https://www.flickr.com/photos/106880...57669279138340
Printable View
Tuesday, November 25, 2014
HẠNH PHÚC TỪ TÂM
HẠNH PHÚC TỪ TÂM
NHẤT NIỆM - HỈ LẠC - HÂN HOAN
http://3.bp.blogspot.com/-vv6g839945...00/karmapa.jpg
Những thứ khác nhau trong thế giới này có thể mang đến hạnh phúc và vui sướng. Điều quan trọng nhất trong tất cả chúng là điều mang lại hoà bình và hạnh phúc trong tâm chúng ta.Làm thế nào để chúng ta phát triển điều này? Thông thường tâm chúng ta đầy những biến chuyển của nhận thức làm quấy nhiễu nó. Khi tâm được thiết lập trong sự vận động theo chiều hướng này, nó không thể duy trì trong sự nhất tâm và đi lạc lối, không thể dừng lại hay ngơi nghĩ. Vì lý do này, trạng thái hạnh phúc lẫn tránh chúng ta. Khi những nhận thức này được giải quyết trong tâm bản nhiên, chúng ta sẽ có kinh nghiệm cảm giác hạnh phúc cuả tâm linh.
Có nhiều phương pháp để sáng tạo một tâm trạng của nhất tâm và hân hoan, điều quan trọng nhất ấy chính là thiền định. Truyền thống Phật giáo cống hiến nhiều loại thiền định khác nhau, chúng ta có thể tìm thấy trong các truyền thống PG nguyên thuỷ, đại thừa hay mật thừa với nhiều phương pháp thực hành hữu hiệu,... Chúng ta được nghe nói rằng đức Phật đã dạy tám mươi bốn nghìn pháp môn. Nếu chúng ta súc tích lại, điều nào là trung tâm? Yên tĩnh bất động (shamatha-chỉ-định) và tuệ quán sâu thẩm ((vipashyana-quán-tuệ minh sát). Trong cả hai điều, trước tiên hết chúng ta thiền tập yên tĩnh bất động (shamatha-chỉ-định), nó là cần thiết bắt buộc và dễ nhất cho những ai mới bắt đầu thực tập.
Để thực tập yên tĩnh bất động, chúng ta cần biết đặc điểm của nó, bản chất tự nhiên của nó, và những thứ lớp của nó. Ngoại trừ chúng ta biết những điều này, nếu không chúng ta không biết thế nào là thiền định.
Trước nhất, chúng ta hãy lấy một tư thế khác biệt với tình trạng bình thường của chúng ta, đặc biệt hơn điều chúng ta diễn tả tính trên hơi thở của chúng ta. Dựa trên nhiều những điều được dạy để tiến tới "định", bảy điểm tư thế của Tỳ lô giá na là một trong những phương pháp tốt nhất. Như đã đề cập trước, nếu chúng ta ngồi trong tư thế thẳng đứng và duy trì một sự thiền tập tốt, tất cả khí sẽ lưu thông một cách trơn tru trôi chảy trong những kinh mạch. Tư thế giúp để giữ một trung tâm ổn định trong khi chúng ta tập trung tâm tư và cho lý do này, nó là quan trọng. Nếu tư thế của chúng ta tốt, sự yên tĩnh bất động sẽ đạt được một cách tốt đẹp, dễ dàng.
Một cách tổng quát, sự yên tĩnh bất động được chỉ rõ trong cách này:" nương trên điều được nói đến, tâm sẽ thư thái trên nhất niệm." Nó có thể được chia ra làm ba phương pháp thiền tập: 1- đặt tâm dùng một sự hổ trợ, 2- đặt tâm không dùng một sự hổ trợ, 3- đặt tâm trên bản chất tự nhiên của chính nó.
BA PHƯƠNG PHÁP THIỀN TẬP
1- Điều tâm dùng một sự hổ trợ: khi dùng một sự hổ trợ bên ngoài hay đối tượng, chúng ta đặt một chủ đề trước mắt chúng ta, thí dụ một đoá hoa. Bằng sự tập trung nhất tâm trên nó, chúng ta quản lý và kiểm soát vô số nhận thức vọng tưởng từ sự hình thành và lưu chuyển trong tâm chúng ta. Sự thực hành nhất tâm này trên một đối tượng phía trước chúng ta - thường là một thấu kính hay một que nhỏ - được gọi là "yên tĩnh bất động với một sự hổ trợ bất tịnh bên ngoài". Khi tập trung giống như thế trên một đối tượng liên hệ với Pháp khí - một tượng hay hình Phật, một giá treo của biểu tượng bổn tôn, mẫu tự,v.v...- và đấy được biết là "yên tĩnh bất động với một sự hổ trợ thanh tịnh bên ngoài."
2- Điều tâm không dùng một sự hổ trợ: khi chúng ta trở nên thuần thục với những sự thực tập đầu tiên này và tâm ta có thể ngừng nghĩ không dao động trên đối tượng của nó, rồi thì chúng ta có thể bắt đầu sự thực tập thứ hai không có một sự hổ trợ. Ở đây, chúng ta hướng sự tập trung của chúng ta vào bên trong và đem đến tâm một hình ảnh của Phật. Nếu chúng ta bắt đầu sự thức tập thứ hai trước khi chúng ta có thể thực hành điều căn bản, nó sẽ khó khăn, vì ở đây không có đối tượng bên ngoài để làm mục tiêu tập trung. Với tâm chúng ta không thể duy trì tập trung, những nhận thức vọng tưởng sẽ ập đến và len lõi vào trong tâm. Vì vậy thực hành bước đầu tiên cho đến khi thật thuần thục, và rồi chuyển đến bước thứ hai. Nếu chúng ta thực hành theo thứ lớp, kết quả sẽ hoàn hảo.
3- Điều tâm trên bản chất tự nhiên của chính nó: sự thực hành thứ ba của "yên tĩnh bất động". Ở đây, không có đối tượng bên trong hay bên ngoài hổ trợ. Với tâm chúng ta ở trạng thái rất tập trung, chúng ta thiền định tự do với nhận thức vọng tưởng, đây là cấp cao nhất của thiền định yên tĩnh bất động. Nắm vững và lão luyện hai phương pháp trước cho phép bước thứ ba được ổn định. Khi tâm chúng ta không bị quấy nhiễu với bất cứ nhận thức vọng tưởng nào có thể khởi dậy, sự hỉ lạc hân hoan tự nhiên và trong sáng của tâm sẽ ló dạng. Khi chúng ta có kinh nghiệm này của yên tĩnh bất động, chúng ta sẽ biết ơn giá trị vĩ đại của nó.
NĂM TẦNG THIỀN ĐỊNH
Có nhiều phương pháp để điều tâm đã được dạy bởi những đại đạo sư trong cốt tuỷ những sự hướng dẫn của họ. Các ngài đã dạy, thí dụ, chúng ta không nên chạy theo quá khứ, không gọi tương lai đến với chúng ta, không bị dao động với những tư tưởng hiện tại trong tâm chúng ta, không thay đổi trong bản chất tự nhiên, không bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng của quá khứ, hiện tại, hay tương lai. Khi chúng ta trở nên quen thuộc với điều này qua học tập và thực hành, rất nhiều những kinh nghiệm thiền tập sẽ phát khởi. Kinh tạng và mật thừa đã có nhiều sự giải thích những điều này, có thể cô đọng trong năm điều.
1-Tầng nhất được biết như kinh nghiệm của cảm xúc. Khi chúng ta bắt đầu thực tập yên tĩnh bất động, dường như rằng những nổi ưu phiền của chúng ta nhân lên gấp bội và những nhận thức vọng tưởng cũng tăng lên. Có phải điều này là sai lầm?
Không, điều này xãy ra vì chúng ta đã chưa từng thực tập yên tĩnh bất động trước đây và không để ý rằng không biết chúng ta có nhiều những nhận thức vọng tưởng hay không. Bây giờ chúng ta thực hành yên tĩnh bất động, chúng ta bắt đầu để thấy tất cả những nỗi ưu phiền và vọng tưởng trong tâm chúng ta, chúng ta đang chú ý những điều đã sẳn ở đấy rồi. Cho tầng thứ nhât này, những cảm xúc chúng ta có khi chúng ta kinh nghiệm sự ùa tới của những vọng tương mạnh mẽ và những ưu phiền được so sánh với một dòng sông cuồng nộ lao vào một ngõ hẹp.
