http://phimhotnhat.net/xem-video/video-le-via-thanh-minh-co-mieu.-qfd5seEhW8"]http://phimhotnhat.net/xem-video/vid...eu.-qfd5seEhW8[/URL]
Printable View
Chùa Ông - Chùa Ông Bổn.
Nhị Phủ miếu (Chùa Ông Bổn). Ảnh Internet.
Người bạn hỏi thỉnh thoảng ghé mấy ngôi chùa của người Hoa trong Chợ Lớn, chùa của họ quen gọi là chùa Ông, chùa Bà. Chùa Ông thờ Quan Công, chùa Bà thờ Bà Thiên Hậu, nhưng cũng có một ngôi chùa thờ "Ông Bổn Đầu Công" gọi là chùa Ông Bổn, hình như không phải thờ Quan Công?
Ngưởi bạn nói đúng, ở Sài Gòn mà tập trung trong Chợ Lớn có khá nhiều ngôi chùa của người Hoa (cũng còn được gọi là miếu hoặc hội quán). Những ngôi chùa này phổ biến thờ Quan Công, dân gian quen gọi là chùa Ông, và thờ bà Thiên Hậu, quen gọi là chùa Bà.
Như đã biết, ta thường thấy chùa Ông thờ Quan Công, tức Quan Vũ, Quan Vân Trường, một nhân vật thời Tam quốc nổi tiếng về võ dõng, chính trực, nghĩa khí, cũng còn được gọi là Quan Đế, được tôn vinh như bậc thánh. Ông được mệnh danh là một trong "Trung Hoa thập thánh"* và "Tam Quốc tứ tuyệt"**.
Trong Chợ Lớn còn có một ngôi chùa của người Hoa khác tọa lạc tại số 264 Hải Thượng Lãn Ông, quận 5 có tên là chùa Ông Bổn, còn gọi là Nhị Phủ miếu. Trước hết xin nói về tên gọi Nhị Phủ miếu, bởi xưa ngôi miếu này do di dân gốc ở hai phủ Chương Châu và Tuyền Châu thuộc tỉnh Phúc Kiến - Trung Hoa xây dựng. Xưa người Hoa ở Chợ Lớn được chia thành 5 bang theo tiếng nói là Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam, Hẹ. Nhị Phủ miếu là hội quán của người Phúc Kiến, mỗi bang như vậy họ tổ chức rất tốt về đời sống và tinh thần, họ có chùa (hội quán), có bệnh viện, trường học (tiểu học và trung học)... để lo cho người trong bang.
Về tên gọi Ông Bổn, theo cụ Vương Vương Hồng Sển viết trong Sài Gòn năm xưa thì Ông Bổn là Thái giám Trịnh Hòa đời Vĩnh Lạc (1403 - 1424), được vua sai dùng thuyền đi khắp miền Đông Nam Á ban bố văn hóa Trung Hoa, và nhân tiện mua về cho vua kỳ trân dị bửu của các nước đó. Trịnh Hòa là một nhà du lịch, ngoại giao, địa lý, ngôn ngữ... giỏi, đi đến đâu ông cũng ban ơn thí đức, đưa người Tàu đến lập nghiệp. Đến khi ông mất dân Hoa kiều nhớ ơn thờ làm phúc thần, vua sắc phong cho ông là "Tam Bửu Công", cũng gọi là "Bổn Đầu Công" (giọng Tàu là Bủn Thầu Cúng), gọi tắt là Ông Bổn.
Ở một quyển sách khác, quyển Một Số Cơ Sở Tín Ngưỡng Dân Gian của Sở văn Hóa và Thông Tin TP. HCM & Ban Quản Lý Di Tích Lịch Sử Văn Hóa và Danh Lam Thắng Cảnh, in năm 2000 (nhiều tác giả). Trong đó có bài viết về Nhị Phủ miếu của Nguyễn Thị Minh Lý trích dẫn theo sách Gia Định thành Phật tích khảo cổ, bản chữ Hán lưu ở miếu Nhị Phủ (Lý Văn Hùng), và sách Người Hoa ở Việt Nam, Sài Gòn 1963 (Thi Đạt Chí), chép Bổn Đầu Công thờ ở miếu Nhị Phủ là Châu Đạt Quan, một viên quan sống vào thế kỷ XVIII (lưu ý sách viết thế kỷ XVIII) ở Trung Quốc, từng đi sứ đến nhiều nước ở Đông Nam Á, trong đó có vùng đất phía nam Việt Nam. Ông còn là nhà nghiên cứu lịch sử, dân tộc học... là tác giả quyển "Chân Lạp phong thổ ký".
Theo hai quyển sách trên, thì Ông Bổn là hai nhân vật khác nhau, một người là Thái giám Trịnh Hòa sống ở thế kỷ thứ XV, một người là Châu Đạt Quan sống dưới triều vua Thành Tông (1295 - 1308), trong sách Một Số Cơ Sở Tín Ngưỡng Dân Gian đã dẫn bên trên ghi ông sống ở vào thế kỷ XVIII là không đúng. Trong Lời nói đầu của sách Chân Lạp phong thổ ký của ông (Kỷ Nguyên Mới - Saigon 1973) ghi nhận Châu Đạt Quan sống dưới triều vua Thành Tông (1295 - 1308), tức là vào cuối thế kỷ XIII sang thế kỷ XIV trước cả Trịnh Hòa (thế kỷ XV).
Vài nét về sự khác biệt giữa Chùa Ông và Chùa Ông Bổn của người Hoa trong Chợ Lớn.
Tham khảo:
- Những sách đã dẫn.
Ghi chú:
* Trung Hoa thập thánh:
1- Văn Thánh Khổng Tử (nhà tư tưởng thời Xuân Thu);
2- Binh Thánh Tôn Vũ (nhà quân sự thời Xuân Thu);
3- Sử Thánh Tư Mã Thiên (nhà sử học thời Tây Hán);
4- Y Thánh Trương Trọng Cảnh (lang y thời Đông Hán);
5- Võ Thánh Quan Vũ (tướng lĩnh thời Đông Hán-Tam Quốc);
6- Thư Thánh Vương Hi Chi (nhà thư pháp thời Đông Tấn);
7- Họa Thánh Ngô Đạo Tử (họa sĩ thời Đường);
8- Thi Thánh Đỗ Phủ (nhà thơ thời Đường);
9- Trà Thánh Lục Vũ (nhân vật thời Đường);
10- Tửu Thánh Đỗ Khang (nhân vật thời Chu).
** Tam Quốc tứ tuyệt:
1- Tuyệt nhân: Lưu Bị.
2- Tuyệt trí: Khổng Minh Gia Cát Lượng.
3- Tuyệt nghĩa: Quan vân Trường.
4- Tuyệt gian: Tào Tháo.
Bài cùng chủ đề:
Không có bài viết liên quan →
Được đăng bởi Ngọc Hiệp
https://ngochieppham.blogspot.com/20...a-ong-bon.html
https://www.youtube.com/watch?v=u5-5DnmfFlE
01 Vía Ông Bổn 2016
Chùa Ông Bổn - Nhị Phủ Hội Quán - Kiên Giang
Phước Đức cổ miếu: Một di tích kiến trúc nghệ thuật độc đáo của người Hoa ở Bạc Liêu26-04-2012
Di tích Phước Đức cổ miếu (còn gọi là chùa Bang) tọa lạc tại số 74 (đường Điện Biên Phủ, phường 3, TP. Bạc Liêu). Toàn bộ ngôi miếu là một kiến trúc nghệ thuật quy mô và hoàn mỹ từ đầu kèo, đầu xiên cho đến các linh thú, hoa văn trên các khánh thờ đều được chạm khắc tinh tế. Đây là ngôi miếu lâu đời nhất của người Hoa sống ở Bạc Liêu, bàn thờ chính thờ Ông Bổn – vị thần được coi là có công khai hoang đất đai và phù trợ cho mọi người sinh cơ lập nghiệp có cuộc sống an lành.
