https://uphinhnhanh.com/images/2017/06/20/2a.jpg
http://i85.photobucket.com/albums/k49/badgerms/23.jpg
http://jiedinghui.forumer.com/topic/255216#.WUjJ0LKLSHs
Printable View
【唐卡法相】道家傳承唐卡 Taoist Lineage (歡迎下載流通)
1370[道家/天/其他唐卡]
【唐卡法相】道家傳承唐卡 Taoist Lineage (歡迎下載流通)
(佛相/曼荼羅/Mandala/Thangka)
一、本唐卡為同門發心提供,歡迎下 、流通、收藏,助佛法廣傳。
(感恩 兩位蓮花童子師兄 廣行布施波羅蜜!阿彌陀佛!)
二、【下載說明】 需要相片品質檔案者,請點連結“一 打包下載”。(約1200*1600) 本站為免費部落格,故網友下載資料 ,若須先點贊助廣告,敬請見諒,廣 與本部落格無關!! Download: Point link
三、【真佛行者需知】
這些唐卡法相仍由尼泊爾人畫師以藏 和伏藏法的傳承為藍本所畫。佛菩薩 金剛
護法、空行之頭及手臂數量,身相的 色,所佩帶的莊嚴飾物,手所持的法 及所
結的手印和根本上師所傳如有不同之 ,修法觀想的所緣境,請以 「根本傳承上
師聖尊蓮生活佛」所傳為準。這是因 根本傳承上師聖尊蓮生活佛所傳的真 密法
,有的是來自於藏密傳承,有的是來 於東密和唐密傳承,更有的是來自於 本傳
承上師意伏藏或智慧本尊在光明境所 接傳授的虛空傳承。
--道號「玄鶴道長」
https://uphinhnhanh.com/images/2017/06/20/05b1ac.jpg
http://blog.xuite.net/hermit.a819/blog/56473668
Bố trí đàn thành, trước tiên phải xả tịnh, dùng nước chú Đại Bi hoặc cam
lồ Quân Trà Lợi Du Già Minh Vương, biên xả đàn thành, khiến âm khí ô
uế của phòng tiêu trừ, sau đó an vị Phật ở bàn cúng, lựa ngày giờ tốt, an
vị tượng Phật, hoặc là Mạn Trà La của mật tông, Mạn Trà La tức là hình
hải hội của Phật. Một số bát cúng của mật tông, là dùng chén lớn nhỏ
giống nhau, cùng một màu tám chén xếp ở trước tượng Phật, bên phải của
đàn thành có thể để kinh điển, bên trái có thể để tháp, những chén lớn
nhỏ giống nhau này, từ trái sang phải là để đựng ốc biển nhỏ, điểm tâm
trái cây, đồ hương, đèn dầu, nhang trầm hương 3 cây không đốt, hoa màu
trắng 5 đóa, nước trơn, nước hoặc là nước đun sôi. Cũng có người đem
bát cúng xếp thành 2 hàng, hàng thứ nhất xếp 8 cái chén, hàng thứ 2 cũng
xếp 8 cái chén, ở một số pháp là, hàng thứ nhất là cúng phụng chư Phật
và Bồ Tát, hàng thứ 2 là dùng ở tu pháp quán tưởng biến hóa bổn tôn
https://dialinhdatviet.files.wordpre...thang-ngan.pdf
Chân Phật Kinh (Hoạt Phật Liên Sinh)
13 مايو، 2014، الساعة 01:52 ص
CHÂN THỰC PHẬT PHÁP TỨC TAI TỨ PHÚC KINH. (CHÂN PHẬT KINH) ------------------------1/ Chân Phật Kinh Từ Đâu Đến? ĐÁP: Nguyên từ Tự Tâm của Liên Sinh Hoạt Phật luân lưu và hiển lộ ra, là sau khi Liên Sinh Hoạt Phật khai ngộ thành tựu Minh Tâm Kiến Tánh, thân chứng tất địa thế giới Tây Phương Cực Lạc, Ma Ha Song Liên Trì, tại khế hợp Tâm Tâm Tướng Ấn, lưu lộ Vô Niệm chi Niệm Đại Từ Đại Bi, dẫn đến con đường tắt, phương tiện mau chóng cho thế nhân, ngưng tai, ban bố phúc đức, xử dụng lời nói, văn tự để lưu truyền, làm cho đại chúng khắp nơi có thể nghe kinh mà nghĩ đến việc tu hành, thấu triệt tâm yếu thành Phật Đạo! 2/ Trì Tụng “Chân Phật Kinh” & Trì Tụng Kinh Điển Phổ Thông Có Gì Bất Đồng Không? ĐÁP: “Chân Phật Kinh” toàn tên là “Chân Thực Phật Pháp Tức Tai, Tứ Phúc Kinh”, văn viết kinh ngắn gọn, vả lại dễ hiểu, dễ đọc, hàm chứa những nghĩa lý sâu sắc, tuyệt diệu trong từng chữ, từng câu, giữa các câu. Kinh này có hiệu quả rất đặc sắc, xử dụng cho cả hai loại người xuất thế, nhập thế cùng nguyện cầu, cầu phúc đức và tăng ích lợi, do đó thập phần thích hợp cho phổ thông đại chúng trì tụng trong một xã hội hiện đại hóa bận rộn. 3/ Thường Thường Nghe Đến Sự Tích Cảm Ứng Khi Trì Tụng Kinh Điển, Có Phải Là Chỉ Cần Kiền Thành Trong Trì Tụng Thì Nhất Định Có Được Những Cảm Ứng? Hy Vọng Tâm Lý Là Có Khả Năng Đạt Được Sự Hỗ Trợ Với Thực Hiện Không? ĐÁP: Phật Pháp tuy để nối kết chúng sinh, còn làm cho chúng sinh tiến vào Phật Trí. Do vậy chúng ta vẫn cần phải bảo trì một loại Chánh Niệm: (1) Phải chăng đối với những việc làm trong quá khứ của chính mình, trước tiên khởi lên một loại phản tỉnh và kiểm thảo (cũng gọi là sám hối), phát nguyện sửa lỗi lầm, tu thiện, như thế mới đạt được sự trợ giúp của Chư Phật Bồ Tát. (2) Trước tiên, hãy đem tâm lý mong muốn “nhất định đạt được cảm ứng” để sang một bên, mới có thể chuyên tâm trong trì tụng kinh. Trong “Kim Cương Kinh” cũng nói: “Ưng Vô Sở Trụ Nhi Sanh Kz Tâm: không trụ (without attachment) tâm vào đâu cả ắt sinh ra sự kz diệu”. Trì tụng cho đến khi “nhất tâm bất loạn” thì tự nhiên được tiêu tai nạn, tăng phúc đức. (3) Không phải chỉ trì tụng cầu cho chính mình mà còn phải hồi hướng đến tất cả các chúng sinh cùng thành Phật Đạo. Có được tâm ý này thì mới có thể kết hợp chặt chẽ Thiên Tâm với Phật Tâm. 4/ Nếu tôi chưa phải là đệ tử của Chân Phật Tông, quy y Liên Sinh Hoạt Phật, mà trì tụng “Chân Phật Kinh”, phải chăng cũng gặt hái được hiệu quả đồng dạng? ĐÁP: (1) Tuy không phải là đệ tử, vẫn có thể đọc kinh này, kết thiện Pháp duyên. Ví dụ như: người có chứng bệnh ung thư, tuy chưa quy y lại trì tụng kinh này, ban đêm nằm mộng sẽ thấy Liên Sinh Hoạt Phật đến trước mặt trị bệnh, đạt được cảm ứng rất thù thắng. (2) Nhất thiết tâm thành ắt linh ứng, trước trì tụng kinh này, sau quy y thì rất là thù thắng. 5/ Giúp Ấn Hành Kinh Sách Có Tổ Tiên Thăng Thiên, Trung Đại Tưởng Thưởng, Thăng Quan, Khảo Vận Thuận Lợi, Toại Nguyện Các Công Đức. Vậy Thì Một Cá Nhân, Sự Việc Gì Cũng Không Chịu Làm, Nhưng Hắn rất Kiền Thành Trì Tụng Kinh Điển Cũng Có Thể Gặt Hái Được Những Lợi Ích Kể Trên? ĐÁP: Con người cần phải làm hết bổn phận của mình để hiến tặng lại nhân quần xã hội, nếu như lòng chỉ si mê, vọng tưởng cầu phúc, nhưng quên mất bổn phận của chính mình phải làm thì rất khó khăn đạt được mục đích.
6/ Trì Tụng Kinh Điển, Khả Dĩ Hóa Giải Tai Nạn Kiếp, Tăng Gia Phúc Tuệ, Trên Thế Giới Này Có Rất Nhiều Tai Nạn, Phải Chăng Người Người Chỉ Cần Tụng Kinh Điển Này Thì Khả Dĩ Làm Cho Các Tai Nạn Xảy Đến Được Hóa Giải? ĐÁP: (1) Liên Sinh Hoạt Phật trong tác phẩm trước tác “Nhất Mộng Nhất Thế Giới” đã từng viết một đoạn văn “đại bạo động” chỉ ra có người âm thầm trì tụng “Cao Vương Kinh” 1,000 lần và hồi hướng, làm cho quần chúng định tâm, không phát sinh ra bạo động. (2) Trước khi phát sinh SARS, Liên Sinh Hoạt Phật chỉ thị cho các đệ tử trì tụng Kim Mẫu Thánh Hiệu và Tâm Chú, vào thời đó cũng có rất nhiều người tụng niệm. Sau đó, nguyên lai có bệnh dịch đại quy mô, cuối cùng chỉ trong một tuần lễ bệnh dịch tiêu tán. (3) Còn có rất nhiều thí dụ khác nữa. Hoan nghênh có nhiều người lấy tâm báo đáp “Chúng Sinh Ân” tụng nhiều kinh, chú, cũng vì đất nước, xã hội mà hồi hướng cho hoà bình, an lạc. 7/ Tục ngữ nói: “Thị Phúc Bất Thị Họa, Thị Họa Đóa Bất Quá” (là phúc thì không là họa, là họa tránh không khỏi), Rất Nhiều Sự Tình Xảy Đến Đều Có Mình Trong Đó, Cho Nên Sự Thật Có Sự Gia Trì Của Kinh Lực Do Vì Đã Trì Tụng Kinh Điển Mà Đạt Được Sự Giải Thoát Không? ĐÁP: (1) Đối với nhân quả từ đầu đến kết cục, chính mình phải chịu trách nhiệm, thống thiết kiểm thảo, phản tỉnh. (2) Khi trì tụng kinh điển đến “nhất tâm bất loạn” thì Phật Bồ Tát ắt gia trì cho người trì tụng kinh bằng cách khai mở trí tuệ hiểu rõ được các sự việc trên thế gian, nội tâm sung mãn những linh cảm mà sống lạc quan trong sinh hoạt. (3) Ngoài ra Chư Tôn Hộ Pháp vô hình gia trì cho người trì tụng kinh, oan trái, ác nghiệp bị tiêu tan, tai trừ diệt nạn hóa giải. 8/ “Chân Phật Kinh”, Yếu Chỉ Trong Bộ Kinh Này Giảng Thuật Vể Thế Giới Tây Phương Cực Lạc Với 18 Đại Liên Hoa Đồng Tử Chuyển Kiếp Giáng Sinh, Hóa Độ Cho Các Chúng Sinh Có Nhân Duyên. Xin Hỏi Thế Giới Tây Phương Cực Lạc Mà Phật Giáo Đề Cập Đến Và Ma Ha Song Liên Trì Trong “Chân Phật Kinh” Có Gì Bất Đồng Không? ĐÁP: Thế Giới Tây Phương Cực Lạc có 4 tầng Tịnh Thổ, trong đó có cảnh giới Tự Tánh Pháp Thân và cảnh giới Báo Thân Ưng Hóa. Ma Ha Song Liên Trì ở trong thế giới Tây Phương Cực Lạc. Muốn hiểu rõ xin xem duyệt “Liên Hoa Sinh Hoạt Phật Giảng A Di Đà Kinh” và “Liên Hoa Sinh Hoạt Phật Giảng Chân Phật Kinh” tức khắc sẽ hiểu kỹ càng hơn. 9/ Liên Sinh Hoạt Phật Đã Từng Nói Qua Rằng Kinh Điển Mà Ngài Tôn Sùng Tối Đa Là “Cao Vương Kinh”, Nhưng Không Có “Chân Phật Kinh” Lại Tụng “Cao Vương Kinh” Thì Hiệu Quả Phải Chăng Hơn Hẳn “Chân Phật Kinh?” ĐÁP: (1) “Cao Vương Kinh” có 3 đại lực rất thâm hậu: Phật Lực – Trong “Cao Vương Kinh” Phật Hiệu vô lượng vô biên. Kinh Lực – “Cao Vương Kinh” năng diệt sinh tử khổ, tiêu trừ chư độc hại. Chú Lực – Sau phần kinh văn “Cao Vương Kinh” có Chân Ngôn Diệt Tội của 7 vị Phật, có thể tiêu trừ tai nạn, trừ nghiệp tội, tăng phúc đức, công đức thù thắng siêu phàm. (2) Thù thắng của “Chân Phật Kinh”: Sự gia trì của Chư Phật Bồ Tát trong thế giới Chân Phật – Kinh văn có Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử và quyến thuộc gia trì, phù hộ người tụng kinh. Chân Phật Tâm Yếu, trực chỉ nhân tâm, Kiến Tánh thành Phật – Trong kinh văn có “lấy Vô Niệm làm Chánh Giác Phật Bảo, Thân, Khẩu, Ý thanh tịnh làm Pháp Bảo, tuân theo Chân Phật Thượng Sư làm Tăng Bảo” hiển thị: Vô Niệm - Phật, Vô Niệm chi Niệm – Pháp, Vô Niệm chi Thể - Tăng, khai triển tâm tánh người tu thiền, y theo Tâm Yếu này mà tu trì, có thể đạt được Kiến Tánh thành Phật! Tức Tai, Tứ Phúc chi Lực, vô lượng vô biên - Đoạn sau kinh văn chỉ ra, đọc tụng và ấn tụng kinh này, có thể Tức Tai (ngừng tai nạn), siêu độ, giải thoát khỏi nạn quan y, tai họa quỷ oan khuất xung phạm, vân vân. Nhân đó, tụng tụng kinh này có thể trợ giúp con người vận trình được quang minh, phúc tuệ ngày một tăng. (3) Cho nên, “Cao Vương Kinh” và “Chân Phật Kinh” có những ưu điểm thật thù thắng! 10/ Tụng Kinh, Trì Chú Chính Là Học Phật Phải Không? Phật Bồ Tát Thật Sự Khả Dĩ Hỗ Trợ Cho Những Người Còn Do Dự Không? ĐÁP: Tụng kinh, trì chú do tâm niệm Phật Bồ Tát nên có sự thay đổi không hay biết xâm nhập vào tâm con người, điều hòa tâm tánh, tiến dần đến tâm an bình, tốt đẹp. (2) Hiểu rõ ý nghĩa của kinh văn, lại thêm tụng kinh thì rất tốt. (3) Học tập tinh thần Chủ Tôn trong kinh, chú đọc, như vậy niệm chú càng tương hợp với Tâm Phật. (4) Ba phần kể trước đã là học Phật rồi! Nếu như có thể theo được văn tập của Liên Sinh Hoạt Phật và kinh sách Phật, nghiên cứu sâu sắc thì càng thêm phần thù thắng. (5) Phật Bồ Tát không nơi nào mà không hiện hữu, để sớm cứu giúp các chúng sinh, chỉ là vì tâm chúng sinh không khai mở, không thực tế hành động, không chân thành, thực tiễn truy tầm. --------------------------------------------------------------------CHÂN PHẬT KINH LÀ GÌ? “Chân Phật Kinh” bao hàm 3 phương diện Người, Pháp, Dụ (thí dụ): Nói về “Người”, chính là Thượng Sư Lư Thắng Ngạn giảng, đây là đơn chỉ Thượng Sư Lư Thắng Ngạn giảng pháp của Liên Hoa Đồng Tử, pháp môn dẫn đường đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, trong đó có ánh quang thường tịch huyền nghĩa của cảnh giới “Ma Ha Song Liên Trì” (hai đại hồ sen), người của bộ kinh này chính là Thượng Sư Lư Thắng Ngạn. Nói về Pháp, chính là Pháp của “Ma ha Song Liên Trì” trong thế giới Tây Phương Cực Lạc, niệm Liên Hoa Đồng Tử tâm chú, quán tưởng Liên Hoa Đồng Tử, kết Liên Hoa Đồng Tử thủ ấn, trụ Liên Hoa Đồng Tử Tam Ma Địa (Samadhi), tức có thể trực siêu vào “Ma Ha Song Liên Trì”, diện kiến A Di Đà Phật, thấy Phật chấm dứt sinh tử, như Phật độ tất cả. Nói về Dụ, chính là tỉ dụ, bản Chân Phật này không thể trực tiếp nói ra, cho nên tiện có những tỉ dụ. Giải thích 3 chữ Chân Phật Kinh: Chân là gì? Nói về Chân là Thực Thực, Tại Tại – Phật là gì? Phật chính là Đấng Giác Ngộ, chính là giác ngộ chính mình và giác ngộ người khác, vị Đại Thánh Nhân, Giác và Hành đều viên mãn. Đạt được giác hành viên mãn thì chính là Phật, đạt được sự chứng ngộ này, nguyên có 2 tuệ: 1/ Vô Thượng Chánh Trí, cũng chính là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề; 2/ Nhất Thiết Chủng Trí, tức Bồ Tát Bát Nhã. Do “chân tu hành” (tu hành thật sự) mà đắc “Phật Địa” mà đạt đến địa vị thành Phật. Chữ Phật này có thể kéo dài: “Phật Nhật”: phá trừ ngu si, đen tối của chúng sinh, như mặt trời vĩ đại phá trừ hắc ám. Tỉ dụ Phật từ bi quảng đại, phổ độ vô tư, như mặt trời chiếu khắp đại địa – “Phật Ấn”: Chư Pháp thực tướng, chính là quyết định của Chư Phật có ấn khế bất biến – “Phật Thừa”: Trí tuệ Nhất Thừa Pháp, Minh Tâm Kiến Tánh – “Phật Tánh”: Tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh, là Tánh Giác Ngộ không biến đổi, thực thể bất sinh bất diệt, chính là Chân Như – “Chân Phật”: hai chữ này có nghĩa là Vô Vi, là Bình Đẳng, là Từ Bi, là Hỉ Xả, là Chân Chính Phóng Quang, là Hoá Độ Sở Hữu Chúng Sanh. Kinh là gì? Kinh chính là “Tu Đa La” của Phạn ngữ, cũng gọi là Chân Lý mà thập phương Chư Phật sở thuyết. Trên phù hợp với Pháp tánh trí tuệ mà thập phương Chư Phật sở thuyết, dưới phù hợp chân lý đi lại của thập phương chúng sinh, cũng chính là thuyết thuật tu hành như thế nào thì là kinh, kinh là những lời dạy của Như Lai. Những quy củ Thánh nhân giáo thị cùng với những lòi nói khai ngộ, đều được gọi là kinh. “Chân Phật Kinh” là gì? Một Giác giả đã đạt “Minh Tâm Kiến Tánh”, Hồng Quan Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Lư Thắng Ngạn đã viết Trí Tuệ Phật “Tâm Lãnh Thần Hội”, đây là tất cả những gì Như Lai sở thuyết, sở dĩ là xác xác thực thực “Chân Phật Kinh”. Trong Chân Phật Kinh có cảnh giới nội chứng của Phật Bồ Tát, bản thệ của Thần Kim Cương Hộ Pháp, có ký hiệu của Liên Hoa Bồ Tát. Tên bản kinh này kz thực chính là con đường giác ngộ chân chính, nhân đó cũng có thể tiêu trừ rất nhiều tai nạn, lại cũng có thể ban phúc đức. Người đọc bản kinh này đạt được phước khí, ngang bằng như phúc đức từ Trời ban xuống, chính là được Thiên phúc vậy. Bản kinh này chính là: “Chân Thực Phật Pháp Tức Tai Tứ Phúc Kinh”, đơn giản gọi là “Chân Phật Kinh”.
