Nguyên văn bởi
binh duong
Theo suy nghĩ của cháu thì Đan Điền khi chưa mở thì không có vị trí xác định, nhưng khi đã được khai mở thì lúc đó người được khai mở sẽ biết nó ở chỗ nào phải không bác? Cháu có đọc trong sách của giáo sư Hàng Thanh, cháu trích nguyên văn:
"ĐIỀU TỨC:
Thông thường ai cũng hít không khí qua mũi vào phổi và thở ra, đôi khi có ngừng một vài giây đồng hồ rồi mới thở ra. Đối với nhà thể thao Âu Châu thì cố hít cho đầy phổi bằng một hơi dài và thở ra thật mạnh để trút cạn trọc khí trong đáy phổi, cách này làm phổi nở to và lồng ngực tăng trưởng. Đây cũng là một cách tốt giúp cho thân thể cường tráng.
Nội gia hít thởi theo một lối riêng:
Trước nhất ngoài việc đúng cách Phu Tọa (đã học chương trước), miệng ngậm kín, hai hàm răng khít nhau, đầu lưỡi đặt ngay chỗ bốn răng cửa tiếp giáp nhau, mũi hít vào thật đầy khí xong thở ra bằng miệng mở tròn như huýt sáo (nói là thổi khí ra thì đúng hơn). Khi thở ra hết hơi thì bụng thóp lại để giúp phổi đẩy hết thân khí ra ngoài. Xong ngậm miệng lại, mũi hít đầy khí trời. Thở 3 lần. Hơi thở lọc sạch trên sửa soạn cho hơi thở Điều tức sẽ thực hiện kế tiếp.
Khởi sự, dùng ngón tay cái của bàn tay trái đặt lên nhân trung (dưới chóp mũi), kế mũi hít hơi vào từ từ đồng thời ngón tay cái kéo xuống theo đường chu thiên…đến yết hầu, huyệt Liêm Tuyền…rồi đến huyệt Cửu Vĩ thì phổi đã đầy hơi rồi, ngón tay dừng ngay tại đó một chút. Thời gian ngừng lâu bằng thời gian hít vào, đoạn thở hơi ra bằng mũi cũng từ từ, ngón tay cái từ huyệt Cửu Vĩ đưa lên từ từ tới Liêm Tuyền, và sau hết dừng lại ở Nhân trung, tức là vị trí ban đầu thì hơi thở vừa cạn. Lại hít vào, ngón tay cái đưa theo xuống rồi dừng lại nơi Cửu Vĩ, nghỉ, xong đưa theo hơi thở ra, khi cạn hơi thì về đến vị trí ban đầu. Hãy tưởng tượng thấy hơi thở đi từ mũi vào, hễ tới đâu thì ngón tay cái theo tới đó và dừng lại tại đâu, sau cùng thì hơi thở ra theo ngón tay cái hướng dẫn. Tùy theo người mạnh yếu, hơi dài ngắn mà hạn định thời gian mỗi chu kỳ hít vô – nghỉ - thở ra. Miễn sao thời gian mỗi khi hít, nghỉ, thở ra đều bằng nhau là được. Thở thật đều đặn trong 15 phút cho thời gian đầu, sau tăng dần lên.
Sau chừng một tuần lễ, ngón tay cái dẫn hơi thở xuống đến huyệt Đan điền (nằm trên đường Chu thiên đã học) rồi cũng dẫn khí ra như trước. Cứ như thế mà tập trong một tháng thì bỏ ngón tay cái ra. Nhưng mỗi lần hít vào vẫn thấy khí vào như dòng nước chảy theo ngón tay vô hình xuống các huyệt Liêm Tuyền, Cửu Vĩ, Đan điền rồi dừng lại đó, kế đến đi ra.
Khi khí ra vào thấy rõ trong mỗi chu kỳ hít thở ngừng nghỉ thì coi như thành công một giai đoạn rồi đó. Được như thế và hít thở cho thật thuần thục thì ít nhất cũng mất đến ba tháng công phu, mỗi lần tập phải 30 phút, mỗi ngày 2 lần tập.
