-
Hôm nay, ngày 15 tháng 04 Âm Lịch – Phật Lịch 2560
Nơi Đạo Tràng Dòng Mật Pháp VajraPani, Con Kim Cang
A-Xà-Lê cùng Nhóm Kim Cang Tử Đời Chữ Nhật và Chư quyến
thuộc thân cận Thế gian – Xuất thế gian.
Nơi Vô Ngã, trong Tâm Bồ Đề, phát Đại Hạnh, Đại Nguyện
trong Vô Tướng, cầu Vô Sở Đắc.
Mong cầu hoàn thành Bổn Thệ Chư Tôn, hoàn thành Nguyện
Dòng Pháp, cùng hoàn thành Nguyện ba cõi cầu thành Chánh
Đẳng Chánh Giác.
2
Mừng Đại Sự Nhân Duyên ra đời của Đức Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật.
Mừng Đại Sự Nhân Duyên ra đời của Dòng Mật Pháp
VajraPani, Sự ra đời của Trang mạng Website, lan rộng đẳng
pháp quang đánh thức giác đại chúng.
Kỷ niệm Đại Lễ Phật Đản 2560. Mừng Thân Bất Không Kiến
phổ nhập thế gian tác Phật Sự.
Chúng Con nguyện xin:
Tổ Mật Giáo Đại Nhật Như Lai
Tổ Mật Giáo Tỳ Lô Giá Na Như Lai
Kim Cang Giới Như Lai, Đại Phổ Hiền Như Lai
Chư Như Lai Kim Cang
Tổ Phật, Tổ Pháp Dòng Mật Pháp VajraPani.
Tổ Long Thọ Bồ Tát, Tổ Kim Cang Sư Minh Đức, và Chư
vị Hộ Tổ.
Chúng con Nguyện xin
Thế Tôn A Súc Kim Cang Như Lai
Thế Tôn Bửu Sinh Như Lai
Thế Tôn Vô Lượng Thọ Kim Cang Như Lai
Thế Tôn Bất Không Thành Tựu Kim Cang Như Lai
Thế Tôn Đại Tỳ Lô Giá Na Kim Cang Như Lai.
Chư Đại Phẫn Nộ Minh Vương thuộc Phật Bộ, Liên Hoa
Bộ, Kim Cang Bộ, Bửu Bộ và Yết Ma Bộ.
Chúng con Nguyện xin:
Tổ Thầy Kim Cang Sư, Chư vị Hộ Dòng Pháp, Chư vị Hộ
Tổ Thầy.
Nhất thiết Chư vị hộ diễn bày, hộ thăng hoa diễn bày.
Nhất thiết Chư vị hộ cung cấp sở cầu hộ hoàn thành chư
Nguyện.
Nguyện xin đồng cùng gia hộ Dòng Pháp đón mừng Đại
Lễ Phật Đản.
3
Nơi Nguyện Hạnh, trong Pháp Bí Mật Chư Phật.
Chúng con Vâng lời Chư Phật, Thừa lệnh Thầy Tổ xiển dương
Bí Mật Pháp.
Nương từ từng Phật Đản chúng con nhớ nghĩ đến Bổn Sư,
nhớ đến công đức vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn.
Nương kỷ niệm Đại Lễ Phật Đản, kỷ niệm sự Giáng Trần của
Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Dòng Mật Pháp VajraPani thành tâm cung kính cúng dường
Chư Phước Đức, Công Đức trong xiển dương Pháp Bí Mật của
Chư Phật.
Pháp chỉ hiểu được trong Tâm Ý Bí Mật của Chư Phật qua Đại
Nguyện, Đại Hạnh nơi Vô Ngã trong Tâm Bồ Đề. Dòng Pháp
thành kính cúng dường ngày Phật Đản, đến Bổn Sư Thích Ca Mâu
Ni.
Nương Pháp Nhân Duyên Bất Khả Đắc.
Nơi Nhân – Pháp Vô Ngã
Nơi Đại Hạnh Phổ Hiền.
Dòng Pháp cầu xin Chư Thế Tôn, Chư Đại Phẫn Nộ Minh
Vương nơi Phật Bộ, Liên Hoa Bộ, Kim Cang Bộ, Bửu Bộ và Yết
Ma Bộ.
Nguyện xin Phẫn Nộ, Đại Phẫn Nộ hộ giúp chúng con được
bí mật Thí Pháp Vô Ngã trong Tâm Bồ Đề, được hoàn thành Bổn
Thệ Chư Tôn, Nguyện Dòng Pháp.
Nguyện xin được chóng hoàn thành nguyện ba cõi cầu thông
đạt, cầu ngộ nhập, cầu chứng vô thượng Bồ Đề, chứng Pháp Vô
Sở Chứng.
Dòng Pháp thị hiện diễn bày Tánh Giác, thị hiện thăng hoa
diễn bày Tánh Giác, không có cái diễn bày. Chúng con cầu Vô Sở
Đắc cũng Vô Sở Chứng, Viên Mãn Chân Không.
4
Dòng Pháp nơi Pháp Bí Mật, nơi Vô Nguyện Vô Tướng, nơi
Vô Ngã trong Tâm Bồ Đề trong cầu Vô Sở Đắc.
Chúng con Mừng Đại Lễ Phật Đản. Mừng việc ra đời Đấng
Chí Tôn Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
Chúng con cũng mừng việc ra đời của Dòng Mật Pháp
VajraPani, của Trang Website, của Chư Minh Vương, Minh
Vương Đại Minh Vương, của Chư Phật Chư Bổn Tôn.
Chúng con Dòng Pháp nương Nguyện Hạnh, nương Tánh
Giác, nương Bình Đẳng Tánh Trí Chư Tôn.
Dòng Pháp nơi Vô Ngã trong Tâm Bồ Đề cầu hoàn thành
Bổn Thệ Chư Tôn, cầu hoàn thành Nguyện Dòng Pháp, cầu hoàn
thành Nguyện ba cõi cầu thành Chánh Đẳng Chánh Giác, chúng
con nhập vào Vô-Phân-Biệt để giúp ba cõi dứt Phân-Biệt, chúng
con Bí Mật nhập vào Vô-Phiền-Não Vô-Si-Dục-Lạc thực Giác
Ngộ Bồ Đề, Nhập vào Phật Tri Kiến.
Vì Phiền Não cùng Si Dục Lạc chúng vốn Vô Tự Tánh. Tánh
Giác Chư Tôn cũng Vô Tự Tánh, nên Phiền Não Si Dục Lạc cũng
là Tánh Giác, Ngộ nhận Đoạn Phiền Não Si Dục Lạc tức Đoạn
Phật Tánh.
5
Mừng Đản Sanh Thích Ca Mâu Ni.
Mừng Thân Bất Không Kiến phổ nhập thế gian Tác Phật Sự.
Đây là chổ hiện thân Mâu Ni vậy. Phật làm Phật Sự tức
Thích Ca từ Tỳ Lô Giá Na Tự-luân sanh Vô Nhị, Vô Biệt đều biến
Nhất Thiết Xứ, đồng với Đại Không Bổn Bất Sanh.
Thế Tôn Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni tác điều phục thế gian,
ngoại đạo nên Ngài hiện Tám Tướng Thành Đạo nên được khen
Thế Tôn.
Điều Phục trong Tâm Bồ Đề, Điều Phục kẻ khó Điều Phục.
Thích Ca đây nghĩa 100 Phước Đức ở Nhân hội đủ 100 độ tu
phước, 100 biến ra vô số đại hội Bố Thí ban khắp chúng sanh, nên
được sanh thắng xứ, việc là Hóa Thân.
Mừng việc xiển dương Giáo Pháp Bí Mật, Giáo Pháp
Mạn-Trà-La.
Nơi đời Chư Tổ Minh _ Như, chúng con cùng Chư quyến
thuộc thân cận nơi Nguyện Hạnh, trong Thân Bí Mật xiển dương
Bí Mật Pháp tiếp nối việc làm Chư Phật nơi Giáo Pháp Bí Mật
xiển dương Mật Pháp, diễn bày Bí Pháp Mạn-Trà-La.
6
Vì chúng sanh, Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật giảng nói
Pháp dứt Khổ Sanh Lão Bệnh Tử.
Vì Nguyện Hạnh, chúng con cùng Nhóm Kim Cang Tử đời
Chữ Nhật Dòng Mật Pháp VajraPani diễn nói Tánh Giác Chư
Tôn, diễn nói Pháp Bí trong Bí , Pháp Mật trong Mật, chỉ hiểu
được trong Tâm Bí Mật, trong Nguyện Hạnh cùng sự Gia hộ.