------------------------------------------------------------------------------------------- ĐẠI LỄ BÁI: Nhất bái thập phương Phật - Nhị bái Chư Bồ Tát – Tam bái Hộ Pháp Kim Cương - Tứ Bình Đẳng ấn, nhất khể thủ (cúi đầu lạy). NỊÊM THANH TỊNH CHÚ (recite purification mantra) TỊNH KHẨU NGHỊÊP CHÂN NGÔN: (speech purification mantra ). Án. Tu Rị Tu Rị. Ma Ha Tu Rị. Tu Tu Rị. Sóa Ha TỊNH THÂN NGHỊÊP CHÂN NGÔN: (body purification) Án. Tu Đa Rị. Tu Đa Rị. Tu Ma Rị. Tu Ma Rị. Sóa Ha TỊNH Ý NGHỊÊP CHÂN NGÔN: (mind purification) Án. Wa Nhật La Đát. Ha Ha Hồng AN THỔ ĐỊA CHÂN NGÔN (earth god mantra) Nam Mô Tam Mãn Đa. Một Đà Nẫm. Án. Độ Rô Độ Rô. Địa Vĩ. Sóa Ha
I. CHÂN PHẬT KINH· KÌ THỈNH LIÊN SANH HOẠT PHẬT GIA TRÌ VĂN :
UM ÀHUM
Kính dĩ thanh tịnh thân khẩu ý. Cúng dưỡng Tỳ-Lô-Giá-Na Tôn
Pháp thân Phật Nhãn Phật Mẫu Thánh.
Báo thân Liên Hoa Đồng Tử thân
Ứng thân giáo chủ Liên-SanhPhật. Tamthân vô biệt đại Phật ân
Cung kính Chân Phật đại truyền thừa. Cụ túc thần thông di lục hợp
Phóng quang biến chiếu ư tam tế. Nhứt như vô gian năng hiện chứng
Phật tử thời thời thường ai thỉnh. Quang minh chú chiếuphúc tuệ tăng
Tích nhật Thích Ca lại thọ ký. A Di Đà Phật ân phóthác
Di Lặc Bồ Tát đái hồng quan. Liên Hoa Đại Sĩ thụ mật pháp
Kì thỉnh bất xả hoàng thệ nguyện. Cứu độ ngã đẳng chư chúng sanh
Như thị hộ niệm nhi nhiếp thọ. Kỳ thỉnh gia trì tốc thành tựu
Nam Mô Tỳ Lô Giá Na Phật. Nam Mô Phật Nhãn Phật Mẫu
Nam Mô Liên Hoa Đồng Tử. Nam Mô Liên Sanh HoạtPhật
Nam Mô Chân Phật Hải Hội Thập Phương Tam Thế
Chư Phật Bồ Tát Ma Ha Tát
v NIỆM THÁNH CÁO
“Tây Phương Liên Trì Hải Hội. Ma Ha Song Liên Trì. Thập Bát Liên Hoa ĐồngTử. Bạch Y Thánh Tôn. Hồng Quan Thánh Miễn Kim Cang Thượng Sư. Chủ Kim Cang Chân Ngôn Giới Bí Mật Chú. ĐạiTrì Minh Đệ Nhất Thế Linh Tiên Chân Phật Tông. Lư Thắng Ngạn MậtHành Tôn Giả.” (3 lần)
NamMô Chân Phật Hội Thượng Chư Phật Bồ Tát MaHa Tát (3lần )
v PHỤNG THỈNH NHỊ PHẬTBÁT BỒ TÁT.
NamMô Pháp Giới Tối Thắng Cung Tỳ Lô Giá Na Phật.
NamMô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới A Di Đà Phật
NamMô Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát
NamMô Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát
NamMô Hư Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát
NamMô Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát
NamMô Kim Cang Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát
NamMô Diệu Cát Tường Bồ Tát Ma Ha Tát
NamMô Trừ Cái Chướng Bồ Tát Ma Ha Tát
NamMô Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát
Nam Mô Chư Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát
v KHAI KINHKỆ:
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
v LIÊN SANHHOẠT PHẬT THUYẾT :
“CHÂNTHẬT PHẬT PHÁP TIÊU TAI THÍ PHÚC KINH”
Như thị ngã văn: Nhứt thời Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử. Tại Ma Ha Song Liên Trì, tọa ư Đại Bạch LiênHoa pháp tọachi thương.Chu vi thập thất đoá đại liên hoa.Thanh sắc thanh quang, hoàng sắc hoàng quang, xích sắc xích quang, tử sắc tử quang, các đóa liên hoa, vi diệu hương khiết.Bạch Liên Hoa Đồng Tử mật vận thần thông, tương nhứt cá Ma Ha Song Liên Trì, biến hóa đắc cách ngoại kim quang xán lạn, sở hữu hương hoa toàn bộ nộ phóng, thụy thảo, phóng xuấthương tức. Bạch Hạc, Khổng Tước, Anh Vũ, Xá Lợi, Già LăngTần Già, Cộng Mệnh Chi Điểu, quân hóa kim sắc, xuất hoà nhã thiên âm.
Không trung kim sắc quang, hữu tịnh diệu thiên âm lai tự hư không. Chưthế giới hương khí phân phức. Không trung kim các, toàn sanh quang hoa, biến phu kimliên, hư không chi trung thiên hoa phiêu tán.
Nhĩ thời, Ma Ha Song Liên Trì, đại đại chấn động. Vô lượng chư thiên giai cảm thọ chi. Phật, Bồ Tát, thinh văn giai cảm thọ chi, quân chí Ma Ha Song Liên Trì. Tam ThậpTam Thiên Chủquân quản cản phó Ma Ha Song Liên Trì. Tập chư Nhị Thập Bát Thiên chúng, ĐếThích, Phạm Vương, Bát Bộ, Tứ chúng, quảng thuyết pháp yếu.
Nhĩ thời, Kim Liên Hoa Đồng Tử hiện xuất đại tuệ quang, Bạch Liên Hoa ĐồngTử hiện xuất pháp giới quang, Lục Liên Hoa Đồng Tửhiện xuất vạn bửu quang, Hắc Liên Hoa Đồng Tử hiện xuấthàng phục quang, Hồng Liên Hoa Đồng Tử hiện xuất hành nguyện quang, Tím Liên Hoa Đồng Tử hiện xuất đoan nghiêm quang, Lam Liên Hoa Đồng Tử hiện xuất quả đức quang, Hoàng Liên Hoa Đồng Tửhiện xuất phúc túc quang, Đặng Liên Hoa Đồng Tửhiện xuất đồngchân quang.
Chư Thiênkiến chi. Đại cảm kinh dị. Ư thị Đế Thích tòng tọa nhi khởi. Khể thủ hướng tiền đối Bạch Liên Hoa Đông Tử nhi thuyết :
Hy hữu Thánh Tôn, Ma Ha Song Liên Trì, dĩ hà nhân duyên,hiện thử đại quang hoa?
ĐạiBạch Liên Hoa Đồng Tử Thuyết: Đương vị nhữ đăng tế tuyên thuyết.
Đế Thíchthuyết: Thánh tôn oai quyền tối tôn, duy nguyện thánh tôn vị chúng tuyên thuyết, nhứt thiếtnhân thiên hãm tri quyhướng.
Nhĩ thời, Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử cáo Đế Thích cập chư đại chúng thuyết: Thiện tai, thiệntai. Ngã kim vị nhĩ cập mạt thế chúngsanh, hữu duyên giã ư đương lai chi thế, hãm cộng chi chân thực Phật Pháp cập tiêutai thí phúc chi lý.
ĐạiBạch Liên Hoa Đồng Tử tức thuyết: ChưPhật, Bồ Tát cứu độ chúng sanh, hữu Tối ThắngThế Giới, Điệu Bửu Thế Giới,Viên Châu Thế Giới,Vô Ưu Thế Giới,Tịnh Ttrụ Thế Giới,Pháp Y Thế Giới,Mãn Nguyệt Thế Giới, DiệuHỷ Thế Giới,Diệu Viên Thế Giới,Hoa Tạng Thế Giới,Chân Như Thế Giới,Viên Thông Thế Giới.Như kim, tương hữu Chân PhậtThế Giới.
Ưthị Phật Bồ Tát, thỉnh văn, duyên giác cập chư thiênchúng văn thánh tôn khai diễn chân PhậtThế Giới. Trị thị quá khứ hiện tại, vị lai chi cát tường thiện thệ đạibi nhân qủa. Thị Thánh Tôn vị chúng sanh hoá thânthị hiện.
Các các hoan hỷ đắc vị tầng hữu.Khể thủ xưng tán nhi thuyết kệ ngôn :
Thánhtôn đại từ bi
Quá khứ tảotu chứng
Kim sáng chân Phật Giới
Hoá thân vi giáo chủ
Thiện tai hiện Liên Sanh
Ngã đẳngquân dĩ văn
Vô thượng bí mật tôn
Ly dục siêu phàm gian,
Liên mãn chư quần hữu.
Hạ giáng chí ta bà.
Vichúng quảng tuyên thuyết.Đương vị đại hộ trì
Nhĩ thời, Thánh Tôn Đại bạch Liên Hoa ĐồngTử cáo đại chúng : “ Tu hành dĩ vô niệm vi chánh giác Phật bửu, thân thanhtịnh, khẩu thanh tịnh, ý thanh tịnh vi pháp bửu, y chân Phật Thượng Sư vi Tăngbửu.”
Thánh tôn cáo địa chúng: nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, ư mỗi niên ngũ nguyệt thập bát nhật,mộc dục trai giới, mặc thanh tịnh y phục, hoặc ư mỗi nguyệt thập bát nhật, hoặcbổn mệnh sanh thành nhật, tại mật đàn tiền, phụng thính Nhị Phật Bát Bồ Tát,phụng tụng “CHÂN THẬT PHẬT PHÁP TIÊU TAI THÍ PHÚC KINH”. Tùy tâm sở cầu, tự hữucảm ứng, canh năng cúng dường hương hoa đăng trà quả, kiền thành kì đảo hàm đặcnhư ý.
Thánh tôn cáo đại chúng:thế gian cao quan, quý nhân, sa môn, cư sĩ, tu đạo tục nhân đẳng, nhược văn thửkinh, thọ trì đọc tụng, như thị chi nhân lộc vị tối tôn, thọ mệnh diên trường,cầu tử đắc tử, cầu nữ đắc nữ, hoặc phúc tối thị vô lương, thị tăng ích đích đạiphúc bửu kinh.
Nhược hữu tiên vong. Oánthân trai chủ, vị năng đắc độ, trệ tiết ưu minh, nhược năng trì tụng bổn kinh,ấn tống bổn kinh, vong giả thăng thiên, oán thân thối tán, hiện tồn hoạch phúc,nhược hữu nam tử nữ nhân, hoặc bị tà ma sở xâm, quỷ thần vi hại, ác mộng hônloạn, thọ trì bổn kinh, thí ấn bổn kinh, tà quỷ thối tàng, tức đắc an lạc.