Phước Đức cổ miếu được xây với lối kiến trúc đặc biệt theo cấu trúc của người Hoa cổ. Mỗi bộ phận trong miếu là một cổ vật có giá trị nghệ thuật cao bởi chúng đã tồn tại trên 100 năm. Những tấm biển bằng đá, bằng gỗ khắc chữ Hán mạ vàng cũng là những tác phẩm có giá trị được chạm khắc sắc xảo theo lối viết Hành thư và Khải thư trông rất uy nghiêm và hùng mạnh.
Các tác phẩm nghệ thuật ấy đã được các nghệ nhân liên kết với nhau một cách hài hòa và chặt chẽ tạo thành một kiến trúc độc đáo. Với giá trị nghệ thuật ấy, Phước Đức cổ miếu đã được Bộ VH-TT (nay là Bộ VH-TT&DL) công nhận là di tích lịch sử văn hóa.
Đây không chỉ là nơi thờ phụng mà còn là địa điểm dạy Hoa ngữ cho con em người Hoa (Triều Châu). Đến với nơi này, du khách sẽ được thưởng thức những nét đẹp thuộc về bản sắc văn hóa của người Hoa ở Bạc Liêu.
(Baobaclieu)
Trong hình ảnh có thể có: 1 người
Người Hoa Sóc Trăng - 朔庄華人
27 Tháng 2 2015 ·
福德正神
Đất nước Trung Quốc từ xưa lấy nông nghiệp làm gốc, cho nên trăm họ đều coi trọng đất đai, vì có đất mới có thể sản xuất ra ngũ cốc để ăn mà sống. Vì thế, đối với đất đai có sự biết ơn rất lớn, từ đó, sinh ra tâm lý sùng bái và sáng tạo ra một vị thần đất để thờ phụng. Thổ Địa Công hiện hữu là như vậy.
*Đời nhà Châu, cứ 25 nhà thì gọi là một xã. Mà đã lập ra xã, thì hàm nghĩa là đã có “đất”. Thế nên sau khi lập thành xã, thờ vị thần đất gọi là “Thổ Địa Công”. Mỗi xã lập ra một cái “đàn” để cúng Thổ Địa, cầu cho trúng mùa no ấm.
*Theo truyền thuyết thì Thần Hậu Thổ là vị chưởng quản hết tất cả đất đai chung cả nước, vậy Thổ Địa Công là vị coi sóc vùng đất nhỏ của địa phương nào đó. Phàm người lúc sống mà có công đức với vùng đất nào đó, thì khi chết được phong làm Thần Thổ Địa. Sở dĩ Thổ Địa được tôn xưng là “Phước Đức Chính Thần” là vì lúc xưa, các tụ lạc gọi là “Xã” và gọi thần Thổ Địa là “Xã Công”.
Lúc mới bắt đầu thờ thì còn rất là trừu tượng, về sau mới nhân cách hóa bằng hình ảnh hai vợ chồng, gọi là Xã Công và Xã Mẫu, cũng gọi là “Thổ Địa Công” và “Thổ Địa Bà”. Đó là vị thần tượng trưng cho đạo nghĩa của đất nước. Vì thế, Thổ Địa là vị thần đứng đầu trong hàng các thần được thờ cúng.
*Ngày xưa, việc cúng tế trời đất chỉ dành riêng cho vua chúa mới được cúng , gọi là “Xuân Thu nhị tế” (cúng vào hai mùa Xuân Thu). Do đó, dân gian mới tạo ra hình tượng Thổ Địa Công để nói lên sự biết ơn đối với đất đai trồng trọt mà khỏi phạm vào luật cấm của vua quan.
Trung Quốc theo nông nghiệp là chính, nên trước khi vào vụ trồng cấy, cúng vái Thổ Địa phù hộ cho trúng mùa, đến lúc thu hoạch thì cúng Thổ Địa để tạ ơn được mùa. Lần đầu cúng gọi là “Xuân kỳ”, lần sau cúng gọi là “Thu báo”.
-Ngày xưa, lễ “Thu báo” thường là vào ngày rằm tháng tám, tức là lúc đã thu hoạch xong mùa vụ, vừa cúng tạ ơn trúng mùa, vừa cầu xin phước lộc với Ngài “Thổ Địa Công”. Có lẽ đây là nguồn gốc của Tết Trung Thu ngày nay vậy.
*Việc sùng bái Thổ Địa phát triển mạnh vào thời Minh Thái Tổ. Theo “Lang Nha Mạn Sao” nói rằng, Minh Thái Tổ sinh ra đời trong một cái Miếu Thổ Địa, cho nên thời nhà Minh, số lượng Miếu Thổ Địa tăng rất nhiều, không nơi nào là chẳng có.
*Việc tạo ra hình tượng Thổ Địa Công cũng nói lên được những nét đặc thù về chức trách của Ngài. Đó là một ông già râu tóc bạc trắng, tay cầm gậy tượng trưng cho sự gìn giữ đất, một tay cầm khối vàng hoặc ngọc như ý, là nói đây là Thần Tài của vùng đất. Nếu nơi nào có được những người đỗ đạt trạng nguyên, tiến sĩ (ngày nay là hương trưởng, huyện trưởng) thì Thổ Địa nơi đây có thêm chiếc “mão quan”.
*Trong dân gian, ngoài việc thờ Thổ Địa Công làm thần đất, còn thờ thêm Tài Thần và Phúc Thần, vì dân gian tin rằng, hễ “có đất là có tiền”, do đó, Thổ Địa Công được các thương gia tôn làm “thần thủ hộ”.
Truyền thuyết nói rằng,Ngài ngoài chức trách giúp cho nông dân trúng mùa, còn thêm chức năng trấn yểm quỉ thần, giải trừ xua đuổi ác ma. Vì thế, dân gian hay đến miếu để thỉnh Ngài về nhà trừ tà ma yêu quái. Về sau mới phát triển dần đến việc mỗi nhà đều có thờ “Ngũ Thần” trong đó có Thổ Địa Công.
Còn nhà nào không thờ Thổ Địa thì mỗi tháng vào ngày mùng hai và mười sáu. Bày hương án ra trước cửa cúng vái Thổ Địa Công, từ đó hình thành tập quán cúng Thổ Địa vào hai ngày sau ngày sóc (mùng 1) và ngày vọng (ngày rằm) (tức là ngày mùng 2 và ngày 16) (*Ngày nay trở thành cúng cô hồn chiến sĩ-ND)
*Hình tượng thờ Thổ Địa thường là một vị đầu đội mão, hai bên mão có hai tua phủ xuống đến vai. Mặt vuông mà đầy đặn, hai mắt hơi híp, tóc bạc râu dài bạc, dáng dấp hiền hòa dễ thương. Mình ngồi ghế “thái sư”, tay phải cầm ngọc như ý hoặc cầm trượng, tay trái nắm “khối vàng”, hai vai là đầu và đuôi rồng thêu trên áo lộ ra, bụng to nổi lên rất đẹp, hai chân buông xuống theo thế tự nhiên. Trong ý tưởng của dân gian hai âm “phúc” (bụng) và “phúc” (trong phúc đức) là giống nhau, cho nên người ta dùng hình tượng “bụng to” để nói lên sự “được phúc lớn”.
*Truyền thuyết về Thổ Địa Công rất nhiều :
* Phước Đức Chính Thần họ Trương tên Phước Đức, sanh vào ngày mùng hai tháng hai đời Chu Vũ Vương năm thứ hai. Từ nhỏ, tỏ ra thông minh và rất hiếu thảo. Đến năm 36 tuổi, làm quan thâu thuế của triều đình. Ông rất liêm chính, thương xót bá tánh khổ sở, nên đã tâu xin giảm nhiều hạng mục thuế vụ, dân chúng rất sùng kính.
Đến năm thứ ba đời Chu Mục Vương thì từ trần, thọ một trăm lẻ hai tuổi. Chết đã ba ngày mà mặt không đổi sắc, có một nhà nghèo kia đem bốn tảng đá lớn xây thành ngôi nhà bằng đá để thờ phụng ông. Chẳng bao lâu sau, nhà nghèo kia trở nên giàu có, mọi người đều tin là do thần ân hộ trì, nên chung lại mà xây thành Miếu Thờ , lễ lạy kim thân Ngài.