2- Tầng thứ nhì của yên tĩnh bất động được biết như đạt được. Xuyên qua thiền định ở tầng một, vọng tưởng đã được giảm đi một ít và những ưu phiền cũng một phần nào đó bị giảm đi. Kinh nghiệm của chúng ta, tuy vậy, không ổn định: thỉnh thoảng có một ùa tới của vọng tưởng, và ưu phiền và thỉnh thoảng chúng ta tự do với chúng. Chúng không liên miên không dứt như ở tầng một; sự xuất hiện của chúng đến một cách chậm hơn. Tại điểm này, dòng nước đã thoát khỏi ngõ hẹp và chảy một cách chậm hơn trong một lòng sông rộng hơn.
3- Tầng thứ ba liên hệ đến kinh nghiệm của sự làm cho quen. Ở đây, ưu phiền và vọng tưởng phát khởi nhưng không với mãnh lực mà chúng đã có trước đây. Cảm xúc của một sự dồn dập hay của một không gian hạn hẹp đã lắng xuống, và dòng sông di chuyển thong thả dọc theo hướng của nó. Điều này không có nghĩa rằng tất cả những vọng tưởng và ưu phiền đã được tẩy sạch, nhưng chúng đã được bình định một cách tự nhiên và những ưu phiền đã mềm mại hơn, dịu dàng hơn, như một dòng sông rộng chảy một cách yên hoà.
4- Có thực tập ba tầng trước, chúng ta đến tầng thứ tư, kinh nghiệm của ổn định, nơi mà sự thực hành yên tĩnh bất động của chúng ta đã trở nên liên tục. Thí dụ là một đại dương bao la, hoà bình không chuyển động bởi những đợt sóng. Những vọng tưởng không hưng khởi một cách tự nhiên. Một tri giác bao la tương phản cảm xúc hạn hẹp của tầng một. Trong phạm vi phát triển rộng rãi này, những đợt sóng của vọng tưởng và ưu phiền đã tĩnh mịch bất động.
5- Tầng thứ năm được biết như kinh nghiệm của sự vững vàng ổn định hoàn toàn. Khi chúng ta trở nên hoàn toàn quen thuộc với thực hành yên tĩnh bất động, không chỉ làm chúng ta đạt tới sự kiên định chân thực, chúng ta cũng bắt đầu có một sự kinh nghiệm mỏng mảnh của khía cạnh trong sáng, rực rở của tâm. Sự hiểu biết diện mạo của tuệ trí nguyên sơ xuất hiện xuyên qua sự thực hành yên tĩnh bất động của chúng ta. Thí dụ ở đây là một đại dương bao la không chỉ không có sóng nhưng cũng sáng sủa và trong suốt. Có nhứng đại dương bị ô nhiễm, cái này thì trong veo bởi tự nhiên. Vì vậy ở tầng thứ năm này, cộng thêm vào đến một tâm rất vững vàng, diện mạo trong sáng và tỉnh giác (nhận rõ) của tính bản nhiên của nó bắt đầu biểu lộ. Đây là thành quả của sự thực hành yên tĩnh bất động: những kinh nghiệm tạm thời trong sáng, rực rở tự nhiên của tuệ trí nguyên sơ hay pháp tánh.
Đấy chính là một sự giải thích súc tích, thế nào điều tâm trong "yên tĩnh bất động"
và làm thế nào để kinh nghiệm thiền tập hưng khởi. Giáo nghĩa dạy chúng ta theo một con đường thành đạt: tầng một của "yên tĩnh bất động" và tiếp theo là những tầng của tuệ quán thâm sâu. Qua những sự thực hành thành công như thế, những đạo sư trong quá khứ đã cho phát sinh đến sự thực chứng trong tâm tiệm tiến liên tục và khám phá tuệ giác nguyên sơ. Tất cả những phẩm chất mà các đạo sư vĩ đại tìm ra, chúng ta cũng có thể đạt tới thành quả tốt đẹp như thế. Tất cả tuỳ thuộc và sự cố gắng của chúng ta, sự siêng năng của chúng ta, sự hiểu biết thâm sâu của chúng ta, và động cơ đúng đắn của chúng ta.
Khi chúng ta mới bước vào đạo, chúng ta cần phát khởi sự niềm tin hay tín tâm, và chúng ta cũng cần biết tại sao điều này là cần thiết. Nếu chúng ta chỉ nương trên sự sùng mộ mà không suy nghĩ, chúng ta sẽ bị vướng trong sự tin tưởng mù quáng. Vì vậy, thông qua sự thực nghiệm và phân tích, chúng ta nên phát khởi một lòng tin chân thật. Sau này, nó quan trọng để duy trì một người đệ tử tốt, như giữ một lời thệ nguyện quy y vậy. Chúng ta nên thực hành học tập, suy tư, và thiền tập trên những lời hướng dẫn. Trước nhất chúng ta nghe những lời hướng dẫn cốt yếu từ một chân sư và phân tích chúng với sự lý luận của chúng ta. Nhưng đừng ngừng ở đấy. Điểm đặc biệt của Phật giáo là nó vượt trên những điều học tập và suy nghĩ để nhấn mạnh trên thiền định. Trong đời thường chúng cũng học hỏi và phân tích nhưng không thiền định. Trong đạo Phật chúng ta học hỏi, suy tư giáo nghĩa và rồi thì, hoà nhập những điều chúng ta hiểu với tâm chúng ta, chúng ta thực hành đặt trên sự quân bình trong thiền định.
Chúng ta không thể ngay lập tức vượt sự thực hành vội vả các pháp cao hơn, như đại thủ ấn (mahamudra) hay đại toàn thiện (mahasandhi), cả hai đều hướng đến kết quả của tuệ trí nguyên sơ. Cho tất cả những sự thực hành cao cấp hơn, chúng ta cần một căn bản vững vàng, điều mà không có gì hơn là sự thực hành đúng đắn "yên tĩnh bất động" hay thiền chỉ (shamadhi). Nếu một tâm không thuần thục đầy những vọng tưởng và ưu phiền, những sự thực tập cao cấp này không thể thực hiện. Trong sự khởi đầu, một cây cần gốc rễ vững vàng. Giống như thế, điều quan trọng nhất là thiền định "yên tĩnh bất động". Vì lý do này, chúng ta phải giải thích cho những ai thực tập thiền tập để giúp họ tìm sự hạnh phúc hân hoan và cát tường trong tâm. Đây là sự hy vọng to lớn của chúng tôi.
The 17th Karmapa teaching
Tuệ Uyển chuyển ngữ
Posted by tueuyen at 10:55 AM
http://tue-uyen.blogspot.com/2014/11...uc-tu-tam.html
háp Bảo Của Sự Giải Thoát
Pháp Bảo Của Sự Giải Thoát
Gems of Dharma, Jewels of Freedom
https://uphinhnhanh.com/images/2017/11/24/images.jpg
Cẩm nang kinh điển, xác thực và dễ hiểu của Phật giáo Đại thừa của Đại Bồ Tát Tây Tạng thế kỷ 12
Jé Gampopa
Bản dịch Anh ngữ từ tiếng Tây Tạng của
Ken và Katia Holmes
dựa trên những giảng nghĩa chi tiết theo truyền thống của Dòng Kagyü
Thanh Liên dịch sang Việt ngữ
Quyển sách này xin được hiến dâng cho Akong Rinpoche, bậc chứng ngộ đã thực hiện mọi phương diện có thể có cho tác phẩm này, cho tất cả các vị Đạo sư dòng Kagyü, đặc biệt là Khenchen Thrangu Rinpoche và Khenpo Tsultim Gyamtso Rinpoche, về những giải thích trong trẻo như pha lê, và cho Đức Gyalwang Karmapa thứ XVI, một nguồn cảm hứng và mẫu mực cho tất cả chúng con. Nguyện Đức Gyalwang Karmapa thứ XVII Urgyen Thinley và tất cả những bậc có ý hướng mang lại chân lý và an bình cho thế giới được an khang, trường thọ và thành công trong những hoạt động bi mẫn của các ngài.
