Tán thán công đức vô lượng của Cư sĩ Huyền Thanh
Printable View
Tán thán công đức vô lượng của Cư sĩ Huyền Thanh
http://vietrigpa.org/wp-content/uplo...00310438_n.jpg
Đạo Sư Liên Hoa Sanh | Viet Rigpa Foundation
Viet Rigpa Foundation
( http://vietrigpa.org/2016/07/02/tieu...lien-hoa-sanh/ )
https://uphinhnhanh.com/images/2018/...d71484e4a5.jpg
( https://blog.goo.ne.jp/umekou_2004/m/201603/2 )
2016年3月のブログ記事一覧(3ページ目)-宮地神仙道
Gooブログ
「壊有情幻躯之病起時(かいうじょ げんくしびょうきじ) 為痛苦難忍之病所害(いつうくなん んしびょうしょがい)
Kim Cang Thừa Vấn Đáp 20:
Công Năng của Cát Mandala ? Ý nghĩa lễ xoá Mandala ? Rinpoche giải thích ý nghĩa thứ 2 của Mandala ?
Ngài Khentul Rinpoche là một vị hoá thân (Tulku) đã được Đức Đạt Lai Lạt Ma công nhận là hoá thân tái sinh của vị Viện Trưởng của Tu Viện Drepung Loseling thành lập từ năm 1950. Vì là một hoá thân nên từ nhỏ, Rinpoche đã được huấn luyện đặc biệt trong một chương trình đào tạo chư vị hoá thân. Năm 2009, Khentul Rinpoche đã thành tựu cấp bậc cao nhất trong dòng truyền thừa Gelugpa (Hoàng Mạo) là đã thi đậu cấp bậc Geshe Lharampa (cấp bậc Thánh giả) do Đức Đạt Lai Lạt Ma chủ toạ kỳ thi sát hạch
Rinpoche đáp:
Ý nghĩa ở mức độ thứ hai là sự hành trì khi chiêm bái Mạn Đà La.
Bởi vì như đã nói trên, Mạn Đà La chính là Pháp thân hiện tiền của chư Phật trong ba đời mười phương qua vị Phật chính của Mạn Đà La, cho nên phải có chủng tử của thiện nghiệp, duyên lành tích luỹ từ nhiều đời mới có được duyên may thù thắng chiêm bái Mạn Đà La này.
Do đó, khi chiêm bái Mạn Đà La, chúng ta phải giữ Thân Khẩu Ý thanh tịnh để quán tưởng thành tựu tiếp nhận sự gia trì của chư Phật và Thánh chúng trong Mạn Đà La.
Sự gia trì này, ngoài công năng đưa ta khi chết được tái sinh vào cõi Tịnh độ của đức Phật, còn có công năng chữa lành bệnh tật khi chúng ta giữ Thân Khẩu Ý thanh tịnh đi nhiễu vòng quanh Mạn Đà La và trì chú của vị Phật trụ trong Mạn Đà La.
Khi chiêm bái Mạn Đà La, ta phải quán tưởng được đức Phật nắm tay dẫn đi vào cửa của Mạn Đà La và rút cục đi vào trong cung điện trung ương và thể nhập hoà tan vào trong vị Phật chính, tức là thể nhập, hoà tan vào trong Pháp thân của Phật.
Như vậy sẽ được lợi lạc của sự gia trì và sẽ thành tựu viên mãn quả vị Phật khi lìa đời và ở giây phút đó, quán tưởng đức Phật thị hiện dẫn dắt ta đi vào trong cảnh giới của Phật tức là Mạn Đà La đã chiêm bái và gieo chủng tử trong Tạng thức của mình khi còn tại thế.
Một lần có duyên may chiêm bái Mạn Đà La là sẽ tiêu trừ được vô lượng nghiệp chướng trong Tạng thức của người hành giả khi quán tưởng và trì chú đi nhiễu đúng cách chung quanh Mạn Đà La đó.
Lễ Xóa Mạn Đà La:
Sau cùng, chư tăng sẽ cử hành lễ xoá Mạn Đà La. Vị Sư Trưởng chủ lễ sẽ dùng tay để kẻ những bốn đường thẳng phân Mạn Đà La ra bốn phần, rồi kẻ thêm bốn đường phụ, trước khi xoá Mạn Đà La và gom lại thành một khối. Khi kẻ đường phân Mạn Đà La, vị Sư Trưởng chủ lễ cũng chú nguyện, với sự chánh niệm nguyên sơ của vị Phật chính, và chú nguyện đưa tất cả kinh điển vào trong các đường kẻ đó và khi xoá, gom cát chung lại thì ý nghĩa là trong các cát đó có đầy đủ các kinh điển thu gồm vào trong các cát ngũ sắc đó.
Như vậy cát gom lại sẽ cực kỳ linh thiêng và có công năng đưa hành giả khi chết vãng sinh Tịnh độ.
Xoá Mạn Đà La còn mang ý nghĩa là, tất cả mọi sự, mọi pháp của thế gian đều là vô thường. Hễ có sinh là phải có diệt. Khi chiêm bái lễ xoá Mạn Đà La, ta phải quán tưởng sự vô thường.
Chư tăng sau đó sẽ ban phát các cát trân quý đó cho Phật tử mang về nhà để thờ. Khi hữu sự, nghĩa là khi thân nhân, bạn đạo, hoặc bất kỳ ai lâm chung, chúng ta có thể rắc cát đó trên đảnh đầu của họ, hoặc trong miệng của họ. Lúc đó, thần thức người chết sẽ được đưa vãng sinh nơi cõi Tịnh độ của vị Phật chính trụ trong trung ương của Mạn Đà La đó.
Công năng của cát Mạn Đà La, thực sự là vô cùng, bất khả tư nghì.
https://scontent.fsgn5-5.fna.fbcdn.n...37&oe=5C3A7873
https://scontent.fsgn5-5.fna.fbcdn.n...e9&oe=5BF1ECAD
https://scontent.fsgn5-5.fna.fbcdn.n...4c&oe=5C23EB52
https://www.facebook.com/M%E1%BA%ADt...1591/?ref=py_c
Đức Đạt Lai Lạt Ma chưa từng công nhận bất cứ người Việt nào là Rinpoche hay Tulku tái sinh
Post: : Admin
"Đức Ngài đã từng công nhận một người Việt nào là Rinpoche tái sinh chưa & Đức Ngài có giao sứ mệnh cho ai lập dòng phái mới Giao Long Nying Ma tại Việt Nam không?"
https://phathocdoisong.com/images/up...5201_54683.jpg
His Holiness Dalailama has never recognized any Vietnamese as Tulku Rinpoche
Mọi người hãy đọc & share
Ngày 31/5/2017 trong CT Đức Đạt Lai Lạt Ma XIV toạ đàm riêng với Đoàn Doanh Nhân, Văn Nghệ Sĩ, Trí Thức & Thế Hệ Trẻ Việt Nam tại Tu viện riêng của Đức Ngài tại Dharamsala, Ấn độ, trả lời câu hỏi của 1 thành viên trong Đoàn
" Đức Ngài đã từng công nhận một người Việt nào là Rinpoche tái sinh chưa & Đức Ngài có giao sứ mệnh cho ai lập dòng phái mới Giao Long Nying Ma tại Việt Nam không?"
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã trả lời rõ trên sóng trực tiếp là Đức Ngài chưa từng công nhận bất cứ người Việt Nam nào là Rinpoche tái sinh cũng như không có bao giờ nói bất kỳ ai lập dòng phái nào cả. Ngài còn dặn thêm:
"Mọi người từ khắp nơi đến xin gặp tôi, ai đến gặp tôi cũng xin chụp ảnh, tôi không thể nói không. Rồi có người họ dùng cái ảnh chụp với tôi đó để làm những việc không tốt. Các bạn cần thận trọng. Đừng tin ai cả phải luôn kiểm tra"
CT này do Sư cô Nhật Hạnh, phiên dịch riêng của VP Đức Đạt Lai Lạt Ma, trực tiếp Việt dịch & được phát trực tiếp hôm đó trên trang web riêng của VP Đức Ngài www.dalailama.com mục live, có thể tìm theo tên Dalailama & ngày tháng để xem lại trên trang www.livestream.com.
Hôm đó CT này cũng được livestream trên các trang FB Đức Đạt Lai Lạt Ma & FB của Claire Huynh - Người Phụ trách chính tổ chức CT này. Các bạn có thể xem lại.
