-
I.MỞ THỂ PHÁP HAY BÍ PHÁP TRƯỚC?
Vì sao trong buổi đầu khai Đạo, Thất Nương đến đầu tiên làm quen và khai tâm cho ba vị Thiên sứ: CAO QUỲNH CƯ, PHẠM CÔNG TẮC, CAO HOÀI SANG?
Bởi trong chữ Vương 王 có tàng ẩn chữ ngọc 玉 Nếu một cái chấm của nét chủ 丶ấy xuất ra ngoài thì thành chữ chúa 主 nhập vào trong thành ra chữ Vương. Phải thấy CAO ĐÀI là một nền VƯƠNG ĐẠO lấy Lễ làm đầu, tức là Nho Tông Chuyển thế. Đức Chí-Tôn những ngày tiền khai Đại Đạo đã phái cho Thất Nương Diêu Trì Cung đến trước xướng họa thi văn với các ông: Cư, Tắc, Sang làm duyên thơ nối liền Tiên tục. Bấy giờ Tiên Nương lấy giả danh là Đoàn Ngọc Quế, xin kết tình huynh muội với ba ông. Phải chăng đây là một Bí mật của Thiêng liêng phải dùng Thể pháp trước rồi mới lộ Bí pháp sau ? Điều này quả đúng như dự đoán của Đức Chí-Tôn mà Đức Hộ-Pháp có thuật lại rằng:
“Đời quá ư bạo-tàn, cho nên Đức Chí-Tôn mới giáng trần mở Đạo cho con cái biết: các ngôi Thần, Thánh, Tiên, Phật đều tình nguyện hạ thế cứu đời, xuống bao nhiêu lại càng mất bấy nhiêu. Trong thời-kỳ ấy Bần Đạo vâng lịnh Đức Chí Tôn xuống thế mở Đạo, thì Đức Chí-Tôn mới hỏi rằng: Con phục lịnh xuống thế mở Đạo, con mở Bí Pháp trước hay là mở Thể-Pháp trước ?.
Bần-Đạo trả lời: - Xin mở Bí-Pháp trước.
Đức Chí-Tôn nói: Nếu con mở Bí-Pháp trước thì phải khổ đa ! Đang lúc đời cạnh tranh tàn bạo, nếu mở Bí Pháp trước, cả sự bí-mật huyền-vi của Đạo, Đời thấy rõ xúm nhau tranh giành phá hoại thì mối Đạo phải ra thế nào? Vì thế nên mở Thể-Pháp trước, dầu cho đời quá dữ có tranh-giành phá hoại cơ thể hữu-vi hữu-hủy đi nữa thì cũng vô hại, xin miễn mặt Bí Pháp còn là Đạo còn. Bí pháp là Hiệp-Thiên-Đài giữ.Thể pháp là Cửu Trùng Đài mở mang bành trướng về mặt phổ thông chơn giáo”.
Description: http://www-personal.usyd.edu.au/~cda...s/image009.gif
Như vậy Thầy đã đưa ra giả tướng, tức là Thể pháp trước. Chính Thầy đến cũng tá danh là AĂÂ.Thất Nương khi đã kết tình huynh muội mới nói rõ tên thật là VƯƠNG THỊ LỄ.Bởi ba ông là nam biểu tượng bằng ba nét Dương quẻ Càn ☰ Tiên nương là nữ tượng nét đứt, âm. Đặt hào âm lên quẻ càn thành ra chữ Vương 王 .Như vậy Thầy cho Thất Nương đến trước báo cho dân tộc Việt Nam biết rằng Đấng Thượng Đế sẽ đến mở ra một nền VƯƠNG ĐẠO lấy LỄ làm đầu.
Ấy là quyền năng tối thượng mà Đức Thượng đế đã lựa chọn các Tướng Soái của Ngài từ lâu rồi.Đúng ngày giờ này Ngài đến gom lại “Dùng lương sanh để cứu vớt quần sanh”.
Tu-hành chính là phương-pháp sửa đổi tâm-tánh để mình làm CHỦ được chính mình; khi đã tự mình làm chủ được mình rồi thì cũng làm chủ được vũ-trụ.Do vậy mà Đức Hộ-Pháp khi nhận công việc kiến tạo Đền Thánh có đầy đủ Bí pháp, hẳn là Đức Thượng-Đế đã ngầm giao cho sứ mệnh mở Đạo Trời, mà mối Đạo này có “Bí-quyết đắc Đạo” là Thờ chữ CHỦ. Bởi vì chữ VƯƠNG 王 ấy là Vương đạo mà Đức Thượng Đế làm Chủ 主 tức nhiên có một nét trên chữ vương thành ra chữ CHỦ là vậy.Thế nên biểu tượng thờ trời là Thiên-Nhãn.Trên Thiên bàn đặt 12 Cúng phẩm thành chữ CHỦ.
Theo sự tiết lộ của Ngài Hồ Bảo Đạo thì:
· Từ ngày khai Đạo đến 50 năm (tức 1925-1975) phận sự giáo hóa của Thất Nương, Bát Nương và Cửu Nương.
· Kế 50 năm nữa (từ 1975-2025) phận sự giáo hóa của Tứ Nương, Ngũ Nương và Lục Nương.
· Rồi 50 năm kế nữa thì phận sự chánh của Nhứt Nương, Nhị Nương và Tam Nương. (2025-2075).
Vì thế, Thất Nương và Bát Nương cho chúng ta nhiều bài thánh giáo hơn cả.
(Trích trong “Dịch lý Cao Đài” của Nguyên Thủy)
https://uphinhnhanh.com/images/2017/08/24/image014.png
http://www.caodaism.org/4003/tbtttg.htm
https://www.daotam.info/booksv/thuon...thatnuong.html
-
-
Thức uống thì thường là rượu thuốc (ngâm thuốc Bắc) uống vào sẽ cân bằng cơ thể, tráng dương, được dùng trong bữa ăn hàng ngày, lễ tiệc. Ngoài ra, người Hoa còn uống các loại trà dùng nóng như: Trà hoa cúc, trà sâm, trà gừng… nhằm giải nhiệt, mát gan, tiêu hoá tốt.
http://www.camau.gov.vn/wps/portal/!.../p=WCM_PI=1/=/
-
Ngoài ra, người Hoa còn uống các loại trà dùng nóng như: Trà hoa cúc, trà sâm, trà gừng… nhằm giải nhiệt, mát gan, tiêu hoá tốt. Có khá nhiều quán ăn của người Hoa ở thành phố Cà Mau, nhưng nổi tiếng và lâu đời là Quán Triều Thành với nhiều món ăn khác nhau, ngon nhất là món chân giò hầm thuốc Bắc rất công phu, khéo léo. Người Hoa còn đến đây ăn món chả giò Tiều. Nhân chả giò được gói với tàu hủ ky, sau đó cắt nhỏ ra để chiên, dùng với tương ớt thì rất ngon. Ngòai ra, còn có món chân gà xào gân heo, nai,…và nhiều thức ăn độc đáo khác.
http://www.camau.gov.vn/wps/portal/!.../p=WCM_PI=1/=/
-
thờ bà Mẹ sanh Mẹ độ (thường là thờ bà Cửu Thiên Huyền Nữ),
Cha độ mạng (thường là ông Quan Ðế Thánh Quân)
http://m.baocamau.com.vn/newsdetails...nguoi_Hoa.aspx
-
-
Miếu Bà Thiên Hậu được xây dựng ở nhiều nơi trong tỉnh: miếu ở phường 2, TP Cà Mau;
miếu ở thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời;
miếu ở xã Phú Hưng, huyện Cái Nước;
miếu ở thị trấn Thới Bình, huyện Thới Bình…
http://quehuongonline.vn/dat-nuoc-vi...-mau-24646.htm
-
-
-
Di tích của làng xưa - Thanh Phước
Cập nhật ngày: 14/06/2017 - 15:58
BTN - Cái tên Thanh Phước đã được khai sinh ít ra là từ năm 1808, hơn hẳn cái tên An Tịnh những 18 tuổi. Cũng sau năm 1836 thì làng Thanh Phước được cắt về tổng Mỹ Ninh; làng Thạnh Ðức lại bổ về tổng Triêm Hoá đều thuộc huyện Quang Hoá- huyện thứ hai của phủ Tây Ninh.
Di tích của làng xưa - Thanh Phước
Chùa Thanh Lâm.
Vậy là chúng ta đã biết thôn Thanh Phước có từ rất sớm, ngang với Bình Tịnh (sau đổi tên thành An Tịnh). Ðấy là vào năm Gia Long thứ VII (1808), khi vua cho đổi tên dinh Phiên Trấn làm trấn Phiên An: “lấy huyện làm phủ, lấy tổng làm huyện, cứ theo đất rộng hay hẹp, dân nhiều hay ít, hãy thấy liền nhau là bổ vào, lại thêm tên tổng, đều lập giới hạn…” (Gia Ðịnh thành thông chí). Khi ấy (1808), cả ba xã Bình Tịnh, Thanh Phước và Thạnh Ðức đều thuộc tổng Bình Cách, huyện Thuận An, phủ Tân Bình của trấn Phiên An (Từ điển Ðịa danh hành chính Nam Bộ).
Nếu xét theo lịch sử tên làng thì cái tên Thanh Phước còn “cao niên” hơn cả tên An Tịnh. Bởi lẽ vào năm 1836, sau khi lập phủ Tây Ninh thì thôn Bình Tịnh mới đổi tên thành An Tịnh và cắt về tổng Hàm Ninh thuộc huyện Tân Ninh của phủ Tây Ninh vừa mới lập.
Trong khi đó, cái tên Thanh Phước đã được khai sinh ít ra là từ năm 1808, hơn hẳn cái tên An Tịnh những 18 tuổi. Cũng sau năm 1836 thì làng Thanh Phước được cắt về tổng Mỹ Ninh; làng Thạnh Ðức lại bổ về tổng Triêm Hoá đều thuộc huyện Quang Hoá- huyện thứ hai của phủ Tây Ninh.
Tìm được gốc tích xưa như thế, mới lý giải được những tên đất hiền lành, mộc mạc của làng xưa Thanh Phước. Như: Cây Trường, Xóm Ðồng, Kỳ Ðà, Rỗng Tượng, Trâm Vàng…
Từ Rỗng Tượng lại chia ra thành Rỗng Tượng Dài và Rỗng Tượng Tròn. Ðến đây, cần giải thích thêm chữ Rỗng. Ðấy là vùng đất voi đi qua hay đến uống nước, đằm mình. Sách Truyền thống xã Thanh Phước có đoạn: “xã Thanh Phước thuở ấy còn đầy rừng rậm, hoang vu, nhiều thú dữ. Voi đi từng đàn, trên đường voi đi có nơi đất sụp sâu xuống thành rỗng. Ở khu vực Rỗng Tượng Tròn có người ăn cơm tối xong ra sân uống nước đã bị cọp ăn…”.
Cũng theo sách này thì: “Năm 1963, ta (chính quyền cách mạng) tách các ấp Rạch Sơn, Thanh Hà, Thanh Bình ra khỏi xã Thanh Phước để lập thành thị trấn Gò Dầu như ngày nay…”.
Chỉ chưa đầy một năm nữa thôi là xã Thanh Phước hiện nay đã có 210 năm ngày thành lập. Cái ngày được định danh chính thức ấy là 12 tháng Giêng năm Mậu Thìn, Gia Long thứ VII (1808).
18 năm sau nữa, phủ Tây Ninh mới ra đời. 210 năm một vùng đất nước do người Việt đến khai phá làm ăn, lập làng, dựng chợ, để có một Thanh Phước hôm nay óng ả đồng lúa, đồng màu trên những thôn ấp Xóm Ðồng, Cây Trắc, Suối Cao…
Xa xưa như thế, mới lý giải được chuyện đình Thanh Phước hôm nay vẫn uy nghi, hoành tráng trên đồi cao Gò Dầu Hạ bao quát một vùng sông Vàm Cỏ. Và những ngôi chùa, đền miếu của làng xưa vẫn bền vững đến bây giờ. Chùa cổ có Thanh Lâm, Bửu Nguyên...
Miếu cổ có Thanh An cung, còn gọi chùa Bà Thiên Hậu. Chùa Thanh Lâm nay, gọi cho đầy đủ là Linh Sơn- Thanh Lâm tự. Là để ghi nhớ rằng chùa đây cũng có gốc rễ tự núi Bà. Chuyện rằng ông sư tổ đời thứ nhất của Thanh Lâm tự là sư tổ Trừng Long- Thích Chơn Thạnh, học trò của đại sư tổ núi Bà Ðen Trừng Tùng- Chơn Thoại. Học trò cũng tu theo dòng Thiền tế thượng chánh tông.
Ðến năm 1865, ông về Thanh Phước lập chùa. Cho đến nay, dấu tích mái chùa xưa tre lá hay ngói âm dương bánh ít đều không còn nữa. Chùa Thanh Lâm cũng “theo thời” đô thị hoá, lên cao một trệt, một lầu. Nhưng vẫn còn kia những pho tượng gỗ đẽo tạc giản dị (nên rất đẹp) mang dấu tích của thời những bậc tiền nhân đi mở đất.
Di tích của làng xưa - Thanh Phước
Ðình Thanh Phước.
Cùng nằm trên đường Trương Vĩnh Ký với chùa Thanh Lâm còn có ngôi miếu thờ Bà Thiên Hậu của người Hoa sinh sống ở Gò Dầu. Miếu lúc nào cũng rực rỡ vàng son với lối kiến trúc đặc trưng. Tượng Bà ngự trong cung giữa rừng rực hoa thơm cùng lung linh đèn nến. Ngôi này được xây, có thể từ năm Ất Dậu 1885, căn cứ vào một tấm đại tự gỗ xưa vẫn còn óng ánh sắc vàng son.
Nhưng nói gì thì nói thì ta vẫn cần trở về cái đình làng Thanh Phước. Ðình Việt Nam, nói như một nhà nghiên cứu văn hoá dân gian: “cái nôi văn hoá vẫn hiên ngang tồn tại, vẫn mãi mãi là kiến trúc Việt Nam độc nhất” (Nguyễn Hữu Hiệp- Tạp chí Xưa Nay của Hội Khoa học lịch sử Việt Nam).
Di tích của làng xưa - Thanh Phước
Miếu Thanh An cung.