Những người buôn bán thường đến cúng bái, được Ngài gia hộ nhiều may mắn. Vị quan thâu thuế thay Ngài rất tham lam, bóc lột nhân dân thậm tệ, ai nấy rất oán giận. Do đó, người ta tưởng nhớ đến lòng tốt của Trương Phước Đức thêm nhiều, và miếu thờ của Ngài trở thành Miếu Thờ “Phước Đức Chính Thần”.
*Lại có một truyền thuyết khác, vào đời Thương ,Chu, vị quan thượng đại phu ở triều đình, trong nhà có một tên đày tớ họ Trương tên Minh Đức. Người con gái nhỏ của quan đại phụ nhớ cha, nhờ người đày tớ họ Trương nầy ẳm đi thăm cha. Nhưng trên đường xa, ngày nọ bổng trời đổ tuyết xuống rất nhiều, đứa con gái nhỏ sắp chết cóng, nhưng nhờ họ Trương xả thân lấy hết quần áo ủ ấm cho bé gái thoát chết, còn bản thân anh ta thì bị chết vì lạnh lúc quay trở về nhà.
Khi người nghĩa bộc vừa chết, trên không trung bổng hiện ra tám chữ “Nam Thiên Môn Đại Tiên Phước Đức Thần”. Mọi người lấy làm kinh dị, cho rằng thiên đình đã phong chức cho người nghĩa bộc họ Trương . Còn vị quan đại phu cảm niệm ơn đức cứu mạng con mình, dã cho xây Miếu Thờ. Đến đời Chu Vũ Vương được người đời tặng là “Hậu Thổ”, cho nên Thổ Địa Công mới có danh hiệu “Phước Đức Chính Thần”.
*Cũng có truyền thuyết nữa là, vua Tần Thủy Hoàng bạo ngược, bắt dân xây dựng Vạn Lý Trường Thành, người chồng của nàng Mạnh Khương tên Hàn Kỷ Lang cũng bị bắt đi làm xâu (sưu), chẳng may bị chết dưới thành. Nàng Mạnh Khương đi tìm xác chồng nhưng không gặp, liền khóc đến nổi lật cả tường thành lên, hiện ra vô số bộ xương người, không có cách nào biết được xương của ai.
Có một lão ông xuất hiện bảo:-“Trích máu của người vợ nhỏ vào xương, nếu xương nào hút máu cực nhanh, thì đó là xương của chồng. Nếu tìm được xương của chồng cô rồi, tôi nguyện làm người giữ mộ”. Nàng Mạnh Khương nghe theo, quả nhiên nhận ra hài cốt của chồng, cùng ông lão đem chôn cất. ông giữ lời hứa, ở mãi nơi đó giữ mộ đến cuối đời. Từ đó có truyền thuyết về “hậu thổ” là vì thế.
*Trong sách “Lễ Ký—Giao Đặc Tính” có ghi:- “Người gia chủ là “trung lựu” , tức là người đứng đầu của “xã” (làng)” (Thần Trung Lựu tức là Thổ Thần).
*Sách “Lã Thị Xuân Thu—Mạnh Đông Ký” chép:- “Nầy là tháng tốt, từ công xã đến xóm ấp, hưởng “ngũ kỷ” của tổ tiên” (Ngũ kỷ gồm:- Mộc là thần Câu Mang, cúng để giữ nhà, Hỏa là thần Chúc Dung, cúng để giữ bếp, Thổ là Hậu Thổ, cúng thần Trung Lựu (hậu thổ tức là “xã”), Kim là thần Nhục Thu, cúng để giữ cửa, Thủy là thần Huyền Minh, cúng để giữ giếng).
*Sách “Bạch Hổ Đạo Nghĩa” nói rằng:- “Ngày xưa, từ thiên tử đến thứ dân, ai cũng được phong đất để lập ra “xã”, lấy phước của người ấy mà báo công. Người mà không đất thì không thể lập ra “xã”, không có ngũ cốc thì chẳng có cái để ăn, cho nên phong đất lập “xã” ắt phải có Thổ Địa vậy” Hoặc :-“Xã tức là Thần Thổ Địa vậy”, Hậu thổ của người gọi là “Xã Thần” hay “Thổ Thần”.
*Trong “Thần Dị Điển—Xã Tắc chi thần Tổng bộ luận” có nói:- “Bậc tiên nho cúng tế Thần Ngũ Thổ tại mỗi “xã”. Ngũ Thổ là:- một là rừng núi, hai là sông ngòi, ba là gò đống, bốn là sình lầy, năm là đồng bằng. Đời nhà Minh gọi “xã” tức bây giờ gọi Thổ Địa. Phàm ở chỗ có đất, người mới nương tựa được, nên phải cúng đất”.
Cho nên, bất cứ nơi nào cũng phải có “Xã Thần”, bởi vì dù lớn như một nước, nhỏ như một địa phương, nếu chẳng luận đến tôn ti trật tự thì không thể tồn tại được”. Lại nói thêm :- “Đầu ruộng đuôi ruộng đều là của Thổ Địa Công” để thể hiện sự tôn kính đối với thần xã. Thưở ban sơ, vị nào đến một nơi hoang vu để khai phá, cũng hết sức vất vả khổ sở và chịu nhiều hiểm nguy mới biến thành đất bằng, tạo nên làng xã. Những vị nầy rất xứng đáng được người sau tôn thờ làm Thổ Địa Công lắm vậy !
*Sách Hiếu Kinh Vĩ nói:- “Thần xã tức là sao Khuê của đất đai. Đất đai ngày nay được rộng lớn chẳng thể không kính trọng người có công khai phá, vì thế phong Thổ Địa làm Thần Xã , là cách tưởng nhớ công ơn người trước vậy”.
*Sách “Xuân Thu Tả Truyện” viết:-“Thần Cộng Công có người con trai tên Câu Long, giúp Chuyên Húc an định chín vùng đất, nên thành ra Hậu Thổ, lại phong làm Thượng Công, khi cúng tế thì gọi là Thần Xã”.
*Sách “Lễ Ký—Vương Chế” có viết:- “Cúng tế cho “xã” của vua làm cỗ lớn, cúng tế “xã” của chư hầu làm cỗ nhỏ.” Lại nói:- “Vua hợp nhiều người lại làm “Xã”. Xã là Hậu Thổ, để cho dân thờ cúng”. Vậy nói Hậu Thổ tức là nói vị thần của “Xã” vậy.
*THỔ ĐIA CÔNG là thần thủ hộ của một địa phương làng xã, quản lý hết đất đai của mọi người mọi nhà. Nên tục ngữ nói “Trang đầu trang vĩ Thổ Địa Công” (đầu xóm cuối xóm cũng là đất của Thổ Địa). Vì thế, nơi nào cũng phải thờ kính, người người đều phải cúng. Từ người buôn bán đến nông dân…ai cũng hết sức thành tâm cúng tế Ngài.
Thổ Địa Công đã từ “thần đất” chuyển hóa thành “thần người”, biểu lộ tinh thần “Trời người hợp một” của người Hồng Kông, thành ra quan niệm có tính cách “đa thần”, dung hợp được chủ thể và khách thể một cách hài hòa.
Ngày nay, tuy xã hội đã có nhiều tiến bộ về khoa học, nhưng niềm tin về Thổ Địa Công vẫn không mất. Từ những nhà hàng lớn, hảng xưởng, công ty, tiệm quán đến từng nhà mọi người… đâu đâu cũng thấy có sự hiện diện của Thổ Địa Công. Bởi vì Ngài là Phước Thần, Tài Thần mang lại sự phồn vinh giàu có cho mọi người, niềm tin về Ngài có lẽ mãi mãi không bao giờ mất.
ThíchBình luận
Thờ ông Bổn
Ở những chùa, đền, miều của người Hoa, vị Thần Thổ Địa có danh hiệu là "Phước Đức Chính Thần", tức là nhắc đến việc tu trì đức hạnh để bảo hộ nhà cửa, của cải, hơn là những việc làm phi pháp khác.
