-
Hành Giả Kim Cương Thừa đã thêm 2 ảnh mới.
25 Tháng 3 2015 ·
“Giáo huấn của các vị Karmapa sẽ trường tồn
lâu như giáo huấn của một ngàn Đức Phật.”
– Karma Pakshi.Xin đảnh lễ Đại Bảo Pháp Vương Karmapa vô song !
Karmapa Dusum Khyenpa
(1110-1193)
DUSUM KHYENPA sanh nơi rặng núi tuyết Tray Shu ở Do Kham vào năm Con Cọp Kim (1110). Từ cha mẹ là những hành giả thành tựu, Dusum Khyenpa được học giáo pháp. Năm lên bảy, ngài có một linh kiến về Mahakali, phương diện năng lực nữ tính của dharmapala (hộ pháp), biểu lộ năng khiếu tâm linh tự nhiên của mình.
Năm năm sau, Dusum Khyenpa vào tăng chúng làm một người tập sự, nghiên cứu Đại thừa Duy thức học của Asanga (Vô Trước) từ Geshe Jamarwa Chapa Cho Kyi Senge. Thời gian này, ngài cũng học Trung Quán của Long Thọ và Nguyệt Xứng từ Lotsawa Patsap Nyima Drak. Ngài còn thọ pháp của dòng Kadampa từ Geshe Shawarapa.
Năm hai mươi tuổi, thọ giới Tỳ Kheo với sư trưởng Mal Duldzin. Sau đó ở với thầy học Luật tạng. Từ đại sư Ga Lot-sawa, Dusum Khyenpa thọ pháp Kalachakra và pháp môn “Đạo và Quả” từ bậc thánh Ấn Độ Virupa.(1)
Năm ba mươi tuổi, Dusum Khyenpa du lịch đến Dak Lha Gampo để gặp Thầy là Gampopa, người chủ trì của phái Kagyupa. Khi gặp nhau, Gampopa dạy ngài về con đường tiệm giáo (lam-rim) của truyền thống Kadampa như là sự thực hành tiên khởi. Gampopa dạy ngài phải hành trì như chính Gampopa đã từng làm. Sau sự tu tập căn bản này, Gampopa truyền thụ cho ngài pháp Hevajra để tu tập. Suốt buổi lễ truyền thụ này, Dusum Khyenpa thấy Gampopa trở thành thân ánh sáng của Hevajra.
Sau đó ít lâu, ngài tu Chỉ trong chín tháng, nhập thất theo lời khuyên của Thầy. Suốt thời gian này, ngài không bao giờ mở hết bàn tay để khỏi bị khô vì thoát mồ hôi. Gampopa xem ngài như là đệ tử thiện căn nhất và dạy ngài phép Quán. Ngài tu Quán trong ba năm cho đến khi tâm như mặt trời hết mây che. Lúc ấy, Gampopa nói : “Con đã đoạn dứt mối ràng buộc với thế giới hiện tượng. Từ đây con không trở lại sanh tử nữa.” Gampopa dạy cho ngài khẩu truyền về Đại Ấn và Vajra-yogini. Gampopa bảo ngài thực hành các pháp này tại Kampo Gangra ở Kham, và tiên tri rằng ngài sẽ giác ngộ ở đấy.
Trước tiên, ngài đến Shau Tago, ở đây ngài dựng một thất nhỏ gọi là Drub Zhi Densa (bồ đoàn vuông) và tu Đại Ấn. Ngài đạt đến chỗ chứng ngộ rằng sanh tử và Niết Bàn là bất nhị. Một lời nói đến tai ngài rằng Thầy đã tịch, ngài bèn trở lại chùa Dak Lha Gampo, ở đó trong một linh kiến, ngài thấy Thầy trên bầu trời.
Ngài nhớ lại lời dạy của Thầy phải thực hành tu tập ở vùng Kampo Gangra. Vị sơn thần Kampo Dorje Paltseg, hiện thân của năng lực tinh hoa của vùng ấy, đến mời ngài trong một linh kiến. Phagmo Drupa, một đệ tử khác của Gampopa, chính từ ngài phát sanh ra tám dòng nhỏ của phái Dakpo Kagyu, khuyên ngài đừng đi, nói rằng : “Nếu huynh đến xứ Kham, huynh sẽ phải ban phát nhiều truyền thọ. Điều này sẽ làm đời huynh ngắn lại.” Ngài trả lời : “Cám ơn huynh có lời khuyên, nhưng mặc dù tôi làm điều đó, tôi cũng sẽ sống đến tám mươi tư tuổi.”
Năm mươi tuổi, ngài du hành đến Kampo Nenang ở đó ngài tức thời đạt đến giác ngộ qua sự thực hành Yoga Giấc Mộng. Ngài thành tựu sự nhất như căn bản giữa ngày và đêm, mộng và thức, thiền định và đời sống hàng ngày. Sự thành tựu này là bực thứ tư, bậc chót của Đại Ấn, được gọi là “vượt khỏi thiền định” (TT : bsgom-med).(2)
Một cách tâm linh, giờ phút Giác Ngộ của ngài được biểu tượng trong một thị kiến một Vương miện Kim cương đen dệt bằng tóc của các dakini do các dakini hiến cúng. Vương miện này, một cách biểu trưng, luôn luôn hiện diện trên đầu của mọi hóa thân Karmapa biểu thị sự chứng ngộ bản tánh thực tại của các ngài.
Vào lúc ấy, chín vị hóa thần trong mạn đà la của Hevajra và mười lăm vị hóa thần trong mạn đà la của Nairatmya, vị phối ngẫu trí huệ của Hevajra, cũng như nhiều hóa thần khác xuất hiện trong linh kiến của Dusum Khyenpa. Qua sự thành tựu Yoga Giấc Mộng(3) này, ngài “bay” đến Tích Lan, nơi ấy vị thánh mật thừa là Vajraghanta(4) truyền thọ cho ngài pháp Cakrasamvara và “bay” đến Đâu Suất, cõi trời của đức Phật tương lai Di Lặc, và được ngài Di Lặc dạy cho các phát nguyện của Bồ tát.
Ngài ở lại Kampo Nenang mười tám năm, dựng một tu viện và một trung tâm ẩn cư. Danh tiếng về sự chứng ngộ của ngài lan xa, và ngài được biết như là “vị thấu rõ ba thời quá khứ hiện tại vị lai,” biểu thị sự siêu việt của ngài khỏi thời gian nhờ vào sự thông thấu tính vô sanh của tâm.
Pháp sư người Kashmir, Sakyasri,(5) vị được mời đến Tây Tạng để lập một tăng đoàn mới, tuyên bố rằng Dusum Khyenpa là “người của Phật sự” hay Karmapa, đã được Phật Thích Ca tiên tri trong kinh Tam Muội Vương. Lạt ma Zhang, người lập nên phái Tsalpa Kagyu xác nhận điều này. Cả hai vị Thầy còn nói rằng Dusum Khyenpa hiện thân cho Tâm Từ Bi Tỉnh Giác (Quán Thế Âm) và sau thời của Phật Di Lặc, Lạt ma Karmapa sẽ sanh lại làm Phật Simha.
Năm bảy mươi tư tuổi, Karmapa Dusum Khyenpa du hành đến vùng Drelong xứ Kham, nơi đang xảy ra những tranh chấp lộn xộn. Ngài giải hòa những tranh chấp thù hằn và đem lại một thời yên bình. Ngài cũng làm việc tận lực để chữa bệnh, gồm nhiều bệnh đui mù và bại liệt. Năng lực chữa bệnh từ tâm Đại Bi của ngài rất hiệu lực. Ngài cũng xây dựng những tu viện ở Mar Kham và Karma Gon, nơi này ngài gặp Drogon Rechen, đệ tử chính và kế thừa dòng pháp.
Về cuối đời, ngài trở lại Dak Lha Gampo như đã được chỉ dạy bởi Gampopa. Ngài cúng dường cho các chùa, sửa sang lại các công trình xây dựng, và dạy cho chúng tăng ở đó. Sau đó, Karmapa xây dựng tu viện chính ở Tsurphu, nó còn nguyên là bổn tự của các Karmapa cho đến năm 1959. Vị trụ trì của chùa Bồ Đề Đạo Tràng ở Ấn đã gởi một cái tù và đến Tsurphu như một quà tặng, và sự tri ân về năng lực biểu hiện chánh pháp của ngài.
Khi ở Tsurphu, ngài đã chấm dứt những cuộc tranh biện mà Lạt ma Zhang của phái Tsala Kagyu đã dấn thân vào. Lạt ma Zhang là một thành tựu giả vĩ đại và là người nắm quyền xứ Tsala, nhưng ngài lại có một tánh khí mãnh liệt mà chỉ có Karmapa mới làm cho dịu được.
Một đêm khi đang thực hành Yoga Giấc Mộng, Dusum Khyenpa nhận được sự thực hành tâm linh về Vajrayogini bốn mặt mười hai tay từ bậc thánh mật thừa là Indrabhuti.(6) Sau đó, trong một linh kiến khác, ngài nhận được lời dạy từ Vajrayogini. Karmapa đem các giáo huấn này dạy cho các đệ tử, nhưng sau đó không lâu ngài mơ thấy năm cô gái mặc áo đỏ trang sức rực rỡ đến và nói : “Chớ đem những giáo huấn Kim Cương thừa bí mật này cho bất kỳ ai.” Vào ngày sau, ngài lại đem ra dạy và ngay đêm đó năm cô gái lại xuất hiện trong giấc mơ và nói : “Chúng tôi là các sứ giả của Công chúa Laks-minkara.(7) Chớ đem dạy những giáo lý bí mật Kim Cương Thừa cho bất kỳ ai.” Ba ngày sau, Karmapa dạy cho Lạt ma Khampa Kungba, đêm ấy trong giấc mơ các cô gái xuất hiện trên bầu trời, cỡi những đám mây trắng, nói rằng : “Chúng tôi đã nói ngài đừng dạy giáo lý bí mật Kim Cương thừa cho bất kỳ ai, nhưng ngài không nghe.”
