https://uphinhnhanh.com/images/2017/...69915702_n.jpg
Chuỗi lưu ly 108 hạt, có kiềm theo lục tự
( https://www.facebook.com/phapbaomattong/?ref=py_c )
========
K biêt câu thân chú nay cua vi phât nao: án cu ru, kun la hri xoa ha.
Printable View
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...69915702_n.jpg
Chuỗi lưu ly 108 hạt, có kiềm theo lục tự
( https://www.facebook.com/phapbaomattong/?ref=py_c )
========
K biêt câu thân chú nay cua vi phât nao: án cu ru, kun la hri xoa ha.
Chuỗi tay đá Lapis Lazuli
-----------
Lapis Lazuli là những tinh thể đá có màu xanh dương xen lẫn với các chấm có màu sắc khác như trắng, nâu… Và đá có thể tìm thấy tại các nước Nga, Chi Lê, Mỹ hay vùng núi tại Pakistan và Afghanistan.
Người ta tin rằng đá Lapis Lazuli đến từ thiên đường nên có vẻ đẹp vô cùng đặc biệt và nhiều tác dụng có ý nghĩa về tâm linh.
Người Ai Cập cổ đại thường tôn thờ và đặt Lapis Lazuli trong các đền thờ để tỏ lòng thành kính với Đức Chúa Trời (bởi vì người ta nghĩ đá có nguồn gốc từ Thiên Đường). Đồng thời họ cũng hay đặt đá bên cạnh người đã ra đi với hi vọng viên đá có thể bảo vệ người trên Thiên Đường.
Nhiều tín đồ Phật giáo cho đá Lapis Lazuli có thể xua tan sự ốm yếu, khiến một người trở nên nhanh nhẹn và linh hoạt đồng thời hình thành sự chân thành và có thể tin cậy.là biểu tượng của sự thật lòng. Người nào mang đá trên tay sẽ nhận được sự yêu mến và tin tưởng của người xung quanh.có thể thanh lọc tạp chất trong cơ thể và tâm hồn.
Tràng hạt làm từ Lapis Lazuli có thể điều hòa tính cách, xua tan sự giận dữ và khiến đầu óc minh mẫn lúc làm việc. Ngoài ra, đá còn giúp bạn trở nên tự tin và làm chủ cảm xúc bản thân, đem lại sự mạch lạc rõ ràng trong lời nói. Đá còn có thể trừ tà, chống kẻ tiểu nhân đem tới may mắn và thuận lợi trong công việc.
Tác dụng chữa bệnh
Cho Lapis Lazuli tiếp xúc với trán có thể giúp ta tiếp xúc với quyền năng vô hạn khiến tâm hồn được mở rộng, tầm nhìn thông suốt và tăng năng lực ngoại cảm và trực giác.
Đeo đá thường xuyên dưới dạng dây chuyền sẽ nạp năng lượng cho vùng ngực, tránh mắc các bệnh về họng, cổ, tai, thanh quản, phổi, ngực và tuyến ức đồng thời giảm đau và làm dịu mắt vết sưng tấy, cải thiện và nâng cao hệ miễn dịch và năng lực phục hồi.
Đá Lapis Lazuli còn có tác dụng giảm đau, ngủ ngon, chống hoa mắt và tẩy uế.
Trong mật giáo thích hợp cho pháp tăng ích. Dùng để tăng trưởng phước báu
Và đặc biệt là Chiêu Tài Tiến Bảo
-----------
Chất liệu: Đá Lapis
Kích cỡ: 10 mm .
Giá inbox hoặc liên hệ 0932975776
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...46439319_n.jpg
https://www.facebook.com/Ph%E1%BA%A1...6401/?ref=py_c
Xông trầm
Giá siu hot, Chỉ với 149k
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...72550964_n.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...81094871_n.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...40797610_n.jpg
https://www.facebook.com/Ph%E1%BA%A1...6401/?ref=py_c
===========
Xông trầm đồng bát bảo cát tường loại nhỏ
https://www.facebook.com/tuongmattong/?ref=py_c
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...52614_n.md.jpg
========
Lư Xông Trầm ⭐️
Mẫu lư xông trầm và nhang khoanh mini, với họa tiết bát đại cát tường tạo nên điểm nhấn.
🍀Kích thướt đường kính: 8x10cm
🍀Chất liệu đồng
☀️GIÁ PHÁT HÀNH : 350.000vnđ...
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...42375503_o.jpg
https://www.facebook.com/mandalaquynhonshop/?ref=py_c
Mặt đeo Thần chú " Lục Đạo Kim Cang "
Chất Liệu : Thép không Ghỉ
Giá :250.000 vnđ . Đã bao gồm phí vận chuyển
_Lục Đạo Kim Cương Chú được trích ra từ “Đáp Trác Chú Bản” trong Mật
Giáo. Lại có tên gọi là Trung Hữu Giáo Thụ Thính Văn Giải Thoát, hoặc bản dịch
của thời hiện đại là Vô Vi Sát Na Chứng Trí Kinh.
_Công Đức lợi ích của Lục Đạo Kim Cương Chú:
Lục Đạo Kim Cương Chú có thể dịch là Đới Thành Phật Chú. Chú này là Kim
Cương Tổng Trì với Tổng Tâm Chú của năm Đức Phật ở năm phương, có Uy Thần
cảm ứng, chuyên độ chúng sinh trong sáu đường (Trời, Người, A Tu La, súc sinh, Quỷ
đói, Địa Ngục) thành Phật, Công Đức rất thù thắng chẳng thể nghĩ bàn
Chú này một lần trải qua tai liền hay tiêu trừ Nghiệp đời trước. Phàm lỗ tai nghe
tiếng của Chú này, hoặc con mắt nhìn thấy Chú này, hoặc thân tay tiếp chạm Chú
này… đều tiêu diệt nghiệp chướng trong ba đời.
https://www.facebook.com/tuongmattong/?ref=py_c
Cửa hàng ở địa chỉ 60B đường Nguyễn Sơn. Quận tân phú. HCM.
Nhang Ngũ Sắc Cúng Dường
Kích Thước : cao 12cm , 15cm, 18cm
Giá thỉnh vui lòng điện thoại : 0902 . 572 . 599
https://www.facebook.com/tuongmattong/?ref=py_c
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...55809645_n.jpg
=========
Hương tháp cúng dường
Kích thướt : 10cm
Giá phát hành : 100.000
Liên hệ : 0981.078.419
Cửa hàng : 161B Nguyễn Thái Học - Quy Nhơn - Bình Định
https://scontent.fsgn5-3.fna.fbcdn.n...94&oe=5AD707DD
Mandalaquynhon.com chuyên cung cấp các mặt hàng pháp khí, tôn tượng , các văn hóa phẩm khác
https://www.facebook.com/pg/mandalaq...455412859&rt=6 / https://www.facebook.com/mandalaquynhonshop/?ref=py_c
CÁCH THỨC MUA HÀNG :
👉Mua hàng trực tiếp tại Số 161B Nguyễn Thái Học -Quy Nhơn - Bình Định
👉 Đặt hàng online bằng cách INBOX hoặc COMMENT shop sẽ liên hệ tư vấn,tạo đơn hàng cho bạn
🚀 Giao hàng toàn quốc thu tiền tại nhà sau 2- 4 ngày
=================================
🎩 MANDALA SHOP
Chuyên cung cấp sỉ lẻ các mặt hàng văn hoá phẩm phật giáo - Pháp khí tôn tượng mật tông nepal.
🏠 ĐỊA CHỈ : 161B Nguyễn Thái Học - Quy Nhơn -Bình Định
☎ Hotline : 0981.078.419
Web: mandalanepal.com
Khăn khata ( khăn bạn Phước )
In họa tiết bát cát tường .
Giá phát hành : 40.000/ khăn
" khuyến mãi tháng 11" mua 5 khăn trở lên sẽ được tặng 1 khata trắng lụa dập nổi họa tiết bát cát tường - hàng đó chỉ tặng ko bán nhé .
Liên hệ : 0981.078.419
Cửa hàng : 161B Nguyễn Thái Học - Quy Nhơn - Bình Định
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...97120_n.md.jpg
Khata khăn ban phước
40.000 ₫
Shop về hàng khăn khata ( khăn ban phước )
Kích thướt 2 mét 50
Giá phát hành: 50.000/ khăn
.......................
Liên hệ : 0981.078.419
Cửa hàng : 161B Nguyễn Thái Học, Quy Nhơn; Bình Định
Www.mandalanepal.com
https://scontent.fsgn5-3.fna.fbcdn.n...7c&oe=5A8C115C
https://scontent.fsgn5-3.fna.fbcdn.n...8a&oe=5ACC0454
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...15661824_n.jpg
Kinh văn cúng sang
70.000 ₫
CHỈ NGŨ SẮC KIM TUYẾN
Dùng gia trì, kết đàn; độ bề cao . Chất lượng tốt.
🍀Kích thướt: 80m
🍀Chất liệu chỉ ngũ sắc kim tuyến
☀️GIÁ PHÁT HÀNH : 80.000 vnđ/ cuộn
Công năng:
Dây Ngũ Sắc là bảo vật mà Đạo Giáo cũng như Phật Giáo hay dùng để khai vận, trong Phật Giáo có nói, Dây Ngũ Sắc là các màu Lục, Hồng, Hoàng, Bạch, Hắc tượng trưng cho năm loại Pháp Môn Phật của Như Lai gồm Tín, Tiến, Niệm, Định, Tuệ mà Đạo Giáo truyền thống lại có nói, ngũ sắc là đại biểu cho Mộc, Hỏa, thổ, Kim, Thủy tất cả năm hành, cũng là Đông Tây Nam Bắc Trung Cung 5 phương vậy.
Một số Pháp Khai Vận bằng Dây Ngũ Sắc:
Đại Bi Tâm Đà La Ni có ghi rằng, Đức Quán Thế Âm Bồ tát khai thị cho Phạm Thiên Vương (Vua Cõi Trời) rằng: “Trước tiên trì tụng Đại Bi Chú năm biến, sau đó lấy các dây gồm năm màu trắng, lam, đen, đỏ, vàng là 5 sắc hợp bện thành một sợi dây bền chắc, tiếp đó tụng Địa Bi Chú 21 biến, mỗi lần tụng lại thắt một nút, tổng cộng kết thành 21 nút, dùng nó đeo cổ, ắt có công hiệu thần diệu bất khả tư nghì.”
Trong Kinh Điển nhà Phật có nói đến Dây Ngũ Sắc cũng là đại biểu cho Kim Cương Giới của Ngũ Phật, thân nếu như đeo Dây Ngũ Sắc, Tâm quán tưởng Tây Phương A Di Đà Phật, Nam Phương Bảo Sinh Như Lai Phật, Bắc Phương Bất Không Thành Tựu Phật, Đông Phương A Súc Bệ Phật, Chính Giữa là Đại Nhật Như Lai Phật ! Năm phương Đại Phật đều chiếu Phật Quang ánh sáng vàng chói của giải thoát, tức là có thể đắc được Ngũ Phương Kim Cương Đại Phật bảo hộ thân mình. Dây Ngũ Sắc ngoài ra tác dụng khai vận, bảo vệ bình an còn có thể đem đến “Hay gặp Bạn Tốt, cấp cho tiền tài thức ăn đầy đủ, muốn cầu điều chi thường được viên mãn” đó là những điều ghi lại trong Kinh Sách.
Trong tập tục dân gian, Dây Ngũ Sắc có thể mang đến nhân duyên, tình cảm tốt lành, ví như: Người nữ chưa có hôn nhân, có thể chọn ngày có trăng đẹp, thành tâm cầu nguyện có được nhân duyên tốt, sau đó đem Dây Ngũ Sắc đeo tại cổ tay, có thể tăng thêm vận Đào Hoa tốt.
Trẻ nhỏ mới sinh các tháng đầu, tại chỗ nằm treo một sợi Dây Ngũ Sắc, sao cho vừa tầm tay với của trẻ, tất sẽ mang đến ngũ phương dẫn dắt gia tăng nhân duyên, khi lớn lên cầu chức nghiệp, công danh tự nhiên sẽ có Quý Nhân giúp cho thành công. Ấy là bởi công năng chiêu cảm nhân duyên tốt lành, có từ lúc mới ra đời vậy.
Đương nhiên bất kể nam nữ, chỉ cần có đeo Dây Ngũ Sắc trên người, tất cả đều thường cảm thấy Tâm Tình yên ổn, cảm thấy tự mình có sức mạnh thu hút; cho nên thường được Quý Nhân hỗ trợ cho.
Dây Ngũ Sắc có thể đeo tại cổ tay, có thể đeo trên cổ hoặc bỏ túi áo ngực mang theo người, hoặc bỏ phong bao đỏ nằm gối đầu; Có chăng cần lưu ý nhất thiết một số cấm kỵ khi dùng dây ngũ sắc như sau:
1. Khi đã đeo dùng Dây Ngũ Sắc không được buông lời chê bai, mất lòng tin hoặc bất kính. Đã không dùng thì không ngay từ đầu.
2. Muốn gia tăng nhân duyên khác giới, nhất định cần làm ở dưới đêm trăng sáng đẹp cầu nguyện.
3. Dây Ngũ Sắc không thể để vô ý mà làm đứt hoặc đánh mất, nếu như bị đứt hoặc không dùng nữa, cần lấy vải đỏ bọc lại cất vào chỗ sạch sẽ hoặc đem đến nơi chùa miếu đốt hóa là được.
4. Trong Kinh Phật đã nói, Dây Ngũ Sắc đại biểu cho Ngũ Phật trong Kim Cương Giới, bởi vậy nên khi mang dây Ngũ Sắc thì nên thường Tâm Niệm hình ảnh 5 vị Phật như kể trên. Nếu thường trì chú thêm vào dây ngũ sắc thì công hiệu càng lúc càng mạnh.
===================================
CÁCH THỨC MUA HÀNG :
👉Mua hàng trực tiếp tại Số 161B Nguyễn Thái Học -Quy Nhơn - Bình Định
👉 Đặt hàng online bằng cách INBOX hoặc COMMENT shop sẽ liên hệ tư vấn,tạo đơn hàng cho bạn
🚀 Giao hàng toàn quốc thu tiền tại nhà sau 2- 4 ngày
=================================
🎩 MANDALA SHOP
Chuyên cung cấp sỉ lẻ các mặt hàng văn hoá phẩm phật giáo - Pháp khí tôn tượng mật tông nepal.
🏠 ĐỊA CHỈ : 161B Nguyễn Thái Học - Quy Nhơn -Bình Định
☎ Hotline : 0981.078.419
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...61197269_n.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...59143936_n.jpg
ĐĨA CÚNG KHÓI
Là pháp tu tịnh trừ nghiệp chướng. Giản dị và mau chóng thành tựu.
Đây là thời khóa tu hàng ngày của các hành giả. Chỉ cần dùng bột hương và thực phẩm.
Đốt hương để tỏa mùi thơm, nhờ chân ngôn màu nhiệm và sự gia trì của chư Phật Bồ tát khiến cho hành giả luôn giữ được tâm thanh tịnh.
🍀Kích thướt đường kính: 10cmx4cm
🍀Chế tác tinh sảo, đồng dày chắc
☀️GIÁ PHÁT HÀNH : 150.000 vnđ
===================================
CÁCH THỨC MUA HÀNG :
👉Mua hàng trực tiếp tại Số 161B Nguyễn Thái Học -Quy Nhơn - Bình Định
👉 Đặt hàng online bằng cách INBOX hoặc COMMENT shop sẽ liên hệ tư vấn,tạo đơn hàng cho bạn
🚀 Giao hàng toàn quốc thu tiền tại nhà sau 2- 4 ngày
=================================
🎩 MANDALA SHOP
Chuyên cung cấp sỉ lẻ các mặt hàng văn hoá phẩm phật giáo - Pháp khí tôn tượng mật tông nepal.
🏠 ĐỊA CHỈ : 161B Nguyễn Thái Học - Quy Nhơn -Bình Định
☎ Hotline : 0981.078.419
https://scontent.fsgn5-3.fna.fbcdn.n...1f&oe=5ACA5AFD
https://www.facebook.com/mandalaquynhonshop/?ref=py_c
Amulet thức cúng Naga
Dùng phóng sanh giải hạn - tam tai - oan gia trái chủ - naga
Giá : 300k / gói
Xuất xứ : Tự viện Mật Tông Tây Tạng vùng Tứ Xuyên .
Size : dài 18cm ,
bên trong chứa nhiều ngũ cốc , kinh , thức cúng ..
Nặng : 180gr ,
do các quý Lama thực hiện và ban phước .
Liên hệ: 0981.078.419
Địa chỉ shop: 161B Nguyễn Thái Học - Quy NHơn - Bình Định
.
Naga , trong Phật giáo là loài rồng / rắn , có thoả hiệp công ích / bảo vệ kinh điển ...với các vị Phật . Có thể nhìn thấy hình tượng Naga khắp nơi ở các công trình kiến trúc như lời bảo chứng tri ân công đức . Do vậy quý Thầy dạy " việc con ng giết hại loài này và những giống thuỷ tộc bị sát sanh trong nhiều đời , tạo ân oán sâu dày gây nhiều chướng ngại cho cuộc sống tiến thân hay đường tu của mỗi người .
Cố gắng tránh sát sanh , tránh giết mổ , tránh ăn thịt và năng phóng sinh để cầu nguyện bạt trừ chướng ngại , gieo trồng lại ruộng phúc điền cho bản thân và con cháu "
Những ai có ân oán Naga rất dễ biết . Tất nhiên cũng nhiều dấu hiệu khác nhưng , Thông thường sanh ra da dẻ xấu , hay nổi mẩn / dị ứng / phong ban / mụn mằn / mắc nhg bịnh ngoài da , vảy nến , .. Dị ứng với thức ăn / đồ biển .. Hiếm có 1 bữa ăn ngon lành trọn vẹn .
Sử dụng amulet thức cúng này : viết tên / tuổi / địa chỉ mình lên mặt sau gói cúng , thực hiện / tham giavào bất kì buổi phóng sanh cá nào cũng đc . Sau khi đọc bài kinh cầu nguyện xong thi ném gói thức cúng theo dòng cá ra sông / biển .
Nguyện mọi sự cát tường đến quý đạo hữu .
====
Amulet thức cúng Naga
Dùng phóng sanh giải hạn - tam tai - oan gia trái chủ - naga
Giá : 300k / gói
Xuất xứ : Tự viện Mật Tông Tây Tạng vùng Tứ Xuyên .
Size : dài 18cm ,
bên trong chứa nhiều ngũ cốc , kinh , thức cúng ..
Nặng : 180gr ,
do các quý Lama thực hiện và ban phước .
Liên hệ: 0981.078.419
Địa chỉ shop: 161B Nguyễn Thái Học - Quy NHơn - Bình Định
.
Naga , trong Phật giáo là loài rồng / rắn , có thoả hiệp công ích / bảo vệ kinh điển ...với các vị Phật . Có thể nhìn thấy hình tượng Naga khắp nơi ở các công trình kiến trúc như lời bảo chứng tri ân công đức . Do vậy quý Thầy dạy " việc con ng giết hại loài này và những giống thuỷ tộc bị sát sanh trong nhiều đời , tạo ân oán sâu dày gây nhiều chướng ngại cho cuộc sống tiến thân hay đường tu của mỗi người .
Cố gắng tránh sát sanh , tránh giết mổ , tránh ăn thịt và năng phóng sinh để cầu nguyện bạt trừ chướng ngại , gieo trồng lại ruộng phúc điền cho bản thân và con cháu "
Những ai có ân oán Naga rất dễ biết . Tất nhiên cũng nhiều dấu hiệu khác nhưng , Thông thường sanh ra da dẻ xấu , hay nổi mẩn / dị ứng / phong ban / mụn mằn / mắc nhg bịnh ngoài da , vảy nến , .. Dị ứng với thức ăn / đồ biển .. Hiếm có 1 bữa ăn ngon lành trọn vẹn .
Sử dụng amulet thức cúng này : viết tên / tuổi / địa chỉ mình lên mặt sau gói cúng , thực hiện / tham giavào bất kì buổi phóng sanh cá nào cũng đc . Sau khi đọc bài kinh cầu nguyện xong thi ném gói thức cúng theo dòng cá ra sông / biển .
Nguyện mọi sự cát tường đến quý đạo hữu .
https://scontent.fsgn5-3.fna.fbcdn.n...54&oe=5AD21703
https://www.facebook.com/mandalaquynhonshop/?ref=py_c
Phan tròn ngũ sắc
Giá phát hành 300.000/ 1 phan
Liên hệ : 0981.078.419
Cửa hàng : 161B Nguyễn Thái Học - Quy Nhơn- Bình Định
“Nước Ca Tỳ La có một Trưởng giả, vợ ông sanh đứa con trai, ngay lúc đứa bé ra đời, trên hư không có xuất hiện một cái phan lớn, do đó mà đặt đứa bé tên là Ba Đa Ca. Sau này đi xuất gia, đắc quả A La Hán. Bây giờ các Tỳ kheo hỏi nhân duyên kiếp trước của Ba Đa Ca. Phật bảo đại chúng: Ba Đa Ca vào thời quá khứ, sau khi Phật Tỳ Bà Thi nhập Niết Bàn, ông may một cái phan dài treo trên tháp Phật. Do công đức ấy mà 91 kiếp không rơi vào đường ác, thường treo phan báu được cái vui ở cõi trời”.
https://scontent.fsgn5-3.fna.fbcdn.n...c3&oe=5A8ADB82
https://www.facebook.com/mandalaquynhonshop/?ref=py_c
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...itled5379d.png
http://vietnalanda.org/Translations/...%20Gar%20R.pdf
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...itled74eb6.png
Minh chú tẩy trừ và thanh tịnh hoá bánh cúng ‘torma’:
Om Ah Bighnan Ta Kritta Phat
Tịnh chú:
Om Svabhava Shuddha Sarva Dharma Svabhava Shuddho Ham
The Maha-Vairocana-Abhisambodhi Tantra: With Buddhaguhya's Commentary
https://books.google.com.vn/books?isbn=1135796548 - Dịch trang này
Stephen Hodge - 2005 - Philosophy
( 196b) The mantra for the oblations: NSB GAGANA-SAMASAMA SVAHA. These should done both at the beginning and the end. For rituals where you recite the essence mantras, you should recite: OM BHAGAVAN VAIROCANA IDAM GANDHI PR/77 GRHYA IDAM ME KARYA KURU SVAHA, doing likewise for them all ...
The Argha Mantra:- Namaḥ Samantabuddhanam, Gaganasamasama Svaha. (Homage To All Buddhas! O You Who Are Equal To The Sky And Unequaled! Svaha!)
https://vi.scribd.com/document/19624...d-Bodhisattvas
======
- Gagana sama-asama svāhā: Quyết định thành tựu Đẳng Vô Đẳng như hư không)
)namaḤ Samanta-buddhĀnĀṂ_ Gagana Sama Asama SvĀhĀ Dùng 2 Tay Nâng Vật Khí Ngang Trán, Quỳ Gối Tụng Chân Ngôn 3 Lần Dâng Hiến Át Già
You can create new ringtone& immediately assign to contact or set as default ringtone. You need to manually write your ...
[PDF]呉音から西洋古典語へ
https://tsukuba.repo.nii.ac.jp/?action=repository...
