https://taaonamtri.files.wordpress.c...pg?w=825&h=399
CHÙA LIÊN HOA
thôn Đặng Xuyên, xã Đặng Lễ, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng yên
( https://taaonamtri.wordpress.com/ / https://taaonamtri.wordpress.com/201...tinh-hung-yen/ )
VĂN HÓA VÀ LỊCH SỬ
Chùa Liên hoa thôn Đặng Xuyên, xã Đặng Lễ, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng yên
Tháng Sáu 4, 2018
Phạm Tuấn Nam Trì
Chùa Liên hoa thôn Đặng Xuyên, xã Đặng Lễ, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng yên (Liên hoa tự – chữ Hán: 蓮花寺 – nghĩa là chùa Hoa sen) ở thôn Đặng Xuyên, xã Đặng Lễ, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng yên, nước Việt Nam. Đây là ngôi chùa điển hình của Phật giáo Đại thừa truyền thống của Phật giáo miền Bắc Việt Nam về mặt kiến trúc và thờ tự, một chứng tích về việc Phật giáo đã vào Việt Nam từ thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên.
Lịch sử, Thần tích:
Chùa Liên hoa là một ngôi chùa cổ đã có trên 2000 năm, nằm trong quần thể Tâm linh, tín ngưỡng của Việt nam, bao gồm: Đền Thiên đế (gọi Nôm là đền Xá) là 1 đền đậu – quán thờ Trời (thờ Ngọc Hoàng Thượng đế – Đế thích Hoàn nhân); Đền – Đình Nam trì, ngôi đền Tam giáo thờ Thánh Phong thủy Địa lý Tả Ao và Tể tướng Lữ Gia, Đại tướng Nguyễn Danh Lang triều đại Nam Việt trước Công nguyên và Thánh Địa lý Cao Biền; đình chùa thôn Đặng Đinh thờ Cư sĩ Thiện Đạo Quảng lạc là vị Thần cai quản đền Trình – chùa Hương; mđình thôn Cổ lễ thờ Quốc chúa Nam thiên Tả viên Sơn thánh (thánh Tản Viên Sơn Tinh]]); đình thôn Đặng Xuyên thờ 2 em của thánh Tản Viên Sơn Tinh là Thần Cao Sơn và Thần Quý Minh; đình Ngọc Khê thôn Đới Khê thờ Cao Biền Tướng quốc và 2 bà Phu nhân A Lự, Lữ nương quê ở Nam trì; đình thôn An Trạch thờ vua Lý Công Uẩn.
Theo Ngọc phả Thần tích thờ 5 vị Thành hoàng ở xã Đặng Xuyên nay là thôn Đặng Xuyên, tổng Thổ Hoàng, lộ Khoái Châu, xứ Sơn Nam thì Chùa Liên hoa có nguồn gốc như sau: Tương truyền thời Hùng Vương thứ 18 – Hùng Duệ Vương có người họ Phạm tên Tuyển, vợ là Trần Thị Hảo quê trang Hội Triều, huyện Hoằng Hóa, phủ Hà Trung, Châu ái (huyện Hoằng Hóa tỉnh Thanh Hoá ngày nay) phụng mệnh nhà vua đi nhậm chức Thái thú ở Nam Sách. Vốn là dòng dõi trâm anh, có nền nếp thi thư, nhân đức; việc công thì liêm chính, không xâm phạm đến sợi tơ sợi tóc, của cải của dân nên rất được yêu mến. Có năm nạn hạn hán xảy ra; lúa má hoa mầu khô héo, dân tình đói khát bệnh dịch. Phạm Công thương cảm nhân dân, bèn lấy 3 vạn quan tiền và thóc trong kho công quĩ ra phát chẩn cho người nghèo và cô nhi, quả phụ; phát thuốc men cho người đau ốm, chôn cất thi hài vô thừa nhận.
Ông bà có 3 cậu đều mặt mũi khôi ngô, mắt sáng long lanh như sao Bắc Đẩu, môi đỏ như son, tai trắng như tuyết, tiếng vang như tiếng chuông, hình dung đĩnh đạc khác bậc tầm thường nên đặt tên Hiếu, Thành, Lương. Rồi bà Trần Thị bỗng nhiên tạ thế. Hoạ vô đơn chí, Phạm công lại phải bồi thường 3 vạn quan tiền, kho thóc trước kia. Phải bán cả cơ nghiệp lại được nhân dân trong hàng phủ mang tiền của đến giúp đỡ nhưng vẫn không đủ bồi thường. Rồi ông treo ấn từ quan, tìm nơi mở trường dạy trẻ. Một năm sau, các vị phụ lão ở khu Đặng Xuyên xã Đặng Đinh huyện Thiên Thi nghe ông hay chữ nổi tiếng, ăn ở nhân đức nên đã mời ông về dạy học ở làng mình. Ông đem 3 đứa con nhỏ về dạy học ở Đặng Xuyên. Lúc đó, ngôi chùa làng đang được trùng tu, dân làng đề nghị ông ra chủ trì việc ấy. Vừa dạy học vừa trông nom việc tu tạo chùa. Khi tu tạo xong chùa, dân làng lại nhờ ông giữ chùa luôn, ông cũng đồng ý.