Diễn nói Pháp Hành Hạnh Nguyện một đời thành Chánh
Đẳng Chánh Giác
Chúng con cùng Nhóm Kim Cang Tử đời Chữ Nhật nơi Vô
Ngã trong Tâm Bồ Đề, nơi Vô Nguyện, Vô Tướng, trong cầu
hoàn thành Bổn Thệ Chư Tôn, cầu hoàn thành Nguyện Dòng Mật
Pháp VajraPani, cầu hoàn thành Nguyện ba cõi, cầu thành Chánh
Đẳng Chánh Giác.
Chúng con cùng Nhóm Kim Cang Tử đời Chữ Nhật thị hiện
diễn bày, thị hiện thăng hoa diễn bày, trong Nguyện Hạnh trong
Gia Hộ nên không có cái diễn bày, nên đích thị diễn bày Tánh
Giác Chư Bậc Giác trong Tâm Đại Giác.
Đó cũng chính là Pháp Bí Mật thành Phật nên nói Bất Khả
Đắc, Vô Sở Đắc.
Đạo Tràng Dòng Mật Pháp VajraPani, con Kim Cang A-Xà-Lê
cùng Chư Quyến thuộc thân cận Thế gian – Xuất thế gian.
Nguyện thành kính dâng hiến cúng dường Hương Hoa Ẩm Thực
cùng Chư Cúng Cụ.
Nguyện Mười Phương Như Lai, Mười Phương Chư Phật
phóng quang hộ gia trì hiến cúng:
Oṃ Amogha Vairucana Mahà Vajra Maṇi Paduna Jvala.
7
Nguyện Quan Thế Âm Bồ Tát phóng quang hộ gia trì
hiến cúng: (Quan Âm Như Ý Chân Ngôn)
Oṃ Vajra Vajra Va Ta Ra Hùṃ Phaṭ
Nguyện Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát phóng quang hộ
gia trì hiến cúng: (Ngũ Tự Văn Thù Chơn Ngôn)
A RA PA CA NA
Nguyện hiến cúng được tăng vô lượng vô biên chư phương tiện
hiến cúng.
Oṃ … Oṃ … Oṃ … Oṃ … Oṃ …
Nguyện xin: Dòng Pháp, Chư vị hộ Dòng Pháp hiến cúng, được
trừ Nhất thiết Khó, được Thành Tựu Đại Kiết Tường, được
Viên Mãn Chư Nguyện.
Nguyện Thành Tâm hiến cúng đến:
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Tổ Mật Giáo Đại Nhật Như Lai
Tổ Mật Giáo Tỳ Lô Giá Na Như Lai
Kim Cang Giới Như Lai, Đại Phổ Hiền Như Lai
Chư Như Lai Kim Cang
Tổ Phật, Tổ Pháp Dòng Mật Pháp VajraPani, cùng Chư vị hộ
Tứ Thiên Vương, Đế Thích Thiên.
Tổ Long Thọ Bồ Tát, Tổ Kim Cang Sư Minh Đức, và Chư vị Hộ Tổ.
Nguyện hiến cúng đến:
Thế Tôn A Súc Kim Cang Như Lai
Thế Tôn Bửu Sinh Như Lai
Thế Tôn Vô Lượng Thọ Kim Cang Như Lai
Thế Tôn Bất Không Thành Tựu Kim Cang Như Lai
Thế Tôn Đại Tỳ Lô Giá Na Kim Cang Như Lai.
Chư Đại Phẫn Nộ Minh Vương thuộc Phật Bộ, Liên Hoa Bộ, Kim
Cang Bộ, Bửu Bộ và Yết Ma Bộ.
8
Nguyện hiến cúng đến:
Tổ Thầy Kim Cang Sư, Chư vị Hộ Dòng Pháp, Chư vị Hộ Tổ Thầy.
Nhất thiết Chư vị hộ diễn bày, hộ thăng hoa diễn bày.
Nhất thiết Chư vị hộ cung cấp sở cầu hộ hoàn thành chư Nguyện.
Nguyện hiến cúng đến:
Mười Phương Chư Phật, mười Phương Chư Như Lai.
Nơi Đạo Tràng Dòng Mật Pháp VajraPani, Con Kim Cang
A-Xà-Lê Dòng Pháp cùng chư quyến thuộc thân cận Thế gian –
Xuất thế gian nguyện đồng kính đảnh lễ:
Nguyện xin Đảnh Lễ:
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Tổ Mật Giáo Đại Nhật Như Lai
Tổ Mật Giáo Tỳ Lô Giá Na Như Lai
Kim Cang Giới Như Lai, Đại Phổ Hiền Như Lai
Chư Như Lai Kim Cang
Tổ Phật, Tổ Pháp Dòng Mật Pháp VajraPani.
Tổ Long Thọ Bồ Tát, Tổ Kim Cang Sư Minh Đức, và Chư vị Hộ Tổ.
Nguyện xin Đảnh Lễ:
Thế Tôn A Súc Kim Cang Như Lai
Thế Tôn Bửu Sinh Như Lai
Thế Tôn Vô Lượng Thọ Kim Cang Như Lai
Thế Tôn Bất Không Thành Tựu Kim Cang Như Lai
Thế Tôn Đại Tỳ Lô Giá Na Kim Cang Như Lai.
Chư Đại Phẫn Nộ Minh Vương thuộc Phật Bộ, Liên Hoa Bộ, Kim
Cang Bộ, Bửu Bộ và Yết Ma Bộ.
Chúng con Đảnh Lễ:
Tổ Thầy Kim Cang Sư, Chư vị Hộ Dòng Pháp, Chư vị Hộ Tổ Thầy.
Nhất thiết Chư vị hộ diễn bày, hộ thăng hoa diễn bày.
Nhất thiết Chư vị hộ cung cấp sở cầu hộ hoàn thành chư Nguyện.
Mười Phương Chư Phật, mười Phương Chư Như Lai.
9
Nguyện chúng con, chúng sanh Thân biến ra muôn vạn ức
thân thành kính đảnh lễ.
Oṃ Muṇi Maṇi Pravara Pravara Guhya Padme Mahà
Prabhe Svàhà.
Kim Cang A-Xà-Lê
Năm 2016 – Bính Thân – PL.2560
http://www.vajrapani.com/wp-content/...t-dan-2560.pdf
-
-
-
-
TÌM ĐƯỢC ĐẠO SƯ NGHĨA LÀ TA ĐÃ THỰC HIỆN ĐƯỢC NỬA CUỘC HÀNH TRÌNH
Trong Kim cương thừa, ta thường nghe nói rằng các đệ tử phải có niềm tin tuyệt đối, vô tận nơi Đạo sư của họ. Một số người nhận thấy khẳng định này khiến họ phải suy nghĩ. Cần phải hiểu điều này một cách đúng đắn. Đúng là càng có cái nhìn thuần tịnh về Đạo sư của ta thì ta càng trở thành một đệ tử tốt hơn. Người ta nói rằng nếu ta nhìn Đạo sư của ta như một vị Phật, ta sẽ thành một vị Phật. Nếu ta coi ngài như một bậc vô cùng xuất chúng, một đại học giả hay một vị thánh vĩ đại, ta cũng sẽ trở thành một đại học giả hay đại thánh; trong khi nếu ta thấy ngài không khác gì bản thân ta, ta vẫn sẽ là ta như hiện tại. Chính vì lý do này mà việc chọn lựa một vị Thầy của ta được coi là điều vô cùng quan trọng. Nếu việc khảo sát, phán đoán của ta sai lầm, ta sẽ thất bại. Việc tìm ra thiện tri thức đúng đắn là điều quan trọng nhất trong cuộc đời. Khi tìm ra ngài, ta đã thực hiện được nửa cuộc hành trình.