Một lời như vậy của Đức Đạt Lai Lạt Ma thiết nghĩ đã là câu trả lời rõ ràng về tất cả các trường hợp những người Việt mạo danh tự xưng và tự phong cho nhau là Rinpoche và tái sinh & tự lập dòng phái này kia ở Việt Nam để dối gạt, lợi dụng, hoặc chỉ với tham vọng làm giáo chủ để tập hợp & thao túng các tín đồ.
CT hôm đó có tất cả Đoàn hơn 100 thành viên người Việt trực tiếp tham dự cùng nhiều ngàn người theo dõi trên các trang phát trực tiếp cùng chứng kiến.
Mong mọi người trong Đoàn & những người đã theo dõi trực tiếp hãy cùng truyền tải rộng rãi thông điệp đó của Đức Đạt Lai Lạt Ma đến cho mọi người bạn bè, gia đình, đồng nghiệp của mình biết để họ thận trọng.
Thời gian qua chứng kiến những người giả mạo Rinpoche, Cao Tăng & Thánh Tăng tái sinh mọc lên như nấm sau mưa ở Việt Nam, ngang nhiên lừa gạt hàng trăm, hàng ngàn người tín tâm, mình đã cùng một nhóm Anh Chị Em tâm huyết điều tra ra các thủ đoạn và chân tướng của hầu hết tất cả bọn họ với đầy đủ bằng chứng và nhân chứng. Nếu giờ đem hết những câu chuyện đó ra công khai thì thật sự là sẽ đưa ngay được một số kẻ mạo danh đó phải đứng trước vành móng ngựa trả lời trước các nạn nhân & Pháp luật.
Nhưng nói thật là mình & các Anh Chị Em cùng đi điều tra cảm thấy không muốn làm như vậy. Bởi vì vấn đề ở đây không phải là đấu tranh và thắng thua với vài kẻ mạo danh, đó không phải là mối quan tâm chính của Anh Chị Em mình, vì ở đâu có Chánh thì ở đấy luôn có Tà, đâu có người tín Đạo thì ở đó có kẻ sẽ núp bóng Đạo để lợi dụng sự tín tâm đó, không tránh được. Mà thật ra những kẻ tà sư mạo danh là đáng thương nhất. Những kẻ mù quáng vì bị tham lầm thúc đẩy mà phạm tội Đại vọng ngữ, lừa gạt bao người như vậy sắp phải uống nước địa ngục vô gián thì có đáng thương không?
Cho nên điều tâm huyết nhất của Anh Chị Em mình là để cảnh báo, thức tỉnh và đề phòng cho những người dễ lầm tưởng khỏi bị lừa gạt. Vì chính từ sự không học hiểu đủ lời Phật dạy mà lại thừa tín tâm và nhẹ dạ, sùng bái, cung phụng, rồi rủ rê những người mới khác theo nên những kẻ mạo danh và lừa gạt mới dễ dàng sinh ra và có đất sống.
Cho nên nếu còn quá nhiều những người tín tâm mê lầm thì dù Anh Chị Em mình có nỗ lực để vạch trần thì cũng chỉ đưa được vài ba kẻ ra trước Pháp luật chứ không thể vạch mặt hay ngăn chặn được hết tất cả những kẻ mạo danh như nấm sau mưa đang hoạt động ở Việt nam ra ánh sáng. Vì chính những sự nhẹ dạ, ảo tưởng, không hiểu Phật dạy gì mà lại mụ mị, mê cuồng lao vào đặt cược cả cuộc đời và con đường tâm linh của mình & lôi kéo những người cả tin khác vào tay những con người mạo danh kia mà những kẻ lừa gạt đó có được cái nôi và được nuôi dưỡng để mà lừa gạt.
Cho nên, sau khi thỉnh lời khuyên từ các vị Thầy, từ các Anh/ Chị & bạn bè Phật tử uy tín, hầu hết mọi người đều mong muốn mình và cả nhóm cùng dành thời gian, công sức, nỗ lực cho các việc thiện hạnh, để phụng sự việc hoằng truyền Chánh Pháp & dẫn dắt Phật tử thực hành Đạo Pháp chân chính của các vị Thầy chân tu và Trí tuệ, và đó là cách tốt nhất để mang ánh sáng để xua tan bóng tối mới hiệu quả.
Người nào được học hiểu đầy đủ nền tảng căn bản của Chánh Pháp Đạo Phật thì họ có được sự soi sáng nhất định, sẽ không dễ bị rơi vào mê mị, cuồng tín, lầm tưởng, sùng bái, không dễ bị kẻ lừa gạt lợi dụng. Đó mới là cách để trang bị đôi giày thật tốt để đi qua mảnh đất đầy gai độc, chứ không có miếng da nào đủ lớn để phủ kín được khắp mọi nơi có gai trên địa cầu này.
Cho nên nhóm quyết định chỉ cử em Nga Phung là một nạn nhân và người trực tiếp chứng kiến nạn giả mạo để lừa gạt người tín tâm kể lại chân thực toàn bộ câu chuyện của em đủ để cảnh báo và thức tỉnh những người nhẹ dạ, cả tin và giúp những ai biết suy xét có cơ hội để thức tỉnh và thoát ra khỏi sự lừa gạt. Bài này đã post hôm nay và đã được share trên trang Claire Huynh
ĐÔI LỜI GỬI NHỮNG NGƯỜI ĐANG MẠO DANH, HOANG TƯỞNG, HÁM DANH, THAM LỢI & LỪA GẠT
Tự xưng là Thiền sư với mạo danh Rinpoche với Kim Cương Thượng sư, là Thánh là Phật này nọ trong tâm tự biết mình đang lừa dối người và biết người ta vì nhẹ dạ và thiếu hiểu biết mà bị mình lừa thì cứ lo ngay ngáy suốt ngày đề phòng và lo bị vạch mặt thì sống đời như thế đâu có sung sướng gì, tạo nghiệp rất ác như vậy rồi uống nước địa ngục thì sao? Hãy dừng lại và sám hối ngay khi còn thân người đi
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói rõ như vậy, tất nhiên đệ tử sẽ quay lưng nghi ngờ, người lành họ lên tiếng cảnh báo, người dữ họ chửi rủa thì thật là ê chề, sống như vậy đâu có gì sung sướng đâu, hãy buông bỏ những sự cuồng vọng của tham muốn và mưu mẹo và sám hối đi
Ngay khi có người lên tiếng vạch mặt thì lo sợ tìm cách biện bạch này kia, một mặt sai mấy người quá si mê mù quáng đi dò la này nọ để đối phó, một mặt trích dẫn nhào nặn lời Phật để hù doạ người ta, kiểu dẫn dụ Thầy trò như vậy có khác nào ma nào quỷ, người làm như vậy trong tâm đảo điên sợ hãi và sân hận có sung sướng gì đâu, hãy dừng lại !!!
Hãy dừng lại, đừng ngu si đi theo đường ác, tạo nghiệp ác, làm hại, làm khổ người mà mình cũng phải chịu khổ, sống bị người ta chê cười, chết thì uống nước địa ngục. Bao đường lành hãy tìm mà đi cho khỏi hoài phí những thời gian còn lại được làm người
ĐÔI LỜI GỬI CÁC BẠN ĐANG CÓ TÂM SÙNG BÁI, ĐANG ĐI THEO NGƯỜI MẠO DANH
Nếu sau khi vào nghe lời Đức Đạt Lai Lạt Ma nói là Ngài chưa từng công nhận bất cứ người Việt nào là Rinpoche tái sinh, và Ngài khuyên chúng ta luôn luôn phải thử thách và kiểm tra tâm vị Thầy mà các bạn không nhận thấy sai lầm của mình mà thức tỉnh kịp thời sửa chữa mà vẫn muốn nghe và đi theo những người mạo danh tự xưng thì đó là cái nghiệp nặng của các bạn. Do kiếp trước đã chỉ sai đường lừa gạt người khác nên kiếp này mới ứng tâm nghe lời kẻ lừa gạt mà thôi.
