-
-
-
-
-
-
-
[SIZE=5][COLOR="#FF0000"]
https://www.youtube.com/watch?v=Qy-Id5ykvUk
Guru Rinpoche / Padmasambhava Rinpoche Mantra - Thần chú Liên Hoa Sanh
Om ah hung / Benza guru / Pema siddhi hung
Om Ah Hum Vajra Guru Padme Siddhi Hum
Om Ah Hung Benza Guru Péma Siddhi Hung
-
OM AH HUNG BENZRA GURU PADME SIDDHI HUNG
-
-
-
-
Published on May 29, 2016
【 蓮師七句祈禱文 ~ “祈禱之王” 】
今年是藏歷火猴年,亦是蓮師本命年 � �
猴年的藏歷六月初十 (8月13日) ,
是蓮師的誕辰,下一個蓮師本命年
(火猴年)則是2076年,要等60年才能一遇 。
在2016年的每一天,要記得多向蓮師祈 ��!
請廣為分享!功德無量!
敬請大家把握此機緣,積極發心持誦
蓮師七句祈請文,共同成就殊勝法益 � �
《蓮花遺教—空行母問答錄》中說:
“不管你發什麼樣的願,
只要祈禱蓮師,皆能如願以償。”
蓮花生大士是阿彌陀佛、觀世音菩薩 � �
釋迦牟尼如來,身口意三密之金剛應 � �身。
很多經典中記載,釋迦佛在世時就授 � �過
以后為蓮花生大士的應世。
蓮師是過去、現在、
未來三世諸佛的總集,
尤其在當今時代,
他是降伏一切鬼神魔怨的本尊。
在諸多的祈禱文中,
蓮師金剛七句祈禱文
是最具加持的祈禱文之一,
被譽爲“祈禱之王”。
它並不是蓮師所造,
而是十方諸佛祈禱蓮師的祈禱文。
當我們向蓮師祈禱,
也就是在向三世諸佛祈禱。
海濤法師開示:
祈求蓮花生大士的加持,
鼓勵大眾勤念蓮師七句祈禱文或蓮師 � �咒。
蓮師一生有著許多傳奇事蹟,
更是降伏一切鬼神魔怨的本尊。
希阿榮博堪布開示:
2016年是藏曆火猴年——
蓮花生大士的誕生年,
這是非常非常殊勝的年份,
能參與至這次共修是不可思議的,
希望大家珍惜這個因緣,
不要錯過這次
“蓮師金剛七句百億共修”。
貝諾法王開示:
蓮花生大士具足三世諸佛的功德,
一切的本尊,如 “靜忿百尊” 在蓮花生大士
身上都完全具足﹔空行護法的加持,
在蓮師身上也都是具足的。
蓮花生大士就像是一個“摩尼寶”,
具足一切的功德。
法王如意寶開示:
若能多祈禱蓮花生大師,
每天念蓮師心咒108遍,
在這個如夢幻般的人生中,
很多願望都可以實現。
頂果欽哲仁波切開示:
蓮花生大士是觀世音
的一個化身,慈悲的具體展現。
他為其他眾生奉獻的力量是如此強大 � �
因此即使在這個末法時代,
僅僅憶念他或祈喚他的名號,
就能夠立即斬斷障礙、逆緣和邪惡的 � �力,
使它們失去力量,帶來蓮師身、語、 � �的加持。
慈誠羅珠堪布開示:
我們藏傳佛教的噶舉派薩迦派,
都念蓮花生大士,漢傳佛教的念阿彌 � �佛也一樣,
實際上,蓮花生大士是阿彌陀佛的直 � �的化身。
在此末法時代,修蓮花生大士的法,
祈禱蓮花生大師,念誦金剛七句祈禱 � �
或蓮花生大師心咒非常重要也非常有 � �。
無論是平時走路、開車、坐車等任何 � �候,
無論你是學噶舉派還是薩迦派,
藏傳還是漢傳,淨土宗還是禪宗,
都可以修念蓮師法門。
索達吉堪布開示:
我們在遇到困難時,
自己若實在解決不了,
可以念七句祈禱文,
只要一心一意的祈禱,
蓮師定會滿你所願。
揚唐仁波切開示:
蓮花生大士說過,念誦蓮師心咒
「嗡阿吽班匝咕如貝瑪悉地吽」
的功德利益是沒有形體的,
可是如果要把念誦它的功德利益化成 � �體的話,
那麼整個世界也裝不下。
蓮花生大士是過去、現在、未來三世 � �佛的總集,
尤其在當今時代,他是降伏一切鬼神 � �怨的本尊。
在2016年的每一天,要記得多向蓮師祈 ��,
讓您、我及一切眾生,的每一天無有 � �礙。
並迴向正法久住,上師善知識,法體 � �康,
長久住世,法輪常傳,眾生無病離苦 � �
世界和平、國泰民安、風調雨順、
社會和諧、人心安定,萬物和平共生 � �都能善妙吉祥。
願眾生能遠離恐怖,希望災難不再降 � �。
【 蓮師七支祈請文 】
吽 hōng.