~ Đức Ringu Tulku Rinpoche
Ảnh: Đức Guru Rinpoche
https://scontent.xx.fbcdn.net/v/t1.0...ac&oe=5ACFC504
http://socialone.us/page/1538653633092329
-
-
5. VAJRA GURU
OM AH HUM BENDZA GURU PEMA SIDDHI HUM
öh phag me gön trul kü nam röl te
dug ngäl ngen pä kye drö dön dü dschön
o gyän pä ma dschung nä söl wa deb
dschung schi trug dang nä mug dsing dsö sog
sem dän nam mang dug nyäl lä dröl ne
schi de päl yön thop par dsching gyi lob
https://www.dechen-shak.com/files/doc/Jewel_text.pdf
========
OM A HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM
(Padmasambhava)
http://www.budismo-valencia.com/budi...monias/mantras
-
Sīvali-gāthā (Kệ tụng Sīvali)
Việt dịch: HUYỀN THANH
1_Sīvali ca mahāthero (Sīvali là bậc Đại Trưởng Lão)
Devatā narā pūjito (Được chư Thiên và con người cúng dường)
Soraho paccayādimhi (Do quan hệ nhân quả đặc biệt đó)
Ahaṃ vandāmi taṃ sadā (Tôi luôn luôn đảnh lễ Ngài)
2_Sīvali ca mahāthero (Sīvali là bậc Đại Trưởng Lão)
Yakkhā devābhipūjito (Đã được Dạ Xoa và chư Thiên cúng dường)
Soraho paccayādimhi (Do quan hệ nhân quả đặc biệt đó)
Ahaṃ vandāmi taṃ sadā (Tôi luôn luôn đỉnh lễ Ngài)
3_Sīvali ca mahātherassa etaṃ (Sīvali là bậc Đại Trưởng Lão như thế)
Gunaṃ sotthi lābhaṃ bhavantu me (Cầu xin Công Đức, sự an vui, tài lộc đến với tôi)
4_Sīvali ca mahāthero (Sīvali là bậc Đại Trưởng Lão)
Lābha lābha nirantaraṃ (Đạt được sự phú quý không có gián đoạn)
Sīvali ca mahāthero (Sīvali là bậc Đại Trưởng Lão)
Lābha-sukhaṃ bhantu me (Xin cho tôi có được tài lộc và sự an lạc)
KỆ CẦU TÀI LỘC
1_ Sīvali ca mahānāmaṃ (Sīvali là bậc Đại Danh)
Sīvali ca mahālābhaṃ (Sīvali là bậc Đại Phú Quý)
Sabba lābham bhavissati (Phát sinh tất cả tài lộc)
Therassa ānubhāvena (Do Uy Đức trang nghiêm của đấng Trưởng Lão)
Sabbe hontu piyaṃ mama (Cầu xin hết thảy hữu tình đều thương mến tôi)
Sadā hontu piyaṃ mama (Tôi luôn luôn nhận được sự thương mến ấy)
2_Sīvali ca mahāthero (Sīvali là bậc Đại Trưởng Lão)
Mama sīse ṭhapetvāna (Ngự ngay trên đỉnh đầu của tôi)
Mantitena jayomantaṃ (Chỉ dạy điều cát tường thù thắng)
Ahaṃ vadāmi sabbadā (Tôi luôn luôn đỉnh lễ tôn kính Ngài)
_ Bản Kệ Tụng khác:
Na jalita prasiddi lābha
(Y như là nhóm lửa khiến cho đạt được sự thành tựu cao hơn) Việt dịch: HUYỀN THANH
1_Sīvali ca mahā-lābhaṃ (Sīvali là bậc Đại Phú Quý)
Sabba lābhaṃ piyaṃ mama (Xin tất cả bậc Phú Quý đều thương mến tôi)
2_Sīvali ca mahā-nāmaṃ (Sīvali là bậc Đại Danh)
Sīvali ca mahā-lābhaṃ (Sīvali là bậc Đại Phú Quý)
Sabba lābhaṃ bhavissati (Phát sinh tất cả tài lộc)
Ahaṃ vandāmi pūjito (Do sự lễ bái cúng dường của tôi)
Sabba lābhaṃ bhavissati hontu me (Xin tất cả tài lộc phát sinh đến với tôi)
_Ghi chú: Sau bài Kệ trên, có thể đọc thêm các câu này để mau được thành tựu
Sabbe buddhā balapattā (Tất cả Đức Phật đều có quyền lực)
Paccekānañca yaṃ balaṃ (Các vị Độc Giác cũng có quyền lực)
Arahantānañca tejena (Các vị A La Hán cũng có uy lực)
Rakkhaṃ bandhāmi sabbaso (Tôi xin kết hợp sự duy trì bằng cách phát huy toàn bộ các lực ấy)
Eyena saccavajjena (Y như lời chân thật này)
Hontu me jaya-maṅgalaṃ (Xin cho tôi nhận được sự an vui thù thắng)
Ý Trinh sưu tầm.
Được đăng bởi Y Hair Studio vào lúc 23:21 Không có nhận xét nào:
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Twitter
Chia sẻ lên Facebook
Chia sẻ lên Pinterest
Nhãn: Phật Sivali
Ý Trinh nhớ ơn Cuộc đời Thánh Tăng Sìvali
Ý Trinh nói kệ rằng :
Ngài Đại Đức có tên gọi "Sīvali" nghĩa là: dập tắt mọi nóng nảy, lo sợ của những người thân yêu, đem lại sự mát mẻ, an vui cho mọi chúng sanh.
Mục lục
1. Sơ lược tiểu sử Ngài Sīvali
2. Ngài Sīvali trong bụng mẹ
3. Ngài Sīvali sanh ra
4. Công tử Sīvali xuất gia
5. Quả ác nghiệp Ngài Sīvali
6. Sadi Sīvali trở thành Tỳ khưu
7. Tiền kiếp của Ngài Sīvali
8. Nghiệp và quả của nghiệp
9. Câu kệ cầu tài lộc
1. Sơ lược tiểu sử Ngài Đại Đức Sīvali
Ngài Đại Đức có tên gọi "Sīvali" nghĩa là: dập tắt mọi nóng nảy, lo sợ của những người thân yêu, đem lại sự mát mẻ, an vui cho mọi chúng sanh.
Ngài Đại Đức Sīvali là con của bà công chúa Suppavasa thường được mọi người đem lễ vật đến dâng nhiều vô số kể. Để thử biết quả phước thiện của bà công chúa Suppavasa, người ta đem hạt giống đến nhờ bà đụng tay vào. Những hạt giống đó đem về gieo trồng thì kết quả thu hoạch thật là phi thường: gấp trăm ngàn vạn lần! Khi thu hoạch xong, đem đổ vào kho, rồi mời bà công chúa Suppavasa đụng tay vào cửa kho, thì lúa dù được đổ vào ít, nhưng vẫn tràn đầy kho ngay. Khi lấy lúa ra khỏi kho, nếu được công chúa Suppavasa đụng tay vào kho, thì dù lúa lấy ra bao nhiêu đi nữa, kho lúa vẫn không hề giảm bớt. Khi nấu cơm để phân phát cho mọi người, nếu được bà công chúa Suppavasa đụng tay vào vành nồi cơm thì cơm xới ra phân phát cho bao nhiêu người, cũng vẫn đủ, cơm vẫn không vơi trong nồi, cho đến khi bà công chúa Suppavasa bỏ tay ra khỏi vành nồi cơm.
Mọi người nhìn thấy quả phước thiện phi thường của bà công chúa Suppavasa trong thời gian bà mang thai Ngài Đại Đức Sīvali. Sự thực bà công chúa Suppavasa chỉ là người chịu ảnh hưởng quả phước thiện của thai nhi: Ngài Đại Đức Sīvali đang nằm trong bụng mẹ.
2. Ngài Sīvali trong bụng mẹ
Ngài Sīvali ở trong bụng mẹ 7 năm lẻ bảy ngày
Thông thường sau khi thọ thai, khoảng chín hoặc mười tháng, thì người mẹ sanh con. Nhưng khi công chúa Suppavasa mang thai Ngài Đại Đức Sīvali thì đã qua tháng thứ 10, tháng thứ 11, rồi tròn một năm mà vẫn chưa sanh. Mặc cho mọi người trong hoàng tộc và dân chúng xứ Koliya nóng lòng trông chờ sự ra đời của đứa trẻ phi thường.
Ngày tháng cứ trôi qua, trong sự mong chờ đến nóng nảy của mọi người. Ngày này qua ngày khác, tháng này đến tháng khác của năm thứ hai đã trôi qua, mà đứa con phi thường trong bụng bà công chúa Suppavasa vẫn chưa ra đời. Cứ như vậy qua năm thứ ba, rồi …thứ tư, thứ năm, thứ sáu, cho đến năm thứ bảy đã trôi qua, mà người ta vẫn chưa thấy bà công chúa Suppavasa sanh con. Thật là một điều lạ thường, chưa từng nghe, chưa từng thấy bao giờ! Đặc biệt thai nhi nằm trong bụng mẹ lâu như vậy, mà vẫn không làm cho bà công chúa Suppavasa thấy khó chịu một chút nào, bà công chúa vẫn sống an vui, tự nhiên và quả phước thiện mỗi ngày vẫn tăng trưởng phi thường.
3. Ngài Sīvali sanh ra đời
Bà công chúa Suppavasa mang thai tròn đủ bảy năm vẫn bình an, nhưng bước sang bảy ngày kế tiếp, thì bà phải chịu đựng một sự đau khổ đến cùng cực từ thai nhi. Vốn là người cận sự nữ, có đức tin trong sạch nơi tam bảo, bà công chúa Suppavasa muốn được chiêm bái Đức Phật trước khi chết. Với mong muốn thiết tha đó, bà bày tỏ với hoàng tử Mahāli:
- Thưa phu quân, xin hãy vì thiếp và đứa con trong bụng thiếp, mà đi thỉnh Đức Phật cùng Chư Đại Đức Tăng về đây cho thiếp được chiêm bái và cúng dường.