Nhược hữu tật ách triềnthân, tiền thế nhân quả nghiệp báo, quỷ thần bịnh đẳng, thọ trì bổn kinh, ấnthí bổn kinh, tức đắc tại ách tiêu trừ, bịnh nguyên lập giải, nhược hữu ác vận,quan tụng kiên triền, tù cấm ngục hệ, đản năng trì tụng bổn kinh, ấn thí bổnkinh, tức đắc giải trừ, hung ương điển diệt, hóa vị cát tường.
Nhược lưỡng quốc tranh chiến, năngtrì thử kinh, lập tượng cúng dường,tức đắc gia oai, chiến vô bấtthắng, tụng giả, ấn giả, thí giá, năng nhứt thiết cát tường như ý viên mãn, tiêu trừ chư độc hại, năng diệt sanh tử khổ.
Tây Phương Chân Phật hải hội, Ma Ha Song Liên Trì, ĐạiBạch Liên Hoa Đồng Tử, tức ư kỳ trung, nhi thuyếtchú viết:
"UM . CU LU . LIÊN SANH . XIT TIHUM." (108 lần)
Thánh Tôn thuyết thử kinh dĩ, đê thích cập chư đại chúng, thiên long bát bộ tứ chúng,cung kính tác lễ, tín thọ phụng hành.
Chân Thật Phật Pháp Tiêu Tai Thí Phúc Kinh chung.
Hồi hướng kệ: Nguyện dĩ thử công đức, trang nghiêm Phật Tịnh Thổ - Thượng báo Tứ Trọng Ân, hạ tế Tam Đồ Khổ - Nhược hữu kiến văn giả, tất phát Bồ Đề Tâm - Tận thử nhất báo thân, đồng sinh Cực Lạc Quốc. CHÚ THÍCH. Lục dục: Sắc dục (sex), hình mạo dục (form), uy nghi dục (carriage), ngôn ngữ âm thanh dục (voice or speech), tế hoạt dục (softness or smoothness), nhân tướng dục (features). ------------------------------------------------------------------------PHẦN DIỄN NGHĨA CHÂN PHẬT KINH. Tôi nghe như vầy, một thời Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử, tại Ma Ha Song Liên Trì (hai hồ sen vĩ đại tại Cực Lạc thế giới), ngồi trên Pháp tòa hoa sen lớn, chung quanh có 17 đóa hoa sen lớn khác, sắc xanh, ánh sáng xanh; sắc vàng ánh sáng vàng; sắc đỏ ánh sáng đỏ; sắc tím ánh sáng tím; các đóa sen hương thơm tuyệt diệu thanh khiết. Bạch Liên Hoa Đồng Tử, yên lặng vận dụng thần thông làm ngoại cảnh một hồ sen biến hóa thành áng sáng kim xán lạn, toàn bộ mùi hương thơm của hoa trong hồ sen toả ra mạnh mẽ, ngào ngạt, cỏ thơm tỏa hương, các loài chim cộng mệnh như bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá lợi, ca lăng tần già, đều hóa ra màu kim sắc, phát ra thiên âm hòa nhã. Trên không trung, ánh quang kim sắc, có thiên âm thanh tịnh, vi diệu vang lừng từ hư không. Các thế giới khí hương thơm phức, lầu các trong không trung tất cả toả ánh quang hoa, sen vàng phủ đầy, khắp không trung rải bay phấp phới thiên hoa. Lúc bấy giờ, Ma Ha Song Liên Trì chấn động mạnh, vô số Chư Thiên đều cảm nhận chấn động này, Phật Bồ Tát, Thanh Văn cũng cảm nhận, đều đến Ma Ha Song Liên Trì, 33 Thiên Chủ đều vội đến Ma Ha Song Liên Trì, tập họp 28 Thiên chúng, Đế Thích, Phạm Vương, Bát Bộ Tứ chúng. Thuyết giảng rộng về pháp yếu! Lúc bấy giờ, Kim Liên Hoa Đồng Tử xuất hiện ra Đại Tuệ quang, Bạch Liên Hoa Đồng Tử xuất hiện ra Pháp Giới quang, Lục Liên Hoa Đồng Tử xuất hiện ra Vạn Bảo quang, Hắc Liên Hoa Đồng Tử xuất hiện ra Hàng Phục quang, Hồng Liên Hoa Đồng Tử xuất hiện ra Hạnh Nguyện quang, Tử Liên Hoa Đồng Tử xuất hiện ra Đoan Nghiêm quang, Lam Liên Hoa Đồng Tử xuất hiện ra Quả Đức quang, Hoàng Liên Hoa Đồng Tử xuất hiện ra Phúc Túc quang, Tranh Liên Hoa Đồng Tử xuất hiện ra Đồng Chân quang. Chư Thiên trông thấy, cảm thấy hết sức kinh dị, do đó Đế Thích đứng dậy từ chỗ ngồi, rập đầu lạy về hướng trước mặt Bạch Liên Hoa Đồng Tử mà thưa rằng Sư Tôn, thật là hy hữu! Ma Ha Song Liên Trì vì nhân duyên gì mà hiện ra những đại quang hoa như thế này? Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử nói, ta vì các ngươi mà nói chi tiết, Đế Thích nói, Thánh Tôn uy quyền tối tôn quý, cầu mong Thánh Tôn vì chúng con mà nói rõ, tất cả Người Trời đều biết phải quy hướng. Lúc bấy giờ, Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử bá cáo cho Đế Thích và Chư Thiên đại chúng rằng lành thay, lành thay! Ta bây giờ vì các ngươi và chúng sinh thời mạt thế, những người có duyên ở những đời sau, cùng nhau biết Chân Thực Phật Pháp và Tức Tai Tứ Phúc chi Lý. Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử nói ngay, Chư Phật Bồ Tát cứu độ chúng sinh, có Tối Thắng thế giới, Diệu Bảo thế giới, Viên Châu thế giới, Vô Ưu thế giới, Tịnh Trú thế giới, Pháp Ý thế giới, Mãn Nguyệt thế giới, Diệu Hỉ thế giới, Diệu Viên thế giới, Hoa Tạng thế giới, Chân Như thế giới, Viên Thông thế giới, bây giờ sẽ có Chân Phật thế giới. Do vậy, Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác và Thiên chúng đều nghe Thánh Tôn mở ra Chân Phật thế giới, biết là Quá Khứ, Hiện Tại, Vị Lai cát tường, thiện thệ đại bi nhân quả, là Thánh Tôn vì chúng sinh mà hóa thân thị hiện, mọi người hoan hỉ chưa từng có, rập đầu mà tụng bài kệ rằng: Thánh Tôn đại từ bi, vô thượng Mật giáo – Quá khứ sớm tu chứng, xa lìa dục vọng, vượt thế gian – Nay sáng lập Chân Phật thế giới, thương xót giống hữu tình – Hóa thân làm Giáo Chủ, hạ giáng xuống Ta Bà – Lành thay hiệu Liên Sinh, vì chúng sinh mà tuyên bố rộng rãi – Chúng con đều đã nghe thấy, Ngài là vị đại Hộ Trì. Lúc bấy giờ, Thánh Tôn Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử bá cáo với đại chúng rằng tu hành lấy Vô Niệm làm Chánh Giác Phật Bảo, lấy Thân thanh tịnh, Khẩu thanh tịnh, Ý thanh tịnh làm Pháp Bảo, Theo Chân Phật Thượng Sư làm Tăng Bảo. Thánh Tôn nói với đại chúng, nếu có thiện nam, thiện nữ nào, mỗi năm vào ngày 18 tháng 5, tắm gội sạch sẽ, trai giới hoặc vào ngày sinh nhật, đứng trước bàn thờ (Mật đàn), kính mời 2 vị Phật, 8 vị Bồ Tát, trì tụng “Chân Thực Phật Pháp Tức Tai, Tứ Phúc Kinh” (kinh Chân Thực Phật Pháp ngưng tai, ban phúc), tùy tâm sở cầu, tự nhiên có cảm ứng, nên cúng dường hương hoa, đèn, trà, quả trái, kiền thành khấn nguyện, đều sẽ được như ý. Thánh Tôn bá cáo đại chúng , trong thế gian quan quyền, quí nhân, sa môn, cư sĩ, người tu kẻ tục, vân vân, nếu nghe thấy kinh này mà đọc tụng, những người này quyền lộc được thăng cao, thọ mệnh lâu dài, cầu sinh trai được trai, cầu sinh gái được gái, hưởng được phúc vô lượng, đây là kinh đại phúc tăng ích. Nếu Tổ Tiên quá vãng, oán thân trái chủ, chưa được cứu độ, trì trệ ở chốn u minh, nếu có thể trì tụng kinh này, ấn tống kinh này, người đã chết sẽ được thăng Thiên, người oán thân sẽ lui tán, gặt được phúc đức. Nếu thiện nam, thiện nữ, nếu bị tà ma xâm nhập, quỷ thần tác hại, ác mộng, mê loạn, thụ trì kinh này, in ấn và phân phối kinh này thì quỷ tà lẩn trốn, tức khắc được sống an vui. Nếu bị tật ách vướng thân, kiếp trước nhân quả nghiệp báo, bệnh quỷ thần, vân vân, thụ trì kinh này, in ấn, phân phối kinh này, tức khắc tai ách tiêu trừ, nguồn bệnh được giải cứu. Nếu bị vận hạn ác xui, kiện tụng lao lý, tù ngục nhưng nếu trì tụng kinh này, in ấn, phân phối kinh này, tức khắc được giải trừ, hung dữ, ương diệt hóa thành cát tường. Nếu như hai nước chiến tranh, có thể trì tụng kinh này, đúc tượng cúng dường, tức khắc gia tăng uy lực, chiến thắng chắc chắn. Người tụng kinh này, in ấn kinh này, bố thí kinh này sẽ được mọi việc cát tường, như ý, viên mãn. Tiêu trừ mọi độc hại, năng diệt mọi sinh tử khổ. Tây Phương Chân Phật Hải Hội, Ma Ha Song Liên Trì, Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử tức khắc trong Hội nói chú rằng: ÁN. CỔ LỖ. LIÊN SINH TẤT ĐỊA. HỒNG (vô số lần). Thánh Tôn nói xong kinh này, Đế Thích và đại chúng, Thiên Long Bát Bộ tứ chúng, cung kính làm lễ, tín thọ phụng hành. Chân Thực Phật Pháp Tức Tai Tứ Phúc Kinh Chung. Kệ Hồi Hướng: Nguyện đem công đức này, trang nghiêm đất Phật thanh tịnh – Trên báo đáp 4 ân nặng, dưới cứu giúp 3 đường khổ - Nếu có người nghe, thấy được kinh này, ắt phát Tâm Bồ Đề - Tận hết báo thân này, cùng sinh vào nước Cực Lạc. Texas, Plano March 22nd, 2014.
https://ar-ar.facebook.com/notes/ch%...4143146473831/
慶賀 聖尊蓮生活佛 盧勝彥七秩佛誕 與佛同心愛心捐米及 發送結緣盧勝彥文集口袋書的活動 隨緣捐助 利益有情
Posted by: lotuslightcharity on: May 10, 2013
In: Activities 活動通告 | News 華光新聞 Leave a Comment
ImageImageImageImage在真佛宗創辦人無上法 王聖尊蓮生活佛盧勝彥七秩佛誕即將 臨之際,墨爾本華光功德會即日起發 與佛同心愛心捐米及贈送結緣盧勝彥 文集口袋書的活動。敬請同門善信踴 參加並支持此項有意義的活動。
整個澳洲有兩百萬人面臨每日三餐的 飽問題。大米是食品銀行最為缺乏的 要糧食之一。他們常常面臨大米供不 應求的問題。而捐贈大米等同供齋, 德不可思議。亦可廣結善緣,為自身 福田,增加福報和資糧。
同時本會也歡迎大家贊助結緣盧勝彥 集口袋書,幫助推廣盧勝彥文集。若 一次捐款達A$30或以上者,本會將贈 有聖尊簽名的發財樹唐卡一張。數量 限,請勿錯失良機。
歡迎大家通過電郵(melbllcs@gmail.com)向本 會索取免費結緣盧勝彥文集口袋書。 此書沒有郵寄服務,敬請諒解。本會 墨爾本西區,北區和東區皆有提貨點 。)
若您發心捐款,請見以下捐款方式, 通過Paypal捐款,請訪問本會網站:http://www.melblotuslight.org.au/index.php/捐助華光
支行付款或網上銀行轉賬捐款:
賬戶名稱:Melbourne Lotus Light Charity Society
銀行名稱:ANZ Bank
分行代號:013 422
帳號:481128127
支票捐款:
支票抬頭:Melbourne Lotus Light Charity Society
請將支票寄至:PO Box 3808, Caroline Springs, Vic Australia 3023
捐米善款將全數用於購買大米並將採 的大米全數捐贈維省食品銀行。
感謝大家的發心和愛心!
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...510_123631.jpg
https://lotuslightcharity.wordpress.com/
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...07-09-1101.jpg
http://www.tbsn.my/images/stories/ne...07-09-1-23.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...107-09-111.jpg
============
https://uphinhnhanh.com/images/2017/06/20/other-00.jpg
真佛宗創辦人蓮生活佛盧勝彥金剛上 、藏密黃教最高精神領袖甘丹赤巴法 (H. H. Gaden Tripa,左二)、哲蚌寺住持岡措巴桑長 (H. E. Khonchok Pasang Rinpoche,左一)、蓮香上師、天青格西(G eshe Lobsang Tenzin)合攝於上密院(Gyuto Tantric College)台階前
( http://grandmasterlu.info/%E6%BC%A2%...97%8F%E5%83%A7 )
============================
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...107-09-121.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...07-09-1-24.jpg
http://www.tbsn.my/%E6%B4%BB%E5%8B%9...=1&limitstart=
Gia Trì Linh Thiêng cho Sợi Dây 5 Màu Ngũ Sắc
Của Wisdom Compassion Trí Tuệ Từ Bi ཤེས་རབ་དང་སྙིང་ར ེ། · Cập nhật khoảng một năm trước
Dây ngũ sắc Phật Giáo có 5 màu tượng trưng cho 5 loại Pháp Môn Phật gồm Tín, Tiến, Niệm, Định, Tuệ.
Trong Kinh Điển nhà Phật có nói Dây Ngũ Sắc cũng là đại biểu cho Kim Cương Giới của Ngũ Phật, nếu như đeo dây Ngũ Sắc, tâm quán tưởng Tây Phương A Dì Đà Phật (Màu Đỏ), Nam Phương Bảo Sinh Như Lại Phật (Màu Vàng), Bắc Phương Bất Không Thành Tựu Phật (Màu Xanh Lá), Đông Phương A Súc Bệ Phật (Màu Xanh Da Trời), Chính Giữa là Tỳ Lô Giá Na Như Lai còn được gọi là Đại Nhật Như Lai Phật (Màu Trắng)! Năm phương Đại Phật đều chiếu Phật Quang ánh sáng vàng chói của giải thoát, tức là có thể đắc được Ngũ Phương Kim Cương Đại Phật bảo hộ thân mình. Chỉ ngũ sắc có tác dụng trừ tà ma, đem lại cát tường cho mọi người. Vòng đeo tay kết chỉ Ngũ Sắc được gia trì Ngũ Phật Tâm Chú, được 5 Đức Phật gia hộ, nên khi mang dây Ngũ Sắc thì nên thường Tâm Niệm hình ảnh 5 vị Phật như kể trên mang lại bình an, may mắn, thành đạt và hạnh phúc cho tất cả những ai sở hữu nó. Nếu thường trì chú thêm vào cho dây ngũ sắc thì công hiệu càng lúc càng mạnh.
Đạo Giáo truyền thống lại có nói, ngũ sắc là đại biểu cho Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy tất cả 5 hành, cũng là Đông Tây Nam Bắc Trung Cung 5 phương vậy.