鄔金剎土西北隅,
Wū jīn chā tǔ xī běi yú,
蓮莖花胚之坐上,
lián jīng huā pēi zhī zuò shàng
稀有殊勝成就者,
xī yǒu shū shèng chéng jiù zhě
世稱名號蓮花生,
shì chēng míng hào lián huā shēng
空行眷屬眾圍繞。
kōng xíng juàn shǔ zhòng wéi rào.
我隨汝尊而修持。
Wǒ suí rǔ zūn ér xiū chí.
垂賜加持祈降臨。
Chuí cì jiā chí qí jiàng lín.
咕嚕貝瑪悉地吽。
Gū lū bèi mǎ xī de hōng.
【蓮師心咒】:
嗡 阿吽 班札 咕嚕貝瑪 悉地 吽
Om Āh hōng bānzhá gū lu bèi mǎ xī de hōng
Invoked by many dakinis with the Seven Line Prayer, Padmasambhava manifested in this world. This prayer is still used today for not only invoking Padmasambhava to come and inspire us with his blessing, but also to remove inner and outer obstacles on the path to Buddhahood.
When one’s mind is filled with yearning devotion and unshakable faith in Padmasambhava, the Seven Line Prayer invokes his presence like a mother who cannot resist the call of her child.
༄༅། །གུ་རུ་རིན་པོ་ཆེ � �ི་ཚིག་བདུན་གསོལ � ��དེབས་བཞུགས་སོ། །
THE SEVEN LINE PRAYER
ཧཱུྂ༔ ཨོ་རྒྱན་ཡུལ་གྱི་ � �ུབ་བྱང་མཚམས༔
hung orgyen yul gyi nubjang tsam
Hūṃ! In the north-west of the land of Oḍḍiyāṇa,
པདྨ་གེ་སར་སྡོང་པ � �་ལ༔
pema gesar dongpo la
In the heart of a lotus flower
ཡ་མཚན་མཆོག་གི་དང � �ས་གྲུབ་བརྙེས༔
yatsen chok gi ngödrub nyé
Endowed with the most marvellous attainments
པདྨ་འབྱུང་གནས་ཞེ � �་སུ་གྲགས༔
pema jungné shyé su drak
You are renowned as the ‘Lotus-born’
འཁོར་དུ་མཁའ་འགྲོ � �མང་པོས་བསྐོར༔
khor du khandro mangpö kor
Surrounded by many hosts of ḍākinīs
ཁྱེད་ཀྱི་རྗེས་སུ � �བདག་བསྒྲུབ་ཀྱི༔
khyé kyi jesu dak drub kyi
Following in your footsteps
བྱིན་གྱིས་བརླབ་ཕ � �ིར་གཤེགས་སུ་གསོ � ��
jingyi lab chir shek su sol
I pray to you: Come, inspire me with your blessing!