Nếu các bạn đến với Đạo Phật mà không quan tâm tìm hiểu, không thực hành để tư duy và hành xử theo Tứ Pháp Ấn: Khổ, Vô thường, Vô ngã & Niết bàn tịch tĩnh mà chỉ tham muốn tưởng được gia trì thì kinh doanh làm ăn tình cảm sẽ tốt đẹp, ảo tưởng ham muốn học được về thần thông phép thuật chữa bệnh nọ kia, hay dễ dàng lao vào tham đắm và dính mắc với vài kẻ hảo tướng tà tâm rất biết dùng lời đường mật xảo trá để dụ dỗ dẫn dắt thì những người bước vào đường tâm linh với những mong muốn và động cơ sai lệch này kiểu gì cũng không bị kẻ mạo danh này lừa thì cũng bị những kẻ khác dẫn vào tròng mà thôi.
Nhóm Anh Chị Em chúng tôi đã chứng kiến những kẻ mạo danh lừa gạt không phải kẻ nào cũng đầy thủ đoạn trí trá tinh vi, mà nhiều kẻ chỉ biết dùng toàn những thủ đoạn cũ rích thô thiển và cách nhử mồi & dụ dỗ lộ liễu lắm, đến mức mà khi nhóm cử thử hai bạn trẻ mới học Phật Pháp được 1 năm đi nghe và chỉ dặn đến nghe & ghi âm thì hai bạn chỉ đến đó đúng một buổi ra hai bạn đã hớt hải gọi cho tôi nói " Chị ơi ở đây là lừa đấy chị ạ, không có dậy tí gì theo Đạo để Tỉnh thức đâu, chỉ lừa cho người ta mê với doạ cho người ta sợ thôi". Thế mà nhiều người trong các bạn chỉ vì chưa từng bao giờ dành đủ thời gian và gặp được những vị Thầy chân tu trí tuệ dậy cho về nền tảng Căn bản Phật Pháp nên không hiểu lời Phật dạy, gặp phải những kẻ mạo danh, chỉ biết nhào nặn cắt ghép lời Kinh Phật để dẫn dụ và doạ dẫm bằng đủ thứ Nghiệp này nghiệp kia để trói buộc và điều khiển bạn theo ý họ, chả giúp bạn tự do tỉnh thức mà chỉ thành tín đồ nô lệ cả về tinh thần, thể xác và mất cả thời gian, công sức, tiền bạc mà càng ngày càng mê mị, dính mắc có bớt khổ đâu mà sao các bạn không dứt ra?
Một anh bạn Đạo lâu năm của tôi đã từng quen & biết hết nhân thân quá khứ một người Việt cũng đang mạo danh tự xưng Rinpoche để lừa đảo, khi thấy kẻ mạo danh đó giờ đã tạo vỏ bọc là chủ tịch hội này, công ty kia, tự xưng chuyên gia Thiền này, Thiền nọ, nhiều người ngoài đời cũng có học hành hiểu biết mà vẫn bị dẫn dụ theo, bởi vì họ không học không tìm hiểu nên lầm tưởng. Anh bạn tôi đã phải thốt lên " Cái thằng đấy nó xôi thịt thế mà cũng có đứa nghe theo thì chịu, tưởng thằng đấy phải dẹp tiệm đóng cửa từ lâu rồi chứ"
Cho nên mong các bạn hãy tự nhìn lại mình để suy xét mà thức tỉnh.
Mong tất cả chúng ta hãy luôn thận trọng và đừng dễ dàng tin ai, tin điều gì mà không kiểm chứng. Hãy dùng những phẩm chất của người chân tu trí tuệ làm thước đo người tu chứ đừng để vài ba cái danh hão hay cái vỏ bọc miệng lưỡi người khác làm mình ảo tưởng. Hãy đi theo phẩm chất từ tâm người chân tu để nó làm xúc động tâm mình mà học và hành xử theo chứ đừng chạy theo đám đông, đừng lôi kéo người, đừng sùng bái gán đặt mù quáng và hãy nhớ luôn luôn quán sát tâm và động cơ của mình xem vì điều gì mà mình đến với một vị Thầy và với Đạo, nó có đúng theo lời Phật dạy không? nó Thiện hay Bất thiện? Nó tham muốn hay Buông bỏ? nó Tỉnh táo hay mê cuồng? nó trói buộc hay tự tại?
Và đừng dễ dàng tin mà không kiểm tra bất kỳ ai. Đừng tin ngay cả với người có vẻ đến với Đạo lâu năm, quen biết nhiều các vị Chân tu Đạo hạnh, thường xuyên tổ chức mời & phiên dịch cho những vị Thầy uy tín dậy Pháp cho Phật tử, thường xuyên phụng sự việc Đạo Pháp, làm từ thiện... Bởi vì suy từ tự bản thân mình cũng là người làm nhiều tất cả mọi việc thiện và phụng sự Chánh Pháp như thế nhưng luôn tự biết khi trong tâm còn là người phàm thì dù hướng thiện bao nhiêu vẫn luôn còn phần bị tham sân si mạn nghi tà kiến sai khiến và thúc đẩy và sai khiến, chỉ có điều người tu tập thật sự thì phải thức tỉnh để phòng hộ tâm và luôn nỗ lực hướng tâm mình vào đường thiện thôi chứ còn chưa thoát được những tham muốn thế tục trong mỗi người đâu.
Vì thế chỉ nên chiếu theo lời Phật dậy và những phẩm chất cần phát triển mà nương theo những cơ hội học hành Pháp với nhau và những gì ở người khác có thể giúp mình tinh tấn hơn thôi, đừng bao giờ để mình bị trói buộc phụ thuộc vào bất kỳ ai cả.
Nếu chúng ta đi theo Đạo Phật mà không dành thời gian học để nắm được căn bản lời Phật dạy là phải học hiểu và tu dưỡng trong tự tâm mình các phẩm chất Từ Bi Hỷ Xả, hàng ngày luôn giữ kỷ luật tự thân & tự kiểm soát mình giữa hai dòng thiện & bất thiện, ích kỷ và lợi tha để hành thiện và lợi tha và tránh bất thiện, ích kỷ là cốt yếu của thực hành Đạo Phật của cá nhân mỗi người thì sẽ rất dễ bị người ta cắt ghép, nhào nặn để trích dẫn lời Phật theo ý họ chỉ để dẫn dụ thao túng, doạ dẫm về nghiệp này nghiệp kia để trói buộc ta làm nô lệ tâm linh cung phụng cho họ và họ làm giáo chủ thôi.
Nếu chúng ta đi theo một vị Thầy, giao phó cuộc đời và con đường tâm linh trong tay người đó mà lại không hiểu Phật dạy thế nào về tư cách vị Thầy, về phẩm chất căn bản của người chân tu là phải buông bỏ không còn ham muốn Thế tục và tâm không còn bị dính mắc lay động bởi tám pháp Thế gian là Danh, Vọng, Lợi, Dưỡng, Khen, Chê, Được, Mất thì ta rất dễ chạy theo vài kẻ phàm mặc áo cà sa, hay vài cái danh vay mượn làm vỏ bọc mà quên quán sát & thử thách để kiểm tra xem trong tâm & hành xử của họ có buông bỏ tham muốn Thế tục đó không.
Vị Thầy thật sự ngoài sự buông bỏ Thế tục phải có trí huệ tư duy nhận thức theo chân lý Đức Phật chỉ ra trong Tứ Pháp Ấn là sự thực về Khổ, Vô thường, Vô Ngã và Niết bàn tịch tĩnh. Đức Phật đã nói Đạo của Ngài là phải dậy 04 điều này. Cho nên vị Thầy nào mà không dậy không dẫn để bạn dần dần tư duy nhận thức theo thực tế
1) Bản chất những nỗi khổ & không ai sinh ra ở đời này mà không phải chịu khổ đau, từ đó cần biết nhìn nhận sâu sắc toàn diện mọi việc và bình tâm.
2) Mọi sự vật hiện tượng đều đang diễn ra theo Vô thường biến chuyển để nhận ra sự thật không có bất cứ điều gì trên Thế gian này mà không luôn luôn biến chuyển thay đổi, sinh diệt kể cả từ tình cảm, sức khoẻ, sắc đẹp, nhận thức, danh vọng,... để không đặt tham vọng cuộc đời, niềm vui hạnh phúc vào những thứ như ảo ảnh nó đến nó đi không còn bị chi phối khổ đau dính mắc nữa.