Trong tập tục dân gian, Dây Ngũ Sắc có thể mang đến nhân duyên, tình cảm tốt lành, ví như: Người nữ chưa có hôn nhân, có thể chọn ngày có trăng đẹp, thành tâm cầu nguyện có được nhân duyên tốt, sau đó đem Dây Ngũ Sắc đeo tại cổ tay, có thể tăng thêm vận Đào Hoa tốt.
Trẻ nhỏ mới sinh các tháng đầu, tại chỗ nằm treo một sợi Dây Ngũ Sắc, sao cho vừa tầm tay với của trẻ, tất sẽ mang đến ngũ phương dẫn dắt gia tăng nhân duyên, khi lớn lên cầu chức nghiệp, công danh tự nhiên sẽ có Quý Nhân giúp cho thành công. Ấy là bởi công năng chiêu cảm nhân duyên tốt lành, có từ lúc mới ra đời vậy.
Đương nhiên bất kể nam nữ, chỉ cần có đeo Dây Ngũ Sắc trên người, tất cả đều thường cảm thấy Tâm Tình yên ổn, cảm thấy tự mình có sức mạnh thu hút; cho nên thường được Quý Nhân hỗ trợ cho.
Dây Ngũ Sắc có thể đeo tại cổ tay, có thể đeo trên cổ hoặc bỏ túi áo ngực mang theo người, hoặc bỏ phong bao đỏ nằm gối đầu; Có chăng cần lưu ý nhất thiết một số cấm kỵ khi dùng dây ngũ sắc như sau:
1. Khi đã đeo dùng Dây Ngũ Sắc không được buông lời chê bai, mất lòng tin hoặc bất kính. Đã không dùng thì không ngay từ đầu.
2. Muốn gia tăng nhân duyên khác giới, nhất định cần làm ở dưới đêm trăng sáng đẹp cầu nguyện.
3. Dây Ngũ Sắc không thể để vô ý mà làm đứt hoặc đánh mất, nếu như bị đứt hoặc không dùng nữa, cần lấy vải đỏ bọc lại cất vào chỗ sạch sẽ hoặc đem đến nơi chùa miếu đốt hóa là được.
4. Trong Kinh Phật đã nói, Dây Ngũ Sắc đại biểu cho Ngũ Phật trong Kim Cương Giới, bởi vậy nên khi mang dây Ngũ Sắc thì nên thường Tâm Niệm hình ảnh 5 vị Phật như kể trên. Nếu thường trì chú thêm vào dây ngũ sắc thì công hiệu càng lúc càng mạnh.
Có hai cách để ban phước thiêng liêng cho sợi dây ngũ sắc và đeo nó được nhắc tới trong Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm Đà La Ni và trong Kinh Dược Sư.
Từ các hướng dẫn trong các bộ kinh, ghi để buộc vào một vài gút nhưng khi bạn thỉnh được sợi dây ngũ sắc nó đã bện lại mà theo ý kiến của tôi, như vậy nó đã được buộc vào nhiều gút cho chúng tôi, vì vậy không cần phải buộc vào thêm gút khi nó đã được bện lại tốt đẹp cho chúng tôi. Chúng tôi muốn nhớ các kinh Phật được viết từ nhiều thế kỷ trước đây và họ không có sợi dây ngũ sắc đã bện lại.
Điều duy còn lại để làm là trì tụng hai tương ứng Chân ngôn Đà La Ni của Chú Đại Bi và Chân ngôn Đà La Ni của Phật Dược Sư cùng với tên của 12 vị Tướng Dược Xoa khi bạn nhận được sợi dây 5 màu ngũ sắc của bạn.
Các hướng dẫn từ Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm Đà La Ni:
Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ Tát bảo Phạm Thiên rằng: “Tụng Chú này năm biến, lấy chỉ ngũ sắc làm sợi dây rồi chú vào 21 biến kết làm 21 gút rồi đeo ở cổ ” Đà La Ni này là điều mà chín mươi chín ức hằng hà sa chư Phật đời quá khứ đã nói. Các Đức Phật ấy vì các Hành Nhân tu hành sáu Độ chưa mãn túc, mau khiến cho được đầy đủ. Người chưa phát Tâm Bồ Đề, mau khiến cho phát Tâm. Nếu người Thanh Văn chưa chứng quả, mau khiến cho chứng. Nếu các Thần, Tiên, Người trong ba ngàn Đại Thiên Thế Giới chưa phát Tâm Vô Thượng Bồ Đề, mau khiến cho phát Tâm.
LƯỢC GIẢNG:
Lúc bấy giờ, sau khi thuyết xong bài kệ, Quán Thế Âm Bồ Tát bảo Phạm Thiên rằng: “... tụng Chú này năm biến ...” Vì sao lại tụng năm biến? Bởi vì trên thế giới này có năm bộ lớn (Ngũ Đại Bộ):
- phương Đông là A Súc Bộ, còn gọi là Kim Cang Bộ;
- phương Nam là Bảo Sanh Bộ;
- phương Tây là Liên Hoa Bộ;
- phương Bắc là Yết Ma Bộ;
- trung ương là Phật Bộ.
Năm biến Chú là tiêu biểu cho năm bộ nói trên. Năm bộ này cai quản cả năm đại ma quân—Đông, Tây, Nam, Bắc, Trung—của thế gian. Ma cũng có Đông, Tây, Nam, Bắc, Trung; Ngũ Bộ thống nhiếp Ngũ Đại Ma.
Như vậy, quý vị niệm Chú Đại Bi năm biến, rồi “lấy chỉ ngũ sắc xe làm sợi niệt.” “Ngũ sắc” tức là năm màu: xanh (dương), vàng, đỏ, trắng, đen. Màu xanh là tiêu biểu cho phương Đông, màu đỏ là phương Nam, màu trắng là phương Tây, màu đen là phương Bắc, và màu vàng là trung ương. Đó là tượng trưng cho Ngũ Phương, Ngũ Bộ.
“Tác sách” tức là bện thành sợi dây.
“Tụng Chú hai mươi mốt biến, thắt làm hai mươi mốt gút, rồi đeo vào cổ.” Bây giờ quý vị tụng Chú Đại Bi hai mươi mốt biến, và thắt hai mươi mốt gút thắt trên sợi dây ngũ sắc, xong lấy đeo nơi cổ.
“Đà La Ni này là do chín mươi chín ức hằng hà sa chư Phật đời quá khứ tuyên thuyết.” Đại Bi Đà La Ni này là pháp mà hằng hà sa số chư Phật đã nói ra.
Các hướng dẫn từ Kinh Dược Sư
Bạch đức Thế Tôn, chúng con phát nguyện, hết lòng phò hộ người trì kinh này, thoát khỏi ách tai, cát tường như ý. Ai muốn cầu gì, dùng “niệt năm sắc,” gút tên chúng con, trì tụng chú thần, ước nguyện trọn phần, mới mở gút ra. Đức Phật Thích ca khen các Dược-xoa, tâm nguyện bao la, phò sinh cứu khổ, đáp đền ân Phật.
Tên của 12 vị Tướng Dược Xoa là:
1. Cung Tỳ La Đại Tướng
Còn gọi là Kim Tỳ La, được dịch ý là Cực Úy. Thân màu vàng, tay cầm bảo xử. Hóa thân của Di Lặc Bồ tát, là thần hộ mạng tuổi Hợi.
2. Phạt Chiết La Đại Tướng
Còn gọi là Bạt Chiết La, Hòa Kỳ La, dịch ý là Kim Cang. Thân màu Trắng, tay cầm bảo kiếm. là hóa thân của Đại Thế Chí, là thần hộ mạng tuổi Tuất.
3. Mê Súy La Đại Tướng
Còn gọi là Di Khứ La, dịch ý là Chấp Nghiêm. Thân màu vàng, tay cầm bảo bổng hoặc độc cổ. là hóa thân của Phật Di Đà, là thần hộ mạng tuổi Dậu.
4. An Đế La Đại Tướng
Còn gọi là Át Nể La, An Nại La, An Đà La, dịch ý là Chấp Tinh. Thân màu xanh lục, tay cầm bảo chùy hoặc bảo châu. là hóa thân của Quán Thế Âm, là thần hộ mạng tuổi Thân.
5. Át Nể La Đại Tướng
Còn gọi là Mạt Nể La, Ma Ni La, dịch ý là Chấp Phong. Thân màu đỏ, tay cầm bảo xoa hoặc mũi tên. là hóa thân của Ma Lợi Chi, là thần hộ mạng tuổi Mùi.
6. San Để La Đại Tướng
Còn gọi là Bà Nể La, Tố Lam La, dịch ý là Cư Ngoại. Thân màu khói Lam, tay cầm bảo kiếm hoặc loa bối. là hóa thân của Hư Không Tạng, là thần hộ mạng tuổi Ngọ.
7. Nhân Đạt La Đại Tướng
Còn gọi là Nhân Đà La, dịch ý là Chấp Lực. Thân màu Đỏ, tay cầm bảo côn hoặc mâu. là hóa thân của Địa Tạng Bồ tát, là thần hộ mạng tuổi Tỵ.
8. Ba Di La Đại Tướng
Còn gọi là Bà Da La, dịch ý là Chấp Ẩm. Thân màu đỏ, tay cầm bảo chùy hoặc cung tên. là hóa thân của Văn Thù Bồ tát, là thần hộ mạng tuổi Thìn.
9. Ma Hổ La Đại Tướng
Còn gọi là Bạc Hô La, Ma Hưu La, dịch ý là Chấp Ngôn. Thân màu trắng, tay cầm rìu báu. là hóa thân của Phật Dược Sư, là thần hộ mạng tuổi Mão.
10. Chân Đạt La Đại Tướng
Còn gọi là Châu Đổ La, Chiếu Đầu La, dịch ý là Chấp Tưởng. Thân màu vàng, tay cầm quyên sách hoặc bảo bổng. là hóa thân của Phổ Hiền Bồ tát, là thần hộ mạng tuổi Dần.
11. Chiêu Đổ La Đại Tướng
Còn gọi là Chu Đổ La, Chiếu Đầu La, dịch ý là Chấp Động. Thân màu xanh, tay cầm bảo chùy. là hóa thân của Kim Cang Thủ, là thần hộ mạng tuổi Sửu.
12. Tỳ Yết La Đại Tướng
Còn gọi là Tỳ Già La, dịch ý là Viên Tác. Thân màu đỏ, tay cầm bảo luân hoặc tam cổ. là hóa thân của Phật Thích Ca, là thần hộ mạng tuổi Tý.
Chân ngôn Đà La Ni của Phật Dược Sư:
Nam Mô Bạc Già Phạt Đế, Bệ Sát Xã, Lũ Lô Thích Lưu Ly, Bát Lặc Bà, Hắc Ra Xà Giả, Đát Tha Yết Đa Da, A Ra Ha Đế Tam Miệu Tam Bồ Đề Da, Đát Điệt Tha. Án, Bệ Sát Thệ, Bệ Sát Thệ, Bệ Sát Xã, Tam Một Yết Đế Tóa Ha
Chú Đại Bi
Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật, Bồ Tát (3 lần)
1. Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni.
2. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.
3. Nam mô a lị da bà lô kiết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da.
4. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da.
5. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.
6. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông, a lị da bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì, hê lị ma ha bàn đà sa mế.
7. Tát bà a tha đậu thâu bằng a thệ dựng, tát ba tát đá, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha.
8. Án a bà lô hê lô ca đế, ca ra đế, di hê lị.
9. Ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê lị đà dựng.
10. Cu lô cu lô kiết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xa da đế.
11. Đà ra đà ra địa ri ni, thất phật ra da. Giá ra giá ra.
12. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ.
13. Y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm.
14. Phật ra xá da. Hô lô hô lô, ma ra hô lô hô lô hê rị.
15. Ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô.
16. Bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ.
17. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na, ta bà ha.
18. Tất đà dạ ta bà ha, Ma ha tất đà dạ ta bà ha,
19. Tất đà du nghệ thất bàn ra da, ta bà ha.
20. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha.
21. Tất ra tăng a mục khư da ta bà ha, ta bà ma ha a tất đà dạ ta bà ha.
22. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha.
23. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha.
24. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha.
25. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.
26. Nam mô a lị da bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ ta bà ha.
27. Án tất điện đô mạn đa ra bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát
11
4
13
1
13
5
12
10
3
Theo trình tự thời gian
Lê Phi Hồng Hà, Hằng Shakira, Le Tung Lam và 88 người khác thích điều n
https://www.facebook.com/media/set/?...4191721&type=3
Chuỗi hạt đá xanh loại lớn
Đá xanh là loại đá quý cấp quốc gia của Tây Tạng loại đá này còn có tên gọi là NGỌC LAM,Đá Turquoise.Thời cổ đại loại đá xanh được xếp vào hàng đá quý tộc,chỉ có hoàng gia mới được sử dụng,đá xanh có công năng đặc biệt về tâm linh nên rất được những tu sĩ ưa chuộng,đá loại tốt và đẹp sẽ được dùng làm đồ trang sức,loại đá nhiều tuổi và xấu hơn sẽ được làm những đồ mỹ nghệ và tràng hạt,đặc biệt đá càng lâu năm tuy về hình thức không đẹp nhưng nó lại hấp thu rất nhiều tinh hoa của trời đất nên khi làm những đồ mỹ nghệ hoặc tràng hạt sẽ đem lại giá trị tâm linh rất lớn.Màu sắc đá Turquoise có 2 loại,màu xanh da trời rất hiếm và giá trị và màu xanh lam.
Tràng hạt đá Turquoise này gồm có 108 viên nhỏ và 2 đầu mỗi đầu 7 viên rất thuận tiện cho sự hành trì khi phải tụng niệm 7 lần,21 lần và 108 lần.Dây xâu tràng hạt là loại dây còn gọi là chỉ NGŨ SẮC tức là 5 màu dây đại diện cho ngũ phương phật.Với sự gia trì vào vòng MALA rất lớn như vậy những phật tử không nên bỏ qua pháp khí quý báu này.Tibetanshop chỉ có 2 loại MALA làm bằng chất liệu ĐÁ XANH và SAN HÔ ĐỎ.
Tên sản phẩm: Dây MALA đá turquoise
Chất liệu: Đá Xanh<ĐÁ Turquoise>
Số lượng: 108 hạt nhỏ,
Kích thước: 4 mm /1 viên
Giá thị trường: 14 USD
GIÁ CỦA TIBETANSHOP: 180 nghìn VND/1 dây
https://uphinhnhanh.com/images/2017/06/20/DSC00822.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/06/20/DSC00825.jpg
http://tibetanshop.blogspot.com/2009...-loai-lon.html
Hướng Dẫn Mua Hàng
Các bạn mua hàng tại http://www.tibetanshop.blogspot.com/ như sau
1>Lựa chọn sản phẩm trên wedsite tại các nhóm sản phẩm Pháp Khí Phật Giáo,Pháp Khí Phong Thủy,Trang Sức Tây Tạng.Sau khi lựa chọn mà vẫn thắc mắc về sản phẩm các bạn có thể hỏi thêm thông tin về sản phẩm và đặt hàng qua cửa sổ Hỗ Trợ Trực Tuyến ở trên.Hoặc gửi tin nhắn đặt hàng ở dưới bài viết giới thiệu sản phẩm.Yêu Cầu:ghi rõ họ tên,số điện thoại liên lạc,địa chỉ Email,địa chỉ nơi nhận hàng,tên hàng,số lượng.Tibetan Shop sẽ gửi tin nhắn để xác nhận đặt hàng.Chậm nhất là sau 5 ngày chúng tôi sẽ gửi sản phẩm tới tận địa chỉ đặt hàng của các bạn,với những đơn hàng có giá trị từ 500 nghìn trở lên sẽ được miễn phí vận chuyển.