གུ་རུ་པདྨ་སིདྡྷི � �ཧཱུྂ༔
guru pema siddhi hung
【蓮師金剛七句百億共修 ∼ 報名共修】
REGISTRATION LINK
http://www.ptz.cc/baoming/baoming.php...
【重要 | 參加 “蓮師金剛七句百億共修” 問答彙編】
https://m.facebook.com/story.php?stor...
【蓮花生大士心咒】Mantra of Padmasambhawa
https://mobile.facebook.com/story.php...
【蓮師七支祈請文 ∼ 蔣貢康楚仁波切唱誦】
https://youtu.be/OHSGAzBOiNc
【新加坡 慈悲生命協會 每周五共修】
https://www.facebook.com/Compassion.L...
【蓮師永恆的加持 - 百億共修】
https://www.facebook.com/media/set/?s...
Category
Education
License
Standard YouTube License
-
Đạt-Lai Lạt-Ma (達賴喇嘛) / ཏཱ་ལའི་བླ་མ་
-
Ngày 4 tháng Hai năm 1997, vào ban đêm, Lạt-ma Lobsang Gyatso và hai người học trò của ông đã bị đâm đến chết ở gần Dharamsala, Ấn Độ, trú xứ của Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14. Lobsang Gyatso là người ủng hộ quan điểm của Đức Đạt-lai Lạt-ma trong việc loại bỏ tinh linh phẫn nộ Dorje Shugden khỏi danh sách các vị Phật và Bồ-tát được thờ cúng theo truyền thống Mật giáo Tây Tạng. Mặc dù nhóm người ủng hộ việc thờ cúng Dorje Shugden phủ nhận các cáo buộc dính líu, song người ta cho rằng đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự sát hại ba người.
Shugden xuất hiện vào thế kỷ thứ 17, được coi là hóa thân phẫn nộ của Văn Thù Bồ-tát, và là một hộ pháp quan trọng của phái Cách-lỗ (Gelug). Theo truyền thuyết, tinh linh Shugden là hóa thân của nhà sư uyên thâm và có đạo đức tên là Tulku Drakpa Gyaltsen (1619-1655). Tulku Drakpa Gyaltsen là một trong những ứng cử viên cho hóa thân của Đức Đạt-lai Lạt-ma đời thứ năm. Tuy nhiên, một Lạt-ma khác đã được lựa chọn thay thế. Tất cả diễn ra trước khi Đức Đạt-lai Lạt-ma đời thứ năm trở thành người trị vì Tây Tạng vào năm Do vậy, trong suốt thời gian trai trẻ, Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ năm là một hóa thân quan trọng, nhưng không phải là quan trọng nhất của dòng Cách-lỗ. Ngài sinh sống ở tu viện Drepung, tại khu Nhà Dưới, trong khi Tulku Drakpa Gyaltsen sống tại khu Nhà Trên, vì lúc ấy cung điện Potala cũng chưa được xây dựng. Dường như giữa hai người này, hay ít nhất là giữa các đệ tử của họ, có sự cạnh tranh quyết liệt. Cho tới một ngày, Tulku Drakpa Gyalten đánh bại Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ năm trong một cuộc tranh luận. Chẳng lâu sau đó, người ta phát hiện ông đã chết, với một chiếc khăn trắng thít quanh cổ. Hoặc là ông bị ám sát, hoặc là tự tử.
Tiếp theo, một loạt những tai họa liên tiếp xảy ra ở trung tâm Tây Tạng nói chung và đối với Chính phủ Tây Tạng nói riêng. Thậm chí khi Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ năm đang dùng bữa trưa, có một nguồn lực bí ẩn lật tung cả đĩa chén của ngài lên. Cuối cùng thì mọi người cũng xác định được nguyên nhân của những tai họa này là do hồn của Tulku Drakpa Gyaltsen gây ra. Nhiều Lạt-ma và thầy phù thủy được gọi đến để tiêu diệt linh hồn phẫn nộ này. Sau khi tất cả các nỗ lực này thất bại, chính quyền của Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ năm và lãnh đạo cao cấp của dòng Cách-lỗ quyết định xoa dịu linh hồn này, yêu cầu linh hồn không được gây hại và thay vào đó trở thành hộ pháp cho dòng Cách-lỗ. Linh hồn này đã đồng ý, và từ đó Shugden đã trở thành một trong các hộ pháp chính của dòng Cách-lỗ, cho các nhà sư và tu viện của dòng.