3) Mọi mối liên hệ ràng buộc và phụ thuộc nhiều chiều giữa tất cả các chúng sinh mà thấy bản chất Vô ngã và quy luật phụ thuộc nhân duyên mà sinh khởi hoại diệt
4) Niết bàn là trạng thái khi nhận thức & hành xử đã thấm nhuần tư duy các chân lý Phật dạy mà được giải thoát khỏi mọi dằn vặt khổ đau đến từ sự chi phối thúc đẩy của những nếp nghĩ, thói quen & tham muốn một cách mù quáng (Vô minh) trước đó. Hiểu về Niết Bàn để ta phát khởi mong ước đạt đến Niết Bàn mà học và hành theo các phương pháp luyện tâm của Đạo Phật.
Một phẩm chất quan trọng nữa của vị Thầy
làm gì đều là vì lòng bi mẫn muốn giúp cho chúng sinh nhận thức, biết sống theo và đến gần với sự thật chân lý luôn luôn vận hành đó để chúng sinh thay vì mù quáng mà phải chịu đau khổ dằn vặt thì được an vui và thoát khổ đau chứ Vị Thầy không bao giờ ra vẻ thần thông thánh tướng, không vì tham muốn ích kỷ của bản thân, vì để được danh này chức nọ, làm sao để có nhiều đệ tử giàu có thế lực hay tìm cách để được người cúng vật chất tiền bạc, tạo công danh này kia. Vị Thầy đã từ bỏ ham muốn Thế tục thì nhìn chúng sinh ai cũng muốn giúp cho họ như nhau, làm gì cho chúng sinh là cũng phải từ Tâm Từ Bi không phân biệt mà giúp, không vì cao thấp giàu nghèo thân sơ yêu ghét.
Vị Thầy chân thật sẽ chỉ dậy dẫn dắt cho bạn tự hành những phương pháp để bạn phát triển yêu thương an vui từ bỏ sân giận phiền não, tự mình thoát khỏi khổ đau và đạt đến an vui chứ không bao giờ ra vẻ phép thuật, làm được cầu cúng mọi thứ để xoay chuyển, toại nguyện các tham muốn thế tục của bạn.
Trên đây chỉ là một số phẩm chất căn bản của vị Thầy, chưa phải là đã là tất cả đâu. Các bạn cứ tìm hiểu thêm và đối chiếu để thấy người mình đang tin theo là thế nào
Cảm ơn các bạn bên An ninh, các bạn nhà báo và phóng viên truyền hình sau khi mình lên tiếng việc này đã liên lạc và mong muốn cùng nhóm mình đưa việc này cũng những tệ nạn trong lĩnh vực tâm linh ra công luận.
Rất mong tất cả các bạn hiểu về quyết định của nhóm mình.
Chúc tất cả mọi người kể cả những người mạo dang lừa gạt sẽ cùng thức tỉnh để tìm sự an vui chân thật trong Chánh pháp.
Y Pháp Bất Y Nhân
ĐỪNG BAO GIỜ TUYỆT ĐỐI PHỤ THUỘC VÀO BẤT KỲ AI
Claire Huynh /Phật học đời sống
https://phathocdoisong.com/duc-dat-l...-tai-sinh.html
Nguyệt san » Phật học ứng dụng10/04/2018 08:16 (GMT+7)Kích cỡ chữ: Giảm Tăng
Tôn giả Thi-bà-la - vị "thần tài" đích thực của Phật giáo
NSGN - Ước nguyện về một đời sống no đủ và thịnh vượng là khát vọng cháy bỏng của con người ở mọi thời kỳ. Nhằm đáp ứng một phần ước nguyện đó, nhiều tôn giáo đã xây dựng và định hình nên những vị thần chuyên trách, thường gọi là thần tài.
https://giacngo.vn/UserImages/2018/0...0Kum%20Kam.jpg
Tuong ton gia Sivali in trước chùa Ubosot, Chedi Liam, Wiang Kum Kam.jpg
Tượng Tôn giả Sivali trước chùa Ubosot (Chedi Liam, Thái Lan)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thể ở Phật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
Với Phật giáo, thần tài được hiểu ở đây là vị Thánh đệ tử (ariya-sāvaka) có nhân duyên tạo ra phúc lộc sâu dày (lābhagga). Và, trong lịch sử kinh điển, thực sự vị đó là ai?
Bước đầu khảo sát thư tịch Phật giáo, chúng tôi đã tìm thấy nhiều nguồn tư liệu quý hiếm cùng đề cập về một vị Thánh giả gắn liền với phúc lộc, nói theo ngôn ngữ số đông chính là thần tài, đó là ngài Sīvali. Kinh điển Hán tạng phiên âm thành Thi-bà-la (尸婆羅)1.
Từ những bằng chứng quan trọng trong kinh điển, từ Hán tạng đến Nikāya, từ sự xác tín của chính Đức Phật Thích Ca, đã cho thấy, đây là vị Thánh có nhân duyên với phúc lộc nhiều đời. Chuyên khảo sau sẽ làm sáng tỏ các vấn đề liên quan.
Cơ sở kinh, luận về ngài Thi-bà-la (尸婆羅: Sīvali)
1- Tư liệu Hán tạng
Trong thư tịch Hán tạng, ngài Thi-bà-la (尸婆羅, có khi viết 施婆羅, đôi khi phiên âm thành 世婆羅), xuất hiện trong những bản kinh, luận sau:
Kinh Tăng-nhất A-hàm, quyển thứ ba và quyển 252.
Chú giải kinh Tăng-nhất A-hàm. Thực ra, đây chính là bản luận Phân biệt công đức3.
Kinh Xuất diệu4.
Kinh Khởi thế5.
Kinh Khởi thế nhân bổn6.
Luận Đại-trí-độ7.
Luận A-tỳ-đàm-Tỳ-bà-sa8.
2- Tư liệu Nikāya
Tư liệu Nikāya đề cập về ngài Sīvali khá phong phú, bao gồm:
Kinh Tăng chi bộ9.
Kinh Tiểu bộ, kinh Phật tự thuyết (Ud.15)10.
Kinh Tiểu bộ, Jataka số 10011.
Trưởng lão Tăng kệ12.
Thánh nhân ký sự (Apadāna)13
Chú giải kinh Tăng chi bộ14.
Chú giải kinh Pháp cú15
Chú giải Trưởng lão Tăng kệ16.
3- Nhận định về tư liệu
- Cơ sở tư liệu vững chãi liên quan đến ngài Thi-bà-la (Sīvali) được ghi nhận trong một bản kinh quan trọng, đó là kinh Tăng chi bộ ở Nikāya và kinh Tăng-nhất A-hàm tương đương ở Hán tạng. Trong cả hai bản kinh, Tôn giả Thi-bà-la (Sīvali) được chính Đức Phật xác tín: bậc đệ nhất phước đức là Tỳ-kheo Thi-bà-la (第一福德者, 尸婆羅比丘是也). Nguyên tác Pāli ghi: Tối thắng…về phúc lộc là ngài Sīvali (Etadaggaṃ… lābhīnaṃ yadidaṃ sīvali)17.
- Nếu như tư liệu về cuộc đời ngài Sīvali trong kinh tạng Pāli phần lớn nằm trong những bản chú giải, có niên đại xuất hiện khá muộn; thì tư liệu về Tôn giả Thi-bà-la trong thư tịch Hán tạng xuất hiện trong kinh Tăng-nhất-A-hàm, quyển 25, có niên đại sớm hơn. Theo Khai nguyên thích giáo lục, quyển 3, kinh Tăng nhất-A-hàm do ngài Tăng-già-đề-bà (Saṃghadeva) dịch lại lần thứ hai18 vào niên hiệu Long An nguyên niên (397) thời Tấn An Đế (382–419)19.
- Về phương diện chú giải, tư liệu Nikāya đề cập về ngài Sīvali rất phong phú, từ chú giải kinh Tăng chi, Pháp cú, Trưởng lão Tăng kệ…do hai bậc thầy về chú giải là ngài Budhaghosa và Dhammapālā trước tác. Xét về thời gian, cả hai Tôn giả vừa nêu có niên đại vào khoảng từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ thứ VI. Trong khi đó, một phần chú giải bản kinh Tăng-nhất A-hàm ở Hán tạng, liên quan đến Tôn giả Thi-bà-la được ghi nhận vào thời Hậu-Hán (後漢:23-220), đó là bản luận Phân biệt công đức. Theo ngài Tăng Hựu (445-518) trong Xuất tam tạng ký tập, quyển bốn, thì đây là bản chú giải kinh Tăng-nhất A-hàm do hai ngài Ca-diếp và A-nan tạo ra và không rõ ai đã dịch sang chữ Hán20. Nếu ghi nhận của ngài Tăng Hựu chính xác, thì đây là bản chú giải kinh Tăng-nhất A-hàm sớm nhất trong lịch sử chú giải kinh điển21.