-Những đơn hàng có giá trị từ 500 nghìn VND quý vị sẽ phải thanh toán tiền cho tibetanshop trước.
2>Những sản phẩm có giá bán tính bằng USD thì sẽ tính quy đổi ra VNĐ căn cứ vào tỷ giá hối đoái của ngày đặt hàng
3>Những sản phẩm có ghi hết hàng nếu các bạn vẫn muốn đặt hàng thì sẽ phải đợi cửa hàng chính từ nước ngoài gửi hàng về nhưng muộn nhất sẽ không quá 10 ngày,nếu có trục trặc về vấn đề vận chuyển chúng tôi sẽ báo lại cho các bạn bằng tin nhắn hoặc Email.
Mọi chi tiết xin liên hệ số điện thoại 04.62948929 hoặc 0127.2012140.Gặp Tuấn.Địa chỉ số 8 ngõ 69 Tân Ấp ,Ba Đình, Hà Nội
Tibetanshop rất sẵn lòng giúp đỡ các đạo hữu tu mật tông tại Việt Nam.
www.tibetanshop.com
http://tibetanshop.blogspot.com/sear...Dt%20T%C3%B4ng
======================
Một nét đẹp thanh khiết nhẹ nhàng lan tỏa, làm không gian xung quanh dường như tỉnh mịch, thời gian như cô đọng, tôi không biết tôi đứng đó bao lâu. Một bàn tay vổ nhẹ lên vai tôi, quay lại tôi thấy người phụ nữ âu châu trong bộ lụa trắng trang nhã và một xâu chuổi ngọc lưu ly (Turquoise) xanh biếc mầu da trời trên cổ áo, bà ta mỉn cười hỏi tôi:
http://www.duocsu.org/009phcoban/204.html
Cây phướn ở chùa Phật
https://uphinhnhanh.com/images/2017/06/20/chuanbi1.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/06/20/110e109.jpg
NSGN - Cứ đến các ngày lễ trọng, chùa nào cũng treo cây phướn. Cây phướn cao cùng các loại phướn nhỏ dùng để trang trí đàn tràng, tạo nên cảnh trí trang nghiêm, rất riêng của lễ hội Phật giáo. Ấy thế, cội nguồn và ý nghĩa của cây phướn ra sao lại là chuyện không dễ để tỏ tường.
I.
Câu chuyện phổ biến giải thích lai lịch cây phướn ở xứ ta là Sự tích cây phướn nhà chùa(1), truyện kể rằng:
Xưa có một người chuyên môn ăn thịt người. Hắn đã từng bắt giết không biết bao nhiêu nhân mạng. Tuy hung ác vô đạo, nhưng hắn lại thờ mẹ rất có hiếu. Một hôm, có một nhà sư đi quyên giáo qua đó bị hắn bắt. Khi hắn sắp giết thịt thì mẹ hắn ra xin hộ cho nhà sư. Thấy mẹ năn nỉ quá, hắn đành buông dao rồi hỏi nhà sư làm gì và đi đâu. Nghe nhà sư kể chuyện, cả hai mẹ con rất hối hận về những tội ác từ trước đến nay. Hai mẹ con cũng muốn kiếm một vật cúng cho nhà chùa nhưng ngặt vì trong nhà chả có gì đáng giá cả. Nhưng người con đã tình nguyện nạp bộ lòng của mình đưa về cúng Phật. Vừa nói hắn vừa rạch bụng moi ruột đưa ra. Nhà sư cũng nhận lấy nhưng đến bờ suối thì quẳng luôn xuống nước. Có con quạ thấy vậy, tha bộ ruột ấy bay đến chùa, đậu trên ngọn cây kêu lên om sòm. Đức Phật rõ chuyện, khen thưởng con quạ mà phạt tội nhà sư. Đồng thời đưa hai mẹ con nhà kia lên trời thành Phật. Từ đó nhà chùa làm cây phướn để ghi nhớ việc ấy. Trên cây phướn bao giờ cũng tạc hình con quạ ngậm một tấm lụa dài độ hai ba mươi thước. Tấm lụa tượng trưng cho bộ ruột của người đã rạch bụng cúng Phật.
1.JPG
Lại nữa, ở một dị bản khác có cốt chuyện tương tự, Sự tích cá he, tức là cá lợn, cá heo, hay hải trư (marsoruin), ở Nam Bộ còn gọi là cá nược.
Ngày xưa có một nhà sư trẻ tuổi rất ngoan đạo. Sau hơn nhiều năm khổ công tu luyện mà vẫn chưa thành chính quả. Sư quyết chí tìm đường sang Tây Trúc hỏi Phật. Cuộc hành trình muôn phần vất vả. Một hôm, đến một khu rừng thì trời đã chiều. Sư xin vào tá túc một ngôi nhà. Sư vì quá mệt mỏi nên vật ra ngủ khiến người mẹ sợ đứa con hung ác của bà là Ác Lai trở về sẽ bắt nhà sư ăn thịt nên lôi sư đi giấu. Ác Lai về đến nhà ngửi thấy ngay mùi thịt người, hắn nhanh chóng chạy đi tìm. Chả mấy chốc, hắn đã kiếm được sư. Khi vị sư tỉnh dậy thì Ác Lai đang cầm một mũi mác lăm lăm ở tay. Thấy hắn cũng không khác gì người thường, sư bèn nói rõ mục đích của mình, rồi luôn miệng, sư giảng đạo từ bi cho hắn. Sư nói mãi, nói mãi, kể lại bao nhiêu nỗi gian truân dọc đường, và niềm mong muốn cuối cùng là làm sao gặp được Đức Phật để cầu Phật độ cho thành chính quả. Nghe những điều sư giảng giải, mẹ con Ác Lai cảm động đến rơi nước mắt. Thấy họ thành thật hối lỗi, sư cho họ biết là họ cũng sẽ trở nên “vô sinh vô diệt”, sẽ sống một đời sống bội phần sung sướng trên Nát-bàn, nếu họ nhất quyết bỏ ác làm thiện. Tự nhiên mũi mác ở tay Ác Lai rơi xuống sàn. Những đường nhăn hung ác trên mặt Ác Lai mới đó giờ đã dịu lại.
Sáng hôm sau, khi sư sắp sửa lên đường thì mẹ con Ác Lai vui vẻ sắp sẵn lương thực cho sư. Họ lại tiễn đưa sư sang tận bên kia một ngọn núi đá. Khi sắp từ biệt, Ác Lai hỏi: Tôi biết lấy gì mà dâng Phật đây? Sư đáp: “Tâm tức thị Phật, Phật tức thị tâm”. Chỉ tấm lòng mình là đủ.
Ác Lai hiểu theo nghĩa đen của câu pháp ngữ, nhanh như cắt, rút mũi mác tự rạch bụng mình lôi ra cả một mớ ruột gan đưa cho sư và nói: Nhờ Hòa thượng dâng hộ tấm lòng thành này lên Đức Phật.
Sư lấy làm bối rối quá, chẳng biết làm sao nên đành gói bộ lòng Ác Lai quảy lên vai, cất bước ra đi...
Bộ lòng càng ngày càng thối, sợ hàng quán không ai dám chứa mình, sư bèn vứt bộ lòng Ác Lai xuống biển.
Đến Tây Trúc, khi phủ phục trước Phật đài nói lên nỗi thắc mắc của mình vì sao chưa được đắc đạo thì bỗng nhiên trên điện cao có tiếng vọng xuống bảo chàng: “Còn thiếu một vật nữa mới thành chính quả”. Sư rất đổi kinh ngạc, ngước lên trên cao vòi vọi, sư thấy Đức Phật ngự giữa tòa sen sáng chói, sau lưng có bóng dáng hai người tựa hồ như hai mẹ con Ác Lai. Sư bỗng hiểu hết: Đức Phật đã rõ sự thiếu thành thực, thiếu tận tâm của mình rồi; còn mẹ con Ác Lai nay đã thành chính quả chỉ là nhờ trong một lúc, ngộ đạo mau lẹ và chân thành.
Nhà sư sau đó trở lại chốn cũ để tìm bộ lòng. Tuy biển mênh mông sâu thẳm, nhưng sư cũng cố lặn hụp để mong thấy lại món quà dâng Phật mà Ác Lai gửi cho mình. Sau đó sư hóa làm loài cá mà người ta vẫn gọi là cá he/cá nược/cá ông sư. Và cho đến ngày nay, dòng dõi loài cá đó con nào con nấy có cái đầu trọc như đầu ông sư và vẫn làm cái việc của nhà sư, nghĩa là chúng đi thành đàn, cứ lặn xuống nổi lên luôn, không chịu nghỉ.
Theo Mỹ Ấm tùy bút thì mẹ Ác Lai được Phật độ cho làm mụ Thiện. Ác Lai trở thành hai vị Hộ pháp được Phật cho giữ chùa mà ta thường gọi là ông Thiện - ông Ác. Tại sao một người lại hóa thành hai? Đó là vì tuy là một nhân vật nhưng kể từ khi rạch bụng cúng Phật đã tách thành hai con người khác hẳn. Ông Thiện là hiện thân của quãng đời sau của Ác Lai (thời kỳ ngộ đạo), Ông Ác là hiện thân của quãng đời trước (chưa ngộ đạo).
Truyện Sự tích cá he lưu hành ở miền Nam. Nhân dân miền Bắc có Sự tích chim bìm bịp với nhân vật chính là sư nữ, yêu mẹ và yêu con, nội dung tương tự, cuối truyện vị sư nữ được Phật cho hai cái cánh để tìm lại bộ ruột nhưng tìm hoài không thấy nên sư biến thành chim bìm bịp, ngày đêm chui rúc hết bụi này đến bụi khác, thỉnh thoảng lại lên tiếng than thở, phảng phất như tiếng “bìm bịp”. Loài chim này đầu đen, mình nâu, mắt đỏ như máu. Đó là di tích của hình tướng vị sư nữ: đầu chít khăn đen, mình mặc áo vải nâu già. Còn mắt đỏ là vì khóc nhiều mà sinh ra thế.
Ở Nghệ An có dị bản nữa: Xưa, Đức Phật sai một người đi sang một nước khác để lấy kinh về cho mình. Người ấy đưa về đến nửa đường thì bị một con hổ ăn thịt (Về tình tiết này, một người khác ở Cát Ngạn/Thanh Chương kể rằng người ấy bị một con rùa lớn làm chìm mất thuyền kinh). Thấy kinh Phật tan tác giữa đường, một con quạ bèn tha về cho Đức Phật. Để trả ơn quạ, Đức Phật sai làm một cây nêu rất cao cho quạ đậu trên đó. Về sau, nhà chùa thường trồng cây phướn, trên có quạ ngậm dải lụa/vải dài là vì thế(2).
Thêm vào đó, một dị bản có chi tiết khác như sau: Một nhà sư sang Tây Trúc thỉnh kinh, đến bờ biển không có đò, nhờ có con rùa nổi lên chở đi. Dọc dường rùa dặn:
- Xin ông hỏi hộ với Phật tại sao tôi cứ phải ở nước mãi khổ lắm.
Sư ta nhận lời... Khi sư quay về lại được rùa đón chở. Đi được nửa đường, rùa hỏi về điều mình nhờ hỏi hộ. Sư đáp:
- À quên!
Rùa giận lặn mất, vì thế kinh kệ ướt cả! May có con diều bay đến, tha kinh lên phơi phóng. Do câu chuyện này người ta cho rằng rùa bị tội đội bia. Còn diều thì được biểu dương bằng cách ngậm phướn(3).
Sự tích cây phướn ở chùa Nành (Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội) quả là một truyện đặc sắc. Chuyện kể: Bên dòng sông Thiên Đức có bác chài sống độc thân bằng nghề đánh cá. Nhân năm chùa trùng tu, dân làng tỏa đi các nơi quyên giáo. Khi đoàn người qua sông, bác chài xin chở đò không lấy tiền công. Nhưng lòng vẫn băn khoăn vì tiền bạc chẳng có, biết lấy gì cúng cho nhà chùa.
Tài sản ngoài con thuyền nát thì chỉ có hai cái khố. Chiếc rách đóng trên thân. Nghĩ mãi, bác quyết định mang chiếc khố mới ra làm vật cúng.
Những người quyên giáo chẳng thấy bác đưa vật phẩm gì, lại đưa khố thì không bằng lòng, cho rằng bất kính. Bác chài nghe vậy ngẩn người, giãi bày đây là tấm lòng thành, trong lều chẳng có gì hơn. Rốt cuộc, họ không nhận khố và cũng không lên đò. Mọi người quay về vì cho là... xuất hành gặp chuyện xúi quẩy.
Dân làng đâu có biết bác mấy ngày không hạt cơm trong bụng. Tài sản quý nhất dành đem cúng thì bị từ chối. Bác tủi thân nghĩ chỉ có một cách giải bày tâm can là rạch bụng moi hết ruột gan cho mọi người biết. Nghĩ rồi làm ngay việc đó trước mặt dân làng.
Sự việc xảy ra trong chớp mắt, dân làng bàng hoàng sợ hãi. Trong lúc tất cả đang bối rối thì có hai con quạ từ trên trời cao sà xuống quắp luôn bộ lòng bác chài bay thẳng về hướng chợ Nành rồi vứt xuống gốc đa Thạch Sàng, kêu lên ba tiếng xong bay thẳng hướng Tây.
Thạch Sàng là nơi khi xưa Thiền sư Khâu Đà La ngày đi truyền giáo, tối về nằm ngủ trên phiến đá dưới gốc cây.
Sự việc đập vào mắt sư trụ trì chùa Nành. Ngài vội chắp tay niệm Phật theo hướng quạ bay, lập tức cho dựng một cây tre thật cao trong sân chùa. Trên cao tạc hình con quạ ngậm dải lụa trắng, biểu thị tấm lòng trong sáng của một Phật tử. Rồi sư lại cho dựng hai cây tre ở góc ao trước cửa chùa, trên treo hai dải lụa ngắn tượng trưng cho hai cái khố của bác chài, ghi nhớ tấm lòng thành tâm(4).
2.JPG
Lá phướn ở chùa Nành.
II.
Những dị bản về sự tích cây phướn cho thấy, ở những tọa độ địa lý - lịch sử khác nhau có những quan niệm cũng như kiến giải riêng biệt về cây phướn nhà Phật. Điều này cho thấy Phật pháp đã ăn sâu vào đời sống tinh thần và tình cảm của nhân gian theo các tầng mức khác nhau. Do đó, việc truy nguyên về nguồn gốc phan/phướn giúp chúng ta thấy được cội nguồn đích thực và chân nghĩa của loại pháp khí nhà Phật này.
Theo Từ điển Phật học Huệ Quang, Phan(5) (Phạn: Pataka/Ketu) là từ gọi chung các loại cờ xí. Phật giáo dùng phan để hiển bày uy đức hàng ma của chư Phật, Bồ-tát.
Theo kinh Quán đảnh thì hình dạng cơ bản của phan gồm: đầu phan hình tam giác, thân phan hình chữ nhật dài, phần dưới tua gọi là chân phan. Có thể dùng nhiều thứ vật liệu để tạo phan như gấm, lụa, sa-tanh, đồng dát mỏng, ngọc báu, gỗ... Con về màu sắc, có loại phan chỉ có một màu như trắng, đỏ, vàng, xanh, vàng nhạt, hồng. Mật giáo thường dùng phan 5 màu: xanh, vàng, đỏ, trắng, đen để phối hợp với ngũ hành và ngũ tạng trong thân thể. Ngoài ra còn có phan 8 màu, phan 9 màu, phan tạp sắc...
