http://s2.upanh123.com/2017/03/21/duoc-su-bw4ea41.jpg
http://s2.upanh123.com/2017/03/21/bhaisajya44e75.jpg
Thần chú và Tổng trì chữ Lantsa | Lantsa (Ranjana)
Printable View
http://s2.upanh123.com/2017/03/21/duoc-su-bw4ea41.jpg
http://s2.upanh123.com/2017/03/21/bhaisajya44e75.jpg
Thần chú và Tổng trì chữ Lantsa | Lantsa (Ranjana)
VĂN CẦU NGUYỆN VÃNG SINH TỊNH THỔ
Bản Pháp truyền thừa của Đại Bảo Pháp Vương đời thứ 15
Phục hồi Phạn Chú và Việt dịch: HUYỀN THANH
_Ái mã hoắc
*)EMAHO
_Hiếm có! Thế Tôn Vô Lượng Quang Như Lai
Bên phải là Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Bên trái là Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát
Vô lượng chư Phật với chúng Bồ Tát vây quanh
_Vốn đủ vô lượng chân thiện, các Diệu Lạc
Tên gọi là Thanh Tịnh Cực Lạc Quốc Thổ
Nguyện con khi hết mạng, liền tùy hay vãng sinh
Chẳng bị Trung Ấm gây chướng ngại, quấy nhiễu
Hoa sen hóa sinh, thấy thẳng A Di Đà
Nay con như vậy chân thành phát Nguyện này
_“Đa nhã tha: ban tạp địch nhã, a oa ba đạt noa gia, thoa cáp”
*)TADYATHĀ: PAÑCANDRIYA - ĀVABODHANĀYA SVĀHĀ
_Chư Phật mười phương khéo hộ niệm
Phước Tuệ viên mãn, mừng khen ngợi
Ba đời: con làm các nghiệp Thiện
Thảy đều cúng dường Tam Bảo Tôn
_Nguyện các Phật Pháp rộng truyền dương
Nghiệp Thiện hồi hướng chúng hữu tình
Nguyện các chúng sinh đều thành Phật
Đầy đủ tất cả các căn lành
_Nguyện tự Tâm Tính được thành thục
Hai Chướng thanh tịnh, đủ Phước Tuệ
Sống lâu, không bệnh, tăng Trí Tuệ
Nguyện con vãng sinh, chứng Thập Địa
_Vào lúc hết mạng liền vãng sinh
Nguyện con sinh về nước Cực Lạc
Vãng sinh được sen màu nhiệm nở
Nguyện dùng thân này được Phật Quả
Được chứng Bồ Đề, thành Chính Giác
Nguyện hóa vô số thân độ Chúng
*)Văn hồi hướng:
Dùng Công Đức này, nguyện chứng Tự Tính Phật
Giáng phục tai vạ của phiền não, oán địch
Sóng hung bạo của sinh già bệnh chết
Nguyện độ chúng sinh giải thoát biển luân hồi
( https://kinhmatgiao.files.wordpress....h-tinh-tho.pdf )
http://s2.upanh123.com/2017/03/21/MK7f0a7.png
http://s2.upanh123.com/2017/03/21/Untitled7ff43.png
http://s2.upanh123.com/2017/03/21/OPb189d.png
Enlightened Heart Tibetan Buddhist Temple
( http://www.emily2u.com/enlightened-h...hist-temple/2/ )
http://s2.upanh123.com/2017/03/21/28...b83_bb2ef4.jpg
http://pic.qiantucdn.com/00/90/40/62bOOOPICb7.jpg!qt226
http://pic.qiantucdn.com/00/90/40/62...g!/format/webp
( https://www.flickr.com/photos/hieumi...op/28249522154 )
=====
Mandala Tây Phương Tịnh Độ - HT Thích Nhật Quang
http://s2.upanh123.com/2017/03/21/ghj298e6.png
http://s2.upanh123.com/2017/03/21/yua7b34.png
http://s2.upanh123.com/2017/03/21/Ta..._10006a2de.png
( http://tailieu.thientinhmat.com/ / http://www.58pic.com/tupian/amituofo.html )
=========
https://www.youtube.com/watch?v=Hm6_1XKbD2Y
Cụ Triệu Vinh Phương Vãng Sanh Tây Phương Cực Lạc
( Phút: 11:58 )
=======
http://s2.upanh123.com/2017/03/21/To...12869c2a43.jpg
http://s2.upanh123.com/2017/03/21/DWE8dd9f.jpg
http://s1.storage.5giay.vn/image/201...1480939353.jpg
https://encrypted-tbn2.gstatic.com/i...FpHVG2fD8wGOwA
Dây may mắn 2mm - NF2-ĐỎ-20m/cuộn
Giá :
20,000 VNĐ
Số lượng
1
DÂY MAY MẮN, DÂY SE chuyên làm vòng tay vòng cổ cực đẹp.
Dây may mắn màu đỏ màu chuyên sài cho vòng tay, bạn chỉ cần se lại thật đơn giản là nhìn đẹp mắt rồi
Thông tin:
Tên: Dây may mắn, dây se giá sỉ handmade
Size: 2mm
Màu sắc: Màu Đỏ
Công Dụng: làm vòng tay,vòng cổ dây chuyền handmade
Công ty KT chuyên cung cấp sỉ PHỤ KIỆN HANDMADE giá rẻ nhất thị trường.
Bạn cần biết thông tin chi tiết hay muốn được tư vấn miễn phí về cách làm vòng tay hoặc đặt hàng vui lòng liên hệ qua số hotline 0979770720 hoặc Zalo/Viber 01645914143
PHỤ KIỆN HANDMADE
CTY TNHH THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ XNK KT chuyên cung cấp sỉ PHỤ KIỆN HANDMADE giá rẻ nhất thị trường.
Bạn cần biết thông tin chi tiết hay muốn được tư vấn miễn phí về cách làm vòng tay hoặc đặt hàng vui lòng liên hệ qua số
PHỤ KIỆN HANDMADE
Hotline: 0979 770 720 - Zalo/Viber 01645914143
Website: Kateco.vn
Đc: 65/15 Đường Tăng Nhơn Phú, Phường Phước Long B, Quận 9, Tp Hồ Chí Minh
( http://kateco.vn/day-may-man-2mm-nf2...l#.WNEM87KLSHs )
=======
http://s2.upanh123.com/2017/03/21/DSC03045767e9.jpg
dây đeo mặt chuông kim cang
( http://tibetanshop.blogspot.com/sear...A2y%20%C4%90eo )
Mọi chi tiết xin liên hệ số điện thoại 04.62948929 hoặc 0127.2012140.Gặp Tuấn.Địa chỉ số 8 ngõ 69 Tân Ấp ,Ba Đình, Hà Nội
Tibetanshop rất sẵn lòng giúp đỡ các đạo hữu tu mật tông tại Việt Nam.
http://s2.upanh123.com/2017/03/23/TB...0x600bc6c6.jpg
http://s2.upanh123.com/2017/03/23/asdffdc33.jpg
药师佛放生咒 药师佛护生咒 药师心咒 玛尼石 放生专用 水解脱咒
( https://world.taobao.com/item/547230...0002.94.gk8bGC )
http://s2.upanh123.com/2017/03/23/TB...0x31002c55.jpg
藏传佛教工艺摆件玛尼石 六字真言石 精美玛尼石 石刻
( http://www.zhunbai.com/tag/view/k/manishi/p/2.html)
http://s2.upanh123.com/2017/03/23/la...00010ed623.jpg
MEDICINE BUDDHA WINDOW AMULET (2 PIECES)
USD 9.97
Medicine Buddha helps all who call upon him. Attach this window amulet on the windows of your car, living room or office to dispel illness vibrations and promotes good health.
( http://www.fsmegamall.com/index.php?..._detail&p=3939 )
http://s2.upanh123.com/2017/03/24/Untitleda7f07.png
佛教法器用品印章/語自在跨解脫咒輪/免跨越罪障咒輪/4x6厘米
( http://www.taobao.com/product/%E4%BD...A%E5%8D%B0.htm )
Tieu qunag un, ban post nhiu KInh sach nhu vay , vay ban biek thuc hanh duoc thanh tuu duoc nhu teh chua,,, bna co biet Phap torng KInh sach nay chi detham khao , con Thuc hanh , fai co duoc NHU LAI chna truyen chua ?, neu chau thi ko the nao thanh tuu duoc dau,, nhung cung co the thanh tuu loi ich nhung ve tru chci giai thoat thi fai du duyen,,,
postnhiu ma co ai tho tri ko ? co ai vao de noi ji ko ..
tieu quang ? ban hay xet lai di ,,
1doi hoc nhieu
nam tren nui sach
ko bnag doi bung
tu tim thuc an ,,
hhii chao tieu quang
nui sach doi ko an duoc dau , fai biet tim thuc an hihiii
Quán Thế Âm
Quán Thế Âm đỏ: Thông thường, tôi sẽ đi theo trình tự Pháp thân, Báo thân và Hóa thân. Nhưng thực hành này về căn bản là pháp tu Quán Thế Âm. Hơn thế nữa, sẽ rất khó để người bình thường như chúng ta bước vào con đường của Pháp thân và Báo thân Phật. Để làm vậy, chúng ta cần thọ nhận ân phước gia trì của Vô Lượng Quang và Kim Cương Pháp nhờ Quán Thế Âm, vì thế, bây giờ, tôi sẽ giới thiệu Quán Thế Âm trước khi giới thiệu Liên Hoa Sinh.
Các bạn có thể đều đã quen thuộc với Quán Thế Âm. Ngài có nhiều hình tướng khác nhau: Quán Thế Âm với hai tay, bốn tay, mười một mặt, một nghìn tay, một nghìn mắt … Đức Quán Thế Âm ở đây rất đặc biệt. Ngài thân đỏ và cầm bông sen bên tay trái, biểu tượng cho lòng bi mẫn hướng về mọi hữu tình chúng sinh. Tay phải kết ấn bố thí, biểu tượng cho việc xua tan phiền não và khổ đau cho mọi hữu tình chúng sinh.
Trong Phật giáo Trung Hoa, thực hành Quán Thế Âm đỏ rất hiếm, nhưng trong Phật giáo Tây Tạng, nó khá phổ biến. Ở Larung, ngày 30 hàng tháng theo Âm lịch Tây Tạng, chúng tôi trì tụng nghi quỹ Gyalwa Gyamtso, trong đó vị Bổn tôn chính là Quán Thế Âm bốn tay thân đỏ. Trì tụng danh hiệu và Mật chú của Ngài có lợi lạc lớn lao với người chết.