Có lẽ do ảnh hưởng của quan niệm đã quen nghe- là An Tịnh mới là thôn đầu tiên của tỉnh Tây Ninh nên những người biên tập sách Di tích văn hoá lịch sử và danh thắng viết về đình Thanh Phước có đoạn: “Ðình Thanh Phước được xây dựng trong thời kỳ sau Bình Tịnh (An Tịnh), Phước Lộc (Gia Lộc), An Hoà kể đến Gia Bình… Cư dân trên vùng đất này tiếp tục phát triển khai hoang, lập ấp đến vùng đất Thanh Phước ngày nay…”.
Với những chứng cớ đã bày tỏ ở phần trên thì quan niệm này cũng nên được nhìn nhận lại. Sách không viết rõ đình Thanh Phước được xây dựng năm nào nhưng tại bản lý lịch di tích lập trước tháng 8.2004 thì ngôi đình đã được xây dựng lại ở vị trí ngày nay vào năm 1897.
Tiền thân của đình là một ngôi miếu nhỏ ở sát bờ sông, bị sạt lở nên buộc phải di dời. Cũng theo tài liệu này, diện tích được khoanh vùng bảo vệ của di tích là 3.936m2, trong đó diện tích xây dựng là 769,7m2. Qua nhiều lần tu sửa, như xây cổng năm 1957, xây lại nhà tiền đình năm 1966… đến nay, đình Thanh Phước vẫn bền vững với hệ thống cột, kèo bằng gỗ kích thước lớn.
Thật đáng ngạc nhiên là các cột trong khu tiền đình và chính đình có đường kính tới 40 và 50cm, thẳng nuột và bóng ngời màu nâu đỏ. Chỉ riêng khu này đã có tới 20 cây cột, trong đó bốn cây phần tứ trụ có đường kính tới 50cm.
Trong phần tiền đình có hai cây cột được chạm khắc đôi rồng thếp vàng rực rỡ. Dường như tác phẩm điêu khắc này được chạm thẳng vào thân cây gỗ có đường kính 40cm. Khuôn viên đình đã không còn nhiều cây cổ thụ.
Những cây dầu khổng lồ làm nên tên gọi của miền đất này đã dùng vào việc tu bổ ngôi đình này chăng? Dưới bóng râm của những hàng cây mới trồng, còn thấy khá nhiều những ngôi miếu nhỏ. Như miếu Ngũ Hành, Bạch Mã, Thái Giám, Ông Tà… và đặc biệt có một ngôi thờ Thuỷ Long thần nữ.
Các ban thờ trong đình cũng có nhiều ban với cái tên đề nghe hơi lạ. Như bàn thờ tiên giác- cũng chỉ nơi này mới có. Hỏi ra mới biết, tiên giác chính là các vị hương chức, giáo chức có chữ nghĩa, có công với làng nước ngày xưa. Có vẻ như đình Thanh Phước vẫn còn nhiều bí ẩn, bởi chiều dài hơn 200 năm quá khứ. Ðơn giản như đôi câu đối đắp ở cổng đình mới xây năm 1957 kia.
Phiên âm là: Thanh hoá nguy nga, nãi thánh, nãi thần, nãi văn võ/ Phước sanh trọng hậu, hữu trì, hữu thổ, hữu nhân dân. Còn chưa rõ ai là tác giả cùng ý nghĩa thâm sâu nhưng đọc lên với hai chữ tên làng ở đầu câu, cũng thấy được phần nào diện mạo, thần thái của làng xưa Thanh Phước.
TRẦN VŨ
-
Di tích của làng xưa - Thanh Phước
Cập nhật ngày: 14/06/2017 - 15:58
BTN - Cái tên Thanh Phước đã được khai sinh ít ra là từ năm 1808, hơn hẳn cái tên An Tịnh những 18 tuổi. Cũng sau năm 1836 thì làng Thanh Phước được cắt về tổng Mỹ Ninh; làng Thạnh Ðức lại bổ về tổng Triêm Hoá đều thuộc huyện Quang Hoá- huyện thứ hai của phủ Tây Ninh.
Di tích của làng xưa - Thanh Phước
Chùa Thanh Lâm.
Vậy là chúng ta đã biết thôn Thanh Phước có từ rất sớm, ngang với Bình Tịnh (sau đổi tên thành An Tịnh). Ðấy là vào năm Gia Long thứ VII (1808), khi vua cho đổi tên dinh Phiên Trấn làm trấn Phiên An: “lấy huyện làm phủ, lấy tổng làm huyện, cứ theo đất rộng hay hẹp, dân nhiều hay ít, hãy thấy liền nhau là bổ vào, lại thêm tên tổng, đều lập giới hạn…” (Gia Ðịnh thành thông chí). Khi ấy (1808), cả ba xã Bình Tịnh, Thanh Phước và Thạnh Ðức đều thuộc tổng Bình Cách, huyện Thuận An, phủ Tân Bình của trấn Phiên An (Từ điển Ðịa danh hành chính Nam Bộ).
Nếu xét theo lịch sử tên làng thì cái tên Thanh Phước còn “cao niên” hơn cả tên An Tịnh. Bởi lẽ vào năm 1836, sau khi lập phủ Tây Ninh thì thôn Bình Tịnh mới đổi tên thành An Tịnh và cắt về tổng Hàm Ninh thuộc huyện Tân Ninh của phủ Tây Ninh vừa mới lập.
Trong khi đó, cái tên Thanh Phước đã được khai sinh ít ra là từ năm 1808, hơn hẳn cái tên An Tịnh những 18 tuổi. Cũng sau năm 1836 thì làng Thanh Phước được cắt về tổng Mỹ Ninh; làng Thạnh Ðức lại bổ về tổng Triêm Hoá đều thuộc huyện Quang Hoá- huyện thứ hai của phủ Tây Ninh.
Tìm được gốc tích xưa như thế, mới lý giải được những tên đất hiền lành, mộc mạc của làng xưa Thanh Phước. Như: Cây Trường, Xóm Ðồng, Kỳ Ðà, Rỗng Tượng, Trâm Vàng…
Từ Rỗng Tượng lại chia ra thành Rỗng Tượng Dài và Rỗng Tượng Tròn. Ðến đây, cần giải thích thêm chữ Rỗng. Ðấy là vùng đất voi đi qua hay đến uống nước, đằm mình. Sách Truyền thống xã Thanh Phước có đoạn: “xã Thanh Phước thuở ấy còn đầy rừng rậm, hoang vu, nhiều thú dữ. Voi đi từng đàn, trên đường voi đi có nơi đất sụp sâu xuống thành rỗng. Ở khu vực Rỗng Tượng Tròn có người ăn cơm tối xong ra sân uống nước đã bị cọp ăn…”.
Cũng theo sách này thì: “Năm 1963, ta (chính quyền cách mạng) tách các ấp Rạch Sơn, Thanh Hà, Thanh Bình ra khỏi xã Thanh Phước để lập thành thị trấn Gò Dầu như ngày nay…”.
Chỉ chưa đầy một năm nữa thôi là xã Thanh Phước hiện nay đã có 210 năm ngày thành lập. Cái ngày được định danh chính thức ấy là 12 tháng Giêng năm Mậu Thìn, Gia Long thứ VII (1808).
18 năm sau nữa, phủ Tây Ninh mới ra đời. 210 năm một vùng đất nước do người Việt đến khai phá làm ăn, lập làng, dựng chợ, để có một Thanh Phước hôm nay óng ả đồng lúa, đồng màu trên những thôn ấp Xóm Ðồng, Cây Trắc, Suối Cao…
Xa xưa như thế, mới lý giải được chuyện đình Thanh Phước hôm nay vẫn uy nghi, hoành tráng trên đồi cao Gò Dầu Hạ bao quát một vùng sông Vàm Cỏ. Và những ngôi chùa, đền miếu của làng xưa vẫn bền vững đến bây giờ. Chùa cổ có Thanh Lâm, Bửu Nguyên...
Miếu cổ có Thanh An cung, còn gọi chùa Bà Thiên Hậu. Chùa Thanh Lâm nay, gọi cho đầy đủ là Linh Sơn- Thanh Lâm tự. Là để ghi nhớ rằng chùa đây cũng có gốc rễ tự núi Bà. Chuyện rằng ông sư tổ đời thứ nhất của Thanh Lâm tự là sư tổ Trừng Long- Thích Chơn Thạnh, học trò của đại sư tổ núi Bà Ðen Trừng Tùng- Chơn Thoại. Học trò cũng tu theo dòng Thiền tế thượng chánh tông.
Ðến năm 1865, ông về Thanh Phước lập chùa. Cho đến nay, dấu tích mái chùa xưa tre lá hay ngói âm dương bánh ít đều không còn nữa. Chùa Thanh Lâm cũng “theo thời” đô thị hoá, lên cao một trệt, một lầu. Nhưng vẫn còn kia những pho tượng gỗ đẽo tạc giản dị (nên rất đẹp) mang dấu tích của thời những bậc tiền nhân đi mở đất.
Di tích của làng xưa - Thanh Phước
Ðình Thanh Phước.
Cùng nằm trên đường Trương Vĩnh Ký với chùa Thanh Lâm còn có ngôi miếu thờ Bà Thiên Hậu của người Hoa sinh sống ở Gò Dầu. Miếu lúc nào cũng rực rỡ vàng son với lối kiến trúc đặc trưng. Tượng Bà ngự trong cung giữa rừng rực hoa thơm cùng lung linh đèn nến. Ngôi này được xây, có thể từ năm Ất Dậu 1885, căn cứ vào một tấm đại tự gỗ xưa vẫn còn óng ánh sắc vàng son.
Nhưng nói gì thì nói thì ta vẫn cần trở về cái đình làng Thanh Phước. Ðình Việt Nam, nói như một nhà nghiên cứu văn hoá dân gian: “cái nôi văn hoá vẫn hiên ngang tồn tại, vẫn mãi mãi là kiến trúc Việt Nam độc nhất” (Nguyễn Hữu Hiệp- Tạp chí Xưa Nay của Hội Khoa học lịch sử Việt Nam).
Di tích của làng xưa - Thanh Phước
Miếu Thanh An cung.
Có lẽ do ảnh hưởng của quan niệm đã quen nghe- là An Tịnh mới là thôn đầu tiên của tỉnh Tây Ninh nên những người biên tập sách Di tích văn hoá lịch sử và danh thắng viết về đình Thanh Phước có đoạn: “Ðình Thanh Phước được xây dựng trong thời kỳ sau Bình Tịnh (An Tịnh), Phước Lộc (Gia Lộc), An Hoà kể đến Gia Bình… Cư dân trên vùng đất này tiếp tục phát triển khai hoang, lập ấp đến vùng đất Thanh Phước ngày nay…”.
Với những chứng cớ đã bày tỏ ở phần trên thì quan niệm này cũng nên được nhìn nhận lại. Sách không viết rõ đình Thanh Phước được xây dựng năm nào nhưng tại bản lý lịch di tích lập trước tháng 8.2004 thì ngôi đình đã được xây dựng lại ở vị trí ngày nay vào năm 1897.
Tiền thân của đình là một ngôi miếu nhỏ ở sát bờ sông, bị sạt lở nên buộc phải di dời. Cũng theo tài liệu này, diện tích được khoanh vùng bảo vệ của di tích là 3.936m2, trong đó diện tích xây dựng là 769,7m2. Qua nhiều lần tu sửa, như xây cổng năm 1957, xây lại nhà tiền đình năm 1966… đến nay, đình Thanh Phước vẫn bền vững với hệ thống cột, kèo bằng gỗ kích thước lớn.
Thật đáng ngạc nhiên là các cột trong khu tiền đình và chính đình có đường kính tới 40 và 50cm, thẳng nuột và bóng ngời màu nâu đỏ. Chỉ riêng khu này đã có tới 20 cây cột, trong đó bốn cây phần tứ trụ có đường kính tới 50cm.
Trong phần tiền đình có hai cây cột được chạm khắc đôi rồng thếp vàng rực rỡ. Dường như tác phẩm điêu khắc này được chạm thẳng vào thân cây gỗ có đường kính 40cm. Khuôn viên đình đã không còn nhiều cây cổ thụ.
Những cây dầu khổng lồ làm nên tên gọi của miền đất này đã dùng vào việc tu bổ ngôi đình này chăng? Dưới bóng râm của những hàng cây mới trồng, còn thấy khá nhiều những ngôi miếu nhỏ. Như miếu Ngũ Hành, Bạch Mã, Thái Giám, Ông Tà… và đặc biệt có một ngôi thờ Thuỷ Long thần nữ.
Các ban thờ trong đình cũng có nhiều ban với cái tên đề nghe hơi lạ. Như bàn thờ tiên giác- cũng chỉ nơi này mới có. Hỏi ra mới biết, tiên giác chính là các vị hương chức, giáo chức có chữ nghĩa, có công với làng nước ngày xưa. Có vẻ như đình Thanh Phước vẫn còn nhiều bí ẩn, bởi chiều dài hơn 200 năm quá khứ. Ðơn giản như đôi câu đối đắp ở cổng đình mới xây năm 1957 kia.
Phiên âm là: Thanh hoá nguy nga, nãi thánh, nãi thần, nãi văn võ/ Phước sanh trọng hậu, hữu trì, hữu thổ, hữu nhân dân. Còn chưa rõ ai là tác giả cùng ý nghĩa thâm sâu nhưng đọc lên với hai chữ tên làng ở đầu câu, cũng thấy được phần nào diện mạo, thần thái của làng xưa Thanh Phước.
TRẦN VŨ
http://baotayninh.vn/di-tich-cua-lan...oc-a87445.html
-
Núi Bà Rá - địa danh lịch sử của Bình Phước
08:33 AM - 29/12/2014
BP - Trong các cuộc kháng chiến giành độc lập, Bình Phước là địa bàn chiến lược quan trọng, lập nên những chiến công hiển hách, ghi dấu ấn đặc biệt vào những trang sử vàng của dân tộc. Một trong những địa danh lịch sử ở Bình Phước là núi Bà Rá. Bà Rá thuộc địa phận phường Thác Mơ (TX. Phước Long), có tổng diện tích 307.325m², cao 732m so với mực nước biển. Theo tiếng Xêtiêng, Bà Rá là Bơnom Brah, nghĩa là ngọn núi thần. Đây là ngọn núi mang trên mình những chiến công nhưng cũng đầy những dấu tích bi hùng của thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
VÀI NÉT LỊCH SỬ
Năm 1925, thực dân Pháp cho xây một nhà tù lớn dưới chân núi Bà Rá để giam cầm các chiến sĩ cách mạng và các tội phạm. Nhà tù này có 3 khu: Trại A sát chân núi, giam giữ tù thường phạm; trại B giam giữ nữ tù thường phạm hoặc chính trị phạm, đặt tại trung tâm trại Bà Rá. Năm 1941, Pháp xây dựng thêm trại C để giam giữ tù nhân chính trị. Nhà tù Bà Rá còn là nơi giam giữ hàng trăm tù chính trị bị treo án và khổ sai từ các nơi khác chuyển đến. Nỗi thống khổ của những tù nhân Bà Rá không sao kể xiết, đau ốm không có thuốc men lại còn bị đánh đập dã man và bị lao động khổ sai. Vì vậy, trại tù trở thành nơi cho những nhà cách mạng hoạt động. Họ đã vận động giác ngộ những phạm nhân trở thành những chiến sĩ cộng sản đi theo con đường của Đảng. Trại tù Bà Rá đã thành lập chi bộ cộng sản để lãnh đạo phong trào và tổ chức nhiều cuộc vượt ngục. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, tù nhân Bà Rá đã nổi dậy đập tan xiềng xích trở về chiến khu, hoặc trở về quê hương góp phần giải phóng đất nước...