Trong vòng ba tháng, học viên đệ tử thành công được dẫn khí tới đan điền thời thật là điều tốt đẹp. Rồi trong những giờ khác trong ngày, nếu thảng nhớ đến hơi thở của mình thời bất kỳ đứng, ngồi hay nằm, học viên thử hít hơi chuyển khí xuống đan điền và trầm (giữ) đó rồi lại thở ra từ từ…làm vài hơi. Nếu trong những lúc giao động thần kinh, buồn lo hồi hộp, yếu sức, mệt mõi thì học viên đệ tử thử hít vài hơi như thế tất lấy lại được trạng thái bình thường để bắt đầu công việc một cách tốt đẹp ngay. Trong môn Nhu Đạo Nhật Bổn, một người bình thường muốn biết thế nào là đan điền phải mất ít nhất là 8 đến 10 năm tập luyện, còn những người vô tâm thời tập lâu hơn. Người tập Thái Cực Quyền hoặc Bát Quái Quyền nhờ phép Thôi Thủ nên thành công sớm hơn. Nếu cả hai biết được bí quyết vận khí xuống đan điền nầy thời họ thành công mau chóng hơn để giữ được trọng tâm thấp hơn. Và do đó, họ rất thăng bằng, khó có người quật ngã họ được. Đối với học viên bản môn, thời sau khi trầm khí đan điền được rồi thời nếu chuyên chú trong một vài năm thì đi đứng vô cùng vững vàng, tướng đi đổi khác, không còn lóc chóc, lăn quăn, gập gà gập gềnh, xiêu vẹo, v..v.. mà lúc nào cũng thật là trầm vững, ngồi đứng khoan thai hơn, người tính chậm chạp thì bước đi trầm trọng, còn như người tánh nhanh nhẹn thời bước đi chắc chắn, trong sự gọn gàng có tàng chứa phần trì trọng. Bởi thế, một võ gia hiểu rộng chỉ cần thấy một người bước đôi ba bước là hiểu được trình độ võ công của người đó. Điều nầy tưởng cũng không phải là khó hiểu. Khi học viên luyện dồn khí xuống Đan điền thời càng ngày bụng dưới vùng quanh rốn cứ to dần lên, càng ngày càng to và bóng láng như nửa trái dưa hấu úp vào; nếu thấy bụng mình to ra như thế thời học viên nên mừng mà không có gì đáng lo ngại, bụng tác giả cũng no tròn như trái dưa hấu lớn, lúc bình thường muốn nhỏ lại thời thóp bụng chuyển hơi lên ngực là bụng biến đi.
Nếu học tới đây rồi tập tán khí ra tứ chi mà xài thời cũng đặng nhưng chỉ mới được nửa chừng. Vậy ai muốn tiến thêm thời phải gia công học phần kế tiếp.
Khi đã tụ khí xuống đan điền được rồi thời không cần ngón tay hướng dẫn nữa mà tưởng tượng dẫn khí huyệt Hội Âm qua Hải để rồi chuyển lên Huyệt Mạng môn nằm giữa khớp xương hông thứ hai và thứ ba (hai bên là hai quả thận). Kế, chuyển khí lên huyệt Linh Đài, Thần Đạo giữa xương sống (lưng) tức đốt xương lưng thứ 6-7 (L.Đ) và 5-6 (T.Đ). Rồi dưa khí lên đến Thân Trụ, Đại Truy, Á Môn, Phong Phủ, Não Hộ, rồi Bá Hội xuống Ấn đường, sau cùng thì đưa hơi ngoài qua mũi xuống đan điền, rồi từ biển lớn đan điền mới đưa khí lên mũi mà thở ra. Giai đoạn thứ hai nầy khó khăn hơn giai đoạn một vì sự chuyển khí đi có phần phức tạp hơn. Khí từ đan điền chuyển vào trong cột tủy sống (giữa tủy sống có lỗ trống ăn thông lên đến não) và đưa lên não xong chuyển về đan điền. Học viên không nghiên cứu rõ thì khó thành tựu. Khi nào dẫn khí có kết quả thời thấy có luồng hơi nóng chạy trong cột xương sống lên đến đỉnh đầu. Khi tham luyện tới trình độ này cần người canh giữ đừng để cho ai làm giật mình có thể gây nhiều tệ hại. Trong ba năm luyện tập chuyên cần, học viên có thể dẫn khí thông suốt trên hai kinh Nhâm Đốc, tức vòng Châu Thiên để tích khí nơi đan điền. Khi đả thông được hai kinh Nhâm Đốc thời kế đó tập đến dẫn khí ra tứ chi bằng 12 phép luyện nội công trong chương thứ ba."
Cháu có thắc mắc là khi dùng ý dẫn khí:
Cách 1
Từ Đan Điền dẫn khí xuống Hội Âm qua Hải Để (Trường Cường) rồi chuyển lên Huyệt Mạng Môn. Kế, chuyển khí lên huyệt Linh Đài, Thần Đạo. Rồi dưa khí lên đến Thân Trụ, Đại Truy, Á Môn, Phong Phủ, Não Hộ, rồi Bá Hội xuống Ấn đường, sau cùng thì đưa hơi ngoài qua mũi xuống đan điền, rồi từ biển lớn đan điền mới đưa khí lên mũi mà thở ra.
Cách 2:
Giai đoạn 1 là dùng ý dẫn khí đi xuống Hội Âm qua Hải Để (nhíu hậu môn hay nối Hạ Thước Kiều) rồi chuyển lên Mạng Môn rồi về lại Đan Điền.
Giai đoạn 2 là dùng ý dẫn khí xuống Hội Âm qua Hải Để => Mạng Môn => Linh Đài, Thần Đạo => Thân Trụ, Đại Truy, Á Môn, Phong Phủ, Não Hộ => Bá Hội xuống Ấn Đường sau đó đưa hơi ngoài mũi xuống Đan Điền rồi từ Đan Điền đưa khí lên mũi và thở ra.
Cả hai cách này là trong cùng một chu kỳ thở (hít vào và thở ra) hay là nhiều chu kỳ? Giai đoạn hít vào thở ra thông thường có liên quan đến quá trình dẫn khí không ạ?
Cháu rất mong bác chỉ bảo.
Cháu cảm ơn bác nhiều nhiều!