Các Mật điển tuyên bố rằng ánh sáng đỏ phóng từ Đức Vô Lượng Quang biến thành Quán Thế Âm. “Lời Cầu Nguyện Cực Lạc” cũng nói rằng ánh sáng từ Vô Lượng Quang Phật mang hình tướng Quán Thế Âm. Vì vậy, nhờ cầu nguyện đến Đức Quán Âm đỏ, cả thực hành Kinh thừa và Kim Cương thừa đều có thể thành tựu. Một mặt, bạn có thể thành tựu hoạt động kính ái, mặt khác, bạn có thể tái sinh về cõi giới của Đức A Di Đà.
Các thực hành Quán Thế Âm đem lại vô lượng công đức và chúng ta sẽ không đi sâu vào chi tiết ở đây. Mở rộng về chủ đề này cần nhiều thời gian. Bất kỳ ai quan tâm có thể đọc thêm về chủ đề này trong thời gian riêng của họ.
Chúng ta cần làm sáng tỏ rằng mặc dù Wang Dü và Pháp Tu Thậm Thâm Quan Âm Quyến Sách Hư Huyễn Chín Bổn Tôn của Tổ Lerab Lingpa đều là thực hành của hoạt động kính ái, và cả hai cầu khẩn đến chín Bổn tôn kính ái, chúng rất khác nhau. Trong Wang Dü, Bổn tôn chính yếu là Liên Hoa Sinh, trong khi trong Pháp Tu Thậm Thâm Quan Âm Quyến Sách Hư Huyễn Chín Bổn Tôn thì không có Liên Hoa Sinh. Ở đó, Bổn tôn chính yếu là Quán Âm đỏ trong tư thế hợp nhất, tay phải cầm móc câu bằng đồng trong khi tay trái cầm cành hoa sen. Ngài ôm Không Hành Nữ Mật Huệ. Kyabje Rinpoche cũng bình luận rằng, “Một cách điển hình, nghi quỹ chín Bổn tôn của Lerab Lingpa cần bao gồm Liên Hoa Sinh. Lý do tại sao Ngài không xuất hiện trong nghi quỹ thì không rõ ràng”.
Trong Wang Dü, rất dễ dàng để liệt kê chín Bổn tôn. Nhưng trong nghi quỹ của Lerab Lingpa, chúng không hiển nhiên như vậy. Tôi hiểu rằng người ta cần liệt kê chín Bổn tôn trong nghi quỹ của Lerab Lingpa như sau: Vô Lượng Quang (Amitabha), Kim Cương Pháp (Vajradharma), Liên Hoa Sinh (Padmasambhava), Quán Âm Đỏ (Avalokiteshvara), Mật Huệ Phật Mẫu (Guhyajnana), Hê-ru-ka, Kim Cương Hợi Mẫu (Vajravarahi), Tác Minh Phật Mẫu (Kurukulle), Đại Tự Tại Thiên (Mahadeva). (Vô Lượng Quang, Kim Cương Pháp và Liên Hoa Sinh hiện diện theo cách thức không thể nhận thấy. Đầu tiên, Vô Lượng Quang, là vị chủ của Liên Hoa Bộ, ngự trên đầu của Quán Thế Âm. Thứ hai, Kim Cương Pháp, biến hóa từ Vô Lượng Quang Phật, chỉ có thể nhìn thấy bởi chư Bồ Tát với nhận thức thanh tịnh. Thứ ba, với hữu tình chúng sinh bình phàm với nhận thức cấu nhiễm, hóa hiện của Vô Lượng Quang là Liên Hoa Vương.).
( https://thuvienhoasen.org/p38a27452/...-tho-van-phap- )
Có một lý do khác. Kim Cương Tát Đỏa là một vị Phật. Khi còn là một Bồ Tát, ngài phát đại nguyện rằng, “Nguyện cầu con hiện diện trước mọi chúng sinh, những kẻ đã tích lũy ác nghiệp nặng nề và nếu ai trì tụng Mật chú của con mà không thể tịnh hóa ác nghiệp, con nguyện chẳng thành Phật”. Sau đấy, đại nguyện của ngài trở thành thật và ngài đạt giác ngộ và trụ trong cõi Tịnh độ.
Từ đó, chúng ta có thể thấy rằng, Mật chú Kim Cương Tát Đỏa khác với danh hiệu của các vị Phật khác. Mặc dù hồng danh của Phật A Di Đà, Phật Thích Ca Mâu Ni và Phật Dược Sư đều tuyệt diệu, [chúng có tác dụng khác nhau bởi] những đại nguyện khác biệt của từng vị Phật. Điều đó giống với những cử nhân đại học có những lĩnh vực chuyên môn khác nhau. Vị Phật hữu hiệu nhất trong việc giúp đỡ chúng ta tịnh hóa che chướng và ác nghiệp là Kim Cương Tát Đỏa. Đó cũng là lý do khiến chúng ta cần cầu nguyện đến ngài.
Vì thế, chúng ta có thể biết rằng, trì tụng 400 000 lần Mật chú Kim Cương Tát Đỏa có thể tịnh hóa ác hạnh được tích lũy trong quá khứ. Đức Kim Cương Tát Đỏa cũng phát nguyện về điều này và nhờ sức mạnh của những đại nguyện đó, ác nghiệp của chúng ta dứt khoát sẽ được tịnh hóa, giống như sức mạnh của đại nguyện của Phật A Di Đà có thể giúp chúng ta vãng sinh Cực Lạc nhờ trì tụng hồng danh của ngài. Bởi vậy, chúng ta cần lưu tâm đến đại nguyện tuyệt vời này của Đức Kim Cương Tát Đỏa.
~ BÀI GIẢNG NGẮN VỀ THỰC HÀNH TỊNH HÓA
Khenpo Sodargye giảng trong Pháp hội Kim Cương Tát Đỏa 2007
Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ
( https://www.facebook.com/KimCuongThuaVajrayana/ )
Ngày 8/9/2016
Theo các bản văn Phật giáo, sao Dược Sư Vương xuất hiện trên bầu trời 7 ngày mỗi năm. Nhờ ánh sáng mà nó tỏa ra và ân phước gia trì của Phật Dược Sư, tất cả nước trong các dòng sông, hồ, biển và đại dương đều giống như thuốc. Tắm rửa bằng nước này có thể xua tan bệnh tật và tăng cường sức khỏe về thân và tâm. Các vị đạo sư vĩ đại của Tây Tạng đều khuyến khích thực hành này.
Năm nay, sao Dược Sư Vương xuất hiện trên bầu trời từ ngày 8 đến 14 tháng 9. Tôi hy vọng các bạn sẽ tắm rửa thường xuyên, bị ướt một chút trong những cơn mưa và quán tưởng các loại thuốc tuôn trào cùng với dòng nước, để những bệnh chướng và ác nghiệp được đẩy lùi khỏi thân thể qua các lỗ chân lông.Cùng lúc đó, hãy trì tụng "Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai" và Mật chú Phật Dược Sư càng nhiều càng tốt.
Đức Gyalwang Drukpa cho biết, các đệ tử của Đức Phật từng hỏi khi Phật không còn tại thế thì làm sao đệ tử kết nối và đón nhận sự gia trì của ngài? Đức Phật dặn các đệ tử hãy vẽ hình ảnh Phật, ngài sẽ theo các đệ tử mọi nơi. Từ đó, khắp nơi trên thế giới có phong tục thờ tranh Phật.
( http://vnexpress.net/photo/thoi-su/d...m-3556522.html )
The mantra is “Namo akasagarbhaya om arya camari mauli svaha"
( http://my1my1.byethost9.com/wp/categ...E/page/30/?i=2 )
http://s2.upanh123.com/2017/03/29/IMG_0915-110ca4.jpg
Một góc thờ cúng của tôi .
( http://thegioivohinh.com/diendan/sho...B4ng&styleid=4 )
[IMG]http://s2.upanh123.com/2017/03/29/438274421_m1f0e7.jpg[/ IMG]
摩利支天(Marichi Mantra)
121咒輪諸天部
摩利支天(Marichi Mantra)
【參閱資料】133冊47頁---天南地北去無痕
【參閱資料】133冊200頁---天南地北去無痕
【種 子 字】月輪觀/金黃色/摩ma/
【本尊咒語】嗡‧摩‧利‧支‧玉‧ ‧哈‧
【羅馬拼音】om‧ma‧ri‧ci‧ye‧sva‧h a‧
【本尊咒輪】梵文書寫Sanskrit
【咒輪排列】由12點鐘位置依順時鐘方 向右旋排列成咒輪‧
( http://blog.xuite.net/yamantaka9999/twblog/122996181 )
Bạn nào rành về photoshop; xin làm ơn chỉnh sửa dùm tôi 2 bức hình Dược Sư sau. Xin chân thành cảm ơn trước !
Nội dung chỉnh sửa: các bạn chỉ việc làm mất đi Chữ Tàu và tiếng Anh trên bức hình Dược Sư là được ( Với bức hình 1, MŨI Ngài có vết dán; xin làm ơn làm mất đi. )
Một lần nữa xin tri ân các bạn !
Sau khi chỉnh hoàn chỉnh; xin bạn hãy post lên để mọi người cùng chiêm ngưỡng nhak !
BÀI CẦU NGUYỆN VÃNG SANH VỀ CÕI TỊNH ĐỘ CỦA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ - P2
Con cùng tất cả các sanh loài hữu duyên,
Nguyện khi thân tâm tách rời đời sống này,
Tận mặt thấy Đấng Hóa thân Vô Lượng Quang,
Cùng với Tăng đoàn các La Hán vi nhiễu,
Lai lâm hiển hiện ngay phía trước mặt con.
Thấy được các Ngài con vô cùng hoan hỷ,
Không còn cảm nhận thống khổ của cái chết,
Nguyện xin Tăng đoàn tám vị Đại Bồ‐tát,
Với oai thần lực hiện trên bầu không gian,
Chỉ dẫn cho con đường về cõi An Lạc,
Đón rước con về Cực Lạc Thanh Tịnh Bang.
Không thể nhẫn chịu khổ đau trong ác đạo,
Phước lạc trời người cũng nhanh chóng tiêu tan,
Nguyện con sanh khởi tâm khiếp sợ đau khổ.
Từ thời vô thủy cho đến kiếp hiện nay,
Chìm nổi dập vùi trong biển khổ luân hồi,
Nguyện con sanh khởi tâm thoát ly thế tục.
Giả như kiếp sau con được sanh làm người,
Cũng thọ vô số đớn đau của Tứ khổ,
Cùng với bao nhiêu chướng ngại đời ác trược,
Những chốn vui thú của chư Thiên, loài người,
Cũng giống như là nuốt nhầm các món độc,
Nguyện con không khởi mảy may tâm tham dục.