Cổng miếu Bà Rá trong lễ hội miếu Bà năm Giáp Ngọ 2014
Gần nhà tù Bà Rá có miếu Bà Rá ( Linh Sơn miếu), dân gian tôn gọi là “Bà Rá hộ quốc linh thần”. Năm 1943, miếu được những tù nhân chính trị ở nhà tù Bà Rá bí mật xây dựng để tưởng nhớ các tù chính trị bị chôn sống ở gốc cây cầy nơi đây. Năm 1958, người dân đã dời miếu lên sát đường lộ (cách nơi cũ 500m) để tiện đi lại thờ cúng. Miếu Bà Rá là một công trình kiến trúc tín ngưỡng dân gian, nằm trong quần thể di tích lịch sử Bà Rá. Miếu không chỉ là nơi thờ cúng tín ngưỡng của nhân dân mà còn là một trong những chứng tích về sự xâm lược tàn bạo của thực dân Pháp trên vùng đất Phước Long.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, núi Bà Rá là một căn cứ quân sự hiện đại của Mỹ - ngụy, có cả sân bay trực thăng trên đỉnh núi, kiểm soát toàn bộ vùng miền Đông Nam bộ. Nhưng núi Bà Rá cũng mang trên mình nhiều chiến tích anh dũng kiên cường của quân và dân ta, nhất là bộ đội địa phương thời kỳ chống Mỹ. Bên sườn núi phía tây có hang Dơi, hang Cây Sung, nơi đây đội công tác núi Bà Rá đã từng bám trụ và lập nhiều chiến công. Hiện nay, ngay tại đồi Bằng Lăng có đền thờ tưởng niệm các chiến sĩ và đồng bào hy sinh trong chống giặc ngoại xâm. Trên đỉnh núi có miếu thờ đức Phật thánh mẫu Thiên Hậu và bà Chúa xứ. Vào các ngày rằm và đặc biệt là ngày vía bà Chúa xứ (24 âm lịch hàng tháng), thường có rất đông khách lên núi dâng hương lễ Phật và viếng bà Chúa xứ.
BÀ RÁ NGÀY NAY
Quần thể danh thắng quanh núi Bà Rá- Thác Mơ đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích Lịch sử văn hóa cấp quốc gia ngày 4-10-1995. Đây là nơi có thắng cảnh đẹp nổi tiếng với công trình thủy điện và hồ Thác Mơ; rừng cây có hệ thực vật đa dạng, phong phú được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xếp vào hệ thống rừng đặc chủng. Từ đồi Bằng Lăng, bước lên 1.767 bậc tam cấp bằng đá sẽ lên đến đỉnh núi Bà Rá. Đường lên núi khá đẹp, được bao phủ bởi một màu xanh cây rừng, hai bên đường đi có nhiều cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi.
Núi Bà Rá còn được biết đến khi hàng năm giải việt dã truyền thống tổ chức vào ngày 6-1 tại đây. Giải việt dã Chinh phục đỉnh cao Bà Rá không chỉ là giải đấu nằm trong hệ thống thi đấu quốc gia mà còn là giải mang tầm quốc tế. Quy mô của giải ngày càng rộng lớn qua từng năm, thu hút nhiều vận động viên đến từ các quốc gia như Lào, Campuchia, Thái Lan, nhằm thắt chặt tình hữu nghị, giao lưu học hỏi giữa các quốc gia lân cận. Trên đỉnh núi Bà Rá có Đài tiếp vận truyền thanh - truyền hình. Đây là trạm tiếp sóng do Đài Phát thanh -Truyền hình Bình Phước xây dựng, nhằm đưa sóng đến những vùng sâu, xa trong tỉnh.
Đến với Bình Phước và tham quan khu du lịch sinh thái núi Bà Rá -Thác Mơ du khách có thể hòa mình vào không khí thiên nhiên, cảm nhận gió mát từ hồ thủy điện thổi vào. Tháng 3-2010, hệ thống cáp treo hoàn thành và đưa vào sử dụng đã góp phần tăng lượng du khách đến tham quan núi Bà Rá. Đặc biệt trong dịp lễ kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng Phước Long (6-1-1975 - 6-1-2015) và giải truyền thống việt dã, Phước Long sẽ tổ chức bắn pháo hoa chào mừng. Đây cũng là sự kiện chính trị quan trọng của thị xã Phước Long và tỉnh Bình Phước khi bước vào năm mới 2015, chào xuân Ất Mùi.
Trung Lương
http://baobinhphuoc.com.vn/Content/n...nh-phuoc-36912
-
Hành trình khám phá những di tích ở Bạc Liêu.
Bạc Liêu được biết đến với nhiều điểm tham quan nổi tiếng như: Cụm nhà Công tử Bạc Liêu, Khu lưu niệm cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu, Chùa Xiêm Cán hay khu du lịch sinh thái Vườn chim Bạc Liêu với nhiều loại chim quý hiếm.
Thêm điều thú vị hơn là ở nơi đây mạng đậm nét văn hóa tâm linh, tín ngưỡng với nhiều di tích nổi tiếng. Bạc Liêu có 12 di tích trong đó có 08 di tích mang kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh và 04 di tích mang kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Một thời gian chuẩn bị khá chu đáo Đoàn chúng tôi bắt đầu một chiến hành trình xuyên Bạc khám phá các điểm di tích trong địa bàn Thành phố Bạc Liêu.
Xuất phát từ 7h sáng đoàn chúng tôi dừng chân điểm đầu tiên của cuộc hành trình “Đình An Trạch” một di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia được tọa lạc tại khóm 2, phường 5, TPBL. Điều nổi bật nhất trong khu di tích này làm tôi thấy thích và ấn tượng là nơi đây thờ chủ yếu là các anh hùng dân tộc có công với đất nước. Đặt biêt ngay nơi thờ chính của khu di tích đó chính là tro cốt của ông Nguyễn Công Trứ được bà con thỉnh về thờ, ngoài ra còn có nhiều gơm giáo đủ loại hình đẹp mắt. Chỉ hơi tiếc một chút là khuôn viên đình hơi chật hẹp, xung quanh có một số hộ gia đình lấn chiếm đất làm nơi ở sinh hoạt.. Đoàn chúng tôi từ giã và tiếp tục cuộc hành trình đến điểm kế tiếp. “Chùa Long Phước” được công nhận di tích cấp Tỉnh, đây là nơi nuôi giữ trẻ mồ côi, hiện có 34 em trong đó chỉ có khoảng 4, 5 em 10 tuổi được nuôi dưỡng, cho đi học.
Di tích Phước Đức cổ miếu - phường 8
Và đoàn xe chúng tôi tiếp tục…Nằm trên quốc lộ Nam Sông Hậu tại ấp Vĩnh An, xã Vĩnh Trạch, TPBL là khu di tích “ Thiên Hậu Cổ Miếu” – Kiến trúc nghệ thuật cấp Tỉnh. Nghe tên là đã có thể biết được khu di tích này thờ Bà Thiên hậu Thánh Mẫu rồi. Mặc dù ở đây bên trong khu di tích lối kiến trúc còn khá đơn điệu nhưng bù lại khu di tích này có khuôn viên rất rộng được trồng len lõi những bụi trúc, tre cổ. Theo lối xây dựng của “ Thiên Hậu Cổ Miếu” hay còn gọi là Miếu Bà Thiên Hậu ngoài nơi thờ chính này còn nơi gọi là Hoa viên Trúc Lâm khá độc đáo, nếu được tu sữa, được quan tâm thường xuyên thì nơi đây có thể đưa vào điểm du lịch của Bạc Liêu.. Đoàn chúng tôi được ban trị sự tặng cho mỗi người một quyển tư liệu về quá trình hình thành, phát triển và tu bổ “Thiên hậu cổ Miếu” Đây là điểm dừng chân thứ 3 trong chuyến hành trình. Chia tay Ban trị sự với lòng đầy lưu luyến và tiếp tục cuộc khám phá.
“Chùa Vĩnh Đức”- kiến trúc nghệ thuật cấp Tỉnh. Đây là điểm dừng chân cuối cùng vào buổi sáng. Đến đây được chị thuyết minh trong Đoàn giới thiệu quá trình hình thành và phát triển của khu di tích này. Chùa Vĩnh Đức có thế mạnh là nằm trên góc đường chính, khách du lịch dễ ghé tham quan. Đặc biệt, đây là nơi rất có ý nghĩa về mặt lịch sử gắn liền với sự kiện giải phóng Bạc Liêu năm 1975, nếu được đầu tư đúng mức sẽ trở thành điểm sinh hoạt hấp dẫn về du lịch gắn với các hoạt động giáo dục truyền thống của thanh niên.
Dừng chân tại một quán quen nhỏ ngay giữa trung tâm Thành phố. Những giọt mồ hôi đã chảy trên những khuôn mặt quen thuộc nhưng trên môi họ vẫn nở nụ cười dễ mến. Đoàn chúng tôi nghỉ ngơi và ăn uống tại chỗ…Dường như đã lấy lại sức, những khuôn mặt tươi tắn đã xuất hiện và thảo luận hết sức sôi nổi các điểm đã dừng chân vào buổi sáng..Trời cũng qua giờ Ngọ, Đoàn chúng tôi vui vẻ tiếp tục truy lùng các điểm còn lại…
Điểm dừng chân đầu tiền vào buôi chiều ngày hôm đó chính là “Thiên Hậu Cung” tọa lạc tại phường 1 TPBL, chúng tôi được giới thiệu về “Bộ ngũ sự” quý hiếm được trạm trỗ rất tinh vi trên trăm năm tuổi. Nhưng ấn tượng nhất với tôi là nơi đây có nhiều cây Gừa cổ lâu năm rể của nó dài quấn vào nhau tạo thành hình trong ngộ mà đẹp mắt tại khuôn viên sau của khu di tích.
Cách đó không xa, đoàn chúng tôi đến “Thành Hoàng Cổ Miếu” hay còn gọi là Chùa Minh. Ban trị sự tiếp Đoàn rất tận tình và nghe thuyết minh về khu di tích đó. Đây chính là kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia, một lối kiến trúc tinh vi và hiếm có. Vừa vào hình ảnh đầu tiên đập vô mắt chúng tôi đó là đôi cột đá được chạm rồng nổi ngậm hạt châu đẹp mắt và những bức phù điêu ở ngay cổng vào được tạo khá là công phu, tiến sâu vào bên trong một điều ai trong Đoàn cũng rất ngạc nhiên vì tất cả điều được làm bằng gỗ. Từ những hình tượng lớn đến nhỏ điều làm bằng gỗ. Thử hỏi làm một hình tượng lớn đã khó rồi đây lại làm những hình tượng nhỏ thì càng khó hơn nhiều lần đòi hỏi đôi bàn tay khéo léo của các nghệ nhân đã tạo nên một công trình, kiến trúc giàu giá trị văn hóa, lịch sử còn để lại cho đến ngày hôm nay. Đây là điểm du lịch lý tưởng cần được đầu tư khai thác.
Đoàn chúng tôi kịp dừng chân tại “Tiên Sư Cổ Miếu” những đám mưa ào ào bắt đầu đổ như trút nước. Ở đây chúng tôi được nghe thuyết minh về đặc điểm khu di tích và biết nhiều hơn nữa qua hướng dẫn của Ban trị sự miếu..Điều đặc biệt hơn nơi đây chính là nơi dạy chữ quốc ngữ đầu tiên của Bạc Liêu. Chúng tôi được tặng mắt nhìn thấy những nét chữ Nho uốn lượn được viết ra từ một Bác trong ban trị sự và lần lượt từng người một trong Đoàn chúng tôi xin chữ tên của mình. Và tên tôi được điểm chỉ cuối cùng..Đây là một địa điểm lý tưởng khai thác tiềm năng du lịch vì nó chứa đựng giá trị lịch sử, văn hóa và kiến trúc tiêu biểu, Đặc biệt hơn nằm trên đoạn đường giao thông khá thuận lợi cho khách tham quan và du lịch.
THÚY VI
http://tpbl.baclieu.gov.vn/quanlydat...mID=176&Mode=1
-
Thất Phủ miếu (Chùa Ông)
Được đăng bởi trọng nguyễn
Ngôi miếu nằm trên đường Nguyễn Chí Thanh, phường 5, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long, có tên gọi khác là Vĩnh An Cung - 永安宮, người Việt quen gọi là chùa Ông.
Thất phủ là bảy phủ: Ninh Ba, Phước Châu, Chương Châu, Truyền Châu, Quảng Châu, Triều Châu và Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam) của các tỉnh như: Trực Lệ, Phước Kiến và Quảng Đông. Vào đời Thanh, có rất nhiều người Hoa ở Phúc Kiến sang nước ta lập nghiệp nên nhà Nguyễn cho phép họ lập hội Thất Phủ.
Miếu Thất Phủ tại Vĩnh Long có từ thời Nguyễn. Thời đó, chợ Vĩnh Long phố xá tấp nập, vàm sông Long Hồ trước mặt miếu Thất Phủ là bến thuyền nên người Hoa chọn nơi này đặt Hội quán giao tiếp.
Theo Đại Nam nhất thống chí, hai mặt chợ Vĩnh Long đều giáp sông, phố xá liên tiếp, trăm mốI hàng hoá tấp nập đủ cả, chạy dài năm dặm, ghe thuyền đậu đầy bến sông. Có đình miếu thờ thần rực rỡ, đờn ca náo nhiệt, là chỗ phố phường lớn.