Những loại ảnh tượng thờ Ông Địa có hình ảnh trông như một vị quan nhỏ, khiêm cung nhưng đàng bệ. Một số người đã đồng hoá Ông Địa với Ông Bổn, trong những điện thờ ông Bổn. Ông Bổn tức là Bổn Đầu Công, tên thật là Trịnh Hòa, một vị quan của triều đình Vĩnh Lạc (1403 - 1424) ở Trung Hoa.
Một số tài lịêu nhấn mạnh đến công trình Trịnh Hoà trong việc di dân người Hoa đến những vùng thuộc Đông Nam Á và Đông Á. Trịnh Hòa hoạt động trong thời gian từ năm 1405 - 1433, mà sử sách thường xem ông ta là một nhà hàng hải thương thuyền, đồng thời cũng là tay chính trị đầy tham vọng Trung Hoa là Trịnh Hoà đã dẫn đầu một đoàn thuyền 7 lần đi xuống vùng biển phía Tây, nhiều lần qua lại những đảo ở Nam Hải. Mỗi lần làm một chuyến "viễn du" kiểu như vậy, Trịnh Hoà đều mang theo đến 20,000 quân, 250 chiếc thuyền lớn.
Đi đến đâu Trịnh Hòa và những tay thân cận đều ghi chép các tài nguyên, điều là y gọi là các "dị vật". Trở về, y tường trình cẩn thận với chính quyền Yên Kinh. Theo tài liệu, những nước mà y tới, trong trường hợp không chịu vâng lời "triều cống" (?) nhà Minh đều bị đe doạ đủ điều. Thậm chí những vua nước đó đã bị Trịnh Hoà bắt về Yên Kinh để "trị tội". Những nước Trịnh Hoà đến rất nhiều, trong đó có: Indonésia, Ấn Độ, Tích Lan, Ba Tư...
Những tài liệu của Trung Hoa chép: Trong lần viễn du thứ 7 (1430) họ Trịnh đã đến đất Chiêm Thành, Côn Lôn Dương và qua khu vực quần đảo Hoàng Sa trong "các nhóm đảo ở Nam Hải" mà Trịnh Hoà gọi là "Thạch Tinh, Thạch Đường, Vạn Sinh, Thạch Đường Dư", đã được nhà viết sử Trung Hoa là Sư Đệ Tổ nhắc lại nhiều lần. Các cuộc "viễn du ra oai" của Trịnh Hoà ở các nước Đông Nam Á và phía Tây Thái Bình Dương đã không làm cho dân chúng các nước nầy lo sợ. Giấc mơ "Bình Thiên Hạ" của các vua nhà Minh ở thế kỷ thứ XV hoàn toàn thất bại.Có thể vì những đả kích mãnh liệt vai trò thực dân của Trịnh Hoà cho nên, có giải thích khác về ông Bổn.
Chẳng hạn như những tài liệu Thần phả của người Hoa Phúc Kiến thì: Ông Bổn tức là Châu Đạt Quan, một viên quan nổi tiếng đời nhà Nguyên (1403 - 1424) cũng là người đã từng tham gia trong những phái bộ Trung Hoa đến nhiều quốc gia trong vùng Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam và Chân Lạp.
Nhiệm vụ của Châu Đạt Quan là "điều tra, nghiên cứu văn hoá" những vùng cần thiết. Mục đích là gì? Không ai rõ. Tại thành phố Sài Gòn cò chùa thờ Ông Bổn (tại Nhị Phủ Miếu số 264 đường Hải Thượng Lãn Ông, quận Năm). Người Hoa Phúc Kiến thường quan niệm ý nghĩa thờ phượng nầy như là "Vị Phúc Thần" của người trong bang hội của mình.
Không thấy nói đến Trịnh Hoà như cácbang hội khác (mà đông đảo nhất là người Hoa Hải Nam và người Hoa Triều Châu) tại vùng Chợ Lớn trong việc thờ Ông Bổn. Để nhấn mạnh sự tương quan giữa việc thờ ông Bổn (Châu Đạt Quan) với Thần Thổ Địa, trên trang thờ có ghi thêm rằng "Ngô Thổ Địa dã". Người Hoa Phúc Kiến đều thờ Ông Bổn trước của nhà mình.
http://newvietart.com/index4.1443.html
三寶太監鄭和
三寶公鄭和靈籤
Chùa Ông Bổn
(Do Ban Trị Sự điều hành)
10600 TURTLEWOOD CT
Điện thoại: (281) 983-0097
Chùa Ông Bổn, also known as Teo Chew Temple
10600 Turtlewood Ct.
Houston, TX 77072
281-983-0097
Chùa Ông Bổn Houston
Trên phố Bellaire hướng về chợ Hồng Kông 4, đoạn phía sau nhà hàng Kim Sơn, bạn dễ dàng nhìn thấy những mái ngói lưu ly vàng cong chồng mái lên nhau theo kiểu “trùng thiềm điệp ốc” một cách duyên dáng đặc trưng của các ngôi đền của người Hoa. Người Việt gọi chùa Ông Bổn. Những người làm ăn mua bán ở Houston bảo rằng chùa rất linh, xin gì được nấy. Nghe vậy, tôi cũng thử ghé qua một lần cho biết.
Image
Chùa Ông Bổn Houston của người Hoa gốc Triều Châu, Phước Kiến
Ta dễ dàng nhận ra các đền miếu của người Hoa trong toàn bộ cảnh quan kiến trúc của thành phố nhờ những khác biệt và đặc thù về phong cách kiến trúc, màu sắc của các công trình này so với nhà ở của người dân quanh khu vực. Các đền miếu của người Hoa thường được sơn màu đỏ, vì trong quan niệm của họ thì màu đỏ là màu của may mắn và hạnh phúc. Cũng dễ nhận ra những phong cách kiến trúc của từng đền miếu người Hoa, bởi họ tạo tác và trang trí theo những mô thức truyền thống của từng nhóm ngôn ngữ. Chẳng hạn các miếu của người Hoa Quảng Đông có đầu đao vuông bằng, sắc cạnh, còn các miếu của người Hoa Phúc Kiến có mái hình thuyền, hai đầu đao vút cong, tạo nên nét thanh thoát cho tổng thể kiến trúc.
Image
Chùa Ông Bổn thờ đa thần
Dưới mái hiên chánh điện, một bên ghi tên chùa bằng tiếng Anh là Teo Chew Temple; một bên tên tiếng Việt là Chùa Ông Bổn. Teo Chew có nghĩa là Triều Châu. Nguồn gốc người Triều Châu là một câu chuyện lịch sử lâu đời, khởi thủy là người nước Triệu (thuộc tỉnh Quảng Đông ngày nay) bị Tần Thủy Hoàng đàn áp giết hại. Người Triều Châu buộc phải tha hương sinh sống khắp nơi. Một số lui về phương Nam tỉnh Quảng Đông, một số lên Tây Bắc thuộc tỉnh Phúc Kiến. Ngày nay, có khoảng 2,5 triệu người Triều Châu sống tại Đại lục, trong khi đó có trên 10 triệu người Hoa gốc Triều Châu định cư ở nhiều nước Đông Nam Á, Bắc Mỹ, Úc và Châu Âu. Vậy người Triều Châu có liên quan gì đến Ông Bổn và Ông Bổn là ai mà được tín ngưỡng dân gian trân trọng tôn lên thành thần thánh.
Theo nhà nghiên cứu văn hóa Vương Hồng Sển, Ông Bổn tức là Trịnh Hoà, quan Thái giám đời vua Vĩnh Lạc (1403 - 1424) ở Trung Hoa. Ông được vua cử đi điều tra, tìm hiểu tình hình Hoa kiều ở các nước Đông Nam Á.Trong chuyến đi ấy, Trịnh Hoà ra sức thi nhân bố đức và đưa người Hoa đến các nơi lập nghiệp. Nơi nào có người Hoa thì ông chỉnh đốn và sắp đặt tôn ti trật tự, giúp họ ổn định cuộc sống. Sau khi ông mất, dân gian nhớ công thờ làm phúc thần; vua có sắc phong cho ông là “Tam Bửu Công” còn gọi là “Bổn Đầu Công” (đọc theo tiếng Quảng là Pủn Thầu Cúng) gọi tắt là “Ông Bổn”. Dân gian tôn thờ ông là Phúc Đức chính thần, tức là ông Thổ Địa theo cách nghĩ thuần nông của người Việt.