Một trong các hoạt động chính của Shugden là bảo vệ dòng Cách-lỗ khỏi các ảnh hưởng của dòng Ninh- mã (Nyingma). Theo vài nguồn thì Shugden sẽ trừng phạt những ai muốn thực hành kết hợp hai dòng này. Việc thờ tự Shugden được khôi phục vào những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ này, do nhà sư nổi tiếng dòng Cách-lỗ là Pabongka (1878-1943) dẫn đầu. Lạt-ma Pabongka là đạo sư của rất nhiều những Lạt-ma quan trọng nhất của dòng Cách-lỗ, bao gồm nổi bật nhất là Trijang Rinpoche (1901-1981) của tu viện Ganden – một thầy phụ của Đức Đạt-lai Lạt-ma hiện tại. Trijang Rinpoche là người ủng hộ việc thờ tự Shugden và bản thân Đức Đạt-lai Lạt-ma hiện tại cũng lồng ghép những lời cầu nguyện Shugden vào phép tu hàng đêm của ngài trong nhiều năm.
Sau khi trốn chạy khỏi Tây Tạng sang Ấn Độ, Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 đã tổ chức và lãnh đạo một chính quyền lưu vong để đại diện cho lợi ích của người Tây Tạng. Bắt đầu từ năm 1976, dựa vào lời khuyên của Nechung Oracle, ngài không tiếp tục xoa dịu Shugden nữa, nói rằng bản thân ngài không tán thành phép thực hành này và không muốn bất kỳ ai có liên hệ với ngài, cho dù là đệ tử hay thành viên của chính phủ, thờ tự công khai Shugden. Ngược lại với quan điểm của rất nhiều nhà sư dòng Cách-lỗ, Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 nói rằng Shugden không phải là một vị Phật hay hóa thân của Tulku Drakpa Gyaltsen, mà chỉ là một vị thần thông thường, thậm chí còn là một tinh linh hắc ám, nếu thờ tự sẽ gây ra sự chia rẽ trong cộng đồng người Tây Tạng lưu vong và do vậy đi ngược lại với những mục tiêu hoạt động của Chính phủ Tây Tạng. Việc Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 không chấp nhận Shugden nữa đã gây ra một sự bất đồng lớn trong cộng đồng Cách- lỗ, nơi mà việc thờ tự Shugden còn rất mạnh.
Năm 1996, Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 lại tiếp tục chứng tỏ sự bất tán thành của ngài về việc thờ tự Shugden. Ngài không làm quán đỉnh cho những ai chưa từ bỏ Shugden, vì lo rằng nếu làm vậy sẽ tạo ra sợi dây liên hệ tiêu cực, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của ngài. Những người ủng hộ Shugden cáo buộc rằng tượng của Shugden đã bị những người ủng hộ Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 phá hủy và các nhà sư bị gây áp lực phải ký cam kết không được thờ tự Shugden. Ngày 15/7/1996, chính quyền lưu vong Tây Tạng đã có một tuyên bố có nội dung như sau:
“Các bộ ngành chính phủ, cũng như các tu viện dưới sự quản lý hành chính của Chính quyền Trung ương Tây Tạng bị cấm hoàn toàn việc xoa dịu tinh linh này. Cá nhân từng người Tây Tạng phải được thông tin về việc không khuyến khích sự xoa dịu này, nhưng được tự do quyết định việc thờ tự”.
Tuy nhiên nghị quyết này cũng yêu cầu những người xoa dịu tinh linh này không được tham dự các khóa giảng Mật tông của Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14.