Đến thời Pháp thuộc, số người Hoa đến Vĩnh Long làm ăn ngày một đông. Do yêu cầu lúc đó, những người Quảng Đông, Triều Châu tách ra lập bang hội riêng nên những người Phúc Kiến còn lại vào năm 1872 đã tái thiết miếu Thất Phủ, đổi lại là “Vĩnh An Cung”, để làm Hội quán của bang mình.
Miếu Thất Phủ có bố cục tổng thể theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Phía sau là chính điện, phía trước là tiền đường, hai bên là Đông sương và Tây sương. Diện tích xây dựng khoảng 800 m2, xung quanh được bao kín bởi những vách gạch kiên cố.
Mái của miếu được lợp ngói âm dương, phong tô kỹ lưỡng. Chân mái được viền một loại ngói đặc biệt có tráng men màu xanh. Các rìa mái uốn cong, tầng mái gian giữa cao hơn tầng mái của hai gian hai bên.
Miếu có 5 cửa chính. Hai bên có hai cửa sổ, trên các vách cửa cái đều có vẽ hình các vị thần giữ cửa. Bộ giàn trò Thất Phủ miếu bằng gỗ quý rất mỹ thuật và kiên cố. Tất cả các bộ phận trong chịu lực trong ngôi miếu như: vì, xiên, trính, các con kê hoặc con đội đều chạm hình tinh vi, vừa mang tính hiện thực vừa cách điệu nghệ thuật. Nội thất trang trí tuyệt đẹp với hàng chục bộ bao lam, hoành phi chạm lộng tinh tế, sơn son thếp vàng chói lọi. Một bức hoành khắc bốn chữ “Quan Thánh Phu Tử - 関聖夫子” được đem đi triển lãm ở hội chợ các nước thuộc địa tại Marseille (Pháp) năm 1922 đạt huy chương đồng.
Trong miếu có ba bàn thờ chính, bàn thờ giữa là khánh thờ Quan Thánh Đế Quân, Quan Bình Thái Tử, Châu Xương Tướng quân. Khánh thờ bên tả thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu.
Khánh thờ bên hữu thờ Phước Đức Chánh Thần. Phước Đức Thánh Thần có hai vị Chiêu Tài Đệ Tử, Thiên Hậu Thánh Mẫu có hai thần vị Thiên Lý Nhãn (thấy ngàn dặm) và Thuận Phong Nhĩ (nghe ngàn dặm) hầu cận. Hai bên chánh điện đặt tượng ngựa xích thố và Mã đầu Tướng quân của Quan Công. Ngoài ra còn có bàn thờ Phật Quan Âm, Phật Thích Ca, Phật Di Đà, Di Lặc, Hộ pháp Long Thần,...
Các tượng thờ đa số đều được làm bằng gỗ, có một số bằng đồng, gốm sứ. Tất cả đều được sơn màu hoặc thếp vàng một cách sinh động.
Hàng năm, tại miếu Thất Phủ có các ngày vía như ngày vía bà, vía Phước Đức Chánh Thần, tam Nguyên, Tứ Quý; đặt biệt nhất là ngày vía Ông (13 tháng giêng và 13 tháng năm), ngày Tất Niên (15 tháng 12). Vào những ngày lễ lớn, hàng ngàn người đến chiêm bái, không chỉ bao gồm cộng đồng người Hoa ở Vĩnh Long mà còn có cả người Việt đến từ các vùng lân cận.
Người ta đến chiêm bái Quan Thánh Đế Quân - một nhân vật tuyệt nghĩa trong lịch sử Trung Quốc. Bên cạnh đó, Thiên Hậu Thánh Mẫu và Phước Đức Chánh Thần là những vị thần phù hộ họ đi ra nước ngoài, những vị thần phù hộ họ làm ăn sinh sống. Quan Âm Bồ Tát với tấm lòng từ bi thường hiện ra cứu giúp người lương thiện tai qua nạn khỏi, phù hộ phụ nữ và trẻ con. Đặt biệt người Phúc Kiến thường thờ Quan Âm Bồ Tát vì truyền thuyết ngài đã xuất hiện tại Phổ Đà sơn, một ngọn núi ở hải đảo, ngoài khơi tỉnh này.
Thất Phủ miếu đã được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia ngày 25-01-1994 và năm 2010 trở thành Di tích Lịch sử - Văn hóa.
Thep Tri Thức Việt, ảnh internet
Du lịch, GO!
http://dulich1z.blogspot.com/2014/09...-chua-ong.html
-
Nghi án Hào Anh đi trộm: Số con xui quá!
“5 năm trước con bị dì Thơm và dượng Giang đánh đập, hành hạ rồi được cứu và đưa vào bệnh viện cấp cứu. Lần này con bị tình nghi ăn trộm, bị đánh nữa. Số con sao xui quá…”, Hào Anh cảm thán khi nói chuyện với phóng viên, ngày 27/3.
Hào Anh: “Con đi chơi game với bạn”
Sáng 27/3, phóng viên tìm đến nhà gia đình Hào Anh đang thuê trọ ở khóm 4, phường 8, TP.Cà Mau để tìm hiểu về nghi án Hào Anh cùng nhóm bạn đi trộm, bị công an địa phương tạm giữ, lấy lời khai để điều tra. Bà Phạm Thị Thoa – mẹ Hào Anh cho biết bà chuẩn bị đưa con đi bệnh viện khám bệnh vì từ lúc được công an cho về nhà, con của bà than đau nhức khắp người, tức ngực, khó thở.
Hào Anh kể: chiều 25/3, sau khi lãnh 103.000 đồng từ chỗ làm thuê (xưởng mộc ở phường 1, TP. Cà Mau), Đức và Minh (bạn làm chung với Hào Anh) rủ em đi đánh bida. Hào Anh về nhà ăn cơm rồi đến đánh bida ở tiệm Bida Thanh Minh (hẻm 19 Tháng 5, phường 8, TP.Cà Mau).
Nghi án Hào Anh đi trộm: Số con xui quá!
Hào Anh kể chỉ chi chơi game nhưng bị công an tạm giữ, và bị đánh
Đến khoảng 20 giờ 30 phút, Hào Anh nghỉ chơi, đạp xe đưa Minh về tới cầu Rạch Rập. Tại đây, Hào Anh ghé tiệm game Vạn Phát (gần cầu Rạch Rập) chơi và lên mạng chat gặp bạn mình tên Bình. Bình rủ Hào Anh qua tiệm Game Kim Ngân chơi cùng. Tới nơi Bình rủ Hào Anh đi qua một tiệm game khác là tiệm Anh Tuấn bên Xóm Củi (phường 8) vì ở đây cho chơi game tới khuya. Bình và Hào Anh qua tiệm game này, mua thẻ 30.000 đồng, được chơi 7 tiếng từ 21 giờ đến 4 giờ sáng hôm sau.
Bà Thoa kể, thấy con đi chơi khuya không về, bà gọi điện thoại kêu Hào Anh về nhà, và nhắc Hào Anh có người ở khóm 4 mời sáng lên trụ sở làm việc, có chuyện cần.
Hào Anh chơi đến khoảng 4 giờ sáng ngày 26/3 thì bà Thoa đạp xe đến gọi cửa tiệm game Anh Tuấn, kêu Hào Anh về nhà. Khoảng 8 giờ sáng cùng ngày, bà Thoa chở con lên trụ sở khóm 4 rồi về nhà. Tại đây, Hào Anh thấy Bình cũng bị mời lên trụ sở, sau đó cả hai bị đưa về trụ sở Công an phường 8 và tiếp tục đưa qua trụ sở công an TP. Cà Mau lấy lời khai. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, Hào Anh và 3 người bạn của em được gia đình bảo lãnh về nhà.
Tiếp xúc với phóng viên, ông Đặng Hồng Dũng (số nhà 156A, đường Rạch Rập, khóm 2, phường 8, TP. Cà Mau, Cà Mau), cho biết, con trai ông là Đặng Hồng Đức (sinh năm 1999) cũng bị công an tạm giữ, hỏi cung vì nghi liên quan đến vụ trộm cùng Hào Anh.
“Gia đình cũng theo tới trụ sở công an TP. Cà Mau nhưng họ bắt ở ngoài cổng, không cho vô. Gần đến khuya, họ cho tôi vô nhưng kêu tôi muốn bão lãnh phải làm đơn bảo lãnh và ký vô bản lời khai của con tôi. Làm xong mấy thủ tục theo yêu cầu của họ, con tôi mới được về nhà nhưng nó than đau khắp người", ông Đức nói.
Ông Đồng Thanh Nghiêm, nhà khóm 3, phường 8, là cha ruột của Đồng Phạm Minh (sinh 1997), cho biết con của ông cùng bị tạm giữ và được cho về nhà một lượt với con ông Dũng. Sáng 27/3, ông đến nhà mẹ vợ gần nhà để mượn 500.000 đồng để chở con đi khám bệnh. “Tôi đứng bên ngoài chờ họ lấy cung con tôi. Chở con về nhà, nó mếu máo nói bị họ đánh bằng tay, bằng dép”.
Hào Anh cùng bạn đi trộm?
Chiều 27/3, thiếu tá Nguyễn Thuận Tùng, Đội phó Đội điều tra tội phạm về trật tự xã hội, Công an TP Cà Mau có thông tin ban đầu về việc Hào Anh và nhóm bạn bị tình nghi liên quan đến vụ trộm. Thiếu tá Tùng cho biết, vụ trộm xảy ra vào rạng sáng ngày 26/3, và gia đình nạn nhân có báo mất trộm, Công an phường 8, TP Cà Mau thụ lý bước đầu, sau đó chuyển toàn bộ hồ sơ có liên quan lên công an TP điều tra theo thẩm quyền. Làm việc với các đối tượng tình nghi đến 22h cùng ngày, công an cho gia đình Hào Anh, Đức, Minh bảo lãnh về, còn Bình cũng được bảo lãnh cho về trong ngày 27/3.
Nghi án Hào Anh đi trộm: Số con xui quá!
Nghi án Hào Anh đi trộm: Số con xui quá!
Đặng Hồng Đức (ảnh trên) và Đồng Phạm Minh (ảnh dưới) là những người bị tình nghi tham gia vụ trộm cùng Hào Anh
Thiếu tá Tùng nói vụ việc cũng khá rõ ràng, biên bản lời khai đầy đủ, trùng khớp với nhau nên bước đầu có thể xác định vụ việc mất trộm là có thật và Hào Anh cùng ba đối tượng khác là nghi phạm có liên quan, biên bản lời khai cũng thể hiện việc các đối tượng này tiến hành lấy trộm tài sản.
Theo thiếu tá Tùng, bốn nghi phạm này bàn cách lấy trộm tài sản khi thấy cửa chính trên tầng một nhà anh (Giang) mở, các nghi phạm này đã trèo lên cây cặp nhà để tiến hành trộm cắp. Sau khi lấy được tài sản, tất cả đưa cho Đức bỏ vào một chiếc túi nhỏ để tẩu tán. Khi chủ nhà phát hiện, cả bốn nghi phạm tháo chạy, quăng mất chiếc túi, đến chiều tối 27/3 chiếc túi tang vật vẫn chưa được tìm thấy mặc dù đã dẫn Đức đi tìm theo vị trí tại lời khai.
Cơ quan điều tra Công an TP.Cà Mau đang tiếp tục điều tra vụ việc.
Theo 24h
Nghi án Hào Anh ăn trộm: Gia đình cầu cứu
Nghi án Hào Anh ăn trộm: Chiếc điện thoại lạ
Nghi án Hào Anh ăn trộm: CA xin lỗi gia đình
Hào Anh: Từ một nạn nhân gây chấn động lương tâm xã hội sa đọa vào con đường trộm cắp
Hào Anh ra Đà Nẵng giám định tâm thần
http://www.vietgiaitri.com/xa-hoi/ph...ui-qua-725852/
-
https://www.youtube.com/watch?v=bYsXkjBkNBs
Chú Đại Bi - TT. Thích Lệ Trang trì niệm ( Hiện tượng Mây Ngũ Sắc- Đức Phật nhập Niết Bàn )
-
Bài văn khấn Tứ phủ Công đồng đầy đủ nhất
2/22/2016 4:16:26 PM
Dưới đây là bài văn khấn đầy đủ nhất tại Ban Tứ phủ Công đồng.
Con niệm nam mô a di đà phật(3lần)
-Con lạy chín phương trời, con lạy mười phương đất, con lạy chư phật mười phương, mười phương chư phật, ngũ phương ngũ phật, thập phương thập phật, hằng hà sa số đức phật công đức vô lượng vô biên.
-Đức thế tôn bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
-Đức đông phương giáo chủ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật.
-Đức tây phương cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật.
-Đức đương lai hạ sinh Di Lặc Tôn Phật.
-Đức đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
-Đức đại hạnh Phổ Hiển Bồ Tát.
-Đức đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
-Đức đại lực Đại Thế Chí Bồ Tát.
-Đức đại nguyện Địa Tặng Vương Bồ Tát.
-Đức đại hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát
-Đức Chuẩn Đề Minh Vương Bồ Tát.
-Chư vị bồ tát, chư hiền thánh tăng vạn linh vạn phép hộ pháp chư thiên, thiện thần bồ tát, thập bát long thần, Già Lam Chân Tể.
-Con cung thỉnh mời đức Thiên phủ chí tôn vô sắc giới tứ không, tứ thiên Huyền Khung Kim Quyết Ngọc Hoàng Đại Đế Ngọc Điện Hạ.
Củng thỉnh mời đức Tây Vương Mẫu Nương Nương Diêu Trì Kim Mẫu.
Cung thỉnh mời đại thánh Nam Tào Lục Ti Duyên Thọ Tinh Quân.
Cung thỉnh mời đại thánh Bắc Đẩu Cửu Hoàn Giải Ách Tinh Quân.
Cung thỉnh Bắc Cực Thiên Trung, Tam Nguyên, Tam Phẩm, Tam Quan.
Cung thỉnh Cửu Tinh Thiên Chúa, Thập Nhị Bát Tú.
Cung thỉnh đức Khuông Quốc Đại Vương Tản Viên Sơn Thánh.
-Con cung thỉnh mời đức Địa phủ chí tôn Bắc Âm Phong Đô Nguyên Thiên Đại Đế Địa Cung Hạ.
Cung thỉnh mời Địa phủ Thập Diện Minh Vương.
-Con cung thỉnh mời đức Thuỷ phủ chí tôn Phù Tang Cam Lâm Đại Đế Thủy Cung Hạ.