Của cải, tiền tài và bạn bè thân thiết,
Tất cả đổi thay như là trong giấc mộng,
Nguyện con không khởi mảy may tâm tham luyến.
Quê cha, đất tổ, nhà cửa nơi cư trú,
Cũng đều giống như quán trọ trong chiêm bao,
Tất cả đều là ảo ảnh không chân thật.
Biển khổ luân hồi không cách nào ra khỏi,
Như kẻ tội nhân chung thân chốn lao tù.
Con đường vãnh sanh về Cực Lạc Tây phương,
Là phương duy nhất không con đường nào khác.
Bao nhiêu tham chấp từ nay con lìa bỏ,
Như chim sổ lồng, tung cánh rời la võng,
Bay thẳng về bầu hư không ở hướng Tây,
Vượt qua không biết bao nhiêu là thế giới,
Chỉ trong nháy mắt thoáng chốc đã đến nơi,
Cực lạc Tịnh Độ An Bang ngay trước mặt.
Nguyện con tự thân thấy Phật Vô Lượng Quang,
Vui mừng chiêm ngưỡng được Thánh nhan của Ngài,
Tất cả tội chướng từ nay được thanh tịnh.
Tái sanh tốt nhất trong tất cả bốn cách,
Chính là hóa sanh trong Hoa sen tươi đẹp.
Ngay khi con vừa hóa sanh trong Hoa sen,
Chỉ trong nháy mắt toàn thân đều viên mãn,
Đầy đủ tướng hảo và trang sức tuyệt đẹp.
Trước đây đã từng nghi ngờ Phật tiếp dẫn,
Tuy vãng sanh rồi vẫn ngồi trong hoa sen,
Thọ hưởng đầy đủ tất cả các phúc lạc,
Nghe được lời Phật giảng kinh và thuyết pháp,
Qua năm trăm năm Hoa sen mới khai nở,
Bấy giờ mới được thấy Thánh nhan của Phật,
Nguyện cầu chúng con không phạm sai lầm này.
Khi vừa vãng sanh, nháy mắt hoa sen nở,
Tận mắt thấy được Thánh nhan Vô Lượng Quang,
Nương sức oai thần biến hóa cùng công đức,
Trong lòng tay con hiện biển mây cúng dường,
Số nhiều vô lượng không sao tính đếm được,
Kính dâng Đức Phật cùng hải chúng quyến thuộc.
Đức Vô Lượng Quang Như Lai rất hài lòng,
Duỗi bàn tay phải xoa trên đỉnh đầu con,
Thọ ký cho con sẽ chứng quả Bồ‐đề,
Sau khi nghe được giáo pháp mầu sâu rộng,
Nguyện tự tâm con chín muồi hương giải thoát.
Ngưỡng nguyện Bồ tát Quan Âm và Thế Chí,
Cùng các trưởng tử tuyệt hảo của hai Ngài,
Xin hãy ban sự gia trì và nhiếp thọ.
Từ nay mỗi ngày con cúng dường như thế,
Cho Đấng Từ Phụ Vô Lượng Quang Thế Tôn,
Cùng vô số Phật, Bồ‐tát khắp mười phương.
Khi con vừa đến Tịnh độ của các Ngài,
Liền được gần gũi, theo hầu và phụng sự,
Nghe được tất cả Pháp cam lồ vi diệu.
Nhờ sức thần thông biến hóa không trở ngại,
Nguyện trước giờ Ngọ con viếng thăm các cõi:
Tịnh Độ Hiện Hỷ của Đức Phật Bất Động,
Tịnh Độ Vinh Quang của Đức Phật Bảo Sanh,
Cõi Diệu Viên Hạnh của Bất Không Thành Tựu,
Mật Nghiêm Phật Quốc của Đại Nhật Như Lai.
Cầu xin các Ngài quán đảnh và gia trì,
Thành kính cúng dường và thọ nhận Giới Pháp,
Khi chiều buông xuống nháy mắt quay trở về,
Nơi cõi Cực Lạc không chút nào mỏi mệt.
Tịnh Độ Phổ Đà cùng Cung Điện Dương Liễu,
Tịnh Độ Ô Ghen trên lục địa Phất Châu,
Trong số mười ức cõi Tịnh Độ Hóa thân,
Là mười ức vị Quan Âm, Liên Hoa Sanh,
Độ Mẫu Ta Ra cùng với Kim Cương Thủ,
Nhìn thấy các Ngài con dâng biển cúng dường.
Xin ban Quán đảnh và Pháp mầu thâm diệu,
Nhận rồi nhanh chóng về ngay Cực Lạc Quốc,
Nhờ sự gia trì không gặp trở ngại nào.
Con dùng Thiên nhãn quán sát khắp mọi nơi,
Cha mẹ, họ hàng cùng bạn bè thuở trước,
Đêm ngày thường xuyên gia trì và bảo hộ,
Khi họ qua đời, tiếp dẫn về Lạc Bang.
Thời kỳ của Hiền kiếp này là Đại kiếp,
Chỉ bằng một ngày ở thế giới Cực Lạc,
Không bao giờ chết trải qua vô số kiếp,
Nguyện con an trụ vĩnh hằng nơi Phật Quốc.
Từ Đức Di Lặc đến Đức Phật Thắng Giải,
Tổng cộng một ngàn vị Phật của Hiền kiếp,
Tương lai giáng sanh thành Phật tại thế gian,
Con dùng thần thông đến thăm viếng các Ngài,
Kính dâng cúng dường và lắng nghe Giáo pháp,
Sau đó quay về nơi Cực Lạc Tịnh Thổ,
Nhờ sự gia trì không gặp trở ngại nào.
Tám triệu một trăm ngàn cõi Phật Tịnh độ,
Công đức vô cùng trang nghiêm và thù thắng,
Hợp các Tịnh độ trở thành một Tịnh độ,
So với Tịnh độ Cực Lạc cũng không bằng,
Nguyện cầu con được vãng sanh Cực Lạc Bang!
Đất bằng trân bảo, mềm như lòng tay ngửa,
Rộng lớn vô cùng tỏa lấp lánh hào quang,
Tay che ánh sáng, lại sáng lòa hơn nữa,
Con nguyện sanh về êm ái Diệu Kỳ Bang!
Vô số trân bảo tạo thành cây như ý,
Lá bằng gấm lụa, quả bằng các bảo châu,
Đàn chim Hóa thân trên cây líu lo hót,
Pháp âm nhiệm mầu và sâu rộng vô biên,
Con nguyện sanh về hy hữu Diệu Kỳ Bang!
Những dòng sông thơm tràn đầy tám phẩm tính,
Các hồ bơi tắm đầy ắp nước cam lồ,
Thềm thang và gờ đều bằng bảy món báu,
Ngan ngát mùi thơm hoa sen và quả mọng,
Hào quang từ các hoa sen tỏa vô ngần.
Đầu mỗi tia sáng là một Hóa thân Phật,
Con nguyện sanh về đại kỳ diệu Lạc Bang!
Nơi mà ba độc, năm độc không hiện hữu,
Âm thanh đau khổ, tám bất hạnh đều không,
Cũng không chiến tranh, oán địch và bệnh, nghèo
Tên các đau khổ chưa bao giờ hiện diện,
Con nguyện sanh về Cực Lạc Thanh Tịnh Bang!
Nơi cõi Cực lạc Hóa sanh trong hoa sen,
Không có thai sanh, không có thân người nữ,
Tất cả các thân đều thuần một sắc vàng,
Đỉnh đầu và thân đều đeo trang sức quý,
Ai cũng đầy đủ ngũ thông và ngũ nhãn,
Con nguyện sanh về Công Đức Vô Lượng Bang!
Cung điện Vô Lượng tự sanh, đầy trân bảo,
Các món thọ dụng tùy theo ý niệm sanh,
Không cần dụng công tất cả đều viên thành,
Bám chấp tự ngã, ta người đều biến mất,
Từ lòng bàn tay sanh các mây cúng dường,
Ai nấy đều hành Pháp Đại thừa vô thượng,
Con nguyện sanh về nguồn cội Hỷ Lạc bang!
Gió thơm mang đến những cơn mưa hoa đẹp,
Từ các gốc cây, hoa sen và dòng suối,
Lan tỏa biển mây sắc thanh hương vị xúc,
Hài lòng tâm ý và dâng lên cúng dường.
Sanh ở nơi đây không mang thân người nữ,
Nhưng vẫn luôn có các Thiên nữ cúng dường.
Ai muốn nghỉ chân, vào cung Vô Lượng Bảo,
Ai muốn an giấc, đã có Diệu Bảo tòa,
Đầy đủ gối lụa, nệm gấm, chăn thượng hạng...
Chim, cây, suối nước và các loại nhạc khí,
Trỗi các bản nhạc Pháp âm khi muốn nghe,
Đến khi buồn ngủ, tức thời dừng ngay lại.
Tất cả sông, hồ, khe, suối nước cam lồ,
Nóng lạnh ấm mát tùy ý người sử dụng,
Con nguyện sanh về Như Ý Sở Thành Bang!
Ở nơi cõi này, Đức Phật Vô Lượng Quang,
Trụ vô số kiếp và chưa nhập Niết bàn,
Con nguyện hầu Ngài trong khoảng thời gian ấy.
Đến khi Đức Phật đi vào cõi Niết bàn,
Giáo Pháp của Ngài sẽ trụ ở Lạc Bang,
Trong khoảng thời gian hai hằng hà sa kiếp
Nguyện con không rời Đức Bổ Xứ Quan Âm,
Là Đấng kế tục giữ gìn Pháp của Ngài.
Mặt trời hoàng hôn của giáo pháp vừa lặn,
Trước lúc bình minh, Quan Âm thành Chánh Giác.
Pháp hiệu Bồ‐tát Quan Âm đổi thành là:
Phổ Quang Thánh Tôn Diệu Tụ Vương Như Lai,
Nguyện được cúng dường và lắng nghe chánh pháp.
Thọ lượng trụ thế của vị Như Lai này,
Là khoảng sáu triệu sáu trăm ngàn đại kiếp.
Nguyện con hầu Ngài trong khoảng thời gian ấy,
Gìn giữ không quên những giáo pháp Ngài truyền.
Sau khi Đức Phật đi vào cõi Niết bàn,
Giáo Pháp của Ngài sẽ trụ ở Lạc Bang,
Trong khoảng thời gian sáu triệu ba trăm kiếp.
Nguyện con không rời Đại Thế Chí Bồ‐tát,
Khi Đại Thế Chí Bồ‐tát vừa thành Phật,
Pháp hiệu của Ngài sẽ được đổi thành là:
Kiên Đức Bảo Châu Diệu Tụ Vương Như Lai.