Chính phủ lưu vong Tây Tạng yêu cầu tu viện trưởng tu viện Sera, một trung tâm thờ tự Shugden truyền thống, cung cấp danh sách tên của tất cả các nhà sư hiện còn thờ tự Shugden. Người Giữ Ngai vàng của Ganden, lãnh đạo của dòng Cách-lỗ (do Đức Đạt-lai Lạt-ma bổ nhiệm), đã có một tuyên bố qua đó lên án việc thờ tự Shugden. Về những nhà sư phê phán việc Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 chối bỏ Shugden, ngài nói họ “dành thời gian cho việc xây dựng những âm mưu nguy hiểm và thực hiện những hành vi xấu xa, gần như hành động tấn công các tu viện bằng gươm và giáo và làm tấm áo cà-sa của Phật vấy máu”.
Một trong những nhà sư lên án nghị định của Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 là Geshe Kelsang Gyatso, một nhà sư của tu viện Sera sáng lập ra truyền thống Kadampa Mới (NKT ) ở Anh. Sinh năm 1932 ở Tây Tạng, Kelsang Gyatso đã viết rất nhiều các bài về thực hành Đại thừa và Kim Cương thừa dưới quan điểm của phái Cách- lỗ. Cũng giống như nhiều Lạt-ma dòng Cách-lỗ tới các nước phương Tây (bao gồm Geshe Rabten, Gelek Rinpoche, và Geshe Gyaltsen), Geshe Kelsang Gyatso là một học trò của Trijang Rinpoche, người đề cao tầm quan trọng của việc thờ tự Shugden. Geshe Kelsang Gyatso tiếp tục xoa dịu Dorje Shugden thành một hộ pháp cho truyền thống Kadampa. Mùa hè năm 1996, các học trò của Kelsang Gyatso lên án Đức Đạt-lai Lạt- ma thứ 14 vì vi phạm quyền tự do tôn giáo, và biểu tình phản đối ngài khi ngài sang thăm Anh Quốc.
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 đã liên tục bày tỏ quan điểm rằng Shugden chỉ là một tinh linh thông thường, không phải là một vị Phật hay hộ pháp. Mặc dù ngài đã từng thực hành Shugden, song đã chấm dứt từ năm 1975, sau khi phát hiện ra những vấn đề lịch sử, xã hội, và tôn giáo quan trọng liên quan tới Shugden. Theo ngài, có ba nguyên nhân chính như sau:
– Sự nguy hại của việc biến Mật giáo Tây Tạng thành một hình thức thờ cúng tinh linh. Mật giáo Tây Tạng phát triển từ một truyền thống cổ xưa chân chính của đạo Phật mà trường tu Nalanda của Ấn Độ gìn giữ. Truyền thống này bao hàm những bài giảng chính thống từ Phật tổ được xây dựng dựa trên những kiến thức uyên thâm về triết học, tâm lý học và tôn giáo của những bậc Thượng sư Phật giáo như Long Thọ, Asanga, Vasubandhu, Dignaga và Dharamakirti. Vấn đề với việc thực hành Shugden là nó sẽ gây ấn tượng là thực hành một tinh linh chứ không phải là một hộ pháp. Nếu xu hướng này tiếp diễn mà không được kiểm soát, và những người ngây thơ bị những phép thực hành mang tính tập tục này cám dỗ thì sẽ gây ra rủi ro là truyền thống giàu có của Mật giáo Tây Tạng có thể bị thoái hóa thành một dạng xoa dịu các tinh linh.
– Chướng ngại đối với việc phát triển xu hướng bất bộ phái: Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 thường nói rằng một trong những cam kết quan trọng của ngài là đẩy mạnh sự hiểu biết và hòa hợp giữa các tôn giáo khác nhau. Một phần trong các nỗ lực này là ngài cam kết khuyến khích xu hướng bất bộ phái trong tất cả các trường phái của Mật giáo Tây Tạng. Theo cam kết này, Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 noi gương những người tiền nhiệm của ngài, đặc biệt là Đức Đạt-lai Lạt-ma đời thứ năm và đời thứ 13. Xu hướng bất bộ phái không chỉ giúp làm giàu thêm cho tất cả các trường phái của Tây Tạng mà còn giúp ngăn chặn sự phát triển của xu hướng bộ phái, gây ảnh hưởng tới truyền thống Tây Tạng nói chung. Đã xảy ra rất nhiều cái chết của những nhà sư Cách-lỗ khi muốn tu tập theo trường phái Ninh-mã. Với những bằng chứng liên hệ thờ tự Shugden với xu hướng bộ phái, việc thực hành Shugden sẽ là một cản trở lớn trong việc nuôi dưỡng tinh thần bất bộ phái trong truyền thống Mật giáo Tây Tạng.