Cung thỉnh mời Thuỷ phủ Bát Đại Long Vương.
-Con cung thỉnh mời Ngũ Nhạc Thần Vương Dương Phủ Thánh Đế Quân Ngọc Động Hạ.
-Con cung thình mời Lục Cung Thần Nữ Tứ Vị Thánh Mẫu:
+ Cung thỉnh mời Mẫu đệ nhất Thiên Tiên Cửu Trùng Thanh Vân Lục Cung Bán Thiên Công Chúa Thiên Cung Hạ.
+ Cung thỉnh mời Mẫu đệ nhị Địa Tiên Quỳnh Hoa Liễu Hạnh Mã Hoàng Công Chúa Sắc Phong Chế Thắng Hoà Diệu Đại Vương Địa Cung Hạ.
+ Cung thỉnh mời Mẫu đệ tam Thoải Tiên Thuỷ Tinh Công Chúa Xích Lân Long Nữ Tinh Cung Hạ.
+ Cung thỉnh mời Mẫu đệ tứ Nhạc Tiên Diệu Tín Diệu Nghĩa Thiền Sư Tuần Quán Đông Cuông Thượng Đẳng Cao Sơn Triều Mường Sơn Tinh Công Chúa Lê Mại Đại Vương Lâm Cung Hạ.
+ Cung thỉnh mời nhị vị trưởng quản Sơn Lâm Bạch Anh Mị Nương La Bình Công Chúa:
-Con cung thỉnh mời hội đồng văn võ Trần Triều Hiển Thánh:
+ Cung thỉnh mời đức ông Trần Triều Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương.
+ Cung thỉnh mời Trần Triều Vương Phụ, Trần Triều Vương Mẫu, Trần Triều Vương Phu Nhân, Trần Triều Vương Huynh, Trần Triều Vương Đệ.
+ Cung thỉnh mời tứ vị Vương Tử Đại Vương, thỉnh mời Trần Triều Phò Mã đức ông Phạm Ngũ Lão Diện Suý Tôn Thần.
+ Cung thỉnh mời nhị vị Vương Cô Hoàn Thánh.
+ Cung thỉnh mời Cô Bé Cửa Suốt, Cậu Bé Cửa Đông.
+ Cung thỉnh mời tả quan Nam Tào, hữu quan Bắc Đẩu, văn võ bá quan quân thần trần triều, binh hùng tướng mạnh dẹp giặc Nguyên Mông.
-Con cung thỉnh mời hội đồng chúa Mán, Mường, Nùng, Dao, Sơn Trại, Chúa Sơn Lâm, Chúa Sơn Trang 18 cửa ngàn 12 cửa bể, Bát Bộ Sơn Trang, Tám Tướng Hùng Binh, Thập Nhị Tiên Nàng:
+ Cung thỉnh mời tam thập lục chúa bà: 12 bà chúa bói, 12 bà chúa chữa, 12 bà chúa tài lộc.
-Con cung thỉnh mời Ngũ Vị Vương Quan, Lục Phủ Tôn Quan.
-Con cung thỉnh mời Tứ Phủ Chầu Bà, 3 bà chầu Thiên, 3 bà chầu Nhạc, 3 bà chầu Thoải, 3 bà chầu Địa.
-Con cung thỉnh mời Tứ Phủ Thánh Hoàng, thập vị Hoàng Tử Thoải Cung.
-Con cung thỉnh mời Tứ Phủ Thánh Cô, các cô trên ngàn, các cô dưới thoải, các cô bồng đảo bồng lai,các cô trấn thủ cửa rừng, cung thỉnh mời cô bé bản đền tối linh.
-Con cung thỉnh mời Tứ Phủ Thánh Cậu, cung thỉnh mời cậu bé bản đền.
-Con cung thỉnh mời Ngũ Dinh Thiên Tướng, Ngũ Hổ Thần Quan, Thanh Xà Thần Tướng, Bạch Xà Thần Quan, tả Thiên Nhiên, hữu Lực Sĩ.
-Con cung thỉnh mời hội đồng các bóng các giá 18 cửa ngàn 12 cửa bể.
-Con cung thỉnh mời Chầu, Chúa thủ đền, Quan thủ điện, thân kì, thần linh, sơn thần, thổ địa bản xứ.
-Đệ tử con tên là:............. tuổi:..........
Ngụ tại:.................................
Kim niên kim nguyệt cát nhật lương thời.
Hôm nay ngày:... Tháng:... Năm:...
Đệ tử con nhất tâm 1 lòng, nhất tòng 1 đạo, nhất tâm trí thiết, nhất dạ chí thành, đêm tưởng ngày mong, tu thiết hương, hoa, đăng, trà, quả, thực mang miệng về tâu, mang đầu về bái, trên con tấu thượng thiên, dưới con đệ trình long cung thuỷ phủ cùng đồng gia quyến đăng bái yết cửa đình thần tam tứ phủ ...............(tên đền) linh từ.
Mong trên cha độ, dưới mẫu thương, đèn trời đuốc biển soi đường dẫn lối, phù hộ độ trì cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hoà cung như vuốt ve che trở cho gia chung chúng con trong 3 tháng hè, trong 9 tháng đông, đầu năm chí giữa, nửa năm chí cuối được bình an vô sự, vạn sự như ý, có bệnh thì tan, có nạn thì qua, tai quan nạn khỏi ...... Dãi tấm lòng thành cúi xin Phật Thánh Chúa Tiên anh linh chứng giám
Nam mô a di đà phật
Nam mô a di đà phật
Nam mô a di đà phật
Bài văn khấn Tứ phủ Công đồng đầy đủ nhất
Suckhoecuocsong.com.vn
http://suckhoecuocsong.com.vn/le-hoi...ay-du-nhat.htm
-
-
https://docslide.com.br/documents/ch...i13khoale.html
ChuanDeChuaNgoi1.3_KhoaLe - Documents - docslide.us
https://docslide.com.br › Documents
16 thg 2, 2015 - Cung thỉnh mời đức Tây Vương Mẫu Nương Nương Diêu Trì Kim Mẫu ... Tam Kì Linh Ứng Vĩnh Công đại vương Thượng đẳng tối linh thần. ... Quan nam Tào, hữu quan Bắc Đẩu, Lục Bộ Thượng từ, Chư vị Bách quan công đồng Trần triều ... Tôn thần Bản gia Thổ Công-Địa Chủ Ngũ Phương Vạn Phúc Phu ...
-
Vài nét về diễn trình hình thành tục thờ bà ở Nam Bộ
Nguyễn Hữu Hiếu
Nam bộ là vùng đất mới của Tổ quốc, trên cái nền chung của dân tộc, văn hóa vùng này còn mang nhiều dấu ấn riêng, thể hiện sự giao thoa văn hóa giữa tộc Việt và các tộc người bản địa. Do điều kiện địa lý tự nhiên và lịch sử quy định, quá trình xã hội ở đây diễn ra có nhiều vấn đề diễn ra không theo tiền lệ, từ công cuộc khai hoang lập ấp đến quá trình hình thành, xác lập các thiết chế văn hóa bao gồm cả các mặt từ phong tục tập quán đến tôn giáo tín ngưỡng. Từ đặc điểm cơ bản đó, tín ngưỡng nữ thần mà dân gian Nam bộ quen gọi là tục thờ Bà, nếu so với hai miền Trung và Bắc, chúng ta thấy bên cạnh những nét chung có nhiều điểm khác biệt từ đối tượng đến nội dung tín ngưỡng và nghi lễ tế tự.
Tín ngưỡng nữ thần Nam bộ là kết quả của quá trình giao lưu, hỗn dung văn hóa của nhiều lớp cư dân người Chàm, người Khmer, người Hoa trên nền tảng tín ngưỡng cha Trời-mẹ Đất cổ truyền của người Việt. Diễn trình tiếp biến này luôn bị tác động bởi một số yếu tố khách quan, nếu không chú ý, chúng ta sẽ rơi vào tình trạng dùng “cái nôi sông Hồng” làm mẫu số chung, rồi có động thái quan liêu, áp đặc, gò ép trong học thuật. Trong đó, bốn yếu tố sau đây đáng chú ý hơn hết:
Một là về mặt địa-văn hóa, dãy Hoành Sơn, xưa vốn là ranh giới ảnh hưởng của hai nền văn hóa lớn, phía bắc là vùng ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa với Nho, Phật, Đạo giáo; phía nam là vùng ảnh hưởng văn hóa Ấn độ với đạo Bà la môn, Hindu giáo. Hai là về mặt lịch sử, nước ta có hai thời kỳ bị chia cắt, thời gian tổng cộng kéo dài gần 200 năm. Thời kỳ đầu (1627-1802) gồm hai gia đoạn: chiến tranh Trịnh Nguyễn (1627-1672), Đàng Trong-Đàng Ngoài (1672-1802); thời kỳ sau, sau hiệp định Genève (1954-1975). Trong khoảng thời gian này hai miền gián đoạn giao thương hoàn toàn, trở thành hai “nước” biệt lập, văn hóa mỗi miền phát triển theo hướng riêng. Ba là cuộc Nam tiến của người Việt diễn ra theo hình thức “nhảy cóc” phải mất khoảng 600 năm (từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVII) để tiến từ Đèo Ngang vào đến Bình Thuận, cửa ngõ vào Nam bộ. Bốn là vào cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, khi nhà Thanh lật đỗ nhà Minh, số lượng người Trung quốc sang Nam bộ chỉ có khoảng ba ngàn, trong khi đó họ vượt biên vào miền Bắc ta có đến 10 lần nhiều hơn, tạo nhiều ảnh hưởng đến xã hội Việt Nam, khiến chúa Trịnh phải lo lắng phải ban hành nhiều biện pháp đối phó [1].
Những điều này ảnh hưởng có tính quyết định đối với diện mạo văn hóa Nam bộ, trong đó có tục thờ Bà hiện nay. Để có thể theo dõi tiến trình này bài tham luận trước hết xin được lướt qua diện mạo của tục thờ Bà Nam bộ hiện nay, rồi qua một vài đối tượng tiêu biểu phát họa mấy nét về diễn trình hình thành tín ngưỡng nữ thần ở Nam bộ.
1. Đến đầu thế kỷ XIX, Trịnh Hoài Đức ghi nhận trong tín ngưỡng thờ Bà ở Nam bộ có bốn nữ thần (Chúa Ngọc, Chúa Động, Hỏa Tinh, Thủy Tinh) và hai cô (Hồng, Hạnh) được người Việt tôn thờ và nhấn mạnh rằng các vị này được gọi với tính cách tôn trọng là Bà [2] (không gọi là Mẫu) . Đến năm 1895, Huỳnh Tịnh Của kiểm tra thấy tăng lên đến bảy vị (Chúa Tiên, Chúa Ngọc, Chúa Xứ, Chúa Động, Cố Hỷ, Thủy, Hỏa) và hai cậu (cậu Trài/Tài/Chài, cậu Quý đều là con của bà Chúa Ngọc…) [3] . Dù khác nhau trong danh xưng, song trong tâm thức dân gian Nam bộ, các Bà đều có quyền năng tương tợ nhau của bà chủ, bà chúa xứ sở phải hộ trì mưa thuận gió hòa, người yên vật thịnh, sản vật sung mãn...bên cạnh quyền năng riêng của từng vị.
1.1. Hiện nay, dù đối tượng tín ngưỡng nữ thần Nam bộ có tăng lên hoặc thay đổi danh xưng, nhưng nội dung tín ngưỡng không có gì biến động lớn và điều nổi bật ở đây là tín ngưỡng Bà Chúa xứ là sinh hoạt tâm linh bao trùm. Qua khảo sát sơ bộ, các nữ thần trong tục thờ Bà Nam bộ có thể tạm liệt kê:
* Nhóm có nguồn gốc văn hóa Chàm, gồm:
- Chúa Xứ (chúa Xứ nương nương, chúa Xứ thánh mẫu), được sắc phong là Linh Sơn thánh mẫu dưới triều Gia Long.
- Chúa Ngọc, chúa Tiên: một hiện thân khác của bà Mẹ xứ sở (Pô Inư Nagar) của người Chàm, đã Việt hóa.
- Cô Hồng (Bà Hồng) cùng một dạng khác của bà Mẹ xứ sở (Pô Inư Nagar) của người Chàm được Việt hóa dưới danh xưng “Hồng nhân Phổ tế Linh ứng Thượng đẳng thần”.
- Đại càn (Đại càn thánh nương, Đại càn Quốc gia Nam hải tứ vị)
- Bà La Sát (La Sát nương nương, Thánh anh La sát).
- Chủ Ngung Man nương
- Bà Cố Hỷ…
* Nhóm có nguồn gốc văn hóa Khmer, gồm:
- Bà Đen, Bà Trắng,
- Linh Sơn thánh mẫu…
* Nhóm có nguồn gốc văn hóa Trung Hoa, gồm:
- Ngũ hành (Ngũ hành nương nương), gồm năm vị, được thờ khá phổ biến trong những am, miếu…được gọi phổ biến là “miếu Ngũ Hành” hay “miếu Bà”; không gọi “miếu năm Bà”, xuất hiện khắp nơi làng xóm nào cúng có, ngay cả trong khuông viên đình chùa, nhưng với tầng suất thấp hơn miếu Bà Chúa xứ. Miếu thờ đơn sơ với bài vị chữ Nho hoặc quốc ngữ viết “Ngũ hành nương nương” có nơi bài vị được thay bằng tượng tô, đúc bằng thạch cao hoặc xi măng, tô màu sơn thân tượng cho đến y áo, khăn choàng khoác ngoài, mỗi Đức Bà đều có màu riêng biệt. Kim đức thánh phi thì mặc áo trắng, Mộc đức thánh phi áo xanh, Hỏa đức thánh phi áo đỏ, Thủy đức thánh phi áo đen (hoặc tím) và Thổ đức thánh phi thì áo vàng, được sắc phong Tự hóa Mạc vậnThuận thành Hòa tự Tư nguyện Trang huy Dực bảo Trung hưng thượng đẳng thần dưới triều Duy Tân.
- Bà Thiên hậu (Thiên hậu thánh mẫu) còn có nhiều tên gọi khác: Thánh mẫu nương nương, Bà Ma tổ, Bà Mã Châu , nơi thờ gọi Thiên hậu cung hay Minh Nguyệt Cư Sĩ Lâm [4], có nơi gọi là Long Khương miếu.