Ngoài ra, căn cứ các hình được vẽ trên phan và hình dáng của phan mà chia thành 4 loại: 1. Hội phan: Phan vẽ các hình chư Phật, Bồ-tát, Minh vương, Thiên thần; 2. Chủng tử phan: Phan viết các chủng tử để thay thế cho các hình tượng Phật, Bồ-tát; 3. Tam muội da hình phan (còn gọi: Phật pháp phan): Phan vẽ hình Tam muội da của chư Phật, Bồ-tát; 4. Tràng phan: Phan có hình lục giác hoặc bát giác. Các loại phan này, còn được gọi tên theo nơi treo phan như Kim đường phan (Trung đường phan, Phật điện phan), Giảng đường phan, Di Lặc đường phan, Đình phan.
Về công năng của phan theo kinh Quán đảnh 11, người tạo phan sẽ được lìa khỏi 8 nạn khổ, sinh về Tịnh độ 10 phương của các Đức Phật và theo kinh Quán đảnh 12, tạp phan ngũ sắc sẽ thoát ly được bệnh khổ, mạng sống lâu dài. Mặt khác, tùy theo pháp sự, tức các khoa nghi khác nhau, phan được gọi tên khác nhau và có công năng đặc thù: Quán đảnh phan (dùng trong lễ Quán đảnh của Mật tông); trong lễ cầu an, cầu thọ có Tục mạng phan, Thọ mạng phan; trong việc tang tế có: Tiến vong phan, Mạng quá phan; và trong khoa nghi thí thực có Thí ngạ quỷ phan...
Trong thực tế, hiện tượng phổ biến là sự nhập nhằng giữa phan và tràng. Về đại thể thì tràng và phan không khác nhau mấy, nhưng nếu phân biệt theo hình dạng thì loại có hình chiếc thùng tròn gọi là tràng, loại hình dẹp dài gọi là phan.
Tràng (Phạn: Dhvaja/Ketu), còn gọi là Bảo tràng, Thiên tràng, Pháp tràng. Trên tràng có hình dáng chiếc thùng tròn có vẽ hoặc thêu các dấu hiệu, dùng để trang nghiêm trước Phật, Bồ-tát và đạo tràng(6).
Đại nhật kinh sớ 9 (Đại 39, 673 thương) ghi: “Tiếng Phạn là Đà-phạ-nhã/Dhvaja, Hán dịch là tràng; tiếng Phạn là Ketu/Kế-đô, Hán dịch là kỳ. Hình dáng của hai loại này hơi khác nhau, tràng chỉ dùng màu sắc để biểu thị sự trang nghiêm, còn Kế-đô có hình dáng đại khái cũng giống như tràng nhưng có thêm mật hiệu, như quân đội cổ vẽ các thứ hình rùa, rồng, chim, thú”.
Theo Đại nhật kinh sớ thì hình thức, kích thước của Đà-phạ-nhã cũng giống như Kế-đô, nhưng đặc biệt xem trọng sự liên quan giữa Kế-đô và cờ quân đội, nghĩa là nếu với vua hoặc tướng quân thì thêm hình vẽ các động vật trên cờ, còn cờ mà Phật, Bồ-tát sử dụng thì phụ vẽ viết thêm văn tự đại biểu cho Phật, Bồ-tát. Tràng tượng trưng cho ý nghĩa phá dẹp, nên được coi là pháp cụ trang nghiêm dùng để tán thán Phật, Bồ-tát và trang nghiêm đạo tràng.
Trong các dụng cụ trang nghiêm của Mật giáo, có thuyết cho rằng tràng và phan giống nhau, như phan dùng trong giới đàn Quán đảnh Tam muội da gọi là tràng; tức nối liền 3,4 đoạn vải hình vuông, phía trên kết móc với 1 tấm vải hình tam giác trên đỉnh, đều có kết một sợi vải thòng xuống, dưới cùng lại kết 4 sợi lụa rủ xuống dưới, trên mỗi tấm vải hình vuông đều có vẽ hình Tam muội da của Phật, Bồ-tát. Thuyết khác cho rằng tràng là cờ treo trên trụ cao, biểu thị tâm đại Bồ-đề của Mật giáo. Trên đỉnh của cán cờ có đặt hạt bảo châu như ý thì gọi là Bảo tràng, Như ý tràng, Ma-ni tràng. Còn ấn Dữ nguyện là hình Tam muội da của Bảo Sanh Như Lai, Bồ-tát Kim Cang Tràng, Bồ-tát Trừ Cái Chướng và Bồ-tát Địa Tạng. Ở Nhật Bản thì tràng và phan chỉ là một vật.
Theo Mật tông thì Thắng lợi tràng (Dhvaja) còn gọi là kim tràng (cờ vàng), bảo tràng (cờ quý), tràng mang nghĩa là chỉ cờ. Tràng vốn có nguồn gốc từ một loại cờ trong quân đội của Ấn Độ cổ, khi chiến thắng đối phương, cờ của kẻ thắng sẽ được giương cao lên, muôn người hô lớn. Đối với Phật giáo, tràng thường đặt trên bốn góc của đỉnh điện Phật và hai bên cửa của chùa tháp, tượng trưng Phật Đà chiến thắng tứ ma.
Dạng thức của cờ chủ yếu có hai loại: Một là loại cờ bằng lụa, hình ống dài, dùng chín tầng lụa bạch kết nối mà thành. Màu sắc của nó có xanh lam, trắng, đỏ, xanh lục, vàng; trên đỉnh có gắn châu báu hoặc mấu 3 cạnh, chủ yếu đặt ở trong Phật đường. Một loại khác là cờ được làm bằng đồng, trên đó có khắc câu chú, đầu sư tử, chuỗi ngọc, trên đỉnh là vòng lửa; cờ có hình lục giác hoặc bát giác, trên mỗi góc có treo một chiếc chuông. Cờ đồng được mạ vàng, khi để dưới ánh sáng mặt trời sẽ phát sáng, ánh sáng rạng rỡ vô cùng. Cờ đồng thông thường đều được đặt trên đỉnh phòng, bốn góc hoặc hai bên trước trong Phật đường của chùa viện. Trong đó cờ hình trụ tròn thường thấy nhất, cờ trắng nhỏ biểu thị sự che chở chúng sinh, cờ sắc vàng có hình ảnh đầu ma yết (thủy quái Makara) tượng trưng cho Phật Đà chiến thắng tất cả dục thần và tất cả ma chướng.
Phật giáo dùng cờ để ví với nghiệp chướng, phiền não được giải thoát, giác ngộ thành chánh quả. Phật giáo Tạng truyền cho rằng, nó là tượng trưng của giới, định, tuệ, giải thoát, đại tuệ, phương tiện, vô ngã, ngộ duyên khởi, ly thiên kiến và không, vô tướng, vô nguyện. Vì thế, thắng lợi tràng đại diện cho thân Phật, biểu thị sự cứu chữa bệnh tật cho chúng sanh, giải trừ các ma chướng phiền não, cuối cùng được giải thoát lên cõi Niết-bàn.
Sau khi Phật giáo hưng thịnh, tràng phan dần dần được các tăng nhân chọn dùng trong các hoạt động liên quan đến nghi lễ Phật giáo, biểu thị ý nghĩa Phật pháp vững chắc, chiến thắng được tà môn ngoại đạo, phát triển không ngừng.
Nói chung, cờ là biểu hiện của chiến trận, vừa là dấu hiệu của quyền chỉ huy, dấu hiệu tập hợp và là biểu hiện của bản thân chủ tướng. Tranh tượng Ấn Độ giáo đã nêu rõ ý nghĩa đó: lá cờ chiến thắng là dấu hiệu của chiến tranh và từ đó, là dấu hiệu của hành động chống lại các sức mạnh ác hại. Trong Đạo giáo, lá cờ hiệu là tiếng hô gọi, thỉnh triệu (gọi hồn, cầu thần, hô phong hoán vũ) và đồng thời là sự bảo trợ bằng pháp thuật. Có quan niệm như vậy là vì ở Trung Hoa xưa, những lá cờ không chỉ là biểu hiện của những đoàn quân hay của các tướng lĩnh thực sự có tài năng và đức độ(7). Như đã trình bày trên đây, phướn là một loại cờ đặc biệt với những công năng diệu dụng. Ở xứ ta, ngoài các công năng đó, các sự tích suy nguyên về lá phướn lại là những câu chuyện đậm đà tính chất khuyến thiện, đề cao thiện tâm của con người.
Chú thích
(1) Theo Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Nguyễn Đổng Chi, NXB. Giáo Dục, 2000.
(2) Theo Việt Nam phong tục, Phan Kế Bính (Bản khai của xã Đức Mỹ), 1915.
(3) Theo Tạp chí Đông Dương, tập XIII, số 1 (1910) (Bản khai của sách Hữu Lập, sách Vĩnh Lại.
(4) Theo Đông Ngàn: Cây phướn chùa Nành (báo Tiền Phong).
(5), (6) Theo Từ điển Phật học Huệ Quang, Thích Minh Cảnh chủ biên, tập 6; tập 10.
(7) Từ điển biểu trưng văn hóa thế giới, NXB. Đà Nẵng, 1997.
Huỳnh Thanh Bìn
Chuỗi đá ngọc lam turquoise lớn S6289
+ Chất liệu và hoàn thiện: Chuỗi đeo tay đá ngọc lam turquoise cỡ lớn (tại Việt Nam).
+ Kích thước (đường kính) : Chuỗi 12 ly, 14 hạt,
+ Khối lượng: 45.2gr
+ Ý nghĩa: Đá ngọc lam giúp người đeo chống lại những sức mạnh của bóng tối. Ngoài ra màu sắc của loại đá này làm chúng ta cảm thấy hạnh phúc và vui vẻ vì nó là sự kết hợp giữa màu xanh nhẹ của bầu trời và biển. Có tác dụng chữa bệnh rất tốt cả về tinh thần lẫn thể chất đồng thời củng cố sức mạnh cho cơ thể. Hợp mệnh Thủy, Mộc.
+ Cách sử dụng: trang sức phong thủy đeo tay..
+ Tình trạng: còn hàng, số lượng 03 cái.
s6289 chuoi da ngoc lam lon turquoise 150x150 Chuỗi đá ngọc lam turquoise lớn S6289
s6289 chuoi da ngoc lam lon turquoise 1 150x150 Chuỗi đá ngọc lam turquoise lớn S6289
s6289 chuoi da ngoc lam lon turquoise 2 150x150 Chuỗi đá ngọc lam turquoise lớn S6289
Product Options
# Option Price Sale Price
1 Chuỗi đá ngọc lam turquoise lớn S6289 VND 550,000.00
http://vatphamphongthuy.com.vn/wp-co...-turquoise.jpg
http://vatphamphongthuy.com.vn/wp-co...urquoise-1.jpg
http://vatphamphongthuy.com.vn/wp-co...urquoise-2.jpg
http://driver.gianhangvn.com/file/14...9274f22128.jpg
http://tranghatbode.com.vn/chuoi-luo...mm-658969.html
http://vatphamphongthuy.com.vn/chuoi...289-42695.html
==========
Đá Ngọc Lam (Turquoise)
Đá quý Ngọc Lam hay còn gọi là đá Turquoise. Trong thiên nhiên loại đá này có màu xanh lam gồm một dải màu có thể trải dài từ xanh lá sang xanh da trời.
Đá quý Ngọc Lam là một khoáng chất phốt phát ngậm nước của nhôm và đồng với động cứng 6, mềm hơn thạch anh. Loại đá này có màu xanh lam với dải màu của nó có thể trải dài từ xanh lục sang xanh da trời. Màu xanh lam của loại đá này được tạo ra bởi đồng, màu lục bởi sắt và một ít của crom hóa trị hai. Ngoài ra loại đá này cũng thường có những dải màu đen, nâu hoặc vàng chạy ngang qua tinh thể này.
Loại đá này thường có đa số ở những khu mỏ nổi tiếng như: Mỹ, Mexico, Israel, Iran, Afghanistan và Trung Quốc và Bắc Iran.
Đá quý Turquoise tỏa sáng với màu xanh bầu trời là một trong những màu được ưa chuộng nhất để chế tạo trang sức phong thủy cho người đeo.
Đá quý Ngọc Lam tương đối mềm. Nếu không biết cách bảo quản thì màu sắc đá có thể chuyển sang tái nhợt khi đá được mang trong một thời gian dài. Do đó để giữ cho đá không bị đổi màu khi đeo cần phải bảo vệ đá tránh sự tiếp xúc với những loại mỹ phẩm, nhiệt và ánh sáng mạnh. Tốt nhất nên lau chùi đá thường xuyên bằng loại vải mềm.
vong-tay-da-Turquoise-12ly
Vòng tay đá ngọc lam (Turquoise) mang lại bình an may mắn cho người đeo
1. Ý nghĩa phong thủy:
- Người Ba Tư cho rằng:” Bàn tay mà mang một viên đá quý Ngọc lam thì chưa bao giờ nhìn thấy nghèo nàn”. Ở Mexico người ta thường trang trí những mặt nạ nghi thức với loại đá này theo lòng tin của họ với thần thánh.
- Ngày nay những người da đỏ ở Bắc Mỹ vẫn còn sản xuất nhiều đồ nữ trang bạc truyền thống với đá ngọc lam. Vì họ tin rằng loài đá có sắc xanh này mở ra sự kết nối trực tiếp giữa bầu trời và biển.
- Đá ngọc lam giúp người đeo chống lại những sức mạnh của bóng tối. Ngoài ra màu sắc của loại đá này làm chúng ta cảm thấy hạnh phúc và vui vẻ vì nó là sự kết hợp giữa màu xanh nhẹ của bầu trời và biển.
day-chuyen-da-turquoise
Dây chuyền đá Turquoise phù hợp cho người mạng Thuỷ mạng Mộc
2. Đặc tính chữa bệnh:
- Đá ngọc lam có sự tương thích đặc biết với chakra cổ họng, tim và trán. Nó có tác dụng rất tốt trong việc làm sạch cho cổ họng cũng như chữa những bệnh về đau họng và làm sạch phổi. Nó nâng cao khả năng giao tiếp bằng tiếng và bằng chữ, giúp ta nói ra cảm xúc thật của mình.
- Đá ngọc lam được đeo để bảo vệ con người khỏi những năng lượng xấu. Người ta cho rằng nó đổi màu khi chủ nhân sắp có nguy hiểm và bệnh tật. Nó giúp người đeo tỉnh tảo khi làm những hành động tâm linh. Đá ngọc lam có tác dụng chữa bệnh rất tốt cả về tinh thần lẫn thể chất đồng thời củng cố sức mạnh cho cơ thể.
- Là tinh thể của sự cân bằng, đá ngọc lam rất tuyệt vời trong việc giữ bình tĩnh và làm diệu hệ thần kinh. Nó có thể làm giảm bớt lo lắng và chữa bệnh suy nhược thần kinh.
- Ngoài ra đá ngọc làm còn có tác dụng làm giảm các bệnh đau cơ và xương khớp, bệnh da liễu, tiêu hóa, cao huyết áp, bệnh suyễn, sốt và đau mắt.
Thegioidaquy.net
http://thegioidaquy.net/tin-tuc/da-n...oise-1945.html
Gia đình là nơi cuộc sống bắt đầu và tình yêu không bao giờ kết thúc (khuyết danh)
💖Mề đay gau Dược sư Phật, vật hộ mệnh cho người phụ nữ bạn yêu thương
🙏Mề đay bằng bạc cao cấp, hình tháp, phủ vàng đính ruby, saphie, bên trong là tượng Phật Dược sư bằng đá turquoise.