– Đặc biệt không phù hợp với hoàn cảnh xã hội của Tây Tạng: Xoa dịu Shugden gây ra rất nhiều vấn đề, đặc biệt trong bối cảnh vốn đã khó khăn của người Tây Tạng. Những nghiên cứu viết và truyền miệng cho thấy tinh linh Shugden xuất hiện từ sự bất hòa với Đức Đạt- lai Lạt-ma đời thứ năm và chính quyền của Ngài.
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 đã mạnh mẽ kêu gọi các môn đồ của ngài xem xét cẩn thận vấn đề thực hành Shugden trên căn bản của ba lý do này và hành xử một cách phù hợp. Ngài đã tuyên bố rằng, là một nhà lãnh đạo Phật giáo với mối quan tâm đặc biệt về dân chúng Tây Tạng, ngài có trách nhiệm phải phản đối những hậu quả tai hại của loại sùng bái tinh linh này. Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 nói rõ rằng lời khuyên của ngài có được lưu ý hay không lại là việc của mỗi người. Tuy nhiên, bởi bản thân ngài cảm nhận mạnh mẽ về sự tiêu cực của thực hành này, ngài đã yêu cầu những ai tiếp tục xoa dịu Shugden đừng tham dự những khóa giảng Mật giáo chính thức của ngài.
T ham khảo:
http://www.dalailama.com/messages/do...oliness-advice
Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 190
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
Nhiều học viên thỉnh cầu quán đảnh thường chỉ vì những mục đích thường tục. Họ hi vọng sẽ được bảo vệ khỏi những hiểm hoạ bệnh tật hoặc ám chướng ma quỷ, để được thăng chức, được mến mộ, thêm tài vượng hay tuổi thọ. Nhiều người nhận quán đảnh chỉ vì muốn thể hiện, để được xem như một thành viên của một cấp độ tu tập nào đó. Có thể họ mặc một loại pháp phục đặc biệt, mang chuỗi hạt trong tay, hay đội một chiếc mũ chóp nhọn, nhưng thực chất mục tiêu của họ không phải là để áp dụng những giáo lý này. Một số người tham gia lễ quán đảnh để tìm bạn trai hay bạn gái, một vài người tới vì tò mò xem vị đạo sư là ai, trông như thế nào, bao nhiêu người tham gia, họ mặc cái gì v.v... Một vài người tới với mục đích giải trí, như thể lễ quán đảnh là một vở diễn kịch. Không có lợi lạc gì nhiều cho những động cơ như vậy.
Trích “The Bardo Guidebook” của Chokyi Nyima Rinpoche – NXB Rangjung Yeshe 1991
Ảnh : Chökyi Nyima Rinpoche tại Tu viện Trắng (Ka-Nying) © Risto Kuulasmaa
( https://www.facebook.com/RANGJUNGYESHEVIETNAM/ )
-
Quán Đảnh và Điểm Đạo Đức Phật Dược Sư. Người tham dự được yêu cầu nên ăn chay trong ngày tham dự. Trước khi vào đạo tràng, người tham dự còn được cho súc miệng bằng một ly nước màu nâu, dùng nước nầy súc miệng và thoa lên đầu đầu để làm sạch “thân khẩu ý”.