Ba tháng trước khi thị tịch, có xuất hiện một số lớn mống cầu vồng, đất rung nhẹ và tiếng rầm rầm mà người ta nói đó là tiếng trống của các Dakini. Năm tám mươi tư tuổi, vào ngày đầu của năm Con Bò Nước (1194), Dusum Khyenpa đặt tự viện Tsurphu, các kinh điển và thánh tích dưới sự trông coi của Drogon Rechen, vị đệ tử chính. Ngài còn giao cho vị này lá thơ trong đó nói trước những hoàn cảnh trong đó vị Karmapa sắp tới sẽ tái sanh. Ngài phân chia mọi vật dụng sở hữu cho các nhóm tăng chúng Kagyu.
Buổi sáng ngày thứ ba của năm mới, Dusum Khyenpa dạy các đệ tử bài pháp cuối cùng. Thế rồi, trong tư thế ngồi, ngài nhìn chăm vào bầu trời và nhập định. Đến trưa thì ngài ra đi.
Trong lễ tang một tuần sau đó, nhiều người có những cái thấy đặc biệt ; một số thấy thân thể ngài trong đám khói bốc lên từ dàn hỏa táng, người khác thấy nhiều mặt trời trên không trung và các daka và dakini nhảy múa giữa chúng.
Khi lửa đã tắt rụi, trái tim của ngài, biểu thị tình thương của ngài, và cái lưỡi, biểu thị cho lời dạy dỗ của ngài, vẫn còn nguyên vẹn trong tro tàn. Các đệ tử còn khám phá ra nơi một số xương của ngài có xuất hiện các chữ chủng tử (bija) và một số thánh tích khác.
Tro xá lợi của Karmapa được cất giữ trong một cái tháp khuôn mẫu theo một cái tháp Dhanyakataka ở nam Ấn Độ, nơi đức Thích Ca đã giảng dạy giáo lý Kalacakra. Cái tháp này còn để ở tự viện Tsurphu.
Dusum Khyenpa có nhiều đệ tử thành tựu, qua họ ảnh hưởng của ngài thấm sâu vào các truyền thống khác cũng như giáo phái Kamtshang Kagyu của ngài. Người kế thế là Drogon Rechen, sau đó vị này giao lại cho Pomdrakpa, vị này lại truyền lại cho Lạt ma Karmapa đời thứ hai. Bốn vị sáng lập của các dòng khác đã được ngài giáo hóa là Taglung Thangpa, người lập ra phái Taglung Kagyu ; Lingje Repa, vị hành giả Đại Ấn vĩ đại và là sơ tổ của phái Drukpa Kagyu ; Tsangpa Gyare, người thực sự sáng lập phái Drukpa Kagyu ; và Lạt ma Kadampa Desheg, người lập ra dòng Katok Nyingma. Lại có năm đệ tử đã phát triển được các năng lực đặc biệt. Đó là Dechung Sangjay trong lãnh vực hiểu biết từ xa, Dagden Batsa trong lãnh vực làm các phép thần biến, Tawa Kadampa trong lãnh vực các thần lực của Bồ tát, Drogon Rechen về ban phước cứu độ và Ge Chutsun trong lãnh vực các sự thành tựu sâu xa.
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...70236929_n.jpg
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
Kính lễ Kim Cương Thượng Sư ,Bổn Tôn ,không hành ,cùng toàn thể chư bách thần trong Mandala .
Trước thềm năm mới hành giả Kim Cương thừa xin kính chúc tất cả quý vị và gia đình một năm mới an khang thịnh vượng ,vạn sự cát tường như ý .Nguyện oai thần lực Tam Bảo gia hộ ,tịnh hóa ,tịch trừ các chướng nạn bên trong ,bên ngoài và bí mật .Nguyện cơn mưa cam lộ gia trì cho đất nước an vui ,ta bà hóa cực lạc .
OM MUNI MUNI MAHA MUNI YE SOHA
OM AH HUM BENZA GURU PADME SIDDHI HUM OM MANI PADME HUM OM AMI DEWA SHRI .OM SALE SULE SUNDDE SOHA BRHUM
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
Nghi thức tu trì trong đêm giao thừa
Đầu tiên quý vị cần phát khởi động cơ thanh tịnh tức là làm lợi lạc vô lượng chúng hữu tình ,không xen tạp động cơ ích kỉ cá nhân.Tiếp đến quý vị chuẩn bị đạo tràng thanh tịnh ,tùy theo khả năng của mình.Chuẩn bị : hương ,đèn,hoa ,quả,nước cúng ,trà ....tất cả những gì bạn cho là thanh tịnh trong khả năng của bạn .
Một mâm nhỏ tùy theo ý quý vị ,để chuẩn bị cho lễ hỏa tịnh thượng dâng cúng Phật hạ tế tam đồ ,quỷ thần ,các chúng sanh oan trái và ông bà tổ tiên.Đồ cúng gồm có bột trầm,cánh hoa cúc,hồi,quế,ngủ cốc,An tất hương.Ba món gồm bơ(phomat),mật ong,dầu mè.
Một lò lửa cát tường (hình vuông ,hoặc tròn) tốt nhất là đồ mới với than đỏ .Lò nầy phải gọn nhẹ để có thể mang đi khắp nhà của quý vị.
Một ly nước sạch để tịnh hóa nhà bằng nước( một cành hoa tươi để vẩy nước.
Đầu tiên chúng ta cúng dường ánh sáng trí tuệ cho toàn Pháp Giới chư Phật .Đốt càng nhiều đèn càng tốt ( một năm cúng 1 lần đừng nghĩ tiền bạc nhé !).Đánh 3 tiếng chuông.
Trì Om Ah Hum 21 lần hoặc nhiều hơn để tịnh hóa các phẩm vật cúng dường
Đốt 3 nén hương đứng đọc sau mỗi bài lễ 1 lễ
Con cùng tất cả chúng sanh mẹ ,vô biên như hư không xin phụng thỉnh 10 phương Phật Bảo .
Con cùng tất cả chúng sanh mẹ ,vô biên như hư không xin phụng thỉnh 10 phương Pháp Bảo .
Con cùng tất cả chúng sanh mẹ ,vô biên như hư không xin phụng thỉnh 10 phương Tăng Bảo .
Con cùng tất cả chúng sanh mẹ ,vô biên như hư không xin phụng thỉnh 10 phương bách thần ,chư hộ Pháp Daka ,Dakini và chư thần hộ mạng
Con xin quy y Phật Pháp Tăng_Đến khi đạt thành Chánh Giác_Công đức lợi quần sanh_Trước ba ngôi Tam Bảo Phật Đạo nguyện tu hành.3 lần
Gia trì
1.Om Ram 21 lần gia trì vào lửa hỏa lò thiêu đốt mọi sân ,si ,phiền não,cấu uế
2.Om Yam lần bỏ đồ cúng tạo khói tịnh hóa các ô nhiễm .Mang đi xông khắp nhà theo chiều kim đồng hồ.
3 Om Kham gia trì vô ly nước mang vảy khắp nhà vừa đi vừa đọc.
4.Ngồi trước tam bảo ,mở tất cả các cửa cho thông thoáng.tiếp tục hành trì
OM SOBHAVA SUDDHA SARVA DHAMA SOBHAVA SUDDHA HUM 3 lần
OM AH HUM
NAMA SARVA TATHGATA BHAYO BISHO MUKHEBHE SARVATHAKHAM UTGATE SAPHARANA IHMAM GAGANA KHAM SOHA gia trì phẩm vật biến khắp pháp giới ,tùy theo sở nguyện hữu tình
OM BENZA AMITA KUNDALI HANA HANA HUM PETnuớc hóa thành cam lộ tịnh hóa
OM NAMA SARVA TATHAGATA AVALOKITE.OM SAMBHARA SAMBHARA HUM biển mây lễ phẩm vật như hư không biến mãn
OM DZANYANA AVALOKITE .NAMA SAMANTA SAPHARANA RASAMI SAMBHAVA SAMAYA MAHA MANI DURU DURU SHRI TAYA JOLANI HUM thỉnh 10 phương Phật đến hoan hỷ nạp thọ
NAMA SAMANTA BUDDHA NAM TAHE SORI TABA NAZATI MAHA SAMAYA SO HA
Sau đó đọc OM AH HUM càng nhiều càng tốt .108 biến
Quý vị vừa đọc bài nguyện bảy dòng ,thần chú Liên Hoa Sanh hoặc bất kì thần chú nào quý vị thuộc .Vừa đọc vừa thiêu phẩm vật dâng cúng.Quan trọng là tâm chí thành
Sau cùng hồi hướng
Mọi phẩm vật chúng con dâng cúng
Mong chư Phật hoan hỷ chứng tri
Cùng chư hộ pháp thánh chúng
Viên mãn hạnh nguyện của quý ngài
Cầu nguyện chúng sanh trong sáu đạo
Dù ở đâu cũng tùy ý sở cầu
Nguyện cầu cho oan hồn uổng tử
Oan trái xưa nay sạch làu làu
Con xin dâng lễ phẩm này
Tích lũy phúc tuệ cho toàn chúng sanh
Hai chướng ngại thảy đều tiêu sạch
Đắc nhị thân thành tựu vẹn toàn
Những công đức tu hành bố thí
Xin nguyện cầu lợi lạc hữu tình
Nguyện chúng sanh đều tròn Phật quả
Với những ai chưa được giải thoát
Từ thời Phật quá khứ đến nay
Nguyện xin cho giải thoát hoàn toàn
Những minh thần trong cỏi Tam giới
Hoặc ở cỏi đất hoặc trên không
Nương theo chánh Pháp ngày đêm tu
Xót thương chúng sanh xin cứu hộ
Xin đem công đức thù thắng này
Nguyện cầu cho hết thảy chúng sanh
Tích tụ phúc trí nhị tư lương
Nương theo công đức phúc trí này
Nguyện viên mãn thành tựu hai thân
Nguyện vô tác cát tường thành tựu
Tựa như ngọc như ý minh châu
Viên mãn đủ đầy mong cầu của hữu tình
Đó là điều ước nguyện mong cầu của chúng con
OM MANI PADME HUM.Bài thực hành này hành giả soạn cho những ai chưa có duyên thọ quán đảnh .Mọi sai sót hành giả xin thành tâm sám hối.Có bao nhiêu lợi lạc xin hồi hướng cho khắp pháp giới chúng sanh.Chúc quý quý vị thân tâm thường an lạc
OM AH HUM BENZA GURU PADME SIDDHI HUM
Không hiểu sao có rất nhiều hành giả nói không tìm được bài viết này .Nên hành giả xin đưa lên đây .Nếu các vị xem được thì đem về trang mình nhé
Nghi thức tu trì trong đêm giao thừa
Đầu tiên quý vị cần phát khởi động cơ thanh tịnh tức là làm lợi lạc vô lượng chúng hữu tình ,không xen tạp động cơ ích kỉ cá nhân.Tiếp đến quý vị chuẩn bị đạo tràng thanh tịnh ,tùy theo khả năng của mình.Chuẩn bị : hương ,đèn,hoa ,quả,nước cúng ,trà ....tất cả những gì bạn cho là thanh tịnh trong khả năng của bạn .