Dược Sư Lưu Ly Quang Phật là vị Phật có danh hiệu Thầy thuốc chữa bệnh. Đức Phật Dược Sư - tiếng Phạn là Bhaisajyaguru, tiếng Tạng là Sangye Menla. Ngài trụ xứ tại cõi Tịnh Lưu Ly, trang nghiêm như Cực Lạc, phát 12 đại nguyện giải trừ hết thảy bệnh khổ cho chúng sanh, khiến họ đầy đủ căn lành và hướng về giải thoát.
Tên gọi Dược Sư Lưu Ly Quang Phật mang ý nghĩa: bổn nguyện tiêu trị tất cả trọng bệnh phiền não về thân và tâm của chúng sanh, cứu độ chúng sanh ra khỏi sanh tử khổ đau. Ngài mang bổn nguyện như ánh sáng trong suốt thanh tịnh (Lưu Ly Quang). Cũng bởi vậy mà trụ xứ của Ngài được gọi là cõi Tịnh Lưu Ly.
🙏 Tranh tượng của Phật Dược Sư hay được vẽ với tay trái cầm thuốc chữa bệnh và tay phải kết Ấn Thí nguyện.
Đức Dược Sư hiểu biết và thông suốt tất cả y dược của thế gian và xuất thế gian. Ngài chữa trị hết thảy những bệnh khổ của chúng sanh, điên đảo vọng tưởng do tham, sân, si phiền não gây ra. Ánh sáng của Dược Sư Lưu Ly Quang Phật chiếu đến đâu đều phá hết tăm tối vô minh của chúng sanh, đem lợi lạc và diệt tất cả những bệnh khổ thân tâm của chúng sanh, khiến cho họ xa lìa mê vọng mà hướng đến giác ngộ.
🙏Mề đay Gau Phật dược sư hộ mệnh đeo trên cổ hoặc mang theo bên người sẽ là món quà tuyệt vời dành cho người phụ nữ bạn yêu thương nhân ngày 8.3 này. Giá 2.900.000đ
Kamala Shop.💖
https://scontent.fsgn2-2.fna.fbcdn.n...ff&oe=59E2315D
https://www.facebook.com/shopkamala/...751869642178:0
NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ NGỌC LƯU LY (THỨ NĂM, 15/09/2016)
Ngọc lưu ly có tên tiếng anh là Lapis lazuli. Lapiz lazuli là loại đá xuất xứ từ Paskistan, được dùng với những đá khác để làm sạch và thanh khiết cơ thể.
1. Nguồn gốc của Ngọc Lưu Ly
Không được lấp lánh bởi độ tán xạ cao như các loại đá quý khác, nhưng cũng là loại đá phù hợp cho các kiểu chế tác từ truyền thống đến những tác phẩm điều khắc tinh xảo có độ bóng tuyệt vời.
Ngọc Lưu ly được hình thành từ sự kết tinh đá cẩm thạch (marble) thông qua các quá trình địa chất tiếp xúc biến chất. Với thành phần hoá học là hỗn hợp của nhiều khoáng chất nên chúng thường được coi là một hỗn hợp đá mà không phải là một loại khoáng chất đơn lẻ. Các thành phần cấu tạo nên chất liệu ngọc lưu ly bao gồm chủ yếu là Lazurite (25% cho đến 40%) và các thành phần còn lại là sodalite, canxit, pyrit… Công thức hoá học biểu thị thành phần của chúng là Na6Ca2. Các thành phần khác nhau sẽ tạo nên các màu sắc khác nhau cho những viên ngọc lưu ly khác nhau.
2. Giá trị của Ngọc Lưu Ly
Ngọc lưu ly được loài người biết đến và sử dụng như một loại đá quý trong hàng ngàn năm. Chúng đã được khai thác từ Afghanistan kể từ đầu thiên niên kỷ thứ 7 trước Công nguyên, chúng đã được phát hiện tại các nghĩa địa cổ khắp vùng Mehrgarh, Caucasus, Mauritania. Những viên đá lưu ly thường đắt tiền tuỳ theo độ tuổi / hình dạng / kích size. Cá biệt có những viên quá đắt thậm chí chỉ nhập khi có đơn order lên tới 30 $ usd / v .
3. Cách vệ sinh ngọc lưu ly
Ngọc lưu ly có thể được làm sạch bằng nước ấm, xà phòng. Khi vệ sinh ngọc, cần sử dụng vải mềm và chắc chắn rửa sạch để loại bỏ bất kỳ dư lượng xà phòng nào.
Quan trọng là cần để ngọc nằm riêng biệt hoàn toàn với các đá khác để tránh trầy xước và và nứt vỡ.
4. Quan niệm tâm linh của ngọc lưu ly
Đèn chùm cao cấp
Đèn chùm cao cấp
Ngọc lưu ly là một trong những loại đá được sử dụng từ rất sớm trong buổi bình minh sơ khai của loài người. Trong thời Trung cổ ngoài việc được sử dụng làm trang sức, hoặc được dùng để trang trí cho các bức tường bằng phương pháp khảm.
Ngọc lưu ly được coi là đá của sự thật và tình bạn, có ý nghĩa thúc đẩy sự hài hòa trong các mối quan hệ.
5. Tác dụng đối với sức khỏe
Ngọc lưu ly được cho là có khả năng làm giảm các triệu chứng nhức đầu, đau họng, giãn tĩnh mạch, giảm đau, cứng khớp và các vấn đề về sinh sản. Người ta cho rằng các thiên thần đã tặng nó cho con người bởi lưu ly có vai trò nâng cao và mở rộng trực cảm, tăng cường năng lực ngoại cảm và cho ta tầm nhìn để hiểu thấu những giấc mơ.
Bên cạnh đó, ngọc lưu ly rất tốt để xua tan giận dữ và làm tính khí ôn hòa hơn. Nó được khuyên dùng cho những ai gặp khó khăn trong việc nói ra và biểu lộ cảm xúc của mình vì nó khuyến khích chúng ta nói ra sự thật và tự tin hơn. Tinh thể này cũng đem lại sự sáng suốt, cũng như sự rõ ràng trong lời nói. Một số tác dụng khác của nó bao gồm giảm đau, giúp ngủ ngon, chống hoa mắt chóng mặt và tăng tác dụng tẩy uế.
6. Các sản phẩm đèn trang trí được làm từ Ngọc Lưu Ly
Từ những giá trị nghệ thuật, thẩm mỹ và ý nghĩa phong thủy mà chất liệu Ngọc Lưu Ly mang đến, Đèn An Phước đã cung cấp đến tay người tiêu dùng các dòng đèn được chế tác từ loại ngọc quý hiếm này. Có thể nói, ngọc lưu ly là tinh hoa của tạo hóa, được kết tinh từ lòng đất, kết tụ tinh khí của Thổ nên luôn hàm chứa những năng lượng rất mạnh. Dưới bàn tay tài hoa của những nghệ nhân chế tác đèn đã cho ra đời những dòng sản phẩm đèn trang trí cao cấp, xa hoa với những đường nét đạt tới tầm mãn nhãn.
http://denanphuoc.com.vn/tin-tuc/nhu...ly-c4a141.html
turquoises :: turquoises
Find meaning also in:
GOOGLE TRANSLATORTHE DEFINITIONDICTIONARY.COMMERRIAM WEBSTERWIKIPEDIA
English to Vietnamese Meaning
noun: xa phia, ngọc lam, thứ ngọc lưu ly, thạch anh tím, ngọc có sắc vàng đỏ, lục ngọc thạch
SHOW ENGLISH MEANING SHOW EXAMPLES
Related Phrases
1. turquoise blue = ngọc màu xanh
Synonyms
1. sapphire = xa phia
2. turquoise = ngọc lam
3. lapis lazuli = thứ ngọc lưu ly
4. amethyst = thạch anh tím
5. jacinth = ngọc có sắc vàng đỏ
6. beryl = lục ngọc thạch
Different forms
turquoise, turquoises
Similar Words
turquoise
English to Vietnamese Dictionary: turquoise
Meaning and definitions of turquoise, translation in Vietnamese language for turquoise with similar and opposite words. Also find spoken pronunciation of turquoise in Vietnamese and in English language.
Tags for the entry "turquoise"
What turquoise means in Vietnamese, turquoise meaning in Vietnamese, turquoise definition, examples and pronunciation of turquoise in Vietnamese language.
https://vietnamese.english-dictionar...ning-turquoise
Ý NGHĨA CỦA ĐÁ QUÝ VÀ NGÀY SINH
(Cập nhật ngày: Chủ nhật, 02/10/2016, 11:22 - Lượt truy cập : 1134 )
Tương truyền, nếu bạn mang đúng viên đá biểu tượng cho ngày sinh của mình thì bạn sẽ được bảo vệ khỏi tai ương, có thể vượt qua mọi trở ngại để đến bến bờ hạnh phúc. Bạn có tin không?
1/- GARNET (Ngọc hồng lựu - ngày sinh từ 21/12 đến 20/1): Là loại đá của sức sống và nghị lực. Garnet tượng trưng cho tình yêu chân thật, tin cậy và bất tận. Garnet sẽ mang lại may mắn trong tình yêu, tình bạn và ngăn chặn kẻ thù tấn công bạn.
Màu sắc: đỏ thẳm.
2/- AMETHYST (Thạch anh tím - ngày sinh từ 21/1 đến 20/2): Biểu tương của sự khôn ngoan, sức mạnh và tự tin. Đây là một trong những loại đá tốt nhất cho những ai đang ở trong tình trạng căng thẳng hay bị chứng đau nửa đầu. Ngoài ra nó còn tốt cho những người dễ bị nổi cáu. Amethyst mang đến sự hài hòa và thanh thản trong tâm hồn.
Màu sắc: hoa cà, tím
3/. AQUAMARINE (Ngọc xanh biển - ngày sinh từ 21/2 đến 20/3): Biểu tương của sự hòa bình và yên tĩnh. Người ta tin rằng loại đá này sẽ mang đến sự dễ chịu cho các cặp vợ chồng. Sức mạnh của nó có thể giúp người chồng hay người vợ bày tỏ quan điểm, ý kiến riêng của mình dễ dàng hơn. Nếu mơ về Aquamarine thì có nghĩa là bạn sắp gặp những người bạn mới.
Màu sắc: xanh biển hơi ngả xanh lá hay xanh biển.
4/. DIAMOND (Kim cương - ngày sinh từ 21/3 đến 20/4): biểu tương của tình yêu vĩnh cửu, sự hoàn hảo, tinh khiết và ngây thơ. Viên đá này gắn kết giữa sức mạnh và sự may mắn. Khi đeo nó bên mình, bạn sẽ có một giấc ngủ yên bình, không mộng mị.
Màu sắc: trắng, xám đen, vàng nhạt, hơi đỏ, hơi xanh lá hay không màu.
5/. EMERALD (Ngọc lục bảo - ngày sinh từ 21/4 đến 20/5): Biểu tương của sự phát triển và tốt đẹp, là loại ngọc làm tăng tính sáng tạo và nhận thức. Nó đóng vai trò như một loại thuốc an thần tự nhiên, giúp bạn vơi đi sự lo lắng khi gặp vấn đề khó khăn. Emerald tượng trưng cho sự thanh bình, hạnh phúc và thành công trong tình yêu.
Màu sắc: xanh hơi ngả vàng, xanh lá.
6/. PEARL (Ngọc trai - ngày sinh 21/5 từ đến 20/6): Biểu tượng cho sự thuần khiết, trong trắng và Aphrodite - nữ thần tình yêu trong thần thoại Hy Lạp. Ở một số nước nó còn tượng trưng cho thành công, tình yêu và hạnh phúc. Pearl được dùng như một món quà cưới. Ngoài ra nó giúp người sở hữu có thể hiểu được chính mình.
Màu sắc: trắng, nâu, đen, bạc, kem hay hồng.
7/. RUBY (Hồng ngọc - ngày sinh từ 21/6 đến 20/7): Là một trong những loại đá hoàn hảo nhất. Ruby tượng trưng cho mặt trời, quyền lực, tự do, may mắn và vui vẻ. Nếu đeo gần tim thì viên đá này sẽ giúp cho tình yêu của bạn thêm mặn nồng. Ngoài ra nó còn giúp lưu thông máu và giúp ngủ ngon.
Màu sắc: đỏ hồng đến đỏ tím.
8/. PERIDOT (ngày sinh từ 21/7 đến 20/8): Là loại đá tượng trưng cho lòng nhiệt tình, khoan dung, tiếng tăm, phẩm giá và bảo vệ. Peridot giúp cân bằng cảm xúc và chữa lành vết thương tình cảm trong quá khứ.
Màu sắc: xanh lá, xanh hơi ngả sang vàng, xanh ô liu.
9/. SAPPHIRE (ngày sinh từ 21/8 đến 20/9): Là loại đá của vận mệnh, biểu tượng cho niềm tin và sự hào hiệp. Nó đem lại cho bạn những điều tốt lành nhất và biến nhưng giấc mơ thành sự thật. Viên đá mang đến sự may mắn trong tình yêu. Ngoài ra Sapphire còn đại diện cho lòng trung thành và niềm hy vọng.
Màu sắc: xanh, hồng, tím, vàng, cam…
10/. OPALl (Ngọc mắt mèo - ngày sinh từ 21/9 đến 20/10): Là nữ hoàng của các loại đá quý. Mỗi viên Opal có một nét đẹp tinh tế khác nhau, rực rỡ và óng ánh sắc màu.Opal là biểu tượng cho hy vọng, hành động tích cực và sự thành đạt.
Màu sắc: có nhiều màu, đặc biệt là màu đỏ phát ra ánh lửa.
11/. YELLOW TOPAZ (đá Topaz vàng - ngày sinh từ 21/10 đền 20/11): Được đánh giá là có khả năng chữa bệnh rất tốt. Nó giúp bạn điều tiết cơn giận, giảm stress. Loại đá này chủ yếu dành cho những người bị chưng mất ngủ… Yellow Topaz mang đến sự ấm áp cho cuộc sống của bạn.
Màu sắc: vàng, vàng cam và hồng cam.
12/. TURQUOISE (Ngọc lam - ngày sinh từ 21/11 đến 20/12): giúp bạn khởi đầu những dự án mới. Người xưa cho rằng khi loại đá này ngả sang màu khác thì đó là sự cảnh báo cho nguy hiểm hay bệnh tật. Turpuoise mang đến niềm vui, hạnh phúc và sự may mắn.
Màu sắc: xanh da trời, xanh lá.
http://www.sjc.com.vn/chi-tiet-ban-t...-sinh-332.html
MINH ĐẠO GIA HUẤN
TRÍ – ĐỨC
TÔNG – THƠ
……………….
7
Đoàn – Trung – Còn
Dịch
MINH ĐẠO GIA HUẤN
Tác giả : Trình Di
Dịch giả : Đoàn Trung Còn
Lời Tựa của dịch giả :
Sách Minh Đạo gia huấn này do Trình Di tiên sanh ( 1.003 – 1.107 ) đời nhà Tống ( Trung Hoa ) biên soạn.
Ông Trình Di người tỉnh Lạc Dương, tự là Chánh Thúc, em ruột ông Trình Hạo
( 1.032 – 1.085 ) thời nhà Tống ( 960 – 1279 ) do Triệu Quông Dẫn sáng lập.
Trình Hạo và Trình Di là hai anh em có danh nhất về Nho Giáo, có công lớn trong việc nghiên cứu, soạn tập, chú giải Ngũ Kinh và Tứ Thơ. Cho nên đời sưng chung hai anh em là : Trình – Tử.
Ông trình Hạo qua đời trước ông Trình Di 22 năm, Trình Di tiếp tục Nghiên cứu chú thích và truyền bá các kinh Thánh chuyện hiền của Nho Gia.
Bình sanh ông lấy đức thành để làm căn bổn tu thân, và lấy thuyết cùng lý để làm chủ đích học đạo.