Tuổi thọ, giáo pháp tương tự Đức Quan Âm,
Nguyện con hầu Ngài trong khoảng thời gian ấy.
Rộng tu cúng dường và thọ, giữ giáo pháp.
Nguyện ngay khi con lìa bỏ đời sống này,
Nơi cõi Cực lạc hoặc các cõi Tịnh Độ,
Lập tức chứng thành Vô thượng Chánh Đẳng Giác,
Quả vị tương đồng như Đức Vô Lượng Quang.
Nghe danh hiệu con hữu tình đều giải thoát,
Con nguyện hóa thân vô số độ chúng sanh,
Làm lợi vô biên sinh loài không gắng sức.
Tuổi thọ, công đức, hạnh, trí và uy quang,
Đức Vô Lượng Quang Như Lai chẳng thể lường,
Hồng danh Pháp thân Vô Lượng Quang Như Lai,
Vô Lượng Thọ Phật, Thế Tôn Vô Lượng Trí,
Những ai trì tụng các danh hiệu của Ngài,
Trừ khi nghiệp quả trong quá khứ chín muồi,
Nước, lửa, chất độc, hung khí và La sát...
Tất cả khiếp sợ đều được Phật bảo hộ.
Nhờ sự đảnh lễ và niệm Hồng danh Ngài
Nguyện con thoát hết khổ đau và sợ hãi,
Xin Ngài ban phước kiết tường khắp nơi nơi.
Nương nhờ ân phước Ba thân Phật gia trì,
Nương nhờ Pháp Tánh bất biến và chân thật,
Nương nhờ oai lực bất thối của Tăng già,
Khiến lời cầu nguyện của con được thành tựu.
Đối trước Tam Bảo con chí thành đảnh lễ:
Nam mô Thường trụ Tam Bảo khắp mười phương!
* Nhất tâm trì tụng hồng danh Đức Phật A Di Đà:
ÔM A-MI ĐÊ-WA HRI (nhiều lần)
Mười phương các Đấng Lưỡng Túc Tôn, Bồ tát
Xin hãy xót thương chú ý lắng nghe con:
Các công đức lành đã tạo trong ba đời,
Con xin thành tâm dâng cúng lên Tam Bảo,
Nguyện cầu giáo pháp Phật Đà được lan rộng.
Tất cả công đức hồi hướng khắp chúng sanh,
Nguyện họ chứng đắc quả vị Phật Toàn Giác,
Gom góp hết thảy những căn lành sẵn có,
Nguyện con chứng ngộ thành thục Tự Tánh Tâm,
Thanh tịnh hai chướng, tích tụ hai tư lương.
Nguyện thân không bệnh, trường thọ, trí huệ tăng,
Nguyện con đời này nhanh chứng lên Thập Địa,
Ngay khi tâm con rời bỏ xác thân này,
Nguyện con vãng sanh về Cực Lạc Tịnh Độ.
Về cõi này rồi hóa sanh trong hoa sen,
Nguyện chứng Phật quả nhờ thân vi diệu ấy.
Bồ‐đề Chánh giác một khi đà viên mãn,
Nguyện hiện vô số Hóa thân độ quần sanh.
Ê-ma-hô! Tuyệt vời thay!
Hy hữu Thế Tôn Vô Lượng Quang Như Lai,
Bên phải của Ngài là Đại Bi Quan Âm,
Bên trái là Đấng Đại Lực Đại Thế Chí,
Vô lượng chư Phật, Bồ‐tát nhiễu quanh Ngài.
Cõi nước đủ đầy vô lượng các hỷ lạc,
Có tên gọi là Cực Lạc Thanh Tịnh Bang,
Nguyện khi mạng chung, chúng con sanh về đó,
Không gặp chướng ngại, nhiễu phiền của Trung Ấm.
Từ sen sinh ra thấy được Đức Di Đà,
Với lòng thành kính con dâng lời khẩn nguyện,
Cúi xin Chư Phật, Bồ Tát khắp mười phương,
Ban phước chúng con vãng sanh không chướng ngại.
Tê-da-tha! Pen-cha đri-da a-wa bô-đa-na-dê sô-ha.
Nguyện đem công đức này,
Hướng về khắp tất cả,
Đệ tử và chúng sanh,
Đều trọn thành Phật đạo.
+ Chân ngôn đảnh lễ Tam Bảo:
Na-mô Măn-giu-sri-dê,
Na-mô Su-sri-dê,
Na-ma Út-ta-ma-sri-dê sô-ha.
+ Kinh dạy rằng: Lễ ba lễ và đọc bài Thần chú này, công đức sẽ nhân lên 100 ngàn lần. Tốt nhất nên lễ 100 lễ, tốt nhì tùy theo sức khỏe và khả năng, tối thiểu cũng nên được 7 lễ. Hơn nữa, hành giả thật siêng nên lễ lạy suốt đời không dừng bỏ, hành giả bậc trung lễ lạy không dừng bỏ trong mấy tháng hoặc mấy năm, hành giả bậc thấp tùy thời gian rảnh, mặt hướng về phương Tây Cực Lạc Tịnh Độ, hết lòng sùng kính, chắp tay, chuyên tâm nhớ niệm Hồng danh Vô Lượng Quang Phật. Như thế, tất cả những chướng ngại về thọ mạng sẽ được tiêu trừ, tương lai mệnh chung sẽ sanh về Cực Lạc Tịnh Độ.
Bài nguyện này tổng hợp ý từ các Bộ Kinh như: Phật thuyết A Di Đà Phật Kinh, Trang Nghiêm Kinh, Bạch Liên Hoa A Di Đà Cổ Âm Kinh... do ta, Tỳ kheo Ra Ga A Sya (Karma Chagme- Vô Tham Tôn Giả) vì muốn tất cả hữu tình chúng sanh đều được vãng sanh về cõi Cực Lạc Tây Phương mà viết ra.
DELOG – Hành trình tới các cõi bên kia cái chế
3. NÚI POTALA CÕI THUẦN TỊNH CỦA ĐỨC AVALOKITESHVARA
Kính lễ Đấng Bi Mẫn Siêu Việt, Avalokiteshvara, kho tàng vĩ đại của lòng bi mẫn.
Mặc dù cô gái này không thể nói như cô nên nói, tôi có nên thuật lại cho các bạn một tường thuật ngắn về Núi Potala hay không?
Cõi được gọi là Núi Potala nằm ở phía đông nam của Bodh Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng) ở Ấn Độ. Toàn thể vùng này phủ đầy những bông hoa tươi đẹp, và những cây như ý bằng châu báu phát triển ở đó. Những con suối sủi bọt cam lồ, và những đàn chim véo von tuyên thuyết Giáo Pháp. Mọi người đều sinh ra từ những đóa hoa và không có thay đổi thời tiết từ hạ sang đông. Ngay cả ý niệm về đau khổ cũng không có, trong khi kinh nghiệm về hỉ lạc và hạnh phúc thì vô biên.
Các Bồ Tát nam và nữ đã đạt một cấp độ chứng ngộ vững chắc, vui hưởng thực phẩm tuyệt vời một trăm vị, mặc y phục bằng vải sắc-cầu vồng, và uống cam lồ của các vị trời. Các ngài đã thoát khỏi sinh, lão, bệnh, tử, phụng sự các Đức Tathagata [1]và nghe Giáo Pháp từ chính Đấng Bi Mẫn Siêu Việt. Dòng tâm thức các ngài được giải thoát nhờ lòng bi mẫn vô biên của các ngài. Các ngài tắm trong những cái hồ đầy nước có tám phẩm tính. [2]
Ở đây tôi tìm thấy một tòa lâu đài đẹp tuyệt vời, tự-xuất hiện và hình thành tự nhiên, tường làm bằng năm lớp [3] riêng biệt. Nó trong mờ cả trong lẫn ngoài, được nâng đỡ bằng một ngàn cây cột pha lê và được tô điểm bởi những đà mái bằng châu báu. Nó được trang hoàng với những cái rèm ánh sáng cầu vồng, như thể được thắp sáng bởi một ngàn mặt trời và mặt trăng. Những đà tường làm bằng lam ngọc, đầu tường bằng san hô, những bậc thang bằng ngọc trai. Vây quanh dinh thự làm bằng năm loại châu báu này là một bậc thềm thấp bằng hồng ngọc, trên đó nhiều ngàn thiên nữ cúng dường nhảy múa vui đùa. Phía trên là một mái vòm bằng vàng, với những chiếc dù bằng lụa trắng và một Pháp luân có nai quỳ gối và lắng nghe ở hai bên. [4] Ở bốn bên của lâu đài là những miệng máng xối có đầu makara, [5] những sợi dây bằng ngọc trai treo từ miệng chúng với những cái chuông và chuông chùm nhỏ xíu phát ra những âm thanh thú vị.
Bốn phía của tòa lâu đài được trang trí bằng bốn cửa. Tôi đi vào cửa phía tây và gặp một thiên nữ giác tánh nguyên sơ. Đi sâu vào trong, tôi thấy vô số của cải và nhữngï niềm vui dạt dào, như thể đang ở trong một ảo giác. Vô số vật cúng dường được sắp xếp, thậm chí còn vượt hơn cả của cải của những đại thiên trong cõi trời Nirmanarati. [6]
Ở giữa những thứ này, trên một hoa sen trắng trăm ngàn cánh nở lớn, là Đức Avalokiteshvara cao quý, bậc điều phục chúng sinh bi mẫn tối thượng, với vẻ thanh xuân của một thiếu niên mười sáu tuổi. Thân Ngài có sắc trắng chói lọi, một mặt và bốn tay. Đôi bàn tay thứ nhất chắp lại nơi tim và cầm một viên ngọc, bàn tay phải của đôi tay thứ hai cầm một chuỗi hạt pha lê và bàn tay trái cầm một cành huệ trắng rực rỡ cạnh tai Ngài. Tôi bị thu hút bởi những tướng chính và phụ trên thân tướng toàn hảo của Ngài. [7] Ngài mặc y phục bằng lụa và những vật trang sức bằøng những châu báu khác nhau, trên vai choàng bộ da của một linh dương krisnasaranga [8] trùm qua phía trái ngực. Ngài ngồi chéo chân trong tư thế kim cương, [9] thân Ngài sáng chói lọi với vô số tia sáng. Trong tâm tôi, Ngài không khác với ngài Drimed Khakyod Wangpo, Lạt ma gốc của tôi.