Một mâm nhỏ tùy theo ý quý vị ,để chuẩn bị cho lễ hỏa tịnh thượng dâng cúng Phật hạ tế tam đồ ,quỷ thần ,các chúng sanh oan trái và ông bà tổ tiên.Đồ cúng gồm có bột trầm,cánh hoa cúc,hồi,quế,ngủ cốc,An tất hương.Ba món gồm bơ(phomat),mật ong,dầu mè.
Một lò lửa cát tường (hình vuông ,hoặc tròn) tốt nhất là đồ mới với than đỏ .Lò nầy phải gọn nhẹ để có thể mang đi khắp nhà của quý vị.
Một ly nước sạch để tịnh hóa nhà bằng nước( một cành hoa tươi để vẩy nước.
Đầu tiên chúng ta cúng dường ánh sáng trí tuệ cho toàn Pháp Giới chư Phật .Đốt càng nhiều đèn càng tốt ( một năm cúng 1 lần đừng nghĩ tiền bạc nhé !).Đánh 3 tiếng chuông.
Trì Om Ah Hum 21 lần hoặc nhiều hơn để tịnh hóa các phẩm vật cúng dường
Đốt 3 nén hương đứng đọc sau mỗi bài lễ 1 lễ
Con cùng tất cả chúng sanh mẹ ,vô biên như hư không xin phụng thỉnh 10 phương Phật Bảo .
Con cùng tất cả chúng sanh mẹ ,vô biên như hư không xin phụng thỉnh 10 phương Pháp Bảo .
Con cùng tất cả chúng sanh mẹ ,vô biên như hư không xin phụng thỉnh 10 phương Tăng Bảo .
Con cùng tất cả chúng sanh mẹ ,vô biên như hư không xin phụng thỉnh 10 phương bách thần ,chư hộ Pháp Daka ,Dakini và chư thần hộ mạng
Con xin quy y Phật Pháp Tăng_Đến khi đạt thành Chánh Giác_Công đức lợi quần sanh_Trước ba ngôi Tam Bảo Phật Đạo nguyện tu hành.3 lần
Gia trì
1.Om Ram 21 lần gia trì vào lửa hỏa lò thiêu đốt mọi sân ,si ,phiền não,cấu uế
2.Om Yam lần bỏ đồ cúng tạo khói tịnh hóa các ô nhiễm .Mang đi xông khắp nhà theo chiều kim đồng hồ.
3 Om Kham gia trì vô ly nước mang vảy khắp nhà vừa đi vừa đọc.
4.Ngồi trước tam bảo ,mở tất cả các cửa cho thông thoáng.tiếp tục hành trì
OM SOBHAVA SUDDHA SARVA DHAMA SOBHAVA SUDDHA HUM 3 lần
OM AH HUM
NAMA SARVA TATHGATA BHAYO BISHO MUKHEBHE SARVATHAKHAM UTGATE SAPHARANA IHMAM GAGANA KHAM SOHA gia trì phẩm vật biến khắp pháp giới ,tùy theo sở nguyện hữu tình
OM BENZA AMITA KUNDALI HANA HANA HUM PETnuớc hóa thành cam lộ tịnh hóa
OM NAMA SARVA TATHAGATA AVALOKITE.OM SAMBHARA SAMBHARA HUM biển mây lễ phẩm vật như hư không biến mãn
OM DZANYANA AVALOKITE .NAMA SAMANTA SAPHARANA RASAMI SAMBHAVA SAMAYA MAHA MANI DURU DURU SHRI TAYA JOLANI HUM thỉnh 10 phương Phật đến hoan hỷ nạp thọ
NAMA SAMANTA BUDDHA NAM TAHE SORI TABA NAZATI MAHA SAMAYA SO HA
Sau đó đọc OM AH HUM càng nhiều càng tốt .108 biến
Quý vị vừa đọc bài nguyện bảy dòng ,thần chú Liên Hoa Sanh hoặc bất kì thần chú nào quý vị thuộc .Vừa đọc vừa thiêu phẩm vật dâng cúng.Quan trọng là tâm chí thành
Sau cùng hồi hướng
Mọi phẩm vật chúng con dâng cúng
Mong chư Phật hoan hỷ chứng tri
Cùng chư hộ pháp thánh chúng
Viên mãn hạnh nguyện của quý ngài
Cầu nguyện chúng sanh trong sáu đạo
Dù ở đâu cũng tùy ý sở cầu
Nguyện cầu cho oan hồn uổng tử
Oan trái xưa nay sạch làu làu
Con xin dâng lễ phẩm này
Tích lũy phúc tuệ cho toàn chúng sanh
Hai chướng ngại thảy đều tiêu sạch
Đắc nhị thân thành tựu vẹn toàn
Những công đức tu hành bố thí
Xin nguyện cầu lợi lạc hữu tình
Nguyện chúng sanh đều tròn Phật quả
Với những ai chưa được giải thoát
Từ thời Phật quá khứ đến nay
Nguyện xin cho giải thoát hoàn toàn
Những minh thần trong cỏi Tam giới
Hoặc ở cỏi đất hoặc trên không
Nương theo chánh Pháp ngày đêm tu
Xót thương chúng sanh xin cứu hộ
Xin đem công đức thù thắng này
Nguyện cầu cho hết thảy chúng sanh
Tích tụ phúc trí nhị tư lương
Nương theo công đức phúc trí này
Nguyện viên mãn thành tựu hai thân
Nguyện vô tác cát tường thành tựu
Tựa như ngọc như ý minh châu
Viên mãn đủ đầy mong cầu của hữu tình
Đó là điều ước nguyện mong cầu của chúng con
OM MANI PADME HUM.Bài thực hành này hành giả soạn cho những ai chưa có duyên thọ quán đảnh .Mọi sai sót hành giả xin thành tâm sám hối.Có bao nhiêu lợi lạc xin hồi hướng cho khắp pháp giới chúng sanh.Chúc quý quý vị thân tâm thường an lạc
OM AH HUM BENZA GURU PADME SIDDHI HUM
Không có văn bản thay thế tự động nào.
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
NHỮNG GIỚI LUẬT CỦA TU HÀNH MẬT TÔNG
VÀ GIỚI LUẬT RIÊNG CỦA ĐẠI VIÊN MÃN
GIỚI LUẬT
Sau khi tiếp nhận một quán đảnh từ vị thầy mật tông, hành giả duy trì nhận biết bằng phương tiện của tâm linh hay cái thấy, kinh nghiệm, nhận biết của mật tông và cuộc sống phù hợp với giáo lý. Đây là sự tuân thủ giới luật (samaya). Nó là sự tương tục của sự thành tựu tâm linh sâu thẳm nhất và mật truyền của hành giả, nhận được trong khi quán đảnh.
BA PHÂN CHIA CỦA GIỚI LUẬT
Trong Phật giáo, có ba phân chia kỷ luật hay giới luật chính (sDom Pa). Đầu tiên là giới luật của Vinaya, kỷ luật của tu sĩ đạo Phật và người sùng mộ bình thường. Giới luật Vinaya chủ yếu là giới luật về thân. Thứ hai là giới luật Bồ tát. Rèn luyện này dựa trên việc có duy trì khao khát và cống hiến để phục vụ tất cả chúng sanh không có bất cứ tư lợi nào. Do đó, giới luật của Bồ tát chủ yếu là tinh thần. Thứ ba là giới luật mật tông. Giới luật này được đặt nền tảng trên trí tuệ bổn nguyên. Khi nhận quán đảnh, hành giả nên hiểu và nhận ra ý nghĩa của quán đảnh là trí tuệ, và sau đó duy trì trí tuệ đó bằng việc duy trì giới luật thanh tịnh. Thế nên, duy trì trí tuệ bổn nguyên là giới luật mật tông. Do vậy, giới luật Vinaya chủ yếu dựa căn bản trên cư xử về thân, giới Bồ tát dựa căn bản trên thái độ tinh thần, và giới mật tông dựa căn bản trên trí tuệ bổn nguyên, sự nhận thức thanh tịnh.