Lời Tựa
Lời giới thiệu
Phần một: Nguyên nhân chính yếu - Chương một: Tinh túy giác ngộ
Phần hai: Nền tảng - Chương hai: Một hiện hữu làm người quý báu
Phần ba: Điều kiện - Chương ba: Vị Thầy Tâm linh tốt lành
Phần bốn: Phương tiện - Giáo huấn của các Vị Thầy Tâm linh tốt lành
http://daibaothapmandalataythien.org...-su-giai-thoat
Ấn Độ: Pháp hội Dharamsala 2013 dành riêng cho người Việt Nam
Với niềm cảm mến đặc biệt đối với Phật giáo Việt Nam cũng như Phật tử Việt Nam, nhân duyên hội đủ, vào ngày 01 & 03/7/2013, tại Tu viện Namgyal, Dharamsala, Ấn Độ, đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, vị lãnh đạo tối cao của Phật giáo Tây Tạng đã có 3 ngày thuyết giảng đặc biệt dành cho cộng đồng Việt Nam.
Tham dự Pháp hội Dharamsala năm nay, có hơn 300 Tăng Ni và Phật tử Việt Nam đến tham dự và 2000 Tăng Ni và Phật tử đến từ nhiều quốc gia. Đây là lần thứ hai pháp hội đặc biệt này được đức Đạt Lai Lạt Ma dành riêng cho người Việt Nam đến từ Việt Nam. Chủ đề pháp thoại của đức Đạt Lai Lạt Ma dành cho Phật tử Việt Nam năm nay là “Ba điểm tinh yếu của đường tu Giác Ngộ” với “Mười bốn đoản kệ của Sơ tổ Tông Khách Ba (Tsongkhapa 1357-1419) dòng Hiền Nhân (Gelug)”.
Ba điểm tinh yếu được đức Đạt Lai Lạt Ma giảng dạy là tâm yểm ly, tâm bồ đề và không tánh. Theo Ngài, khi hiểu rõ và thực tập ba điều này, hành giả tu tập sẽ có khả năng rộng bước trên con đường đến giác ngộ giải thoát. Trưởng Ban tổ chức Pháp hội 2013 là Thượng tọa Thích Nhật Từ, UV Hội đồng trị sự GHPGVN, Phó Viện trưởng HVPGVN tại TP.HCM. Chứng minh cho Ban Tổ chức là HT. Thích Thiện Trí, Ủy viên HĐTS, Phó Ban Hoằng pháp TW GHPGVN. Tham dự pháp hội còn có 30 Tăng Ni hiện đang là nghiên cứu sinh tiến sĩ tại các trường Đại học ở Ấn Độ.
Chiều ngày 01/07/2013, tiếp nối về phần tánh Không, HT. Thích Thiện Trí đã giải thích về tánh không từ cái nhìn của đạo Phật Đại thừa Việt Nam. Bài pháp thoại của Hòa Thượng đã giúp cho các hành giả hiểu rõ hơn về khái niệm tánh Không. Là một khái niệm và học thuyết cao sâu, khó hiểu,tánh Không qua lời giảng của Hòa thượng trở nên bình dị, dễ hiểu đối với các Phật tử, dù là mới phát tâm.
Sáng ngày 02/07/2013, trước thời pháp thoại của đức Đạt Lai Lạt Ma, TT. Thích Nhật Từ - Trưởng Ban tổ chức pháp hội 2013 đã thuyết giảng đề tài: “Triết lý Phật giáo qua 5 thủ ấn quan trọng.” Qua đó, Thượng tọa đã nêu bật triết lý thâm sâu của Phật giáo ẩn chứa trong các thủ ấn, từ đó, rút ra những bài học có lợi ích cho sự tu tập của Phật tử trong cuộc sống.
Sau thời pháp thoại cuối cùng vào sáng ngày 03/07/2013, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã làm lễ Quán đảnh Phật Dược Sư theo Kim Cang Thừa, đồng thời làm lễ Quy y Tam bảo đối với những người hữu duyên với đạo Phật. Chương trình pháp hội 2013 kết thúc với lễ Hỏa tịnh, biểu tượng đốt cháy tất cả nỗi khổ niềm đau và nguyên nhân của chúng là tham ái, sân hận, si mê và chấp thủ.
Trong thời gian tham dự Pháp hội, ngoài các thời pháp thoại, nghi lễ, phái đoàn Phật tử Việt Nam cũng đã có nhân duyên được viếng và đảnh lễ nhục thân của Ling Rinpoche, vị Sư trưởng của đức Đạt Lai Lạt Ma và tham quan Bảo tàng trưng bày các Tôn tượng quý hiếm của truyền thống Kim Cang Thừa.
Đêm 2/7/2013, Phái đoàn Việt Nam được xem chương trình nghệ thuật đặc sắc của Tây Tạng. Đồng thời, đoàn cũng đã thăm viếng Tu viện Gyuto, nơi ngài Karmapa thứ 17 đang làm đạo và là trung tâm đào tạo nâng cao cho các vị Lama đã tốt nghiệp Geshe (tương đương học vị Tiến sĩ). Ngài Karmapa thứ 17 là người giữ vai trò quan trọng thứ 3 trong Phật giáo Tây Tạng (sau Đức Dalai Lama thứ 14 và Đức Ban Thiền Lạt ma).
Theo lời thỉnh cầu của TT. Thích Nhật Từ, đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã chấp thuận dành riêng Pháp hội 2014 cho cộng đồng Việt Nam tại Bồ-đề Đạo tràng, dự kiến sẽ diễn ra vào thượng tuần tháng 11-2014. Đây là nhân duyên lớn đối với Tăng Ni và Phật tử Việt Nam có cơ hội được thọ pháp và tiếp kiến với Ngài tại dưới cội Bồ Đề thiêng, nơi mà cách đây hơn 2600 trước, Đức Phật Thích Ca lịch sử đã dẹp tan màn vô minh, chiến thắng ma quân, chứng quả vô thượng Bồ Đề. Thượng tọa Thích Nhật Từ cho biết: “Sẽ có khoảng 500-1000 Phật tử Việt Nam tham dự pháp hội 2014 để trực tiếp lãnh hội các lời dạy cao quý của đức Đạt Lai Lạt Ma. Đồng thời, đây là cơ duyên mà theo đó Phật giáo Tây Tạng và Phật giáo Việt Nam hiểu nhau và cùng nhau trao đổi các kinh nghiệm Phật sự.”
Sư cô Nhật Hạnh, người thông dịch chính của Pháp hội vô cùng xúc động khi được Văn phòng đức Đạt Lai Lạt Ma tin tưởng và chỉ định làm công việc quan trọng này, chia sẻ: “Làm thông phiên dịch cho Pháp hội vừa là niềm hãnh diện, vừa là trách nhiệm lớn. Vì ngôn từ được ngài Đạt Lai Lạt Ma sử dụng trong giảng pháp rất súc tích và thâm sâu. Nếu không hiểu thấu đáo thì không thể dịch chuẩn được. Tôi may mắn làm thông phiên dịch cho cả 2 pháp hội 2011 và 2013. Có lẽ sẽ tiếp tục vinh dự thông phiên dịch cho pháp hội 2014. Tôi sẽ làm hết trách nhiệm của mình để giúp người Việt Nam trải nghiệm những lời dạy cao quý của một bậc thánh sống.
Pháp hội đã hoàn mãn trong niềm hỷ lạc vô biên của các Phật tử tham dự. Các phái đoàn chia tay nhau, rời khỏi Dharamsala với niềm luyến tiếc và nhiều người hy vọng có cơ hội trở lại đây ít nhất thêm một lần nữa để trải nghiệm không gian tâm linh tại độ cao 1750m với sự hướng dẫn Phật pháp của đức Đạt Lai Lạt Ma 14.
Sau đây là một số hình ảnh của Pháp hội:
Ban Tổ Chức gặp gỡ đức Đạt Lai Lạt Ma tại hương thất của Ngài ngày 01-07-2013
HT. Thích Thiện Trí, TT. Thích Nhật Từ tiếp kiến Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14
Ông Nguyễn Văn Lạng, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công Nghệ tiếp kiến đức Đạt Lai Lạt Ma
Phật tử Nguyễn Việt Hùng - Phó thường trực Ban Tổ Chức
Ban Tổ Chức và các Mạnh Thường Quân chụp ảnh lưu niệm với đức Đạt Lai Lạt Ma tại hương thất của ngài.