- Đang nóng lòng vì thời gian mang thai của ái thiếp quá lâu, cùng với những hiện tượng phi thường mà mọi người đều thấy nơi bà công chúa Suppavasa, nghe lời thỉnh cầu của ái thiếp, hoàng tử Mahali liền đến bạch với Đức Phật theo nguyện vọng của phu nhân.
Bằng nhãn thông, Đức Thế Tôn thấy rõ quả báo ác nghiệp của thai nhi và người mẹ đã mãn. Ngài truyền dạy lời chúc lành đến bà công chúa Suppavasa và thai nhi rằng:
"Sukhinī vata hotu Suppavasa,
Koliyadhitā sukhinī arogā
Arogam puttam vāyatu"
Tạm dịch:
"Công chúa Suppavasa xứ Koliya.
Được sự khỏe mạnh và an lành hạ sanh đứa con khỏe mạnh".
Khi Đức Thế Tôn chúc lành xong, tại cung điện, công chúa Suppavasa hạ sanh đứa con trai dễ dàng như nước từ trong bình đỗ ra, trước khi hoàng tử Mahāli trở về. Bà công chúa Suppavasa nhìn thấy đứa con trai mặt mày khôi ngô tuấn tú, quả phước thiện tròn đủ, thì vô cùng vui mừng sung sướng.
Sự ra đời của hài nhi làm cho hoàng tộc cũng như dân chúng thành Koliya dập tắt được mọi sự nóng lòng lo sợ cho công chúa Suppavasa và công tử, đem lại sự mát mẻ an vui cho tất cả mọi người, nên đạt tên là Sīvali" (Mát mẻ, an vui).
Trên đường trở về cung điện nhìn thấy mọi người đều vui mừng, hoan hỷ, hoàng tử Mahāli biết rằng điều tốt lành đã đến với công chúa Suppavasa phu nhân và đứa con của mình.
Về tới cung điện, ông lập tức vào thăm phu nhân và thuật lại lời chúc phúc của Đức Phật đến công chúa Suppavasa và đứa con trai., công chúa Suppavasa sẵn có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, đồng thời vô cùng hoan hỷ nhìn thấy đứa con đại phước mới ra đời, bèn tâu với phu quân:
- Xin cho thiếp được thỉnh Đức Phật cùng 500 chư Tỳ khưu tăng, ngày mai đến cung điện cho thiếp được làm phước thiện suốt 7 ngày gọi là "Vayamangala" (hạnh phúc sanh con).
Công tử Sīvali mới sinh ra đã mau lớn lạ thường, biết đi, đứng, ngồi, nằm…biết ăn uống, nói chuyện và có trí tuệ hiểu biết thật phi thường!
Đức Phật cùng chư Đại Đức Tăng ngự đến cung điện của công chúa Suppavasa và hoàng tử Mahāli dự lễ làm phước "Hạnh phúc sanh con", suốt 7 ngày.
Đến ngày thứ 7, Đức Thế Tôn truyền dạy Ngài Đại Đức Sariputta thuyết pháp. Ngài Đại Đức Sariputta thuyết bài pháp về sự khổ sanh, sự tái sanh là khổ. Công tử Sīvali lắng nghe và thấu hiểu một cách rất sâu sắc về sự khổ sanh, vì chính công tử đã phải chịu khổ nằm trong bụng mẹ suốt 7 năm lẻ 7 ngày: đó là những gì mà công tử đã trải qua.
Khi ấy, Ngài Đại Đức Sariputta bèn hỏi công tử rằng:
- Này con, con nằm trong bụng mẹ lâu đến 7 năm lẻ 7 ngày, con đã cảm thọ sự khổ nhiều phải không?
- Kính bạch Ngài Đại Đức, con đã cảm thọ khổ nhiều!
- Như vậy con có muốn xuất gia để giải thoát khổ sanh hay không?
- Kính bạch Ngài Đại Đức, nếu cha mẹ con cho phép, con sẽ xuất gia.
Công chúa Suppavasa nhìn thấy con trai của mình đang nói chuyện với Ngài Đại Đức Sariputta, trong tâm vô cùng hoan hỷ, muốn biết con mình đang nói gì với Ngài Đại Đức Sariputta. Bà công chúa Suppavasa đến hầu gần chỗ Ngài Đại Đức, rồi bạch rằng:
- Bạch Ngài Đại Đức, con của đệ tử đang nói chuyện gì với Ngài?
Ngài Đại Đức Sariputta thuật lại rằng:
- Công tử Sīvali nói rằng: Con đã chịu bao nhiêu nỗi khổ khi còn đang nằm trong bụng mẹ, nếu cha mẹ con cho phép, con sẽ xuất gia để giải thoát khổ sanh”.
Nghe xong công chúa Suppavasa vô cùng hoan hỷ bạch rằng:
- Kính Bạch Ngài Đại Đức, Sadhu! Sadhu! Lành thay! Lành thay! Con kính xin Ngài từ bi tế độ đứa con của đệ tử được xuất gia.
- Ngài Đại Đức Sariputta dẫn công tử Sīvali về chùa. Ngài dạy giới tử Sīvali về đề mục thiền định căn bản "Năm thể trược trong thân” (tóc, lông, móng, răng, da). Ngài còn dạy giới tử Sīvali tiến hành thiền tuệ thấy rõ, biết rõ khổ sanh, mà Sīvali đã cảm thọ suốt 7 năm lẻ 7 ngày trong bụng mẹ. Giới tử Sīvali liền thấu hiểu rõ mục đích xuất gia là để giải thoát khỏi khổ tái sanh.
4. Công tử Sīvali xuất gia Sadi
Công tử Sīvali sau khi thọ giáo lời dạy của vị thầy tế độ là Ngài Đại Đức Sariputta, liền được Ngài Đại Đức Moggallāna cạo tóc. Trong khi cạo tóc, giới tử Sīvali tiến hành thiền định căn bản, năm thể trược ở trong thân, và tiến hành thiền tuệ biết rõ khổ của sự tái sanh của danh pháp, sắc pháp. Khi Ngài Đại Đức Moggallana vừa đặt dao cạo tóc, giới tử Sīvali liền chứng ngộ chân lý tứ thánh đế, chứng đắc nhập lưu thánh đạo, nhập lưu thánh quả. Cạo đường tóc thứ nhất, giới tử Sīvali chứng ngộ chân lý tứ thánh đế, chứng đắc Nhất lai thánh đạo, Nhất lai thánh quả. Cạo đường tóc thứ hai, giới tử Sīvali chứng ngộ chân lý tứ thánh đế, chứng đắc Bất lai thánh đạo, Bất lai thánh quả. Cạo tóc vừa xong, đồng thời giới tử Sīvali chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Arahán thánh đạo, Arahán thánh quả, trở thành Bậc thánh Arahán tột cùng, cao thượng trong Phật giáo.
Kể từ ngày Đại Đức Sīvali xuất gia làm Sadi, hằng ngày không chỉ có hàng cận sự nam, cận sự nữ đem 4 món vật dụng: Y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc men trị bịnh đến dâng cúng Ngài Đại Đức và Chư Tỳ Khưu Tăng, ngày càng đầy đủ, dồi dào sung túc, mà trước đây chưa từng có.
5. Quả ác nghiệp của Ngài Sīvali
Một hôm nhóm Tỳ khưu đang ngồi bàn luận về Ngài Đại Đức Sīvali là Bậc Đại Trí. Ngài đã chứng đắc từ bậc Thánh nhập lưu đến Bậc Thánh Arahan trong khoảng thời gian cạo tóc xong. Ngài còn là Bậc Đại Phước, kể từ khi Ngài xuất gia thành Sadi, 4 món vật dụng đã phát sanh, không chỉ đến cho Ngài Đại Đức Sīvali, mà còn đến tất cả Chư Tỳ Khưu Tăng một cách đầy đủ, dồi dào sung túc mà trước đây chưa từng có.
Vậy do quả ác nghiệp nào khiến cho Ngài phải nằm trong bụng mẹ chịu khổ suốt 7 năm lẻ 7 ngày?
Lúc ấy, Đức Thế Tôn vừa ngự đến bèn hỏi rằng:
- Này chư Tỳ khưu, các con đang bàn luận về chuyện gì vậy?
Nhóm Tỳ Khưu bạch Đức Thế Tôn rõ, họ đang bàn luận về Ngài Đại Đức Sīvali, Đức Thế Tôn bèn dạy rằng:
- Này Chư Tỳ Khưu, Sīvali chịu khổ do quả ác nghiệp đã tạo ở kiếp quá khứ.