( http://huongdanphattu.vn/news/Tim-hi...he-Tulku-1176/ )
-
-
-
-
-
-
Ogyen Trinley Dorje, Đức Karmapa thứ 17 của trường phái Karma Kagyu, một hệ phái thuộc Phật giáo Tây tạng, đang hướng đến việc phục hồi Phạn ngữ, ngôn ngữ trong một số kinh điển Phật giáo cổ được viết tại Ấn độ trước khi tôn giáo này truyền bá đến Tây tạng.
Vị Karmapa, người đứng đầu trường phái Karma Kagyu của Phật giáo tại Ấn độ, đã tiến hành việc tụng kinh sáng bằng Phạn ngữ.
“Trong năm 2010, đức Karmapa thứ 17 đã truy tầm văn bản nguyên thủy bằng Phạn ngữ của thể nhạc “doha” được viết ra bởi một đại nhân Ấn độ người mà giáo pháp được truyền thừa trong dòng Karma Kagyu,” tài liệu được cung cấp từ văn phòng đức Karmapa cho biết.
“Sau khi tìm được hai bộ văn kinh quý, Ngài đã đặc phái một học giả âm nhạc người Ấn độ R. S. Nanda Kumar, người đã làm hồi sinh nền âm nhạc cổ truyền của Ấn độ, phổ nhạc theo hình thức những bài hát "doha" cổ truyền một cách trung thực hết mức. Kết quả của sự cố gắng này là hai bài hát "dohas" đã được Nanda Kumar trình bày.
Trong khi một bài là chứng đạo ca của Saraha, vị tổ của dòng Karmapa, bài kia là của Tilopa, một đại nhân khác trong dòng Karma Kagyu.
"Trong toàn bộ cuộc nghiên cứu, chúng tôi tìm ra thể nhạc "Chứng đạo ca" xuất xứ từ Đông Ấn có liên hệ trực tiếp với Phật giáo. Nó được du hành xuyên suốt miền Nam từ vương quốc Ma kiệt đà," nhạc sĩ kiêm ca sĩ Nanda Kumar cho biết.
Phần lớn những bài ca cổ truyền đều được viết bằng Phạn ngữ.
Trong thế kỷ thứ 8, " dwipadì " và " dwipathaka" là hai thể nhạc đạo khác cũng được hát. Chúng giống như thể nhạc "doha." Tuy nhiên dohas lại khác hơn chứng đạo ca.
Theo sử liệu, những bài chứng đạo ca Phật giáo đều được hát qua thể thơ dưới nhiều hình thức khác nhau như mật tông, chứng đạo ca, và nhạc doha (song đối) Nhạc doha chính ra là những bài ngụ ngôn được trình diễn dưới dạng vần và đối; nhạc mật tông thì đứng riêng biệt trong khi chứng đạo ca căn bản chỉ là mật khải.
-
-
-
Đây là câu chuyện về những điều cần thiết để thọ nhận Phật pháp thanh tịnh, và [lý do] vì sao cần phải như vậy. Câu chuyện được kể bởi Ngài Phó dòng Garchen Rinpoche, bậc thầy đã bị giam cầm trong khoảng cuối thập ky 50 đến đầu thập kỷ 80 của thế kỉ trước. Trong số những người bạn tù của Ngài có Sangye Tenzin Rinpoche thuộc dòng Karma Kagyu – đạo sư của Ngài Karmapa 17, Adeu Rinpoche dòng Drukpa Kagyu – vị tulku có ảnh hưởng lớn nhất ở vùng Thanh Hải, và Khenpo Munsel (1916 - 1993). Cùng với Garchen Rinpoche – 1 vị thầy của dòng Drikung Kagyu, đây đều là các vị đạo sư vĩ đại.
Mặc dù tất cả thực hành tôn giáo đều bị ngăn cấm triệt để trong tù, Garchen Rinpoche vẫn mạo hiểm khẩn cầu giáo pháp Đại Viên Mãn từ Khenpo Munsel. Sau đó, Ngài Khenpo đã từ bi chấp thuận, với điều kiện Garchen Rinpoche phải dâng lên một ít vàng. Trong hoàn cảnh mọi người đều bị giam cầm và vàng dường như là vô nghĩa với các Ngài, tại sao Khenpo Munsel vẫn nhấn mạnh về yêu cầu đó?