Tụng Kinh Dược Sư
Cung thỉnh Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 quang lâm Pháp hội
Đức Đạt Lai Lạt Ma vẫy chào Phật tử Việt Nam
Ngài đang thuyết pháp
HT. Thích Thiện Trí, TT. Thích Nhật Từ, anh Nguyễn Việt Hùng và các Tăng Ni đang du học tại Ấn Độ viếng thăm Viện trưởng Tu viện Namgyal - nơi diễn ra pháp hội.
HT. Thích Thiện Trí giảng thêm về tánh không.
Ngày thứ 2, TT. Thích Nhật Từ có thời pháp thoại về ý nghĩa 5 thủ ấn.
Trong buổi chiều ngày thứ 2, đức Đạt Lai Lạt Ma đã dành thời gian để trả lời các câu hỏi của Phật tử Việt Nam.
Chụp chung với đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14
Đức Đạt Lai Lạt Ma làm lễ truyền quán đảnh Phật Dược Sư, lễ Quy Y Tam Bảo
Chương trình biểu diễn nghệ thuật truyền thống Tây Tạng được Bộ Văn Hóa chính phủ Tây Tạng lưu vong dành riêng cho đoàn Phật tử Việt Nam.
Phái đoàn viếng thăm và đảnh lễ đức Karmapa 17.
(theo Đạo Phật Ngày Nay)
http://www.thichthientri.com/hoatdon...amsala2013.htm
http://vietrigpabardo.org/wp-content...VI-820x410.jpg
Lời khuyên cho việc thực hành tâm linh
Posted on Tháng Chín 9, 2017
0shares
Việc thực hành Pháp có liên quan tới một số triển vọng nhất định. Bằng cách nào mà những triển vọng này có thể tiến triển để trở thành những cảnh trạng có thật đối với hành giả, và bao nhiêu phần trăm để có được những thực trạng này thì còn tùy thuộc vào khả năng của mỗi hành giả. Ngoài ra, còn tùy thuộc vào mức độ giáo pháp mà người đó có khả năng thâm nhập được, ví dụ như Đại thừa hay Tiểu thừa. Trong thời đại sinh hoạt xã hội hiện nay, sự thực hành theo giáo lý Đại thừa là việc có thể thực hiện được. Sự thực tập này vô cùng hiếm quí. Chính mối quan tâm phát triển cùng với ý thức trách nhiệm đã đặt để chúng ta vào một vị thế nhằm hợp nhất tính chất quí báu và hiếm có của giáo lý Đại Thừa vào trong cuộc sống của chúng ta. Thông qua đó, [giáo lý Đại Thừa] có tiềm chứa triển vọng giúp ta chấm dứt luân hồi, cùng với triển vọng chứng nghiệm được niềm hỷ lạc cùng tột — một kinh nghiệm trực cảm — và đối với những điều này thì không có gì để phải nghi ngờ.
Giữa những cuộc trôi nổi lang thang của tâm, cũng có đôi lúc ta rơi lạc vào vòng suy tưởng rằng, dù ta có thực hành hay không thì Pháp vẫn luôn hiện hữu. Nếu bạn có ý niệm như vậy, thì quả thật là một sai lầm nghiêm trọng. Bất cứ giây phút ngắn ngủi nào, mà trong đó ta có thể sử dụng bất kỳ thời khắc nào đi nữa như là một cơ hội thực tập giáo pháp, thì nhất định là ta phải sử dụng giây khắc ấy mà thôi. Nếu ta không chịu trách nhiệm và bày tỏ lòng tôn kính chân thành đối với giáo lý Đại thừa và Kim Cang thừa, thì có một cơ duyên chắc chắn là ta sẽ tự làm tổn hại cho mình cũng như cho các bạn đạo khác có liên hệ với ta. Thiếu mất mối lưu tâm trách nhiệm đối với con đường Đại thừa sẽ khiến ta vi phạm các nguyên lý liên quan đến các Mật nguyện; vì thế, bằng bất cứ phương thức nào mà ta có thể nương theo giáo pháp, thì ta phải thành tâm tuân thủ.
Nếu bạn nghĩ rằng giáo pháp thật không đáng kể, rồi thì một thực tại [không đáng kể] như vậy sẽ biểu hiện ra cũng bở do chính thái độ của bạn, và sẽ dẫn tới sự mất mát thiệt thòi lớn lao cho bạn. Khi đó, bạn thật rời xa giáo pháp, vì thế bạn không thể thực sự suy nghiệm giáo pháp được nữa. Mặt khác, giá trị giáo pháp đã được chứng thực bằng chính tính cách lợi lạc hiệu nghiệm vượt thời gian kể từ thời đức Phật còn tại thế cho tới ngày nay. Đây chính là điều để ta nghiền ngẫm tới lui. Bạn phải thành khẩn nhận ra tính chất linh ứng cao quý của giáo pháp ở mức độ thấu hiểu được rằng, không có gì quan trọng hơn việc hành Pháp trong đời này và những đời tiếp theo. Ta thường thấy trong cảnh đời thế tục, như là trong ngành “kinh doanh,” thì khi một doanh nhân phát triển kế hoạch cho một dự án, anh ta dư biết việc này sẽ ngốn mình bao nhiêu của, có thể là một triệu đô la, và vì thế mọi chi tiết của dự án đó đều được xem xét một cách cực kỳ cẩn trọng. Tính cách hoàn toàn quan trọng sẽ được gắn liền với một dự án như vậy trong thế giới kinh doanh, và biết bao nghị lực được dồn hết vào đó nhằm mang lại một kết cục thành công. Vấn đề ở chỗ là nếu một người tận dụng tâm huyết sức lực như thế cho một kết quả có tính cách tạm thời như vậy, thì tại sao không chịu nỗ lực giống như thế cho một dự án có thể mang lại lợi ích tạm thời cũng như lợi ích miên viễn? Dù bạn có hay không nhận được lễ gia trì hay các lời giảng giải, nếu bạn có thể hiểu biết hay vun bồi được năng lực cảm nhận về tầm mức quan trọng của giáo pháp, rồi thì sẽ có mục đích trong mối quan hệ của bạn với giáo pháp Đại thừa, và cũng sẽ có những thành tựu, cảm ứng theo sau. Nếu có một chân nguyện đối với giáo pháp, bạn sẽ có khả năng phát huy đức tin sâu vững và đầy ý nghĩa đối với giáo pháp cùng với tâm lượng từ bi chân thật hướng về chúng sinh. Từ đó, bạn sẽ hiểu biết tinh tường về bản chất vận hành nghiệp báo trong vũ trụ, tức là bản chất tự nhiên của quy luật nhân quả.