- Cửu thiên huyền nữ: nữ thần cai quản chín cõi trời: Quân thiên, Thượng thiên, Biến thiên, Huyền thiên, U thiên, Hiệu thiên, Chu thiên, Diêm thiên, Dương thiên.
- Bảy Bà (Thất thánh nương, Thất vị bà bà): có tên gọi theo màu áo mặc là Hồng tiên nương nương, Thanh tiên nương nương, Tử tiên nương nương, Bạch tiên nương nương, Hoàng tiên nương nương, Lục tiên nương nương, Lam tiên nương nương.
- Bà Kim Huê (Kim Huê thánh mẫu) Huệ Phước phu nhân, Mẹ Thai sanh.
- Tây vương mẫu (Tiên mẫu tây lăng)
- Quan âm Nam Hải
- Quán thế âm bồ tát.
- Chín bà (Cửu vị tiên nương)
- Dương phi phu nhân, được sắc phong Hoằng phu Quảng tế Trang nhu Đoan túc Trai thục Trang huy Dương phu nhân thượng đẳng thần.
- Hà bá thủy quan thần của giớ thương hồ được sắc phong Hoằng ân Quảng trạch Hoằng bác Trừng tinh trung đẳng thần thời Thiêu Trị.
- Lục cung thánh mẫu
- Kim Hoa thánh mẫu
- Địa mẫu (không phải Mẫu Địa của Tam tứ phủ, cũng là Phật mẫu Diêu Trì)
- Phật mẫu Diêu Trì trong các Thánh thất Cao Đài.
- Thủy Long thần nữ (thần cai quản sông rạch, cù lao, giếng nước…được sắc phong Trứ linh Chưởng ứng Mục uyên Hoằng bác Uông nhuận trung đẳng thần thời Tự Đức
* Nhóm nữ thần bản địa, gồm:
- Tiên long thánh nữ (mẹ Âu cơ)
-Tối linh ngọc nữ công chúa (thần gốc bắc, con gái lạc Long quân)
- Hà Dương thủy thần (Cái Bè-Tiền Giang)
- Phật mẫu (Lấp Vò- Đồng Tháp): mẹ Phật Thầy Tây an Đoàn Minh Huyên
- Dinh Cô Long Hải (Lê Thị Hồng Thủy (Cách) tùng tự nhiều nữ thần khác (Chúa động, Long cung thánh mẫu, Cô Hồng…)
- Dinh Cô Cai Lậy (Nguyễn Thị Liệu) Được sắc tứ thời Thiệu Trị với bốn chữ “ Sắc tứ Nguyễn Thị Trinh” đền thờ gọi là Phường Trinh nữ.
- Dinh Bà Kim Giao (Phú Quốc)
- Miếu Cô Hai Hiên (Nha Mân-Sa Đéc)…
1.2. Trong đó bà Chúa xứ và bà Ngũ hành là hai đối tượng được thờ phổ biến nhứt, hầu như làng xóm nào cũng có. Căn cứ vào tầm ảnh hưởng, niềm tin của dân gian thể hiện qua hoạt động hành hương, điện thờ các đối tượng trên có thể phân ra năm dạng:
- Rộng khắp Nam bộ, gồm Miễu Bà Chúa xứ núi Sam (Châu Đốc), miếu bà Chúa xứ núi Bà Đen (Tây Ninh), miếu bà Chúa xứ Tháp Mười (Đồng Tháp, có phần hẹp hơn), với điện thờ to lớn, nguy nga…
- Ở vùng đô thị, thị trấn, nơi có người Hoa cư ngụ trước đây: miếu Thiên hậu với nhiều tên gọi khác nhau, với điện thờ to lớn theo kiến trúc Trung Hoa, được gọi là phủ hoặc cung.
- Trong phạm vi xóm ấp, với điện thờ nhỏ bé chỉ từ vài mét đến năm mười mét vuông, nhưng lại hiện diện khắp làng xã Nam bộ, phổ biến nhứt là hai loại điện thờ bà Chúa xứ, bà Ngũ hành, nếu chỉ tính mỗi xã chỉ có một miếu, con số này có đến trên 5.000. Tiếp đến là miếu thờ các vị Thất thánh nương nương, Cửu vị tiên nương…Điện thờ với đồ từ khí giản đơn, chỉ có chân đèn, lọ cậm nhang, lọ bông và bài vị viết chữ Hán hoặc quốc ngữ bốn chữ Chứ xứ thánh mẫu hoặc Ngũ hành nương nương hoặc tranh tượng (loại có bán sẳn ở chợ). Lệ cúng thường diễn ra vào cuối mùa thu hoạch lúa vào cuối năm hoặc tháng 2, tháng 3 âm lịch trùng khớp với thời gian cúng Thượng điền ở đình làng, với tâm nguyện đền đáp ơn Bà Chúa xứ và cầu nguyện mong được phù hộ cho mùa tới, thường có múa bóng.
- Trong khuông viên đình chùa, hai nữ thần Bà Chúa xứ và Ngũ hành với tư cách thần bảo hộ của cuộc đất nơi đình chùa tọa lạc. Còn trong chính tẩm có nhiều vị có hoặc không có sắc phong tùy theo từng địa phương được thờ với tư cách tùng hay phối tự, phổ biến là các vị chúa Tiên, chúa Ngọc, Chủ Ngung Man nương, Tứ vị Đại càn thánh nương…
- Trong phạm vi từng hộ gia đình: Phật mẫu Diêu trì, Nữ Oa, Cửu thiên huyền nữ, Thánh anh La Sát, Lục cung thánh mẫu, Quan âm Nam hải, Quan thế âm bồ tát, Bà Tổ cô, Bà Mẹ thai sanh…tùy theo tuổi của người thờ, thường là phụ nữ đứng tuổi với tư cách thần độ mạng nữ giới. Không gian tín ngưỡng là một cái trang (khánh), bài vị hoặc tượng ảnh của nữ thần, bình hoa, lọ cắm hoa. Người thờ thắp nhang cầu nguyện vào tối, hằng năm có lệ cúng tạ trang, đối với gia chủ có gia cảnh khá giả đều có thuê bà bóng đến trợ tế.
1.3 Xuất phát từ tính cách phóng khoáng, không cầu kỳ của người Việt Nam bộ, quyền năng của các nữ thần trong tục thờ Bà Nam bộ không được phân biệt rõ ràng, mà đan xen, chồng chéo nhau, thường vị nào cũng cho là có chức năng bao quát là phù hộ độ trì cho chúng sanh, mưa thuận gió hòa, người yên vật thịnh, bảo vệ xóm ấp, sản vật sung mãn, độ mạng nữ giới.…bên cạnh quyền năng riêng thể hiện qua danh xưng. Từ thời khai hoang đến nay, miếu đơn giản vẫn chỉ là miếu, vai trò, vị trí của các Bà thờ ở miếu cũng không được nâng lên, không đưa vào đền, phủ để thần bí hoá, hệ thống hoá.
Trên thực tế cũng có một số điện thờ Bà Nam bộ được nâng lên thành phủ, thành dinh, một số vị được triều đình sắc phong là trung hoặc thượng đẳng thần, nhưng trong dân gian không có sự phân biệt “đẳng cấp” giữa các nữ thần. Tất cả đều được trân trọng gọi là Bà, dù là nữ thần hay mẫu thần, có khi miếu lại to lớn hơn dinh, phủ. Lý do được tôn vinh thường là do sự linh ứng của thần, thu hút nhiều khách thập phương đến chiêm bái, tin tưởng hơn là do thần được nâng bậc hay được xếp vào hệ thống cao hơn...
2. Mỗi nữ thần đều có “nhân thân” riêng, trong số các nữ thần được tôn thờ ở Nam bộ hiện nay có hai vị mà “lai lịch” của họ là hiện thân tiêu biểu của quá trình giao thoa, tiếp biến văn hóa giữa các dân tộc trên vùng đất sông nước Đồng Nai-Cửu Long.
2.1. Trong đó phổ biến và tiêu biểu nhứt là bà Chúa Xứ. Vị này, gốc là nữ thần Pô Inư Nagar - bà Mẹ xứ sở của người Chàm, qua quá trình Việt hóa lâu dài mới hình thành. Từ thế kỷ XI, tín ngưỡng này đã theo chân tù binh người Chàm du nhập vào đồng bằng sông Hồng, nhưng không bắt rễ lan sang người Việt nổi, vì thế lực của Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo [5]. Dấu tích tiêu biểu còn lại đến nay ngoài Châu Lâm tự tức chùa Bà Danh trên phố Thụy Khê, (Hồ Tây, Hà Nội), còn đền Ứng Thiên còn gọi là đền Láng (thuộc xóm Đình, thôn Láng Hạ, quận Ba Đình, Hà Nội) thờ “Hậu Thổ Phu nhân”. Đến niên hiệu Trùng Hưng thứ nhứt (1285), thần được sắc phong Hậu Thổ thần Địa kỳ Nguyên quân, sang năm thứ tư được gia phong hai mỹ tự Nguyên Trung. Đến năm Hưng Long 21 (1304), thần lại được gia phong bốn mỹ tự là Ứng Thiên Hóa Dục” [6]. Trong đền còn lưu giữ ba tượng thần ngày xưa, với hai bức hoành, ghi: “Trợ Lý bình Chiêm”, “Phù Trần bái vũ”, và hai câu đối:
Ỷ mộc thế nhân vân tắc y trường kinh đế mộng,
Phù Trần trợ Lý hạn cam vũ lộ phúc dân sinh.
Khi người Việt đặt chân vào Trung và nhứt là Nam Trung bộ, với truyền thống thờ Bà, thờ Mẹ sẵn có từ quê nhà; người xưa đã tiếp nhận và Việt hóa vị thần Chàm này bằng tên mới, Thiên Y Ana Diễn Ngọc Thành phi, mà dân gian gọi ngắn gọn là bà Chúa Ngọc hay cô Hồng; Trong dân gian còn có một truyền thuyết khác, đã được Phan Thanh Giản khắc thuật vào năm 1856, và được triều đình nhà Nguyễn đưa vào hệ thống thần linh quốc gia, với danh xưng “Hồng nhân Phổ tế Linh ứng Thượng đẳng thần”. Hồng nhân ở đây liên quan đến bà mặc áo đỏ ngồi trên đỉnh gò, hiện ra trong giấc chiêm bao nói rằng sẽ có vị chân chúa đến đây xây chùa để tụ khí thiêng, tạo bền cho long mạch, mà dân làng kể cho Nguyễn Hoàng vào năm 1601, khi ông tìm nơi xây chùa làm nơi nương tựa cho quyền lực. Vì thế nên khi chùa dựng xong, được đặt tên là Thiên Mụ, danh xưng này có lẽ do /Yang/ (trong tổ hợp Pô Yang Inư Nagar) là Giàng = Trời = Thiên; Ino là Mẹ = Mụ. Còn Thiên Y A Na, có giải thích rằng: nó bắt nguồn từ chữ Phạn “Devayana” , trong đó tổ hợp Deva là Trời = Thiên, ghép với phần còn lại là yana thành Thiên Y A Na [7] .
Theo người Chàm thì Pô Nagar là Bà Chúa tạo ra vương quốc, là một nữ thần còn được thờ dưới dạng thần Ũma (tức nữ thần Sakti, vợ của thần Civa, nữ thần Ũma – tức thần Bảo Tồn của đạo Bà La môn). Nữ thần Ũma được dân tộc Chàm biến thành Pô Inư Nagar, lại được người Việt biến thành chúa Ngung Man nương – chủ Ngung Man nương là nữ thần cai quản một gốc trời, một vùng đất; có khi bị nói trại thành Chủ Ma vương. Văn tự “Mãi thỗ/Tá thỗ” trong tục cúng đất đầu năm ở vùng Nam Trung bộ thường đề cập đến bà chúa này [8] .
Điều đáng lưu ý là từ đèo Hải Vân vào phía nam đến Bình Thuận, miễu thờ bà xuất hiện ngày càng dày đặc, mang các tên bà Bô Bô (từ Pô=Đấng, Bà trong tổ hợp Pô Yang Inư Nagar), bà Phường Chào, bà Giàng Chào (từ Yang=Trời trong tổ hợp Pô Yang Inư Nagar), bà Thu Bồn, bà Chợ Được (Quảng Nam); bà Giàng Lồi, bà Cổ Giàng (thành phố Hội An), bà Giàng Lồi/Chúa Lồi; bà Giàng Phi/Hồng Phi Phu nhân; bà Giàng Rân, Bà Giàng Què (Đà Nẳng)…
Vào đến Nam bộ, bắt gặp tục thờ nữ thần Néang Khmau (Bà Đen)-một nữ thần Đất, của người Khmer, bà Mẹ Xứ sở của người Chàm, đã hóa thành bà Bô, bà Giàng, dưới tác động của tâm thức nhân văn của lớp lưu dân tiền phong người Việt từng bước trở thành bà Chúa xứ, chúa Xứ nương nương hoặc Chúa xứ Thánh mẫu... Riêng Bà Chúa xứ ở núi Bà Đen được triều đình nhà Nguyễn phong là Linh Sơn thánh mẫu.
Lưu dân Nam bộ có thói quen, khi khai khẩn được một khu vực, một vùng đất thì dựng miếu thờ Bà Chúa xứ với ước mong được phù hộ và tạ ơn. Trong địa bạ Nam kỳ 1836, vết tích này lộ rất rõ qua ghi chép, thôn nầy gồm hai xứ, thôn kia gồm ba xứ…Nên ngày nay, không có gì phải ngạc nhiên khi thấy miễu bà Chúa xứ ở rải rác khắp nơi ở Nam bộ, làng xóm nào cũng có. Bà Chúa Xứ trở thành vị nữ thần có phạm vi ảnh hưởng rộng khắp vùng sông nước này. Nếu quan sát thực địa, qua nghi thức thờ phượng ta thấy ở Nam bộ hiện nay tồn tại ba dạng cúng tế Bà Chúa xứ:
- Bà Chúa Xứ ở núi Bà Đen (Tây Ninh):
Theo nhà văn Sơn Nam thì tên thật của núi là “Chưng Bà Đen”, còn được gọi như thế đến đầu thế kỷ XX do tiếng Khmer đồng âm mà ông cũng không rõ nghĩa , khách hành hương thường kiêng cử, không dám gọi là Bà Đen, mà gọi là Bà Thâm…đến năm Tự Đức thứ III (1850), núi có tên gọi chính thức là Điện Bà. Hiện nay có tới bốn truyền thuyết về Bà Đen, tất cả đều là nhân vật nữ: Lý Thị Thiên Hương, nàng Đênh, nàng Rê Đeng và bà Nữ Oa. Hai thuyết đầu tiên có liên quan tới Phật giáo; riêng truyền thuyết thứ nhứt còn ca ngợi tấm lòng trung tinh tiết liệt của người con gái người Việt (Lý Thị Thiên Hương) có màu da sậm, một đặc điểm của người Khmer. Còn hai thuyết sau nhằm giải thích nguồn gốc núi Bà Đen là chính.