Dịch trang này
viết bởi 秋山学
呉音から西洋古典語へ. ― 第 部 印欧語文献としての弘法大師請来密 経典 ―. 24】如来念処. Namaḥ samanta-buddhānāṃ tathāgata-smṛti-sattva-hita-abhyudgata gaga- na-sama-asama svāhā. 普き諸佛に帰命す.如来の念をもっ smṛti 有情の利益 sattva-hita. (<√dhā)を現出する abhi-ud-gata,虚空に gagana 等しく無等比なる.
=========
以二手捧阏伽器,口诵真言。观想献 阏伽水,行者三业得清净。
【秘】东密十八道行法大解密(四) 请本尊
【唐密真言】:
南么(1) 三曼多勃驮喃(2) 伽伽娜三 三摩(3) 莎诃(4)
namah(1) samanta-buddhanam(2) gagana-samasama(3) svaha(4)
二十二、閼伽 閼伽香水である。閼 は無垢と言い、或は円満と言う。印 宝珠の印にして、一滴の閼伽より雲 海の供養を流出する意である。真言 「ががのう.こくうさんば.あさん 」
【东密真言】:Onn . ba-za-ra . da-gya-ta . unn
https://uphinhnhanh.com/images/2017/12/17/K.png
http://blog.sina.com.cn/s/blog_7ed6eace0102v1jy.html
======
Mật Tạng Bộ 2 – No. 949 (Tr.190àTr.193)
KỲ ĐẶC TỐI THẮNG KIM LUÂN PHẬT ĐẢNH
NIỆM TỤNG NGHI QUỸ PHÁP
Hán dịch: Không biết tên người dịch
Việt dịch: Sa Môn THÍCH QUẢNG TRÍ
Phục hồi Phạn Chú : HUYỀN THANH
Chân Ngôn tắm gội:
Úm, tát phạ bà phạ truật độ hám
輆 辱矢向 圩砰曳
OṂ_ SVABHĀVA ŚUDDHA-UHAṂ
Do tụng Minh ba lần nên ba nghiệp Thân, Khẩu, Ý cho đến khắp cả Pháp Giới…tất cả đều thanh tịnh.
https://quangduc.com/a54577/ky-dac-t...-nghi-quy-phap
_Tiếp kết Phụng Át Già Ấn:
Hai tay ngửa lòng như đồ đựng
Co Tấn Lực (2 ngón trỏ) lại bên Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa)
Thiền Trí (2 ngón cái) hơi cong phụ Tấn Lực (2 ngón trỏ)
Nâng vật ba vòng, ngang trên trán
Tưởng tắm Thánh chúng, sạch như sen.
Chân Ngôn Át Già tắm rửa Thánh là:
Nẵng ma tam mãn đa mẫu đà nẫm, nga nga nẵng tảm ma sa ma, sa-phạ hạ
巧休 屹亙阢 后盍觡袎丫丫傛 屹交屹涗袎送扣
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ _ GAGANA SAMA ASAMA _ SVĀHĀ
Do kết Ấn này, tụng Chân Ngôn, dâng hiến Át Già tắm rửa Thánh Chúng nênm biểu thị cho nghiệp dơ bẩn từ vô thủy của người tu hành đều tiêu trừ, được trong sạch như hoa sen màu nhiệm, đời sau đắc được Trí Vô Nhiễm.
============
át già khí
(閼伽器) Vốn chỉ cái đồ đựng át già, sau chuyển sang chỉ chung các đồ dùng cúng Phật. Cũng gọi Át-ca-khí. Phật Tổ Thống Kỉ quyển 43 (Đại 49, 398 trung), nói: A già (át già), đây dịch là khí (đồ dùng); phàm đồ dùng cúng dường đều gọi là a già. Đối với Mật giáo, át già là một trong sáu thứ đồ dùng, tức đồ đựng át già là một trong sáu thứ cúng dường. Đồ cúng dường này do chén át già và đài át già hợp thành. Chén át già giống hình cái bát, còn đài át già là cái đế để đặt chén lên trên. Trong chén chứa đầy át già, hoa tươi và cỏ thơm, khiến cho nước trong chén rất thơm tho tinh khiết. Cứ theo kinh Tô tất địa yết la quyển hạ phẩm Phụng thỉnh chép, đồ át già tùy theo phép tu mà có chất liệu khác nhau: hoặc làm bằng vàng, bạc, đồng, đá, gỗ v.v..hay làm bằng lá sen. Ngày nay, Mật tông phần nhiều dùng đồng hoặc vàng để chế tạo. [X. Kinh Nhuy-hi-da Q.trung phẩm Ma-ha-mạn-đồ-la; Kinh Thập Nhất Diện Quán Tự Tại Bồ-tát Tâm Mật Ngôn Niệm Tụng Nghi Quĩ; Thành Tựu Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Vương Du Già Quán Trí Nghi Quĩ].
http://phatam.org/dictionary/detail/...6/at-gia-khi/9
át già hoa
(閼伽花) Chỉ cho hoa cúng Phật đựng trong át già, thường dùng hoa tươi hoặc lá thơm tùy theo mùa. Thành Tựu Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Vương Du Già Quán Trí Nghi Quĩ (Đại 19, 596 thượng), nói: Tại hai bên ở bốn cửa đàn đều đặt hai đồ đựng át già chứa đầy nước thơm, bên trong thả hoa uất kim và các thứ hoa khác nổi lên, rất thơm ngát và tinh khiết.
http://anphat.org/dictionary/detail/...3/at-gia-hoa/9
hiến át già hương thuỷ ấn
(獻閼伽香水印) Ấn khế dâng cúng nước thơm trong Mật giáo. Một trong 18 khế ấn. Khi bưng bình át già lên, hành giả quán tưởng đây là nước rửa chân cho Thánh chúng. Chân ngôn là: Nẵng mạc tam mãn đa một đà nam nga nga nẳng sa mãng sa mãng sa phạ ha , nghĩa là: Qui mệnh phổ biến chư Phật hư không đẳng vô đẳng thành tựu . Hành giả nhờ tu pháp mà rửa sạch các phiền não và 3 nghiệp được thanh tịnh. (xt. Thập Bát Khế Ấn).
http://phatam.org/dictionary/detail/...uong-thuy-an/7
================
TOP > やさしい仏教入門 > 閼伽
■価値ある功徳の水。
■霊地の水。清浄な水。お客様に捧 る水。
■修験道においては、閼伽をお釈迦 の心の水として特に重視します。
閼伽器と樒の葉
樒 しきみ
お供え物の代表格
閼伽はサンスクリット語アルギャの 写です。阿伽、遏伽あつかとも書き す。原語の意味は価値ある物を意味 します。最初はお供物を指しました 、後にお供物を盛る容器も閼伽と呼 ようになります。
そして、インドでは仏様や神様にお え物をする時、水は必ず供えられま たので、特にお供え用の水を閼伽ま たは閼伽水と呼ぶようになりました
閼伽を汲む専用の井戸 閼伽井あか
閼伽を入れる桶 閼伽桶あかおけ
閼伽桶を置く棚 閼伽棚あかだな
閼伽を入れる器 閼伽器あかき
閼伽水を桶から器に移す坏 閼伽坏 かづき
閼伽水に浮かべて供える樒しきみ 伽の花あかのはな
といいます。
樒 しきみ
独特の香りを持つ常緑樹です。香の 、香の花、香柴、花柴、花榊はなさ きとも呼ばれます。葉や樹皮からお 香や殺虫剤が作られます。
仏事用の花として知られていますが 御神木になっている場合もあります
六種供養
密教では閼伽は大事な供養品のひと です。六種供養ろくしゅくよう=本 に供養する6種類のお供物のひとつ です。六波羅蜜に対照すると次のよ になります。
六種供養
六波羅蜜
閼伽 あか
塗香 ずこう
華鬘 けまん
焼香 しょうこう
飯食 ぼんじき
灯明 とうみょう 布施 ふせ
持戒 じかい
忍辱 にんにく
精進 しょうじん
禅定 ぜんじょう
智慧 ちえ
閼伽を除いた場合は五種供養といい す。
浄めの水 香水
閼伽水を汲むときは、身と心を清め 平等の智恵を得る、閼伽文という文 読んでから汲みます。また清浄な水 を汲むことで煩悩を洗い落とす意味 あります。
閼伽水は、そのまま潅いだり、洗っ りして浄める他、お香を入れてお加 をし、香水こうずいにして使用しま す。
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...itled08045.png
( http://tobifudo.jp/newmon/kigan/aka.html )
藏傳佛教修法灌頂居家供養獻八供手 示圖
傳在藏傳佛教的修法中,最常使用獻 供的手印。透過八供的手印,出現無 珍奇的供養,來獻供給所有十方諸佛 菩薩及本尊。
供養一般是指以飲食、臥具、湯藥, 是花、香、瓔珞、塗香、伎樂等莊嚴 品,供養佛菩薩及聖眾,而在普賢十 大行願中,亦有“廣修供養”一項。 密宗亦是七支行願中的一支。
我們以眼、耳、鼻、舌、身、意所愉 之物來供養諸佛菩薩,雖然諸佛聖 眾 並不需要這些供養,但是,為 了增長眾生的福德,故接受供養。
供養除了上供諸佛外,並且也下施六 眾生。
在藏傳佛教以水(聖眾洗足水)、飲 (閼伽水),花、香、燈、塗香、果 樂等八供來獻供。
八供表義:1、事——結手印。2、 ——八功德水。3、智——八風不動 亦解釋作:二水——功德文。花—— 佈施。香——持戒。燈——忍辱。塗 ——勤——精進。食——禪定。樂— 慧——般若。
此八供在了義上,分別代表以下的意 :
水:自性三昧水,遠離一切雜染清淨
食水:八功德水,具足一切功德。
花:自心所流露的真華,心華開發, 光徧顯。
香:自性真香,時時以三昧火燃正法 香。
燈:正覺心燈,以智慧火燃體性燈, 念返聞,心燈常明照。
塗香:本淨之香,由裹溢表,芬芳浸 法界。
果:表無上佛果,發廣大菩提心自覺 他,成證圓滿佛果。
樂:以上妙音樂供養聖眾,發願成就 陀的清淨微妙離垢妙音,為眾生演說 法,樂說無盡。
https://6.share.photo.xuite.net/khen...48866510_m.jpg
修法灌頂獻曼達手印
獻八供手印
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...48864292_m.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...48866570_m.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...48866655_m.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...48866745_m.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...48866764_m.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...48866802_m.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...48866815_m.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...48866886_m.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...48866939_m.jpg
http://blog.xuite.net/khentrulven/az...89%8B%E5%8D%B0
201208230002◆ 致喇嘛教的弟子:「您今天吃屎喝尿 沒?」
295【嗜食糞尿精血等穢物的偽藏傳佛 】
(圖:精液經血做成的甘露)
驚訝:喇嘛教長壽灌頂-燒火棍+裹腳布+喝尿 《吃屎喝尿經》
喇嘛教希阿榮博堪布的開示:
在網絡上輕率發言,是一件可怕的事 !
我們學佛人無論什麼情況下,都要仔 地取舍因果,善護身、語、意三門。 為凡夫,我們沒有能力判斷一個人是 不是成就者。(問:既然你是凡夫, 有能力判斷,我們是凡夫,也都沒有 力判斷,那你下文中所有所謂的成就 者,你有什麼能力判斷其是?我們又 什麼能力判斷而相信其是?任何一個 有能力判斷其是與不是的凡夫,卻公 然宣稱他們就是成就者,還要我們相 ,這就是在造大妄語!)
遠的不說,僅喇榮(五明佛學院)這 小小的山谷裡,自一世敦珠法王時期 三位弟子虹身成就以來的幾百年間, 以各種方式示現成就的修行者,層出 窮。有些人的事跡,生前為人所知, 些人卻終生隱藏自己的功德,甚至故 意示現離經叛道的形像,游舞人間。 按:造大妄語,出口成章,不著邊際 )
……………………
從前,菩提金剛和如來芽尊者,在衛 跟隨晉美林巴尊者學法。幾年後,晉 林巴尊者說:我的法全部交給你們了 ,你們回去修行和弘法吧,我們師徒 生可能再也無法相見了。
師兄弟二人不得不哭別上師。離開前 上師說:你們去大瑜伽士卻旺仁增千 那裡,求一個長壽佛灌頂,這對你們 會有幫助。
卻旺仁增千波是當時藏區公認最偉大 伏藏師,擁有不可思議的神通。菩提 剛、如來芽尊者和另外一位師兄弟晉 美俄才,來到瑜伽士的住處。瑜伽士 被自己的一幫小兒女弄得焦頭爛額, 說有人求灌頂,便大罵:沒看見我有 多糟糕嗎?你們是不是存心諷刺我? 按:這真是一部滑稽鬧劇中最搞笑的 面——所謂“擁有不可思議的神通” 的大瑜伽士,卻被自己生出來的一幫 兒女弄得焦頭爛額,一團糟糕,聽說 人來求法還開口大罵,怪別人存心來 諷刺他。這真是對喇嘛教滿口“大悲 、菩提心、空性見”的最真實的諷刺 )
幾人說明,求灌頂是上師晉美林巴尊 的指示後,瑜伽士才同意為他們灌頂 (按:原來喇嘛教育大師傳灌頂,既 非本著“願度一切眾生”的宏願,亦 本著上師要觀察弟子三年的規矩,靠 是來人亮出來頭和背景,人家來頭大 、背景硬,你就是被自己一幫小兒女 得焦頭爛額,也得硬著焦爛的頭皮去 他們灌頂。)
他坐在一堆亂七八糟的雜物中間,一 找不到灌頂用的拂杖,便隨手拿起一 撥火棍,又解下自己的綁腿,扎在棍 子一頭,開始為他們灌頂。(按:喇 教一貫標榜其大法的無上稀有尊貴, 這裡全被一根撥火棍扎上綁腿布,掃 得一點都不剩了。)
進行到一半時,突然想起灌頂還需要 瓶,就順手拿來一個尿壺,把裡面的 液當甘露分給三人喝。求灌頂的人, 對自己上師的教言和瑜伽士的加持力 沒有絲毫疑惑,恭恭敬敬地用手接過 液喝下去。菩提金剛更是捧過寶瓶, 把其中剩下的甘露全部喝掉了。(按 滑稽鬧劇最精彩的高潮,就在這裡!
後來,他們果然都得到長壽佛的悉地 活到高壽。菩提金剛常常說:自己本 想活到這麼老,只怪當初瑜伽士的甘 露喝得太多,想早點死都死不了! 按:可憐啊~~真是可憐!)
----------------------------------------
感慨/驚訝:
喇嘛教的“法”,真的是“世間稀有 之法啊!!!
想笑,但笑的時候,卻發現自己只有 笑、苦笑
那些盲從喇嘛教而被洗腦的愚痴人啊
何時能夠醒悟???????
喇嘛教吃屎喝尿求加持的典故(續) 轉載-1)
典故一: 那若巴祖師吃污穢之物
《那若巴傳》有一段真實的記述:
“那若巴完整領受了這些教法後,就 了師利卡馬拉寺去。
在當地,他打敗了所有傳布教法的班 達。帝洛巴內心不悅的說:‘那若巴 書中所說的都只是字而已,那些就和 小店裡賣的滲水牛奶一樣差勁。’那 巴遂請示心靈修持之力所成就的無染 益,以及自己是否應到東方卡馬魯巴 寒林修行禪定。帝洛巴就拿出一個天 蓋,裡面盛滿了不淨穢臭之物,說: 吃掉!’
那若巴只好照辦,結果看似難以下咽 穢物,竟然十分美味。
他心裡就想:‘有心靈支持力的時候 這堆穢物也具有涅槃八法味,沒有心 支持力的時候,
它就似乎穢惡不堪。同樣,不修(無 )禪定的話,煩惱就是輪回之根,但 能禪修的話,
它又成為涅槃妙樂。因此上師的意思 就是要我為自利利他之故,修習禪定 ’
此時帝洛巴說:‘你想的沒錯!’然 就給予那若巴一般除障法以及轉諸行 道的教法。
帝洛巴與那若巴師徒心意乃成無二無 。”
——————說明:
那若巴因為敢於吃非常污穢肮髒的東 ,所以得到了最高級喇嘛教法的傳承
後來,那若巴的弟子包括瑪爾巴、阿 峽, 瑪爾巴是密拉日巴的上師。
感想之一:
大家不要否定那若巴祖師吃屎尿等穢 ,如果你否定吃屎之法,就等於否定 嘛教。因為幾乎整個高級喇嘛教的法 的傳承都是由吃屎的那若巴祖師傳下 的!!!
感想之二:
如今的喇嘛上師活佛,已經沒有什麼 敢吃屎喝尿了。 所以喇嘛教氣數也差不多了。
(圖:屎尿做成的甘露)
喇嘛教吃屎喝尿求加持的典故(續) 轉載-2)
典故之二:喝完尿才能當喇嘛教弟子
雪歌仁波切開示第一:
聽了瑜伽士的敘述,雪歌寺的人就帶 到洛確格西的住處。
見到洛確格西,瑜伽士更是喜極而泣 因為正是綠度母現給他看的老師。
不過即使知道是綠度母送來的學生, 確格西卻一點也不賣綠度母的帳。
他告訴瑜伽士:「我不收你做我的學 !」
瑜伽士百般拜托請求,最後洛確格西 強開出條件:
「除非你喝我尿壺裡的尿!」
喝了一個多月,他終於收瑜伽士為學 。
以上故事出自雪歌仁波切的敘述,仁 切還說,當時的瑜伽士現在也轉世了
因前世的這個因緣,這一世瑜伽士轉 黃教,現今在上密院任教
感嘆:
現在的喇嘛教上師活佛,居然放棄了 喝一個月的尿才能當弟子的優良傳統
所以現在喇嘛教如江河日下, 拿不出幾個像樣的人物(包括上師或 弟子)
猜想:
如果哪一天,喇嘛教弟子在某網絡舉 公開發揚喇嘛教祖師優良傳統,當眾 演吃屎喝尿,並將視頻在網絡論壇上 公開於世,那麼該網絡論壇一定會成 網絡佛教第一論壇!
阿彌陀佛!
喇嘛教吃屎喝尿求加持的典故(續) 轉載-3)
典故之三: 喇嘛教以屎尿供“佛”,快速成“佛
金剛上師諾那呼圖克圖法語開示錄 諾那上師言道:
從前西藏有兩弟兄,兄則富有學顯教 弟則貧苦學密宗,將到過年時,其兄 列無數珍寶供佛,且詡於人曰:“今 年供品之珍,多莫我若矣。”弟則一 所備,臨到除夕,乃將尿糞等物供佛 並祝告曰:“諸佛是無差別心者,我 因貧,無力辦供,只得以此表敬心。 諸佛菩薩均在空中,同聲贊嘆為佛子 其兄聞之,始知弟已成佛,乃大發慚 愧心。》》
感嘆:
以前只知道喇嘛教有修男女——性交 身來即身迅速成“佛”的法門, 沒想到喇嘛教還有用尿糞等供“佛” 即身迅速成佛的法門。 真是“震撼”
猜想:
為何不見喇嘛教弟子以如此珍貴之尿 來供養上師活佛,卻要使用金錢等世 俗物來供養喇嘛教上師活佛呢?
繼續猜想:
如果哪一天,一位喇嘛教上師活佛通 網絡論壇向整個佛教界宣稱自己今後 徒和接受供養時,只接受屎尿供養。 那麼,這位喇嘛教上師活佛一定是真 的喇嘛教的“佛”。
順便,該論壇也一定會人氣爆滿,成 全球佛教第一論壇了!
繼續補充: 喇嘛教吃屎喝尿法門揭秘: 如何是五甘露與五肉
什麼是五甘露與五肉?
根敦群培的<中觀精要>,民族出版社出 2003年10月出版,藏漢對照,白瑪旺傑翻 .
第26頁注釋,(1)五肉:密宗內供養甘露品 種肉類:像肉,人肉,馬肉,狗肉,黃牛肉 孔雀肉.
(2)五甘露:大便,小便,人血,人肉和精液, 為密法內供養品.
