
Một Tu sĩ Phật Giáo bình thường
Dù được xem là một vị hoá thân, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma 14 thường nói rằng:
“Tôi chỉ là một tu sĩ Phật giáo bình thường, không hơn, không kém” (I am just a simple Buddhist monk – no more, no less).
Sống trong một tịnh thất nhỏ ở Dharamsala, Ngài thức dậy vào lúc 4 giờ sáng, ngồi thiền, rồi tiếp tục làm việc theo thời khóa biểu của văn phòng chính phủ, tiếp khách và diễn giảng giáo lý cho các khóa tu hoặc chứng minh các đại lễ.
https://www.facebook.com/share/p/16nbm41vvV/
https://trungquocsensetravel.com/dat-lai-lat-ma-n.html
https://youtu.be/sQCj_tiJ3Xc?si=MbP_XgaMw4kdv3tZ
HT Thích Liễu Minh, Nhơn Phước Tự
lễ tang Thầy Van Khoa D1
(https://www.youtube.com/watch?v=sQCj_tiJ3Xc&t=765s / https://youtu.be/sQCj_tiJ3Xc?si=MbP_XgaMw4kdv3tZ)
những bài viết về mật tông của bạn rất hay
https://youtu.be/762weOQ4AD0?si=W40shHDjkhlPBqnu
Vai trò của vị Thầy trong Kim Cang Thừa: Khi có nhiều bậc Thầy thì thực hành ra sao?
(https://www.youtube.com/watch?v=762weOQ4AD0 / https://youtu.be/762weOQ4AD0?si=W40shHDjkhlPBqnu)
TÁC-HẠI CỦA THUỐC-LÁ
🌈 Còn ko ít hành giả mật thừa coi thường sự nguy hại của khói thuốc và những chất tương tự, hãy để tôi kể bạn nghe câu chuyện đức Karmapa thứ 3 đã bị đánh bại vì khói thuốc như thế nào
🙏 Rangjung Dorje (Karmapa thứ 3) là một bậc đại thành tựu trong đời và có sức ảnh hưởng mạnh mẽ lan đến tận Mông Cổ, ngài để lại nhiều tư liệu quý giá và đào tạo ra nhiều đệ tử xuất sắc
🙏Tuy là một đạo sư thành tựu vĩ đại, nhưng ngài đã gặp khó khăn trong quá trình hóa độ chúng sinh. Một lần nọ khi ở tu viện Tsurphu, một vị lama già thông thạo giáo lý tên là Karma Samdrup đã qua đời, Karmapa thứ 3 đã cố gắng cứu ông 3 lần (Phowa) nhưng đều đã thất bại. Sau đó ngài đã ngồi thiền và quan sát và nói rằng: "Lama này vì đã từng hút thuốc, khiến cho luân xa tái sinh về cõi phật đã bị chặn, thần thức của lama cũng bị chặn và rất khó siêu thoát"
🙏 Guru Rinpoche đã nói: "Nếu trong miệng bạn có dù chỉ một chút mùi thuốc lá, thì tôi - Guru Rinpoche, sẽ không bao giờ có hy vọng cứu được bạn."
🙏 Kinh luật tạng nói rằng: "có 18 loại thuốc lá, và dù bạn chạm vào thứ nào, bạn cũng sẽ phải đọa địa ngục"
🙏 Đức Atisha nói: “Nếu ai lệ thuộc vào thuốc lá, năm độc phiền não sẽ giống như lửa. Sau khi chết, họ sẽ bị tái sinh trong ác đạo, và sau khi có được thân người, họ cũng sẽ bị điên"
🙏 Đức Tsongkhapa nói: "nếu một người thầy thuốc dùng khói thuốc lá làm thuốc, người bệnh uống thuốc này trong 7 ngày sẽ cùng bị đọa vào địa ngục cùng với thầy thuốc trong 7 kiếp"
💥 Cùng vô số bậc thành tựu đã đều cảnh báo về sự nguy hại của khói thuốc và những chất tương tự như nó.