Image
Nguyên gốc là đền miếu nên chùa Ông Bổn không có Hòa thượng trụ trì hay Tăng, Ni, Phật tử
Do nguyên thủy là đền miếu, chùa Ông Bổn Houston không có Hòa thượng trụ trì, Tăng Ni, Phật tử mà chỉ có ông Từ hoặc một nhóm người trông coi hương khói. Bên trong chùa đặt trang thờ “Phúc đức chính thần” tức ông Bổn, được tạc tượng gỗ cao hơn mét thể hiện một ông già quắc thước, khoan hòa với chòm râu bạc trắng buông dài, dáng ngồi thoải mái, tay cầm thỏi vàng, tượng trưng cho tài lộc. Ngoài thờ Ông Bổn (ngày lễ tế: 15 tháng 8 âm lịch), chùa còn thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế, Quảng Trạch Tôn Vương, Quảng Đại Tôn Vương, Thái Tuế, Quan Công, Quan Thế Âm bồ tát, Tề Thiên Đại Thánh, Tế Công hòa thượng, Thiên Hậu thánh mẫu, cùng nhiều vị thần khác. Việc thờ cúng nhiều thần thánh nguyên do người Việt xưa quan niệm “Vạn vật hữu linh”, tức mọi sự việc đều bị chi phối bởi một thần thánh nào đó, nên phần lớn các chùa Ông Bổn đều thờ đa thần.
Trong cuộc sống tín ngưỡng dân gian, đối với người Hoa, Thổ Địa cũng là một trong các thần Tài. Người Hoa có sở trường về thương mại nên tập tục thờ thần Tài đã trở nên phổ biến. Một phần khác do quan điểm phong thủy Thổ sinh Kim. Ngược lại, người Việt là cư dân nông nghiệp nên bảo thủ tập tục thờ thần Đất và tín lý phồn thực. Đến cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20, thần Đất và thần Tài ở xứ ta vẫn chưa phân biệt rõ ràng. Và đến tận bây giờ, thần Tài và Thổ Địa vẫn cứ được thờ chung như một cặp đôi bất khả phân ly ở khắp nơi, từ văn phòng công ty, tiệm quán, tư gia... Và điều đáng chú ý là, hình tượng vị thần Tài của người Việt, xét về mặt hình tượng, là một biến thể của Thổ Địa Phước Đức chính thần của người Hoa.
Image
Tượng Ông Bổn, tức thần Thổ Địa, nhưng đối với người Hoa lại được xem là Thần Tài
Ngoài Thổ Địa được thờ tự để cầu tài, người Hoa còn thờ nhiều thần Tài khác. Phổ biến và tôn quý nhất là thần Tài “Tài Bạch tinh quân”, “tinh quân” là ngôi sao trên thượng giới. Đây là vị thần thường thờ tự tôn kính ở các đền miếu, đặc biệt phổ biến là các cơ sở thờ tự thuộc nhóm phương tộc Triều Châu. Tài Bạch tinh quân gồm 5 vị thần, chủ bộ Tài lộc thiên giới, do Kim long Như ý chánh nhốt Long hổ Huyền đàn chân quân (tức Triệu Nguyên soái/Triệu Công Minh) đứng đầu và 4 phụ tá: Chiêu Bảo thiên tôn, Nạp Trân thiên tôn, Chiêu Tài sứ giả, Lợi Thị tiên quân.
Một nhân vật lịch sử là Phạm Lãi cũng được coi là Tài thần. Phạm Lãi là một trung thần của Việt Vương Câu Tiễn. Ông hết lòng giúp vua Việt Vương trong cơn hoạn nạn và phò tá vua Việt để báo thù vua Ngô Phù Sai. Sau khi đã toại chí, Phạm Lãi không màng công danh phú quý nên bỏ đi ở ẩn. Truyền thuyết kể rằng Phạm Lãi với người đẹp Tây Thi bỏ trốn đi dạo chơi ở Ngũ Hồ. Sau khi bỏ đi, Phạm Lãi trở thành một nhà thương buôn thành đạt và giàu có nổi tiếng ở thôn Đào (?) nên được người đời gọi là Đào Công. Phạm Lãi được tôn là Tài thần. Trong dịp khai trương làm ăn người Hoa hay tặng nhau tấm đại tự “Đào Công phất nghiệp” để chúc nhau việc kinh doanh, buôn bán phát tài.
Tục thờ thần Tài của người xưa còn phân biệt Văn Thần Tài và Võ Thần Tài. Văn thần Tài phù trợ cho người theo ngành “văn”, có nghĩa là những công việc văn phòng, sổ sách, giấy tờ, thơ ca hội họa... Còn Võ Thần Tài phù trợ cho gia chủ theo nghiệp “võ” như làm quan chức, chính quyền... Riêng việc kinh doanh thì “văn”, “võ” đều thờ thần Tài cả. Hình tượng thần Tài phổ biến nhất là Văn Thần Tài, đội mũ cánh chuồn, râu đen 3 chòm, miệng cười rất tươi, tay cầm chậu tụ bảo hoặc thỏi vàng. Đây là vị thần được thờ cúng nhiều ở trong nhà, vì mang lại tài lộc và giữ tiền của cho gia chủ. Ông thường được thờ chung ở bàn thờ Thổ - Địa, tạo thành bộ 3: Ông Địa, Thần Tài, Thổ Địa(Thổ Thần). Còn lại trong bàn thờ đó là hình tượng ông Địa bụng phệ, tay cầm quạt. Đây là vị thần trông coi nhà cửa, giống như Môn Thần vậy.
Qua nhiều gia đình bè bạn, tôi thấy gia chủ thường cúng Thần Tài - Thổ Địa vào ngày mùng 1 hoặc 15 theo cách cúng Phật, cho nên đồ cúng thường là hoa trái. Thật ra cúng Địa - Tài vào mùng 10 âm lịch hàng tháng. Phổ biến nhất là cúng thịt lợn quay hoặc gà luộc và chè đậu đỏ. Từ xa xưa, lợn quay đã là món ăn trang trọng trong những dịp lễ lớn nên dùng để cúng tế. Dân gian cũng truyền tụng Thần Tài thích ăn lợn quay, nhưng chỉ cần cúng mặn là được, vì thần thánh thì vẫn ăn mặn, chứ không cần cúng chay như cúng Phật. Riêng ngày mùng 10 tháng Giêng mọi người thường cúng lớn nhất, một số cơ sở làm ăn kết hợp khai trương vào ngày này để lấy may mắn, do đây là ngày vía của thần Tài.
Image
Khách thập phương xin xăm ở chùa Ông Bổn
Không phải người địa phương, nhưng tôi tin đất có Thổ Công, sông có Hà Bá. Bởi thế, sau khi đi một vòng chánh điện quan sát các tượng thần thánh trong chùa, tôi cúng dường đáp lễ hương hoa xin một quẻ thử thời vận trong năm mong phát tài may mắn. Cầm tờ giải xăm, ra xe ngồi đọc. Ứng nghiệm thay: “Vừa mới hao tài tốn của. Chi xài tiền bạc cẩn thận”.
http://www.vietdethuong.com/viewtopi...f=136&t=135317
Các chị ơi, trước đây em có thấy một số hình ảnh về 1 ngôi chùa của người Hoa ở Houston gọi là Chùa Bà (chùa ông Bổn), ở VN Bình Dương cũng có 1 ngôi chùa tương tự như thế. Không biết có chị nào ở đây đi rồi xin vui lòng cho em xin tên chùa có được ko ah? Em ko biết tên chính xác nên ko tài nào tìm đươc trên Google, em nghe bạn em nói ở Northwest, gầ chùa Tịnh Lực mà ko biết có đúng không? em tìm trên mạng cũng ko có tên chùa này...