THỜI GIAN THỌ GIỚI
Có những khác biệt trong khi bạn nhận nhiều giới luật khác nhau. Trong rèn luyện của Vinaya hay Bồ Tát, các bản văn và giới luật giải thích trong rèn luyện đó được học trước, sau đó hành giả quyết định thọ giới hay không. Nhưng trong mật tông, trước tiên là nhận quán đảnh, và sau đó là học. Theo truyền thống, hành giả không thấy, đọc, hay nghe bất cứ điều gì về tantra cho đến khi nhận được trao truyền bằng việc nhập môn vào mật tông. Ở đây, hành giả có thể có nghi ngờ, “Làm sao tôi có thể tiếp nhận giới luật mật tông mà không được biết về chúng?” Đó là điểm cốt lõi! Mật tông chỉ dành cho người đặc biệt đã chuẩn bị và không nghi ngờ. Mật tông không dành cho người chưa biết hay chưa chuẩn bị. Trong mật tông, sau khi nhận quán đảnh bạn phải bảo tồn giới luật. Nó có tiềm năng lợi ích cũng như làm hại mạnh mẽ. Về tiếp nhận quán đảnh, đệ tử phải là người có năng khiếu đặc biệt, vị thầy là một người giác ngộ, và mandala đã ban phước như chất liệu trí tuệ. Khi có được sự kết hợp ba phẩm tính này, thì không cần đi qua tiến trình học trước, rồi sau đó quyết định thực hiện hay không. Việc sẵn sàng đồng nghĩa với việc được tiếp nhận vào tantra.
GIỚI LUẬT CHUNG CHO CẢ HAI TRUYỀN THỐNG
MẬT TÔNG CŨ VÀ MỚI
Có nhiều phạm trù giới luật. Trong tantra nội, chung cho cả hai tantra mới và cũ, có mười bốn vi phạm gốc (hay sa sút gốc, rTsa lTung), và tám vi phạm nặng (hay sa sút phụ, sBom Po).
MƯỜI BỐN VI PHẠM GỐC
Sau khi đi vào tu hành tantra nội, chúng ta phải kiềm chế vi phạm bất cứ trong mười bốn gốc sau đây:
1. Khinh thường vị thầy mà bạn đã nhận trao truyền tantra.
2. Vi phạm giới luật của đức Phật.
3. Nổi giận với huynh đệ vajra của bạn.
4. Mong muốn làm hại hoặc từ bỏ tình thương với bất kỳ chúng sanh nào.
5. Từ bỏ bồ đề tâm, tâm suy nghĩ làm lợi ích người khác.
6. Nhạo báng các tôn giáo khác, như Hinayana, Mahayana, Ấn Độ Giáo, Công Giáo, hay bất cứ truyền thống tôn giáo nào khác.
7. Cho bí mật của giáo lý mật tông đến người chưa chín chắn. Nếu người nào sẵn sàng thì bạn nên đưa giáo lý bí mật, nhưng nếu người đó chưa chuẩn bị và bạn đưa giáo lý sẽ làm hại chính bạn và người khác, vì họ sẽ hiểu sai và lạm dụng.
8. Làm đau đớn ngũ uẩn của chính bạn, đó là các gia đình Phật. Hành giả không nên lạm dụng thân mình mà phải chăm sóc nó.
9. Có nghi ngờ về bản tánh thanh tịnh nguyên sơ, cũng như nghi ngờ về nền tảng, con đường, và kết quả.
10. Không thực hiện việc trừ tà đến các thế lực tiêu cực vì lòng bi hư hỏng. Bạn có thể thực hiện sự trừ tà để giúp người. Như bạn đã biết, trong một kiếp trước Đức Phật đã giết một người để cứu nhiều người khác, và điều này làm cho công đức Ngài được nhân lên. Điều này không phải điển hình của thực hành mật tông mà là một thực hành công khai. Nhưng để thực hiện việc trừ tà, bạn phải là người có năng lực và thành tựu cao, không phải là người bình thường.
11. Khái niệm hóa pháp giới, lãnh vực tối thượng, vốn là sự thoát khỏi khái niệm.
12. Làm hại tâm của người sùng đạo, có nghĩa làm tổn thương cảm giác tin tưởng của người sùng đạo.
13. Không hưởng thụ tài sản của giới luật. Điều này có nghĩa từ chối nhận tài sản của giới luật, như năm cam lồ, vật chất bữa tiệc, và các vật chất khác của mật truyền, một cách không phân biệt.
14. Chế nhạo hay khinh thường phụ nữ, vốn là bản tánh của trí tuệ.
TÁM VI PHẠM THÔ
Sau khi đi vào các tantra nội, chúng ta nên kiềm chế vi phạm bất cứ một trong tám vi phạm thô sau đây:
1. Có một phối ngẫu là người thường, chưa được nhập môn vào con đường mật truyền.
2. Tiếp nhận cam lồ từ một nguồn không thích hợp, một phối ngẫu mật tông chưa nhập môn.
3. Không che dấu những biểu tượng bí mật của mật tông với các kinh mạch không thích hợp, người chưa nhập môn.
4. Quấy động bằng lời nói, thân thể trong tập hội mật tông như các nghi lễ bữa tiệc cúng dường.
5. Không nói sự thật hay không dạy cho người có kinh mạch thích hợp, mà lại nói điều đó cho người khác. Chẳng hạn, nếu người nào đó là một kinh mạch thích hợp cho Atiyoga mà lại đưa giáo lý của sutra (giáo tông).
6. Ở trong một nhóm thiếu tôn kính đến quan điểm và các thực hành của mật tông hơn bảy ngày. Điểm quan trọng là bạn nên luôn kiểm tra và đánh giá những gì có lợi nhất.
7. Ngụy tạo hay khoe khoang bạn là một Vajradhara (vị thầy mật tông) của tantra với sự tự kiêu, mặc dù bạn không có trí tuệ như vậy.
8. Đưa giáo lý bí mật cho người mà trước đó đã nhận giáo lý bí mật mà hiện nay không có niềm tin.
NHỮNG GIỚI LUẬT KHÔNG PHỔ BIẾN CỦA DZOGPA CHENPO
Với những người đã được nhập môn vào thực hành của Dzogpa Chenpo, điều quan trọng là tuân theo những giới luật phổ biến và đặc biệt sau đây để duy trì và hoàn thiện sự thiền định và nhận biết của họ.
NHỮNG GIỚI LUẬT CHUNG CỦA DZOGPA CHENPO
Phạm trù phổ biến có hai mươi tám giới, được chia thành hai nhóm. Nhóm đầu tiên là hai mươi bảy giới về khía cạnh bên ngoài, bên trong, và bí mật của thân, khẩu, và ý của vị thầy gốc hay Lama. Toàn bộ pháp giới là một trong mandala của vị thầy mật tông. Mỗi khía cạnh bên ngoài, bên trong, và bí mật được phân chia thêm nữa thành những khía cạnh bên ngoài, bên trong, và bí mật nhỏ hơn. Giới cuối cùng thứ hai mươi tám, được thiết kế như sự thu thập của giới luật nhánh.
Trước tiên là hai mươi bảy giới luật gốc (rTsa lTung):
A. Những giới luật về Thân của vị Thầy Gốc
1. Bí mật của bên ngoài là kiềm chế việc giết hại.
2. Bên trong của bên ngoài là kiềm chế tà dâm.
3. Bên ngoài của bên ngoài là kiềm chế trộm cướp.
4. Bên ngoài của bên trong là kiềm chế sự khinh miệt cha mẹ, anh chị em họ.
5. Bên trong của bên trong là kiềm chế việc coi thường các biểu tượng của Giáo Pháp.
6. Bí mật của bên trong là kiềm chế việc xem nhẹ thân thể chính họ, vì đây là mandala của Bổn tôn.
7. Bí mật của bí mật là kiềm chế ngay cả việc dẫm lên bóng của vị thầy.
8. Bên trong của bí mật là kiềm chế việc quấy rối vị phối ngẫu của vị thầy hoặc của huynh đệ vajra, thậm chí chỉ đùa giỡn.
9. Bên ngoài của bí mật là kiềm chế không đánh đập huynh đệ vajra.
B. Những giới luật về Ngữ của vị Thầy Gốc
10. Bên ngoài của bên ngoài là kiềm chế nói dối.
11. Bên trong của bên ngoài là kiềm chế nói chia rẽ.
12. Bí mật của bên ngoài là là kiềm chế nói lời thô tục.
13. Bên ngoài của bên trong là kiềm chế việc thiếu tôn kính đến người giảng dạy Giáo Pháp.
14. Bên trong của bên trong là kiềm chế việc thiếu tôn kính đến người đang trầm tư về Giáo Pháp.
15. Bí mật của bên trong là kiềm chế việc thiếu tôn kính đến người đang thiền định về bản tánh tuyệt đối.
16. Bên trong của bí mật là kiềm chế việc chế nhạo phối ngẫu vị thầy.
17. Bên ngoài của bí mật là kiềm chế việc chế diễu huynh đệ vajra.
18. Bí mật của bí mật là kiềm chế việc nhạo báng vị thầy.
C. Những giới luật về Ý của vị Thầy Gốc
19. Bên ngoài của bên ngoài là kiềm chế không tham lam.
20. Bên trong của bên ngoài là kiềm chế không ác ý.
21. Bí mật của bên ngoài là kiềm chế không tà kiến.
22. Bên ngoài của bên trong là kiềm chế không hoạt động đồi trụy.
23. Bên trong của bên trong là kiềm chế việc hôn trầm và trạo cử trong thiền định.
24. Bí mật của bên trong là kiềm chế khỏi quan điểm đồi trụy.
25. Bên ngoài của bí mật là kiềm chế không nghĩ tưởng về vị thầy và phối ngẫu trong suốt cả ngày lẫn đêm.
26. Bên trong của bí mật là kiềm chế việc nghĩ tưởng về vị Bổn tôn của mình suốt cả ngày và đêm.
27. Bí mật của bí mật là kiềm chế việc suy nghĩ về kiến, thiền, hành suốt cả ngày và đêm.
Thứ hai là hai mươi lăm giới luật nhánh (Yan Lag):
A. Năm Giới Luật Trong Đó Hành Giả Nên Tận Dụng Phương Tiện Thiện Xảo Phi Thường
1. Sự loại bỏ [giải thoát] hay trừ tà. Mục tiêu chính của sự thực hiện này là loại bỏ bám chấp vào bản ngã và vô minh trong dòng tâm thức hành giả qua nhận biết, và loại bỏ chúng từ dòng tâm thức người khác qua các hoạt động của lòng bi.