St
https://www.facebook.com/share/p/18xvD7wvms/
TRUYỀN-PHÁP TRONG MỘNG
🔥💥💫 Trulshik Rinpoche, Mahakala và Đức Karmapa đời thứ 16 ~
🟢 Nhiều thập kỷ trước, Trulshik Rinpoche – vị trụ trì danh tiếng – từng khởi nguyện được thọ nhận quán đỉnh mật truyền về Hộ Pháp Mahakala từ Đức Karmapa đời thứ 16, bậc giáo chủ của truyền thừa Kagyu.
🌟 Tuy nhiên, bất kể Trulshik Rinpoche cố gắng đến đâu, mọi nỗ lực gặp gỡ Đức Phật Sống này đều liên tục bị ngăn trở. Mỗi lần ngài định hành hương đến tu viện của Đức Karmapa tại Sikkim thì vì nhiều lý do khách quan, chuyến đi đều không thể thực hiện. Dù cố gắng gặp Ngài tại Ấn Độ, thì những biến cố bất ngờ vẫn luôn chen ngang.
🛑 Trulshik Rinpoche tự hỏi:
“Phải chăng có thế lực xấu hay chướng ngại nội tâm đang ngăn cản mình?”
❇️ Vì vậy, ngài đã thực hiện nhiều nghi lễ thanh tịnh, cầu nguyện và cúng dường, đồng thời trì tụng không ngừng nghỉ để tiêu trừ chướng nghiệp, tích lũy công đức và điều kiện thuận duyên cho việc thọ pháp.
❎ Nhưng cuối cùng, Trulshik Rinpoche vẫn không khỏi thất vọng khi Đức Karmapa viên tịch vào năm 1981, trước khi truyền pháp cho ngài như nguyện.
💞💞💞 Thế rồi, vào một đêm nọ, như là sự đáp lại từ trái tim chí thành, Đức Karmapa – bậc Đại Phật – hiện thân rực rỡ trong ánh sáng thanh tịnh của giấc mơ Trulshik Rinpoche.
💙💙💙 Trong mộng, Đức Karmapa – bậc Thầy hành trì Hành Động – đã truyền trọn vẹn pháp quán đỉnh Hộ Pháp Mahakala một cách nghi lễ đầy đủ và sâu xa.
🌓 Với Trulshik Rinpoche, không có ranh giới giữa giấc mộng và hiện thực, giữa sống và chết. Tất cả đều là pháp giới hiển lộ.
🌒 Vào cuối giấc mộng linh thánh ấy, Trulshik Rinpoche đã hỏi Ngài:
“Cái gì là thật?”
Đức Karmapa trả lời:
“Tất cả đều vừa thật vừa không thật. Không có gì là thật cả. Trong chân lý tuyệt đối, mọi sự đều rỗng lặng và trong suốt – không hề có sự việc nào xảy ra. Nhưng trong thế tục, mỗi hành động tạo nghiệp đều có giá trị.”
✨ Sau này, Trulshik Rinpoche xác nhận năng lực siêu việt và sự gia trì của Đức Karmapa:
“Trí tuệ bản nhiên chính là Hộ Pháp tối thượng.”
“Đức Karmapa là hiện thân viên mãn của tất cả chư Phật và Bồ Tát. Ngài đã hoàn toàn truyền pháp và gia trì cho tôi.”
https://www.facebook.com/share/p/17HbL7xhzq/
. Cố Pháp Sư HUYỀN-TẠNG - Guru Padma Asãmbriyã thuộc Pháp HỆ LIÊN-HOA.
. Cố Pháp Sư HUYỀN-TẠNG - Guru Padma Asãmbriyã thuộc Pháp HỆ LIÊN-HOA.
. Cố Pháp Sư HUYỀN-TẠNG - Guru Padma Asãmbriyã thuộc Pháp HỆ LIÊN-HOA.
. Cố Pháp Sư HUYỀN-TẠNG - Bạch Y Đạo Sĩ Padma AsamBhiya / Bạch Y Đại Sĩ Padma AsamBhiya - Guru Padma Asãmbriyã / Đức A-Sâm-Rí-Yá Bồ Tát, thuộc Pháp HỆ LIÊN-HOA.