Trong quá khứ, tiền kiếp của Sīvali là Thái Tử con của đức vua trị vì ở kinh thành Baranasi. Khi phụ vương băng hà, thái tử lên ngôi vua. Lúc ấy có vị vua của nước láng giềng mưu toan kéo quân chiếm kinh thành Baranasi. Trên đường tiến quân, vị vua này lập doanh trại cho quân lính nghỉ đêm.
Đức vua ở kinh thành Baranasi hay tin bèn bàn tính với Bà Hoàng Thái Hậu, tìm cách ngăn cản đội quân xâm lược, rồi đem quân vây quanh bốn cửa doanh trại suốt 7 ngày đêm không cho một ai ra vào.
Lúc ấy Chư Phật Độc Giác đang ngự ở chùa Migadayavihara thuyết giảng dạy về pháp thiện, pháp ác, khuyên bảo mọi người không nên gây nghiệp ác, mà hãy cố gắng tạo nghiệp thiện. Đức vua ở kinh thành Baranasi, sau khi nghe pháp hiểu rõ nghiệp thiện, nghiệp ác, liền truyền lệnh mở vòng vây 4 cửa doanh trại quân địch, thả cho vị Vua láng giềng và quân lính trốn thoát chạy về nước.
Do quả ác của nghiệp vây hãm doanh trại suốt 7 ngày đêm ấy, Đức vua kinh thành Baranasi sau khi chết đọa địa ngục, chịu khổ suốt thời gian lâu dài. Nay đến kiếp hiện tại này, được tái sanh vào lòng Bà công chúa Suppavasa, là hậu thân của Bà Hoàng Thái Hậu ở tiền kiếp, đã đồng tình với Vương nhi vây hãm doanh trại kẻ thù. Do quả của ác nghiệp ở thời quá khứ còn dư lại, nên khiến cho Ngài Đại Đức Sīvali và công chúa Suppavasa cùng chịu khổ trong suốt 7 năm lẻ 7 ngày.
6. Sadi Sīvali trở thành Tỳ khưu
Ngài Đại Đức Sīvali tròn 20 tuổi. Ngài thọ Cụ Túc Giới, trở thành Tỳ Khưu, bốn món vật dụng lại càng phát sanh dồi dào hơn đến Chư Tỳ Khưu Tăng. Hễ mỗi khi Chư Tỳ Khưu Tăng đông đảo phải đi châu du trên đường qua những vùng hẻo lánh, dân cư thưa thớt, ít ỏi, nhưng nếu có Ngài Đại Đức Sīvali đi cùng, thì 4 món vật dụng, phát sanh đầy đủ sung túc dến Chư Tỳ Khưu Tăng, do nhờ oai lực quả phước thiện của Ngài Đại Đức Sīvali, Chư thiên đã hóa ra xóm làng, thị thành và dân cư đông đúc để dâng cúng y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc men chữa bệnh đến đoàn Chư Tỳ Khưu Tăng. Khi đoàn Chư Tỳ Khưu Tăng đã đi qua khỏi nơi ấy, thì xóm làng, kinh thành đó liền biến mất.
Một thuở nọ, Đức Phật cùng đoàn Chư Tỳ Khưu Tăng đông đảo đến ngự đến khu rừng, nơi ở của Ngài Đại Đức Revata. Khi Đức Phật cùng Đoàn Chư Tỳ Khưu Tăng đi đến đoạn đường có lối rẽ. Ngài Đại Đức Ananda bạch với Đức Phật rằng:
- Kính Bạch Đức Thế Tôn, có hai con đường, Đức Thế Tôn nên ngự đi con đường nào trong hai con đường này:
- Một con đường dài 30 do tuần, đầy nguy hiểm và có nhiều phi nhân, không có nơi khất thực và chỗ ở.
- Một con đường dài 60 do tuần, được an toàn, vì có làng xóm, chỗ ở và khất thực dễ dàng.
Đức Thế Tôn dạy:
- Này Ananda, Sīvali có đi trong đoàn Tỳ Khưu phải không?
- Bạch Đức Thế Tôn, có Ngài Đại Đức Sīvali cùng đi trong đoàn.
Đức Thế Tôn dạy:
- Như vậy, Chư Tỳ Khưu nên đi theo con đường dài 30 do tuần. Để biết rõ được quả phước thiện của Sīvali.
Đức Phật cùng đoàn Tỳ Khưu Tăng đông đảo ngự theo con đường dài 30 do tuần. Tất cả Chư Thiên hay tin Đức Phật cùng đoàn Tỳ Khưu Tăng đông đảo, trong đó có Ngài Đại Đức Sīvali kính yêu của họ, đang ngự dọc theo con đường này, nên vô cùng hoan hỷ.
Cứ mỗi do tuần, Chư thiên lại hoá ra một kinh thành trù phú có dân chúng đông đúc, có những ngôi chùa lớn, trong mỗi ngôi chùa, lại hoá ra một cái cốc lớn dành cho Đức Phật và những cốc nhỏ dành cho những vị Tỳ Khưu. Trong các cốc đó có đầy đủ những vật dụng cần thiết của bậc xuất gia, để tiếp đón Đức Phật và đoàn Tỳ Khưu Tăng.
Khi Đức Phật cùng chư Tỳ Khưu Tăng đi đến đâu Chư Thiên lại hóa ra các cận sự nam, cận sự nữ có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, hộ độ cúng dường 4 món vật dụng đầy đủ sung túc.
Tất cả Chư Thiên đến hầu đảnh lễ Đức Phật xong, bạch Đức Thế Tôn rằng:
- Kính bạch Đức Thế Tôn, Ngài Đại Đức Sīvali của chúng con ở đâu?
Khi gặp được Ngài Đại Đức Sīvali, tất cả Chư Thiên vô cùng hoan hỷ, cho nên các món vật dụng y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc men chữa bịnh phát sanh đến Chư Tỳ Khưu Tăng dồi dào, sung túc cho đến khi Đức Phật và đoàn Chư Tỳ Khưu Tăng rời khỏi nơi ấy.
Đức Phật cùng đoàn Chư Tỳ Khưu Tăng mỗi ngày đi được 1 do tuần, cứ mỗi do tuần Chư Thiên hóa ra các kinh thành trù phú, dân cư đông đúc như vậy để hộ độ Đức Phật và đoàn Chư Tỳ Khưu Tăng, trên suốt quảng đường dài 30 do tuần, cho đến khu rừng, nơi trú ngụ của Ngài Đại Đức Revata.
Ngài Đại Đức Revata hay được tin Đức Phật cùng đoàn Chư Tỳ Khưu Tăng đông đảo đến thăm, Ngài dùng thần thông hóa ra ngôi chùa lớn để Đức Phật thuyết pháp và là nơi hội họp của Chư Tỳ Khưu Tăng; hóa ra cốc Gandhakuti đầy đủ tiện nghi dâng lên Đức Phật, và những cốc nhỏ khác cho những vị Tỳ Khưu.
Cũng bằng thần thông, Ngài Đại Đức Revata hóa ra một con đường lớn và xinh đẹp để đón rước Đức Phật và Chư Tỳ Khưu Tăng. Đức Phật cùng đoàn Chư Tỳ Khưu Tăng ngự đi trên con đường đó đến ngôi chùa lớn, rồi Đức Phật ngự tới cốc Gandhakuti, tất cả chư Tỳ Khưu mỗi vị vào nghỉ một cốc nhỏ đã hóa sẵn.
Chư thiên ở trong rùng vô cùng hoan hỷ đón rườc Đức Phật và Chư Tỳ Khưu Tăng, trong đó có Ngài Đại Đức Sīvali vô cùng kính yêu của họ. Chư thiên cũng hóa thành những cận sự nam, cận sự nữ biết được đã quá giờ thọ thực nên họ chỉ làm nước trái cây dâng lên Đức Phật cùng Chư Tỳ Khưu Tăng.
Mỗi ngày Chư Thiên hoan hỷ cúng dường 4 món vật dụng đến Đức Phật và Chư Tỳ Khưu Tăng. Rất đầy đủ sung túc.
Do quả phước thiện của Ngài Đại Đức Sīvali, suốt nữa tháng Đức Phật cùng đoàn Chư Tỳ Khưu Tăng ngự ở khu rừng luôn được Chư Thiên kính yêu và dâng lên các món y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc chữa bịnh một cách đầy đủ, dồi dào sung túc chưa từng có bao giờ.