2. Hợp nhất. Điều này có hai khía cạnh, tương đối và tuyẹât đối. Khía cạnh tương đối là kết hợp vật chất, khiến đem lại cực lạc, biểu tượng của trí tuệ bổn nguyên. Khía cạnh tuyệt đối là thiền định và nhận biết sự hợp nhất của hình tướng và tánh Không, khiến phát sinh trực tiếp đại cực lạc tuyệt đối.
3. Lấy những vật không được cho, khi mục đích là lớn hơn.
4. Nói dối vì lợi ích người khác.
5. Thờ phụng vì mục đích dẫn dắt người khác đến Giáo Pháp.
B. Năm Giới Không Từ Bỏ: Trong trường hợp này chúng ta không nói về các cảm xúc thông thường là những năng lượng với ý định thanh tịnh.
6. Không từ bỏ thèm khát – sự khao khát đến tất cả bà mẹ chúng sanh với lòng bi.
7. Không từ bỏ thù hận – sự thù ghét khiến loại bỏ tà kiến.
8. Không từ bỏ si mê – sự si mê không có tư duy phân biệt vì sự nhận biết thanh thản của luân hồi và niết bàn.
9. Không từ bỏ kiêu mạn – sự tự hào khiến có tự tin trong cái thấy bình đẳng.
10. Không từ bỏ đố kỵ – sự đố kỵ khiến không thừa nhận quan điểm và hoạt động nhị nguyên vào lãnh vực của bản tánh tối thượng. Nếu bạn đố kỵ, bạn sẽ không muốn để người nào vào cửa. Tương tự như vậy, sự đố kỵ không để tính nhị nguyên đi vào lãnh vực của bản tánh tối thượng.
C. Năm giới của việc chấp nhận: Điều này biểu hiện sự chấp nhận bất cứ thứ gì không phân biệt.
11. Chấp nhận phân (purisha).
12. Chấp nhận nước tiểu (mutra).
13. Chấp nhận máu (rakta).
14. Chấp nhận thịt (mamsa).
15. Chấp nhận tinh dịch (shukra).
D. Năm Giới Của Nhận Biết Thanh Tịnh
16. Năm kết tập (ngũ uẩn) như năm vị Phật và năm gia đình Phật.
17. Năm nguyên tố như năm vị phối ngẫu nữ của năm vị Phật.
18. Năm đối tượng cảm giác như năm nữ Bồ tát.
19. Năm giác quan như năm Bồ tát nam.
20. Năm màu như năm trí tuệ nguyên sơ.
E. Năm giới của sự đạt được thành tựu: Qua năng lực của năm tri kiến trước đó như là nhận ra các uẩn là năm vị Phật, nó là sự đạt trạng thái của năm gia đình Phật.
21. Sự thành tựu của Phật bộ.
22. Sự thành tựu của Kim Cương bộ.
23. Sự thành tựu của Bảo bộ.
24. Sự thành tựu của Liên Hoa bộ.
25. Sự thành tựu của Tác Nghiệp bộ.
NHỮNG GIỚI LUẬT ĐAËC BIỆT CỦA DZOGPA CHENPO
Do nhận ra Dzogpa Chenpo và duy trì nhận biết của nó, hành giả giữ gìn những giới luật đặc biệt – kiến, thiền, và hành của Dzogpa Chenpo, đó là sự thành tựu tự nhiên, toàn bộ, toả khắp, và thoát khỏi việc khái niệm hóa, kinh nghiệm, phân biệt, và giới hạn. Đó là bốn giới luật đặc biệt của Thregcho và Thogal trong Dzogpa Chenpo.
Hai Giới Của Thregcho
1. Không hiện hữu (Med Pa). Dzogpa Chenpo có một quan điểm tránh việc lấy hay bỏ. Giới luật này ám chỉ sự nhận biết không hiện hữu của bản ngã khiến vượt qua sự vi phạm bằng việc hiểu biết, kinh nghiệm, hay nhận biết giác tánh nội tại của thanh tịnh bổn nguyên.
2. Toàn khắp (Phyal Ba): Nhờ duy trì tinh chất, bản tánh, và lòng bi qua bốn thiền định tự nhiên (Chos bZhag bZhi) của Thregcho, tất cả hàng trăm ngàn giới luật sẽ được hoàn thiện, giống như hành trăm dòng nước được một cây cầu bắc ngang.
Hai Giới Của Thogal
3. Duy nhất (gchig pu). Nhờ tiếp nhận trao truyền đặc biệt của Dzogpa Chenpo, hành giả đạt được trạng thái hoàn thiện luân hồi và niết bàn như một, và điều đó tỏa khắp mọi hiện tượng hiện hữu qua năng lực duy nhất của giác tánh nội tại.
4. Thành tựu tự nhiên (Lhun Grub). Nếu hành giả đã hoàn thiện nhận biết của Dzopa Chenpo, thì khi đã thực sự từ bỏ nền tảng làm hại người khác, hành giả đã hoàn thiện việc tuân thủ giới luật Vinaya. Vì hành giả có lòng bi phi quan niệm đến tất cả chúng sanh đang sống chưa nhận biết, hành giả đã phát triển tư duy lợi ích cho người khác nên đã hoàn thiện giới luật của Bồ tát. Vì hành giả đã hoàn thiện tánh giác nội tại, nên đã hoàn thiện giới luật mật tông. Một người như vậy đã hoàn thiện mọi giới luật chỉ với một nhận biết duy nhất.
KẾT LUẬN
Ngài Panchen Pema Wangyal tóm tắt các giới luật mật tông trong những dòng sau.
Tóm lại, nếu nhận ra chính thân bạn (tức là thân, khẩu, và ý) như ba cửa vajra (thân, khẩu, và ý của Bổn tôn).
Thì sự tuân thủ hàng trăm ngàn triệu giới luật của mật tông đều bao gồm trong nhận biết này.
Có nhiều phạm trù giới luật khác nhau. Những gì tôi đưa ra ở đây chỉ là các giới luật chính nói riêng về tantra (mật tông) và Dzogpa Chenpo (Đại Viên Mãn). Nếu bạn học tập các tantra khác nhau, thì mỗi tantra đều có hệ thống giới luật riêng. Nhưng trong bản chất, nếu bạn có và duy trì nhận thức thanh tịnh, thì mọi giới luật mật tông đều được bao gồm trong nó. Thấy mọi hiện tượng như thân Phật, nhận thấy mọi lời nói như mantra, ngữ thanh tịnh của đức Phật, và nhận ra tâm như tâm giác ngộ của đức Phật là nhận thức thanh tịnh. Nhưng có thể điều này quá thâm sâu với chúng ta. Chỉ có tư tưởng tôn kính đến bất kỳ hiện tượng nào, bất cứ những gì ở trước chúng ta, là nhận thức thanh tịnh. Có loại nhận thức thanh tịnh đó, có một tâm tích cực, bản chất tôn kính và lòng bi gói gọn những giới luật mật tông.
Vào cuối sự thực hiện quán đảnh Longchen Nyingthig, Ngài Kyabje Dodrupchen Rinpoche ban cho chúng ta tinh túy của giới luật để gìn giữ. Ngài nói, “Có nhiều giới luật như mười bốn vi phạm gốc, mà điều quan trọng và cũng dễ thực hiện cho bạn có mối tương quan tốt giữa đệ tử và vị thầy, và mối tương quan tốt giữa chính bạn và người chung quanh, người thân cận bạn. Nếu bạn nổi giận thì đừng biểu lộ. Nếu có người bị bệnh hay trong bất cứ khó khăn nào, hãy cố gắng giúp họ.”
Đây là một cách thiết thực và phổ biến về việc thấy, ứng xử với, và sống bằng giới luật, và nó là giới luật của tantra. Năm ngoái, khi chúng ta tụ tập vào cuối tuần để thiền định về lòng bi, phần lớn mọi người đều thích và được lợi ích bởi điều này. Nhưng có một số người suy nghĩ rằng lòng bi không phải là Dzogpa Chenpo và điều đó không đủ “cao”, và đó là cảm xúc hoặc không phải cách thực hành truyền thống của Phật giáo Tây Tạng. Loại thiền giả khoa trương ấy cho thấy rằng sự khoan dung của chúng ta sẽ rơi xuống mức thấp như thế nào mặc dù cũng hướng về lòng bi và tụng niệm danh hiệu Đức Avalokiteshvara. Không có dấu vết đại rộng mở của cái thấy Dzogpa Chenpo. Vấn đề là chúng ta không nhìn vào chính mình, chúng ta không thấy mình đứng ở đâu và tình thế của chúng ta là gì. Sống tôn kính là nhận thức thanh tịnh, và lòng bi là sự rộng mở hay tiến trình mở rộng. Sống tôn kính và bi mẫn hướng đến mọi người hay sự vật chung quanh bạn, với người mà bạn cư xử bằng hơi thở và bằng xương bằng thịt, là đặt việc rèn luyện tâm linh vào thực hành cuộc sống thật sự.