密宗黃教上師楊堅葛威洛覺、袞謙滇 尼瑪合著的《生起次第論集》所說的 露:
“(供養用的)五肉及五甘露或酒肉 可缺故,應盡力採辦。……
‘巴借’、‘渣給’為酒,‘拔拉’ 乳,‘渣即’及‘芒沙’為肉,
‘展摩’為香菇,‘湘摩’為清酒, 袞杜局’為鹽,‘永間’蒜,
‘阿魅’大肉,‘昆准’像肉,‘阿 魯’馬肉,‘那令’牛肉,‘給傑’ 肉等。
綜之,即藥材果物等飲食諸類均盡力 備。
……吉美林巴云:‘以其表示,總體 言:灑藥血於食子等,
淨治垢穢染污,消除障礙、獻供及加 ,如藥引般成催請本願相續等具各種 要。”
(《生起次第論集》法護譯,南天書 1998年出版 339~349頁)
(圖:屍水做成的甘露)
五甘露
甘露通常用來供養「佛、菩薩」及護 神,然而密宗之甘露,種類繁多,乃 有諸「極不可思議」之甘露者;
喇嘛教以上師之糞便尿液為甘露,名 大香小香。如陳健民上師所言:
《《昔在盧山,大雪數日,盈膝難行 收糞人不來亦數日,上師特具之糞桶 滿,上師之侍者喇嘛相率怨言;余聞 而奮勇直前,力捧其桶、踏雪而行, 至平日傾倒地帶而傾之、洗之,置回 處。上師獎勵有加,余則稟告上師曰 :「假令上師令我嘗糞,我亦不辭。 上師大糞即是大香,於我無所不樂聞 。昔在漢藏教理苑時,嚴定法師以札 假古學之丸藥見賜,立即吞服。嚴師 有何感覺?余答曰:「感覺一陣香氣 。」又問亦知此丸原料否?答曰:「 當系香料混合於糌粑。」嚴師曰:「 粑固為一般丸藥通用之原料,但其中 重要之加持物,乃札假古學自身之小 香。」小香者即其小便也。余才報告 師,待作贊嘆之辭,貢師乃急獎勵我 :「汝信心好,余見汝嘗我小便,面 無難色,可以知矣。」此等小事,在 人極為平常;在西藏、西康之今人, 常有之。當余閉關西康爐霍縣關帝廟 時,亦時有人索小便者,堅拒亦不得 不能拒絕)也。》》(曲肱齋全集( )(陳健民著,徐芹庭編,普賢王如 來佛教會1991.7.10.出版精裝本),頁732~ 733)
甘露通常於供曼達(聚寶盆)時用之 《《普通者,盆中供上廿七物,如「 彌」、四洲並日月,再加上八小洲、 輪王七寶、及寶瓶、寶山、樹、牛、 等。多者則供上卅七物,如前廿七物 加香、花、燈、塗、嬉、鬘、歌、舞 、八供養女,及大小寶蓋。……其三 曼達則多於其它派別者。五層即供法 報、化三身。法身即供全法界,超出 須彌四洲遠矣,其中以常寂光明為主 報身則供五智、五大、五肉、五甘露 紅白勝義菩提。…。》》(曲肱齋全 集(一)(陳健民著,徐芹庭編,普 王如來佛教會1991.7.10.出版精裝本), 頁32-1034)。此中所言甘露者,即前所述之 露,自亦包括混合大香小香之甘露也 。
五甘露別有用途:譬如以不淨物供喇 教密//宗之「佛菩薩」或施食時,可用五甘 作為「清淨」不淨物之用,是故宗喀 作是說:《《…廣者修甘露食之器, 《結合經》說蓮花器謂顱器(人之頭 所制成之供器,又名嘎巴拉。實物詳 封面);《教授穗》說盤等亦可,《 紅大威德經》說於台或於銅盤,《鬘 》說瓦杯盤亦可行施,故可隨宜。食 :《鬘論》與《教授穗論》說:用面 、豆、肉、魚、粥、餅、酒、水、蔥 蒜、牛乳等。若不具者,唯面與水亦 。陳設供物法,《結合經》云:「閼 伽等供物,魚肉諸食品,酒為左(佐 所需,能醉品亦可。右側設水器,閼 器陳前,此一切供物,以五甘露淨。 」第三句文釋論作「酒能令歡喜」。 有肉與魚肉所作食物,分陳左右。以 甘露淨者,《教授穗》說或放甘露丸 ,或修(觀想本尊父母交合受樂而降 淫液「甘露」)為甘露而淨。》》( 宗道次第廣論(宗喀巴著,法尊法師 譯,妙吉祥出版社1986.6.20.精裝版), 531~532)
然而五甘露之本身,即是極穢物,何 以之而清淨余諸不淨物?非是正理之 也。有智之人,自可知之。
《密宗道次第廣論》裡的描述:
〈鬘論〉、〈教授穗論〉說五甘露以 五燈,雖作如是次第(先說甘露後說 肉),然〈教授穗〉又雲:「勝解如 是行相五智體性,即五如來,謂五燈 五鉤。」此說五燈、五鉤為五如來。( 532)又云:「不動毗盧寶生彌陀不空, 為五鉤。」次第又如此說(先說中央 後說四方)。故前五種子字生為五肉 從中央起右繞乃至四方,吽等五字如 次第生大肉等,彼字莊嚴。從火(東 南)乃至自在(東北)仲等四字如其 第生大香等,彼字莊嚴。大肉共(通 與甘露),故僅說四種,亦有說五甘 露為五佛者,如〈大印點經〉云:「 生說為血,液為無量光,不空為大肉 不動即香水,毗盧為大香,此是五甘 露。」鈴論師之〈勝樂修法〉亦如是 。如云:「吽嗡康鄂掌,小大香大肉 菩提心妙華,又朗芒邦當,牛犬象馬 肉,皆有種子嚴。」毳衣大師亦如是 。此說四方左繞,四隅右繞,種子顏 ,中央與四方藍白黃赤綠,是毳衣大 師說。又說風上有幡,火上有焰莊嚴 顱器為整塊者(顱有一塊兩塊等別) 為紅色。此二師說,甘露為如來,諸 肉為佛母,由種子即可知。梵本之〈 食法〉多從五佛佛母種子出生十物。 扎拏釋寶炬論〉、阿底峽所造、羅伊 跋〈釋論〉、並[口*(災-火+夕)]耶茜那說十物各從自名第一字生。[口*(災-火+夕)]耶茜那更說從東南隅右繞乃至中央, 白藍紅綠黃色,從廊姑答哈那五字, 為牛犬象馬大肉,彼字莊嚴。從東方 左繞乃至中央,從白綠紅黃四色,(533) 從毗穆摩惹阿五字,生大小香大肉血 ,彼字莊嚴。前二論師亦於彼物安立 佛種子。從自名第一字出生之規,此 為最善。總之施食器用顱器,食物生 十種物品。就種子論,有從五佛佛母 子字生,及從各物自名第一字生兩派 。約生處辨,如〈扎拏疏寶炬論〉說 唯於中央四方五處安布十物五佛種子 嚴,及於方隅皆安布之兩派。後派又 有中央四方安布五肉,四隅出生甘露 與彼相反之兩派。又有肉為佛體,甘 為佛母體,及與上相反之兩派。然彼 皆是不動佛居中央之規。五甘露者, 香小香赤白二界前四相共,第五有多 解,拏熱跋、藥足等說為大肉,跋[口*縛]跋札、〈四座經釋說〉為痰涕。〈律 〉中說肉中脂肪、骨中髓肉,頭中腦 為下中上三品。五肉亦名五鉤五燈, 以能鉤召及光顯悉地故。次想食物有 賀什,如其次第,淨除尋常之色香力 變成勝妙色等。〈教授穗〉與〈鬘論 〉於修食法,未說生為三佛。〈結合 〉與〈四座經〉說修訶字為彌陀,賀 毗盧,什為不動。〈四座釋〉說誦阿 訶貨什三遍,淨除過失,色香味三生 三佛。
--------------------------------------------------
從上面資料可以看出:喇嘛教吃屎喝 乃是常事,並且以此為榮。
“貢師乃急獎勵我曰:「汝信心好, 見汝嘗我小便,面無難色,可以知矣 」此等小事,在古人極為平常;在西 藏、西康之今人,亦常有之。當余閉 西康爐霍縣關帝廟時,亦時有人索小 者,堅拒亦不得(不能拒絕)也”
另外,喇嘛教除了吃屎喝尿之外,還 令人震撼的“東東”
見這一段:“五甘露者,大香小香赤 二界前四相共,第五有多異解,拏熱 、藥足等說為大肉,跋[口*縛]跋札、〈四座經釋說〉為痰涕。〈律 〉中說肉中脂肪、骨中髓肉,頭中腦 為下中上三品”
所謂“痰涕”“肉中脂肪、骨中髓肉 頭中腦膜”等,也是喇嘛教之“甘露 ,
連鼻涕、口痰在喇嘛教裡也成為“甘 ”????!!!!
真的是驚世駭俗!
http://www.bskk.com/viewthread.php?t...age%3D1&page=1
https://7.share.photo.xuite.net/kc45...17719750_m.jpg
https://7.share.photo.xuite.net/kc45...17723571_m.jpg
https://7.share.photo.xuite.net/kc45...17722818_m.jpg
http://blog.xuite.net/kc4580455923/w...BC%9F%E3%80%8D
The Mantra Of Ḍakinis:- Namaḥ Samantabuddhanam, Hriḥ Haḥ.
(Homage To All Buddhas! Hriḥ Haḥ!)
The Mantra Of Yaksinis:- Namaḥ Samantabuddhanam, Yaksavidyadhari.
(Homage To All Buddhas! O You Who Hold The Yaksas’ Spell!)
The Mantra Of Pisacas:- Namaḥ Samantabuddhanam, Pici Pici.
(Homage To All Buddhas! Pici Pici!)
The Mantra Of Bhutas:- Namaḥ Samantabuddhanam, Gum I Gum I Mamsane.
(Homage To All Buddhas! Gum I Gum I Mamsane!)
The Mantra Of Asuras:- Namaḥ Samantabuddhanam, Raṭam Raṭam Dhvan- Tam Vra Pra.
(Homage To All Buddhas! Howled, Howled, Roared, Vra Pra!)
The Mantra Of Mahoragas:- Namaḥ Samantabuddhanam, Garalam Gara-Lam.
(Homage To All Buddhas! Poison, Poison.)
The Mantra Of Kimnaras:- Namaḥ Samantabuddhanam, Hasanam Vihasa-Nam.
(Homage To All Buddhas! Laughter, Smiling.)
The Mantra Of Humans (Manusya):- Namaḥ Samantabuddhanam, Iccha-Param Manomaye Me Svaha.
(Homage To All Buddhas! That Which Is Intent Upon Desire, O You Who Consist Of Mind! For Me, Svaha!)
Namaḥ Sarvatathagatebhyo Visvamukhe-Bhyaḥ, Sarvatha A A Am Aḥ.
(Homage To All Tathagatas In All Directions! In Every Way, A A Am Aḥ!)
https://vi.scribd.com/document/19624...d-Bodhisattvas
http://blogs.c.yimg.jp/res/blog-cc-e...g_0?1328060259
NA MÔ ĐẠI SƯ BIẾN CHIẾU KIM CƯƠNG = NA MÔ ĐẠI SƯ BIẾN CHIẾU KIM CANG
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...itledb924d.png
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...itledf4881.png
( https://vi.scribd.com/document/19624...d-Bodhisattvas / http://www.visiblemantra.org/kukai.html )
[/CENTER]
=========
Không Hải (chữ Hán: 空海; Kana: くうかい; Romaji: kūkai; 774 - 835), còn được gọi là Hoằng Pháp Đại Sư (弘法大師, こうぼうだいしkōbō daishi), là một vị Cao tăng Nhật Bản, sáng lập Chân ngôn tông — một dạng phái Mật tông tại Nhật Bản. Sư tu học Mật tông tại Trung Quốc theo sự hướng dẫn của sư phụ là Ngài Huệ Quả. Sau về Nhật mở đạo trường tại núi Cao Dã (ja. kōya), về sau trở thành trung tâm của Chân ngôn tông. Năm 17 tuổi, Sư đã viết luận về Nho, Lão và Phật giáo và tác phẩm Thập trụ tâm luận - Sư biên soạn bộ này dưới lệnh của Thiên hoàng—nói rõ đạo lý cơ bản của Chân ngôn tông.
Sư cũng mở trường dạy nghệ thuật và khoa học, chấp nhận mọi người theo học, dạy các môn học thế gian và siêu thế gian, kể cả đạo lý của Khổng Tử và Lão Tử. Sư cũng nổi danh trong các ngành khác như hội hoạ, điêu khắc và kĩ thuật.
Ngoài ra, sư rất quan tâm đến việc học Phạn ngữ vì cho rằng chỉ với ngôn ngữ này, ý nghĩa của những Man-tra và Đà-la-ni mới thể hiện trọn vẹn. Sư và các môn đệ cũng là những người đầu tiên kết hợp truyền thống Thần đạo với Phật giáo và đưa các vị Tổ của Thần đạo lên hàng Bồ Tát.
Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]
Sư sinh trưởng trong một gia đình quý tộc ở Zentsū-ji, Sanuki thuộc đảo Shikoku. Gia đình ông là gia tộc Seaki, một nhánh của gia tộc có nguồn gốc cổ đại là gia tộc Ōtomo.
Năm 791, Sư vào một trường dạy Nho và cũng trong năm này, mới 17 tuổi, Sư viết Tam giáo chỉ quy, một bài luận về ba học thuyết thời bấy giờ là Phật, Khổng giáo và Lão giáo. So sánh với đạo Phật, Sư nêu ra những giới hạn của Khổng, Lão.
Theo Sư thì đạo Phật đã dung chứa những yếu tố của Khổng, Lão. Tác phẩm Thập trụ tâm luận (mười bậc trên đường học đạo) của Sư được xem là quan trọng nhất, vượt xa năm tác phẩm Phật giáo khác cùng được trình cho nhà vua thời bấy giờ. Tác phẩm này bao gồm mười chương, trình bày mười cấp phát triển một ý thức giác ngộ. Sư là người đầu tiên tại Nhật dùng phương pháp so sánh một học thuyết với học thuyết khác để làm sáng tỏ một quan điểm. Mười bậc trên đường học đạo theo Thập trụ tâm luận của Sư gồm có:
Cấp 1 là thế giới như của súc sinh, thế giới không kiểm soát được tham dục, thế giới không hề có ý thức Giác ngộ;
Cấp 2 là Khổng giáo, là nơi thực hiện các đức hạnh thế gian, nhưng không quan tâm đến ý thức giác ngộ;
Cấp 3 là Lão giáo, mà các tín đồ tin tưởng nơi một tầng trời đầy hoan lạc bằng cách tu tập thiền định;
Cấp 4 là cấp của Thanh văn thừa của Tiểu thừa, tin vào tính Vô ngã vì cái ngã chỉ do Ngũ uẩn tạo thành;
Cấp 5 là cấp Độc giác Phật, là người đạt tri kiến về giáo lý Duyên khởi với mười hai nhân duyên hệ thuộc, về sự vô thường, vô ngã và là người đã chấm dứt sự phát sinh của nghiệp;
Cấp 6 là cấp của tông Pháp tướng (ja. hossū-shū);
Cấp 7 là cấp của Tam luận tông;
Cấp 8 là cấp của Thiên Thai tông;
Cấp 9 là cấp của Hoa Nghiêm tông
Cấp 10 là Chân ngôn tông. Sư cho rằng chín cấp trước đều do "bệnh của tư tưởng" mà thành, chỉ có cấp 10 mới đích thật chứa đựng chân lý.
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
Bảng các chữ viết tắt
bo.: Bod skad བོད་སྐད་, tiếng Tây Tạng | ja.: 日本語 tiếng Nhật | ko.: 한국어, tiếng Triều Tiên |
pi.: Pāli, tiếng Pali | sa.: Sanskrit संस्कृतम्, tiếng Phạn | zh.: 中文 chữ Hán
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%B4ng_H%E1%BA%A3i
==============
PHƯƠNG PHÁP ĐƠN GIẢN HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC
CHO NGƯỜI ĐÃ MẤT
Các Bậc Đạo Sư của Chân Ngôn Tông Nhật Bản ghi nhận là: “Trong tất cả Chân Ngôn và Đà La Ni giúp cho người đã chết mau chóng tiêu trừ được tội chướng và tăng trưởng Phước Trí thì không có gì vượt qua nổi “A Di Đà Căn Bản Đà La Ni” với “Quang Minh Chân Ngôn”
Pháp đơn giản này có tên gọi là “Thánh Linh Hồi Hướng” và được minh họa như sau:
1_A Di Đà Căn Bản Chân Ngôn:
NAMO RATNA-TRAYĀYA
NAMAḤ ĀRYA AMITĀBHĀYA TATHĀGATĀYA ARHATE SAMYAKSAṂBUDDHĀYA
TADYATHĀ: OṂ_ AMṚTE AMṚTODBHAVE AMṚTA-SAṂBHAVE AMṚTA-GARBHE AMṚTA-SIDDHE AMṚTA-TEJE AMṚTA-VIKRĀNTE AMṚTA-VIKRĀNTA-GAMINE AMṚTA-GAGANA-KĪRTTI-KARE AMṚTA-DUṆḌUBHI-SVARE SARVĀRTHA-SĀDHANE SARVA-KARMA-KLEŚA-KṢAYAṂ-KARE SVĀHĀ (1 lần hoặc 3 lần)
2_Quang Minh Chân Ngôn:
OṂ_ AMOGHA VAIROCANA MAHĀ-MUDRA MAṆI PADMA JVALA PRAVARTTAYA HŪṂ (7 lần hoặc 21 lần)
3_Danh hiệu báu:
Nam mô Bản Tôn Giới Hội
Nam mô Lưỡng Bộ Giới Hội
Nam mô Đại Sư Biến Chiếu Kim Cương
Hồi hướng cho hương linh (Họ tên… Pháp Danh…)
Nam mô Pháp Giới Vạn Linh
(mỗi Danh Hiệu tụng 3 lần hoặc 7 lần)
4_Hồi Hướng:
Nguyện đem Công Đức Này
Hướng đến khắp tất cả
Chúng con và chúng sinh
Đều cùng thành Phật Đạo
_Hết_
*)Ghi chú:
1_Ý nghĩa căn bản của A Di Đà Căn Bản Đà La Ni được ghi nhận là:
NAMO RATNA-TRAYĀYA: Quy y Tam Bảo
NAMAḤ ĀRYA AMITĀBHĀYA TATHĀGATĀYA ARHATE SAMYAKSAṂBUDDHĀYA: Kính lễ Thánh Vô Lượng Quang Như Lai Ứng Cúng Chính Đẳng Chính Giác
TADYATHĀ: Như vậy
OṂ: Con xin kính lễ
AMṚTE: Cam Lộ Tôn
AMṚTODBHAVE: Cam Lộ Sở Sinh Tôn
AMṚTA-SAṂBHAVE: Cam Lộ Phát Sinh Tôn
AMṚTA-GARBHE: Cam Lộ Thai Tạng Tôn
AMṚTA-SIDDHE: Cam Lộ Thành Tựu Tôn
AMṚTA-TEJE: Cam Lộ Uy Quang Tôn
AMṚTA-VIKRĀNTE:Cam Lộ Thần Biến Tôn
AMṚTA-VIKRĀNTA-GAMINE: Cam Lộ Đằng Dược Tôn
AMṚTA-GAGANA-KĪRTTI-KARE: Cam Lộ Quảng Thiệt Tôn
AMṚTA-DUṆḌUBHI-SVARE: Cam Lộ Hảo Âm Tôn
SARVĀRTHA-SĀDHANE: Nhất Thiết Thành Tựu Nghĩa Lợi Tôn
SARVA-KARMA-KLEŚA-KṢAYAṂ-KARE: Nhất Thiết Nghiệp Chướng Tiêu Trừ Tôn
SVĀHĀ: Được thành tựu
2_Ý nghĩa căn bản của Quang Minh Chân Ngôn được ghi nhận là:
OṂ: Thánh Ngữ
AMOGHA: Bất Không
VAIROCANA: Biến Chiếu
MAHĀ-MUDRA: Đại Ấn
MAṆI: Bảo châu, viên ngọc báu
PADMA: hoa sen
JVALA: Quang minh, ánh sáng
PRAVARTTAYA: chuyển hoán
HŪṂ: Thánh Ngữ
26/03/2015
Huyền Thanh kính ghi
https://www.facebook.com/68674142467...698481/?type=3
========
IX.2 Đọc kinh tẩn liệm
Khi người chết đã được xác nhận rồi thì nên để đầu của
thi thể xây về hướng Bắc và mặt xây về hướng Tây. Để trên
tấm ra trắng. Trên đầu kê một cái bàn có phủ vải trắng và bày
ra 3 món Cụ Túc. Nghĩa là đèn cầy, bình hoa và lư hương; lại
cho 6 hay 7 viên bánh ngọt vào chén, cũng như đơm cơm và đồ
ăn để lên bàn cúng cho người mất. Nên đứng về phía ngược
gió, và để dưới gối của thi thể một con dao nhỏ nhằm trừ ma.
Công việc nầy gọi là Makuragasari (trang sức cho người chết)
Sau đó thỉnh Thầy ở chùa Bồ Đề (chùa nhà của gia đình
mình thường hay đi lễ) gần nhà mình đến tụng kinh. Trong
trường hợp gia đình có người mất như vậy thì nên liên lạc trực
tiếp với chùa Bồ Đề để được hướng dẫn.
Di thể nằm đầu quay về hướng Bắc, mặt quay về hướng
Tây. Đây cũng là truyền thuyết khi Đức Thế Tôn nhập diệt
cũng nằm như thế. Một nén hương, hoa đèn sáng, là ý nghĩa
soi sáng trên con đường Phật đạo. Cơm cúng để cho những u
hồn có duyên đi lễ chùa dùng no bụng. Sáu viên bánh ngọt ấy
tượng trưng cho chuyến lữ hành xa trong lục đạo, khi ăn thì
cần đến. Những điều nầy căn cứ theo kinh Đại Bát Niết Bàn về
phần Hương phạn và cúng bánh ấy là căn cứ vào phong tục cổ
đại của Ấn Độ. Còn con dao là phong tục hình như không phải
của Phật Giáo.
Những phong tục như vậy phần lớn được truyền lại từ
Phật Giáo và từ Ấn Độ. Việc nầy đã du nhập vào Nhật Bản từ
lúc nào không ai rõ. Chỉ biết kể từ thời Edo (Giang Hộ) chế độ
Đàn Gia được thiết lập tại chùa, cấp sổ cho người mất, và khi
nào có việc điều tra hộ tịch. Từ đó đã trở thành việc phổ thông.
Thế nhưng đối với ngày nay việc nầy thuộc phòng hộ tịch của
chính phủ hoặc bác sĩ hay của cảnh sát thực hiện. Còn gia đình
hay chùa Bồ Đề chỉ thực hiện nghi lễ quan trọng đối với người
mất; đó là ý nghĩa cúng dường đầu tiên vậy.
Ngoài ra đối với Thiên Chúa Giáo khi có tín giả lâm
chung, thì hay có thói quen mời cho được ông Cha (Thần phụ)
đến cầu nguyện và rửa tội (chuộc tội). Tân Hưng Tôn Giáo hay
những tôn giáo khác cũng có việc làm tương tự. Họ không có
đọc kinh tẩn liệm, mà mời những tăng sĩ đến để nói pháp thoại
cho người nghe an lòng. Như vậy sẽ có ý nghĩa cho người mất
hơn. Điều nầy có tốt chăng? Đây còn là vấn đề của tương lai;
nhưng cũng nên suy nghĩ kỹ vậy.
Dù sao đi nữa thì đối với chùa Bồ Đề việc tụng kinh tẩn
liệm cho người mất cũng là một nhân tố để người mất sớm
thành đệ tử của Phật.
http://sachbaoluutru.viengiac.de/Sac...ongNhatBan.pdf
藥師琉璃光如來消災除難念誦儀軌
【 唐-一行撰版 】
佛部心真言【 誦七遍 】
Om, jina jik svaha.
蓮華部心真言【 誦七遍 】
Om, a-lolik svaha.
金剛部心真言【 誦七遍 】
Om, vajra-dhrk svaha.
被甲真言【 誦五遍 】
Om, bhu jvala-teja hum.
轉雜染所成凈妙佛土真言【 誦七遍 】
Om, bhu kham.
迎請真言【 誦三遍 】
Om, jina jik ehyehi bhagavatosnisaya svaha.
獻閼伽水真言【 誦七遍 】
Namah samanta buddhanam. Om, gagana samasama svaha.
獻蓮華師子座真言
Om, kamala-simha asana svaha.
普供養真言【 誦三遍 】
Namah samanta buddhanam. Sarvatha kham ud-gate sphara heman gaganakam svaha.
佛大慈護真言【 誦四遍 】
Om, buddha maitri vajra raksa mam.
佛眼根本真言【 誦五遍 】
Namo bhagavatosnisaya. Om, ru ru sphuru jvala tisthat siddha locane sarva-artha-sadhane svaha.
藥師如來根本真言【 誦七遍至百零八遍 】
Namo bhagavate bhaisajya-guru-vaidurya-prabha-rajaya tathagataya arhate samyak-sambuddhaya. Tadyatha, om, bhaisajye bhaisajye bhaisajya-samudgate svaha.
加持數珠真言【 誦一百零八遍或一萬八千遍 】
Om, vajra-guhya-japa samaye hum.
十二藥叉真言【 誦四十九遍 】
Namo ratna-trayaya. Namah kumbhira vajra mekhala antira anila shantila indra pajra bahula candra catura vi-karaya. Namo bhagavate bhaisajya-guru-vaidurya-prabha-rajaya tathagataya arhate samyak-sambuddhaya. Tadyatha, om, bhaisajye bhaisajye bhaisajya- samudgate svaha.
奉送諸聖眾真言【 誦三遍 】
Om, jina jik gaccha gaccha bhagavatosnisaya svaha.
轉譯自:
《藥師琉璃光如來消災除難念誦儀軌 (一卷)-唐-一行撰。《大正新修 藏經》第十九卷密教部二第二零至二 二頁。藏經編號 No. 922.