Tâm nguyện và công hạnh của vị Bồ Tát thật là thâm diệu do vì ngay từ ban đầu khi vị Bồ Tát dấn thân trên con đường tu tập giác ngộ, các ngài phát nguyện mang lại lợi lạc và giải thoát cho hết thảy chúng sinh hữu tình với một tác ý vô cùng kiên định, trong sáng và mạnh mẽ. Chính bởi quyết tâm chân thành bên trong tâm nguyện này, mà bất cứ hành động nào cần thiết để mang lại lợi ích và giải thoát cho chúng sinh đều được làm với một nội lực phi thường và không hề mệt mỏi. Chọn một con đường thâm diệu như vậy do bởi hạnh nguyện cứu giúp chúng sinh ở mỗi chặng đường khác nhau của Bồ Tát đạo được trải nghiệm, vị ấy nhận thấy tự mình gia tăng năng lực làm lợi ích cho vô số chúng sinh. Đó là cách mà vị Bồ Tát sơ phát tâm bước trên con đường đã chọn. Khi bậc Bồ Tát làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh với tâm nguyện và công hạnh chân chánh như vậy, đó là sự viên mãn hoàn toàn. Sự viên mãn phù hợp với ý thức rằng, không có sự ích kỷ tham dự dưới hình thức mong cầu, nghi ngờ, hy vọng, dính mắc hay ác cảm về vấn đề được hay mất ở bất kỳ tướng trạng nào. Bồ Tát hoàn toàn tinh khiết và không tỳ vết, không ngừng làm việc và hết lòng vì lợi ích của chúng sinh. Không có bất cứ khoảnh khắc nào mà lại có sự ngại ngần hay ngờ vực vì những chướng ngại này đã được vượt qua. Bồ Tát đạo rất cao quý vì tất cả hành động có hại và tập khí buông lung trong dục lạc đều bị loại bỏ dần. Không chỉ chính các hành vi gây hại bị trừ khử thôi, mà ngay cả việc tạo tác các nhân xấu ác trong tương lai cũng bị loại trừ khỏi lối sống của vị Bồ Tát. Mọi sự việc được thực hiện chỉ duy cho lợi ích của chúng sinh, nghĩa là không chỉ bằng những hành động trực tiếp, mà còn bằng sự đặt để nền móng cho những ích lợi được tích luỹ trong tương lai. Khi các bậc Bồ Tát này khởi sự hành đạo, thì các ngài có thể đem lại vô lượng lợi lạc cho chúng sinh, và các ngài cũng làm hiển lộ tâm lượng khoan dung vô úy mà không hề có bất kỳ sự nghi ngờ hay kỳ vọng nào, giống như đức Bồ Tát Đại Bi Quán Thế Âm hay đức Bồ Tát Đại Lực Kim Cang Thủ, vân vân …
Toàn thể thánh chúng Bồ Tát đều có thần lực và làm lợi lạc như nhau cho vô số chúng sanh, vì vậy, có vẻ như là mọi sự mọi vật đều nằm dưới sự điều huy biến hóa của các ngài. Đôi khi những đóa sen và cành sen tuyệt đẹp được các ngài cho mọc ở giữa đại dương, hay giọt nước mắt được biến thành biển cả. Các hiện tượng đó trong thiên nhiên đều được các vị Bồ Tát sử dụng thần lực biến hóa. Lửa có thể biến hiện thành nước, và nước có thể hóa hiện thành lửa. Đó là do bởi năng lực hành xử, tâm nguyện và công hạnh của vị Bồ Tát. Điều này có nghĩa là ta phải luôn nhớ nghĩ về sự thực tập tâm bi mẫn, và lúc nào tâm lượng này cũng phải được thực hiện trong sự tỉnh giác.
Nếu một người muốn bắt đầu thực tập thiền quán, chẳng hạn, quán chiếu về tánh Không (Sunyata), thì một mặt người này không bao giờ quên liên hệ tới đối tượng giác ngộ của sự Qui y Tam bảo, còn mặt khác phải liên tục ban rải lòng từ bi chân thật hướng đến chúng sinh. Tự tánh chân thật của tánh không chính là lòng từ bi. Không có sự trải nghiệm về lòng từ bi chân thành, thậm chí nếu một người tự cho là đã nhận ra tánh không, thì điều đó cũng chẳng có gì đáng kể.
Tại thời điểm đặc biệt này, bạn có cơ hội tiếp nhận được giáo pháp. Có nhiều vị thầy, và có nhiều điều kiện môi trường thuận lợi. Bạn đã từng đón nhận nhiều mức độ giáo huấn khác nhau, và điều quan trọng là bạn đừng bỏ qua việc thực hành những gì đã được dạy. Điều này tuyệt đối quan trọng. Hôm nay tôi sẽ nhấn mạnh lại những điều mà chắc chắn là bạn từng nghe qua nhiều lần. Và cho tới bây giờ, luôn có nhu cầu về sự ứng dụng trọn vẹn giáo pháp vào đời sống, về sự thực tập chánh niệm và niềm kính ngưỡng, và về sự thực hành lòng trân quý đối với những gì mình hiểu biết và tiếp nhận. Thật là cần thiết để thực tập rốt ráo và thấu hiểu nghĩa lý giáo pháp. Và để đạt được điều đó, thì yếu tố quan trọng nhất, một lần nữa, lại là sự thực hành Bồ đề tâm, tức là tâm Giác ngộ, mà theo đó bạn sẽ dần dà bước trên con đường Kim Cang thừa. Ở mọi lúc mọi nơi, Bồ đề tâm là tuyệt đối cần thiết. Trừ phi các phương thức kỹ xảo uyên thâm của Kim Cương thừa cần được hỗ trợ bởi Bồ đề tâm, một người sẽ không nhất thiết phải đạt cho được các chứng ngộ cao sâu, đầy ý nghĩa. Vì thế, bạn có thấy không, thật ra vạn sự vạn vật đều bắt nguồn từ sự thực hành Bồ đề tâm. Và tấm lòng chân thiết, bền bỉ thực hiện bất cứ điều gì, để có thể làm tăng trưởng và hỗ trợ cho sự thực hành Bồ đề tâm, sẽ chắc chắn tạo ra những hoàn cảnh thuận lợi cho sự thăng tiến.
Hãy lấy một ví dụ, cho phương tiện trưởng dưỡng Bồ đề tâm, là bộ giới bổn Ba La Ðề Mộc Xoa (Pratimoksa). Theo truyền thống Ba La Ðề Mộc Xoa, có bảy loại hay mức độ Ba La Ðề Mộc Xoa, hay kỷ luật tự giác. Những kỷ luật này được biết như là giới luật hay lời phát nguyện. Qui y Tam bảo là điều kiện tiên quyết và quan trọng nhất để tham dự vào việc thực hành giới luật. Sau khi qui y, bạn thọ nhận bất cứ giới luật nào mà mình có khả năng gìn giữ. Việc giữ giới sẽ làm vững mạnh thêm sự thực hành Bồ đề tâm và giúp bạn có khả năng bước đi trên con đường Phật Pháp được nhẹ nhàng, chân chánh và hanh thông hơn. Chúng ta không được sao lãng đối với tầm quan trọng của sự thực hành kỷ luật tự giác và giới luật. Mẫu hình thâm căn cố đế nhất chính là tam độc: tham, sân và si. Nếu một người nhổ tận gốc rễ các mẫu hình này và áp dụng thuốc giải phù hợp cho 3 loại độc này, thì việc hành giới, như được nêu trong bộ giới bổn Ba La Ðề Mộc Xoa, sẽ là những lợi khí thiết yếu.
Sau nữa chúng ta có các nguyên tắc giáo lý Đại Thừa. Chúng ta phải thực tập hằng sống với lý tưởng Đại Thừa mà chúng ta từng nói đến: đó là sự phát triển cung cách hành xử có mang tính giác ngộ, tức là mối quan tâm đối với lợi ích và giải thoát cho hết thảy chúng sinh. Đứng trên quan điểm vật chất thì đất nước này rất giàu có, điều đó có nghĩa là đời sống sẽ bận rộn hơn cho mọi người so với đời sống ở những nơi khác trên thế giới, và con người càng bị ràng buộc bởi tất cả nhu cầu ham muốn ở thế tục. Chính vì bị vây bủa bởi những nỗi âu lo quá đỗi về vật chất, nhịp độ sinh hoạt của họ cũng trở nên khẩn trương hơn. Một hoàn cảnh bận rộn này sẽ dẫn đến một hoàn cảnh bận rộn khác, và cứ thế tiếp tục mãi không ngừng. Bạn luôn luôn bận rộn. Chân lý luân hồi biểu hiện rõ ràng trong cuộc sống của bạn. Để cứu chữa tình trạng này, trước tiên một người cần an tịnh tâm mình. Đừng để cho mình bị cuốn hút hoàn toàn bởi ngoại cảnh. Hãy phát huy một vài mức độ tĩnh lặng. Hãy trau giồi việc hàng phục đơn giản đối với tâm, cũng như hãy vun bồi tâm thức an tịnh, trong sáng. Ít nhất là hãy làm cho tâm được cởi mở, rộng thoáng. Cho dù bạn là ai, mọi người trước tiên cần hướng đến thiền tập cơ bản, mà thiền tập này được sáng tạo một cách cụ thể hầu mang lại sự an tịnh trong tâm cho chúng sinh bị bận rộn này nọ liên miên. Đây là bước đầu tiên trong việc hành Pháp, mà Pháp lại vô cùng quan trọng cho chính mình và người khác.