Không ai dám hỏi. Truyền thống đào tạo trong tu viện Tây Tạng đòi hỏi đệ tử tuân theo bất kể điều gì bậc thầy chỉ dạy, không có thắc mắc. Thông thường, vị thầy sẽ thực hiện theo các bản văn mà không giải thích gì. Tuy vậy, Garchen Rinpoche cũng tìm được 1 chiếc đồng hồ cũ có vài bộ phận bằng vàng. Ngài hoan hỷ dâng lên Khenpo. Khenpo rất hài lòng và đồng ý giảng dạy giáo pháp Đại Viên Mãn.
Tuy nhiên, sau khi kết thúc phần dâng cúng mandala với lễ vật bằng vàng, Khenpo Munsel đã ném lễ vật ra bên ngoài bức tường của nhà tù. Mọi người đều thấy hoang mang vì điều này. Khenpo Munsel liền giải thích: “Chúng ta là tù nhân nên không cần vàng. Tuy vây, vàng là thứ thanh tịnh nhất trên thế giới. Cũng như vậy, giáo pháp Đại Viên Mãn thật thanh tịnh, hoàn mỹ, toàn hảo. Chúng ta cần vàng để tạo ra những nhân duyên tốt lành, nhờ vậy chúng ta có thể hy vọng giáo pháp Đại Viên Mãn sẽ được tiếp tục truyền trao không gián đoạn.”
Đó là lý do mà trong quá khứ, người ta thường mang những thức quý giá nhất để cúng dường khi thỉnh cầu giáo pháp. Ví dụ, một người phải có ít nhất 100 bộ lễ vật mới đủ điều kiện để khẩn cầu nghi lễ “Đội mũ miện Đen” của Ngài Karmapa. Tất cả đều nhằm tạo ra những nhân duyên tốt lành. Với những đệ tử chúng ta, điều quan trọng phải ghi nhớ trong tâm là: không có công đức, không có Phật pháp thanh tịnh.
-
BÀI CẦU NGUYỆN MONG ƯỚC NHANH CHÓNG THÀNH TỰU
( https://vi-vn.facebook.com/Ngagyur-N...0526741759245/ )
Emaho! Tuyệt vời thay!
Trên đài của đóa hoa sen mọc giữa hồ,
Viên thành Phật quả đủ năm thân Trí tuệ,
Tự tánh quảng đại Liên Hoa Phụ Mẫu Tôn,
Cùng các Không Hành nhiều như mây vi nhiễu,
Xin ban ân phước nguyện ước nhanh thành tựu.
Làm các việc ác, quả báo chín khó lường,
Bệnh tật, chiến loạn, nạn đói thi nhau khởi,
Nhớ Thánh dung Ngài các nạn đều tiêu trừ,
Chí thành đảnh lễ dưới chân Đấng Ôgien,
Xin ban ân phước nguyện ước nhanh thành tựu.
Tín tâm, trì giới, bố thí, vui việc lành,
Nghe kinh hiểu ý, biết sanh lòng hổ thẹn,
Trí tuệ viên mãn, là bảy công đức báu,
Tự nhiên dung nhập vào trong tâm chúng sanh,
An ủi cho họ hạnh phúc tại thế gian,
Xin ban ân phước nguyện ước nhanh thành tựu.
Những ai bị bệnh, đau khổ không mong muốn,
Quỷ mỵ quậy phá, ma vương làm tổn hại,
Lửa, gió, thú dữ, đường hiểm gây sợ hãi,
Tất cả nghịch cảnh khiến mạng sống hiểm nguy,
Không có chỗ nào nương tựa và bảo hộ,
Hãy nhờ lòng từ Đấng Thượng Sư Ô-ghen,
Xin ban ân phước nguyện ước nhanh thành tựu.
http://s1.upanh123.com/2016/12/05/12...652_nd031d.jpg