Hãy nghĩ về thái độ hay cảm nhận chúng ta có với từng cá nhân. Chúng ta thường cảm thấy: “Tôi tốt hơn vì có nhiều tiền hơn, vị trí cao hơn, đẹp trai hơn, xinh xắn hơn, v.v... Ông hay bà ta thấp hơn tôi.” Thì đó là kiêu mạn. Chúng ta có cảm thấy đau xót tức tưởi, và suy nghĩ: “Ông hay bà ta cao hơn tôi.” Đó là đố kỵ. Nhưng nếu chúng ta suy nghĩ: “Ông hay bà ấy thật hạnh phúc biết bao, tạo được tiến bộ nhiều hơn tôi. Tôi thật hạnh phúc cho họ.” Đó là tâm hoan hỷ. Nó là bằng chứng cho việc thực hành Giáo Pháp của chúng ta có tiến bộ. Nếu trong lúc vẫn giữ mọi cảm xúc tiêu cực trong lòng mà chúng ta lại nói về việc phục vụ toàn thể thế giới hay cho những người ở các châu lục xa xôi, thì người với ý thức đúng đắn có thể sẽ cười vào chúng ta. Nếu thực sự muốn giúp người khác thì trước hết phải bắt đầu với chính chúng ta và sau đó đến người chung quanh mình. Có thể bạn có tư tưởng rằng khi Rinpoche nói hãy kính trọng và tử tế với nhau, điều đó không phải là một giáo lý và không có bất cứ ý nghĩa mật truyền nào, chỉ là đạo đức xã hội. Nhưng nếu chúng ta có thể áp dụng thì nó có hầu hết ý nghĩa của mật truyền. Tử tế và giúp đỡ người khác tiêu biểu cho giới luật của Vinaya, sống kỷ luật về thân. Nó bao gồm giới luật Bồ tát vì có quan điểm lợi ích người khác. Tôn kính tiêu biểu cho giới luật mật tông, có nhận thức thanh tịnh. Do vậy, lòng tốt, giúp đỡ, và tôn kính người khác là tinh hoa của giới luật mật tông.
PHỤC HỒI GIỚI LUẬT BỊ ĐỨT
Nếu chúng ta vi phạm bất cứ giới luật nào, thì phải làm gì? Chúng ta nên sửa đổi điều này qua thực hành tịnh hóa, như nghi thức Vajrasattva. Bất cứ loại thực hành Ngondro nào, thọ quy y, phát triển Bồ đề tâm, hay cúng dường mandala sẽ được hùng mạnh trong việc tịnh hóa nghiệp tiêu cực; mà sự tụng niệm và thiền định của Vajrasattva là vô song và đặc biệt trong việc tịnh hóa những dấu vết nghiệp xấu và cảm xúc tiêu cực, giúp phục hồi và làm mạnh mẽ giới luật của chúng ta. Về việc thực hiện tịnh hóa đó, điều cần thiết là hoàn tất bốn năng lực (sTobs bZhi):
1. Năng lực hỗ trợ (rTen Gyi sTobs). Chúng ta cần ai đó, một lực giác ngộ, để dựa vào. Vì chúng ta có tâm nhị nguyên và đánh giá, để giúp chính mình chúng ta cần một số quyền năng cao hơn để dựa vào. Chúng ta phải tin tưởng vào năng lực hỗ trợ, trong trường hợp này là Đức Vajrasattva.
2. Năng lực hối tiếc (Sun ‘Byin Pa’i sTobs). Chúng ta nên công kích hành động xấu của mình với sự hối tiếc mạnh mẽ về những gì đã làm, giống như người phá hủy chất độc. Nếu không hối tiếc, chúng ta sẽ không muốn tẩy tịnh hành động xấu của chúng ta vì sẽ không cảm thấy có bất kỳ tiêu cực nào bên trong chúng ta. Với một số người, nếu giết một con côn trùng họ sẽ cảm thấy xấu. Với những người khác, ngay cả nếu họ giết nhiều người, có thể họ chỉ cảm thấy tự cao. Khả năng đảo ngược cuộc sống tiêu cực của chúng ta không dựa vào bất cứ những gì ta làm, mà vào cảm giác về việc làm của chúng ta ra sao. Do đó, việc hối tiếc là rất quan trọng trong sự thay đổi quan điểm và tiến trình của cuộc sống.
3. Năng lực cam kết (sDom Pa’i sTobs). Chúng ta nên lập một nguyện, một lời hứa, bằng bất cứ giá nào cũng không vi phạm lần nữa. Người ta thường nghĩ, “ Tôi không muốn lập bất kỳ loại cam kết nào vì làm cam kết là bắt đầu phá vỡ cam kết.” Nhưng nếu chúng ta không lập một cam kết, thì không có gì để phá vỡ. Kinh điển nói rằng lập một cam kết là điều quan trọng, vì một cam kết phát sinh một quyết tâm và năng lực mạnh mẽ không vi phạm hành động xấu lần nữa.
4. Năng lực giải độc (gNyen Po’i sTobs). Đây là năng lực của phương pháp làm tịnh hóa những bất tịnh. Trong trường hợp này, là sự thực hành hay sadhana (nghi quỹ) của Đức Vajrasattva, trong đó chúng ta tịnh hóa các dấu vết của nghiệp xấu, những thói quen của cảm xúc bất thiện, qua cam lồ ban phước của sự hợp nhất nam và nữ Phật Vajrasattva.
Sự hỗ trợ, hối hận, lời hứa, và sau đó là sự tịnh hóa thực tế – bốn phương diện này rất quan trọng. Nói chung, trong Vinaya, nếu bạn đứt giới, nếu vi phạm bất cứ bốn giới nguyện gốc nào, bạn sẽ không thể phục hồi chúng. Bồ tát giới có thể phục hồi qua năng lực của chính bạn và người khác. Trong tantra, giới luật có thể được phục hồi bằng sự thực hành chính bạn. Thế nên, những giới luật bị đứt có thể phục hồi, và chúng sẽ hồi phục bằng việc sử dụng bốn năng lực. Giới luật thanh tịnh và hoàn thiện, sự tương tục của trí tuệ và năng lực mật tông, là trọng tâm và phần chính của thực hành mật tông.
Trên đây chỉ là những gì tổng quát của Mật Giáo ,tốt nhất là nhận giới luật từ một bậc Đạo Sư thanh tịnh khẩu truyền.Có những giới luật chúng ta không giữ được thì nên đảnh lễ ngài 3 lễ sau đó phát lộ nói rằng con không giữ được để không hủy phạm giới.Thật hổ thẹn cho ai tự nhận mình là một hành giả kim cương thừa mà không thủ trì giới luật giải thoát.
OM AH HUM BENZA GURU PADME SIDDHI HUM
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...97042586_n.jpg
-
Lời khai thị
bằng miệng về thực hành
NAMO GURU DEVA DAKINI HUNG
Đại sư Padmakara, người giữ gìn cột trụ đời sống của lời tất cả chư Phật, giúp đỡ dân chúng Tây Tạng đi vào cửa Pháp. Dầu họ thích quy y Tam Bảo, họ không biết làm sao hướng tâm đến thực hành. Khi bất hạnh như là bệnh tật xảy đến, họ nhút nhát cầu viện đến bói toán, bùa phép và chiêm tinh. Bởi thế, Padmakara ban cho họ lời dạy miệng về thực hành. Các hành giả Tây Tạng của thời suy thoái này, hãy ghi nhớ nó trong lòng !
Để làm cho sự thực hành tâm linh của con có ý nghĩa, hãy áp dụng nó bất cứ lúc nào con cần một phương thuốc. Nếu con có một kinh nghiệm kinh khủng, hãy giữ Tam Bảo trong tâm ! Trong mọi hoạt động của đời sống hàng ngày đi, đứng, nằm, ngồi, hãy nhớ thầy con ở trên đỉnh đầu ! Tách lìa Bồ đề tâm là nguyên nhân hư nát của căn cội Đại thừa, thế nên chớ bao giờ lìa khỏi sự khởi tâm đặt vào giác ngộ.
Cảm thấy keo kiệt khi bố thí gây ra sự tái sanh thành một ngạ quỷ, thế nên chớ lạc vào sự bủn xỉn khi dù cho một vật nhỏ nhất ! Để cho khởi lên ham muốn khi giữ lời nguyện trong sạch gây ra sự tái sanh nơi địa ngục thi thể thối rữa, thế nên chớ trau dồi dục vọng xác thịt ! Giận dữ khi đang tu hành nhẫn nhục và Bồ đề tâm dẫn đến kinh nghiệm hấp hối bị đốt trong lò nấu bên trong một thùng sắt, nên chớ bao giờ lìa võ khí của nhẫn nhục !
Nếu con lọt vào sự lười biếng khi cố gắng thành tựu giác ngộ không gì sánh, hãy nhớ trong tâm rằng đời con đi mất không một khoảnh khắc chần chờ, thế nên chớ sa vào bẫy biếng nhác ! Cuộc đời con trượt xa như đêm tiếp theo ngày : chớ quên điều đó !
Trích khai của Đạo Sư Liên Hoa Sanh
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
-
Đạo Sư Liên Hoa Sanh có nhiều bài dạy đệ tử tu tập theo con đường ngắn nhất, trực tiếp đến Giác ngộ. Những bài khuyên dạy thường xoay quanh sáu điểm cụ thể như sau:
1.Đọc thật nhiều kinh sách, lắng tai nghe các vị Đạo sư dạy bảo để nhập tâm rồi sau đó ứng dụng để tự thấy hiệu quả, sai trái;
2.Chọn một trong tất cả học thuyết này và chú tâm vào nó, tất cả những thuyết khác đều phải bỏ qua, ví như con diều hâu săn từ trên cao, chỉ chọn một con mồi duy nhất;
3.Sống khiêm tốn cần kiệm, không bao giờ tự nâng mình, đưa mình ra trước, bỏ ý muốn đạt danh vọng, quyền uy trong thế gian. Sau cái bề ngoài vô nghĩa này thì lại đưa tâm thức lên cao vút, vượt qua tất cả các danh hiệu chói lọi của tục thế;
4.Giữ lòng Xả (sa. upekṣā) đối với tất cả. Ăn uống như một con heo, con chó, không chọn lựa, có gì ăn nấy. Không được cố gắng để đạt hoặc né tránh bất cứ một cái gì. Chấp nhận mọi việc như chúng đến, giàu sang phú quý hay cơ hàn, lời chê bai hay tán thán. Không phân biệt giữa đúng sai, thiện ác, thành bại. Không hối tiếc và cũng không hãnh diện, vui mừng về bất cứ việc gì đã làm (xem Bát phong).