Sau 2 tướng Cao Sơn, Quý Minh (2 em của Thánh Tản Viên – Sơn tinh) đi tuần du ở đây gặp 3 cậu này là Trung Hiếu, Trung Thành, Trung Lương và kết nghĩa anh em và đưa về Triều. Nhà vua phong ông Hiếu làm Tư chính Lễ bộ, ông Thành làm Tham nghị Triều chính, ông Lương làm Hiển chính Tào liêu. Khi 5 ông hóa, nhà vua phong tướng Cao Sơn và Quý Minh là Thượng đẳng tối linh phúc thần; 3 tướng Trung Hiếu, Trung Thành, Trung Lương là Trung đẳng Phúc thần thờ tại Đình làng.
Toàn cảnh, Kiến trúc và Thờ tự:
Chùa hiện chùa Liên hoa nay được phục dựng trên gò đất nền chùa cũ chính hướng Đoài (Tây) nhìn ra đường lộ Liên huyện. Mặt đường lộ là cổng Tam quan, bên tả chùa là Lầu Quán âm nhìn ra giếng chùa và đường lộ, bên hữu chùa là nhà Mẫu và Nhà khách. Chùa lối chữ Đinh [丁] (chuôi vồ) cao rộng, đặc biệt về kiến trúc nhà cửa và bệ thờ cũng như Tượng pháp. Tất cả tường và Bệ thờ xây không trát, sơn, Chùa chính gồm 5 gian ”’Tiền bái”’ và 3 gian ”’Thượng hùng Bảo điện”’; cửa sổ chùa hình tròn hoa Sen, có 6 cánh hình lá Bồ đề có 6 chữ Phạn cổ (Thần chú Lục tự Đại minh).
Tượng Phật gồm 53 pho tượng như các chùa cổ miền Bắc Việt Nam, gồm: 3 tượng Tam thế; 3 tượng Tây phương Tam thánh – A Di đà, Bồ tát Quán Thế âm và Đại Thế chí; 3 tượng Hoa nghiêm Tam thánh – Thích ca, Bồ tát Văn thù Sư lợi (cưỡi Sư tử xanh) và Phổ hiền; Đông phương Tam thánh – Bồ tát Nhật quang và Nguyệt quang; Phật Tuyết sơn; Phật Di lặc; Phật mẫu Chuẩn đề; Thiện Tài Đồng tử, Long nữ. Có 2 pho tượng ít chùa có là tượng Bồ tát Quan âm Việt Nam – ”’Quán âm Hương Tích”’ hay ”’Bồ tát Quán Thế âm Tọa sơn”’ và tượng ”’Bồ tát Quán Thế âm nghìn tay nghìn mắt”’ và 2 ban 2 bên Thượng điện là Bát Đại Bồ tát (8 Đại Bồ tát: Dược vương, Dược thượng, Hư Không tạng, Kim cương Thủ Trừ Cái chướng, Di lặc, Vô Tận ý, Bảo đàn Hoa). Ban đức ông có thêm 2 pho tượng tả hữu là tượng Già lam và tượng Chân tể. Ban Thánh hiền có thêm 2 pho tượng tả hữu là tượng Đại sĩ Diệm nhiên và Quỷ vương Diệm khẩu. Ban Địa tạng có thêm 2 pho tượng tả hữu là tượng Địa thần Kiên lao (vua của các Thần thổ địa) và Tôn giả Tân đầu lư Phả la đọa (ruộng Phúc Thế gian). Chùa còn thờ 2 vị Đại hộ Pháp là Đại Phạm Thiên vương và Thích đề Hoàn nhân; Nam tào, Bắc đẩu.
Phía trước chùa là vườn tháp Tổ chùa từ thời Lê, phía sau chùa là nhà Tổ 5 gian thờ Phật tổ, Tổ Tây Trúc – Bồ-đề-đạt-ma, Lục Tổ Tuệ Năng ([[Huệ Năng]]), Đại Pháp sư Từ Đạo Hạnh phái Mật tông Tì Ni Đa Lưu Chi, Phật hoàng Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang – Trúc Lâm Tam tổ và Tổ ni của chùa.
Đại tự, Câu đối:
Đại tự gồm: CHÍNH ĐẲNG CHÍNH GIÁC (覺正等正), NHẤT THIẾT CHỦNG TRÍ (智種切一), ĐẠI PHÚC ĐIỀN (大福田), TUỆ ĐẠI ĐA VĂN (慧大多聞), PHÚC ĐẠI BÁ THÍ (福大布施)…
Chùa Liên hoa có rất nhiều Câu đối được khắc chạm ở 2 cột Đồng trụ và các cột trong chùa mà mỗi một câu đối là một Pháp môn tu, từ Tịnh Độ tông, Mật tông, Thiền tông, Giáo tông điển hình như:
Giới Định Tuệ Đắc Bát Nhã Tảo Giác Bồ Đề Đạo(戒定慧得般若早覺菩提道)
Bi Trí Dũng Lập Căn Cơ Tất Thành Phật Đà Gia (悲智勇立根基畢成佛佗耶)
Tụng Kinh Ngộ Phật Ngôn Vi Tu Chính Đạo (誦經悟佛言為修正道)
Trì Chú Giải Nghiệp Chướng Tất Chứng Chân Như (持咒解業障必證真如)…