Mong các chị chỉ giúp dùm em với...cám ơn các chị nhìu nhìu nha:Battin ey:
http://www.webtretho.com/forum/f38/c...45/index8.html
Chuyện Xưa Tích Cũ - Tích Ông Bổn
TÍCH ÔNG BỔN
Tác giả: Sơn Nam & Tô Nguyệt Đình
Ở Chợ Lớn, tại góc đường Khổng Tử và Phùng Hưng có ngôi chùa Phước Kiến thờ ông Bổn, thành lập cách đây hơn một trăm năm.
Ông Bổn là ai?
Sử Tàu ghi rõ: Đời Vĩnh Lạc (1403-1424) vua Tàu sai quan Thái giám tên là Trịnh Hòa đi điều tra các nước ở miền Đông Nam Á. Quan Thái giám tuân lệnh, tìm cách liên lạc với những người Huê kiều hải ngoại, chăm sóc đến đời sống của họ, dạy họ phải giữ thuần phong mỹ tục. Chuyến trở về, quan Thái giám mua ngọc ngà châu báu, các sản phẩm miền nhiệt đới từ Ấn Độ, Nam Dương quần đảo, Chiêm Thành, Mã Lai, Xiêm, Việt Nam đem về dâng cho vua.
Khi đi du hành, ông Trịnh Hòa cố gắng giúp đỡ dân chúng, thi ân bố đức, giúp giới Huê Kiều tìm sinh kế,
Sau khi ông mất, giới Huê Kiều hải ngoại nhớ ơn ông, thờ ông làm phúc thần. Vua Tàu phong sắc cho ông chức tước “Bổn Đầu Công.” gọi tắt là ông Bổn.
Ở những xóm đông đảo người Việt gốc Hoa, ngày nay còn nhiều người thờ ông Bổn và nhắc lại sự tích ông bổn đi chẩn bần thời xưa. Do đó nhiều người ngỡ ông Bổn là Bao Công!
POSTED BY PHAP LUAN AT 5:57 AM
EMAIL THIS
BLOGTHIS!
SHARE TO TWITTER
SHARE TO FACEBOOK
SHARE TO PINTEREST
1 COMMENT:
Luận VănOctober 14, 2014 at 12:00 AM
Cảm ơn bạn đã chia sẻ bài viết hay,
Thư viện luận văn 365 chia sẻ tài liệu luận văn đồ án môn học tiểu luận đồ án thạc sĩ tiến sĩ miễn phí
-------------------------------------------------------------------------------------------------------
Thư viện tài liệu miễn phí với hàng triệu tài liệu của tất cả các chuyên nghành.
Website: http://luanvan365.com/
Click vào Keywords: Luận văn Đấu Thầu
Click vào Keywords: Luận văn Đấu Thầu
Reply
Chùa Ông Bổn - Rạch Giá (có phụ đề)
Chùa Ông Bổn toạ lạc tại số 41 đường Quang Trung, Thành phố Rạch Giá, Tỉnh Kiên Giang.
Tục truyền rằng Ông Hổ là Hộ Pháp của Ngài, nên Ông Hổ được thờ tại Chùa Ông Bổn.
Ngôi chùa nầy đã có từ lâu đời thuộc họ tộc Phước Kiến sáng lập khoảng trước năm 1919.
Gian giữa Chánh điện là khánh thờ Ông Bổn (Ngài Phước Đức Chánh Thần). Bên trái là khánh thờ ba vị: Ông Hồng Thánh Công, Ông Bắc Đế, và Ông Quan Thánh Đế; bên phải có Khánh thờ Bà Thiên Hậu Thánh Mẫu, vành trên của hai khánh thờ Các vị Thánh Thần.
Chùa là Di sản văn hoá kiến trúc của tộc Phúc Kiến còn tồn tại ở tỉnh kên giang ngày nay.
Ông Bổn là tên Trịnh Hòa là Thái giám Đời Vĩnh Lạc (1403 - 1424), Vua sai quan Thái giám Trịnh Hòa đi điều tra các Hoa kiều nước ở nước Đông Nam Á.
Khi đi du hành, Ông quan tâm chăm sóc đời sống của họ, dạy họ phải giữ thuần phong mỹ tục. cố gắng giúp đỡ dân chúng, thi ân bố đức, dạy họ tìm cách sinh sống làm ăn.
Sau khi ông mất, giới Hoa Kiều hải ngoại nhớ ơn ông, thờ ông làm phúc thần. Vua Trung Quốc phong sắc cho ông chức tước “Bổn Đầu Công.” gọi tắt là ông Bổn.
Ngày Lễ Vía Ông Bổn vào ngày mùng 02 tháng 02 Âm Lịch hàng năm.
Chùa Ông Bổn Houston
Postby Duong Nam Anh » May 5th, 2015, 3:42 pm
Chùa Ông Bổn Houston
Trên phố Bellaire hướng về chợ Hồng Kông 4, đoạn phía sau nhà hàng Kim Sơn, bạn dễ dàng nhìn thấy những mái ngói lưu ly vàng cong chồng mái lên nhau theo kiểu “trùng thiềm điệp ốc” một cách duyên dáng đặc trưng của các ngôi đền của người Hoa. Người Việt gọi chùa Ông Bổn. Những người làm ăn mua bán ở Houston bảo rằng chùa rất linh, xin gì được nấy. Nghe vậy, tôi cũng thử ghé qua một lần cho biết.
Image
Chùa Ông Bổn Houston của người Hoa gốc Triều Châu, Phước Kiến
Ta dễ dàng nhận ra các đền miếu của người Hoa trong toàn bộ cảnh quan kiến trúc của thành phố nhờ những khác biệt và đặc thù về phong cách kiến trúc, màu sắc của các công trình này so với nhà ở của người dân quanh khu vực. Các đền miếu của người Hoa thường được sơn màu đỏ, vì trong quan niệm của họ thì màu đỏ là màu của may mắn và hạnh phúc. Cũng dễ nhận ra những phong cách kiến trúc của từng đền miếu người Hoa, bởi họ tạo tác và trang trí theo những mô thức truyền thống của từng nhóm ngôn ngữ. Chẳng hạn các miếu của người Hoa Quảng Đông có đầu đao vuông bằng, sắc cạnh, còn các miếu của người Hoa Phúc Kiến có mái hình thuyền, hai đầu đao vút cong, tạo nên nét thanh thoát cho tổng thể kiến trúc.
Image
Chùa Ông Bổn thờ đa thần
Dưới mái hiên chánh điện, một bên ghi tên chùa bằng tiếng Anh là Teo Chew Temple; một bên tên tiếng Việt là Chùa Ông Bổn. Teo Chew có nghĩa là Triều Châu. Nguồn gốc người Triều Châu là một câu chuyện lịch sử lâu đời, khởi thủy là người nước Triệu (thuộc tỉnh Quảng Đông ngày nay) bị Tần Thủy Hoàng đàn áp giết hại. Người Triều Châu buộc phải tha hương sinh sống khắp nơi. Một số lui về phương Nam tỉnh Quảng Đông, một số lên Tây Bắc thuộc tỉnh Phúc Kiến. Ngày nay, có khoảng 2,5 triệu người Triều Châu sống tại Đại lục, trong khi đó có trên 10 triệu người Hoa gốc Triều Châu định cư ở nhiều nước Đông Nam Á, Bắc Mỹ, Úc và Châu Âu. Vậy người Triều Châu có liên quan gì đến Ông Bổn và Ông Bổn là ai mà được tín ngưỡng dân gian trân trọng tôn lên thành thần thánh.
Theo nhà nghiên cứu văn hóa Vương Hồng Sển, Ông Bổn tức là Trịnh Hoà, quan Thái giám đời vua Vĩnh Lạc (1403 - 1424) ở Trung Hoa. Ông được vua cử đi điều tra, tìm hiểu tình hình Hoa kiều ở các nước Đông Nam Á.Trong chuyến đi ấy, Trịnh Hoà ra sức thi nhân bố đức và đưa người Hoa đến các nơi lập nghiệp. Nơi nào có người Hoa thì ông chỉnh đốn và sắp đặt tôn ti trật tự, giúp họ ổn định cuộc sống. Sau khi ông mất, dân gian nhớ công thờ làm phúc thần; vua có sắc phong cho ông là “Tam Bửu Công” còn gọi là “Bổn Đầu Công” (đọc theo tiếng Quảng là Pủn Thầu Cúng) gọi tắt là “Ông Bổn”. Dân gian tôn thờ ông là Phúc Đức chính thần, tức là ông Thổ Địa theo cách nghĩ thuần nông của người Việt.