Cũng như truyền thuyết, điện thờ Linh Sơn thánh mẫu mang đậm màu sắc Phật giáo. Hàng năm mở hội vào rằm tháng giêng, nhưng ngày vía lại diễn ra vào hai ngày mùng 5 và 6 tháng 5 âm lịch. Trước hết là lễ tắm Bà do các sư nữ phụ trách, tiếp theo là lễ cúng chính thức theo nghi thức đạo Phật, dùng kinh Phật, không có văn tế riêng. Vật cúng gồm: hương, đăng, trà, hoa quả, trầu cau, bánh rượu…
Như vậy, ở đây có sự trộn lẫn giữa tín ngưỡng dân gian thờ Bà Đen với đạo Phật. Sự đan xen này được thể hiện từ truyền thuyết đến nghi thức tế lễ, nên thoạt nhìn khó phân biệt yếu tố nào có trước. Tuy nhiên, nếu dựa vào bối cảnh lịch sử hình thành tín ngưỡng để xem xét, thì rõ ràng tín ngưỡng là yếu tố có trước do lưu dân mang theo từ quê cũ ở miền Trung vào, kết hợp với tín ngưỡng tại chỗ của cư dân bản địa.
- Bà Chúa Xứ núi Sam (An Giang):
Bên cạnh bốn truyền thuyết liên quan đến một tượng đá được coi là Bà Chúa Xứ ở núi Sam. Đây là loại tượng thần Shiva-ligna thường thấy ở Ấn Độ, Cao Miên, Lào… được tạc bằng đá sa thạch dáng người đàn ông ngồi nghỉ ngơi, vương giả, đầy sức sống: ngực nở, bụng hơi phệ. Tay trái để ở tư thế chống vào nách, tay phải để tự nhiên, bàn tay úp trên đầu gối phải. Tượng đặt trên bệ cao tại chính điện, bên phải tượng là một linga cũng bằng đá, được gọi là cậu.
Có sự khác nhau về chi tiết giữa các truyền thuyết, nhưng chúng có điểm chung là sáng tạo ra thần tích cho một nhân vật được thần hóa mang cái tên thống nhứt là Bà Chúa Xứ để thổi vào pho tượng đang được tôn kính thờ phượng. Ở đây, chúng ta chưa thấy xuất hiện tình tiết Bà Chúa Xứ hóa thân vào cõi phàm tục như nàng Lý Thị Thiên Hương, nàng Đênh hoặc xa hơn như bà Liễu Hạnh, bà Chúa Ngọc, Thái Dương phu nhân… Điểm cần lưu ý là tại sao cả bốn truyền thuyết đều cho rằng tượng Vishnu có dáng đàn ông đó là Bà Chúa Xứ chớ không phải vị thần nào khác. Phải chăng, do hai lẽ: một là do nhu cầu tâm linh của người đi khai hoang cần có sự che chở, phù trợ của thế lực thần linh tại chỗ của bà Chúa Xứ, bà Chủ xứ sở bản địa; hai là lưu dân đến miền Tây Nam bộ đã mang theo niềm xác tín từ quê cũ về sự hiện diện của bà Chúa Xứ ở mỗi vùng đất, nên họ sẵn sàng khoác danh xưng Bà Chúa Xứ lên pho tượng nam thần? Và phải chăng cũng vì thế mà người ta đã gia công bằng y phục, bằng trang điểm để biến tượng Nam thần này thành nữ thần cho phù hợp với nội dung tín ngưỡng?.
Điều thú vị khác là bên cạnh tượng Bà Chúa Xứ, người ta thờ một linga và gọi là cô; song sau đó đổi tên gọi là cậu. Bà Cô, Bà Cậu là một dạng tín ngưỡng cặp đôi (Bà Cậu/âm dương) khá phổ biến ở Nam bộ. Những khu cư dân có cuộc sống gắn liền với sông biển đều có lập miếu thờ Bà Cậu. Cậu ở đây là một linga bằng đá thờ cặp với tượng thần Vishnu của Bà la môn, gần như nguyên mẫu cửa tín ngưỡng Chàm, một biểu tượng của tín ngưỡng phồn thực, một dạng tín ngưỡng nông nghiệp sơ khai. Người ta còn thêm một tượng gỗ, gọi là cô. Rõ ràng đây là sự nối tiếp của bà Thiên Y A Na từ tháp Bà ở Nha Trang, bà kết duyên với thái tử Trung Quốc và có hai con: một trai (cậu Tài/Trài/, Chài), một gái (cô Quí).
Ngoài ba linh tượng chính của tín ngưỡng Bà Chúa Xứ núi Sam, người ta còn thiết trí bàn thờ hội đồng, bàn thờ Tiền hiền, Hậu hiền, Tả ban, Hữu ban… với nghi thức tế lễ (sau lễ tắm Bà) và phẩm vật cúng gần như lễ cúng đình.
- Bà Chúa Xứ Gò Tháp (Đồng Tháp):
Ở đây Bà Chúa xứ không có thần tích ly kỳ như hai miếu trên. Xuất phát điểm là một miếu Bà Chúa xứ bình thường như hàng ngàn miếu khác ở Nam bộ, nhưng vì tọa lạc ở Gò Tháp, nơi Thiên hộ Dương, Đốc Binh Kiều xây dựng căn cứ chống thực dân Pháp xâm lược; do đó việc thờ phượng hai vị anh hùng dân tộc này có tác động nhứt định đến nội dung cúng tế ở miếu Bà, ít nhứt là qua câu “Cúng bà thì phải kiến Ông” và “Cúng Ông thì phải kiến Bà”. Trong tâm thức nông dân Nam bộ, thần cũng có quan hệ láng giềng như người phàm. Bà Chúa Xứ là chủ cũ của xứ sở này, khi cúng hai ngài thì phải biết đến bà chủ đất. Còn hai ngài dù không được sắc phong của nhà vua theo quan niệm “Thiên tử phong bách thần” của Nho giáo, song đã được “dân phong”, chẳng những được dân thờ phượng tại đây mà còn được nhiều đình ở Đồng Tháp Mười thờ phượng với tư cách thần Thành hoàng bổn cảnh. Mặc nhiên đang là chủ mới, nên bà chủ đất cũ phải kiêng nể hai ngài. “Làm heo trắng cúng Bà, làm gà cúng Thần Nông” là cổ tục cúng ở đây, đã để lộ tín ngưỡng Bà Chúa Xứ có nội dung thích hợp với tục cúng ông Tổ nghề nông với tâm thức cầu mong trúng mùa nông nghiệp. Trước năm 1945, nơi đây hàng năm còn diễn ra tục cúng cầu ngư, tạ ơn Đại Càn Quốc gia Nam do cư dân theo nghề cá trong vùng tổ chức.
Có thể nói tục cúng miếu Bà Chúa xứ Gò Tháp mang nội dung tiêu biểu của tín ngưỡng Bà Chúa xứ Nam bộ.
2.2. Bên cạnh Bà Chúa xứ, tục thờ cúng Bà Đạ Càn (Đại Càn thánh nương), tuy không phổ biến bằng tục thờ Ngũ hành nương nương, chỉ xuất hiện ở vùng Đồng Tháp Mười và một số làng xã ở thành phố Hồ Chí Minh, Long An, Bến Tre… nhưng lại có “quá trình” tiếp biến đáng chú ý.
Trong sách Việt điện u linh tập (VĐULT), phần Tục bổ [9] , có chép truyện Kiền hải môn từ (ở phủ Diễn Châu, huyện Quỳnh Lưu làng Hương Cần) tóm tắt như sau:
Quân nhà Nam Tống bị Trương Hoằng Phạm đánh úp, ba mẹ con công chúa nhảy xuống biển tự tữ chết. Thi thể trôi đến cửa biển Kiền hải (tục danh là cửa Cờn) phủ Diễn Châu, nước ta, tuy chết lâu mà ngọc diện vẫn như sống, người bản xứ thấy làm lạ, vớt lên chôn cất hẳn hoi, sau thấy có nhiều linh dị, mới lập đền thờ phụng. Hễ thuyền biển gặp cơn gió to sóng lớn, nguy cấp, van vái với phu nhân thì đều được bình an vô sự. Các cửa biển đều có đền thờ, cũng đều linh ứng.
Sau vua Trần Anh Tông được bà báo mộng trong chuyến Nam chinh vào năm 1312. Nhưng có thuyết cho rằng để lôi cuốn tranh thủ đám di thần nhà Tống tham gia vào công cuộc chống quân Nguyên xâm lược, vua Trần giả dạng chiêm bao và phong thần cho cả bốn bà là Đại Càn Thánh nương, vị thần biển, để thần tích tăng thêm phần thuyết phục [10] . Như vậy, “Phu nhân” được thần hóa thành nữ thần biển với quyền năng phù hộ độ trì dân đi biển.
Cuối thế kỷ XVII, khi nhà Thanh lật đổ nhà Minh, một số người Hoa do Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch, Mạc Cửu dẫn thuộc hạ sang nước ta tị nạn. Lúc bấy giờ nhà Thanh phong danh hiệu Thiên hậu Thánh mẫu cho bà Thiên hậu (Lâm Mật Nương) , một vị nữ thần mà người Trung Quốc ở khu vực Đông Nam Á đang tôn thờ. Để lấy lòng dân Minh hương, vua chúa nhà Nguyễn nhiều lần gia phong cho Đại Càn Thánh nương, với các mỹ tự Hàm hoằng Quang đại Chí đức Phổ bác tứ vị Thượng đẳng thần, hoặc Vi hợp Hàm hoằng Quang đại Chí đức Phổ bác Hiển hóa Trang huy Dực bảo Trung hưng Thượng đẳng thần [11] .
Trong Ô Châu cận lục [12], tác giả chép chuyện thần biển cửa Cờn giống như VĐULT, song có thêm chi tiết thần là con gái út của bà thái hậu nhà Tống cùng chết với mẹ và hai chị, tức là bốn người (Tứ vị thánh nương) và còn có truyền thuyết khác về thần Đại Càn. Cho rằng từ lâu trên đất nước Việt Nam đã có nữ thần là chánh hậu của vua Hùng thứ XIII. Trong một cuộc tranh giành ngôi báu, một thứ phi sai người cắt bộ sinh dục của hoàng tử con của chánh hậu vừa mới sanh. Nghĩ rằng, bà chánh hậu sanh quái thai là điềm xấu, vua đày cả hai mẹ con bà ra hải đảo ở ngòai cửa Cờn. Hai mẹ con chết, báo mộng cho dân làng cá, cho rằng mình là thần nước Nam; Xác được vớt lên chôn cất và lập đền thờ. Cầu mong đánh được nhiều cá, rất linh ứng, được dân coi như vị phúc thần linh thiêng ở biển Nam. Khi cúng tế, thường bày ra tục múa hoa đỏ (vũ hồng hoa).
Sách Ô Châu cận lục được Dương Văn An hòan thành vào năm 1555, cho thấy thần cửa Cờn đã được nho hóa với danh hiệu Tứ vị thánh nương, được hầu hết các cửa biển lập đền thờ cúng; song trên đường Nam tiến của người Việt, tục thờ thần biển nầy chịu ảnh hưởng văn hóa Chăm rất đậm, với tín ngưỡng phồn thực qua biểu tượng linga-yoni. Với tư cách một khoa bảng Nho học, ông đã gay gắt phê phán cách thờ cúng dung tục đó: “Cựu tục, thổ nhân bất tri dĩ dâm vật sự thần”. Thờ Bà (Nữ thần) với biểu tượng ligna (sinh thực khí nam) không phải là để biểu thị ưu thế nữ tính của thần mà thực chất là muốn nói lên sự phối hợp nam nữ (âm dương theo Nho giáo) là nguồn gốc của sự sinh sôi nảy nở của thuyết phồn thực. Thế nên có tác giả [13] cho rằng gốc của Tứ vị thánh nương có thể là thần Po Riyak (Po Rayak), thần sóng biển của người Chăm. Po Riyak là danh hiệu thần hóa của Ja Themeng Kei, một công thần của vua Pô Romé [14] , vì là nam thần nên được vua chúa nhà Nguyễn phong là Nam Hải cự tộc Ngọc lân tôn thần (hay Nam Hải long vương), được thờ ở các miếu có tên là Long vương miếu; đây là một dạng đền thờ thần biển Chăm - Việt.
Thần Sóng Biển (Po Riyak) của người Chăm càng về phương Nam được Việt hóa theo hai hướng: theo miền biển và địa bàn sông rạch.
- Quá trình Việt hóa ở vùng ven biển phương nam, thần Sóng Biển từng bước được đồng hóa với thần cá ông, chuyên phù trợ cho người đánh cá hay di chuyển trên biển. Trong tâm thức của người Chăm, cá voi cũng là một vị thần Biển; song trong nghi thức thờ phượng, họ không thờ xương cốt (Ngọc lân) cá ông. Ở hướng này thần Sóng Biển được đồng hóa với thần cá ông và được suy tôn “Nam hải cự tộc Ngọc lân tôn thần”. Vì là nam thần nên đến cuối thế kỷ XVIII được nhà Nguyễn sắc phong là Nam Hải Long vương thờ ở các đền “Ngọc lân” ở một số làng ven bờ biển phía nam.
- Tín ngưỡng thần Sóng Biển được Việt hóa và phát triển trên địa bàn sông rạch có dấu hiệu bắt đầu từ Bình Định với danh hiệu Đại Càn; vào Nam Bộ với đặc điểm địa hình sông nước danh hiệu Đại càn tứ nương hay Đại càn Quốc gia Nam hải tứ vị tôn thần trở nên phổ biến hơn.