Một hôm Chư Tỳ Khưu hội họp bàn về chuyện Ngài Đại Đức Sīvali có nhiều quả báu phước thiện đặc biệt nhất, không chỉ phát sanh 4 món vật dụng đến Ngài Đại Đức Sīvali mà còn đến cả Chư Tỳ Khưu Tăng dù bao nhiêu cũng vẫn sung túc đầy đủ. Thật là điều phi thường!
Không chỉ có các hàng cận sự nam cận sự nữ đem 4 món vật dụng đến cúng dường Ngài Đại Đức Sīvali và Chư Tỳ Khưu Tăng, mà còn có cả Chư Thiên, Long Vương… cũng đem 4 món vật dụng lên dâng cúng Ngài Đại Đức Sīvali và Chư Tỳ Khưu Tăng nữa. Các Tỳ Khưu đang bàn luận, khi ấy Đức Thế Tôn ngự đến bèn hỏi:
- Này Chư Tỳ Khưu, các con đang bàn về chuyện gì thế?
- Chư Tỳ Khưu bạch Đức Thế Tôn rằng:
- Kính bạch Đức Thế Tôn, chúng con đang bàn về quả phước thiện đặc biệt nhất của Ngài Đại Đức Sīvali đã làm cho phát sanh 4 món vật dụng đến Ngài Đại Đức và Chư Tỳ Khưu Tăng dù nhiều bao nhiêu cũng vẫn đầy đủ sung túc.
Nhân dịp ấy, Đức Thế Tôn chủ trì một buổi hội Chư Đại Đức Thánh Tăng.
Đức Thế Tôn tuyên dương cho toàn thể các hàng đệ tử biết rằng:
"Etadaggam bhikkhave mama sāvakānam labhinam yadidam Sīvali".
- Này Chư Tỳ Khưu, Sīvali là bậc Thánh Thanh Văn đại Đệ tử có tài lộc bậc nhất trong các hàng Thánh Thanh Văn đệ tử của Như Lai.
Đức Thế Tôn dạy rằng:
- Này Chư Tỳ Khưu, Sīvali có tài lộc nhiều là do nhờ quả báo của phước thiện đã tạo ở những kiếp quá khứ.
*
7. Tiền kiếp của Ngài Sīvali
Từ kiếp trái đất hiện tại này, lùi vào quá khứ cách 100 ngàn kiếp trái đất, có Đức Phật Padumuttara xuất hiện trên thế gian. Khi ấy tiền thân của Ngài Đại Đức Sīvali là con trai của một gia đình giàu có. Một hôm, cậu con trai ấy đi đến chùa, ngồi sau các hàng thính giả nghe Phật thuyết pháp. Khi ấy Đức Phật tuyên dương một người đệ tử có danh gọi Sudassana, là Bậc Thánh Thinh Văn đệ tử có tài lộc bậc nhất trong hàng thinh văn đệ tử của Đức Phật. Cậu con trai, là tiền thân của Ngài Sīvali, vô cùng hoan hỷ với địa vị cao thượng của Ngài Đại Đức Sudassana, nên có nguyện vọng muốn trở thành bậc Thánh thinh văn đệ tử có tài lộc bậc nhất trong các thinh văn đệ tử của Đức Phật ở vị lai, như Ngài Sudassana này.
Ngay sau đó, cậu con trai ấy đến hầu đãnh lễ Đức Phật rồi cung kính thỉnh Đức Phật cùng 500 Tỳ Khưu Tăng đến nhà để làm phước đại thí suốt 7 ngày. Đức Phật làm thinh nhận lời.
Cậu con trai ấy làm phước đại thí dâng cúng đến Đức Phật cùng 500 vị Tỳ Khưu bằng những vật thực ngon lành suốt 7 ngày. Ngày thứ 7 còn dâng cúng tam y đến Đức Phật và 500 vị Tỳ Khưu Tăng mỗi vị một bộ tam y. Sau khi dâng tam y, cậu con trai ấy đến hầu đảnh lễ Đức Phật, ngồi xuống một nơi hợp lễ, rồi bạch với Đức Thế Tôn rằng:
- Kính bạch Đức Thế Tôn, phước thiện đại thí mà con đã tạo suốt 7 ngày qua, con không mong gì khác hơn là muốn trở thành Bậc Thánh Thinh Văn Đại đệ tử có tài lộc bậc nhất trong các hàng Thánh Thinh Văn Đại Đệ Tử của Đức Phật ở vị lai, như ngôi vị Ngài Đại Đức Sudassana, bậc Thánh Thinh Văn Đại Đệ Tử có tài lộc bậc nhất trong các hàng Thánh Thinh Văn Đệ Tử của Đức Thế Tôn bây giờ.
Đức Phật Padumuttara dùng trí tuệ Anagatamsanāna: trí tuệ thấy rõ kiếp vị lai của chúng sanh - Đức Phật thấy rõ nguyện vọng của cậu con trai này sẽ thành tựu trong kiếp vị lai, nên Ngài thọ ký rằng:
- Này Chư Tỳ Khưu, kể từ kiếp trái đất này, trong vị lai sẽ trải qua 100 ngàn đại kiếp trái đất, đến kiếp trái đất Bhađakappa có Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, khi ấy cậu con trai nầy sẽ trở thành Bậc Thánh Thinh Văn Đại Đệ Tử có tài lộc bậc nhất trong các hàng Thánh Thinh Văn Đại Đệ Tử của Đức Phật Gotama: như Sadussana bậc Thánh Thinh Văn Đại Đệ Tử Như Lai bây giờ.
Cậu con trai vô cùng hoan hỷ thỉnh thoảng làm phước thiện dâng cúng 4 món vật dụng đến Đức Phật và Chư Tăng cho đến trọn đời. Bắt đầu từ kiếp ấy cho đến kiếp cuối cùng, tái sanh làm người, làm Chư Thiên trong cõi trời dục giới, làm phạm thiên ở cõi trời sắc giới, không hề bị sa đọa vào 4 đường ác đạo. Kiếp nào tâm cũng hoan hỷ trong việc làm phước bố thí cúng dường.
Thời kỳ Đức Phật Vipassi xuất hiện trên thế gian, thời gian cách kiếp trái đất này 91 đại kiếp trái đất, khi ấy tiền thân Ngài Đại Đức Sīvali sanh làm con trai trong một gia đình nghèo gần thành Badhumati.
Một hôm, dân chúng trong thành Bandhumati làm phước bố thí vật thực dâng cúng đến Đức Phật Vipassi cùng Chư Tỳ Khưu Tăng, tranh đua với Đức vua ở kinh thành Bandhumati. Tất cả đồ ăn uống rất nhiều và ngon lành, nhưng xét thấy còn thiếu hai món: sữa chua và mật ong. Người nhóm trưởng cho người đi đón các ngã đường vào thành, xem xét có ai mang hai món sữa chua và mật ong vào thành bán, thì bằng giá nào cũng phải mua cho được. Khi ấy, cậu thanh niên con nhà nghèo (Tiền thân của Ngài Sīvali) mang sữa chua và mật ong vào thành bán, khi gặp người dân thành Bandhumati đón mua. Được trả ngay món tiền 1 Kahapana cho món mật ong và sữa chua, cậu thanh niên chủ hai món hàng đó vô cùng ngạc nhiên.
Cậu thanh niên đó nghĩ là hai đồ ăn này không đáng giá bao nhiêu, tại sao người dân thành Bandhumati lại trả một giá cao như vậy? Ta hãy thử xem sự cần thiết của họ như thế nào, với suy nghĩ như vậy, cậu thanh niên nói:
- Tôi không chịu bán món sữa chua và mật ong này vói giá 1 Kahapana.
Người dân thành Bandhumati năn nỉ mua hai món đồ ăn đó với giá gấp đôi, là 2 Kahapana. Người chủ hàng vẫn không chịu bán. Người dân thành Bandhumati lại tăng số tiền lên gấp đôi, gấp đôi, 4 Kahapana, 8 Kahapana…cứ thế đến 1000 Kahapana, để mua cho được hai món sữa chua và mật ong.
Cậu thanh niên chủ hai món đồ ăn trên muốn biết, tại sao người dân thành Bandhumati cần đến hai món sữa chua và mật ong, mà chịu trả một số tiền quá cao như vậy, nên hỏi người mua rằng:
- Thưa ông, sự thật hai món đồ ăn này đâu có giá là bao, tại sao các ông cần đến hai món này, phải trả số tiền 1000 Kahapana như vậy, ông có thể cho tôi biết lý do được không?
- Người dân thành Bandhumati giải thích rằng:
- Thưa anh, dân chúng trong thành Bandhumati tranh đua với Đức vua trong việc làm phước dâng cúng lên Đức Phật Vipassi cùng toàn thể Chư Tỳ Khưu Tăng, khi kiểm điểm lại những món đồ ăn dâng cúng, thì thấy còn thiếu hai món sữa chua và mật ong, mới cho tôi đón đường tìm hai món đồ ăn đó. Nếu chúng tôi không mua dược hai món đồ ăn này, thì sẽ thua đức vua mất, vì vậy, với giá nào chúng tôi cũng cố mua cho được.