Image
Nguyên gốc là đền miếu nên chùa Ông Bổn không có Hòa thượng trụ trì hay Tăng, Ni, Phật tử
Do nguyên thủy là đền miếu, chùa Ông Bổn Houston không có Hòa thượng trụ trì, Tăng Ni, Phật tử mà chỉ có ông Từ hoặc một nhóm người trông coi hương khói. Bên trong chùa đặt trang thờ “Phúc đức chính thần” tức ông Bổn, được tạc tượng gỗ cao hơn mét thể hiện một ông già quắc thước, khoan hòa với chòm râu bạc trắng buông dài, dáng ngồi thoải mái, tay cầm thỏi vàng, tượng trưng cho tài lộc. Ngoài thờ Ông Bổn (ngày lễ tế: 15 tháng 8 âm lịch), chùa còn thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế, Quảng Trạch Tôn Vương, Quảng Đại Tôn Vương, Thái Tuế, Quan Công, Quan Thế Âm bồ tát, Tề Thiên Đại Thánh, Tế Công hòa thượng, Thiên Hậu thánh mẫu, cùng nhiều vị thần khác. Việc thờ cúng nhiều thần thánh nguyên do người Việt xưa quan niệm “Vạn vật hữu linh”, tức mọi sự việc đều bị chi phối bởi một thần thánh nào đó, nên phần lớn các chùa Ông Bổn đều thờ đa thần.
Trong cuộc sống tín ngưỡng dân gian, đối với người Hoa, Thổ Địa cũng là một trong các thần Tài. Người Hoa có sở trường về thương mại nên tập tục thờ thần Tài đã trở nên phổ biến. Một phần khác do quan điểm phong thủy Thổ sinh Kim. Ngược lại, người Việt là cư dân nông nghiệp nên bảo thủ tập tục thờ thần Đất và tín lý phồn thực. Đến cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20, thần Đất và thần Tài ở xứ ta vẫn chưa phân biệt rõ ràng. Và đến tận bây giờ, thần Tài và Thổ Địa vẫn cứ được thờ chung như một cặp đôi bất khả phân ly ở khắp nơi, từ văn phòng công ty, tiệm quán, tư gia... Và điều đáng chú ý là, hình tượng vị thần Tài của người Việt, xét về mặt hình tượng, là một biến thể của Thổ Địa Phước Đức chính thần của người Hoa.
Image
Tượng Ông Bổn, tức thần Thổ Địa, nhưng đối với người Hoa lại được xem là Thần Tài
Ngoài Thổ Địa được thờ tự để cầu tài, người Hoa còn thờ nhiều thần Tài khác. Phổ biến và tôn quý nhất là thần Tài “Tài Bạch tinh quân”, “tinh quân” là ngôi sao trên thượng giới. Đây là vị thần thường thờ tự tôn kính ở các đền miếu, đặc biệt phổ biến là các cơ sở thờ tự thuộc nhóm phương tộc Triều Châu. Tài Bạch tinh quân gồm 5 vị thần, chủ bộ Tài lộc thiên giới, do Kim long Như ý chánh nhốt Long hổ Huyền đàn chân quân (tức Triệu Nguyên soái/Triệu Công Minh) đứng đầu và 4 phụ tá: Chiêu Bảo thiên tôn, Nạp Trân thiên tôn, Chiêu Tài sứ giả, Lợi Thị tiên quân.
Một nhân vật lịch sử là Phạm Lãi cũng được coi là Tài thần. Phạm Lãi là một trung thần của Việt Vương Câu Tiễn. Ông hết lòng giúp vua Việt Vương trong cơn hoạn nạn và phò tá vua Việt để báo thù vua Ngô Phù Sai. Sau khi đã toại chí, Phạm Lãi không màng công danh phú quý nên bỏ đi ở ẩn. Truyền thuyết kể rằng Phạm Lãi với người đẹp Tây Thi bỏ trốn đi dạo chơi ở Ngũ Hồ. Sau khi bỏ đi, Phạm Lãi trở thành một nhà thương buôn thành đạt và giàu có nổi tiếng ở thôn Đào (?) nên được người đời gọi là Đào Công. Phạm Lãi được tôn là Tài thần. Trong dịp khai trương làm ăn người Hoa hay tặng nhau tấm đại tự “Đào Công phất nghiệp” để chúc nhau việc kinh doanh, buôn bán phát tài.
Tục thờ thần Tài của người xưa còn phân biệt Văn Thần Tài và Võ Thần Tài. Văn thần Tài phù trợ cho người theo ngành “văn”, có nghĩa là những công việc văn phòng, sổ sách, giấy tờ, thơ ca hội họa... Còn Võ Thần Tài phù trợ cho gia chủ theo nghiệp “võ” như làm quan chức, chính quyền... Riêng việc kinh doanh thì “văn”, “võ” đều thờ thần Tài cả. Hình tượng thần Tài phổ biến nhất là Văn Thần Tài, đội mũ cánh chuồn, râu đen 3 chòm, miệng cười rất tươi, tay cầm chậu tụ bảo hoặc thỏi vàng. Đây là vị thần được thờ cúng nhiều ở trong nhà, vì mang lại tài lộc và giữ tiền của cho gia chủ. Ông thường được thờ chung ở bàn thờ Thổ - Địa, tạo thành bộ 3: Ông Địa, Thần Tài, Thổ Địa(Thổ Thần). Còn lại trong bàn thờ đó là hình tượng ông Địa bụng phệ, tay cầm quạt. Đây là vị thần trông coi nhà cửa, giống như Môn Thần vậy.
Qua nhiều gia đình bè bạn, tôi thấy gia chủ thường cúng Thần Tài - Thổ Địa vào ngày mùng 1 hoặc 15 theo cách cúng Phật, cho nên đồ cúng thường là hoa trái. Thật ra cúng Địa - Tài vào mùng 10 âm lịch hàng tháng. Phổ biến nhất là cúng thịt lợn quay hoặc gà luộc và chè đậu đỏ. Từ xa xưa, lợn quay đã là món ăn trang trọng trong những dịp lễ lớn nên dùng để cúng tế. Dân gian cũng truyền tụng Thần Tài thích ăn lợn quay, nhưng chỉ cần cúng mặn là được, vì thần thánh thì vẫn ăn mặn, chứ không cần cúng chay như cúng Phật. Riêng ngày mùng 10 tháng Giêng mọi người thường cúng lớn nhất, một số cơ sở làm ăn kết hợp khai trương vào ngày này để lấy may mắn, do đây là ngày vía của thần Tài.
Image
Khách thập phương xin xăm ở chùa Ông Bổn
Không phải người địa phương, nhưng tôi tin đất có Thổ Công, sông có Hà Bá. Bởi thế, sau khi đi một vòng chánh điện quan sát các tượng thần thánh trong chùa, tôi cúng dường đáp lễ hương hoa xin một quẻ thử thời vận trong năm mong phát tài may mắn. Cầm tờ giải xăm, ra xe ngồi đọc. Ứng nghiệm thay: “Vừa mới hao tài tốn của. Chi xài tiền bạc cẩn thận”.
http://www.vietdethuong.com/viewtopi...f=136&t=135317
Chùa Ông Bổn - Houston
Chùa Ông Bổn, Chùa Tiều Châu ở Houston, TX.