. Cố Pháp Sư HUYỀN-TẠNG - Bạch Y Đạo Sĩ Padma AsamBhiya / Bạch Y Đại Sĩ Padma AsamBhiya - Guru Padma Asãmbriyã / Đức A-Sâm-Rí-Yá Bồ Tát, thuộc Pháp HỆ LIÊN-HOA.
. Cố Pháp Sư HUYỀN-TẠNG - Bạch Y Đạo Sĩ Padma AsamBhiya / Bạch Y Đại Sĩ Padma AsamBhiya - Guru Padma Asãmbriyã / Đức A-Sâm-Rí-Yá Bồ Tát, thuộc Pháp HỆ LIÊN-HOA.
======================================
Pháp Kệ Bí Truyền của Bạch Y Đạo Sĩ Padma AsamBhiya
Tôi tạo mục này để ghi chép lại nhũng bài Kệ dạy Pháp An Tâm Dưỡng Tánh ( Tính ) Hành Thiện Tích Đức Tránh Ác Nhẹ Nghiệp, cũng như những viễn kiến của Ngài Bạch Y Đại Sĩ, được phổ biến bởi học trò của Ngài là Liên Hoa Tịnh Huệ ( usa ), mà tôi đọc được. Tôi chỉ là người có duyên đọc và ghi chép lại, mong những ai có duyên đọc sẽ được trợ duyên trên đường đời đạo không hai, nhận hiểu , vuông tròn bốn ân : Tổ Tiên Ông Bà, Quê Hương Đất Nước, Nhân Loại và Muôn Loài, Trong Ngoài Tam Bảo .
Nam Mô A Di Đà Phật.
Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bố Tát Ma Ha Tát.
Nam Mô Padma AsamBhiya Bạch Y Đại Sĩ.
---
Tôi nghe nói ( chứ không chính mình kinh nghiệm )là Ngài Bạch Y Đại Sĩ "hoá hiện" dạy đạo cho Cư Sĩ Liên Hoa Tịnh Huệ (LHTH) bằng tiếng Việt ở Việt Nam trong những năm thuộc 2 thập niên 80s va 90s. Ngài có danh hiệu Phạn Ngữ là Padma AsamBhiya, trong quá khứ ( tiền kiếp ) Ngài đã có lần là người Việt Nam . Ngài dùng tiếng Việt [ với rất nhiều âm hưởng của miền Nam nước Việt như : chơn ( chân ) lý, tầm ( tìm ), Huệ ( Tuệ ), tánh ( tính ), sanh ( sinh ) ... có lẽ chỉ vì Cư Sĩ LHTH là người Việt sinh sống ở miền Hậu Giang thuộc miền Nam nước Việt ] dạy đạo cho Cư Sĩ Liên Hoa Tịnh Huệ và giảng giải hơn 10 bộ Kinh Đại Thừa Phật Giáo như : Duy Ma Cật, Pháp Hoa, Kim Cang ( Kim Cương ), Hoa Nghiêm, Đại Bát Niết Bàn, Quang Minh, Viên Giác, Duy Thức, Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh ..... cũng như những phương pháp thực hành tu tâm dưỡng tánh ( hiển cũng như mật, giáo cũng như thiền ...) thích hợp cho cả hai giới xuất gia và tại gia, nhưng đặc biệt là cho những người phát tâm tu tại nhà ( cư sĩ ). Những bộ giảng giải những Kinh Đại thừa trên đã được Vị LHTH và đạo hữu gần xa phát tâm ấn tống ở hoa kỳ khoảng trên dưới 10 năm nay ...