5.Với tâm vô tư, không thiên vị mà nghe và quán sát tất cả những hành động lời nói của mọi người. Cứ nghĩ rằng, nhân gian là như thế, người này như vậy, người kia thế đó. Quán sát thế gian như một người đứng trên đỉnh núi nhìn xuống;
6.Cấp này không thể trình bày diễn tả. Nó tương ưng với sự trực giác tính Không, tương ưng với tính Không (sa. śūnyatā).
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
-
ĐỨC PHẬT TIÊN TRI VỀ SỰ RA ĐỜI CỦA ĐỨC LIÊN HOA SANH
Khi Đức Phật sắp thị tịch ở Kushinagara và các đệ tử của Ngài đang than khóc, Ngài nói với họ: “Trong thế gian vô thường này chúng sinh không thể tránh được cái chết, đã tới lúc ta phải ra đi. Nhưng đừng than khóc nữa, vì 12 năm sau khi ta lìa thế gian, ở hồ Dhanakacha ở góc tây bắc của xứ Urgyan, sẽ có một người thông thái và đầy quyền năng tâm linh mạnh hơn ta sinh ra trong một đóa hoa sen. Người đó sẽ được gọi là Liên Hoa Sanh và truyền bá Mật giáo.”
Một tài liệu khác viết Đức Phật tiên đoán rằng “sau một thời gian khoảng 12 năm khi ta nhập Niết bàn, như người chinh phục vĩ đại nhất trên thế giới, ta sẽ xuất hiện một lần nữa, trong vùng đất Uddiyana, dưới tên gọi Padmasambhava, ta sẽ truyền những giáo lý Mật thừa.”
OM AH HUM BENZA GURU PADME SIDDHI HUM
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
Đời sống bình đẳng
Năm 1982, Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 đi Pháp để tham dự một hội nghị hòa bình. Trong một buổi tiếp tân, Ngài chuyện trò với Pawo Rinpoche, một Lạt-ma đã già, về vị Gyalwa Karmapa, là vị từ trần trước đó không lâu.Cả hai vui vẻ nhắc lại các câu chuyện xung quanh vị Gyalwa Karmapa đạt đạo và vừa nói qua về việc tái sinh sắp tới đây của vị này, thì Pawo Rinpoche khám phá một con kiến tội nghiệp đang bò trên sàn gỗ đánh bóng, dùng mọi sức dường như để tránh có ai sắp đạp lên thân mình.Vì chân Pawo Rinpoche đang bị liệt, ông nhờ Đạt-lai Lạt-ma làm sao cứu con kiến. Đạt-lai Lạt-ma liền đứng dậy, cúi xuống dưới bàn và nói nhỏ một câu phước lành. Xong ngài giữ con kiến trên tay, mang ra khỏi phòng ăn và đặt con kiến trước cửa dưới ánh mặt trời. Ngài mỉm cười trở lại bên cạnh người bạn già.“Tôi đã làm cho ngài một việc đấy nhé, Rinpoche”, Đạt-lai Lạt-ma nói. “Mắt Ngài già rồi nhưng còn tinh hơn tôi đấy. Nhiều người nói về tính Không của mọi sự và mục đích cao cả của Đại thừa, nhưng hiểu biết về sự bình đẳng của đời sống là một trong những đặc tính của Bồ-tát đích thực. Trong mắt ngài thì mọi dáng hình đời sống đều có giá trị như nhau, cái đó tôi gọi là lòng từ bi.”
Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 nhắc lại chuyện này trong một lần diễn giảng tại Pháp, trong đó ngài nói về lòng từ bi và tinh thần trách nhiệm.
“Giáo lý của chúng tôi chỉ đơn giản thôi, đó là lòng yêu thương, lòng cảm thông với mọi loài”, ngài trả lời câu hỏi mà người ta vẫn thường đặt ra cho ngài về thế giới quan của Phật giáo.
Cầu cho mọi chúng sanh ,mọi loài tiếp nhận ân phúc gia trì của lòng Bi mẫn vô biên.
OM MANI PADME HUM
OM MANI PADME HUM
OM MANI PADME HUM
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...b1&oe=5AD66B16
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
Có một câu chuyện trong lịch sử Tây Tạng, nói lên lòng ngưỡng mộ của người dân Tây Tạng với Phật Thích Ca tại một tu viện tên Jokhang ở thủ đô Lhasa được xem là thiêng liêng hơn cả, trong tu viện có một tượng Phật Cô Đàm rất cổ thời còn niên thiếu được mang tên là Jowo Rinpoche (Đức Hạnh Cao Quí). Tượng phật được mang từ Trung Quốc qua Tây Tạng cả ngàn năm trước và là phẩm vật của một nàng công chúa đã lấy vị vua Tây Tạng. Ben, một thanh niên sống tại vùng quê Kongpo, suốt đời mơ ước được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của đền Jokhang và tượng phật thiêng liêng nhất Tây Tạng, bèn lên đường đi Lhasa. Anh đi như người bị hớp hồn trong các con đường của thành phố chư thiên này. Nhìn thấy điện Potala, Ben thật xúc động vì đó là nơi thờ đức Quan Thế Âm, đấng hiện tiền dưới dạng của vị Đạt Lai Lạt Ma. Cả dòng người vô tận đang đi vòng xung quanh điện Potala. Thật là tuyệt vời, vẻ đẹp của điện Norbu Lingka, cung điện mùa hè của vị nguyên thủ quốc gia, được chạm trổ đầy nghệ thuật. Không thể bỏ qua các tu viện đáng quí trọng nhất như Sera và Drepung, nơi đào tạo tăng sĩ. Chàng Ben nhủ thầm: “may mắn thay đời ta còn có thể thấy được nơi này.” Sau đó, Ben vào thẳng đền Jokhang và trông thấy tượng Jowo Rinpoche trong thế ngồi liên hoa, tượng cao như người thật và toát ra cảm giác tôn quí, thầm lặng mà vĩ đại.
Ben quì lạy trước bức tượng ba lần, nhưng lần nào cũng hầu như bị vướng bởi một đôi ủng cũ kỹ, chiếc nón đầy bụi của Ben cứ bị rơi xuống đất. Ben bèn cởi ủng, cầm mũ đặt lên lòng bức tượng đang mĩm cười và im lặng nói: “Hỡi Jowo Rinpoche, hãy coi chừng dùm các thứ này để con yên tâm tiếp tục chiêm bái.” Với đôi bàn chân trần chàng Ben đi vòng quanh bức tượng vàng, vui thích ngắm nhìn hàng chục ánh đèn dầu trên bục tượng và đủ các loại bánh trái để bên cạnh. Ben cám ơn đức Phật toàn trí và dưới lòng từ bi tỏa sáng của Jowo Rinpoche, Ben mạnh dạn lấy bánh, nhúng vào dầu thắp đèn và ăn ngon lành. Đáp lại lòng từ bi của Phật, Ben hứa thành tiếng là sẽ đón Phật bất cứ lúc nào tại Kongpo. Vì làm nghề mổ heo Ben hứa sẽ mổ một con heo béo nhất và ướp đủ thứ gia vị để chiêu đãi Phật. Ben chẳng hề biết đạo Phật chủ trương không giết hại loài vật và tin lời mời của mình sẽ được Phật đón nhận. Ngay lúc đó thì cửa mở toang, một vị sư già giữ đền bước vào đứng sững nhìn đôi ủng dơ bẩn và chiếc mũ rách nát trên lòng đức Phật và thấy bột bánh dính giữa râu của Ben, vị sư già liền giận dữ chụp đôi ủng và chiếc mũ trên lòng tượng phật định đem quăng đi. Bỗng một tiếng nói huyền bí cất lên: “Dừng tay, các thứ này là của đứa học trò yêu quí của xứ Kongpo của ta.” Vị sư run bắn người và lui lại vài bước. Ông ta nằm dài xuống đất xin tượng tha thứ hành động của mình. Sau đó ông rút lui để lại một mình Ben trong phòng cho chàng thanh niên này tiếp tục nói chuyện theo cách riêng của anh ta với “Đức Hạnh Cao Quí”. Sau lần chiêm bái đó Ben lại quay về với gia đình tại Kongpo, nhưng tin đồn về bức tượng nói chuyện với chàng đã về đến trước. Khi có ai hỏi gì về tin đồn đó Ben chỉ nói lơ: “Ôi thời buổi này chẳng biết tin nào đúng, tin nào sai.” Người ta còn kể thêm rằng bức tượng quả nhiên đã nhận lời mời của chàng Ben thật thà và hiện ra trước mặt chàng trong một dòng suối gần nhà. Ben thò tay vào nước để vớt tượng lên và mang tượng đi một vài bước, nhưng cuối cùng vì bức tượng quá nặng nên Ben để tượng rơi xuống đất. Tượng chìm xuống đất cả thước nhưng mọi người đều có thể đến chiêm bái bức tượng. Đến ngày nay, dân làng Kongpo vẫn còn đi vòng quanh hố đất có dấu tích của Jowo đang mĩm cười và họ lạy bức tượng bằng cách cúi đầu sát đất.