Chùa Ông Bổn, Houston, Texas, Hoa Kỳ ( USA ) - Chùa Tiều Châu / Chùa Triều Châu - TEO CHEW TEMPLE / TEOCHEW TEMPLE - 潮州廟
本頭公廟 / 廟公頭本 - Bổn Đầu Công Miếu
德州潮州會館本頭公廟(廟內)
0条评论
地址: 10600 TURTLEWOOD CT., HOUSTON, TX 77072 获取具体位置
电话: 281-983-5668
http://s2.upanh123.com/2017/05/19/Temple_0155c60.jpg
http://s2.upanh123.com/2017/05/19/Temple_03ce3f3.jpg
http://s2.upanh123.com/2017/05/19/Untitled4a9bf.png
http://s2.upanh123.com/2017/05/19/WP_0002016a4be.jpg
( http://www.vnphoto.net/forums/showthread.php?t=16767 )
http://1suluoc.blogspot.com/2012/09/new-post.html
http://phatgiaovnn.com/upload1//modu...iewst&sid=8355
http://s2.upanh123.com/2017/05/19/P1...ocDucdcc03.jpg
Chùa Bà Thiên Hậu Houston, USA. Sóng Việt
( http://jsongviet.blogspot.com/2015/0...song-viet.html )
TEO CHEW TEMPLE - 廟公頭本 - CHÙA ÔNG BỔN
CHÙA TIỀU CHÂU / CHÙA TRIỀU CHÂU / ĐÌNH TIỀU CHÂU / ĐÌNH TRIỀU CHÂU - BỔN ĐẦU CÔNG MIẾU - CHÙA ÔNG BỔN
[ Chùa Ông Bổn Houston của người Hoa gốc Triều Châu, Phước Kiến ]
( https://www.facebook.com/pg/NhungNga...77421129057810 )
http://s2.upanh123.com/2017/05/19/Untitled4a9bf.png
http://s2.upanh123.com/2017/05/21/13...37_o1e073a.jpg
http://s2.upanh123.com/2017/05/21/13...385_o76e8e.jpg
https://www.youtube.com/watch?v=cxCIdahsiZ0
Chùa Ông Bổn - Hội Quán Triều Châu - Quận Gò Vấp
Chùa Ông Bổn. 12Bis Phan Huy Ích , P. 14, Q. Gò Vấp,TP. Hồ Chí Minh
Hội quán Triều Châu của người Hoa thường được gọi với cái tên dân dã là “Chùa Ông Bổn“, thờ “Bổn Đầu Công Mã Viện“. Hội quán tọa lạc tại 157 Nguyễn Duy Hiệu, được xem là một trong những kiến trúc cổ nhất tại Hội An.
http://www.vamvo.com/desktopmodules/...1024&width=500
Hội quán Triều Châu - Phố cổ Hội An
Hội quán Triều Châu
Hội quán Triều Châu (địa chỉ - số 157 đường Nguyễn Duy Hiệu) thường được gọi với cái tên dân dã là "Chùa Ông Bổn", do Hoa kiều bang Triều Châu xây dựng vào năm 1845 làm nơi sinh hoạt cộng đồng và tín ngưỡng khi đến Hội An sinh sống. Hội quán thờ các vị thần chế ngự sóng gió, qua đó cầu mong việc đi lại buôn bán trên biển được thuận buồm, xuôi gió.
Hội quán Triều Châu là một công trình kiến trúc cầu kỳ với bộ khung gỗ được chạm trổ tinh xảo, cùng các họa tiết trang trí bằng gỗ theo truyền thuyết dân gian, và những tác phẩm đắp nổi bằng sành sứ tuyệt đẹp, thể hiện sự khéo léo tài hoa của người nghệ nhân xưa. Tổng thể Hội quán Triều Châu được xây dựng theo lối kiến trúc nội công ngọai quốc:
- Mặt tiền hội quán được lắp dựng bằng nhiều mảng đá lớn có chạm trổ các đồ án trang trí như: cá chép hóa rồng, hồ điệp, tứ linh...
- Nhà tiền điện chủ yếu bằng gỗ và đá. Bên trong kiến trúc theo kiểu chồng rường, phần thân các vì kèo chạm trổ hết sức tinh vi. Cạnh các rường chính còn gắn những mảng chạm lộng, chạm lủng theo các môtíp bức bình phong, long mã, chim muông... Bờ nóc, bờ hồi được tạo dáng cong vuốt, mềm mại với kết cấu đa tầng, giữa các tầng được đắp nổi nhiều hình hoa điểu, nhân vật...
- Chính điện rộng lớn gồm 3 gian, kết cấu chủ yếu là các cột gỗ to và các vì chồng rường giả thủ đặt trưng. Các con-ke trang trí được điêu khắc thành các hình thân rồng đầu cá. Các cánh cửa chính đều được làm bằng gỗ, chạm trổ nhiều đồ án cát tường như: thái bình hữu tượng, sư tử hý tiền... Gian giữa chính điện có khám thờ cũng được chạm trổ công phu, lộng lẫy.
- Nối liền giữa nhà tiền điện với chính điện là nơi tiếp khách, chuẩn bị các phẩm vật để hiến cúng trong các dịp đại lễ của hội quán. Hàng năm, vào dịp tết Nguyên tiêu (rằm tháng giêng), Hội quán Triều Châu đều tổ chức lễ cầu phước và cúng giỗ tiền hiền.
Đến thăm Hội quán Triều Châu ở phố cổ, là dịp để thưởng lãm vẻ trầm lắng của những nét kiến trúc hội quán đặc trưng, và biết thêm nhiều điều về cộng đồng thương nhân Triều Châu vào thời thương cảng Hội An xưa.
http://www.vamvo.com/HoiQuanTrieuChauHoiAn.aspx
==================
Hội quán Triều Châu Hội An
http://www.asean2010.vn/wp-content/u...hau-hoi-an.jpg
Hội An từng là một thương cảng sầm uất, nơi quần tụ giao lưu thương mại giữa các thuyền buôn nhiều nước trên thế giới như: Nhật Bản, Trung Quốc và phương tây từ thế kỷ 17-18. Dấu ấn văn hóa ấy còn được lưu giữ đậm nét cho đến ngày nay. Một trong những minh chứng tiêu biểu nhất là Hội Quán Triều Châu Hội An – một điểm tham quan Hội An luôn ghi nhiều dấu ấn khó quên nơi lòng du khách.
Hội quán Triều Châu Hội An
Có thể nói, du lịch Hội An không thể nào bỏ lỡ dịp đến thăm vài hội quán nổi tiếng ở đây. Hội Quán từ lâu đã trở thành một nét đặc trưng của phố cổ Hội An, dấu ấn tiêu biểu nhất cho sự có mặt của người Trung Hoa vào thế kỷ 17-18 tại đây. Hội quán Triều Châu được Hoa kiều bang Triều Châu xây dựng vào năm 1845 làm nơi sinh hoạt cộng đồng và tín ngưỡng riêng của người Triều Châu ở Hội An. Ngày nay, Hội quán Triều Châu được biết đến nhiều hơn với tên gọi Chùa Ông Bổn (mặc dù nơi đây không phải là nơi thờ tự các vị phật). Bất cứ du khách nào có dịp đến với Hội An đều không thể bỏ qua các hội quán tại đây. Hoạt động giao thương xưa kia thường diễn ra bằng đường thủy vì vậy hội quán được lập nên để thờ các vị thần chế ngự sóng gió, cầu mong việc đi lại buôn bán trên biển được thuận buồm, xuôi gió. Ngày nay, các hội quán đều nằm trong quần thể di tích phố cổ Hội An. Địa danh này được nhiều du khách trong và ngoài nước biết đến như là một công trình kiến trúc cầu kỳ với bộ khung gỗ chạm trổ tinh xảo, cùng các họa tiết, trang trí bằng gỗ phỏng theo các truyền thuyết dân gian. Bên cạnh đó, Hội quán Triều Châu còn có một số tác phẩm đắp nổi bằng sành sứ rất đẹp, thể hiện sự khéo léo tài hoa của người nghệ nhân xa xưa. Du khách khi đến tham quan Hội Quán Triều Châu đều không khỏi trầm trồ khen ngợi những bàn tay tinh tế của các nghệ nhân đã tạo ra những tác phẩm nghệ thuật độc đáo, lưu giữ đến tận ngày nay.
Đến thăm Hội quán Triều Châu ở phố cổ, là dịp để thưởng lãm vẻ trầm lắng của những nét kiến trúc hội quán đặc trưng, và biết thêm nhiều điều về cộng đồng thương nhân Triều Châu vào thời thương cảng Hội An xưa.
http://www.asean2010.vn/dia-danh-du-...au-hoi-an.html