Nghe vậy cậu thanh niên chủ hai món đồ ăn hỏi:
- Thưa ông, việc làm phước bố thí các món ăn sữa chua và mật ong này đến Đức Phật Vipassi và Chư Tỳ Khưu Tăng chỉ dành riêng cho dân thành Bandhumati, hay người khác cũng có thể làm phước bố thí được hay không ?
Người mua sữa chua và mật ong thưa rằng:
- Thưa anh, việc làm phước dâng sữa chua và mật ong cũng như thức ăn và đồ dùng khác đến Đức Phật Vipassi và Chư Tỳ Khưu Tăng không phải là việc dành riêng cho người dân thành Bandhumati, mà bất cứ ai cũng có thể làm được, đó là việc chung của tất cả mọi người.
Cậu thanh niên nghèo liền thưa rằng:
- Thưa ông, tôi không bán hai món sữa chua và mật ong này với giá 1000 Kahapana mà tôi muốn dâng cúng hai món đó, để cùng làm phước bố thí với dân chúng thành Bandhumati có được không?
Người dân thành Bandhumati vô cùng hoan hỷ, ông liền trở về báo tin cho người nhóm trưởng hay, có cậu thanh niên xin cùng chung cúng dường bố thí các món sữa chua và mật ong đến Đức Phật và Chư Tỳ Khưu Tăng.
Cậu thanh niên tự tay làm những món sữa chua và mật ong đem đến, rồi ngồi chờ đến phiên mình dâng cúng. Khi dâng cúng, cậu thanh niên bạch với Đức Phật Vipassi rằng:
- Kính bậc Đức Thái Tôn, món vật thực nhỏ mọn này của con, xin kính dâng đến Đức Phật, kính xin Đức Thái Tôn từ bi thọ lãnh.
Đức Phật Vipassi thọ nhận món đồ ăn làm bằng sữa chua và mật ong của cậu thanh niên nghèo. Đức Thế Tôn chú nguyện xong, Đức Phật đem món đồ ăn làm bằng sữa chua và mật ong phân chia cho 6 triệu 8 trăm ngàn (6800000) Tỳ Khưu Tăng độ vẫn không hết
Khi Đức Phật cùng Chư Tỳ Khưu Tăng độ vật thức xong, cậu thanh niên nghèo là tiền thân của Ngài Đại Đức Sīvali đến đãnh lễ Đức Thế Tôn ngồi xuống một nơi hợp lẽ, bạch rằng:
- Kính xin Đức Thế Tôn, con có duyên lành gặp dược Đức Thế Tôn, con lại có cơ hội tốt cùng dân chúng thành Bandhumati làm phước thiện cúng dường đến Đức Phật cùng Chư Tỳ Khưu Tăng, con vô cùng hoan hỷ, với phước thiện thanh cao này, xin cho con được trở thành bậc thánh Thinh văn đại đệ tử có tài lộc nhiều nhất trong các hàng Thánh Thinh văn đệ tử của Đức Phật ở vị lai.
Lúc đó Đức Phật Vipassi truyền dạy rằng:
- Nguyện vọng của con chắc chắn sẽ được thành tựu như ý.
Đức Phật thuyết pháp và chúc phước toàn thể dân chúng thành Bandhumati, trước khi Đức Phật cùng đoàn Chư Tỳ Khưu Tăng đi nơi khác.
Cậu thanh niên, tiền thân của Đại Đức Sīvali tinh tấn tạo mọi phước thiện, nhất là bố thí đến trọn đời. Trong vòng sanh tử luân hồi, cậu chỉ tái sanh làm người, làm Chư Thiên hưởng sự an lạc, không hề sa vào 4 đường ác đạo.
Thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian.. Ngài Đại Đức Sīvali là bậc đại phước tái sanh vào lòng bà công chúa Suppavasa xứ Koliya như đã nói ở đoạn đầu.
8. Nghiệp và quả của nghiệp
Thiện nghiệp, ác nghiệp là của riêng của mỗi chúng sanh. Quả của thiện nghiệp, quả của ác nghiệp không chỉ riêng cho mình, mà còn ảnh hưởng đến người khác, chúng sanh khác nữa.
Trong kinh, Đức Phật dạy về thiện nghiệp, ác nghiệp và quả của thiện nghiệp, ác nghiệp có câu kệ rằng:
"Yadisam vāpte bijam,
Tādisam harate phalam
Kalyanakari kalyanam,
Papakari ca papakam"
Tạm dịch:
"Người nào gieo hạt giống nào,
Người ấy gặt quả nấy.
Người hành thiện thì được quả thiện
Người hành ác thì được quả ác.”
Tiểu sử của Ngài Đại Đức Sīvali ở kiếp hiện tại là kết quả của ác nghiệp và thiện nghiệp mà chính Ngài đã tạo ở tiền kiếp quá khứ và ngay trong hiện tại.
Ngài Đại Đức Sīvali đã trở thành Bậc Thánh Thinh văn đại đệ tử có tài lộc bậc nhất trong các hàng đệ tử của Đức Phật Gotama, hợp theo nguyện vọng, mà sự thành tựu do thiện nghiệp đã tạo từ những tiền kiếp của Ngài Đại Đức Sīvali ở quá khứ.
Nay kiếp hiện tại này, Ngài Đại Đức Sīvali là Bậc Thánh Alahán, cũng là kiếp chót của Ngài. Tất cả quả của thiện nghiệp và quả của ác nghiệp sẽ trở thành vô hiệu, khi Ngài Đại Đức Sīvali nhập diệt Niết bàn, chấm dứt sanh tử luân hồi trong ba giới bốn loài.
9. Câu kệ "CẦU TÀI LỘC"
1.
"Sīvali ca mahanamam,
Sabbalabhaṃ bhavissati
Therassa anubhavena,
Sabbe hontu piyam mama"
Ngài Đại Đức Sīvali bậc đại danh
Cầu xin tất cả tài lộc sẽ phát sanh
Do nhờ oai lực của Ngài Đại Đức,
Tất cả chúng sanh, Chư thiên, nhân loại,
Đều có tâm từ thương mến con.
2.
"Sīvali ca mahalabham,
Sabbalabham bhavissati
Therassa anubhavena
Sada hontu piyaṃ mama"
Ngài Đại Đức Sīvali bậc đại tài lộc
Cầu xin tất cả tài lộc sẽ phát sanh,
Do nhờ oai lực của Ngài Đại Đức,
Cầu xin Chư thiên, nhân loại luôn luôn yêu mến con.
3.
"Sīvali ca mahathero,
mama sise thapetvana,
Mantitena jāyomantam,
aham vandami Sabbada"
Ngài Đại Đức Sīvali bậc cao thượng,
Con tôn kính Ngài ở trên đầu con.
Con xin tán dương ca tụng ân đức của Ngài
Con luôn luôn kính đãnh lễ Ngài.
*
Giống nào người đã gieo trồng
Quả ấy sẽ trỗ cho ông bội phần
Như người làm thiện ân cần
Quả lành sẽ trỗ, đặc ân lạ gì
Còn người hành ác khác chi
Khổ đau là quả tránh đi đường nào
Đức Sīvali danh cao
Cầu xin tài lộc sanh vào cho con
Do nhờ oai lực vẹn toàn
Ngài Sīvali mãi còn thế gian
Cầu mong thiên chúng các hàng
Cùng chung nhân loại vô vàn mến con
Đức Sīvali tợ non
Lộc tài Đại Đức hoàn toàn cao thanh
Cầu xin tài lộc phát sanh
Cho con hưởng quả an lành Ngài ban
Cầu mong thiên chúng các hàng
Cùng chung nhân loại vô vàn mến con.
Ân Sīvali mãi còn
Bậc Thầy cao thượng cho con đội đầu
Kính Ngài là bậc nhiệm mầu
Con luôn đảnh lễ, mong cầu lạc an.
https://yhairstudiovn.blogspot.com/s...A%ADt%20Sivali
-
-
-
-
[PDF]Milarepa Puja - Kagyu Samye Dzong Finland
samye.fi/..../Milarepa-Puja-Rinpoche-Prayer-format-KSDL-2013.pdf?...
Dịch trang này
OM AH HUNG BENDZA GURU PEMA TURTREN TSAL BENDZA SAMAYA DZA DZA SARWA. SIDDHI PALA HUNG AH HRIMA HA RI NI SA ... AHPA SAMARA DAHKA DAKINI DAYA. IDAM BALING DRI HANENTU .... Dribpa Dang. Shey Jai Dribpa Dang. Bagchag Chi Dribpa Tamchay Data Nyidu Dag Par Jin Ji Labtu Sol ...