Bên phải Đức Avalokiteshvara là Manidhara, Bậc Hộ trì Bảo Ngọc, trưởng tử siêu phàm của Ngài; bên trái là con gái Ngài, Vidyadhari, Bậc Hộ trì Thần chú của Giác tánh; phía sau Ngài là Đấng bảo trợ, Đức Phật Amitabha; và trước mặt Ngài là vị phối ngẫu siêu phàm của Ngài, Đức Shadakshari, Thiên nữ của Thần chú Sáu-Âm. Đoàn tùy tùng của Ngài chỉ gồm những bậc trưởng thượng tâm linh là những vị đã đạt những cấp độ chứng ngộ cao quý, tập hội không thể nghĩ bàn chư Phật và Bồ Tát.
Đức Tara, bạn đồng hành của tôi nói:
Cung điện này là một xứ sở được tô điểm bằng hoa.
Cõi giới này là một lâu đài quý báu rộng lớn vô biên.
Bổn tôn này là Bổn tôn của lòng bi mẫn của tất cả các Đấng Chiến Thắng.
Quyến thuộc này là một đoàn tùy tùng gồm các Bồ tát nam và nữ.
Con, cô gái may mắn, nên lễ lạy và cúng dường với lòng sùng mộ.
Hãy tụng đọc những lời nguyện ước để có một liên hệ nghiệp tích cực.
Lòng tôi tràn ngập sự kính sợ và hoan hỉ, và bắt đầu lễ lạy, khẩn cầu. Tôi nói:
Đức Avalokiteshvara Bi Mẫn,
hóa hiện những tia bi mẫn khắp mười phương,
con đảnh lễ Ngài, đấng bất khả phân với Lạt ma siêu phàm của con, và bất khả phân với quyến thuộc của Ngài.
Con cúng dường tập hợp những vật cúng dường vô song, thực có và tưởng tượng.
Với sự hối tiếc chân thành, con sám hối những ác hạnh và vi phạm giới nguyện của con,
và hứa không làm những điều đó trong tương lai.
Con tùy hỉ năng lực đức hạnh vô tận.
Con khẩn cầu Ngài trụ thế mãi mãi, không thị nhập Niết Bàn,
và liên tục chuyển Pháp luân rộng lớn, sâu xa. [10]
Con hồi hướng công đức tích tập được để tất cả chúng sinh trong sáu loài, vô biên như không gian,
có thể nhanh chóng đạt được trạng thái của Ngài, Ôi đấng cao quý siêu phàm.
Con khẩn cầu Ngài, trong mọi cuộc đời, xin ban cho con ân phước siêu việt nhất
không bao giờ xa lìa Ngài, Đấng Bi Mẫn Siêu Phàm.
Khi tôi khẩn cầu như thế trong trái tim tôi, Đức Bi Mẫn cao quý mỉm cười, khuôn mặt rạng rỡ, và tôi nghe những lời sau đây, trong những âm thanh du dương, dịu dàng, Pháp âm của Ngài rung động tự nhiên và vang rền tới toàn thể mạn đà la của đoàn tùy tùng:
Om mani padme hung hri.
Lạt ma của ta chính là lòng bi mẫn siêu phàm.
Ta chính là Bổn tôn hiện thân tự nhiên của lòng bi mẫn của tất cả các Đấng Chiến Thắng.
Hoạt động giác ngộ của ta trải rộng tới mọi chúng sinh, đối tượng của lòng bi mẫn,
và với sự xót thương, ta đặc biệt chăm sóc mọi chúng sinh trong cảnh khốn cùng.
Con, con gái ta, cũng có tâm hồn bi mẫn như thế,
giờ đây may mắn được gặp ta trong cõi này.
Tất cả những ai lễ lạy và tôn kính ta với niềm tin và lòng sùng mộ
Ta sẽ đưa dẫn tới Cõi Cực Lạc, nhờ nguyện lực trước đây của ta.
Nhờ năng lực lòng bi mẫn của ta, chúng sinh vô biên như không gian trong sáu trạng thái,
và đặc biệt những người ở Tây Tạng, Xứ Tuyết,
có thể tạo mối liên hệ với ta nhờ nghe danh hiệu và lễ lạy ta với đức tin,
và ta sẽ chăm sóc họ với lòng bi mẫn, bởi ta được gọi là Mahakarunika, Đấng Bi Mẫn Siêu Phàm.
Đặc biệt những ai không có khả năng tự vệ, suốt sáu thời ngày và đêm [11]
ta chăm sóc với lòng bi mẫn, đôi mắt giác tánh nguyên sơ của ta không bị ngăn che.
Ta thấu hiểu tất cả họ và ban tặng những con người nhỏ bé này sự nương tựa cuối cùng từ khổ đau của họ,
bởi ta được gọi là Avalokita, Đấng có Đôi Mắt Thấu suốt.
Thiền định về thân tướng của ta, niệm danh hiệu ta, trì tụng tâm chú của ta,
và cử hành nghi lễ chay của ta – những ai nỗ lực trong những thực hành này,
mặc dù có thể họ đã phạm một hành vi cực kỳ tàn ác đưa tới quả báo lập tức vào lúc chết,
ta sẽ dẫn họ tới Cõi Cực Lạc, bởi ta được gọi là Lokeshvara, Đấng của Thế Giới.
Bởi nguyện lực kiên quyết từ lâu xa của ta là đưa dẫn mà không dụng công
tất cả chúng sinh nào nhìn thấy ta, nghe ta nói, tưởng nhớ tới ta, hay tiếp xúc với ta
tới những hàng thính chúng của Đức Phật Amitabha trong Cõi Cực Lạc,
các Đấng Chiến Thắng đã tuyên xưng ta là Khorwa Rangdrol, Sự Giải thoát Tự Nhiên khỏi Luân Hồi Sinh Tử.
Than ôi! Trong những ngày cuối cùng này của Giáo Pháp của Đấng Chiến Thắng [12]
mặc dù ta chăm sóc chúng sinh với lòng bi mẫn rộng lớn hơn bao giờ hết,
nhưng như thể giây buộc chiếc móc bi mẫn của ta đã đứt.
Bởi năng lực ngoan cường của ác hạnh, nhiều người đã mất niềm tin và lòng sùng mộ.
Dường như họ vuột khỏi cái nhìn bi mẫn của ta.
Giống như ánh sáng mặt trời không lọt vào hang quay về hướng bắc,
họ bị đoạt mất sự hiện diện của ta, lòng bi mẫn hiển nhiên của tất cả các Đấng Chiến Thắng.
Trong khi lòng bi mẫn của ta thì không định kiến hay thiên vị,
nhưng bởi tập khí ương ngạnh của họ, những niệm tưởng không thích đáng tự bản chất,
chúng sinh cứ mãi lang thang trong vực sâu tăm tối của những con đường ti tiện và những trạng thái tái sinh thấp kém.
Nhận ra rằng tình huống của họ do họ tự tạo, lỗi lầm nằm nơi chính họ,
trong sự chăm sóc của ta, ta tìm thấy những người bơ vơ thực sự xứng đáng với lòng bi mẫn của ta.
Thời đại trở nên tồi tệ khi bệnh tật, vũ khí, và nạn đói hành hạ họ;
thọ mạng của họ ngắn lại bởi ma quân bất thần mang họ đi;
ngôn ngữ của họ thoái hóa bởi họ trở nên lanh lợi trong việc lọc lừa người khác;
thực phẩm của họ hư hỏng bởi họ dấn mình vào những cách sinh nhai tà vạy;
cái thấy của họ suy đồi bởi họ lao mình xuống vực thẳm của học thuyết vĩnh cửu và hư vô. [13]
Mặc dù bàn tay Đấng Chiến Thắng muốn ngăn họ lại, nhưng không dừng họ lại được.
Chắc chắn là họ phải chịu đau khổ trong sự thèm khát, có phải thế không?
Họ thật đáng thương với ác nghiệp của họ, khi theo đuổi những gì họ cho là lạc thú.
Giờ đây các con, Ôi dân chúng Xứ Tuyết, những kẻ tự thiêu đốt thịt da mình,
bởi nỗi khổ của các con chỉ do một mình các con sắp đặt, chỉ một mình các con bảo đảm, và chỉ hành hạ một mình các con,
hãy nhớ lại lỗi lầm che dấu to lớn đã phạm trong quá khứ, bởi nghiệp và những cảm xúc phiền não.
Đã tới lúc để ban cho các con vài lời khuyên.
Chỉ một lần duy nhất trong một quãng thời gian rất dài, các con mới có được nơi nương tựa này với sự tự do và cơ hội. [14]
Bây giờ là lúc các con có thể gặp được các thiện tri thức và thực hành Phật Pháp linh thánh,
và những hoàn cảnh thuận lợi cùng tụ hội, hãy sử dụng phần đời còn lại của các con trong chính con đường này.
Nếu ngay lúc này các con đầm mình trong vũng lầy của nghiệp hay những cảm xúc phiền não,
các con sẽ gây nên đau khổ trong tương lai ở những trạng thái tái sinh thấp kém
là nơi khó tìm ra ngay cả cơ hội để nghe danh hiệu của Tam Bảo.
Những thuộc hạ khiếp sợ của Yama, Thần Chết, sẽ tới lúc nào các con không biết.
Một khi tâm thức các con đã có được sự hỗ trợ này,
hãy thận trọng thực hành cốt tủy của Thánh Pháp.
Phật Pháp không hiện hữu chỉ vì lợi ích bề ngoài nhằm bảo vệ các con khỏi nỗi sợ và đáp ứng mọi ước muốn của các con;
nó không đơn thuần là sự đạo đức giả như thế, vì vậy hãy nhìn vào tâm vô đạo đức của các con.
Giờ đây, khi các con đã sở hữu một nền tảng cho sự tự do trong một cõi giới đức hạnh,
các con đã có những hột giống của lương tri đạo đức không lầm lạc để tích tập đức hạnh.
Hãy sử dụng ba điều – chánh niệm, tỉnh giác, và chú tâm – là nước và phân bón của đức hạnh,
thiền định về lẽ vô thường, nó làm tăng trưởng đức hạnh.
Hãy bắt đầu vun trồng đức hạnh với lòng sùng mộ và nỗ lực liên tục.
Niềm tin và sự trông cậy là gốc rễ của đức hạnh.
Lòng vị tha bi mẫn là thân của đức hạnh.
Bồ Đề tâm ước nguyện và Bồ Đề tâm thực hành là cốt lõi của đức hạnh.
Sáu toàn thiện (sáu ba la mật) là những nhánh và cành [15] của đức hạnh.
Ý hướng, hồi hướng đức hạnh của riêng con, và hoan hỉ trước đức hạnh của người khác là lá của đức hạnh.
Bốn phương pháp ảnh hưởng tốt đẹp tới người khác là hoa của đức hạnh. [16]
Và tánh Không và lòng bi mẫn siêu phàm là trái của đức hạnh.