( Transliterated on 13/7/2008 from volume 19th serial No. 922 of the Taisho Tripitaka by Mr. Chua Boon Tuan (蔡文端) of Rawang Buddhist Association (萬撓佛教會). 8, Jalan Maxwell, 48000 Rawang, Selangor, West Malaysia. )
R. B. A. Tel : 603-60917215 [ Saturday after 10.30 p.m. ]
Residence : 603-60932563 [ Monday to Sunday after 9.30 a.m. ]
Handphone : 6016-6795961. E-mail : chuaboontuan@hotmail.com
讀者如想知所念誦之陀羅尼可獲得的 益或修法,請參考密部大藏經。大藏 可在網上下載,其網址為:http://www.cbeta.org/
萬撓佛教會網址:http://www.dharanipitaka.net
注:有關咒語的讀音问题請安裝Skype軟 件用免费互聯網電話聯繫, 我的Skype名為 : chua.boon.tuan
https://cn.cari.com.my/forum.php?mod...age%3D1&page=2
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...01ff812b01.jpg
[藻佛結緣園]居家擺件 工藝全合金檀香熏香爐 佛教八吉祥盤香爐 香插 香薰爐 能量香爐
( https://tw.bid.yahoo.com/item/100098583439 )
PHOWA (PHÁP CHUYỀN DI TÂM THỨC)
Thời gian đăng 21.10.2015 bởi tác giả: PATRUL RINPOCHE trong Khai thị ngộ nhập // 0 phản hồi //
4 049
Ngày nay, nhiều người thực hành các nghi lễ chuyển di cho dù họ chỉ là các Lạt Ma hay tulku** trên danh nghĩa. Nếu họ thực hiện các pháp chuyển di này với lòng từ bi của Bồ Đề Tâm và không có chút tính toán vị kỷ nào, thì may ra chân tánh của họ sẽ không bị ngăn che khiến họ có thể thực sự giúp đỡ người chết. Điều này chỉ có thể được thực hiện với động lực của Bồ Đề Tâm. Còn bất kỳ ai khác thực hiện pháp chuyển di vì lợi ích cá nhân, chỉ biết cách đọc tụng một mớ chữ nghĩa rồi sau đó nhận thù lao là một con ngựa hay một thứ gì đáng giá khác, thì những kẻ ấy thật đáng khinh miệt. **sprul sku, nghĩa đen: Hoá Thân. Một Lạt Ma hoá thân. Những Lạt Ma như thế thường được coi như là hiện thân của một Đại Bồ Tát. Tuy nhiên, có nhiều ảnh hưởng xã hội trong việc tuyển chọn một tulku, và có nhiều trường hợp mà tính xác thực của việc tuyển chọn rất đáng nghi ngờ.
Cao cả thay hành động bi mẫn của Ngài đối với chúng sinh vô minh.
Cao cả thay cách thức Ngài gia hộ những kẻ đại ác như chung đệ tử.
Cao cả thay phương pháp thiện xảo
Ngài ban cho những kẻ khó điều phục.
Đạo Sư Vô Song, con đảnh lễ dưới chân Ngài.
I. PHÂN LOẠI NĂM PHÁP CHUYỂN DI
Có năm loại chuyển di tâm thức khác nhau:
1. Chuyển di siêu việt tới Pháp Thân nhờ dấu ấn của cái thấy (kiến)
2. Chuyển di trung bình tới Báo Thân nhờ hợp nhất các giai đoạn phát triển và toàn thiện.
3. Chuyển di thấp tới Hoá Thân nhờ lòng bi mẫn vô lượng.
4. Chuyển di thông thường nương vào ba ẩn dụ.
5. Chuyển di thực hiện cho người chết với cái móc của lòng bi mẫn.
1. Chuyển Di Siêu Việt Tới Pháp Thân Nhờ Dấu Ấn Của Cái Thấy(Kiến)
Đối với những người khi còn sống đã tu tập thuần thục và kinh qua được một cái thấy (kiến) không hề sai lầm về chân tánh vô tạo tác, thì vào lúc lìa đời, họ có thể đưa không gian (space) và tánh giác (awareness) vào con đường tu tập ẩn mật của pháp trekcho thuần tịnh nguyên sơ, và có thể chuyển di tâm thức của họ vào đại-phương quảng-trí của Pháp Thân.[308]
2. Chuyển Di Trung Bình Tới Báo Thân Nhờ Hợp Nhất Hai Giai Đoạn Phát Triển Và Toàn Thiện
Đối với những người đã quen thuộc với công phu hành trì các pháp tu của hai giai đoạn phát triển và toàn thiện, kết hợp cả hai như một pháp môn du già bất khả phân, cũng như đã tu tập thuần thục để có thể nhìn thấy sắc tướng của vị Hộ Phật (deity) chẳng khác gì một cảnh trí hoá hiện thần diệu, thì khi những ảo giác của trạng thái trung ấm xuất hiện vào giây phút lìa đời, họ có thể chuyển hoá tâm thức của họ thành Thân trí tuệ hợp nhất (the union wisdom kāya).[309]
3. Chuyển Di Thấp Tới Hoá Thân Nhờ Lòng Bi Mẫn Vô Lượng
Những người đã nhận các lễ gia lực của Kim Cương – Mật Thừa, những người đã trì giữ mật nguyện không hề sai trái, những người có thiên hướng nghiêng về các pháp tu trong hai giai đoạn phát triển và toàn thiện, và những người đã thọ lãnh những giáo huấn về trạng thái trung ấm, họ có thể:
Hãy gián đoạn việc nhập thai, hãy nhớ quay ngược lại:*
Đây là lúc đòi hỏi một quyết định và thị kiến thuần tịnh.
* Điều này ở đây có nghĩa là quay ngược lại trước khi thần thức nhập thai.
Những người đang thực hành pháp chuyển di này phải chặn đứng bất kỳ lòng tham cầu muốn nhập vào một thai tạng bất tịnh nào. Được lòng đại bi dẫn dắt cũng như mong muốn thực hiện được ước nguyện tái sinh như một Hoá Thân, họ chuyển di tâm thức và tái sinh vào một trong những cõi tịnh độ.[310]
4. Chuyển Di Thông Thường Nuơng Vào Ba Ẩn Dụ
Người ta cũng có thể thực hành pháp chuyển di này bằng cách tưởng tượng đường khí mạch trung ương (trong thân thể) như con đường, giọt tinh chất (bindu) của tâm thức như người lữ khách, và cõi tịnh độ Cực Lạc như là đích đến.[311]
5. Chuyển Di Thực Hiện Cho Người Chết Với Cái Móc
Của Lòng Bi Mẫn
Pháp chuyển di này cũng được thực hiện cho người đang hấp hối, hay cho người đã ở trong trạng thái trung ấm. Pháp này có thể được thực hiện bởi một hành giả du già (yogi) với mức độ tu chứng sâu dầy, có khả năng làm chủ được tâm và tri giác, và có khả năng nhận ra được tâm thức của người chết trong trạng thái trung ấm. Nói chung, để thực hiện pháp chuyển di cho người chết, ta cần phải chứng đắc được Kiến Đạo, Con đường của Cái Thấy (Path of Seeing). Như ngài Jetsun Mila có nói:
Không được thực hành pháp chuyển di cho người chết,
Trừ phi đã trực nhận được chân lý của Kiến Đạo.
Tuy nhiên, bất cứ những ai là người thực sự biết được đích xác thời điểm nào là thời điểm để thực hiện pháp chuyển di — là khi hơi thở bên ngoài (outer breath) đã ngưng và hơi thở bên trong (inner breath) vẫn còn tiếp tục312 – thì họ cũng đều có thể thực hiện pháp chuyển di ngay vào lúc ấy nếu như họ có được chút ít kinh nghiệm về các giáo huấn chuyển di. Điều này cực kỳ lợi lạc cho người đang hấp hối, và giống như một lữ khách được bạn mình dẫn đi trên đúng con đường, việc ấy có khả năng ngăn chặn việc tái sinh vào các cõi thấp.
Sẽ khó khăn hơn để có thể thực hiện pháp chuyển di một khi tâm và thân đã hoàn toàn tách rời. Vì thế, cần có một hành giả du già (yogi) có khả năng làm chủ được bản tâm, có thể nhận ra được người chết trong trạng thái trung ấm. Tác động tới người không còn thân xác vật lý nữa là điều dễ dàng, và khi được thực hiện bởi một hành giả du già như thế thì tự việc chuyển di ra khỏi trạng thái trung ấm cũng có năng lực chuyển đẩy tâm thức chúng sinh tới một cõi tịnh độ. Tuy nhiên, thật là một điều hoàn toàn vô nghĩa khi cho rằng pháp chuyển di có thể được thực hiện bằng cách triệu thỉnh tâm thức quay trở lại thân xác sau khi chết.[313]
Ngày nay, nhiều người thực hành các nghi lễ chuyển di cho dù họ chỉ là các Lạt Ma hay tulku** trên danh nghĩa. Nếu họ thực hiện các pháp chuyển di này với lòng từ bi của Bồ Đề Tâm và không có chút tính toán vị kỷ nào, thì may ra chân tánh của họ sẽ không bị ngăn che khiến họ có thể thực sự giúp đỡ người chết. Điều này chỉ có thể được thực hiện với động lực của Bồ Đề Tâm. Còn bất kỳ ai khác thực hiện pháp chuyển di vì lợi ích cá nhân, chỉ biết cách đọc tụng một mớ chữ nghĩa rồi sau đó nhận thù lao là một con ngựa hay một thứ gì đáng giá khác, thì những kẻ ấy thật đáng khinh miệt. **sprul sku, nghĩa đen: Hoá Thân. Một Lạt Ma hoá thân. Những Lạt Ma như thế thường được coi như là hiện thân của một Đại Bồ Tát. Tuy nhiên, có nhiều ảnh hưởng xã hội trong việc tuyển chọn một tulku, và có nhiều trường hợp mà tính xác thực của việc tuyển chọn rất đáng nghi ngờ.
Là người chỉ đạo và bậc Thầy của kẻ khác,
Mà tự bản thân chưa tới được bến bờ giải thoát,
Thì cũng mâu thuẫn như đưa tay cho người chết đuối
Trong khi chính mình đang bị nước lũ cuốn trôi.
Một lần kia, khi đại Đạo Sư Tendzin Chopel đang ở Tsari, Ngài có một thị kiến về một người mà có lần ngài thực hành pháp chuyển di cho ông ta và nhận thù lao một con ngựa. Tất cả những gì Ngài có thể thấy là cái đầu người nhô lên từ một cái hồ máu đỏ thẫm. Vật ấy gọi tên Tendzin Chopel và yêu cầu Ngài làm một điều gì đó.
Tendzin Chopel cảm thấy sợ hãi. Ngài đáp lại: “Ta tặng ngươi cuộc hành hương tới Tsari của ta,”* và ảo cảnh biến mất. * Đó là công đức của cuộc hành hương của ngài.
Ngay cả đối với một vị Thầy vĩ đại có mức độ chứng ngộ sâu dầy, việc nhận các món cúng dường nhân danh người chết mà không thực hiện một nghi lễ hay một việc gì đó tương tự để đem lại lợi lạc cho người đã chết thì việc này sẽ gây nên những trở ngại trên con đường tu.
Khi vị Hoá Thân Tu Viện Trưởng Dzogchen, Ngài Gyurme Thekchok Tendzin thị tịch, thì Ngài Trime Shingkyong Gonpo được mời tới dự tang lễ. Suốt cả ngày Ngài chỉ cử hành các nghi lễ tịnh hoá và triệu thỉnh thần thức, cử hành đi cử hành lại pháp chuyển di, giống như Ngài đã làm sau cái chết của một người bình thường. Các nhà sư hỏi Ngài tại sao làm vậy.
Ngài giải thích: “Cách đây đã lâu, Dzogchen Rinpoche quên không cử hành các nghi lễ và cầu nguyện hồi hướng cho một người quá cố trong khi có một con ngựa đen đã được đem đến cúng dường cho Ngài nhân danh người đó. Người quá cố đó là một kẻ đại ác và vì thế Rinpoche đã gặp phải một ít chướng ngại trên các địa (trên quả vị tu chứng của Bồ Tát) và trên con đường tu. Giờ đây Ngài và ta đã phối hợp năng lực và giải quyết vấn đề xong rồi.” Kẻ đại ác được kể trong câu chuyện này có tên là Golok Tendzin.
Thật là sai lầm khi những người ở địa vị đại Lạt Ma hay Hoá Thân lại đón nhận cúng dường nhân danh người quá cố, suy nghĩ một cách đơn thuần rằng: “Ta là một bậc vĩ đại nào đó,” mà không áp dụng Bồ Đề Tâm hay không thực hiện việc cầu nguyện, thực hiện các nghi lễ cùng hồi hướng một cách đúng đắn và có hiệu quả. Các vị tulku quan trọng được tuyên nhận là những Hoá Thân chính thức của các bậc Thầy vĩ đại trong quá khứ, họ vẫn cần phải học đọc lại từ đầu, và phải bắt đầu trở lại học các mẫu chữ cái như những người bình thường. Bởi các Ngài đã quên mất cách đọc mà các Ngài đã biết từ những đời trước nên chắc chắn là các Ngài cũng đã quên mất mọi thứ mà các Ngài đã từng biết về các pháp tu du già của hai giai đoạn phát triển và toàn thiện. Tôi tự hỏi không biết các Ngài có thể khá được ra hơn không nếu như các Ngài chịu khó bỏ chút thời giờ ra để rèn luyện tâm Bồ Đề và học hỏi về các pháp môn tu tập và đi nhập thất, hơn là đi tới đi lui tìm kiếm cúng dường vừa ngay khi các Ngài [đủ lớn] để leo lên cưỡi trên một con ngựa.
II. CHUYỂN DI THÔNG THƯỜNG NƯƠNG VÀO BA ẨN DỤ
Bây giờ tôi sẽ mô tả về loại chuyển di được gọi là “chuyển di thông thường nương vào ba ẩn dụ” hay “chuyển di tâm thức vào tâm thức của Đạo Sư.” Pháp chuyển di này cũng phù hợp với điều mà Diệt Tội Trang Nghiêm Sám Hối Mật Điển gọi là “pháp chuyển di trái cầu ánh sáng (ball of light) nương vào âm thanh vào lúc lìa đời.” Đối với những vị hành giả đã có một mức độ chứng đắc sâu dầy thì pháp chuyển di này không cần thiết. Đối với những vị này, như trong Mật điển đã có nói:
Điều gọi là cái chết chỉ là một ý niệm,
Đưa dẫn tới các cõi tịnh.314
Và, trong đó cũng còn nói,
Cái chết, hay cái mà chúng ta biết tựa hồ như cái chết,
Là một tiểu ngộ đối với một hành giả du già.
Đối với những vị đã đạt được kinh nghiệm tối thượng một cách thật vững chãi trong khi họ còn sống và có thể làm chủ được sinh tử thì những vị ấy vẫn phải trải qua một cái gì có vẻ tựa hồ giống như là cái chết. Nhưng đối với họ, cái chết không khác gì việc di chuyển từ một nơi này sang nơi khác. Như chúng ta đã có đề cập đến trước đây, đối với những vị đã có kinh nghiệm về các pháp tu tâm yếu trong các giai đoạn phát triển và toàn thiện, các vị này có thể vận dụng một trong ba pháp tu liên hệ đến ba giai đoạn của (1) cái chết, (2) thân trung ấm hoặc (3) tái sinh, để chuyển di tâm thức của họ tới một trong ba Thân (kāya). Ngược lại:
Những kẻ không dầy công tu tập vẫn có thể được đón nhận nhờ vào pháp chuyển di.
Pháp môn này vô cùng cần yếu đối với những hành giả không có được thành tựu vững chắc trên con đường tu, hay đối với những người đã phạm phải nhiều ác hạnh. Đối với bất kỳ ai nắm giữ được những giáo huấn đặc biệt này thì cánh cửa dẫn tới các cõi thấp sẽ được đóng lại cho dù những ác hạnh mà họ đã tạo có nặng nề tới đâu chăng nữa. Thậm chí đối với những kẻ đã từng phạm phải một trong những ác nghiệp bị quả báo tức thời, và lẽ ra phải bị đoạ thẳng xuống địa ngục thì chắc chắn kẻ ấy cũng sẽ không phải bị tái sinh trong các cõi thấp nếu họ biết vận dụng Giáo Pháp này. Các tài liệu Mật điển có nói:
Bạn có thể từng giết mỗi ngày một vị Bà la môn
Hay từng phạm phải năm ác hạnh bị quả báo tức thời,
Nhưng bạn vẫn sẽ được giải thoát nhờ con đường này.
Sẽ không có tội lỗi nào làm ô nhiễm bạn.
Và:
Bất kỳ ai thực hành pháp chuyển di,
Tập trung nơi cửa Phạm Thiên cao hơn chín cửa kia*
Thì sẽ không ác hạnh nào làm cho ô nhiễm,
Và sẽ được tái sinh trong một cõi Phật thanh tịnh.
* Cửa Phạm Thiên (Brahma) hay lỗ thoát trên đỉnh đầu nơi tâm thức có thể thoát ra ngoài khi lìa đời.
Và thêm nữa:
Dưới chân vị cha già — bậc Thầy đầy đủ phẩm hạnh Được tôn vinh trên pháp toà nhật nguyệt nơi đỉnh đầu bạn, Hãy bước theo con đường lụa trắng là đường kinh mạch trung ương,
Và bạn sẽ được giải thoát, cho dù đã từng mắc phạm ngũ nghịch trọng tội với quả báo tức thì.
Do đó, những giáo huấn về con đường chuyển di sâu xa là phương cách dẫn tới Phật Quả mà không cần thiền định, một con đường bí mật đem đến giải thoát một cách quyết liệt, ngay cả cho những kẻ phạm trọng tội. Đức Phật Kim Cang Trì (Vajradhara) đã nói:
Bạn có thể từng giết mỗi ngày một người Bà la môn Hoặc mắc phạm năm ác hạnh bị quả báo tức thời, Nhưng một khi bạn được thọ nhận giáo huấn này Thì không cần nghi ngờ nữa, bạn sẽ được giải thoát.
Và chính Đại Đạo sư xứ Oddiyāna đã nói:
Mọi người đều thấu suốt Phật Quả nhờ thiền định Nhưng ta thấu suốt một con đường phi thiền định.
Đại học giả Naropa có nói:
Chín cánh cửa (chín khiếu) mở ra sinh tử luân hồi
Nhưng một cửa khai mở lối vào Đại Thủ Ấn (Mahāmudrā).
Hãy đóng lại chín cửa và mở ra một cửa;
Chớ nghi ngờ cửa ấy sẽ đưa đến giải thoát.
Và Marpa, đại dịch giả xứ Lhodrak có nói:
Cho tới nay ta đã từng thực hành pháp chuyển di,
Miên mật, miên mật và miên mật thêm nữa.
Ta có thể chết một cái chết bình thường, nhưng chẳng
cần lo lắng; Công phu thuần thục đem lại cho ta niềm xác tín tuyệt hảo.
Jetsun Shepa Dorje cũng nói:
Những giáo huấn này, hợp nhất, chuyển di và nối kết,*
Là cẩm nang để vượt qua thân trung ấm.
Ai có được một con đường như thế?
Kẻ ấy sẽ hạnh phúc biết bao khi sinh lực đi vào đường khí mạch trung ương –
Kỳ diệu thay! Đã đi đến một Pháp Giới viên mãn!
*Chúng ta nối kết với các cõi tịnh độ nương vào phápï chuyển di tâm thức bằng cách hợp nhất với vị thầy.
Các giáo huấn này có hai phần: phần đầu là thực tập [khi còn sống], và sau đó là phần thực hành thực sự [vào lúc lìa đời].
1. Thực Tập Pháp Chuyển Di
Khi nương vào những hướng dẫn về pháp chuyển di mà bạn đã được thọ nhận, bản thân bạn hãy miên mật tu tập và hãy tinh tấn thực hành pháp chuyển di cho tới khi có những dấu hiệu thành tựu xuất hiện.
Hiện nay, trong khi toàn thể các đường khí mạch, năng lực và tinh chất của bạn vẫn còn nguyên vẹn và sung mãn, bạn sẽ thấy rằng việc chuyển di thực sự rất khó khăn. Nhưng một khi đã tới giờ phút cuối cùng của cuộc đời, hay vào lúc đã quá già yếu, thì việc chuyển di sẽ trở nên rất dễ dàng. Giống như trái cây trên cành, khó hái vào mùa hè khi trái non ấy còn đang phát triển. Nhưng vào mùa thu, một khi nó đã chín nhũn và sẵn sàng rụng xuống, thì chỉ cần áo quần của bạn chạm nhẹ vào thôi là cũng đủ làm cho nó rụng xuống rồi.
2. Chuyển Di Thực sự
Thời điểm để thực sự thực hành pháp chuyển di là sau khi những dấu hiệu hấp hối của cái chết bắt đầu xuất hiện, khi mà bạn có thể biết chắc rằng không còn có thể quay ngược lại nữa và tiến trình tan rã đã bắt đầu. Không được làm như vậy vào bất kỳ thời điểm nào khác. Như trong các Mật điển có nói:
Chỉ thực hành pháp chuyển di khi thời điểm thích hợp đã đến, Nếu không, chẳng khác nào giết chết các Bổn Tôn.** ** Theo Kim Cương Thừa, thân thể con người được coi như một mạn đà la thần diệu của các Bổn Tôn. Trong ý nghĩa này, thu ngắn mạng sống của ta bằng cách thực hành pháp chuyển di sớm hơn thời điểm đồng nghiã với việc phá huỷ mạn đà la của các Bổn Tôn.
Có nhiều giai đoạn trong tiến trình tan rã hay phân tán nhưng để cho dễ hiểu thì tiến trình này có thể được chia ra thành bốn giai đoạn: giai đoạn tan rã của năm giác quan, giai đoạn tan rã của tứ đại (đất, nước, gió, lửa), và thêm ba giai đoạn của tánh sáng (clarity), tăng trưởng (increase) và thành tựu (attainment).
Giai đoạn tan rã của năm giác quan bắt đầu, ví dụ như khi tiếng trì tụng của chư tăng tụ họp quanh tử sàng của bạn chỉ còn là những âm thanh giống như một thứ tiếng rì rầm lộn xộn rối rắm. Bạn không còn có thể phân biệt được các âm tiết. Hoặc ví dụ như khi bạn nghe âm thanh giọng nói của con người như thể đến từ rất xa, và không thể nhận ra được lời lẽ gì nữa. Đó là khi nhĩ thức của bạn đến lúc chấm dứt. Nhãn thức của bạn cũng đến lúc kết thúc khi bạn chỉ có thể nhìn thấy cảnh tượng lờ mờ thay vì nhìn thấy hình tướng thật sự của mọi vật. Khi những kinh nghiệm của khứu giác, nếm biết, và xúc chạm cũng chấm dứt và đi tới giai đoạn phân rã sau cùng thì dứt khoát là đã tới thời điểm thích hợp để có thể tiến hành pháp chuyển di.
Sau đó, khi yếu tố bên trong của da thịt tan rã thành yếu tố bên ngoài của đất,315 bạn sẽ kinh nghiệm một cảm giác giống như rơi xuống một cái hố. Bạn cảm thấy nặng nề, như thể bị đè bẹp bởi sức nặng của một trái núi. Đôi khi, người hấp hối yêu cầu hãy nâng người họ lên hay yêu cầu hãy đỡ cao chiếc gối của họ lên. Khi máu tan rã thành yếu tố nước bên ngoài, bạn sẽ chảy nước miếng và nước mũi. Khi yếu tố nhiệt của thân tan rã thành yếu tố lửa bên ngoài, miệng và lỗ mũi bạn cảm thấy ráo khô và thân bạn bắt đầu mất nhiệt, bắt đầu từ chân, tay (starting with the extremeties).*
Extremeties là một thuật ngữ tiếng Anh có nghĩa là chân, tay, các bộ phận nhô ra ngoài của thân thể. Trong một vài trường hợp, hơi (vapour) bốc lên từø đỉnh đầu vào giai đoạn này. Khi hơi thở bên trong, tức yếu tố năng lực (energy) tan rã thành yếu tố khí (air) bên ngoài, thì các năng lực khác nhau của bạn – năng lực đi lên (ascending energy), năng lực bài tiết (energy of evacuation), năng lực nồng nhiệt (fiery energy) và năng lực tỏa khắp (pervading energy) – tất cả đều tan hoà vào năng lực hỗ trợ sinh lực (life-supporting energy). Thở vào trở nên rất khó khăn. Thở ra thì hổn hển, giống như đang đổ dôàn hết cả hai lá phổi qua cổ họng. Rồi tất cả máu trong thân bạn hội tụ lại trong đường khí sinh lực và có ba giọt tinh chất sẽ nhỏ giọt vào trung tâm của trái tim bạn, giọt này sau giọt kia. Rồi với ba hơi thở hắt thì sau đó hơi thở ra của bạn sẽ đột nhiên tắt ngúm.