Như vậy, từ sự đối khảo cả hai nguồn thư tịch từ Hán tạng đến Nikāya đã cho thấy rằng, tư liệu về ngài Thi-bà-la (Sīvali) trong Hán tạng là những tư liệu có niên đại xuất hiện khá sớm trong lịch sử truyền dịch kinh điển.
Lược thuật về hành trạng của Tôn giả Thi-bà-la (Sīvali)
1- Theo kinh tạng Nikāya
Cha của Tôn giả Sīvali tên là Mahāli người xứ Licchavī22. Mẹ của Tôn giả tên là Suppavāsā, công chúa nước Koliya23 có truyền thống tín phụng Tam bảo, thường cúng dường Đức Phật và chư Tăng24.
Do nghiệp cũ oan khiên25, nên nàng phải mang thai Tôn giả Sīvali đến bảy năm và chịu cơn đau chuyển dạ đến bảy ngày. Tưởng mình sắp chết, nàng nói với chồng rằng: Trước khi mạng căn chấm dứt, tôi sẽ bố thí trọng thể (pure maraṇā jīvamānāva dānaṃ dassāmī)26.
Sau khi phát tâm cúng dường Đức Phật và Thánh Tăng, nhờ lòng chí thành của nàng và sự chú nguyện của Tam bảo, Suppavāsā đã hạ sanh một đứa con trai kháu khỉnh, đặt tên là Sīvali.
Chuyện tiền thân Asātarūpa (Jataka 100) đã bổ sung:
Thiếu niên Sīvali, vào năm thứ bảy, hiến thân mình cho đạo, và xuất gia. Khi tuổi được đầy đủ, vị ấy thọ Đại giới, làm các công đức, đạt được lợi đắc cao nhất trên cõi đất, tức là quả A-la-hán, và khiến quả đất vang lên tiếng động hoan nghênh27.
Và kể từ khi chứng Thánh quả A-la-hán, Tôn giả Sīvali có một phước báo to lớn, thường được nhân loại hay chư Thiên ở khắp mọi nơi cúng dường, dù đó là chốn hoang vu hay nơi làng mạc, khi ở sông nước, hoặc trú tại đất liền (vane gāme jale thale)28.
Một lần, trong chuyến du hóa đến trụ xứ của Tôn giả Revata (Ly-bà-đa), Đức Phật đã dẫn 500 vị Tỳ-kheo dự kiến phải băng qua một vùng hoang vu dài khoảng 30 dặm và khó khăn về vật thực. Trước lúc khởi hành, Đức Phật đã hỏi Tôn giả A-nan:
- Này, A-nan! Có Sīvali đi với chúng ta không?
- Dạ có, bạch Thế Tôn!29
(Sīvali, pana, ānanda, amhehi saddhiṃ āgato ti? Āma, bhante ti)30.
Với Đức Phật, chỉ cần có Tôn giả Sīvali hiện diện trong đoàn thì dù con đường có hoang vu ít người qua lại, nhưng do phước báo của riêng Tôn giả mà các vị thiện thần (devatā) sẽ tùy duyên hóa hiện thành người phàm, để cúng dường vật dụng cần thiết cho đấng Chí Tôn và toàn thể chúng Tăng.
Sở dĩ có được phước báo to lớn đó là do nhiều thiện nhân duyên mà Tôn giả đã gây dựng trong nhiều kiếp, nhiều đời. Theo Chuyện tiền thân Asātarūpa (Jataka 100), Thánh nhân ký sự (Apadāna), Chú giải kinh Tăng chi bộ, Chú giải kinh Pháp cú, Chú giải trưởng lão Tăng kệ; thì tiền thân của Tôn giả Sīvali đã cúng dường lên Đức Phật Padumuttara31 và được Ngài thọ ký sẽ là người đầy đủ phúc lộc ở đời vị lai32. Sau đó, trong một kiếp khác, tiền thân Tôn giả đã hiến cúng hai phẩm vật, được xem như hai vị thuốc quý ở thời xưa33, đó chính là bơ tươi vo thành viên (guḷadadhiñca) và mật ong (madhuñca) lên Đức Phật Tỳ-bà-thi (Vipassī) với tâm tín thành và lòng kiên định sâu sắc34. Theo tư liệu, lễ phẩm tuy giản đơn nhưng do diễn ra trong một bối cảnh bức thiết nên trở thành đắt giá (sahassaṃ), mặc dù vậy tiền thân của Tôn giả Sīvali chỉ kính nguyện dâng lên Đức Phật Tỳ-bà-thi (Vipassī) và chúng Tăng.
Như vậy, do dư nghiệp bất thiện ở quá khứ nên quá trình thác thai của Tôn giả Sīvali gặp nhiều bất hạnh, khổ đau. Tuy nhiên, do phước nghiệp tự tay mình (sahattheneva) cúng dường hai phẩm vật gồm bơ tươi và mật lên Đức Phật Tỳ-bà-thi (Vipassī) với lòng kiên định, sùng kính, thế nên hiện đời phúc báo của Tôn giả luôn đầy tràn, không những lan tỏa đến chư vị Thánh Tăng mà còn được Đức Phật Thích Ca tán thán: Trong các vị đệ tử... nhận được đồ cúng dường, này các Tỳ-kheo, tối thắng là Sīvali35.
2- Theo tư liệu Hán tạng
Xét về nguồn cội, Tôn giả Thi-bà-la (尸婆羅) vốn dòng dõi hoàng tộc Sư-tử- giáp (師子頰: Sīhahanu36), mẹ ngài tên là Cam-lộ-vị (甘露味: Amitā37; được phiên âm thành 阿彌多質多𡆗38, có khi cũng gọi là 不死女39), cùng huyết thống với Đức Phật Thích Ca40.
Theo kinh Tăng-nhất A-hàm và bản chú giải kinh này ở Hán tạng, khi mới sinh ra, Thi-bà-la đã có những dấu hiệu đặc dị phi phàm. Kinh văn ghi nhận rằng, khi vừa sinh ra, hai tay Tôn giả đã cầm viên minh châu vô giá cùng nhiều biểu hiện kỳ đặc. Lo ngại nên cha mẹ của Tôn giả đã cầu thỉnh các vị đạo sĩ giải đáp nhưng vẫn không thỏa lòng. Nghe tin Đức Phật Thích Ca là bậc quán thông, nên đã đưa Tôn giả đến thỉnh an.
Phật dạy:
Đứa trẻ này cực kỳ đại phúc. Đến tuổi trưởng thành sẽ dẫn năm trăm đồ chúng cầu học với Ta. Sau khi xuất gia tu đạo sẽ chứng quả A-la-hán. Trong hàng thanh văn đệ tử của Ta là vị có phước đức lớn nhất, không ai sánh bằng.41
Như lời thọ ký của Đức Phật, vào lúc hai mươi tuổi, Tôn giả Thi-bà-la đã cùng năm trăm người bạn xuất gia. Chỉ sau một thời gian ngắn Tôn giả đắc quả A-la-hán.
Sau khi chứng đạt thánh quả, Tôn giả cùng năm trăm vị đồng học du hóa trong nhân gian, khi đi đến đâu Tôn giả cũng được cúng dường tứ sự đầy đủ, dù ở thị thành náo nhiệt hay nơi hẻo lánh hoang vu. Vì lẽ, mỗi khi Tôn giả đi đâu thì chư thiên đã mặc báo cho dân làng biết để tùy nghi cúng dường42. Đôi khi, Tôn giả vừa khởi ý thì vua trời Thích-đề-hoàn-nhơn (釋提桓因, có lúc phiên âm là 摩伽婆43: Maghavā), và ngay cả Tỳ-sa-môn Thiên vương (毘沙門王: Vessavaṇa) cũng tùy tâm của Tôn giả mà liệu biện các thứ. Thậm chí trong một trường hợp đặc biệt, Đức Phật đã cho phép Tôn giả tiếp nhận một trăm ngàn lượng vàng (百千兩金)44 để tùy nghi phân bổ cúng dường vật dụng cho mười phương chúng Tăng.
Với phước báo to lớn như vậy là do nhiều nhân duyên mà Tôn giả đã gây tạo ở nhiều kiếp xưa kia.