Nếu cây đức hạnh cao quý được vun trồng theo cách này,
nó sẽ đem lại những trái quả nuôi dưỡng các con và những người khác, bây giờ và mãi mãi;
đó là tính chất không thể sai lạc của sự tương thuộc của các pháp.
Không có phương tiện bảo vệ giống cây đức hạnh tích tập cao quý,
những đức hạnh này sẽ liên tục bị hư hỏng trong bardo.
Ngu xuẩn phủ nhận nhân và quả, từ bỏ Giáo Pháp, và làm hư hỏng giới luật tâm linh của các con là trận sương giá dữ dội giết chết đức hạnh.
Gây gổ, sân hận, thù hằn, và ganh tị
là trận mưa đá hung tợn làm hư thối trái quả của đức hạnh.
Tham luyến thanh danh và lợi dưỡng, và liên tục bị mắc bẫy trong đời sống của gia chủ
là những con sâu đục khoét các con tự bên trong, cướp đoạt gốc rễ đức hạnh của các con.
Báng bổ hay sỉ vả các Lạt ma và Bồ Tát
bởi sự tự phụ, kiêu căng, và ngạo mạn thái quá
là một cơn khô hạn dữ dội làm hư hỏng những đức hạnh tích tập được của các con.
Hậu quả không tránh khỏi của tất cả những điều này là sự phát triển mạnh mẽ nỗi khổ;
nó là kẻ thù vĩ đại của tài sản đức hạnh mà các con đã thâu thập.
Các pháp đối trị cho những điều này là ba loại trí tuệ siêu việt, [17]
niềm tin kiên định vào bốn phẩm tính, [18]
sự hoan hỉ trước thành công của người khác,
quán chiếu sâu xa về lẽ vô thường, nhàm chán vòng luân hồi sinh tử, và sự từ bỏ,
chế ngự tánh kiêu ngạo, và tu tập trong một quan điểm thiêng liêng không thành kiến,
Chớ bao giờ rời xa những lá chắn và sự bảo vệ này.
Ban đầu, được thúc đẩy bởi niềm tin, lòng sùng mộ, và lòng bi mẫn.
Hãy giữ các giới luật tạm thời của những thệ nguyện tám nhánh. [19]
Hãy nhất tâm từ bỏ những phóng dật thuộc ba năng lực [20] của các con.
Bất kỳ những gì xuất hiện đều là sắc tướng của Avalokiteshvara, nơi Ngài tất cả các Đấng Chiến Thắng hợp nhất;
âm thanh nghe được là âm thanh của thần chú tinh túy sáu-âm;
sự vắng mặt bất kỳ cấu trúc nhận thức nền tảng nào là phạm vi hoạt động không tạo tác của Bồ Đề tâm.
Đừng bao giờ lìa xa ba điểm trọng yếu này;
hãy liên tục trì tụng lớn tiếng thần chú sáu-âm – chỉ mình điều đó là đủ.
Hãy cùng nhau thâu thập đức hạnh mà các con và những người khác tích tập trong ba thời,
và sử dụng tất cả chúng như một nguyên nhân nhờ đó tất cả chúng sinh nhanh chóng thành tựu Phật Quả,
hãy theo gương các Đấng Chiến Thắng và những bậc kế thừa của các Ngài với những lời cầu nguyện hồi hướng và ước nguyện;
chủ đề hợp nhất này giống như một dây cương dẫn dắt một con ngựa tốt.
Nếu các con nỗ lực liên tục trong bốn loại thực hành đức hạnh,
vào giờ chết, ta sẽ đưa dẫn các con trong một trạng thái cực kỳ hoan hỉ
tới cõi Cực Lạc thuần tịnh.
Hãy nói với dân chúng Tây Tạng rằng chớ có nghi ngờ điều này.
Đừng do dự! Đây là lời khuyên thương yêu và chân thành của ta.
Đừng bám chấp vào đời này; nó giống như một giấc mộng dễ chịu.
Đừng bị cám dỗ bởi cái xấu; điều ác hại mà các con có thể tự gây cho mình không có lúc chấm dứt.
Đừng củng cố tám ảnh hưởng thế tục; [21] các con sẽ chỉ lừa gạt chính mình.
Đừng tạo lập mọi thứ kế hoạch; nhớ rằng các con có thể chết ngày mai.
Hãy cần mẫn hiến dâng năng lực ba phần [22] cho Thánh Pháp.
Đây là sự tốt lành vĩ đại nhất mà toàn thể dân chúng Tây Tạng tự họ có thể làm.
Nếu các con có một thái độ thiện lành toàn hảo như thế,
hãy liên tục trì tụng thần chú mani và tare
và khuyến khích mọi người thực hành đức hạnh trong bất kỳ cách nào các con có thể.
Về sau, các con có thể đi tới mọi cõi thuần tịnh mà các con ước nguyện.
Con không xa lìa ta, con gái, vì thế hãy hoan hỉ.
Nghe những lời này, tôi đã trải nghiệm một niềm tin siêu phàm, hỉ lạc, và để khẩn cầu Đức Bi mẫn ban phước, tôi đọc bài kệ sau:
Đức Avalokiteshvara, bất kỳ sắc tướng nào của Ngài,
bất kỳ quyến thuộc, thọ mạng, và cõi thuần tịnh nào của Ngài,
và bất kỳ phẩm tính cao quý nào của Ngài,
cầu mong con và những người khác hoàn toàn giống như Ngài. [23]
Chắp hai bàn tay lại, tôi hỏi rằng sau này tôi có được gặp lại Ngài nhiều lần hay không. Đấng cao quý trả lời:
Những ai gìn giữ một thái độ quan tâm với lòng sùng mộ,
ta sẽ hiện diện trước mặt họ;
ta ban cho họ lễ quán đảnh và các ân phước.
Chớ có hoài nghi điều này, Ôi người nữ của Tara.
Tôi cảm thấy một sự xác tín lớn lao chưa từng có về tính chất chân thật của những lời này. Tôi nhiễãu quanh Đấng Chiến Thắng ba lần, đi xung quanh sân trong tòa lâu đài nguy nga của Ngài trong khi đọc bài kệ sau:
Trong mọi cuộc đời, cầu mong con không bao giờ xa lìa Lạt ma, Pháp vương của các đấng cao quý.
Cầu mong con vui hưởng sự tráng lệ của Pháp,
hoàn thiện các phẩm tính của con đường và cấp độ.
Cầu mong con mau chóng đạt được trạng thái của Đức Avalokiteshvara. [24]
Ở đây tôi sẽ đưa ra một ít luận giảng dựa trên Kinh điển để làm tăng thêm vẻ đáng tin cậy cho những điều tôi vừa thuật lại.
Đức Avalokiteshvara cao quý và tôn kính biểu lộ lòng bi mẫn của tất cả các Đấng Chiến Thắng. Hằng hà sa số kiếp về trước, chính trong thế giới này, trong một đại kiếp tên là Graha có một vị đại đế có danh hiệu là Aranemi, ông có một ngàn người con trai. Người con trai cả tên là Animisha, là người đầu tiên phát khởi thái độ giác ngộ Bồ Đề tâm trước sự hiện diện của Đức Như Lai Ratnagarbha (Bảo Tạng Như Lai).
Có một lần, ngài nghĩ tưởng tới tất cả chúng sinh trong sáu trạng thái tái sinh với lòng bi mẫn, đặc biệt ngài đã nguyện: “Cầu mong chúng sinh không được giúp đỡ, bị lâm vào cảnh khốân khổ, dính mắc trong nhân quả, sẽ lập tức thoát khỏi đau khổ nhờ nhớ tưởng tới tôi hay niệm danh hiệu của tôi. Cầu mong tôi không bao giờ đạt được sự toàn giác cho tới khi tôi chấm dứt mọi nỗi khổ đau của chúng sinh.”
Khi Ngài đã viên mãn hoạt động sâu xa và rộng lớn của Ngài, Ngài mang danh hiệu Avalokiteshvara, một Bồ Tát vĩ đại và dũng cảm. Có tiên tri rằng trong tương lai, trong cõi Sukhavati-padmapradesha, [25] với tư cách là nhiếp chính của Đấng Chiến Thắng siêu phàm Amitabha (Đức Phật A Di Đà), Ngài sẽ giác ngộ là Đức Như Lai Rashmisamudra-shrikutaraja và thành tựu lợi ích to lớn hơn cho chúng sinh. Phù hợp với lời nguyện được tiên tri này, Ngài làm việc thậm chí còn mạnh mẽ hơn vì lợi ích của chúng sinh trong sáu loài nói chung và đặc biệt là chúng sinh ở Xứ Tuyết Tây Tạng. Như Kinh Hoa Sen Trắng của Thánh Pháp nói: [26]
Bồ Tát Akshayamati (Bồ Tát Vô Tận Ý) kính bạch Đấng Chiến Thắng, Đức Phật Toàn Giác, Đấng Thế Tôn, hỏi rằng: “Đức Thế Tôn, vì sao vị ấy được gọi là Avalokiteshvara?”
Đức Thế Tôn trả lời: “Chỉ nhờ nghe danh hiệu của Đức Avalokiteshvara mà hàng tỉ tỉ chúng sinh đang phải chịu đựng đau khổ sẽ hoàn toàn thoát khỏi những gánh nặng đau khổ không thể chịu đựng nổi. Bất kỳ khi nào chúng sinh bị đe dọa bởi lửa, nước, thuốc độc, vũ khí, thú dữ, những yêu tinh dạ xoa ác hại, quỷ ma, sự tù đày, trộm cướp v.v.. họ sẽ được cứu thoát. Họ sẽ thoát khỏi năm độc của những cảm xúc phiền não và thoát khỏi mọi phương cách hãm hại. Nếu họ chỉ lễ lạy Ngài với đức tin trọn vẹn, mọi mục đích của họ không loại trừ điều nào sẽ được thành tựu tự nhiên.”
Kinh Quý báu về Dãy Bình (Kinh Đại thừa Trang Nghiêm Bảo Vương) nói: [27]
“Bồ Tát Nivaranavishkambhin (Trừ Cái Chướng) hỏi rằng vẻ vô cùng chói lọi của những năng lực kỳ diệu phi thường của Bồ tát của lòng bi mẫn siêu phàm thì giống điều gì.
Từ kim khẩu của Đức Như Lai phát ra những lời này: “Đức bi mẫn Avalokiteshvara đem chúng sinh trong các cõi địa ngục tới chỗ thuần thục tâm linh viên mãn. Khi đã mang hình tướng của một vị đại đế an trụ hoàn toàn thoải mái tại một khu rừng an lạc trong kinh thành của các ngạ quỷ, Ngài mang lại một sự mát mẻ dễ chịu cho những người bị lửa nóng hành hạ và biến hầm lửa thành những ao sen.