Ngoài ra, nếu chú ý đến sự biến âm của khẩu ngữ, thì các tên gọi: Cửa Cờn, Kiền Hải, Cần Hải, Hương Cần, Càn Hải có lẽ xuất phát từ một khẩu ngữ gốc nào đó. Theo nhà Chăm học Sử Văn Ngọc thì nói theo giọng Chăm, từ gì cũng nghe như có dấu huyền; song, khi phiên âm các học giả thường ít chú ý đến và bỏ mất thanh huyền này. Và Pô Inư Nưgar (Pô Inư Nagar) đọc theo giọng Chăm là Pô Nư Cành. Như vậy, các tên gọi trên đều xuất phát từ nơi có một đền thờ thần Biển, gọi là Cờn, Càn, Cần, Kiền mà nguồn gốc là Pô Nư Cành. Rõ ràng là ở đây có sự biến âm từ /Cành/ ra /Cờn/, /Càn/ , /Cần/ , /Kiền/ và sự hiện diện của Pô Nư Cành (Pô Inư Nưgar) trong mỹ hiệu “Đại Càn Quốc gia Nam Hải...”. Theo tiếng Chăm, Pô có nghiã tôn xưng là Ngài, Đấng, Đức... từ đó trở thành” Đại” trong “Đại Càn” [15] .
Lập luận dài dòng trên đây, nhằm mục đích làm rõ thêm quá trình Việt hóa tín ngưỡng Mẹ Xứ Sở (Pô Inư Nưgar) của người Chăm. Tín ngưỡng Mẹ Xứ Sở của người Chăm hội nhập vào hệ thống thần linh người Việt bắt nguồn từ động thái rước vị nữ thần vốn là “tinh của đại địa Nam quốc” của vua Lý Thánh Tông sau cuộc Nam chinh vào năm 1069, từ vùng biển Hòan Hải về Thăng Long và sắc phong mỹ hiệu “Hậu Thổ Đại kỳ nguyên quân” (VĐULT).
Trên đường Nam tiến, Tứ vị thánh nương được Việt hóa ngày càng cao và yếu tố biển dần dần mờ nhạt, yếu tố sông đậm nét dần khi càng đi sâu vào đất Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long đặc điểm nầy trở nên phổ biến hơn. Mặc dù ở đây vừa tiếp nhận thần biển mới do đám di thần nhà Minh mang vào, nhưng yếu tố đồng bằng vẫn chiếm ưu thế. Tất nhiên không tránh khỏi sự trộn lẫn pha tạp trong nghi thức thờ phượng. Cho nên trong các sắc phong cho thần với các danh hiệu có khác nhau như: Đại Càn thánh nương (như sắc ở đình Tân An, quận I), Tứ vị thánh bà (đình An Nhơn, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh) Tứ vị thánh nương, hoặc Đại càn Quốc gia Nam Hải Tứ vị tôn thần (như sắc ở đình Trường Thạnh [nay thuộc xã Thạnh Phước, Mộc Hóa, Long An], đình Hằng Thạnh (nay thuộc xã Long Hòa, huyện Bình Đại, Bến Tre) và nhiều đình nay thuộc các huyện Cao Lãnh, Thanh Bình, Hồng Ngự, Tân Hồng, Tam Nông của Đồng Tháp); song không có danh hiệu nào được phong kèm theo mỹ tự Hòanh hợp (tức mỹ tự dành cho thủy thần [thần biển]), mà phần lớn được gia phong mỹ tự Trang huy (mỹ tự dành cho âm thần [nữ thần]), theo quy định vào năm Tự Đức thứ III đã nêu ở trên. Âm tính, tính nữ hàm súc ý niệm phồn thực được đặc biệt chú ý [16] .
Qua sắc phong Đại Càn Quốc gia Nam Hải và lịch sử cư dân Đồng Tháp Mười (vùng ven sông Tiền), ta có thể nói rằng, tín ngưỡng Đại càn thánh nương ở đây là một dạng tín ngưỡng ngư nghiệp, được hình thành qua một quá trình tiếp biến, dưới sự tác động của một số yếu tố bản địa về điều kiện tự nhiên và xã hội.
Qua hai đối tượng tiêu biểu trên, chúng ta thấy diễn trình hình thành tục thờ Bà Nam bộ diễn ra trong quá trình giao tiếp văn hóa giữa các dân tộc Việt, Chăm, Khmer, Hoa. Trong sự vận động văn hóa nầy, tiêu chí qui định sự tồn tại và phát triển của nó là sinh họat của cộng đồng cư dân địa phương trong môi trường sinh thái đặc biệt của vùng sông nước Nam bộ, trong mấy thế kỷ qua.
3. Đặc điểm đáng lưu ý là trong tục thờ Bà Nam bộ, quyền năng giữa các thần không có sự phân biệt rạch ròi, cũng như giữa Nữ thần và Mẫu thần; và hầu như sự hiện diện của hệ thống tín ngưỡng Mẫu thần tam tòa tứ phủ ở đây rất mờ nhạt.
Tam tứ phủ được thờ tại hầu hết các chùa chiền ở Đàng Ngoài cũ và còn xâm nhập, đồng hóa một số điện thờ khác, nhứt là khi tín ngưỡng Mẫu Liễu Hạnh định hình vào thế kỷ XVI. Thế nhưng tín ngưỡng này không xâm nhập nỗi vào một số cơ sở tín ngưỡng có nguyên gốc xưa (từ thế kỷ XI) là nơi thờ nữ thần Pô Inư Naga, mẹ Xứ sở của người Chàm, như chùa Bà Đanh, đình Ứng Thiên nêu trên, đành phải dùng quyền “thế gian” dị hóa thành hai nơi này thành điện thờ Mẫu Địa; cũng như điện Hòn Chén ở Huế thờ Thiên Y A Na (chúa Tiên, chúa Ngọc), cũng là một nữ thần của người Chàm được Việt hóa, mãi đến sau năm 1954 mẫu Liễu Hạnh theo người Bắc di cư mới được đưa vào thờ, nhưng chỉ là phối tự với hiện thân Vân Hương thánh mẫu.
Nếu nói rằng tục thờ Bà (Nữ thần) ở Nam bộ chỉ phát triển lên đến thờ Mẫu thần chưa đạt đến đỉnh cao Mẫu tam tứ phủ, hoặc cho rằng trong quá trình theo lưu dân vào Nam, Mẫu tam tứ phủ đã bị lượt bỏ chỉ còn tục thờ Nữ thần và Mẫu thần, là chưa phản ánh đúng thực tế khách quan khi nghiên cứu tục thờ nữ thần Việt Nam.
Hoành Sơn là ranh giới ảnh hưởng của hai nền văn hóa lớn Trung quốc, Ấn độ và nước ta bị chia cắt trong một thời gia dài; nên tín ngưỡng Mẫu Tam tứ phủ mang đậm màu sắc Đạo giáo, khó xâm nhập vào lòng cư dân Trung và nhứt là Nam bộ, nơi có một thời gian khá dài là vùng chịu ảnh hưởng sâu đậm của Bà La Môn và Hindu giáo, trực tiếp qua người Chàm và người Khmer. Tín ngưỡng thờ Mẫu Đàng Ngoài tiếp thu các thành tố từ Đạo giáo của Trung Hoa dần phát triển, phối hợp bản địa và ngoại lai đạt đến đạo thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ vào thế kỷ XVI. Trong lúc đó ở Trung bộ, người Việt đã đến cư ngụ từ mấy trăm năm trước và nữ thần Inư Nagar của người Chàm đã Việt hóa thành bà Thiên Y a na, bà chúa Tiên, chúa Ngọc, bà Bô Bô, bà Giàng…tiền thân của bà Chúa xứ Nam bộ. Những danh xưng Mẫu Thoãi, Mẫu Địa, các Phủ, các Mẫu, các Hàng (hàng Quan, hàng Chầu, ông Hoàng, hàng Cô và hàng Cậu…hoặc thành ngữ “Tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ”…hoàn toàn xa lạ với người Việt Nam bộ.
Sau năm 1954, tín ngưỡng Bà Liễu Hạnh theo dân di cư vào Nam. Nhưng với gần một triệu người Bắc vào Nam, đại bộ phận là tín đồ đạo Thiên chúa, nên mãi đến năm 1975, chỉ ở những nơi có nhiều người Bắc di cư cư ngụ, như thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Biên Hòa, Vũng Tàu, Đà Lạt...mới có điện thờ Mẫu Tam tứ phủ [17] và tín ngưỡng này chỉ hiện diện trong tâm thức của người miền Bắc. Những đợt nhập cư ào ạt của người Miền Bắc sau năm 1975, phần lớn là thanh niên đang bận tâm với nhiệm vụ cấp bách trước mắt, ít có điều kiện chú ý đến đời sống tâm linh, nên không có ảnh hưởng gì mấy đến tục thờ Bà và hát-múa bóng rỗi Nam bộ.
Tục thờ Bà Nam bộ là sản phẩm văn hóa tâm linh của vùng đất mới, được tích hợp trên cơ sở hành trang tín ngưỡng mang theo của các lớp lưu dân, được hình thành qua mấy trăm năm trên vùng đất Trung bộ, quê hương của văn hóa Chàm, với văn hóa của cư dân bản địa của vùng sông nước Đồng Nai-Cửu Long và người Hoa mới nhập cư, thể hiện truyền thống tri ân, uống nước nhớ nguồn của con người đối với thần linh, đối với tổ tiên, được hình thành từ trong buổi đầu khai hoang mở cõi trên vùng đất mới Nam bộ, tạo nên sự mới lạ, làm phong phú thêm cho môi trường văn hóa dân tộc. Các cơ quan nghiên cứu và quản lý văn hóa nên có công trình nghiên cứu nghiêm túc để có nhận thức đúng về tục thờ Bà Nam bộ, hơn là vội vàng nhìn tục thờ Bà Nam bộ qua lăng kính đạo Mẫu của Đàng Ngoài, không thấy được tính năng động, sáng tạo trong khả năng dung hóa ở lãnh vực văn hóa tâm linh của cư dân trên vùng đất mới, nơi đã sản sinh ra một số tôn giáo nội sinh đang tồn tại và phát triển.
Chú thích
[1] Khâm định Việt sử thông giám cương mục,
[2] Trịnh Hoài Đức-Gia Định thành thông chí, tập Hạ, Bản dịch Tu Trai Nguyến Tạo, S.1972,Tr.4.
[3] Huỳnh Tịnh Của- Đại Nam Quấc âm tự vị, Tp.HCM, 1982,tr.36.
[4] Bà có tên thật là Lâm Mật Nương, tên dân gian là Mị Châu, nói trại thành Mã châu, được nhân dân Trung quốc thần hóa, vua Càn Long sắc phong là Thiên hậu thánh mẫu.
[5] Nguyễn Hữu Hiếu (2004): Chân dung bà Chúa Xứ Nam bộ trong “Tìm hiểu đặc trưng Di sản văn hoá văn nghệ dân gian Nam bộ”, Nxb.KHXH, Hànội, tr.119-141.
[6] Lý Tế Xuyên (1961) – Việt Điện U Linh tập, bản dịch Lê Hữu Mục, Khai Trí, S.1961,tr.97-98.
[7] Nguyễn Thế Anh (2001): Thiên Y A Na hay sự tiếp nhận Bà Chúa Chăm Pô Nagar của vương triều Nho giáo Việt Nam – Xưa & Nay số 98 (tháng 8-2001).
[8] Nguyễn Đình Tư (1969):Non nước Khánh Hòa, Sông Lam -Sài Gòn, tr.230-234
[9] Lý Tế Xuyên (1969): Việt điện u linh tập, Bản dịch Lê Hữu Mục, phần Tục bổ của Nguyễn Văn Hiền (Nguyễn Văn Chất)
[10] Nguyễn Duy Hinh: Tín ngưỡng thần Hoàng, Nxb KII XII, II.1996,tr.71-72
[11] Huỳnh Ngọc Trảng- Trương Ngọc Tường- Hồ Tường: Đình Nam bộ, Nxb. TPHCM,tr.44
[12] Dương Văn An: Ở Châu Cận Lục, Bản dịch của Bùi Lương, Sài Gòn, 1961
[13] Tạ Chí Đại Trường : Sdd, tr.275
[14] Nguyễn Đình Tư (1974): Non nước Ninh Thuận, Sài Gòn, tr.133
[15] Huỳnh Ngọc Trảng: Câu chuyện về ông thần Thành hoàng đình Phú Nhuận, Kiến thức ngày nay, số 414 (10-02-2002.tr.33-36
[16] Nguyễn Hữu Hiếu (2013): Nghề Cá Đồng Tháp Mười năm xưa, NXB Thời Đại, tr.122-127
[17] Theo điều tra bước đầu thì cả thành phố Hồ Chí Minh có 11 đền, điện, Bình Dương có 7 đền, điện, Đồng Nai có 4 đền, điện.
Tài liệu tham khảo
-Huỳnh Tịnh Của (1895) Đại Nam Quấc âm tự vị,
-Trịnh Hoài Đức (1972)-Gia Định thành thông chí, tập Hạ, Bản dịch Tu Trai Nguyến Tạo, S.
- Dương Văn An (1961): Ở Châu Cận Lục, Bản dịch của Bùi Lương, Sài Gòn.
- Lý Tế Xuyên (1961) – Việt Điện U Linh tập, bản dịch Lê Hữu Mục, Khai Trí, S.1961,tr.97-98.
-Huỳnh Ngọc Trảng: Câu chuyện về ông thần Thành hoàng đình Phú Nhuận, Kiến thức ngày nay, số 414 (10-02-2002)
- Tạ Chí Đại Trường (1987): Thần Người và Đất Việt, California.
- Nguyễn Đình Tư (1974): Non nước Ninh Thuận, Sài Gòn, tr.133
- Nguyễn Duy Hinh (1966): Tín ngưỡng thần Hoàng, Nxb KII XI.,
- Huỳnh Ngọc Trảng- Trương Ngọc Tường- Hồ Tường (1990): Đình Nam bộ, Nxb. TPHCM.
- Nguyễn Thế Anh (2001): Thiên Y A Na hay sự tiếp nhận Bà Chúa Chăm Pô Nagar của vương triều Nho giáo Việt Nam – Xưa & Nay số 98 (tháng 8-2001).
- Nguyễn Đình Tư (1969):Non nước Khánh Hòa, Sông Lam -Sài Gòn. Nguyễn
- Nguyễn Hữu Hiếu (2004): Chân dung bà Chúa Xứ Nam bộ trong “Tìm hiểu đặc trưng Di sản văn hoá văn nghệ dân gian Nam bộ”, Nxb.KHXH, Hànội.
- Nguyễn Hữu Hiếu (2013): Nghề Cá Đồng Tháp Mười năm xưa, NXB Thời Đại.
Tác giả: NHH
Nguồn bài viết: Hội sử học Đồng Tháp
http://hkhls.dongthap.gov.vn/wps/por...ho+ba+o+nam+bo