Trước hết, vào chín mươi mốt kiếp xưa, khi Đức Phật Tỳ-bà-thi (毘婆尸 = Vipassī) ra đời và giáo hóa nhân dân tại nước Bàn-đầu (槃頭 = Bandhumatī), có một trưởng giả tên là Da-nhã-đạt (耶若達) muốn cúng dường Đức Phật Tỳ-bà-thi nhưng còn thiếu sữa đông (酪=Dadhi). Khi ấy, tiền thân Tôn giả làm một người chăn bò và hiện có sữa đông, định dùng để tế tự các vị Trời. Khi ấy, dù được trưởng giả Da-nhã-đạt trả giá cao, nhưng khi được nghe mục đích cúng dường nên tiền thân Tôn giả Thi-bà-la đã phát nguyện rằng:
Hôm nay tôi đích thân đem sữa đông đến cúng dường Như Lai.45
Thứ hai, vào ba mươi mốt kiếp về trước, có Đức Phật Thi-khí (Sikhī46. Nguyên tác: Thức-cật: 式詰) xuất hiện ở đời. Khi ấy, tiền thân Thi-bà-la là một nhà buôn lớn với tên gọi Thiện Tài (善財) đã đảnh lễ cúng dường nhiều kim ngọc trên thân Như Lai với lời nguyện rằng:
Nguyện nhờ công đức này, nơi nào con sinh ra, tiền tài luôn đầy đủ, bảo vật luôn sum vầy, không vật gì thiếu thốn, trong tay con lúc nào, cũng đong đầy tiền của, cho đến trong thai mẹ, cũng nắm giữ tiền tài.47
Thứ ba, ở thời Trung kiếp (Antara-kappa), khi Đức Như Lai Tỳ-xá-la-bà (毘舍羅婆, cũng gọi là Tỳ-xá-phù: Vessabhū ) xuất hiện, tiền thân Thi-ba-la tên là cư sĩ Thiện Giác (善覺) lắm tiền nhiều của, đã tự tay mình (躬自辦: Sahattha) thiết trai hiến cúng Đức Phật và Thánh chúng với lời phát nguyện:
Con nguyện nhờ công đức, nơi nào con sinh ra, thường được gặp Tam bảo, không vật gì thiếu thốn, có nhiều người phò trợ, ở trong đời tương lai, cũng gặp được Đức Phật, như đã gặp ngày nay48.
Thứ tư, trong hiền kiếp hiện tại (Bhadda-kappa), khi Đức Phật Câu-lâu-tôn (拘屢孫:Kakusandha) xuất hiện ở thế gian, tiền thân Thi-bà-la tên là Đa Tài (多財) đã phát tâm hiến cúng Đức Phật và thánh chúng suốt bảy ngày với đầy đủ tứ sự cùng lời phát nguyện:
Nguyện nơi con thác sanh, tiền tài luôn đầy đủ, bảo vật luôn sum vầy, không sinh nhà bần tiện; khiến nơi con sinh ra, thường cúng dường tứ sự; khiến bốn chúng, quốc vương, và nhân dân tôn kính; khiến trời rồng quỷ thần, nhân loại hay phi nhân, đều hân hoan đón tiếp.49
Do những nhân duyên công đức mà Tôn giả Thi-bà-la đã gây tạo và phát nguyện trong nhiều kiếp quá khứ, thế nên kiếp này Tôn giả Thi-bà-la xứng danh là bậc phúc lộc đệ nhất trong chúng đệ tử của Đức Phật Thích Ca.
Nhận định và đề nghị
Tư liệu kinh điển từ Hán tạng đến Nikāya đều xác tín rằng, Thi-bà-la (Sīvali) là một vị Thánh Tăng, sinh trưởng trong gia đình có truyền thống mộ Phật và thiện thí.
Từ lúc xuất gia và chứng đắc thánh quả, khi đi hoằng hóa hay bất cứ nơi đâu, dù chốn hoang vu hay nơi làng mạc, khi ở sông nước hoặc trú tại đất liền (vane gāme jale thale)50, nơi nào Tôn giả đặt chân đến thì nơi ấy chúng Tăng luôn được bình yên với sự cúng dường của chư Thiên và dân chúng. Sự thực này đã được Phật xác chứng: bậc đệ nhất phước đức là Tỳ-kheo Thi-bà-la.
Khảo về nguyên nhân sâu xa thì tiền thân Tôn giả đã từng đảnh lễ, cúng dường nhiều phẩm vật, từ sữa đông, mật ngọt đến thức ăn, trân bảo…với nhiều vị Phật quá khứ, từ cổ Phật Tỳ-bà-thi, Thi-khí, Tỳ-xá-phù, Câu-lưu-tôn. Thậm chí, trước thời điểm Tôn giả sinh ra, cha mẹ cũng nhân đó mà thiết trai hiến cúng cho Đức Phật và mười phương Tăng chúng.
Xem ra, từ sự thực khả tín qua nhiều nguồn tư liệu vừa nêu, từ ước nguyện sâu xa về một cuộc sống ấm no của số đông Phật tử, từ thực trạng các vị thần tài có nguồn gốc Trung Hoa và kể cả Ấn giáo, đã mặc nhiên tồn tại trong không gian thờ tự, trong tâm khảm của hàng cư sĩ và kể cả một số ít các bậc xuất gia; cho thấy rằng, đã đến lúc phải tái xác nhận vai trò của Thánh giả Thi-bà-la như một vị thần tài của Phật giáo.
Điều này, ở các nước Phật giáo theo truyền thống Theravāda đã thực hiện, nhưng chưa thực sự lan tỏa vào những quốc gia mang ảnh hưởng của Phật giáo Bắc truyền. Vì lẽ, mãi đến hôm nay cuộc đời và hành trạng của Tôn giả Thi-bà-la (Sīvali) vẫn chưa được quan tâm đúng mức, nếu không nói là do chưa tìm thấy cơ sở lý luận vững chãi, nên chưa được các giới Phật giáo Việt Nam chú trọng, quan tâm.
Trong hiện tình Phật giáo hiện tại nói chung, việc tạo hình một vị Thánh giả với bàn tay ban phúc phát lộc, là nguyên mẫu sống động gắn liền với hành trạng của Tôn giả Thi-bà-la (Sīvali). Chúng tôi nhất trí với mẫu tượng thờ này và chỉ bổ sung thêm, trong những đặc phẩm cúng dường ngài, nên chăng cần sử dụng mật ong (madhu) và bơ đặc (dadhi). Vì đây là những lễ phẩm mà Tôn giả dâng cúng đầu tiên, làm sơ khởi nhân duyên để tác thành nên một vị thần tài trong Phật giáo.
Chúc Phú
_____________________
(1) 大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第二十五. Nguyên văn: 第一福德者, 尸婆羅比丘是也.
(2)大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經.
(3) 大正藏第 25 冊 No. 1507 分別功德論.
(4)大正藏第 04 冊 No. 0212 出曜經, 卷第十五. Nguyên văn: 猶如尸婆羅比丘, 阿那律比丘, 功德滿足不求自至.
(5) 大正藏第 01 冊 No. 0024 起世經, 卷第十.
(6)大正藏第 01 冊 No. 0025 起世因本經, 名世婆羅.
(7)大正藏第 25 冊 No. 1509 大智度論, 卷第三. Nguyên văn: 甘露味女有一子,名施婆羅.
(8)大正藏第 28 冊 No. 1546 阿毘曇毘婆沙論, 卷第五十一.
(9) Kinh Tăng chi bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn Giáo, 2015, tr.59.
(10) Kinh Tiểu bộ, tập 1, HT.Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn Giáo, 2015, tr. 124-127.
(11) Kinh Tiểu bộ, tập 3, HT.Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn Giáo, 2015, tr.386-388.
(12) Kinh Tiểu bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu, dịch, Nxb.Tôn Giáo, 2015, tr.230-231.
(13) Apadāna, Thánh nhân ký sự. Tỳ-khưu Indacanda, dịch.
(14) Chú giải kinh Tăng chi bộ, (Aṅguttaranikāya-aṭṭhakathā). Xem tại, tipitaka.org.
(15) Nguyên tác: Dhammapada-aṭṭhakathā. Xem tại, tipitaka.org. Tham khảo: Tích truyện Pháp cú, tập 2, Thiền viện Viên chiếu, dịch, NXB.Tôn Giáo, 2012, tr. 66-75.