“Bằng cách tung rải và phân bổ lính canh trong các địa ngục, Ngài làm cho Thần Chết, Dharmaraja, lễ lạy và liên tục tán thán ngài. Ngài cũng làm dịu mát kinh thành của các ngạ quỷ và làm yên dịu những đám mây mưa đá kim cương.
“Hơn nữa, những quân lính bảo vệ kho tàng, [28] nhận thấy những thái độ thô lậu của họ được thuần hóa và bắt đầu phát khởi Bồ Đề tâm. Mười con sông lớn chảy ra từ mười ngón tay và bốn mươi con sông lớn khác chảy từ mười ngón chân Ngài. Những hạt suơng chảy ra từ những lỗ chân lông của đấng có một trái tim thương yêu, nhỏ xuống các ngạ quỷ. Chỉ nhờ nếm những giọt sương này mà cổ họng của họ được nghỉ ngơi, thân họ trở nên mạnh mẽ và toàn hảo, và họ được thỏa mãn với thực phẩm hàng trăm vị của các vị trời. Đức hạnh của những hành giả của Pháp đang cư ngụ trên trái đất khiến cho các ngạ quỷ hết sức hỉ lạc trong Giáo Pháp và Pháp âm Đại thừa xuất hiện trong cõi giới của họ. Vào lúc này, hai mươi ngọn núi sừng sững của quan điểm hư vô bị chày kim cương giác tánh nguyên sơ đập tan tành, rồi những ngạ quỷ này được tái sinh trong Cõi Cực Lạc, ở đó họ trở thành các Bồ Tát phù hợp với ước nguyện của họ và được làm cho thuần thục.
“Theo cách này, mỗi ngày Ngài đưa hàng tỉ không thể tính đếm chúng sinh tới sự viên mãn. Đó là sự xác quyết của Đức Avalokiteshvara mà ngay cả các Đức Như Lai vẫn còn thiếu.”
Vì lợi ích của những người được thuần phục, tùy theo tánh khí, năng lực, và động lực của riêng họ, trong sáu thời ngày và đêm, Đức Avalokiteshvara hóa hiện làm chư Phật, Bồ Tát, Thanh Văn (shravaka), Phật Độc Giác (pratyekabuddha), các vị trời, các nhạc sĩ cõi trời, các yêu tinh dạ xoa (yaksha), Ishvara (Tự tại thiên), Maheshvara (Đại Tự tại thiên), các vị đại đế, những quỷ ma khát máu, chúng sinh có thân tướng siêu phàm, những người Bà la môn, và Đức Vajrapani (Kim Cương Thủ) và giảng dạy Pháp. [29]
Hơn nữa, thậm chí chỉ gọi tên Ngài một lần thì giốõng như niệm danh hiệu chư Phật nhiều lần như cát sông Hằng. Tương tự như vậy, tô tạo một pho tượng Đức Avalokiteshvara thì ngang bằng việc tô tạo những hình tượng của tất cả chư Phật và Bồ Tát đã xuất hiện, đang, và sẽ xuất hiện trong ba thời. Thiền định trong một ngày về thân tướng của Đức cao quý Avalokiteshvara có công đức to lớn hơn việc thực hành sáu toàn thiện (sáu ba la mật) trong một trăm năm. Đây là một vài trong những phẩm tính không thể nghĩ bàn của Bồ Tát.
Về những lợi ích và thuận lợi của việc trì tụng dharani [30] của Đức Avalokiteshvara mười-một mặt (Quán Thế Âm Thập nhất diện), ta được biết là cuối cùng thì hành giả sẽ hoàn toàn làm chủ bốn phẩm tính tốt: Vào lúc chết, hành giả sẽ nhìn thấy các Đức Như Lai; hành giả sẽ không tái sinh trong các cõi thấp; sẽ không gặp giờ chết dữ; và sau khi chết ở thế giới này, hành giả sẽ được tái sinh trong Cõi Cực Lạc.
Nhờ sáu-âm của thần chú mani, tất cả các Kinh điển của Phật Pháp được đúc kết; mọi bệnh tật, thế lực xấu, và những chướng ngại đều bị xua tan; hành giả đạt được vô số phẩm tính tích cực như sự trường thọ và thoát khỏi bệnh tật; nỗi khổ của sáu loài chúng sinh được làm yên dịu; sáu toàn thiện (sáu ba la mật) được hoàn tất; và các kaya (thân) của sáu Đấng Chiến Thắng được thành tựu. Tóm lại, chỉ cần nhìn, nghe, nhớ tưởng, hay xúc chạm sáu âm này là đã gieo trồng hạt giống của sự giác ngộ. Mọi che chướng đều được nhanh chóng tịnh hóa và hành giả tránh được sự tái sinh trong các cõi thấp. Sau khi trải qua một loạt những tái sinh cao quý trong các cõi cao, hành giả nhanh chóng đạt được giác ngộ viên mãn.
Chỉ cử hành nghi thức chay của Đấng Bi Mẫn Siêu Phàm một lần, hành giả giải trừ được bốn mươi ngàn kiếp lang thang trong luân hồi sinh tử và tịnh hóa tất cả các nghiệp và các che chướng do những hành động như năm hành vi đưa tới quả báo trực tiếp. [31] Khi hoàn thiện mọi phẩm tính tích cực của sáu toàn thiện, hành giả an trú trong cấp độ của một Bồ Tát bất thối chuyển. Những người nữ cũng thế, những ai cử hành dù chỉ một lần duy nhất nghi thức chay này, khi chết sẽ được tái sinh như những Bồ Tát chứng ngộ cao cấp và quay lưng lại vòng luân hồi sinh tử. Sự thực hành của thân hành giả trong nghi thức chay sẽ tịnh hóa các che chướng thuộc thân, và hành giả không bị tái sinh làm một ngạ quỷ. Việc tự chế sự nói năng bằng lời nguyện giữ yên lặng tịnh hóa các che chướng thuộc ngữ, và hành giả sẽ không bị tái sinh làm một súc sinh. Việc trì tụng đà ra ni trong tâm tịnh hóa các che chướng thuộc về tâm và đóng lại cánh cửa dẫãn tới tái sinh trong các cõi địa ngục. Như vậy, khi sử dụng ba phương pháp giữ gìn thân, ngữ và tâm trong sự tỉnh giác sống động, hành giả nhanh chóng thoát khỏi luân hồi.
Phục vụ ngũ cốc nóng cho các hành giả ăn điểm tâm sáng theo nghi lễ thì tương đương với việc phục vụ một Bồ Tát đệ bát địa; phục vụ một người chỉ thọ xuất gia tạm thời thì tương đương với việc phụng sự một vị A La Hán (arhat). [32]
Một người bảo trợ cho một nghi thức chay như thế sẽ không bị tái sinh trong ba cõi thấp, mà sẽ được phú cho thái độ giác ngộ của Bồ đề tâm, được hưởng một sự may mắn vô tận trong mọi tái sinh, hoàn thiện phẩm tính của hạnh bố thí, và nhanh chóng đạt được giác ngộ.
Bởi những ích lợi này và những lợi lạc không thể nghĩ bàn khác, trong việc tìm kiếm đức hạnh hoàn toàn thanh tịnh, được thúc đẩy bởi lòng vị tha, niềm tin, và lòng sùng mộ mãnh liệt và quả quyết, các bạn hãy hoan hỉ và nỗ lực ngày đêm không xao lãng.
Nếu các bạn sống những ngày còn lại của đời mình thật là ý nghĩa, các bạn sẽ bảo đảm được hạnh phúc của riêng mình và của những người khác. Sự thật này đã được xác nhận bởi ngữ chân thật của các Đấng Chiến Thắng, kinh nghiệm của tất cả những bậc trưởng thượng tâm linh vĩ đại, và sự kiểm chứng trực tiếp của giác tánh nội tại của chính hành giả, và những công đức của sự theo đuổi của các bạn với ý hướng sùng mộ.
Không khởi hành sai lạc, các bạn sẽ thoát khỏi nỗi sợ chết và sợ tái sinh; nếu không được như thế thì các bạn sẽ có sự xác tín để gặp gỡ cái chết một cách hoan hỉ; ít nhất, các bạn sẽ chết mà không sợ hãi hay hối tiếc.
Tôi chắp tay và cầu nguyện tận đáy lòng rằng tất cả các bạn sẽ có thể thực hiện được điều này. Tôi luôn thúc giục các bạn hãy giải thoát tâm thức mình khỏi sự do dự và giữ vững sự trung thực trong nỗ lực đầy ý nghĩa này.
May mắn, may mắn, may mắn!
( http://tuyenphap.com/delog-hanh-trin...het-2018#Muc_3 )
PHƯƠNG PHÁP THỰC HÀNH ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ
Khenpo Sodargye Rinpoche | Thanh Liên chuyển ngữ
http://www.dieungu.org/p13295a37414/...c-phat-a-di-da
Sanskrit "Namo Amitabha Buddha"
( http://toni-setiawan-lin.blogspot.co...1_archive.html )
------------
sanskrit forma: NAMO AMITABHAYA BUDDHAYA, vagy NAMO AMITAYUSYE BUDDHAYA.
The mantra of Ākāśagarbha is popularly used by Shingon Buddhists, practitioners of Tangmi, and by artists. It is believed to give rise to wisdom and creativity, and dispel ignorance.
Chinese: 南無 虚空藏 菩薩 nāmo xūkōngzàng púsà
Korean: Namu Heogongjang Bosal
Vietnamese: Nam mô Hư Không Tạng Bồ Tát
Translation: Homage to Ākāśagarbha Bodhisattva
Another mantra also exists for Ākāśagarbha Bodhisattva:
Sanskrit: namo ākāśagarbhāya oṃ ali kalmali mauli svāhā
Chinese: 南牟,阿迦捨,揭婆耶,唵,阿唎, 麼唎,慕唎,莎嚩訶!