Vào lúc đó, dù yếu tố trắng hay “tinh dịch” mà bạn đã nhận được từ cha sẽ nhanh chóng từ đỉnh đầu bạn di chuyển xuống phía dưới [xuống đến luân xa tim]. Như một dấu hiệu bên ngoài, bạn trải qua một kinh nghiệm màu trắng giống như một bầu trời không mây được ánh trăng chiếu sáng. Như một dấu hiệu bên trong, bạn kinh nghiệm tánh sáng (clarity) trong tâm thức bạn và ba mươi ba loại thức (niệm tưởng) liên hệ đến tâm thù nghịch sẽ tuyệt dứt. Trạng thái này được gọi là “tánh sáng.”
Yếu tố đỏ hay “máu” mà bạn đã nhận được từ mẹ sẽ nhanh chóng từ vùng rốn (đan điền) của bạn di chuyển lên trên [lên đến luân xa tim]. Như một dấu hiệu bên ngoài, bạn nhận thức kinh nghiệm màu đỏ giống như một bầu trời trong trẻo được ánh sáng rực rỡ của mặt trời thắp sáng. Như một dấu hiệu bên trong, bạn sẽ có một kinh nghiệm hỉ lạc rất lớn lao trong tâm thức và bốn mươi loại thức (niệm tưởng) liên hệ đến tham dục sẽ tuyệât dứt. Trạng thái này được gọi là “tăng trưởng.”
Khi hai yếu tố đỏ và trắng hội tụ lại nơi [luân xa] tim của bạn, thì giọt tâm thức của bạn sẽ tiến vào nằm ở giữa hai yếu tố trắng và đỏ kia. Dấu hiệu bên ngoài là một nhận thức về màu đen giống như màu đen của một bầu trời trong trẻo hoàn toàn ngập trong bóng tối. Dấu hiệu bên trong là tâm thức bạn kinh nghiệm một trạng thái vô niệm, vắng bặt mọi niệm tưởng, và bạn ngất đi, rơi vào một trạng thái hoàn toàn tối nghịt. Điều này được gọi là giai đoạn “thành tựu.”
Sau đó, bạn sẽ bước ra khỏi trạng thái kích ngất và bước vào một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm về một bầu trời, nhưng bầu trời này hoàn toàn không bị ảnh hưởng gì của ba bầu trời mà bạn đã kinh nghiệm qua trước đây. Đây chính là khi “thanh tịnh quang của chân tánh”316 đang xuất hiện. Việc nhận thức ra được rằng thanh tịnh quang này chính là chân tánh của bạn và an trụ trong trạng thái đó, điều này được gọi là “chuyển di siêu việt tới Pháp Thân.” Đây là Phật Quả không kinh qua bất kỳ trạng thái trung gian nào [của thân trung ấm].
Sau thời điểm trên thì giai đoạn trung ấm của chân tánh và giai đoạn trung ấm của sự hình thành sẽ tuần tự hiển lộ, nhưng những giai đoạn đó sẽ không được miêu tả ở đây bởi những giai đoạn này sẽ được thuật lại trong các giáo huấn của phần thực hành chính yếu.
Đối với những người không có kinh nghiệm gì đáng kể về con đường tu chứng 317 thì giây phút tốt đẹp nhất để thực hiện pháp chuyển di là lúc tiến trình tan rã vừa mới bắt đầu. Vào lúc đó, hãy hoàn toàn cắt đứt mọi bám luyến với cuộc đời này và hãy làm sống dậy lòng can đảm của bạn bằng cách nghĩ tưởng như sau: “Bây giờ tôi đang hấp hối, tôi sẽ nương cậy vào các giáo huấn của thầy tôi và bay vút tới các cõi tịnh độ giống như một mũi tên được kẻ khổng lồ bắn vọt ra. Điều này thật là hỉ lạc biết bao!”
Vào lúc đó, bạn sẽ khó có thể nhớ lại một cách rõ ràng tất cả những đề mục và những gì phải quán tưởng trong pháp chuyển di, vì thế nếu bạn có một bằng hữu nào đó có thể nhắc nhở bạn về những điều này thì hãy yêu cầu người ấy làm công việc đó. Nhưng dù sao đi nữa, vào thời điểm đó, khi biết nương cậy vào công phu tu tập trước đây của bạn và biết đem giáo huấn của pháp tu sâu xa này vào thực hành, thì nay đã tới lúc bạn phải thực sự làm sao để cho pháp chuyển di này đem lại kết quả hữu hiệu!
Và sau đây là những bước thực hành chính yếu của pháp chuyển di; cho dù là bạn tu tập cho bản thân bạn [khi đang còn sống] hay là đem pháp tu này vào thực hành [khi lìa đời] thì những bước thực hành cũng đều giống như nhau.
3. Trình tự của pháp thiền định chuyển di
Hãy ngồi thoải mái trên một tấm nệm, chân bắt chéo trong tư thế kim cương, giữ cho lưng hoàn toàn thẳng.
1.1 PHÁP CHUẨN BỊ
Trước tiên, hãy hoàn tất toàn thể các pháp tu dự bị cho thật rõ ràng, chi tiết, bắt đầu bằng bài tụng đọc Gọi Thầy Từ Chốn Xa và tiếp tục cho tới phần tan hoà (dissolution) trong pháp Bổn Sư Du Già (Guru Yoga).
1.2 PHÁP QUÁN TƯỞNG CHÍNH YẾU
Hãy quán tưởng xác thân phàm của bạn,318 trong một khoảnh khắc, trở thành thân tướng của Nữ Kim Cang Du Già (Vajra Yoginī). Vajra Yoginī mang sắc màu đỏ, có một khuôn mặt và hai cánh tay, đang đứng bằng cả hai chân, bàn chân phải giở lên trong “tư thế đang bước.” Ba con mắt của Vajra Yoginī nhìn lên trời. Những hướng dẫn này nhằm mục đích chuyển di nên hãy quán tưởng Ngài với nét quyến rũ, an bình đồng thời hơi phẫn nộ. Bàn tay phải của Ngài giơ lên trong không trung, khua lách cách một cái trống nhỏ làm bằng sọ người đánh thức chúng sinh khỏi giấc ngủ của vô minh và lầm lạc. Trong bàn tay trái, Ngài cầm một lưỡi dao lưỡi liềm ngang hông để cắt đứt tận gốc tam độc tham sân si. Thân mình của Ngài trần trụi ngoại trừ một vòng hoa và các vật trang sức bằng xương [đeo trên người]. Như một căn lều bằng lụa đỏ, Ngài hiển lộ nhưng không có thực chất hay thực sự có ở đó. Tất cả những điều này là áo giáp hư huyễn bên ngoài (outer empty enclosure) của thân tướng.
Ở ngay trung tâm, suốt dọc thân thẳng đứng của bạn [nay trong hình tướng của Vajra Yoginī], hãy quán tưởng đường kinh mạch trung ương giống như một cây cột trong một ngôi nhà trống. Được gọi là kinh mạch “trung ương” bởi đường khí ấy nằm ngay nơi trục của thân, không nghiêng sang trái hay sang phải. Đường kinh mạch trung ương có bốn đặc tính. Thứ nhất, mang màu xanh biếc như một phim ảnh màu chàm (indigo), tượng trưng cho Pháp Thân bất biến. Thứ nhì, kết cấu của đường khí ấy vi tế giống như một cánh hoa sen, tượng trưng cho tính chất mỏng manh của những bức màn che chắn xuất hiện từ những thói quen huân tập. Thứ ba, đường khí ấy sáng như ngọn lửa của một cây đèn dầu mè, tượng trưng cho bóng tối vô minh đã được xua tan. Thứ tư, đường khí ấy thẳng như một khúc tre, là biểu hiện sẽ không bao giờ dẫn tới những con đường xấu thấp hoặc sai lạc. Đầu trên của đường kinh trung ương mở thẳng vào cửa Phạm Thiên nơi đỉnh đầu [nơi tâm thức có thể thoát ra], giống như một cửa sổ mở toang trên mái nhà, biểu hiệu cho con đường đưa tới giải thoát và những cõi tái sinh cao hơn, trong khi đầu dưới của đường kinh trung ương đóng kín lại không có lỗ mở nào, dưới rốn khoảng bốn ngón tay, biểu hiện rằng những lối trở lại vào vòng luân hồi sinh tử và các cõi tái sinh thấp đã được đóng kín. Tất cả những điều này là áo giáp rỗng rang bên ngoài (outer empty enclosure) của đường kinh mạch trung ương.
Bây giờ hãy quán tưởng bên trong đường kinh mạch trung ương ở khoảng ngang tầm trái tim, chỗ đó như hơi phồng ra, giống như một cái mắt trong một thân tre. Phía trên chỗ cái mắt phồng ra này, hãy quán tưởng giọt tinh chất (bindu) của năng lực, màu xanh lá cây nhạt, sống động và mạnh mẽ. Ngay trên đó là tinh tuý của tâm thức của bạn, một chữ hrih màu đỏ, với dấu nguyên âm dài và hai chấm nhỏ thay thế cho visarga,* lay động và rung rinh như một lá cờ trong gió.
* Đây là một dấu hiệu của Phạn ngữ được phát âm như một âm “h” nặng. Theo cách phát âm của tiếng Tây Tạng thì chỉ cần kéo dài âm tiết, và được viết bằng hai vòng tròn nho,û cái này trên cái kia, tượng trưng cho trí tuệ và phương tiện.
(Chữ hrih được quán tưởng theo cách này) tượng trưng cho Giác tánh của bạn.[319]
Trong không gian trên đầu bạn một cubit (khoảng 46 cm), hãy quán tưởng một chiếc ngai báu, được tám con công vĩ đại nâng lên. Trên đó là một hoa sen nhiều màu, cùng với hai đĩa mặt trời và mặt trăng, cái này nằm trên cái kia, tạo thành một tấm nệm ba lớp [xếp chồng lên nhau]. An toạ trên toạ cụ ấy là Bổn Sư vinh quang của bạn, là kho tàng bi mẫn không gì sánh bằng, hiển lộ trong thân tướng cửa tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai, và trong thân tướng của đức Phật Thế Tôn và đức Hộ Phật A Di Đà (Amitabha). Ngài mang sắc màu đỏ, giống như một trái núi bằng hồng ngọc được một ngàn mặt trời bao bọc. Ngài có một khuôn mặt, hai bàn tay nghỉ ngơi trong tư thế thiền định, cầm một bình bát chứa đầy chất cam lồ bất tử của trí tuệ. Ngài đắp tam y, là y phục của một Hoá Thân siêu phàm320 tuân giữ phạm hạnh thanh tịnh. Thân Ngài mang ba mươi hai tướng chính và tám mươi tướng phụ, chẳng hạn như nhục kế nhô cao (usnisa) trên đỉnh đầu và các luân xa in dấu trên lòng bàn chân– toàn thân Ngài được bao phủ trong ánh hào quang rực rỡ đến từ muôn ngàn tia ánh sáng đang phóng toả.
Bên phải đức A Di Đà là đấng Quán Thế Âm (Avalokitesvara) cao quý, hiện thân của lòng bi mẫn của tất cả chư Phật — đức Quán Thế Âm mang sắc trắng, với một khuôn mặt và bốn cánh tay. Đôi bàn tay ở phía trên chắp lại nơi tim, lòng bàn tay úp vào nhau. Bàn tay phải ở phiá dưới đang lần một chuỗi tràng pha lê màu trắng, và bàn tay trái phiá dưới đang cầm một cành sen trắng, bông hoa nằm sát tai Ngài, tất cả các cánh hoa đều nở bung ra.
Bên trái đức A Di Đà là Kim Cương Thủ (Vajrapani), Pháp Vương của các pháp ẩn mật, hiện thân của thần uy và oai lực của tất cả chư Phật. Ngài mang sắc màu xanh dương, hai bàn tay bắt chéo trước ngực; trong tay Ngài cầm một cái chày kim cang và một cái chuông.
Cả hai vị Bổn Tôn (Quán Thế Âm và Kim Cương Thủ) đều mang mười ba vật trang sức** Xem Phần Hai, Chương Ba, Mục III. của Báo Thân. Đức Phật A Di Đà an tọa, hai chân xếp chéo trong tư thế Kim Cương. Điều này tượng trưng cho việc Ngài luôn an trụ mà không rơi vào những cực đoan của cả sinh tử lẫn Niết Bàn. Còn hai vị Bồ Tát (Quán Thế Âm và Kim Cương Thủ) trong tư thế đang đứng thẳng, điều này tượng trưng việc các Ngài không bao giờ mệt mỏi khi làm việc vì lợi ích của chúng sinh.
Xung quanh ba vị Hộ Phật và Bổn Tôn chính yếu này, là tất cả các bậc Thầy của dòng truyền thừa của pháp chuyển di thâm diệu. Tất cả các Ngài hội tụ lại như những đám mây trong một bầu trời trong trẻo. Các Ngài hướng khuôn mặt tràn đầy lòng từ ái về phía bạn và tất cả các chúng sinh khác. Các Ngài chăm chú nhìn bạn với những đôi mắt ánh lên nụ cười, nghĩ tưởng về bạn với niềm hoan hỉ. Hãy nhớ tưởng tới các Ngài như những người đưa đường vĩ đại giúp giải thoát bạn và tất cả chúng sinh khỏi những thống khổ của vòng sinh tử và các cõi thấp, đưa dẫn bạn tới cõi thuần tịnh của đại lạc. Hãy quán tưởng theo văn bản, bắt đầu từ câu:
Thân xác phàm [318] của con trở thành sắc tướng của Thánh Nữ Kim Cang Du Già (Vajra Yoginī)…
xuống tới câu:
...Ba con mắt Ngài ngước nhìn lên bầu trời.
Rồi từ câu:
Đường khí mạch trung ương chạy dọc suốt giữa
thân Ngài…
cho tới câu:
…Thân Ngài thật toàn mỹ với tất cả các tướng chính và phụ…
Sau đó, với tất cả niềm tin và kỳ vọng, toàn thân bạn như bừng bừng lên và nước mắt tuôn rơi, hãy lập lại càng nhiều lần càng tốt lời khẩn nguyện sau đây:
Đức Thế Tôn, Như Lai, A La Hán, Đức Phật Toàn Giác, đấng Hộ Phật A Di Đà, con xin quy mạng lễ. Con xin cúng dường lên Ngài. Con xin nương tựa nơi Ngài.
Rồi hãy tụng đọc đầy đủ bài cầu nguyện kế tiếp ba lần, bắt đầu từ câu:
Emaho (Kỳ diệu thay)! Nơi chốn này, cõi Sắc Cứu Cánh Thiên viên mãn đã hiển hiện tự nhiên…
cho tới câu:
... Nguyện cho con nắm giữ được đại-phương quảng-trí của Pháp Thân!
Kế đó hãy tụng ba lần phẩm cuối cùng, bắt đầu từ câu:
Với lòng quy ngưỡng trong tâm…
Cuối cùng, tụng ba lần dòng cuối cùng sau đây:
… Nguyện cho con an trụ trong đại-phương quảng-trí của Pháp Thân!
Trong khi bạn cầu nguyện, hãy chỉ chú tâm vào chữ hrīh, là biểu tượng của Giác tánh của bạn, và cầu nguyện với lòng quy ngưỡng hướng về bậc Thầy và đấng Hộ Phật của bạn, tức đức Phật A Di Đà, tới nỗi đôi mắt bạn trở nên đẫm lệ.
Sau đây là đến phần nghi thức phóng xuất thần thức. Khi bạn tụng “Hrīh, Hrīh,” năm lần từ phía sau vòm miệng, chữ hrīh màu đỏ, tượng trưng cho Giác tánh của bạn, được giọt tinh lực (bindu of energy) rung động màu xanh lá cây nhạt [321] nâng bổng lên, càng lúc càng được nâng bổng lên cao và luôn luôn rung động [tất cả đều nằm ở giữa đường khí mạch trung ương]. Khi giọt tinh lực hiện ra ở cửa Phạm Thiên trên đỉnh đầu bạn, hãy hô lớn “Hik!” và quán tưởng giọt tinh lực ấy phóng vút lên, giống như một mũi tên được tên khổng lồø bắn đi, và tan hoà vào trái tim đức Phật A Di Đà.
Hãy thực hành nghi thức trên bảy lần, hai mươi mốt lần hoặc nhiều hơn nữa, trong khi quán tưởng chữ hrīh trong tim bạn và lập lại tiếng hô “Hik!” như trước đó. Trong các truyền thống khác, người ta hô “Hik!” khi phóng tâm thức lên và hô “Ka” khi thả cho thần thức rơi trở xuống, nhưng theo truyền thống này chúng ta không hô “Ka” khi thả cho thần thức rơi trở xuống.
Sau đó, hãy hành trì nghi thức như trên càng nhiều lần càng tốt, số lần nhiều ít tuỳ nghi sao cho phù hợp với bạn, và bắt đầu với câu:
Đức Thế Tôn… Đấng Hộ Phật A Di Đà…
Sau đó tụng những lời cầu nguyện và thực hành kỹ thuật phóng xuất tâm thức và những nghi thức còn lại. Rồi một lần nữa, hãy tụng ba hay bảy lần câu:
Đức Thế Tôn… Đấng Hộ Phật A Di Đà…
xuống tới câu:
…Con xin cúng dường lên Ngài. Con xin nương tựa nơi Ngài.
Hãy thực hành theo nghi thức này với lời khẩn nguyện chuyển di cô đọng được gọi là Cắm Cọng Cỏ, được vị tôn giả khai quật tàng kinh Nyi da Sangye [322] biên soạn và trao truyền qua dòng truyền thừa của Tu viện Dzogchen:
Đức Phật A Di Đà, con xin quy mạng lễ trước Pháp toà;
Đức Liên Hoa Sanh xứ Oddiyāna, con khẩn cầu Ngài;
Bổn Sư từ ái, xin che chở con bằng lòng bi mẫn của Ngài!
Chư vị Bổn Sư và Tôn Sư thuộc dòng truyền thừa, xin dẫn dắt con trên con đường tu.
Xin gia hộ cho con để con có thể thành tựu con đường chuyển di thâm diệu.
Xin gia hộ cho con để con đường chuyển di thần tốc này có thể đưa con tới cõi tịnh độ.323
Xin gia hộ cho con và những chúng sinh khác để ngay khi cuộc đời này chấm dứt,
Xin cho chúng con được vãng sinh nơi cõi Cực Lạc!
Hãy tụng lời cầu nguyện này ba lần, và sau đó lập lại ba lần dòng cuối cùng. Hãy tiếp tục thực hành kỹ thuật phóng xuất thần thức như đã được giảng dạy trước đây, trong một khoảng thời gian lâu hay mau sao cho phù hợp với bạn. Rồi lại bắt đầu từ câu:
Đức Thế Tôn, Như Lai...
và tụng đọc lời cầu nguyện chuyển di theo Giáo Lý Hư Không, được truyền dạy qua dòng truyền thừa của Tu viện Palyul [324]:
Emaho! Đức Phật A Di Đà, đấng Hộ Phật kỳ diệu nhất,
Đức Quán Thế Âm Đại Từ Đại Bi và đức Kim Cang Thủ đầy uy lực,
Vì lợi lạc của bản thân cùng những chúng sinh khác, con
xin chí tâm chí thành khẩn cầu chư vị:
Xin gia hộ cho chúng con để chúng con có thể thành tựu
con đường chuyển di thâm diệu.
Xin gia hộ cho chúng con để vào giây phút lìa đời,
Tâm thức của chúng con sẽ được chuyển di tới Pháp Giới Cực Lạc!
Hãy tụng đọc lời cầu nguyện này ba lần, lập lại hai dòng sau cùng thêm ba lần nữa. Rồi hãy thực hành kỹ thuật phóng xuất tâm thức như đã được giảng dạy trước đó.
Hai lời cầu nguyện sau cùng này không có trong những văn bản ghi chép giáo huấn Tâm-Yếu của Đại-Quảng-Trí và không được Ngaiø Rigdzin Jigme Lingpa truyền dạy, nhưng được truyền xuống từ Ngài Dzogchen Rinpoche qua Tu viện Gochen, và qua các vị Đạo Sư kế thừa khác. Những lời cầu nguyện trên trở thành một phần trong những khẩu truyền được Ngài Kyabe Dodrup Chen Rinpoche thọ nhận, và Ngài đã hợp nhất tất cả những lời cầu nguyện thành một dòng pháp duy nhất. Bản thân Ngài đã sử dụng những lời cầu nguyện này, cũng giống như Bổn Sư tôn kính của tôi đã làm. Dodrup Chen Rinpoche cũng được kế thừa những giáo huấn về pháp chuyển di được truyền xuống từ Ngài Gampopa thuộc dòng Kagyu. Bởi thế, một số lời cầu nguyện của Ngài Gampopa được tìm thấy trong bản văn cầu nguyện chuyển di do Dodrup Chen Rinpoche biên soạn, mặc dù những lời cầu nguyện đặc biệt này không phải là những gì Bổn Sư của tôi thường trì tụng. Dù sao đi nữa, tiến trình quán tưởng của tất cả những truyền thống khác nhau vẫn hoàn toàn giống nhau, nên không còn phải nghi ngờ gì nữa mà phải hiểu là những suối nguồn giáo huấn này đã được hợp nhất để trở thành một con sông lớn. Vị Thầy tôn kính của tôi đã nhiều lần thọ nhận những giáo huấn này từ Kyabje Dodrup Chen Rinpoche. Tôi cho rằng tất cả những ai đã từng thọ nhận những giáo huấn chuyển di này từ Ngài cũng đã đồng lúc nhận được những giáo huấn về pháp chuyển di của truyền thống Kagyu, và vì thế, được cho phép trì tụng những lời cầu nguyện của dòng truyền thưà tương ứng cùng với những lời cầu nguyện khác. Cho dù hai lời cầu nguyện cô đọng được tôi ghi ra ở đây có đồng nhất với những lời cầu nguyện được ghi trong tuyển tập cầu nguyện của Ngài Dodrup Chen Rinpoche hay không chăng nữa, thì chúng cũng chỉ khác biệt rất tối thiểu nếu đem so với những văn bản khác, và vì thế tôi đã ghi lại theo đúng hệt như những gì mà vị Thầy tôn kính của tôi đã giảng dạy.
Có lần Thầy tôi đang truyền dạy pháp chuyển di theo truyền thống của Giáo Lý Hư Không. Trong khi Ngài đang thực hành (hướng dẫn) pháp chuyển di cho một đám đông khổng lồ thì một vài người đã không bắt kịp được câu sau đây mà Ngài đã thêm vào “…tất cả những điều này (di nam), khi giây phút lìa đời đến với họ;” và vì thế mà bây giờ một vài người thường nói: “…những nhận thức của cuộc đời này (dir nang)..,” và những người khác thì lại nói “…bởi thế (di ne)..,” nhưng theo ý kiến của tôi thì cả hai lối nói trên đều có phần hơi sai trật.