Đền Jokhang ở kinh đô Lhasa tuy rất xa nhưng người biết chuyện vẫn tin rằng vị “Đức Hạnh Cao Quí” luôn rất gần họ. Ai ai cũng có thể đến với đức Phật, đạo Phật không phải là đạo tuyển sinh, chàng Ben còn có thể nhờ Phật coi chừng đôi ủng dơ bẩn và chiếc nón đầy bụi của mình còn vô tư mời Phật về nhà chiêu đãi con heo mập mạp nhất. Phật nhận lời giữ đồ đạc cho chàng, trong khi Ben không biết tý gì về đạo Phật, ngay cả chủ trương cấm sát sinh cũng không biết nốt. Phật rất bình đẳng, ngài ra đời không phải chỉ vì những người đại trí như Xá Lợi Phật mà vì tất cả những người còn vô minh vây phủ. Không có sự tuyển chọn ai mới là đệ tử xứng đáng của ngài. Ai cũng có quyền xem ngài là thầy. Giáo pháp của Phật thâm sâu, ít người hiểu ngộ, đó chỉ dành cho các vị đại thượng trí còn riêng lòng từ bi của ngài thì lan tỏa vô phân biệt như ánh mặt trời ai cũng được hưởng. Đền Jokhang ngày nay vẫn còn và hằng ngày có rất nhiều người đến chiêm bái.
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
Shamar Rinpoche Mipham Chokyi Lodro sinh ra ở Derge, Tây Tạng. Lên 4 tuổi, Ngài được Đức Karmapa thứ 16 - Rangjung Rigpei Dorje công nhận là vị Shamarpa thứ 14. Theo lời yêu cầu của Đức Karmapa, chính phủ Tây Tạng đã bãi bỏ lệnh cấm các vị Shamarpa kéo dài trong 159 năm.
Shamar Rinpoche thân cận Đức Karmapa thứ 16 cho tới khi Đại Sư qua đời năm 1981. Ngài thọ nhận trọn vẹn giáo lý Kagyu từ Đức Karmapa thứ 16. Kể từ sau khi Đại Sư qua đời năm 1981, Shamar Rinpoche dành nhiều nỗ lực cho các dự án được khởi xướng bởi cố đạo sư. Ngài hoàn thành việc in lại "Tengyur" - 214 tập trong đó những vị đạo sư Ấn Độ và Tây Tạng lỗi lạc làm sáng tỏ giáo lý được ban bởi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Shamar Rinpoche cũng hỗ trợ và chỉ dẫn cho Tu viện Rumtek, trụ xứ của Đức Karmapa thứ 16. Ngài đồng thành lập Học viện Phật giáo Quốc tế Karmapa (Karmapa International Buddhist Institue) ở New Delhi, Ấn Độ. Hiện nay, Học viện cung cấp các khóa nghiên cứu Phật giáo cho cả tu sĩ và cư sĩ. Shamar Rinpoche cũng thường du hành đến nhiều nước, nơi Ngài giảng dạy tại những trung tâm Kagyu trên thế giới.
Nguồn: http://shamarpa.org/history/mipham-chokyi-lodro/
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
NGÀI KARMAPA THỨ 17
HIS HOLINESS ORGYEN TRINLEY DORJEY
Karmapa là một danh hiệu tiếng Tây Tạng, có nghĩa là “bậc hoằng hóa những công hạnh của chư Phật“ hay là “hiện thân cho các công hạnh của chư Phật“. Trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng, những bậc thầy chứng ngộ, còn được biết như các Tulku (hóa thân), tái sanh có chủ định nhằm mục đích truyền dạy.
Cơ chế các Lạt ma (Lama) hóa thân kế thừa hạt giống tín ngưỡng và tu viện của họ, được Karmapa đầu tiên khởi xướng, đã được tiếp nối trên 800 năm tại Tây Tạng. Trong truyền thống này, cho tới nay các vị Karmapa đã tái sinh 17 đời, tất cả đều giữ vai trò dẫn đầu trong việc bảo tồn và truyền bá Phật giáo Tây Tạng.
Trong nhiều thế kỷ, các Karmapa luôn được cả thường dân lẫn các tu sĩ ở các tu viện khắp các vùng Tây Tạng tìm đến như một chỗ dựa tinh thần, người bảo vệ và người thầy tối cao. Một cách truyền thống, người ta cho rằng Karmapa, từ rất nhiều thiên niên kỷ trước, đã chứng ngộ thành vị Phật có tên là Shenphen Namrol.
Hiện nay, đức Karapa thứ 17, Ogyen Trinley Dorje là một trong những bậc thầy lãnh đạo tinh thần ở thời hiện đại của lịch sử Tây Tạng. Vì thế , Đức Karmapa đã làm việc không mệt mỏi cho sự phát triển của Phật giáo cả trong và ngoài nước Tây Tạng. Tạm thời, Đức Karmapa sống tại tu viện Gyuto ở vùng Dharamsala -Ấn Độ.
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...35190494_n.jpg
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
Rất hoan hỷ thông tin chia sẻ của hành giả Cà Phê Sữa .Xin đăng thông tin cho toàn thể hành giả kim cương thừa được biết và lợi lạc
Chùa Lâm Huê Quận Bình Thạnh mai có dạy tiếng tạng bạn nào thích hay hứng thú thì có thể đăng kí và vào học vào ngày mai lúc 9h sáng
Dạy tiếng tạng do 1 vị Lama của drukpa dạy hoàn toàn miễn phí nha
Sư bà rất hòa đồng
So dt cua minh 0903337023 hiếu
Nam mô Khai Bảo Tạng Bồ Tát _()_
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
-
Trong Kinh Bạch Liên nói:
Thậm chí chỉ tạo ra một âm thanh, hay cúng dường một xập xõa
Thậm chí chỉ cúng dường một bông hoa duy nhất
Cho thân tướng của một bậc đã đạt được sự hỉ lạc (Phật) trên một bức tường đá,
Cho dù họ cúng dường với một thái độ sân hận
Những chúng sinh đó sẽ dần dần nhìn thấy mười triệu vị Phật.
Những ai chắp cả hai bàn tay,
Hoặc chỉ chắp một bàn tay hay chỉ một lần cúi đầu tôn kính
Trước một bảo tháp chứa xá lợi, ngay cả với tâm phóng dật (không đức hạnh)
Miệng nói “Con kính lễ Phật” chỉ một lần hay ít lần –
Tất cả những chúng sinh đó sẽ thành tựu giác ngộ siêu việt.
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
-
4 lượt chia sẻ
Bình luận
Hành Giả Kim Cương Thừa
13 Tháng 11 2013 ·
Kính lễ chư thượng sư !
Kính thưa chư học giả thiện hữu tri thức gần xa .Trong thời đại văn minh công nghệ tiên tiến ,ai cũng muốn làm thầy thiên hạ.Họ rất uyên thâm về kiến thức họ nói lời nầy là lời Phật dạy ,lời kia không phải.Như thế nầy mới đúng như thế kia là sai.Ai tin ông ấy như tin lời phật dạy ,ai không tin ông ấy là bạn của thiên ma.Giáo Pháp của tiểu thừa mới là lời của đức Phật còn 13 tông môn Hoa Tông và tứ đại trường phái Tây Tạng là kinh ngụy tạo đủ kiểu đủ điều.Chỉ tội cho hàng hậu học như chúng con ngơ ngác giữa bao la trùng điệp của giáo Pháp.Vậy chúng con nên tin vào ai ? Từ bỏ điều gì ? .Kính thưa chư hành giả chúng ta đừng nên tin ai đừng từ bỏ điều gì hãy đến thực hành trải nghiệm điều gì làm chúng ta an lạc ,giải thoát chính là lời Phật dạy.Các bạn hãy chiêm nghiệm sự thị tịch của một đạo sư vĩ đại thế kỉ 21 xem Kim Cang Thừa có phải là ngụy tạo sáng chế của các Lama hay chính là giáo lí cốt tủy của chư Phật
Madikeri, Nam Ấn): Nhục thân của một cao tăng Phật giáo Tây Tạng vẫn giữ nguyên vẹn, không phân hủy sau khi viên tịch 38 ngày trong lúc các chức sắc của tu viện đang chờ đợi chư tăng đệ tử của ngài từ khắp nơi trên thế giới tập trung về đỉnh lễ ngài.
Lạt ma Penor Rimpoche hành đạo tại tu viện Namdrol ling, còn gọi là chùa Vàng, một tu viện Tây Tạng lớn nhất Ấn Độ. Ngài viên tịch sau một cơn bệnh ngắn. Nhục thân của ngài vẫn đang được bảo quản trong lúc một số lượng lớn tín đồ và đệ tử của ngài cử hành các nghi lễ đặc biệt khắp nơi trên thế giới.Lạt ma Penor Rimpoche là trưởng Tông phái Nigmapa, một tổ chức Phật giáo Tây Tạng. Ngài nổi tiếng có biệt tài thuyết pháp, nói về các thí dụ, và đọc những bài diễn văn có sức thu hút trên thế giới với lòng tự tin. Các lãnh đạo Tây Tạng ở Bylakuppe cho biết nhục thân của Lạt ma Penor Rimpoche sẽ được tôn trí công khai từ ngày 22/5 và được hỏa táng sau khi chư tăng đệ tử của ngài từ khắp nơi trên thế giới tập trung về trong một thời gian ngắn.
Các lãnh đạo Tây Tạng này tuyên bố rằng nhục thân Lạt ma Penor Rimpoche hẳn sẽ vẫn giữ nguyên vẹn trong khoảng thời gian nào đó mà không phân hủy khi họ là những người có tín tâm kiên cố về tâm linh. Lạt ma Penor Rinpoche sinh năm 1932 tại vùng Powo, huyện Kham, miền Đông Tây Tạng, là tông trưởng thứ 11 trong dòng truyền thừa Palyul của Tông phái Nyingma.
Thích Minh Trí dịch (Theo UNI)
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
-
Kính lễ chư Phật bậc chiến thắng trong mười phương Trụ trong cảnh giới cát tường thù thắng.Nguyện tâm con hòa trong ánh sáng thanh tịnh của chủng tự A sắc trắng ,an trụ trong luân xa tim.Xin cho con ngũ trong tỉnh thức và làm chủ được giấc mộng.
A Nu Tara
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...20748250_n.jpg