Nếu bạn có thể thấy biết và ưa thích thưởng thức chân lý giáo pháp, và nếu bạn tiếp tục thực hành dưới ánh sáng của sự cảm kích đó, thì không còn nghi ngờ gì nữa về sự có mặt của bạn sẽ mang lại lợi ích to lớn cho những người mà bạn tiếp xúc và nhất là cho đất nước này. Sẽ chẳng có nghi ngờ gì về khả năng của bạn trong việc cứu giúp chúng sinh từ vô số vấn đề và xung đột. Vì vậy việc hành Pháp phải được thực hiện rất nghiêm cẩn và chân thành. Điều đó đóng một vai trò chủ yếu trong việc định hướng cuộc đời một người, và không chỉ đời này mà còn tất cả đời tiếp sau. Nếu một người muốn có được sự viên mãn tạm thời cũng như sự viên mãn tối thượng của hạnh phúc, thì sự hành Pháp chính là sự liên kết không thể so sánh và đáng tin duy nhất. Ý niệm về tri giác và người tri giác đã tồn tại từ thời vô thỉ, và đó là một phần của cái tập khí chấp trước, vướng mắc. Từ vô thỉ, chính cái khiếm khuyết về tri giác sai lầm đã luôn khiến cho chúng ta rơi lại vào vòng Luân hồi (Samsara). Trong quá khứ, tương lai và hiện tại, tâm luôn rong chơi bằng cách này hay cách khác. Nhưng ở nơi bản tâm thanh tịnh chân thật, thì chẳng có màu sắc mà cũng chẳng có hình dáng, mà cũng chẳng thể nào xác định tâm hay tâm thức ở đâu. Tự tánh của tâm vượt lên trên những thực thể như vậy. Chính vì như vậy, thật là quan trọng trong thiền tập, đừng tưởng đến tương lai hay quay về quá khứ, mà hãy sống trong hiện tại và duy trì sự tỉnh giác thường trực. An trú trong hiện tại chính là sự thực hành mà tất cả các bạn cần nên phát huy.
Đức Gyalwa Karmapa Rinpoche XVI
__________________________________________________ _
Bài giáo huấn này được Đức Gyalwa Karmapa thứ 16 giảng tại Karma Triyana Dharmachakra vào ngày chủ nhật 31 tháng 8 năm 1980. Lần đầu tiên được đăng trên tờ Densal Mục 2, Số 3, mùa hè năm 1981.
Tài liệu được dịch từ nguồn: http://www.kagyu.org/kagyulineage/bu.../tra/tra02.php
Nguyễn Thanh Hà chuyển Việt ngữ (3/2008)
Tâm Diệu Phú hiệu đính (4/2008)
THAM KHẢO
http://vietrigpabardo.org/2017/09/09...hanh-tam-linh/
Karmapa (Cát-mã-ba)
Vầng sáng từ phương Đông (song ngữ Anh-Việt)
https://books.google.com.vn/books?id=CiErIdMFrg0C
nghĩ rằng đây chỉ là những lời vô nghĩa. ... phát sinh từ giáo pháp Ba thân và được áp dụng tại Tây Tạng với sự phát hiện Cát-mã-ba (Tây Tạng: karmapa) thứ2, ...
Karmapa có nghĩa là “bậc thực hành Phật hạnh”, là bậc đã chứng đạt giác ngộ và được xem là Bồ Tát hoá thân. 17 đời các Đức Karmapa đều .
HOẰNG PHÁP
Karmapa có nghĩa là “bậc thực hành Phật hạnh”, là bậc đã chứng đạt giác ngộ và được xem là Bồ Tát hoá thân. 17 đời các Đức Karmapa đều đóng vai trò tối quan trọng trong việc trì giữ, bảo tồn các truyền thừa tu học và thực hành của Phật giáo. Đức Pháp Vương đời thứ 17 GYALWANG KARMAPA là một trong những lãnh tụ Phật giáo trẻ hàng đầu được ấn chứng bởi Đức Đạt Lai Lạt Ma và chính phủ Trung Quốc. Ngài dành phần lớn thời gian hoàn thành những nghiên cứu về triết học Phật giáo, thọ nhận những trao truyền và giáo pháp của các dòng truyền thừa, chủ yếu là Kagyu mà Ngài là Pháp Vương, và triển khai nhiều dự án lợi tha. Chương trình Hoằng Pháp của Ngài tại Toronto bao gồm:
1/ tại Trường Đại Học Toronto, Convocation Hall, 31 Kings College Circle, Toronto, ON:
· Thứ Tư 31/5 (từ 3.00pm – 4.30pm): Chánh niệm và Trách Nhiệm với Môi trường (vào cửa miễn phí)
· Thứ Năm 1/6 (từ 9.30am – 12.00pm): Chuyển Hóa Tâm Phiền Não (vé $50 hoặc $75, mua ở website karmapacanada.org)
2/ tại EnerCare Centre Hall D, The Exhibition Plaza, 100 Prince’s Blvd, Toronto, ON
· Thứ Sáu 2/6 (từ 9.30-11.30am và 2.00-4.30pm): Nền Tảng, Đạo Lộ và Đạo Quả (vé $50, 75, 100 hay 150 mua online)
· Thứ Bảy 3/6 (từ 9.30-11.30am và 2.00-4.30pm): Lễ Quán Đảnh Đức Văn Thù Sư Lợi (vé $50, 75, 100 hay 150 mua online)
3/ tại TT Văn Hoá Canada Tây Tạng (40 Titan Road, 40 Titan Rd, Toronto ON (vé $75 /$100 mua online ctao.org hay tại TCCC)
· Chủ Nhật 4/6 (từ 9.30am): “Tám bài kệ chuyển hoá tâm”. Sau đó là Lễ cúng dường cầu Trường Thọ cho Đức Karmapa.
· Chiều CN 4/6 (từ 2.00pm) : Lễ Quán Đảnh Đức Bạch Độ Mẫu Trường Thọ, nhận sự gia trì từ Đức Karmapa và Pháp Đàm.
Chương trình được được dịch sang Việt-Hoa-Anh. Kính mời Chư Tăng Ni đăng ký tham dự miễn phí. Để biết thêm chi tiết, nhận cập nhật thông tin hay đăng ký mua vé, mời vào website www.karmapacanada.org hay liên lạc (416) 238.1606 để có sự giúp đỡ. Có thể mua vé riêng cho từng chương trình.
https://www.thoimoi.com/cong-dong/si...52017-1652017/
Đi tìm Đại Bảo Pháp Vương .
1.Xem Video
Nhấp vào đây Download Video T1
2.Xem Video
Nhấp vào đây Download Video T2
- Là câu chuyện đời thực về sự tái sinh của một trong những lãnh tụ tinh thần Tây Tạng lớn nhất và được kính trọng nhất, Gyalwa Karmapa. Karmapa là người đứng đầu truyền thống của Dòng Kagyu của Phật giáo Tây Tạng. Gyalwa Karmapa đã chết năm 1981 ở Chicago và được sinh ra lần nữa năm 1985 tạiTây Tạng. Mỗi Karmapa kế lại các chi tiết của sự tái sinh trong tương lai của mình, nói tiên tri những thứ như ngày và hoàn cảnh sinh của họ, ngay cả tên của cha mẹ tương lai của họ…
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...itled24c69.png
http://phimphatgiaohay.blogspot.com/...giao-2013.html
Đọc Truyện Đức Phật và Nàng: Hoa sen xanh ( Full) _Chương Xuân ...
https://www.wattpad.com/262152467-đứ...-sen-xanh.../6
Pháp sư Karmapa, phép biến hóa khi nãy ngài thi triển nếu không thành thì bất .... Theo ý nghĩa thực tiễn thì Mandala là đàn tràng để hành giả các lễ vật hay ...
https://www.wattpad.com/262152467-%C...%C3%A2n/page/6
Drikung Dharma Surya Center - Garchen Quan Âm Tự
5300 Ox Road
Fairfax, VA, 22030, USA
drikungdharmasurya@gmail.com
703-273-5189
Chùa mở cửa 9 giờ sáng tới 9 giờ tối, Thứ ba đến Chủ Nhật
http://www.drikungdharmasurya.org/VI...drikung-kagyu/
THẦY TU CÓ VỢ
0Ðúng theo Ðạo Phật thì người xuất gia (mà chúng ta quen gọi là Sư Tăng) không được lập gia đình. Chữ Sư có nghĩa là Thầy, chỉ có Thầy Tăng mới không được quyền có vợ, còn những ông thầy khác như giáo sư (thầy dạy học), Kỹ sư (thầy kỹ thuật), Kiến trúc sư (thầy vẽ kiểu nhà), võ sư (thầy dạy võ) v.v… những ông thầy này được quyền có vợ chứ! Ngay cả Ðạo sư (thầy dạy Ðạo) cũng có vợ được nếu đạo sư đó không phải là Tăng.