-
Bho (p): Tôn giả.
http://www.tuvienquangduc.com.au/tud...nphucPV-b.html
Ayusmat (S) Cụ thọ → Huệ mạng → 1- Bậc đầy đủ huệ và đức hạnh được mọi người tôn kính. 2- Huệ mạng: thọ mạng ở thế gian.
Cụ Thọ (Āyuṣmat: lời tôn xưng hàng A La Hán)
https://quangduc.com/a26628/kinh-kim-quang-minh
===========
Các Đại Thanh Văn (Mahā-śrāvaka)
Acarin (skt): Hành giả—Practitioner—One who practises and performs the duties of a disciple.
Acariya-mutthi (p): Mật giáo—Esoteric doctrine—Secret teaching.
Acarya (skt) Acharya (p): A Kỳ Lợi—A Già Lợi Da—A Già Lê Da—A Xà Lê—Giáo thọ—Một trong hai loại thầy tinh thần được biết đến ...
Thượng Thủ (Pramukha)
Vô Thượng Bồ Đề (Agra-bodhi),
Hương Sơn (Gandha-mādana: tục gọi là núi Côn Lôn)
Lưỡng Túc Tôn (Dvipadottama: một tên hiệu của Đức Phật)
Tối Thắng Mâu Ni Tôn (Muṇīndra)
Đại Chúng Sinh (Mahā-satva)
-
Origin of mantra Karmapa Chenno
Origin of mantra Karmapa Chenno
The most important practice in Tibetan Buddhism is Guru Yoga, meditation and mantra on the spiritual head and teacher of the tradition, which is seen as living Buddha, embodiment of three kayas and 10 bhumi (extraordinary powers). In Kagyu tradition the head Lama is Gyalwa Karmapa and his mantra is Karmapa Chenno. It is believed sounds of this mantra are directly connected with the enlightened mind of HH Karmapa and carry its enlightened qualities and brings help when it is most necessary for the benefit of student.
Here I would like to share with you a story about the origins of Karmapa Chenno mantra. The Karmapa mantra has originated at the times of 8th Karmapa Mikyo Dorje (1507-1554) in context of teaching about "Calling the Lama from afar."
“Karmapa Chenno” can be roughly translated as "Embodiment of the compassion of all Buddhas, turn attention to me." In Central Tibet, Sikkim and Bhutan, it is pronounced Karmapa Kyen-no or Karmapa khen-no. In East Tibet, it is pronounced "Karmapa chenno."In western countries the most widespread pronunciation is Karmapa Chenno and it is considered correct.
One day, in 16th century, the head of a nomadic household in desolate, windswept northern Tibet passed away. In such a sparsely inhabited region it was rare to find monasteries and lamas to perform Buddhist funeral rites, so the family wondered what to do. Then they noticed a ragged individual travelling on foot who appeared as if he could be either an itinerant yogi or a beggar, so they went to inquire. The mendicant turned out to be, in fact, a lama. The grieving family requested his ministrations for the deceased, and he complied.
16-Karmapa-Rangjung-Rigpe-Dorje-3When he reached the man's deathbed and began his incantations, the family respectfully requested the lama to perform phowa (consciousness transference to higher realms). The lama, however, said: "I am just a poor, uneducated practitioner of the Buddha's teachings; I have not mastered that esoteric practice. But I do have one positive quality, infinite faith in the living Buddha, named Lama Karmapa; he is like the great gate to Dewachen (a transcendent Pure Land from which evolution on the path of enlightenment is said to be more easily assured). His name is the magic password to that fabulous spiritual domain."
Then he began reciting again and again the powerful name-mantra, "Karmapa Khyenno!" "Karmapa Khyenno, Karmapa Khyenno," he intoned loudly, again and again.
After each and every rosary of one hundred and eight fervent recitations, he would then hit the corpse with his mala, or prayer beads, commanding that, in the name of the Buddha Karmapa, the spirit of the deceased be reborn in Dewachen.
After some time, everyone noticed that the signs of successful consciousness transference began to appear. Hair fell from the top of the corpse's head; there was a pleasant fragrance in the air, and a large bump appeared at the crown aperture where the subtle consciousness of the deceased departed for the other world.
Everyone present rejoiced, and gratefully thanked the mendicant lama. All began to faithfully practice the mantra of the Karmapa, praying to realize the great freedom and bliss of Dewachen in this very lifetime.
The travelling lama soon continued on his journey. One day he heard that the omniscient Karmapa was visiting south Tibet, so he determined to go and meet him and pay his respects.
Upon finally reaching his destination, the first thing the clairvoyant Karmapa said to him was: "That was a difficult phowa we performed up there in the north, wasn't it?" The Karmapa laughed, hitting the other lama with his mala.
Then the mendicant knew with unshakable certainty that the Karmapa is an omniscient living Buddha, who always keeps his disciples, wherever they are, in his heart and mind.
Since those days Karmapa Chenno is the most important mantra to invoke the enlightened qualities and powers of Karmapa in Kagyu tradition of Tibetan Buddhism. With the name of Karmapa is understood not just some particular individual, but the enlightened qualities of all Buddhas and Bodhisattvas. Karmapa is the one who embodies all three jewels of refuge, Buddha, Dharma and Sangha for his students.
This is the story on origin of Karmapa mantra I have heard.
http://redzambala.com/buddhism/buddh...pa-chenno.html
-
In Kagyu tradition the head Lama is Gyalwa Karmapa and his mantra is Karmapa Chenno.
Trong truyền thống Kagyü, Đạo Sư đứng đầu là Gyalwa Karmapa và câu chú của Ngài là Karmapa Chenno.
http://redzambala.com/buddhism/buddh...pa-chenno.html / https://www.wisdomcompassion.org/karmapachenno
=========
Here I would like to share with you a story about the origins of Karmapa Chenno mantra. The Karmapa mantra has originated at the times of 8th Karmapa Mikyo Dorje (1507-1554) in context of teaching about "Calling the Lama from afar."
Ở đây tôi muốn chia sẻ một câu chuyện về nguồn gốc của câu chú Karmapa Chenno. Câu chú Karmapa có nguồn gốc từ thời Ngài Karmapa thứ 8, Mikyo Dorje (1507-1554) trong buổi giảng dạy về Pháp "Gọi Thầy từ xa".
===========
Karmapa-chenno mantra
mantra “Karmapa Chenno” (Karma.pa.mKhyen.no)
==========
https://books.google.com.vn/books?id...CHENNO&f=false
https://books.google.com.vn/books?id...CHENNO&f=false
-
-
-
Kurzes Guru Yoga auf Karmapa
Kurzes Guru Yoga auf Karmapa
http://www.kcl-heidelberg.de/images/...s/karmapa2.jpg
karmapa2
Short Guru-Yoga
DAG PA LHA YI LUNG TEN CHING
TSUR DU TEN PE NYIG MA DI
DRO WA DREN DZE KA DRIN CHEN
KAR MA PA LA SOL WAN DEB
One or three times
Prophesized by the pure Buddha
In this degenerate time of impure teachings
You guide beings with great kindness,
Karmapa, to You I pray.
KARMAPA CHENNO
Many times
KYE WA KÄN DU YANG DAG LAMA DANG
DRAL ME CHÄ– KYI PAL LA LONG CHÄ– CHING
SA DANG LAM DSCHI YÄ–N TEN RAB DZOG NE
DORDSCHE CHANG GI GO PANG NYUR TOB SCHOG
Throughout all my births
May I not be separated from the supreme Lama,
May the splendour of the Dharma be enjoyed,
May the best qualities of the stages and paths be gained.
May I quickly attain the level of Vajradhara.
Dieser kurze Karmapa- Guruyoga wurde vom 16. Gyalwa Karmapa Rigpe Dordsche verfasst.
http://www.kcl-heidelberg.de/index.p...ga-auf-karmapa
-
影片來源取自:生命電視台life tv
剪接製作:meifei Tsai
噶瑪巴Karmapa
(藏文:ཀརྨ་པ་,藏語拼音:Ga rmaba,威利:karma pa,THL:Karmapa),全稱為嘉華噶瑪巴 �Gyalwa Karmapa),又稱大寶法王(為明成祖賜 ��),是藏傳佛教噶舉派中的噶瑪 舉 派之最高持教法王,並且也是最早開 �乘願轉世傳統的藏傳佛教領袖。藏 � ��教視他為金剛總持的化身。
----維基百科
http://haitet2018.site/%E6%9C%80%E6%...a2zcpSwuM.html
-