Japanese pronunciation: nōbō akyasha kyarabaya om arikya mari bori sowaka
Translation: In the name of ākāśa-garbhāya Om Flower-Garland Lotus-Crown may it be accomplished
( https://en.wikipedia.org/wiki/%C4%80...1%C5%9Bagarbha )
Reconstructing Sanskrit Mantras from Chinese
Between 633-645 the famous pilgrim monk and scholar Xuanzang (602-664) 玄奘 visited around India, becoming an adept scholar and user of the Sanskrit language. He sincerely believed Sanskrit was the language of the gods, and readily pointed out “accented” forms of the language. The character é 訛 (meaning "accented") appears 93 times in his travel account the Great Tang Record of Travels to Western Lands 大唐西域記. He also describes the languages of India as follows:
《大唐西域記》卷2:「詳其文字,梵 所製,原始垂則,四十七言也。寓物 合成,隨事轉用。流演枝派,其源浸 ,因地隨人,微有改變,語其大較, 異本源。而中印度特為詳正,辭調和 雅,與天同音,氣韻清亮,為人軌則 隣境異國,習謬成訓,競趨澆俗,莫 淳風。」(CBETA, T51, no. 2087, p. 876, c9-14)
Their letters were created by Brahma and have been passed down from their beginnings until now, being forty-seven in number. They combine to form words according to the object [declension?] and shift in use according to the action [inflection?]. It has spread around and branched off, its source being deep and broad. Due to regions and peoples there have been some changes, though the words are generally not different from the original source. Central India is especially proper, their diction being elegant and the same sound as devas with a character sharp and clear, which is a model for people. The neighboring countries have become accustomed to erroneous pronunciation. In their chaotic ways and base nature they do not maintain genuineness.
Such a stated belief on Xuanzang's part however did not encourage many Chinese clerics and scribes to learn Sanskrit in China. While indeed in the time of Xuanzang it was possible to learn Sanskrit to some degree in China, this was not so widespread or alluring it seems throughout the Tang dynasty (618-907) when many texts containing mantras and dhāraṇīs were translated into Chinese from Sanskrit. Although the language might have been divine in Indian Buddhist minds, this did not merit precise use of it on the part of Chinese Buddhist clerics.
Sanskrit and Chinese are fundamentally very different languages. Unlike the former, the latter lacks gender, declension, conjugation and any number of other features common to most Indo-European languages. This was as much the case fifteen centuries ago as it is now.
Unlike the Tibetans, the Chinese never attempted to produce a standardized phonetic script to preserve Sanskrit pronunciation. While indeed some texts employed Indian siddhaṃ script for preserving the proper pronunciation of Sanskrit mantras, the general preference in both ancient and modern times has been to use Chinese characters (hanzi 漢字) for their phonetic values in transcribing mantras and dhāraṇīs.
This leads to distortion of the original sounds because even Middle Chinese (used in the Tang period) – to say nothing of modern Mandarin – was phonetically quite different from Sanskrit. Additionally, the pronunciation of characters differed from region to region (the speech of the capital was considered standard), and moreover changed throughout time. Such developments are actually reflected in the Japanese language. The Japanese imported Chinese characters over the course of several centuries and attempted to preserve the different pronunciations from each period. The system in Japan is as follows:
Go 吳 – Readings from before the 7th / 8th centuries. Possibly from the Korean peninsula or southern China. Often used in Buddhist texts.
Kan 漢 – Readings from the mid Tang Dynasty (618-907). Generally reflect the pronunciation of Chang'an 長安.
Tō 唐 – Readings from the Song Dynasty (960-1279). Often used in the Zen school. Here tō 唐 refers to China rather than the Tang Dynasty.
This is why a single Chinese loanword in Japan can have multiple pronunciations. For instance, 和尚 (preceptor or priest) is pronounced oshō in Zen, kashō in Tendai, and washō in Shingon. In modern Mandarin in would be héshàng.
The pronunciation of Chinese loanwords in Japanese is actually closer to Middle Chinese than modern Mandarin (this is not necessarily the case with other Chinese dialects however). For example, the character 食 (“to eat”) is pronounced shoku in Japanese and shí in Mandarin. The consonant ending from earlier Chinese has been preserved in the Japanese importation of Chinese. The Japanese language was thus better able to retain approximate pronunciations of Sanskrit mantras and dhāraṇīs. They also continued regularly using the phonetic siddhaṃ script, though not without problems.
For example, the mantra of the Heart Sūtra (gate gate pāragate pārasaṃgate bodhi svāhā) reads as follows in modern Mandarin:
羯諦羯諦 波羅羯諦 波羅僧羯諦 菩提薩婆訶
jiēdì jiēdì bōluó jiēdì bōluósēng jiēdì pútí sàpóhē
According to the Heart Sūtra as printed by Eihei-ji 永平寺 (Sōtō Zen) which I picked up at the Japanese temple in Bodhgaya last year, it reads as follows in the Sino-Japanese rendering:
gyātei gyātei hārā gyātei harasō gyātei bōjii sowakā
It is clear that the Japanese pronunciation, which has attempted to preserve Middle Chinese pronunciation, better reflects the Sanskrit.
This is why in my attempts to reconstruct certain mantras' pronunciations from Classical Chinese texts I have to consider the Sino-Japanese readings of characters. The modern Mandarin is just too far divorced from Middle Chinese, which was the form of Chinese used when the mantras in question were transliterated.
This is perhaps one of the most difficult parts of translating Classical Chinese Buddhist texts. In some cases there are siddhaṃ renderings which while often containing inaccuracies are still much easier to decode than ancient Chinese transliterations. Today we have the Chinese Buddhist canon digitalized. The software, like CBETA, fortunately now provides the Chinese and siddhaṃ as it appears in the printed Taishō canon with added romanization:
However, not all mantras will have the siddhaṃ in the primary text. In the absence of it, one has to attempt to reconstruct the Sanskrit using a variety of means.
Later Japanese texts will sometimes provide the siddhaṃ. For example, the Betsu Gyō 別行 (T2476) by Kanjo 寛助 (1057-1125) and the Gyōrin Shō 行林抄 (T2409) by Jōnen 靜然 (12th century). These texts will often, though not always, provide the Chinese characters and a siddhaṃ reading, though this is not always accurate and has to be assessed cautiously. For example, the latter text provides the following rendering for the mantra of Ākāśagarbha Bodhisattva:
namo akaśagarbhaya oṃ ari kamari mori svāhā
Based on the definitions of the terms used in the mantra, my understanding of this mantra would render it as follows:
namo ākāśagarbhāya oṃ ārya kamala mauli svāhā
Bear in mind the pronunciation of a mantra can differ also according to the lineage (in Japanese: ryū 流), so traditions will have their own inherited pronunciations.
These last few months I have attempted to reconstruct the mantras for planets as given by Yixing 一行 (684–727) in his works. These are found in only a few texts in the Chinese canon. Fortunately, the aforementioned Betsu Gyō does provide siddhaṃ for them, though it is still problematic. For instance, the following is given for the mantra of Mercury:
唵(引)母駄曩乞殺(二合)怛羅(二合)娑 (二合)弭曩(名位)契弩摩娑嚩(二合引)
oṃ vudha nakṣatra svāmina kheduma svāhā
Since the text expressly states this is the mantra for Mercury, we can assume Sanskrit terms for Mercury are likely to appear in the mantra. So, if we do a search for “Mercury” in the Monier-Williams Sanskrit Dictionary (http://www.sanskrit-lexicon.uni-koeln.de/mwquery/), we find similar sounding terms like budha and induja. It then makes logical sense to read the mantra as follows:
oṃ budha nakṣatra svāmin induja svāhā
Here kheduma / induja would be read in Sino-Japanese (again remember this is reflecting Middle Chinese pronunciation) as keidoma 契弩摩. I would assume this reflects either a mistransliteration of heard Sanskrit, or the speaker was in fact speaking an Indian dialect rather than standard Sanskrit (or it was not their native language and they mispronounced the word). In any case, it simply seems logical to read induja (“son of the moon”) here and not kheduma.
It should be clear then that East Asia – neither China nor Japan – did not attempt to preserve precise transliterations of mantras and dhāraṇīs. This is understandable given that intensive Sanskrit studies with complete grammars were seldom undertaken or available. This stands in contrast to SE Asia where the study of Pāḷi was diligently undertaken and preserved until the present day.
In the absence of any siddhaṃ for a mantra in transliterated Chinese, the scholar is left to start a long process of guesswork. In some cases, there are parts of the mantra which are identical to other parts of known mantras. However, this will not always be the case as I've discovered.
Sometimes it is quite easy to figure it out, such as this mantra for Indra:
唵因捺羅野娑嚩賀
oṃ indrāya svāhā
Sometimes much of the mantra is simply unclear despite some parts being discernible (the underlined words indicate a guess on my part as to the possible pronunciation):
曩謨羅怛曩(二合)怛羅(二合)夜野(一) 莫素摩薩羅嚩(二合)諾訖灑(二合)怛羅 (二合)邏(引)惹(上)野者者都地波阿(去 )路迦羅野怛儞也(意)他努摩底跛努摩 底薩賓(上)儞佉(上)細娑嚩賀
namo ratna trayāya namo suma sarva nakṣatra rājāya saḥ tu dhi pa āḥ lakaraya tad yathā dumati padumati sa piṅ ni kha se svāhā
Sometimes just looking at the Chinese I have been able to decode the Sanskrit without any major issues:
唵薩羅嚩諾剎怛羅(二合)三摩曳室里曳 扇底迦俱嚕娑嚩賀
oṃ sarva nakṣatra samaye śrī ye śāntika kru svāhā
As noted above, this is one of the most challenging aspects of translating Classical Chinese Buddhist texts. There are fortunately some scholarly volumes available today which provide decoded mantras, though again these have to be approached with caution. Nevertheless, as a translator when I have to translate these mantras I do appreciate seeing what others have produced. I am neither a Sanskritist nor Vajrayāna specialist, so I would hopefully have experts to defer to, though in many cases I am left to figure things out alone
( http://huayanzang.blogspot.com/2014/...tras-from.html )
012 命がけの雑密修験 - エンサイクロメディア空海
www.mikkyo21f.gr.jp › 空海の生涯 › 空海誕生
Translate this page
... 基本の真言、namo ākāśagarbhāya oṃ māli kamali mauli svāhā「虚空蔵に敬礼します。オーン 華曼よ、蓮華よ、宝冠よ、成就あれ 」)を百万遍づつ唱えるのである。
《真言宗本尊心咒集》-hrih
hrih0.lofter.com/post/1d1d59b7_e26f4c6
Translate this page
(Namo akasa-garbhaya, Om alika mali muli svaha). ·日光菩薩- ... (Om amrtodbhava hum phat svaha) .... Namaḥ Ākāśagarbhāya, Oṃ arika mari muri svāhā.
http://s2.upanh123.com/2017/04/04/f8...77b4d9170a.jpg
The Western Pure Land Trinity (Buddha Amitabha, Avalokitesvara, and Mahasthamaprapta │ 西方三聖: 淨土西方極樂世界教主「阿彌陀佛」 左脅侍「觀音菩薩」和右脅侍「大勢 菩薩」
( https://www.pinterest.com/pin/497436721314863763/ )