(16) Theragāthā-aṭṭhakathā. Xem tại, tipitaka.org.
(17) Aṅguttaranikāya, Ekakanipāta, Etadaggavagga. Xem tại, tipitaka.org.
(18) Bản kinh Tăng-nhất A-hàm đầu tiên, gồm 51 quyển, do ngài Đàm-ma-nan-đề (曇摩難提) dịch vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ 21 (385), thời Tiền Tần. Xem, 大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第一, 序. Nguyên văn: 有外國沙門曇摩難提者,兜佉勒國人也, 齠齓出家,孰與廣聞,誦二阿含,溫故日 ,周行諸國,無土不涉.以秦建元二十年 詣長安,外國鄉人咸皆善之.武威太守 文業求令出焉.佛念譯傳, 曇嵩筆受, 歲在甲申夏出,至來年春乃訖.
(19) 大正藏第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第三. Nguyên văn: 增壹阿含經五十一卷(第二出隆安元年 月出與難提本小異竺道祖筆受或四十 二或三十三無定亦有六十卷成者見道 及寶唱錄).
(20) 大正藏第 55 冊 No. 2145 出三藏記集, 卷第四. Nguyên văn: 分別功德經五卷(一名增一阿含經疏迦 阿難造).
(21) Theo ngài Trí Thăng (智昇), trong tác phẩm Khai nguyên thích giáo lục, quyển thứ 13, đã cho rằng, căn cứ vào thông tin ở quyển thứ nhất của luận Phân biệt công đức, thì tác giả của bộ luận này không phải do hai ngài Ca-diếp và A-nan soạn (如論第一卷中引外國師及薩婆多說故 非是二尊所撰). Chúng tôi đã khảo sát lại, và thấy rằng, quan điểm của ngài Trí Thăng chưa đúng, vì ngữ cảnh câu văn không liên quan đến tác giả của bộ luận này. Và như vậy, quan điểm của ngài Tăng Hựu trong Xuất Tam Tạng ký tập quyển 4, là quan điểm đáng được ghi nhận. Xem thêm tại, 大正藏第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第十三.
(22) Apadāna, câu 6105. Tỳ khưu Indacanda, dịch.
(23) Malalasekera, G.P. Buddhist Dictionary of Pāli Proper Names. Vol 2. London: Luzac & Company Ltd., 1960, p. 1163.
(24) Kinh Tăng chi bộ, tập 1, HT.Thích Minh Châu, dịch, Nxb.Tôn Giáo, 2015, tr. 63; tr. 405-406; Kinh Tăng chi bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn Giáo, 2015, tr. 434.
(25) Chuyện tiền thân Asātarūpa (Jataka 100) đã giải thích, trong kiếp quá khứ, Tôn giả Sīvali là hoàng tử con vua Ba-la-nại, bị vua nước Kosala tấn công và cưỡng chiếm thành. Trong khi tái chiếm thành Ba-la-nại, nghe lời mẹ, hoàng tử đã bao vây, cắt đứt mọi nguồn viện trợ từ bên ngoài, thế nên đến ngày thứ bảy đã chiếm được thành. Do nghiệp cũ đó mà ngài phải chịu bảy năm trong thai và bảy ngày đau đớn trong khi chuyển dạ. Khổ đau cũng tương ứng với người mẹ, vì lúc xưa mẹ ngài đã góp lời khuyên thực hiện kế sách này. Xem, Kinh Tiểu bộ, tập 3, HT. Thích Minh Châu, dịch, Nxb.Tôn Giáo, 2015 tr. 388.
(26) Chú giải kinh Tăng chi bộ, (Aṅguttaranikāya - aṭṭhakathā, Sīvalittheravatthu); Chú giải Trưởng lão Tăng kệ (Theragāthā-aṭṭhakathā, Sīvalittheragāthāvaṇṇanā). Xem tại, tipitaka.org.
(27) Kinh Tiểu bộ, tập 3, HT.Thích Minh Châu, dịch, Nxb.Tôn Giáo, 2015 tr. 387
(28) Apadāna, câu 88, bản Pāli. Xem tại, tipitaka.org.
(29) Tích truyện Pháp cú, tập 2, Thiền viện Viên Chiếu, dịch, Nxb.Tôn Giáo, 2012, tr. 69.
(30) Nguyên tác: Dhammapada-aṭṭhakathā. Nội dung tương tự cũng được tìm thấy trong Chú giải kinh Tăng chi bộ, chuyện về ngài Revata. Xem tại, tipitaka.org.
(31) Là vị Phật thứ 10 trong 24 vị Phật quá khứ. Xem, Malalasekera, G.P. Buddhist Dictionary of Pāli Proper Names. Vol 2. London: Luzac & Company Ltd., 1960, p. 136.
(32) Apadāna, câu 6090. Tỳ-khưu Indacanda, dịch.
(33) 大正藏第 02 冊 No. 0150A 七處三觀經, 四五. Nguyên văn: 比丘有三大藥, 風者比丘大病, 麻油大藥, 亦麻油輩. 熱大病者, 酪酥大藥, 亦如酪酥輩. 寒大病者, 蜜大藥, 亦如蜜輩.
(34) Tích truyện Pháp cú, tập 2, Thiền viện Viên Chiếu, dịch, Nxb.Tôn Giáo, 2012, tr. 73-74.
(35) Kinh Tăng chi bộ, tập 1, HT.Thích Minh Châu, dịch, NXB.Tôn Giáo, 2015, tr.59.
(36) Malalasekera, G.P. Buddhist Dictionary of Pāli Proper Names. Vol 2. London: Luzac & Company Ltd., 1960, p. 1171.
(37) Malalasekera, G.P. Buddhist Dictionary of Pāli Proper Names. Vol 2. London: Luzac & Company Ltd., 1960, p.1171.
(38)大正藏第 03 冊 No. 0190 佛本行集經, 卷第十一.
(39) 大正藏第 01 冊 No. 0025 起世因本經, 卷第十.
(40) 大正藏第 03 冊 No. 0156 大方便佛報恩經, 卷第三; 大正藏第 03 冊 No. 0190 佛本行集經, 卷第五; 大正藏第 25 冊 No. 1509 大智度論, 卷第三. Nguyên văn: 昔有日種王名師子頰, 其王有四子: 第一名淨飯, 二名白飯, 三名斛飯,四名甘露飯. 有一女, 名甘露味. 淨飯王有二子佛, 難陀. 白飯王有二子:跋提, 提沙. 斛飯王有二子: 提婆達多, 阿難. 甘露飯王有二子: 摩訶男, 阿泥盧豆. 甘露味女有一子, 名施婆羅.
(41) 大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第二十五. Nguyên văn: 今此小兒極有大福, 此小兒若當大者, 當將五百徒眾來至我所, 而出家學道得阿羅漢, 我聲聞中福德第一, 無能及者. (
42) 大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第二十五. Nguyên văn:復有諸天告諸村落: 今有尊者尸婆羅,得阿羅漢福德第一, 將五百比丘, 在人間遊化. 諸賢可往供養, 今不為者. 後悔無益.
(43) 大正藏第 02 冊 No. 0099 雜阿含經, 卷第四十, 一一〇六,
(44) 大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第二十五. Nguyên văn: 爾時,世尊告尸婆羅曰:汝今可受此長者 百千兩金, 使蒙其福, 此是宿緣之業,可受其報.
(45) 大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第二十五. Nguyên văn:我今躬持此酪往施如來.
(46) Là Đức Phật thứ 20 trong 24 vị cổ Phật. Theo, Malalasekera, G.P. Buddhist Dictionary of Pāli Proper Names. Vol 2. London: Luzac & Company Ltd., 1960, p. p.1130.
(47) 大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第二十五. Nguyên văn: 持此功德, 所生之處, 饒財多寶, 無所乏短, 無令手中有空缺時,乃至母胞胎中亦使 空.
(48) 大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第二十五. Nguyên văn: 我持功德,所生之處,常值三尊,無所短 ,恒多使人,令將來之世值如來, 如今日也.
(49) 大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第三. Nguyên văn: 所生之處常饒財多寶,莫生貧賤之家,使 我所生之處恒得四事供養,為四部之眾, 國王,人民所見宗敬,天,龍,鬼神,人若非 人,所見接遇.