Khi bạn đã hoàn tất pháp môn chuyển di nhiều lần và đến lúc kết thúc thời khóa, hãy niêm phong pháp môn lại trong đại-phương quảng-trí của năm Thân (expanse of the five kāyas) bằng cách hô lên tiếng “P’et” năm lần. Sau đó, hãy an trú trong trạng thái an tịch tự nhiên không tạo tác bất kỳ điều gì.
Sau đó, tất cả những vị Thầy của dòng truyền thừa trên đỉnh đầu bạn sẽ tan hòa vào ba vị thượng thủ (A Di Đà, Quán Thế Âm và Kim Cương Thủ); rồi hai vị Bồ Tát Quán Thế Âm và Kim Cương Thủ tan hòa vào đức Phật A Di Đà; và đức Phật A Di Đà (Vô Lượng Quang)ø tan thành ánh sáng và sau đó tan hòa vào bạn. Hãy quán tưởng chính bạn ngay lập tức hoá hiện thành ra vị Hộ Phật Vô Lượng Thọ (Amitayus) trong sắc màu đỏ, với một khuôn mặt, hai tay và hai chân. Ngài toạ thiền trong tư thế Kim Cương (Vajra). Hai tay ngài bắt ấn thiền định, cầm một bình bát sinh lực tràn đầy cam lồ của trí tuệ bất tử và trên đỉnh bình bát có một nhánh cây như ý. Ngài mang trên mình mười ba bảo vật trang sức của Báo Thân.
Hãy tụng câu “Om Amarani Jīvantiye Svāhā” (minh chú của đức Amitayus Vô Lượng Thọ) một trăm lần, sau đó hãy tụng đà ra ni trường thọ và những câu minh chú khác. Điều này ngăn ngừa giúp cho thọ mạng của bạn không bị ảnh hưởng bởi pháp thực hành chuyển diø – và nhờ vào chân lý của duyên tương khởi này – sẽ tẩy trừ bất kỳ chướng ngại nào có thể đe dọa đến thọ mạng của bạn.[325] Phần hành trì minh chú và quán tưởng Vô Lượng Thọ này không cần thiết khi bạn thực hành pháp chuyển di tâm thức cho một người hấp hối hay cho người đã chết, và cũng không cần thiết khi bạn đang thực sự thực hành pháp chuyển di cho chính bản thân bạn vào lúc lìa đời.
Những dấu hiệu thành tựu trong pháp chuyển di được mô tả trong bản chánh văn như sau:
Đầu đau nhức; một giọt huyết thanh (serum) lóng lánh như sương xuất hiện; Có thể từ từ cắm sâu một cọng cỏ [vào trên đỉnh đầu].
Hãy miên mật hành trì cho đến khi những dấu hiệu này xuất hiện.
Để kết thúc, hãy hồi hướng công đức và trì tụng Bài Nguyện Vãng Sanh Tây Phương Cực Lạc và những bài nguyện khác. Khác với những pháp môn hành trì khác của hai giai đoạn phát triển và toàn thiện, những giáo huấn về con đường thâm diệu của pháp chuyển di không đòi hỏi thời gian tu tập lâu dài. Những dấu hiệu thành tựu nhất định sẽ xảy đến sau một tuần lễ thực tập miên mật. Đó là điều tại sao phương pháp này được gọi là “Giáo Pháp đem lại Phật Quả phi thiền định,” và đó là điều tại sao mọi người nên lấy con đường tắt vô song này làm pháp môn hành trì hằng ngày.
Không thể tự lo cho mình, con lảm nhảm lung tung với người quá cố.
Không tu hành, nhưng con trải rộng vòm Giáo Pháp vô tận.
Xin từ bi gia hộ cho con và những kẻ gian xảo như con,
Để chúng con có thể tinh tấn, hành trì miên mật.
Các hang động gần Tu Viện Dzogchen
Tại những hang động này, Patrul Rinpoche đã trải qua nhiều năm trong thiền định. Hang động phía dưới mang tên “Cung Điện Kinh Hoàng của Yamantaka” là nơi đại sư Patrul Rinpoche đã trú ngụ trong thời gian biên soạn tác phẩm “Lời Vàng Của Thầy Tôi.”
KẾT LUẬN
Những giáo huấn dưới đây, gồm mười hai đề mục chính yếu, với sáu đề mục đầu tiên liên quan tới những pháp tu dự bị thông thường bên ngoài:
1. Sử dụng đời người cho những điều thật sự quan trọng bằng cách quán chiếu về những điều kiện tự do và những thuận duyên rất khó tìm.
2. Tự thôi thúc mình phải tinh tấn bằng cách quán chiếu về lẽ vô thường của cuộc đời.
3. Phát khởi quyết tâm cầu tìm giải thoát cùng với tâm từ bi nhờ vào việc nhận biết ra được bản chất của toàn bộ vòng sinh tử luân hồi là đau khổ.
4. Từ bỏ những điều xấu ác và noi theo những điều tốt lành trong bất kỳ việc gì nhờ vào những hiểu biết rốt ráo về những hậu quả của việc làm của mình.
5. Càng ngày càng thiết tha với kết quả thành tựu bằng cách nhớ đến những lợi lạc của giải thoát.
6. Bằng cách theo chân một vị Thầy tâm linh chân chính, tự rèn luyện bản thân để tích cực theo gương những chứng nghiệm và thiện hạnh của Ngài.
Năm đề mục kế tiếp bao gồm những pháp tu dự bị phi thường hay những chuẩn bị bên trong:
1. Đặt ý nguyện tìm cầu giải thoát trên nền tảng của quy y Tam Bảo.
2. Thiết lập một cái khung vững chắc cho vô lượng công hạnh của một vị Bồ Tát bằng cách khơi dậy tâm Bồ Đề tối thượng.
3. Sám hối những ác hạnh và những vi phạm giới hạnh, là gốc rễ của tất cả những gì bất thiện, và nương vào bốn lực tịnh hoá nghiệp, thực hành thiền định và trì tụng về Đức Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva).
4. Tích lũy công đức và trí tuệ, là suối nguồn của tất cả những tiến triển tâm linh, bằng cách cúng dường những cõi Tịnh Độ của ba Thân (kāyas) trong hình thức của một mạn đà la.
5. Tự khơi dậy tuệ giác tối thượng trong bản thân bằng cách khẩn nguyện Bổn Sư, là suối nguồn của mọi năng lực gia trì.
Cuối cùng, trong trường hợp cái chết đột ngột xảy đến trước khi bạn có thể hoàn tất con đường tu, hãy nương vào pháp chuyển di tâm thức để nối kết với các cõi tịnh độ, dẫn đến Phật Quả mà không cần thiền định.
Những pháp tu dự bị này cũng có thể được trình bày như sau. (1) Nhờ vào bốn tư tưởng quán chiếu chuyển tâm giúp bạn quay lưng lại với cõi sinh tử luân hồi và nhờ vào những hiểu biết về lợi ích của giải thoát, bạn có thể làm sống dậy lòng cương quyết tìm cầu giải thoát, và chính lòng cương quyết chí thành này sẽ mở ra một lối vào cho toàn bộ con đường tu. (2) Nhờ theo chân một vị Thầy tâm linh, suối nguồn của mọi phẩm hạnh tốt lành, bạn sẽ tạo được những thuận duyên cho con đường tu. (3) Nhờ quy y Tam Bảo làm nền tảng, và nhờ khơi dậy được tâm Bồ Đề, tu tập hành trì theo sáu pháp toàn thiện siêu việt (lục độ ba la mật) mà bạn sẽ được dẫn dắt đi trên con đường chánh đạo của chư Phật Toàn Trí Toàn Giác.
Có những giáo huấn khác cũng được biết tới qua những giải thích dựa trên ba loại tri giác,326 ba loại căn cơ của chúng sinh, hoặc dựa trên pháp tu Đại Thủ Ấn theo truyền thống Kinh điển327… nhưng tất cả những điểm trọng yếu của những con đường đó đều được hợp nhất ở đây trong tác phẩm luận giải này.
Tuy nhiên, tất cả những Giáo Pháp như pháp tịnh hóa và tích lũy (hai bồ phước tuệ), vận dụng hai phương pháp tối cao là (1) pháp môn hành trì Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva) và (2) pháp cúng dường Mạn đà la; (3) pháp Bổn Sư Du Già (Guru Yoga), con đường bí mật dẫn đến năng lực gia trì thâm diệu; và (4) những giáo huấn về pháp chuyển di tâm thức dẫn đến Phật Quả mà không cần thiền định – tất cả những Giáo Pháp trên đều là những Giáo Pháp vô song, được cắt nghĩa giảng giải một cách đặc biệt theo đúng truyền thống tu tập của riêng dòng truyền thừa này.
Sau những pháp môn hành trì này, ta sẽ bước vào con đường chính yếu phi thường, là tinh tuý của Giáo Pháp kim cương Tâm-Yếu (Heart Essence), gồm có những pháp tu dự bị đặc biệt dẫn đến ba Thân (kāya), đến chân tâm, và đến giác tánh. Sau đó, một khi nương vào pháp gia trì của giác tánh năng hoạt 328 mà ta được chỉ cho thấy lối vào chân như, thì rồi ta cũng sẽ nhận được thêm những hướng dẫn trực chỉ chân tâm, dựa trên chính những kinh nghiệm tuần tự tu chứng của riêng ta.* Đoạn này ám chỉ các pháp thiền đặc biệt của Đại Viên Mãn.
Khi biên soạn những giáo huấn này, tôi gần như không để cho những cân nhắc về mỹ học hay văn chương lôi kéo. Mục đích chính của tôi là chỉ ghi chép một cách trung thực những giáo huấn truyền khẩu của vị Thầy tôn kính của tôi theo một cách trình bày dễ hiểu và có lợi lạc cho tâm thức. Tôi đã cố gắng bằng hết khả năng của mình để không làm hư hoại những giáo huấn ấy bằng cách pha trộn vào đó những ngôn từ và ý tưởng của riêng tôi.
Trong một số trường hợp riêng biệt, Thầy tôi cũng thường ban nhiều giáo huấn đặc biệt chỉ dạy cách phơi bày những lỗi lầm tiềm ẩn, và tôi đã thêm vào bất kỳ những gì tôi nhớ được về những điều này trong những đoạn văn thích hợp nhất. Đừng nên coi những giáo huấn phơi bày lỗi lầm này như một cánh cửa sổ để qua đó bạn có thể xem xét lỗi lầm của người khác, mà phải coi đó là một tấm gương để quán sát chính bạn. Hãy xem xét kỹ lưỡng trong bản thân bạn để xem mình có hay không có những lỗi lầm tiềm ẩn đó. Nếu có, hãy nhận ra chúng và hãy trục xuất chúng. Hãy chỉnh sửa tâm bạn và thanh thản đặt tâm ấy trên con đường tu đúng đắn. Như Ngài Atisa đã nói:
Vị Thầy tâm linh tuyệt vời nhất là người tấn công vào những lỗi lầm tiềm ẩn của bạn. Giáo huấn xuất sắc nhất là giáo huấn đánh trúng vào những lỗi lầm đó. Những người bạn tuyệt hảo nhất là chánh niệm và tỉnh giác. Sự khích lệ tốt lành nhất là kẻ thù, chướng ngại và đau khổ của bệnh tật. Phương pháp thiện xảo nhất là không tạo tác bất kỳ điều gì.
Điều cực kỳ quan trọng là hãy làm sao để cho những giáo huấn ấy tác động được tới những lỗi lầm tiềm ẩn của bạn, vận dụng Giáo Pháp để sửa chữa tâm bạn, luôn luôn duy trì chánh niệm và tỉnh giác, nhận về mình toàn bộ trách nhiệm khi có bất kỳ điều gì xảy ra, thậm chí không bao giờ để cho dù chỉ một tư tưởng bất thiện phát khởi, và hãy nương vào Giáo Pháp để điều phục tâm bạn. Nếu bạn có thể làm được tất cả những điều này, bạn sẽ ban cho chính bạn một đặc ân. Giáo Pháp sẽ trở nên vô cùng lợi lạc cho tâm bạn, và việc bạn theo chân một vị Thầy sẽ bắt đầu có ý nghĩa thật sự. Ngài Atisa cũng có nói:
Cách tốt nhất bạn có thể giúp đỡ người khác là dẫn dắt họ đến với Pháp. Cách tốt nhất họ có thể đón nhận sự giúp đỡ là chuyển tâm hướng về Pháp.
Tóm lại, giờ đây bạn đã có được những điều kiện tự do và thuận lợi của đời người. Bạn đã gặp một vị chân sư và nhận được những giáo huấn thâm diệu. Duyên may để đạt được Phật Quả bằng cách đưa giáo pháp của chín thừa vào thực hành giờ đây là của bạn. Bây giờ là lúc bạn có thể vạch ra một con đường cho tất cả những đời vị lai của bạn – hoặc bây giờ cũng là lúc bạn có thể phó mặc đời mình cho định mệnh. Giờ đây là lúc bạn có thể chuyển tâm hướng về những điều thiện – hoặc giờ đây là lúc bạn từ bỏ điều thiện để đến với những gì xấu ác. Chính giây phút này là bước ngoặt giữa hai hướng đúng và sai của toàn bộ sự sống của bạn. Phước duyên này giống như việc bạn tìm được một chút thức ăn khi bạn chỉ mới ăn được một bữa trong một trăm bữa suốt cuộc đời bạn. Vì thế hãy tận dụng Giáo Pháp để tự giải thoát bản thân trong khi bạn còn có thể làm được điều đó, hãy để cho cái chết trở thành một thôi thúc, (thúc đẩy bạn tu tập) trong bất kỳ giờ phút nào. Hãy cắt bớt những hoạch định thế tục của bạn trong đời này, và hãy tinh tấn thực hành những thiện hạnh và từ bỏ những ác hạnh – cho dù phải trả giá bằng cả cuôc đời mình. Hãy theo học một vị Thầy chân chính và chấp nhận không chút do dự bất cứ điều gì Ngài khuyên bảo bạn. Hãy dâng hiến thân và tâm của bạn cho Tam Bảo. Khi hạnh phúc đến, hãy nhận ra đó là lòng từ bi của các Ngài. Khi đau khổ xảy ra, hãy nhận ra đó là kết quả của những nghiệp đã tạo trong quá khứ của chính bạn. Hãy chuyên chú hành trì các pháp tích tập công đức và pháp tịnh hóa với tác ý hoàn toàn thanh tịnh của Bồ Đề Tâm. Cuối cùng, nhờ vào lòng quy ngưỡng và mật nguyện thanh tịnh, hãy hợp nhất tâm bạn với tâm của vị Thầy cao cả của dòng truyền thừa chân chính, mãi mãi hợp nhất, không bao giờ chia cắt. Hãy chiếm giữ thành lũy của chân như ngay trong đời này, can đảm nhận lãnh trách nhiệm giải thoát tất cả chúng sinh, là những bà mẹ già nua của chúng ta ra khỏi ngục tối luân hồi. Điều này bao gồm tất cả những giáo huấn cốt tủy trọng yếu nhất.
Giáo huấn cốt tủy của dòng truyền thừa ba chi phái
giữa con sông cam lồ,
Hương vị dịu ngọt từ môi Thầy thuộc truyền thống chân
chính,
Những điểm trọng yếu trong các pháp tu của chín thừa,
Tất cả được đúc kết ở đây, không lỗi lầm hay pha tạp.
Những lời tốt lành này giống như thực phẩm khéo nấu,
Mọi hí luận của lời lẽ hoa mỹ đều đã được sàng lọc,
Được nêm bằng tinh túy thơm ngon của pháp hành trì
thâm diệu nhất,
Trong nước cốt của giáo huấn đặt trên nền kinh nghiệm.
Những lời tốt đẹp này giống như một nông dân thiện nghệ
Khắp mảnh đất hoang của tâm xấu ác, tam độc mọc tràn lan,
Đã đào xới mọi lỗi lầm tiềm ẩn bằng lưỡi cày kim cương của giáo lý,
Và khéo léo tưới tẩm đất hoang bằng nước mát của Chân Pháp.
Những lời tốt đẹp này giống như một vụ mùa bội thu.
Trên mảnh đất phì nhiêu của quyết tâm thoát khỏi luân hồi,
Hạt giống Bồ Đề Tâm được gieo trồng cẩn thận,
Được nuôi dưỡng bằng công đức, cùng tẩy tịnh, sinh ra
trái quả của thành tựu tâm linh.
Những lời tốt đẹp này giống một vú em tử tế.
Xem xét lỗi lầm tiềm ẩn và nhổ bật tận gốc rễ,
Khéo léo thúc đẩy hãy tốt lành hơn một trăm lần như thế,
Luôn quan tâm giúp đỡ chỉ vì muốn trẻ thơ thêm toàn thiện.
Không chỉ là ngôn từ mà là yếu nghĩa thâm sâu;
Còn nồng ấm hơi thở của vị Thầy vô song của tôi.
Ai coi những lời này như viên ngọc quý trong tâm họ
Chắc chắn đang bước đi trên con đường thuần khiết chân chính.
Những giáo huấn tốt lành này là phương tiện thiện xảo
đặc biệt của chư Bồ Tát,
Một bản văn linh hiển được viết ra, không tao nhã, không văn thơ
Mà sử dụng ngôn ngữ thông thường để giảng dạy con đường chân chính,
Để mọi lợi lạc và các pháp tu có thể thâm nhập đáy lòng.
Những bình giảng rộng rãi đầy ắp chi tiết Không dễ thích hợp trong không gian tù túng của tâm thức hạn hẹp. Những luận giảng cao xa về các quan điểm triết học và giáo thuyết thâm sâu Khó đưa vào thực hành đối với những kẻ trí tuệ thấp kém trong thời đại suy đồi.
Đó là lý do tại sao bản văn này cô đọng và dễ hiểu,
Là thần dược quý báu thấm nhập khe hở tí hon trong tâm trí chật hẹp,
Một ngọn đèn soi sáng bóng tối cho những kẻ độn căn,
Một ông giáo điềm tĩnh, tự truyền đạt rõ ràng yếu nghĩa đúng đắn.
Đối với bậc thông thái yêu thích luận thuyết dông dài,
Đối với vị thầy vĩ đại không tìm được điều gì để áp dụng cho chính mình, trong văn bản, và trong truyền thống khẩu truyền,
Khi được uống giòng cam lồ giáo huấn tâm yếu tuyệt hảo này
Sẽ làm hồi sinh tinh túy của công phu hành trì, không còn gì nghi ngại.
Đối với người ẩn tu, thiền định thiếu hướng dẫn như thể ném đá vào bóng tối,
Đối với kẻ lão luyện, kiêu căng về tất cả các pháp hành trì,
Đối với những kẻ thành tựu hư giả chưa từng đương đầu với giới hạn của bản thân,
Con đường này sẽ chữa lành tật bệnh trong tâm họ.
Bản văn này không pha chế những câu cú vẽ vời, phức tạp,
Không là cầu vồng tô vẽ khéo léo bằng ngôn từ kỳ dị
Bởi một số kẻ tinh thông uyên bác nhưng hời hợt trong văn điển,
Chúng chẳng là gì cả so với những lời vàng của vị Thầy từ ái của tôi.
Chư huynh đệ kim cương của tôi vẫn còn có thể làm chứng,
Về thời đại hiện hữu của bậc Toàn Giác, vị Thầy vô song
của tôi Bởi thời đại tốt đẹp đó đâu đã là một quá khứ xa xăm,
Một thời đại may mắn cho cả Tây Tạng và thế giới –
Công hạnh của bậc tôn quý ấy là nguồn cảm hứng cho tôi,
Để biên soạn một trước tác những lời chân thật của Ngài.
Là dấu ấn của lòng quy ngưỡng và thiện ý của tôi,
Đáng được chư huynh đệ và ngay cả chư Thiên hoan hỉ tán thán.
Những kẻ may mắn sống trong đời vị lai cũng thế:
Hãy phát khởi lòng quy kính tương tự khi đọc bản văn này
Chẳng khác nào được giáp mặt vị Thầy giác ngộ của tôi,
Tôi tin rằng những lời này chuyên chở tinh hoa giáo huấn của
Ngài không sai lạc.
Bất kỳ công đức nào có được từ tác phẩm này
Tôi hồi hướng đến tất cả chúng sinh, những bà mẹ của tôi
trong quá khứ,
Nguyện xin họ được một vị Thầy tâm linh tối thắng gia hộ,
Đem giáo huấn toàn hảo của Ngài vào thực hành, và hưởng được quả lành.
Đặc biệt nguyện cho tất cả những ai được nuôi dưỡng bằng cam lồ này,
Đến từ đôi môi của vị Phật toàn giác, bậc Thầy vô song của tôi,
Nguyện tất cả đồng trọn thành Phật Quả viên mãn;
Nguyện thấy họ lên đường và dẫn dắt chúng sinh.
Nguyện những bậc Trưởng Tử của vị Thầy từ ái nhất của tôi,
Những vị đã uống lời cam lồ toàn thiện của Ngài,
Đã thu phục những kẻ may mắn, làm cho họ say đắm những bài ca giáo huấn.
Nguyện xin gót sen của chư vị an tru bền vững tren toà kim cương.*
Từ nay trở đi, nguyện xin trong mọi kiếp vị lai của tôi
Được phụng dưỡng Thầy tôi và những ai theo bước chân Ngài;
Nguyện đáp ứng bất kỳ những gì được yêu cầu, làm vui lòng tất cả.
Nguyện cho tôi được Ngài dẫn dắt như đệ tử.
Cho tới khi luân hồi tuyệt dứt, đối với mỗi một chúng sinh,
Nguyện cho tôi tích lũy thân thể, vật dụng và công đức;
Nguyện cho tôi phụng dưỡng chúng sinh, những bà mẹ già
chìm đắm trong đau khổ,
Và nguyện cho họ cùng tu tập Giáo Pháp của đấng Thế Tôn.
Trong khi đó, nguyện cho lực gia hộ của dòng truyền thừa tôn quý
Ló rạng trong tâm chúng sinh như vầng dương tuyệt hảo.
Sau khi hiến dâng cuộc đời hành trì nơi ẩn thất,
Nguyện cho họ đời đời núp dưới bóng của vị Thầy vô
song.
*Một biểu lộ thi vị thường được dùng để cầu chúc các vị Thầy tâm linh được trường thọ và dồi dào sức khoẻ.
Những hướng dẫn tổng quát bên ngoài và bên trong dẫn đến Tâm-Yếu của Đại-Quảng-Trí (Longchen Nyingtik), tất cả đều rất trung thực với những lời giảng dạy của vị Thầy vô song của tôi. Trước tác này đã xuất hiện do sự khẩn cầu bền bỉ của Dronma Tsering, một đệ tử tinh tấn và nghiêm trì giới luật, là người đã đưa tặng lại một số ghi chép mà ông đã ghi lại những gì có thể nhớ được. Ông ta nài nỉ tôi viết một giảng văn dựa trên những ghi chú này, ghi chép thật trung thực những giảng dạy của Thầy của chúng tôi. Ngoài ra, Kunzang Thekchok Dorje, một vị Hoá Thân tôn quý, là người đại diện của Đạo sư tôn quý và là bậc nắm giữ giáo lý tăng trưởng và giải thoát này, đã lập đi lập lại hai ba lần lời khẩn nài tương tự – thậm chí còn cung cấp cho tôi rất nhiều tấm giấy để ghi chép.