Gần đây có một số Phật tử Việt Nam theo học Ðạo với các Thầy Lạt Ma Tây Tạng. Những Phật tử này thường vẫn còn khái niệm Thầy tu không được có vợ. Vì thế nên có một cô Phật tử ở Canada đến nói với tôi rằng: “Con theo học với vị Lạt Ma này được hai tháng nhưng sau khi biết ông ta có vợ thì thôi, không theo học nữa”.
Giá trị đạo đức của một ông Thầy không nên được đánh giá trên việc ông ta có vợ hay không có vợ. Ở Nhật Bản các vị Tăng đa số đều có vợ. Có nhiều chùa, sau khi vị trụ trì mất thì con của họ lên thay thế làm trụ trì. Có hai vị thiền sư Nhật nổi tiếng là Shunryu Suzuki (1905-1971) tác giả quyển “Thiền tâm, Sơ tâm” (Zen mind, Beginner”s mind) và Daisetz Teitaro Suzuki (1870-1966) tác giả bộ “Thiền Luận”. Khi nói về hai vị này, nhiều người gọi họ là Ðại Sư. Tôi tự hỏi không biết những người này có biết là hai Ðại Sư của họ có vợ chăng? Nếu biết thì có còn gọi là Ðại Sư nữa không?
Riêng theo truyền thống Tây Tạng thì có hai loại Lạt Ma. Lạt Ma Tăng không có vợ và Lạt Ma cư sĩ có vợ con.
Chữ Lạt Ma (Lama) là dịch từ chữ Phạn Guru có nghĩa là Ðạo Sư, vị Thầy chỉ đạo. Phật Giáo được truyền vào Tây Tạng khoảng thế kỷ thứ 8 do Padma-sambhava (Liên Hoa Sanh), vị này là một Ðạo Sư nổi tiếng về Mật Giáo, xuất thân từ tu-viện Vikramasila, một tu-viện lớn ngang hàng với Nalanda. Padmasambhava có hai người vợ và cũng là hai đệ tử lớn.
Chính ông đã sáng lập ra phái Nyingmapa (Cổ Mật), trong phái này đa số các Lạt Ma đều là cư sĩ nên chuyện có hay không có vợ không phải là một vấn đề. Sau đó vào thế kỷ thứ 11, có thêm hai phái nữa ra đời là Kagyupa và Sakyapa. Sơ Tổ Tây Tạng phái Kagyupa là Marpa qua Ấn Ðộ học Ðạo với Naropa rồi trở về xứ dịch kinh truyền Ðạo. Ðạo Sư Marpa có vợ và đệ tử xuất sắc nhất của ông là Milarépa, vị này không phải là Tăng mà là một đạo sĩ Du Già (Yogi, naldjorpa).
Ðệ tử kế nghiệp Milarépa là Gampopa, một vị Tăng nên bắt đầu từ Gampopa trở đi đa số đều là Tăng, nhưng vẫn còn một phần ba là cư sĩ. Kế nghiệp Gampopa là Karmapa, bắt đầu từ vị này thì có sự tái sinh trở lại ngôi vị mình cho tới Karmapa thứ 16, vị này mới mất năm 1982. Karmapa là vị lãnh đạo tối cao của phái Kagyupa, tương đương với đức Ðạt Lai Lạt Ma. Vị Karmapa thứ 15 cũng có vợ.
Sơ Tổ của phái Sakyapa là Sachen Kunga Nyingpo cũng có vợ và hai vị Tổ kế tiếp chính là hai con trai của ông. Ða số Lạt Ma của phái này là cư sĩ, vị lãnh đạo tối cao hiện nay là Sakya Trizin. Vào thế kỷ 14 có phái Guélugpa ra đời, Sáng Tổ là Tsongkhapa, một vị Tăng. Kế thừa sau này là Gendun Drub, Ðạt Lai Lạt Ma thứ nhất. Sau khi chết, vị này tái sinh trở lại mỗi đời, cho tới nay là Ðạt Lai Lạt Ma thứ 14 (Tenzin Gyatso).
Trong bốn phái lớn vừa kể, ba phái đầu được gọi là Hồng Mạo phái (phái mũ đỏ), phái chót là Hoàng Mạo phái (phái mũ vàng). Phái này rất tôn trọng giới luật nên đa số Lạt Ma đều là Tăng.
Kể sơ các dòng phái của Tây Tạng để bạn đọc và người nào muốn theo học với Phật Giáo Tây Tạng khỏi bị bỡ ngỡ trước vấn đề “Lạt Ma có vợ”.
Với dân Tây Tạng, một vị Lạt Ma có vợ hay không, việc đó không thành vấn đề. Hơn thế nữa, trong giáo lý Mật Tông Tây Tạng (Tantrayana) có những pháp môn mà trong đó hành giả cần phải có vợ hay một người nữ cùng tu để tập chuyển hóa những năng lực tính dục (énergie sexuelle) hầu sớm mau đắc đạo.
Ðây là một điều mà Phật tử Việt Nam không thể nào hiểu nổi, nhiều khi còn cho đó là bàng môn tả đạo. Và đây cũng là một lý do mà tôi không muốn truyền bá Phật Giáo Tây Tạng sau sáu năm học Ðạo với các Lạt Ma.
Tạm bỏ qua chuyện Sư Nhật hay Lạt Ma Tây Tạng có vợ, bây giờ nói đến chuyện Sư thật hoàn tục để cưới vợ.
Theo truyền thống Phật Giáo ở các nước Nam Tông như Thái Lan, Miến Ðiện, Tích Lan, Lào, Cam Bốt, các vị Sư tu hành lâu năm hoàn tục vẫn được Phật tử kính nể vì họ quan niệm rằng vị Sư đó dù đã hoàn tục nhưng kiến thức và phẩm chất đạo đức của ông vẫn không mất.
Ngược lại trong giới Phật tử Việt Nam thì lại quan niệm việc hoàn tục là một sự thất bại, có nghĩa là vị Sư đó tu hành không đến nơi đến chốn, không có nghị lực để bị sa ngã, v.v… Vì đa số Phật tử quan niệm như thế nên các vị Sư hoàn tục thường có mặc cảm tội lỗi, hoặc xấu hổ rồi đoạn tuyệt hẳn với Ðạo Phật, không dám bén mảng tới chùa nữa. Như vậy không những chùa mất đi một vị Tăng mà còn mất luôn một người Phật tử nữa. Ðây là một điều đáng tiếc và quan niệm này hãy còn thiếu nhiều thương yêu hiểu biết.
“Chiếc áo không làm nên Thầy tu” kia mà! Sao chúng ta cứ mải vô minh cố chấp vào hình thức? Tu là phải như thế này, phải như thế kia!
Từ lúc vào chùa đi tu đến nay, tôi đã chứng kiến nhiều huynh đệ hoàn tục. Ban đầu tôi cũng bất mãn, thầm trách Thầy tôi sao không khuyên răn ngăn cản họ. Nhưng rồi với thời gian, tôi hiểu và thông cảm, thấy rằng họ còn những bài học cần phải học, cần phải hiểu để tiến hóa. Ðạo không nhất thiết phải học ở trong chùa hay trong kinh sách mà Ðạo ở khắp mọi nơi.
Có nhiều Phật tử phê phán: “Tội nghiệp Thầy đó nghiệp nặng, hoặc Sư Cô đó còn nặng nợ trần gian”. Họ làm như mình không còn nặng nợ nữa vậy. Có biết đâu mình cũng nặng nợ như ai nhưng trốn nợ hoặc chưa tới lúc phải trả đó thôi.
HT Thích Trí Siêu
Nam mo a di da phat
http://www.yogavocuc.com/?p=6629
Bậc Chủ của Hoạt Động - Đức KARMAPA thứ XV
http://groberquan.blogspot.com/2013/02/karmapa155.html
26. Lễ Monlam tại Bồ đề Đạo tràng - Ký Sự Sau 1975 - Nguyễn Huỳnh ...
https://nguyenhuynhmai.com/a1956/26-...o-de-dao-trang
Karmapa hay Cát Mã Ba, Hạt Mã La, Hạt Mã Ba. Dịch nghĩa là Người hành theo Phật. Lãnh tụ tinh thần của phái Cát mã Ca nhĩ cư (Karma-kagyu), và dòng
Tổ thứ 17 Karmapa Ogyen Trinley Dorje
phát biểu hùng hồn về thuyết ăn chay
Do Ban Báo chí Hàn Quốc (Nguyên văn tiếng Hàn)
Vào ngày 27 tháng 12, Kim niên 3 (2006), đại lễ Kagyu Monlam hằng năm lần thứ 24 đã được tổ chức tại Bodhgaya, Ấn Ðộ, nơi Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đạt khai ngộ. Ðây là thời điểm tất cả các Phật Tử từ khắp nơi trên thế giới tụ họp lại trong 8 ngày này để cầu nguyện, thiền định và thảo luận về giáo lý.