Thân,
vd
Ghi Chú: Tôi cố gắng ghi chú những chữ Việt của cả 2, 3 miền ( Bắc Trung Nam ) trong các bài kệ, nhưng chắc chắn là có thiếu sót, mong quý vị hoan hỷ , hỷ xả cho.
http://tuvilyso.net/diendan/forum_po...TID=7328&PN=38
https://dienbatnblog.blogspot.com/20...ong-phong.html
https://i.ibb.co/HmqYkdx/1A2A.jpg
https://iili.io/faZjrQt.md.jpg
Lha Lama Yeshe-O / Lha Lama Yeshe-Ö / Lha Lama Yeshe-Öd / Lha Lama Yeshe-Oe / Lha Lama Yeshe-Wo
(https://en.wikipedia.org/wiki/Yeshe-%C3%96 / https://treasuryoflives.org/biograph...-Yeshe-O/11056 / https://tibetanlaw.org/article/biogr...a-lama-yeshe-o / https://kagyuoffice.org/the-gyalwang...sha-session-3/)
-------
Ví dụ như vua Lha Lama Yeshe Oe là vị vua chuyển pháp luân đã mời Lama Atisha vào Tây Tạng. Vua lấy pháp tu DƯỢC-SƯ làm công phu chính, và đã xây dựng được rất nhiều tu viện lấy văn-tư- tu làm nền tảng tu học.
Vua Lha Lama Yeshe Oe đã hy sinh chính bản thân mình để mời Lama Atisha mang Phật Pháp vào Tây Tạng. Vua tìm vàng làm cúng phẩm, lúc ấy bị giặt bắt và nhốt gần Nepal, rồi qua đời nơi ấy. Khi mang nhục thể của vua ra hỏa thiêu, ánh sáng cầu vòng hiện lên và mưa hoa rơi xuống suốt 7 ngày. Phật DƯỢC-SƯ nhỏ bằng ngón tay cái, hiện ra nơi trái tim của vua, rồi về cõi Tịnh-Ðộ. Trong không trung có tiếng nhã nhạc cùng rất nhiều điềm lành hy hữu.
Tất cả các thầy trong dòng truyền thừa của Phật DƯỢC-SƯ đều hành trì pháp tu này vào ngày thứ 8 mỗi tháng, đã đạt nhiều thành tựu khó tưởng tượng, và khi chết để lại nhiều điềm lành như trường hợp của vua Lha Lama Yeshe Oe.
https://hanhgiakimcuongthua.blogspot...uong-phat.html
https://www.facebook.com/groups/6069...9534265924045/
https://nigioikhatsi.net/kinhsach-pd...iet-eng-2p.pdf
https://www.lamayeshe.com/sites/defa...buddha_lzr.pdf
https://www.hongnhu.org/loi-ich-phat-duoc-su/
https://thegioivohinh.com/diendan/sh...BB%A3c-s%C6%B0
https://thegioivohinh.com/diendan/sh...B0-Sange-Menla
. Dược vật có tính MỘC: Phòng-Phong, Độc-Hoạt, Trần-Bì, Củ-Ấu, Bạch-Mộc, Sơn-Dược, Hạt Bo-Bo, Nho, Mật-Ong, Côn-Bố, Tảo-Biển....
. Dược vật có tính HỎA: Nhục-Quế, Phụ-Tử, Gừng-Khô, Đinh-Hương, Mã-Kích-Thiên, Cây Tơ-Hồng, Nhục-Thung-Dung, Đỗ-Trọng, Lá Trà, Tiểu-Mạch...
. Dược vật có tính KIM: Quả Sung, Hoa Nhụy-Thạch, Mạch Phạn-Thạch, Chụng Nhũ-Thạch, Ớt, Lòng Đỏ Trứng, Chuối, Thược-Dược Đỏ, Xuyên-Khung, Đan-Sâm, Sa-Đinh-Ngư, Chế Phẩm từ Đậu, Măng, Tỏi...
. Dược vật có tính THỦY: Long-Cốt, Con Hàu, Khâu-Bản, Ba-Ba, Vân-Mẫu-Thạch, Dương-Khởi-Thạch, Tôm, Cua, Sơn-Thái-Anh, Hoa-Cúc Trắng, Thiên-Đông, Hạt Vừng, Các loại Xương-Cá, Râu Ngô...
. Dược vật có tính THỔ: ???
- Sách GIẢI TAI TẬP -