Sau này lại tới phiên Ngài Kushab Rinpoche Changchub Dorje329 – vị Pháp Vương của tất cả mọi giáo thuyết, bậc lỗi lạc nhất trong tất cả những trưởng tử tâm linh là những bậc nắm giữ dòng truyền thừa của truyền thống khẩu truyền của vị Thầy siêu phàm của tôi – Ngài Kushab Rinpoche đã khuyến khích tôi, nói rằng tôi phải dứt khoát viết ra những lời dạy của vị Thầy đáng kính của chúng tôi đúng như những lời mà Ngài đã dạy các vị ấyï, bởi điều đó sẽ giúp tất cả chúng tôi giữ được Ngài trong tâm tưởng và làm sống lại lòng sùng kính quy ngưỡng của chúng tôi đối với Ngài. Tôi cũng được một số pháp hữu kim cương thân yêu khuyến khích và truyền cảm hứng; đây là những người bạn mà tôi yêu quý chẳng khác nào chính đôi mắt của mình, và chắc chắc họ sẽ vẫn tiếp tục gần gũi thân thiết với tôi như ngọn lửa và tim đèn, cho tới khi tất cả chúng tôi cùng đến được bên kia bờ giác.
Vì thế, đây là nguyên bản của trước tác này, được viết ra bởi một người mà Ngài Rigdzin Changchub Dorje,330 bậc trưởng tử của hàng trăm vị thành tựu giả vô song, đã ban cho danh hiệu Orgyen Jigme Chokyi Wangpo – tuy nhiên, phía sau danh hiệu đẹp đẽ đó, thực ra chỉ là Abu Rách Rưới,331 thô lỗ, và đang bị thiêu đốt bởi ngọn lửa của năm độc.
Bản văn này được hoàn tất tại nơi ẩn tu, còn hẻo lánh hơn cả tu viện trực thuộc tên là Rudam Samten Choling* hẻo lánh. Nơi đây được gọi là Cung Điện Kinh Hoàng Của Yamantaka – một nơi tráng lệ được trang hoàng bằng tất cả những dáng vẻ cô tịch; ở đó những tàng cây tắm mình trong tinh chất ấm áp của ánh nắng mặt trời, trong lúc bộ rễ của chúng hấp thụ những giọt cam lồ mát lạnh; nơi mà những giàn cây, những lùm rậm, những bụi thấp, những cành, lá, những hoa và trái, cùng với những tràng hoa, đủ mọi loại trải dài sặc sỡ, chắt lọc chất cam lồ từ nụ cười rạng rỡ của Thiên Nữ Cung Trời Xanh Biếc** khi giòng cam lồ ấy chảy xuống làm cho trái tim cực kỳ mãn nguyện.
Nhờ công đức của việc hoàn thành tốt đẹp tác phẩm này, nguyện tất cả vô lượng chúng sinh sẽ đi theo con đường tối thượng này và hoàn toàn được giải thoát vào pháp giới nền tảng của Đức Phật nguyên sơ!
* Tu viện Dzogchen
** Mặt trời. Cách hành văn trau chuốt ở đây được mượn từ truyền thống thi ca Ấn Độ, dùng để làm lời bạt ở cuối tập sách theo đúng truyền thống thông thường.
Thung lũng nhìn xuống Tu Viện Dzogchen
Là nơi Patrul Rinpoche thường ngồi trên một tảng đá lớn (gần địa điểm trong hình này) trong khi biên soạn Lời Vàng Của Thầy Tôi.
LỜI BẠT
Của Jamgon Kongtrul Lodro Thaye [332]
Om Swasti Siddham
Kho tàng trí tuệ Phổ Hiền này, với sáu phương pháp giải thoát,[333]
Được hiển lộ nương vào đại ấn Du Già Pháp Giới của + Đại-Phương Quảng-Trí.
Lừng lẫy với danh hiệu Tâm-Yếu của Đại- Quảng-Trí, vinh quang với hai quả vị thành tựu,
Năng lực vĩ đại sẽ gia hộ cho mọi ước nguyện viên thành.
Chỉ cần nghe giảng giải về giáo lý của những pháp tu dự bị,
Là có đủ năng lực để bất thần chuyển hoá tâm thức chúng sinh.
Tuân theo những khẩu truyền của Đạo Sư Jigme Gyalwai Nyugu,
Về tất cả những điều mà Ngài Orgyen Chokyi Wangpo đã khai thị, ấy là điều tâm yếu.
Hãy hiến tặng món quà Giáo Pháp này, không đắm nhiễm ý niệm về chủ thể, đối tượng và hành động,
Pema Lekdrup, sở hữu tín tâm lẫn tài sản hoàn hảo,
+ klong chen nam mkha’i rnal ‘byor, tức Jigme Lingpa.
Vị thượng thư tâm linh và thế tục của xứ Dergé cao
quý, nơi có bốn vùng và mười thiện hạnh,
Qua tác phẩm này, Ngài đã trút xuống một trận mưa
Pháp vô tận.
Nhờ công đức này, nguyện giáo lý tịnh quang kim cương tột bậc
Sẽ tồn tại lâu dài, lan truyền và trải rộng khắp ba cõi.
Nguyện tất cả chúng sinh có thiện duyên với giáo lý
này, sẽ nhanh chóng thọ hưởng vương quốc
nguyên sơ vĩ đại,
Và thoạt nhiên đạt được thành tựu phúc lạc cho mình và cho người.
Vào lúc hoàn tất bản hiệu đính đầu tiên của tác phẩm này, Ngài Lodro Thaye – người có tri kiến thanh tịnh về tất cả những bậc Đạo Sư, tâm không mảy may có chút thành kiến nào về các bộ phái – đã soạn ra lời bạt trên đây. Nguyện thiện hạnh tăng trưởng!
LỜI VÀNG CỦA THẦY TÔI
Patrul Rinpoche
http://thientrithuc.vn/powa-phap-chuyen-di-tam-thuc/
CHÚ CỦA NHẬT
( CÁC CHÚ CĂN BẢN CỦA NGHI QUỸ ĐÔNG MẬT )
[PDF]呉音から西洋古典語へ
https://tsukuba.repo.nii.ac.jp/?action=repository...
Dịch trang này
viết bởi 秋山学
呉音から西洋古典語へ. ― 第 部 印欧語文献としての弘法大師請来密 �経典 ―. 24】如来念処. Namaḥ samanta-buddhānāṃ tathāgata-smṛti-sattva-hita-abhyudgata gaga- na-sama-asama svāhā. 普き諸佛に帰命す.如来の念をもっ � smṛti 有情の利益 sattva-hita. (<√dhā)を現出する abhi-ud-gata,虚空に gagana 等しく無等比なる.
Dâng Tịnh Thủy (Nước)
Thủy trong rạng ánh Phật Đài
Nhiệm mầu Cam Lộ bệnh tai tiêu trừ
Cúng dường Các Đấng Chân Như
Sạch tan ba nghiệp An Cư Đạo Tràng
NA MÔ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT, MA HA TÁT ( 3 lần )
*Dâng Tịnh-Thủy Cúng-Dường Chơn Ngôn:
OM AMRTODBHAVE SVAHA ( 7 lần )
Thủy trong rạng ánh Phật Đài
Nhiệm mầu Cam Lộ bệnh tai tiêu trừ
Cúng dường Các Đấng Chân Như
Sạch tan ba nghiệp An Cư Đạo Tràng
NA MÔ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT, MA HA TÁT ( 3 lần )
*Dâng Tịnh-Thủy Cúng-Dường Chơn Ngôn:
OM AM-RỜ-TỐT-BA-VÊ SOA-HA ( 7 lần )
Dâng Trà Cúng Chư Phật-Bồ Tát
Vũ lộng khổng tước Triệu Châu Trà
Thanh thủy hương tuyền hổ phách ba
Phân khí ngọc bôi hương phức uất
Cúng dường Phật Thánh hỷ thiện đa
NA MÔ CAM LỒ VƯƠNG BỒ TÁT, MA HA TÁT ( 3 lần )
*Dâng-Trả Cúng-Dường Chơn Ngôn:
OM SVABHAVA SPHUTA DAHANA VAJRAYA SVAHA ( 7 lần )
Vũ lộng khổng tước Triệu Châu Trà
Thanh thủy hương tuyền hổ phách ba
Phân khí ngọc bôi hương phức uất
Cúng dường Phật Thánh hỷ thiện đa
NA MÔ CAM LỒ VƯƠNG BỒ TÁT, MA HA TÁT ( 3 lần )
*Dâng-Trả Cúng-Dường Chơn Ngôn:
OM XOA-BA-VA SỜ-PHU-TA ĐA-HA-NA VẮC-RA-GIA SOA-HA ( 7 lần )
------
LỤC VỊ TRÀ
DÂNG CÚNG PHẬT THANG
( 茶湯六味 )
1. TRÀ ( CHÈ XANH THÁI NGUYÊN = CHÈ MẠN )
2. TRẦM ( = TRẦM HƯƠNG )
3. ĐÀN HƯƠNG ( = BẠCH ĐÀN HƯƠNG )
4. QUẾ ( = QUAN QUẾ )
5. CAM THẢO ( = BẮC CAM THẢO )
6. ĐẠI TÁO ( = TÁO ĐỎ )
" Phật trà Đàn, Thảo, Tinh Quan Quế,
Tước, Trầm, Đại Táo tiến lai nghinh. "
*Trích từ Sách " Hành Trì Diễn Giải Toàn Tập " - Nguyên Tác: Tôn Giả HUYỀN QUANG - Việt dịch: Nguyên Phúc:
LỤC VỊ TRÀ DÂNG CÚNG PHẬT THANG - Thang Trà Cúng Phật gồm có 6 Vị: Đàn Hương, Cam Thảo, Quan Quế, Trà Tước Thiệt ( Hiện nay đã " Thất Truyền ", có thể thay bằng TRÀ MẠN ), Trầm Hương, Đại Táo.
*Hình mô tả Lục Vị và Liều Dùng:
1. ĐÀN HƯƠNG ( 檀香 )................................................. . .........1,5 - 3g
2. CAM THẢO - CAM THẢO BẮC - BẮC CAM THẢO - SINH CAM THẢO - QUỐC LÃO ( 甘草 )................................................. ...........4 - 12g, có khi dùng đến 50g, tùy mục đích sử dụng, dùng làm thuốc điều hòa lượng thường dùng ít, dùng để giải độc lượng phải nhiều
3. TINH QUAN QUẾ - QUAN QUẾ - QUẾ QUAN ( 官桂 ): Vỏ Quế cuộn Tròn thành Hình Ống gọi là QUAN QUẾ - Là loại QUẾ NON Vỏ Mỏng lấy từ Thân Cây Quế có độ tuổi 6 - 7 tuổi. Quan Quế có Tính Táo hơn Nhục Quế (do có ít Chất Tinh Dầu hơn) và tính Nhiệt Thấp hơn. Loại Quế này mọc và trồng nhiều tại các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam Trung Quốc, ta cũng có loại Quế này thuộc loại Quế tốt thứ 2 trên thế giới sau loại Quế Quan của Xirilanca......................................... ........................2 - 6g
4. TRÀ TƯỚC THIỆT ( 雀舌茶 ): “Khi Đọt Trà mới Nhú, đang còn như Lưỡi Chim Sẻ (Tước Thiệt) sẽ được hái thu hoạch rồi Sao mà thành” - Trà “ Mỏ Sẻ ” (Trà Tước Thiệt). Đây là loại Trà Búp, sau chế biến Khô Quăn thanh nhỏ như Lưỡi Chim Sẻ. Tước Thiệt Trà là loại Danh Trà Xưa của Đại Việt rất Thơm Ngon từng được ghi nhận trong Anam Vũ Cống (Dư Địa Chí) của Danh Nhân Văn Hoá Nguyễn Trãi (1380-1442). Ông cho hậu thế biết Chân Sa Bôi nổi tiếng về sản xuất loại Trà “Tước Thiệt” (Tước Thiệt Trà: Cánh Nhỏ mà Cong như Lưỡi Con Chim Sẻ là 1 trong vài loại Trà nổi danh Kim Cổ. Châu Sa Bôi Xưa gồm 6 Động,15 Trang, 68 Sách. Sa Bôi nay là Vùng Cam Lộ, Quảng Trị song dấu tích về Trà Tước Thiệt không còn chút gì vương vấn nơi đây. Dương Văn An (1514 – 1591) lưu lại bóng dáng loại Danh Trà này trong tác phẩm Ô Châu Cận Lục: “Trà ở Huyện Kim Trà nay là Hương Trà Huế tên gọi Lưỡi Sẻ (Tước Thiệt) trồng tại Những Đồi Núi An Cựu, giải thoát, trừ phiến, chữa thuỷ đứng đầu 100 loại thảo dược, tính linh diệu..”....................................... ..............5 - 10 gram Trà Khô
Hiện nay " TRÀ TƯỚC THIỆT - Danh Trà đã Thất Truyền ", Ta có thể thay bằng TRÀ MẠN / CHÈ MẠN ( 漫茶 ) ; hay còn được gọi là TRÀ /TRÀ XANH ( 緑茶 ) được làm từ Lá, Búp Cây Chè được Xử Lý, Ủ, Sấy Khô.v.v.....TRÀ MẠN là Trà Không Ướp Hương....................................10 gram Trà Khô ( 15-20 gram Trà Khô, tương đương 1 Nắm bàn tay ) / Chè mạn là một loại chè nổi tiếng của Thái Nguyên. Chè mạn thái nguyên tức là chè không ướp hương và từ lúc sao chế tới lúc thành phẩm.Sau đó tùy theo sở thích mà người ta lấy chè mạn hay gọi là chè thái nguyên ( Chè Tân Cương Lộc xuân 100gr 30.000 )
5. TRẦM HƯƠNG - TRẦM THỦY - TRẦM THỦY HƯƠNG ( 沈香, 沈水, 沈水香 )................................................. . ..........................2-4g
6. ĐẠI TÁO ( 大枣 ) = HỒNG TÁO - TÁO ĐỎ ( Táo Khô, chưa Chế ) = HẮC TÁO -TÁO ĐEN - TÁO TÀU ĐEN ( Chế ): Là Quả Chín đã chế biến Phơi hay Sấy Khô của Cây Táo (Zizyphus sativa Mill.), họ Táo (Rhamnacaeae). Loại Táo này chưa thấy ở nước ta, vị Thuốc phải nhập từ Trung Quốc............................................ ........3 quả - 12 quả
*LỤC VỊ TRÀ là Trà Thang dâng Cúng Phật gồm 6 Vị, mỗi Vị nửa chỉ ( 2g ). Lấy Nước trên Lá Sen qua Đêm ( Liên Diệp Thủy, Diệp Sương Liên ), Nước Mù Sương ( Giáng Hạ Thủy ), Nước Sương Đêm ( Cam Lồ Thủy ), hoặc Nước Mưa Sạch ( Vô Căn Thủy ) để nấu mà Dâng Cúng Phật. Được Trích trong Sách " Thích Thị Bảo Đỉnh Hành Trì Bí Chỉ Toàn Chương " ( Sách " Bảo Đỉnh " ) do Nhà Sư Huyền Quang soạn.
*Thời gian Dâng Trà cúng Phật: thường là Ngày Mùng 1, và Ngày Rằm 15 Hằng Tháng.
*Thông thường: dâng 3 Cốc Trà trong; Nhưng theo Mật Tông: Nên dâng 1 Chén Trà có Chân Đế và có Nắp Rời, Nước Trà có mầu Vàng; đặt Chén Trà dâng Cúng trên 1 Cái Dĩa. khi dâng Cúng, Nên Dỡ Nắp Chén Trà ra, và gác hờ Nắp Chén Trà trên Dĩa ngay cạnh Chén Trà ở về phía bên TAY PHẢI của tượng Phật. Việc này biểu thị cho Ý Nghĩa, kỉnh mời Chư Phật thọ nhận sự Dâng Cúng Dường 1 cách chân thành và thực tâm nhất của mình đến với Chư Phật; thể nào Chư Như Lai cũng không thể chối từ, mà Các Ngài sẽ thọ nhận sự cúng dường của hành giả một cách nhiệt tâm và hoan hỷ nhất. Chính điều này sẽ làm cho Phước Báu của hành giả ngày một thêm lớn; và đó sẽ là món duyên lành, giúp cho hành giả giải thoát trong Kiếp Vị Lai !
====
KHOÁ THỨ NHẤT:
TRÀ CÚNG PHẬT – THANG CÚNG THÁNH
Nguyên văn
Thánh thang đàn, quế, mật, khương sinh,
Xuyên, hoắc, đinh hương, thanh đậu hinh,
Phật trà đàn, thảo, tinh quan quế,
Tước trầm đại táo tiến lai nghinh
Giải nghĩa:
Thang cúng thánh gồm: Đàn hương, Quan quế, đường mía, gừng tươi, Xuyên khung, Hoắc hương, Đinh hương, Đậu xanh.Gồm 8 vị.
Trà cúng Phật gồm: Đàn hương, Cam thảo, Quan quế, Trà tước thiệt (hiện nay đã thất truyền, có thể thay bằng trà mạn),Trầm hương, Đại táo. Gồm 6 vị.
(trích sách Hành trì diễn giải toàn tập - nguyên tác: tôn giả Huyền Quang - Việt dịch Nguyên Phúc)
http://buangai.vn/vanphapthanthong/a...hp/t-2175.html
-------o0o-------
BẢNG LỤC VỊ TRÀ
[ 六味茶表 ]
( 献茶供佛 )
*Theo, Quang Tịch Pháp Sư = Huyền Trí Pháp Sư, là Pháp Chủ của Linh Quang Bảo Điện - Đồng Nai đã dịch:
BẢNG LỤC VỊ TRÀ là Nói lên Ý Nghĩa và Nguồn Gốc của " Lục Vị Trà "; Ngày Trước đã Dâng, mà nay Ta cất công đun nấu, Dâng lên Cúng Phật.
LỤC VỊ TRÀ BẢNG
Mùi Trà ấy Ngày Xuân sớm hái
Mầm Ngọc kia từng thái Hạt Sương
Tuyết trong đựng mấy âu vàng
Mới tan bóng Ngọ đã tường nấu xôi
Hương Thiên ngoại bay hơi long bội
Trận nhân gian đánh đuổi Ma Vương
Uyển nô nghe cũng xem thường Triệu
Châu đâu tá như dường ở đây
Nền Đạo Tràng ngày nay mới dựng
Hội Thánh Hiền xưa đã dựng xong
Mái chèo duổi sóng bể đông
Mắt đưa cửa đỉnh xem trừng thẳm khơi
Xem chốn ấy tới nơi lồ lộ
Nhường tuyết bay đâu ở lưng trời
Án tiền dâng tiệc thảnh thơi
Gió đưa đôi cánh Dâng mùi Trà Hương
Căn Trần xin giải rõ ràng là vậy.
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...1%BB%80N/page9 / http://thegioivohinh.com/diendan/sho...%BB%80N/page83
=============
Triệu Châu Trà
(趙州茶): tách trà của Thiền Sư Triệu Châu Tùng Thẩm (趙州從諗, 778-897). Ông xuất thân môn hạ của Nam Nhạc. Lúc còn nhỏ, ông xuất gia ở Hỗ Thông Viện (扈通院), rồi đến vùng Trì Dương (池陽), tham yết với Nam Tuyền Phổ Nguyện (南泉普願), và được khế ngộ. Về sau, ông còn đến tham bái một số danh tăng đương thời như Hoàng Bá (黃檗), Bảo Thọ (寳壽), Diêm Quan (鹽官), Giáp Sơn (夾山), v.v.; và cuối cùng thể theo lời thỉnh cầu của đồ chúng, ông đến trú tại Quan Âm Viện (觀音院), vùng Triệu Châu (趙州, thuộc Tỉnh Hà Bắc). Tại đây ông đã tuyên dương Thiền phong độc đáo trong suốt 40 năm. Thuật ngữ triệu châu trà vốn phát xuất từ câu chuyện “Khiết trà khứ (喫茶去, uống trà đi)” được ký lục lại trong khá nhiều thư tịch Thiền Tông. Tỷ dụ như trong Thiền Tông Tụng Cổ Liên Châu Thông Tập (禪宗頌古聯珠通集, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1295) quyển 20 ghi như sau: “Triệu Châu vấn tân đáo: 'Tằng đáo thử gian ma ?' Đáp: 'Tằng đáo.' Sư viết: 'Khiết trà khứ.' Hựu vấn tăng, tăng viết: 'Bất tằng đáo.' Sư viết: 'Khiết trà khứ.' Hậu Viện Chủ vấn viết: 'Vi thập ma, tằng đáo dã vân khiết trà khứ, bất tằng đáo khiết trà khứ. Sư chiêu Viện Chủ, Chủ ứng nặc, sư viết: 'Khiết trà khứ.' (趙州問新到、曾到此間麼、曰曾到、 曰、喫茶去、又問僧、僧曰、不曾到 、師曰、喫茶去、後院主問曰、爲甚 、曾到也云喫茶去、不曾到也云喫茶 、師召院主、主應喏、師曰、喫茶去 , Triệu Châu hỏi người mới đến rằng: 'Đã từng đến đây chưa ?' Đáp: 'Đã từng đến.' Sư bảo: 'Uống trà đi !' Lại hỏi vị tăng khác, người ấy trả lời: 'Chưa từng đến.' Sư bảo: 'Uống trà đi !' Về sau, thầy Viện Chủ mới hỏi rằng: 'Người đã từng đến ngài cũng bảo là uống trà đi, người chưa từng đến ngài cũng bảo là uống trà đi, vậy là thế nào ?' [Khi ấy] sư gọi thầy Viện Chủ, thầy đáp: 'Dạ.' Sư bảo: 'Uống trà đi !').” “Khiết trà khứ” đã trở thành một công án Thiền đặc sắc, được tìm thấy trong khá nhiều ngữ lục Thiền; cũng như trong điển tịch trên, Phần Dương Thiện Chiêu (汾陽善昭, 947-1024) có làm bài tụng về công án đó là: “Triệu Châu hữu ngữ khiết trà khứ, thiên hạ nạp tăng tổng đáo lai, bất thị thạch kiều nguyên để hoạt, hoán tha đa thiểu nạp tăng hồi (趙州有語喫茶去、天下衲僧總到來、 是石橋元底滑、喚他多少衲僧回, Triệu Châu có câu uống trà đi, thiên hạ chúng tăng thảy đến đây, chẳng phải cầu đá nguyên bóng mượt, cuối cùng nhiều ít có kẻ về).” Trong Ngũ Đăng Toàn Thư (五燈全書, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 82, No. 1571) quyển 97, phần Ích Châu Tung Sơn Dã Trúc Phước Tuệ Thiền Sư (益州嵩山野竹福慧禪師), có câu: “Trượng thượng vô tiền cô tự tửu, thả khuynh nhất oản Triệu Châu Trà (杖上無錢沽白酒、且傾一碗趙州茶, trên gậy không tiền mua tự uống, còn nốc một chén Triệu Châu Trà).” Cũng trong thư tịch trên, quyển 98 lại có câu: “Khiết tận Triệu Châu Trà, thiêu khước Huệ Lâm Phật (吃盡趙州茶、燒卻慧林佛, uống sạch Triệu Châu Trà, đốt tiêu Huệ Lâm Phật).” Trong nghi Cúng Chung Thất Trai Tuần cho chư vị cao tăng viên tịch, cũng có câu kệ liên quan đến Triệu Châu Trà: “Sơ hiến Triệu Châu Trà, phanh lai thật hinh hoa, tấn hiến giác linh tòa, tảo vãng pháp vương gia (初獻趙州茶、烹來寔馨花、進獻覺靈 、早往法王家, mới cúng Triệu Châu Trà, nấu sôi thật thơm tho, dâng cúng giác linh ngự, sớm lên pháp vương nhà).”
http://phatam.org/dictionary/detail/...eu-chau-tra/12
LỢI LẠC CỦA VIỆC XƯNG TÁN VÀ TRÌ TỤNG MẬT CHÚ PHẬT DƯỢC SƯ CHO NGƯỜI HẤP HỐI
Bảy vị Phật Dược Sư có năng lực mãnh liệt không chỉ đối với việc chữa lành bệnh tật mà còn cả trong việc tịnh hoá nghiệp chướng cho người đang sống và người đã chết. Bạn hãy phát khởi động cơ Bồ đề tâm, rồi ghé vào bên tai của người hay con vật đang hấp hối mà xưng tán hồng danh cũng như trì tụng mật chú của Đức Phật Dược Sư; điều này sẽ rất tuyệt vời vì sẽ giúp cho con người hay con vật đó không tái sinh vào các cảnh giới thấp.