Cuộc hội được chủ trì bởi vị Tổ thứ 17 Karmapa Ogyen Trinley Dorje, và ngài đã có một bài diễn thuyết hùng hồn về ăn chay vào ngày 3 tháng 1, Kim niên 4 (2007). Ngài kêu gọi tất cả tu sĩ thuộc hệ thống tu viện Kagyupa hãy từ bỏ thịt. Ngài nói: "Bất cứ tu viện nào thuộc dòng Kamtsang Kagyu, nhà bếp của tu viện đó không thể và không nên nấu bất cứ thức ăn nào với thịt. Và nếu quý vị mang thịt vào và nấu trong bếp của tu viện, thì có nghĩa là quý vị không xem tôi là thầy, quý vị không thuộc dòng tu Karma Kagyu. Và không có gì để bàn cãi về chuyện ấy. Chấm dứt ngay. Việc đó rất quan trọng". Bằng cách trích dẫn vài câu trong Kinh Phật và trong những bài thuyết giảng của các vị Lạt Ma tiền nhiệm, như Mahayana, Vinaya, Bodhisattvayana, Do Lanka Shepa, Na Nyen Le Depa Do và Mikyo Dorje, v.v..., Ngài củng cố quan điểm của mình rằng ăn thịt là điều cấm kỵ trong truyền thống Phật giáo. Ðồng thời Ngài nhấn mạnh rằng dùng rượu và thịt để cúng dường cũng không thể chấp nhận được và không một ai được dính líu đến việc mua bán thịt. Tất cả các tín đồ đang dính dáng đến những chuyện này phải chấm dứt.
Nhằm giúp các tu sĩ từng bước từ bỏ việc ăn thịt, Ðức Karmapa Ogyen Trinley Dorje thứ 17 bảo họ giơ tay lên nếu họ sẵn lòng bắt đầu bằng cách ăn thịt chỉ 1 lần 1 ngày, ăn thịt chỉ 1 lần 1 tuần hay ăn thịt chỉ 1 lần 1 tháng, không ăn thịt vào những ngày lành, từ bỏ việc ăn thịt trong khoảng thời gian 1 năm hay 3 năm, hoặc từ từ cắt giảm việc ăn thịt rồi sau đó bỏ hoàn toàn. Ngài Karmapa vô cùng hài lòng trước sự hưởng ứng từ các tu sĩ.
Trong suốt 5 ngày lễ, tổ chức Thiện nguyện viên Tây Tạng cho Thú vật (TVA) đã thành công trong việc quảng bá thông điệp ăn chay đến công chúng bằng cách trưng bày hình ảnh và phân phát CD, băng thâu hình phim tài liệu và tạp chí.
Quả là một sự khích lệ đặc biệt khi chứng kiến một vị lãnh đạo tôn giáo công khai nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ăn chay, là điều từng được cho là khó thực hiện ở Tây Tạng.
Ðể xem toàn bộ bài diễn văn của Ðức Karmapa Ogyen Trinley Dorje thứ 17 vào ngày 3 tháng 1, 2007, xin tham khảo:
http://www.kagyumonlam.org/Monlam2007/veg.htm (tiếng Anh)
http://www.shabkar.org/download/pdf/...etarianism.pdf (tiếng Anh)
http://www.kagyumonlam.org/docs/home.htm (tiếng Anh)
http://www.godsdirectcontact.org/uni.../182/vg_65.htm
Cuộc sống, sự lưu vong và đời sống tâm linh của Đức Karmapa Phật giáo Tây Tạng
Ngay cả trước khi sinh ra, đã có những dấu chỉ cho thấy Apo Gaga là người đặc biệt
Ngày 8 tháng 7 năm 2014
Cuộc sống, sự lưu vong và đời sống tâm linh của Đức Karmapa Phật giáo Tây Tạng
Karmapa Ogyen Trinley Dorje thứ 17 biểu diễn nghi thức điệu múa Mahakala (Ảnh: Telegraph)
T Larger | Smaller
Ngay cả trước khi chào đời vào năm 1985, trong một gia đình du mục bình dân ở miền đông Tây Tạng, đã có những dấu chỉ cho thấy cậu bé Apo Gaga – “người thầy hạnh phúc” – là người rất đặc biệt. Người ta nói, mẹ ngài đã chứng kiến một giấc mơ về ba con cò trắng nói với bà rằng bà sẽ sinh một người con trai hóa thân vĩ đại; lúc sinh ngài có một con chim bồ câu bay đáp xuống lều nơi bà nằm và cất tiếng hót. Người ta kể rằng, việc bà sinh hạ rất nhẹ nhàng và âm thanh tiếng chim cu gáy nghe như bản nhạc từ trời cao.
Khi lên bảy, cậu bé nói với gia đình rằng trong ba ngày tới một nhóm người sẽ đến đưa cậu đi. Họ đã đến đúng hẹn, nhóm người theo chỉ dẫn từ lá thư của Đức Karmapa 16 – một trong những nhân vật quan trọng nhất trong Phật giáo Tây Tạng – trước khi qua đời tại Mỹ vì bệnh ung thư vào năm 1981, được báo trước về việc hóa thân của ông thành một người tên là Apo Gaga, chính là đứa trẻ này.
Để hợp với phong tục, ngài đã được đưa đi khỏi gia đình đến tu viện Tsurphu của tổ tiên ở Tsurphu trung tâm Tây Tạng, nơi đó vào năm 1992, ngài đã đăng quang như Đức Karmapa thứ 17, người đứng đầu một dòng dõi có từ thế kỷ 12.(Dõng dõi Đạt Lai Lạt Ma có từ thế kỷ 15).
Ngài đặt tên tu viện mới là Ogyen Trinley Dorje, và thụ huấn một nền giáo dục nghiêm ngặt, phải nhớ hàng ngàn trang của triết học Phật giáo và các nghi lễ. Đức Karmapa có một vị thế hiếm có giữa người Trung Quốc với Phật giáo Tây Tạng.
Các vị thầy của ngài có thái độ cứng rắn nên bị cấm lưu vong Ấn Độ; công an tại các cửa tu viện, và mật vụ giám sát chặt chẽ các hoạt động của ngài.
Lúc 14 tuổi, rõ ràng là Trung Quốc muốn đặt ngài như một con rối, và ép buộc ngài tố cáo Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ngài đã bỏ đi trong đêm với một nhóm nhỏ các nhà sư. Ngài vượt qua 900 dặm trên những dãy núi vào Ấn Độ để đến với Đức Đạt Lai Lạt Ma cùng với chân bị đau và sự mỏi mệt vào tháng Giêng năm 2000. Một bài báo đã đăng về ngài với tựa đề “Cậu bé siêu nhân”.
Kể từ đó, thời gian ở Ấn Độ khó khăn hơn đối với ngài. Trong nhiều năm ngài đã bị ít nhiều giới hạn trong tu viện nhỏ, mượn của Đức Đạt Lai Lạt Ma, một phần vì lo ngại cho sự an toàn của mình, mặt khác ngài bị nghi ngờ là một điệp viên của Trung Quốc. Những nghi ngờ rồi cũng qua đi. Nhưng do nhạy cảm chính trị, ngài đã bị cấm đi vào các tu viện ở Sikkim là đường biên giới với Trung Quốc, nơi mà vị tiền nhiệm của ngài thiết lập khi thoát khỏi Tây Tạng vào năm 1959; và cho đến tháng vừa qua ngài chỉ được phép rời Ấn Độ hai lần để đi thuyết giảng ở Mỹ.
Nguồn: The Telegraph
http://vietnam.ucanews.com/wp-conten...nley-Dorje.jpg
http://vietnam.ucanews.com/2014/07/0...giao-tay-tang/