(50) Apadāna, câu 88, bản Pāli. Xem tại, tipitaka.org.
https://giacngo.vn/nguyetsan/phathoc.../04/10/7360DB/
今日,祖師 聖龍猛大士(龍樹大士)之命日.誕辰
拿摩祖師 聖龍猛大菩薩
拿摩祖師 聖龍猛大菩薩
拿摩祖師 聖龍猛大菩薩
Om a maha guru nagarjuna sarva siddhi hum!
https://scontent.fhan3-3.fna.fbcdn.n...9b&oe=5C312173
https://www.facebook.com/%E4%B8%AD%E...3318625002236/
Pháp Khí Mật Tông ở Pháp Khí Mật Tông.
2 Tháng 9, 2016 · Hà Nội ·
LAMA CHENNO - Gọi Thầy từ Phương xa
- Nguồn gốc của câu Chú Karmapa Chenno -
Việc thực hành quan trọng nhất trong Phật giáo Tây Tạng là Guru Yoga, thiền định và trì chú về Đạo Sư đứng đầu dòng truyền, vốn được xem là Phật sống, là hiện thân của ba thân và thập địa (năng lực phi thường). Trong truyền thống Kagyü, Đạo Sư đứng đầu là Gyalwa Karmapa và câu chú của Ngài là Karmapa Chenno. Người ta rằng tin âm thanh của câu chú này được kết nối trực tiếp với tâm giác ngộ của Ngài Karmapa và mang phẩm chất giác ngộ cũng như mang lại sự giúp đỡ cần thiết nhất cho lợi ích của người thực hành.
Ở đây tôi muốn chia sẻ một câu chuyện về nguồn gốc của câu chú Karmapa Chenno. Câu chú Karmapa có nguồn gốc từ thời Ngài Karmapa thứ 8, Mikyo Dorje (1507-1554) trong buổi giảng dạy về Pháp "Gọi Thầy từ xa".
"Karmapa Chenno" có thể được tạm dịch là "hiện thân của lòng bi mẫn của tất cả chư Phật, xin hãy nghĩ đến con". Ở Trung Tây Tạng, Sikkim và Bhutan, câu chú được phát âm Karmapa Kyen-no hoặc Karmapa khen-no. Ở Đông Tây Tạng, câu chú được phát âm là "Karmapa Chenno". Ở các nước phương Tây phát âm phổ biến nhất là Karmapa Chenno và được xem là chính xác.
Một ngày nọ, trong thế kỷ 16, người đứng đầu của một gia đình du mục trong hoang vu, lộng gió bắc Tây Tạng qua đời. Trong một khu vực thưa thớt dân cư như vậy rất hiếm để tìm thấy tu viện và các vị Lạt Ma để thực hiện nghi thức tang lễ Phật giáo, vì vậy gia đình tự hỏi phải làm gì. Sau đó, họ thấy một người rách rưới đi bộ giống như là một yogi hoặc một người hành khất, nên họ yêu cầu giúp đỡ. Người khất sĩ trên thực tế là một Lạt ma. Gia đình đau buồn thỉnh cầu Ngài thực hành nghi thức cho người chết, và Ngài đã đồng ý.
Khi Ngài đến giường của người chết và bắt đầu tụng chú, gia đình trân trọng yêu cầu Lạt ma để thực hiện Phowa (chuyển di thần thức). Tuy nhiên, Lạt ma cho biết: "Tôi chỉ là một người thực hành nghèo, ít học giáo lý của Đức Phật, tôi đã không thực hiện được thực hành bí truyền. Nhưng tôi có một phẩm chất tích cực, tín tâm to lớn ở Đức Phật sống, Ngài Lạt Ma Karmapa. Ngài như cổng lớn để đến Dewachen (cõi tịnh độ của Đức Phật A Di Đà). Tên của Ngài là mật khẩu ma thuật đối với niềm tin tuyệt vời".
Sau đó, ông bắt đầu đọc một lần nữa và một lần nữa câu chú uy lực, "Karmapa Khyenno!" "Karmapa Khyenno, Karmapa Khyenno," ông tụng to, một lần nữa và một lần nữa.
Sau mỗi lần hạt của 108 trì tụng nhiệt thành, ông sẽ gia trì xác chết bằng chuỗi hạt cầu nguyện đó, tin rằng, trong danh hiệu của Đức Phật Karmapa, người chết được tái sinh trong cõi Dewachen.
Sau một thời gian, mọi người đều nhận thấy những dấu hiệu của sự chuyển di thần thức thành công bắt đầu xuất hiện. Tóc từ đỉnh đầu của tử thi đã giảm; có một mùi thơm dễ chịu trong không khí, và một lỗ hở xuất hiện ở đỉnh đầu nơi tâm thức vi tế của người quá cố đã về thế giới khác.
Mọi người có mặt vui mừng, lòng biết ơn và cảm ơn các vị Lạt Ma khất sĩ. Tất cả bắt đầu tín tâm thực hành thần chú của Đức Karmapa, cầu nguyện đạt được sự hỉ lạc tự tại của cõi Tịnh Độ A Di Đà ngay trong đời này.
Vị Lạt Ma hành khất ngay đó tiếp tục hành trình của Ngài. Một hôm, ông nghe nói rằng Karmapa toàn trí đã đến thăm miền nam Tây Tạng, vì vậy ông quyết định đi đến gặp Ngài và tỏ lòng tôn kính.
Cuối cùng Lạt Ma đã đến được điểm hành trình của Ngài. Điều đầu tiên Ngài Karmapa toàn tri nói với anh ấy là: "Đó có phải là một Pháp Chuyển Di Thần Thức (Phowa) khó khăn được thực hiện ở phía bắc không?" Đức Karmapa cười, dùng chuỗi của Ngài chạm vào Lạt Ma.
Ngài Lạt Ma khất sĩ tin 1 niềm tin không thể lay chuyển rằng Karmapa là một vị Phật sống toàn trí, và cho dù các môn đệ của Ngài đang ở bất cứ nơi nào, Ngài luôn đặt họ trong trái tim và tâm trí Ngài.
Từ đó câu chú Karmapa Chenno trở thành câu chú quan trọng nhất để gọi phẩm chất giác ngộ và năng lực của Ngài Karmapa trong truyền thống Kagyü của Phật Giáo Tây Tạng. Tên Karmapa được hiểu không chỉ là tên một số cá nhân cụ thể, mà là những phẩm chất giác ngộ của tất cả Chư Phật và Bồ Tát. Karmapa là một trong những hiện thân của nguồn quy y Tam Bảo, Phật, Pháp và Tăng đối với các đệ tử của Ngài.
Đây là câu chuyện về nguồn gốc của câu chú Karmapa mà tôi đã nghe.
https://www.facebook.com/phapkhimatt...2771703680521/
https://www.youtube.com/watch?v=xjCZ...GnK9Mf3Yu&t=0s
Script & Recitation of Om aha hum vajra guru
Transliteration: oṃ āḥ hūṃ vajra-guru padma-siddhi hūṃ
https://buddhism.stackexchange.com/q...ra-guru-mantra
https://www.youtube.com/watch?v=7TSKgdhN6bM
2016 H.H. Kyabje Trijang Chocktrul Rinpoche - Albagnano
https://www.youtube.com/watch?v=W01liUulgH4
Peace Pilgrimage in Tibet - 2017
Gia-bô (Gyalpo).
Chúng con xin dâng cúng lễ khói hương tịnh hóa này đến Thần Ngõ Ta-dá (Tayag) và Thần Gia Hộ Gê-thung (Gethung).
Chúng con xin dâng cúng lễ khói hương tịnh hóa này đến vị Thần Bếp Du-mô (Yumo) và Thần Đồng Ruộng Sang-ba (Tshangpa), đến Thần Đường Xá Gon-po (Gonpo) và Thần Ngựa Ma-pon (Magpon).
Chúng con xin dâng cúng lễ khói hương tịnh hóa này đến Thần Chăn Nuôi Ma-dang (Mayang) và Thần Tài Của Gia-bô (Gyalpo).
Chúng con xin cúng dường chư Thần Màu Sắc - như là Đon-rúp Reo Gia-bo (Dondrub Drale Gyalpo) và tập hội của các vị khách khả kính thuộc nhiều đẳng cấp: nhang bột, những lễ vật tỏa hương khi đốt lên, thực phẩm và nhiều phẩm vật khác nhau được sàng lọc chọn lựa và tất cả đều thực dụng.
http://nguyetquangbao.blogspot.com/2...hoi-huong.html