Nếu người hấp hối không còn nghe được nữa, bạn có thể trì chú Dược Sư rồi thổi vào thân thể họ, hay thổi lên bột đá mịn có trộn hương thơm, hay thổi vào chai lọ đựng nước hoa rồi rắc bột hay tưới nước hoa lên thân thể họ.
~ Đức Lama Zopa Rinpoche
Ảnh: Đức Bạch Độ Mẫu - Bảy vị Phật Dược Sư - Đức Vô Lượng Thọ
http://socialone.us/page/1538653633092329
GIẢI THOÁT QUA SỰ NHÌN THẤY
https://scontent.xx.fbcdn.net/v/t1.0...fa&oe=5AB987B3
Chúng ta đã quen thuộc với bản văn “Giải Thoát Thông Qua Lắng Nghe” (Bardo Thodol – The Tibetan Book Of The Death) của người Tây Tạng. Nay xin giới thiệu “Giải Thoát Thông Qua Sự Thấy” (Liberation Upon Seeing).
Vì lòng đại bi thương xót chúng sanh, Chư Phật và Bồ Tát đã tạo ra những phương tiện thật thiện xảo để cứu vớt chúng sinh. Xin giới thiệu một phương pháp thanh tịnh nghiệp chướng thông qua sự thấy cho những người hữu duyên. Trong Kinh Thác Nước Mạnh Mẽ(Forceful Waterfall Sutra) có chép: Chỉ cần nhìn thấy câu chú này một lần có thể thanh tịnh nghiệp chướng của ba trăm triệu kiếp trong quá khứ.
Giải Thoát Thông Qua Sự Thấy là một Terma (kho tàng giáo pháp do Đức Liên Hoa Sanh và Yeshe Tsogyal ẩn dấu, sẽ được phát hiện tại thời điểm thích hợp bởi một bậc thầy giác ngộ) viết bằng ngôn ngữ của những Không Hành Nam (Dakas) và Không Hành Nữ (Dakinis).
Terma này được phát hiện bởi Terton Mingyur Dorje ở thế kỷ 17. Terton Mingyur Dorje (1645-1667) được xem là vị guru thứ 27, dòng Giác Ngộ Hoàn Hảo (Perfect Enlightenment Sect) của trường phái Nyingma.
Những người may mắn được thấy hình này sẽ không kinh nghiệm qua ba cõi thấp và sẽ được giải phóng khỏi nỗi sợ rơi vào các cõi thấp; sẽ được thanh lọc năm độc (tham, sân, si, kiêu mạn và đố kị) và giải thoát khỏi nghiệp chướng; được giải thoát khỏi nỗi sợ hãi của phần còn lại trong luân hồi.
Hai câu chú trong hình do Đức Phật thuyết trong Kinh Kutagara (Kutagara Sutra) và Kinh Thác Nước Mạnh Mẽ (Forceful Waterfall Sutra).
Dòng đầu tiên:
Om Padmo Ushnisha Vimale Hum Phat
Dòng thứ hai :
Om Hanu Pasha Bhara Heye Soha
Đại sư Garchen Ringpoche (dòng truyền thừa Drikung Kagyu-Mật Tông Tây Tạng) trong chuyến hoằng pháp độ sanh tại Việt Nam đã rất khuyến khích sử dụng hình ảnh này hai câu thần chú này bởi vì sự vi diệu của hai câu thần chú này có thể tịnh hóa những ác nghiệp đến chúng sanh muôn loài.
Sẽ mang lại lợi lạc không thể nghĩ bàn khi hai câu thần chú này được đặt phía trên cửa đi, nơi có nhiều người qua lại, nơi có nhiều người có thể nhìn thấy. Những người vừa mới qua đời sẽ được tịnh hóa nghiệp xấu đã tạo tác trong nhiêu đời quá khứ, khi hình ảnh hai câu thần chú này được đọc và đặt lên người họ.
Hãy luôn nhớ đặt hình ảnh hai câu thần chú này trước mặt các loài súc sinh cho chúng có duyên đươc nhìn thấy trước khi chúng bị đưa đi giết mổ, trước khi chúng được đưa đi phóng sinh. Ngài nói nếu ai vì nghiệp phải làm các việc liên quan đến giết mổ động vật có thể dán hình câu chú này để các loài động vật trước khi chết có duyên nhìn
http://socialone.us/page/1538653633092329
NHỜ CẢM THẤY HOAN HỈ KHI GIỜ CHẾT TỚI GẦN, BẠN SẼ CHẾT KHÔNG CHÚT HỐI TIẾC
Lợi lạc của sự tỉnh thức về cái chết là nó làm cho cuộc đời có ý nghĩa và nhờ cảm thấy hoan hỉ khi giờ chết tới gần, bạn sẽ chết không chút hối tiếc. Khi bạn quán chiếu về sự chắc chắn của cái chết nói chung và sự bất định của giờ chết, bạn sẽ làm mọi nỗ lực để tự chuẩn bị cho tương lai.
Bạn sẽ nhận ra rằng sự thành đạt và những hoạt động của đời này không có bản chất và không quan trọng. Như vậy, sự làm việc cho lợi lạc lâu dài của bản thân bạn và những người khác sẽ có vẻ quan trọng nhiều hơn nữa, và cuộc đời bạn sẽ được dẫn dắt bởi nhận thức đó. Như Đức Milarepa đã nói, bởi chẳng sớm thì muộn bạn phải bỏ lại mọi sự sau lưng, thì tại sao không từ bỏ nó ngay bây giờ?
~ Đức Dalai Lama 14
Ảnh: Nữ Đạo sư Sakya Jetsun Chimey Luding Rinpoche
https://scontent.xx.fbcdn.net/v/t1.0...b1&oe=5AC7E934
http://socialone.us/page/1538653633092329
NHỮNG NGƯỜI CÓ TÂM THỨC TỐT LÀNH [KHI CHẾT] SẼ THẤY LÀ MÌNH ĐANG ĐI TỪ CHỐN TỐI TĂM RA ÁNH SÁNG
Những người có tâm thức tốt lành sẽ thấy là mình đang đi từ chốn tối tăm ra ánh sáng hay đi vào nơi quang đãng. Họ sẽ cảm thấy sung sướng, nhìn thấy những điều đẹp đẽ, và sẽ không cảm thấy bất kỳ nỗi đau khổ sâu sắc nào khi họ chết. Nếu lúc hấp hối người ta có những cảm xúc hết sức mãnh liệt về sự ham muốn hay oán ghét thì họ sẽ thấy mọi thứ ảo giác và sẽ cảm thấy đau buồn ghê gớm.
~ Đức Dalai Lama 14
Ảnh: Lỗ trên động trường thọ Maratika - nơi Đức Liên Hoa Sinh đã bay thoát ra
https://scontent.xx.fbcdn.net/v/t1.0...15&oe=5ABB74FC
http://socialone.us/page/1538653633092329
HÀNH TRÌNH TỚI CÁC CÕI
BÊN KIA CÁI CHẾT
DELOG DAWA DROLMA
(Nguyên tác: DELOG: Journey to Realms Beyond Death
Delog Dawa Drolma) – Xuất bản năm 1995
Richard Barron dịch sang Anh ngữ từ tiếng Tây Tạng
dưới sự hướng dẫn của Đức Tôn Quý Chagdud Tulku Rinpoche
Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa
---o0o---
Nguồn
http://thuvienhoasen.org
Chuyển sang ebook 16-8-2009
Người thực hiện : Nam Thiên – namthien@gmail.com
Link Audio Tại Website http://www.phatphaponline.org
Mục Lục
DẪN NHẬP
1-NÚI HUY HOÀNG MÀU ĐỒNG-ĐỎ CÕI THUẦN TỊNH CỦA ĐỨC
PADMASAMBHAVA
2-NHỮNG QUÁN CHIẾU TRONG TẤM GƯƠNG PHA LÊ
3- NÚI POTALA CÕI THUẦN TỊNH CỦA ĐỨC AVALOKITESHVARA
4- YULOKOD CÕI THUẦN TỊNH CỦA ĐỨC TARA
5- CẦU THANG ĐƯA TỚI GIẢI THOÁT
https://www.niemphat.vn/downloads/th...n-hoa-dich.pdf
THỜI GIAN VÀ CÁCH THỨC THỈNH PHÁP BẢO TỪ THIỆN - VIET RIGPA LUNGTA PROJECT
Viet Rigpa Lungta Project - Dự án Từ thiện Pháp Bảo Kim Cương Thừa
Tầng 6 - Phòng 606 - Chung cư Hemisco – Xa La – Quận Hà Đông – Hà Nội
Thời gian thỉnh online: 8h sáng - 21h tối, từ thứ 2 đến chủ nhật hàng tuần
Email: vietrigpa.lungta@gmail.com - Mobile: 0915.436.810/0916.282.466/0961.771.084
( http://vietrigpalungta.com/vong-bat-...-ngai-620.html )
Thời gian thỉnh online từ 8 sáng đến 21h tối từ thứ 2 đến chủ nhật
(ĐÂY LÀ DỰ ÁN TỪ THIỆN YÊU CẦU QUÝ VỊ KHÔNG THỈNH VỀ ĐỂ BÁN)
Các bạn thiện hữu thương mến !
Với những hiểu biết giới hạn của bản thân, chúng tôi ý thức rằng Phật Pháp có thể đem đến cho mọi người một cách thức để giải thoát những đau khổ nội tâm. Để gặp Phật Pháp và Hiểu và ứng dụng được Phật Pháp để chuyển hóa mọi phiền não thì cần thời gian để tích lũy kiến thức và trải nghiệm.
Nếu chẳng có Nhân thì cũng chẳng có Quả, nên việc CHỦ ĐỘNG kết duyên Phật Pháp với mọi người là một việc nên làm. Từ nguyên nhân này chúng tôi xin phép sản xuất tại Việt nam những Pháp Bảo Kim Cương Thừa đơn giản, dễ sử dụng, tiện lợi và có giá trị tinh thần cao để mọi người với mọi lứa tuổi có thể thỉnh với mức phí đã hộ trợ để tặng người thân hay bạn bè ... và tất cả những phí thu lại được chúng tôi đều chuyển vào Quỹ Phật Pháp - Viet Rigpa Dzambala Fund (www.vietrigpadzambala.org) để ủng hộ những việc liên quan đến việc hoằng dương Phật Pháp và không xử dụng vào những mục đích cá nhân.
Cách thức thỉnh Pháp Bảo online:
- Cảm phiền các bạn giúp chúng tôi bằng cách không dùng từ "bán”, xin hãy dùng từ “Thỉnh”. Trên mỗi Pháp Bảo chúng tôi đã có đề mức phí thỉnh phù hợp, xin vui lòng giúp chúng tôi không trả giá. Nếu các bạn thấy hài lòng xin mời các bạn thỉnh, nếu không hài lòng xin các bạn từ bi đóng góp ý kiến để chúng tôi được phục vụ tốt hơn.
- Các bạn có thể nhắn tin qua Fanpage hoặc Website và tin nhắn điện thoại. Chúng tôi sẽ trả lời lại sớm nhất trong khả năng có thể.
- Viet Rigpa Lungta Project sử dụng dịch vụ vận chuyển của Viettel vì thế mức phí vận chuyển sẽ căn cứ theo qui định của đơn vị cung cấp dịch vụ. Cảm phiền các bạn cung cấp cho chúng tôi địa chỉ và số điện thoại để chuyển hàng. Các bạn vui lòng chuyển khoản mức phí thỉnh cho chúng tôi thông qua số tài khoản sau:
- TK: Vũ Thu Hà - 0301000365569 Ngân hàng Vietcombank - Chi Nhánh Kim Đồng - Hoàng Mai - Hà Nội.
- Ngay sau khi nhận được thông tin chuyển khoản của bạn, Viet Rigpa Lungta sẽ chuyển Pháp Bảo tới địa chỉ các bạn đã cung cấp. Xin vui lòng thanh toán cước phí giúp chúng tôi cho bên vận chuyển.
- Email: vietrigpa.lungta@gmail.com
- Điện thoại: 0915.436.810/ 0916.282.466/ 0961.771.084
Xin chân thành cảm ơn.
http://vietrigpalungta.com/hom-nay-l...-09092016.html
TÚI KINH TINH TẤN
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...hTan_4Copy.jpg
Ý nghĩa Pháp Bảo:
Tinh tấn là một trong sáu ba la mật để nhắc nhở chúng ta nổ lực một cách đúng đắn thì mới đem lại hạnh phúc.
Chất liệu và Sử dụng:
Túi kinh tinh tấn được may thủ công bằng chất liệu gấm sang trọng.
Túi dùng để đựng kinh, sách. Túi mang ý nghĩa nhắc người tu về tinh tấn ba la mật.
Mức phí thỉnh pháp bảo: 120k
Cách thức thỉnh Pháp Bảo: Cảm phiền các bạn giúp chúng tôi bằng cách không dung từ “bán”, xin hãy dung từ “Thỉnh”. Trên mỗi Pháp Bảo chúng tôi đã có đề mức phí thỉnh phù hợp, xin vui lòng giúp chúng tôi không trả giá. Nếu các bạn thấy hài lòng xin mời các bạn thỉnh, nếu không hài lòng xin các bạn từ bi đóng góp ý kiến để chúng tôi được phục vụ tốt hơn.
======
TÚI ĐỰNG BỒ ĐỀ
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...uiBoDeCopy.jpg
Ý nghĩa Pháp Bảo:
Túi mang ý nghĩa nhắc người tu không quên giới nguyện về Bồ Đề Tâm, tâm nguyện giải thoát mọi chúng sinh khỏi đau khổ trong luân hồi. Mỗi lần chuỗi hạt Bồ Đề được sử dụng là biết bao chúng sinh xung quanh được hưởng niềm vui hạnh phúc của tình yêu thương mà người tu dành cho họ.
Chất liệu và cách dùng
Túi đựng Bồ Đề được may thủ công trên chất liệu gấm sang trọng, kiểu cách thanh cao.
Túi dùng để đựng tràng hạt, là pháp khí không thể thiếu của các hành giả tu tập thực hành Phật Pháp.
Mức phí thỉnh pháp bảo: 100k
Cách thức thỉnh Pháp Bảo: Cảm phiền các bạn giúp chúng tôi bằng cách không dung từ “bán”, xin hãy dung từ “Thỉnh”. Trên mỗi Pháp Bảo chúng tôi đã có đề mức phí thỉnh phù hợp, xin vui lòng giúp chúng tôi không trả giá. Nếu các bạn thấy hài lòng xin mời các bạn thỉnh, nếu không hài lòng xin các bạn từ bi đóng góp ý kiến để chúng tôi được phục vụ tốt hơn.
=========
KHĂN TRẢI BÀN KHAM NHẪN
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...Nhan_2Copy.jpg
Ý nghĩa Pháp Bảo:
Khăn kham nhẫn thể hiện giá trị Bồ Đề Tâm từ bi kham nhẫn của Đạo Phật. Khăn kham nhẫn nhắc nhở người tu về ý nghĩa của Bồ Đề Tâm sẵn sàng chấp nhận khó khăn, cơ cực để nhường cho người khác phần thuận lợi, đẹp đẽ.
Chất liệu và cách dùng:
Khăn được làm từ chất liệu gấm sang trọng, cùng với đường nét hoa văn tinh xảo bay bổng do các nghệ nhân may Việt Nam tạo nên.
Sử dụng để trải bàn thờ Phật, gia tiên, trong các Pháp hội Phật giáo, trải bàn nước, bàn học …
Mức phí thỉnh pháp bảo:
Khăn hình vuông kích thước 75cmx 75cm: 650k
Khăn hình vuông kích thước 95 cm x 95 cm: 70k
Khăn hình chữ nhật:750k
Khăn trải bàn ngũ sắc: 850k
Cách thức thỉnh Pháp Bảo: Cảm phiền các bạn giúp chúng tôi bằng cách không dung từ “bán”, xin hãy dung từ “Thỉnh”. Trên mỗi Pháp Bảo chúng tôi đã có đề mức phí thỉnh phù hợp, xin vui lòng giúp chúng tôi không trả giá. Nếu các bạn thấy hài lòng xin mời các bạn thỉnh, nếu không hài lòng xin các bạn từ bi đóng góp ý kiến để chúng tôi được phục vụ tốt hơn.
==========
VÒNG CỔ DEWACHEN
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...90437965_n.jpg
A. Ý nghĩa Pháp Bảo:
Vòng đeo chứa hình ảnh của Đức Phật A Di Đà , vị Phật hộ chủ Cõi Tây Phương Cực Lạc. Với đôi mắt từ của một Đấng Bảo Hộ Vô Lượng Quang, ngày đêm sáu thời Ngài luôn dõi nhìn chúng sinh với tình yêu thương vô bờ bến. Tâm giác ngộ của Ngài luôn thấu biết tất cả những niệm tưởng khởi lên trong tâm chúng sinh. Đôi tai giác ngộ của Ngài luôn nghe rõ mọi âm thanh, giọng nói của muôn loài chúng sinh.
Ngoại trừ những ai đã chối bỏ giáo pháp hay tạo tội vô gián, còn tất cả những ai phát lòng sùng tín nơi Ngài, cùng phát nguyện sanh về Cực Lạc, đều sẽ được viên thành ý nguyện. Trong cõi trung ấm, ngài sẽ hiện ra tiếp dẫn đến cõi nước này.
Vòng cổ Dewachen có 2 mặt, mặt ngoài là hình ảnh Đức A Di Đà Phật để nhắc nhở mọi người luôn luôn nhất tâm niệm Phật thành kính khẩn cầu Ngài và mặt kia là biểu tượng Kalachakra. Biểu tượng Kalachakra (Kim Cang Thời Luân) là sự kết hợp của 10 chủng tự mật tông kết hợp với nhau. Là biểu tượng cho 10 quyền lực của Phật (Thập lực). Là tinh hoa của tất cả tinh hoa.
Cách Sử dụng:
Dùng để đeo cổ cho mọi lứa tuổi như là một sự nhắc nhở tu tập và hộ thân, Dùng làm quà tặng cho bạn bè kết duyên Phật Pháp …
B. Mức phí thỉnh pháp bảo: 30k (Đây là một dự án từ thiện, vui lòng giúp đỡ chúng tôi không thỉnh về để bán)
C. Cách thức thỉnh Pháp Bảo:
Cảm phiền các bạn giúp chúng tôi bằng cách không dùng từ “bán”, xin hãy dùng từ “Thỉnh”. Trên mỗi Pháp Bảo chúng tôi đã có đề mức phí thỉnh phù hợp, xin vui lòng giúp chúng tôi không trả giá. Nếu các bạn thấy hài lòng xin mời các bạn thỉnh, nếu không hài lòng xin các bạn từ bi đóng góp ý kiến để chúng tôi được phục vụ tốt hơn.
======
VÒNG CỔ LƯU LY
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...98333242_n.jpg
A. Ý nghĩa Pháp Bảo:
Vòng cổ Lưu Ly chứa hình ảnh của Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Ngài là đấng Thế Tôn mang lòng từ bi bình đẳng với tất cả chúng sinh.
Khi còn là Bồ Tát, Đức Phật Dược Sư đã từng phát đại nguyện, nguyện danh hiệu của Ngài sẽ có năng lực hoàn thành nguyện vọng mang lại hạnh phúc cho tất cả chúng sinh. Hồng danh của Ngài chỉ thoáng qua tai là tan biến mọi khổ đau trong các cõi tái sinh thấp kém, tan biến mọi tật do tam độc gây ra. Tham, Sân, Si là bệnh của Tâm, từ đó phát sinh ra đủ loại bệnh của thân.
Vòng cổ Lưu Ly có 2 mặt, mặt ngoài là hình ảnh Đức Dược Sư để nhắc nhở mọi người luôn luôn hướng tâm đến Ngài, nhất tâm niệm Phật, thành kính khẩn cầu Ngài và mặt kia là biểu tượng Kalachakra. Biểu tượng Kalachakra (Kim Cang Thời Luân) là sự kết hợp của 10 chủng tự mật tông kết hợp với nhau. Là biểu tượng cho 10 quyền lực của Phật (Thập lực). Là tinh hoa của tất cả tinh hoa.
Cách Sử dụng: Dùng để đeo cổ cho mọi lứa tuổi như là một sự nhắc nhở tu tập và hộ thân, làm quà tặng cho bạn bè kết duyên Phật Pháp …
B. Mức phí thỉnh pháp bảo: 30K (Đây là một dự án từ thiện, vui lòng giúp đỡ chúng tôi không thỉnh về để bán)
C. Cách thức thỉnh Pháp Bảo:
Cảm phiền các bạn giúp chúng tôi bằng cách không dùng từ “bán”, xin hãy dùng từ “Thỉnh”. Trên mỗi Pháp Bảo chúng tôi đã có đề mức phí thỉnh phù hợp, xin vui lòng giúp chúng tôi không trả giá. Nếu các bạn thấy hài lòng xin mời các bạn thỉnh, nếu không hài lòng xin các bạn từ bi đóng góp ý kiến để chúng tôi được phục vụ tốt hơn.
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...1690887701.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...1691040137.jpg
大马首座药师七佛殿落成开光 佛像来自台湾
2015年11月13日 14:17:00 星洲日報
( http://www.fjnet.com/hwjj/haiwainr/2...113_236848.htm )
http://s6.sinaimg.cn/bmiddle/001o06Kfzy6TbRDk5CZf5&690
http://s15.sinaimg.cn/mw690/001o06Kfzy6TbSEmOg6fe&690
http://s7.sinaimg.cn/mw690/001o06Kfzy6XA3E1SWWb6&690
http://s9.sinaimg.cn/mw690/001o06Kfgy6XIU9wEAM98&690
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...hbUkRa5690.jpg
http://s15.sinaimg.cn/mw690/001o06Kfzy765GhPbuC0e&690
阿弥陀佛祈降临,药师佛为众生安, 二十七次清明节火供大法会即将举行 【殊胜法事,转发功德无量】
http://blog.sina.com.cn/s/blog_4bbebaab0102wrsy.html
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...a7f08468c5.jpg
大雄宝殿内供奉着横三世佛:中间为 迦牟尼佛,左边为药师佛,右边为阿 陀佛。唐天宝年间,律宗祖师鉴真曾 五次东渡日本受阻,登陆南山弘法后 六次东渡成功,由此可见南山与佛门 殊胜因缘。
http://news.tourl.net/ai371358