Người cùng thời với ông tặng ông danh hiệu Y Xuyên.
Ông từng làm giáo sư ở Quốc Tử Giám, là trường do triều đình lập ra ở kinh đô để đào tạo nhân tài ra làm quan.Khi Trình Di mãn phần, ông được triều đình phong thụy hiệu là chánh công.
Sách Minh Đạo gia huấn này gồm 90 bài, toàn là những cách ngôn thâm thúy, khuyên bảo cho người trở nên đủ tư cách ở gia đình và xã hội, thấm nhuần về thanh cao về triết học, và tâm lý. Để dậy giảng cho con cháu trong nhà, thật là giá trị. Có thể dùng làm kim chỉ nam cho tất cả nhân dân ở các quốc gia Thọ hưởng nho giáo.
Dịch giả thiết tưởng, sách minh đạo gia huấn này, bộ ngành giáo dục của quốc gia – chánh phủ có thể dùng để dạy các học sinh sinh viên tại nhà trường, vừa có ích về phong…hóa, đạo đức, vừa để ngộ giải Hán văn và Việt văn.
Nay kính tựa,
Saì Gòn, mùa hạ 1971
Đoàn Trung Còn
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...b-p2086537.jpg
Săn lùng kỳ nam trấn yểm của Bà Chúa xứ Trầm
22:15 13/03/2015
Nhiều cựu phu trầm kể rằng, truyền thuyết xứ Trầm hương ghi nữ thần Thiên Y A Na (Bà Cô) trấn 4 cây kỳ nam khổng lồ tại 4 ngọn núi thiêng ở 4 hướng đông-tây-nam-bắc. Một trong 4 cây kỳ nam ấy tọa ở núi Hoàng Ngưu thuộc địa phận huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.
Với người đời, truyền thuyết “Bà trấn kỳ nam hương” chỉ là truyền thuyết nhưng với dân ngậm ngải tìm trầm mà người bản xứ quen gọi “dân địu”, truyền thuyết kia có thật. Vì tin như thế nên đến bây giờ, vẫn có dân địu băng rừng lội suối, ngày đêm nghe ngóng, mai phục quyết săn bằng được cây kỳ nam quý báu của Bà Cô.
Một ngày đầu xuân, lần theo truyền thuyết, PV Chuyên đề ANTG tìm đến suối Đổ, men ngược dòng chảy của con suối thiên thai lên đến thượng nguồn đỉnh Hoàng Ngưu – nơi mà dân “đi địu” tin Bà Cô trấn yểm cây trầm hương đại thụ đâu đây. Ở lưng chừng ngọn núi huyền linh, chúng tôi ghi nhận được nhiều chuyện ly kỳ.
Như đã nhiều lần đề cập, theo thời giá thị trường, 1kg kỳ nam hơn 10 tỉ đồng. Chỉ cần được Bà Chúa xứ Trầm đoái thương ban cho tí “lộc” thì một phu trầm khố rách áo ôm nào đó trong phút chốc lột xác thành tỉ phú. Vì khát vọng ấy nên dù rừng đã cạn kiệt nhưng không ít dân địu ở Khánh Hòa vẫn ngày đêm bán mạng ở chốn thâm sơn.
Ông Lê Đại, 62 tuổi, một phu trầm lão niên ngụ xã Vạn Thắng (huyện Vạn Ninh) - nơi có số người kiếm sống bằng các nghề gắn với trầm hương-kỳ nam - tiết lộ rằng ông cũng như rất nhiều dân địu đồng niên và dân địu thuộc thế hệ con cháu tin chuyện nữ thần Thiên Y A Na trấn 4 cây kỳ nam ở tứ phương không phải là chuyện hoang đường.
Bàn thờ Bà Chúa xứ Trầm.
Ông nói sở dĩ đến nay vẫn chưa có ai được “Bà cho ăn lộc” bởi lòng thành, tâm đức vẫn chưa toại lòng Bà. Ông Đại cũng tiết lộ ông như hàng ngàn dân địu đã từng “mò” đến suối Đổ nuôi hy vọng “ăn” lộc Bà Cô nhưng chưa được Bà dòm ngó.
“Kỳ thực thì Bà cũng có đoái thương nên mới cho tôi cảm được hương kỳ nam thoảng trong gió. Ngặt nỗi từng khe khốc, hang hốc quanh vùng tôi cùng biết bao dân địu sục sạo kiếm tìm nhưng kỳ nam thì chẳng thấy đâu.
Nhiều kẻ thiếu hiểu biết nói điều báng bổ rằng cây kỳ nam Bà trấn yểm chỉ là lời đồn đãi nhưng giải thích sao đây mùi hương kỳ nam thi thoảng quyện trong gió.
Mà đâu chỉ có dân đi địu cảm được đâu, ngay cả sư bà trụ trì chùa Quan Âm Sơn Tự trên núi cũng từng được Bà nhiều lần cho ngửi hương kỳ nam như thế” – ông Đại, bộc bạch.
“Bà đến thì sấm về”
Ông Đại cũng như nhiều dân địu ở xứ Trầm hương mà tôi tiếp xúc, từng có quãng đời trai trẻ bán mạng cho giấc mộng trầm kỳ để rồi nay ở tuổi xế chiều, như ông nói, “mộng vẫn là mộng”.
Theo ông Đại, ngàn người đi địu chỉ có 1 người được Bà Cô cho “ăn lộc”. Và trong trăm người được Bà Cô đoái hoài, chỉ có 1 người phất lên. Những người còn lại, của cải có được nhờ trúng trầm kỳ theo thời gian cũng của thiên trả địa, ứng với câu “ăn của rừng rưng rưng nước mắt”.
Ông Đại không nhớ mình có bao nhiêu chuyến vào rừng thực hiện giấc mộng trầm kỳ. Ông chỉ biết khắp núi rừng ở xứ Trầm hương, không cánh rừng, không ngọn núi nào mà ông không tìm đến.
Trong hàng trăm ngọn núi nơi xứ trầm, ông Đại bật mí ông rất nhiều lần tới lui nơi hạ nguồn con suối Đổ - cửa ngõ dẫn lên đỉnh núi Hoàng Ngưu để săn cây kỳ nam trấn yểm của Bà Thánh Mẫu.
Đường vào chân núi Hoàng Ngưu.
“Trước đây suối Đổ thuộc địa phận làng Phước Thạnh, ở phía tây dãy núi Hoàng Ngưu (nay thuộc xã Diên Toàn, huyện Diên Khánh). Hầu như dân ngậm ngải tìm trầm đi săn cây kỳ nam đều phải đi qua con suối này.
Tương truyền hồ nước ở lưng chừng núi là nơi Bà thường ngồi hóng mát lúc vân du. Thường Bà xuất phát từ núi Chúa hoặc núi Hòn Bà, sau ba tiếng nổ vang trời sẽ xuất hiện một luồng ánh sáng màu xanh như một dải lụa dài đáp xuống núi Hoàng Ngưu. Mỗi khi nghe 3 tiếng sấm nổ liên tiếp như thế, dân địa phương biết... Bà về” – ông Đại, trò chuyện.
- Chú đã từng thấy Bà về?
- Tôi chưa, chỉ nghe tiếng sấm nổ thôi, nổ liên tục 3 tiếng. Hồi trước mấy bô lão quanh vùng nói mỗi khi Bà về, muông thú hoan ca, núi Hoàng Ngưu khắp nơi tỏa hương thơm ngát. Người nào lòng thành, đức độ còn được bà cho ngửi hương kỳ nam nữa đó!
Các bậc cao niên từng ngậm ngải tìm trầm như ông Đại ai cũng rõ rành câu chuyện “Bà đến thì sấm về”. Truyền thuyết ly kỳ này được nhà văn Quách Tấn nhắc đến trong tác phẩm biên khảo nổi tiếng xứ Trầm hương: “Năm 1963, trước khi Chính phủ Ngô Đình Diệm sụp đổ mấy tháng, tự nhiên trên suối Đổ nổi lên 3 tiếng sấm, người địa phương hãi hồn vì tưởng có giặc. Liền đó có người nằm chiêm bao thấy thần linh mách bảo rằng bà Thiên Y về suối ban phước cứu dân độ thế. Bệnh có hết chăng chẳng ai biết...
Tiếng đồn lan ra, người ta đến múc nước về chữa bệnh. Một đồn mười, mười đồn trăm, trăm đồn ngàn. Ban đầu chỉ có người trong quận Diên Khánh đến cầu xin nước thiêng, lần lần đến người ở quận khác trong tỉnh. Chỉ trong một tuần nhật, người Đà Lạt, người Sài Gòn… cũng thùng chai đưa đến.
Chật đường chật sá. Chính quyền tỉnh Khánh Hòa ra lệnh cấm không được, phải cho lính đến canh. Nhưng canh đường này thì bà con tìm đường khác để vào suối. Chộn rộn ồn ào, vui thật vui....”.
Truyền thuyết có thật?!
Tôi gặp ông Đại dưới chân suối Đổ, lúc ông cùng vợ là bà Võ Thị Hân lần theo các bậc thang rêu phong lên lưng chừng núi Hoàng Ngưu đến tỏ lòng thành với Bà Chúa xứ Trầm: “Trên núi có am thờ Bà. Ngày trước dân đi địu như tôi mỗi khi vào rừng đều lên cầu cúng Bà những mong được Bà đoái thương. Còn bây giờ thì tôi lên am cầu Bà mong cho gia đạo bình an thôi. Mình già rồi, đâu còn sân si gì nữa”- ông Đại, bộc bạch.
Rồi ông bật mí rằng am Bà nằm cạnh chùa... Nếu đến nơi thấy có thiện nam nào đi nhóm vài ba người thành khẩn khấn cầu thì 10 phần có đến 7-8 phần đó là dân địu.
Cổ sử đất Khánh Hòa ghi: “Am Bà nằm ở lưng chừng núi, dưới một thác nước đổ mạnh, nơi có nhiều tảng đá dựng nằm trông như những thành quách dị thường”.
Vượt hàng trăm bậc thang uốn theo triền núi, khi đến nơi rồi, tôi thấy những gì hiện ra trước mắt mình đúng như mô tả của tiền nhân. Chỉ khác một điều chùa núi – am Bà giờ đây nằm trong quần thể xây dựng khá kỳ công chứ không hoang sơ, lạnh lẽo, thâm u như nhiều thập kỷ trước.
Tương truyền đây là khu vực nữ thần Thiên Y A Na ẩn giấu khối trầm.
Không còn bó gọn trong khuôn khổ của dân địu và dân quanh vùng, cả chùa và am Bà được thiện nam tín nữ từ khắp nơi đến chiêm bái, mong cầu khói hương không ngớt.
Bên am Bà, tôi được cựu phu trầm Lê Đại cùng một số bậc cao niên ở dưới chân núi Hoàng Ngưu khẳng định đây là nơi Bà có trấn yểm 1 trong 4 cây kỳ nam khổng lồ dù rằng chẳng ai trong họ từng thấy cây kỳ nam ấy.
Trong cuốn “Xứ Trầm hương”, nói về huyền tích suối Đổ, nhà văn Quách Tấn có nhắc đến cây kỳ nam kia của Bà Thiên Y A Na: “Cách hồ nhất chừng trăm thước, có một cây kỳ nam lớn đến bốn ôm và dài cũng đến chín mười thước, nằm ngang qua suối. Đi ngoài xa nghe phảng phất mùi thơm, nhưng lại gần thì không thấy chi cả. Nếu người nào có ý muốn chiếm hữu thì một cặp rắn mun to lớn hiện ra khủng bố”.
Vãn chốn tự - am Bà ở lưng chừng núi, tôi như nhiều du khách cảm giác bồng bềnh, cứ ngỡ mình lạc chân ở chốn bồng lai cõi hồng trần.
Am Bà cùng ngôi cổ tự Quan Âm Sơn Tự nằm dựa lưng vào núi, một bên là vực thẳm, bao quanh là núi non hùng vĩ, đại thụ thâm u, hương rừng cùng mùi nhang trầm thơm dịu lan tỏa giúp sảng khoái thần minh.
Xứ Trầm hương ghi thời Pháp thuộc, từng có người tìm thấy cây kỳ nam của Bà: “Một viên chánh tổng tìm thấy cây kỳ, đem lễ vật đến cúng kính rồi lấy dây cột nơi gốc cây kéo dài ra cho đến chân núi để làm dấu, đoạn về nhà thuê người đem dây thừng đến khiêng. Khi trở lại, theo sợi dây để lên núi nhưng đến nơi thì thấy mối dây cột ở nơi khác, còn cây kỳ biến đâu mất, tìm mãi vẫn không thấy tăm hơi. Tuy vậy mãi đến nay, người đi củi thỉnh thoảng vẫn còn nghe hơi trầm thoảng”.
“Bà chỉ cho ngửi hương chứ không cho tìm thấy”?
Đó là tâm tình của sư bà Thích Nữ Thanh Tường - trụ trì chùa Quan Âm Sơn Tự. Ở tuổi ngoài 80, sư bà Thanh Tường cho biết, sư tu ở vùng núi Hoàng Ngưu này từ hồi còn trẻ, đã trải qua không biết cơ man nào gian khó, hiểm nguy: “Hồi đó núi rừng âm u, nhiều thú dữ, rắn độc. Vào mùa mưa gió nước từ thượng nguồn đổ chảy mạnh cùng với cây đổ gãy hiểm nguy vô cùng. Sư đã qua nhiều lần thập tử nhất sinh may được Bà độ nên tai quan nạn khỏi”.
Phần lớn người dân nơi đây rất tin tưởng về quyền năng cùng sự chở che của nữ thần Thiên Y A Na và sư bà Thanh Tường, cũng không ngoại lệ. “Có thờ có thiêng”, khi biết tôi đến tìm hiểu về Bà Chúa xứ Trầm trong những lần vân du ngự ở núi Hoàng Ngưu, sư bà Thanh Tường kể cho tôi nghe rất nhiều điều về những lần thoát chết trong gang tấc của mình: “Hồi trước sống giữa núi rừng cách trở, nguy hiểm đã đành, còn khó khổ trăm bề. Có những lúc đói quá phải ăn lá cây mà sống qua ngày. Có những lúc chỉ sống bằng niềm tin, may nhờ Bà thương”.
- Truyền thuyết nói Bà Thiên Y A Na có trấn cây kỳ nam, truyền thuyết ấy có cơ sở không thưa sư bà?
- Đến bây giờ hương kỳ nam thi thoảng vẫn tỏa ra từ rừng, con à. Dù nhiều người đổ lên đây ngồi đoán hướng gió xem mùi hương kỳ toát ra từ đâu, rồi họ kiếm tìm nhưng không bao giờ thấy!
Sư bà Thanh Tường cho rằng vì khối kỳ nam khổng lồ là linh vật có thật của Bà Chúa xứ Trầm, “Bà thương” thì cho “cảm” được hương kỳ chứ không có chuyện ban hẳn khối kỳ nam ấy cho bất kỳ ai.
Có điều kỳ lạ khác là không phải ai sống quanh suối Đổ cũng như núi Hoàng Ngưu cũng được Thánh mẫu Thiên Y A Na ban cho diễm phúc thụ lãm hương kỳ nam trong gió.
Một số bậc cao niên quanh vùng mà người viết tiếp xúc, có cụ tuổi ngoài 80, đã hàng trăm lần đến vãn cảnh, van vái, khấn cầu, tìm củi, săn thú, bắt cá... ở núi Hoàng Ngưu cho biết, các cụ chưa bao giờ cảm được hương kỳ giữa rừng già.
Về chuyện Bà Thiên Y A Na trấn kỳ nam ở lưng chừng núi Hoàng Ngưu, sư bà Thanh Tường và một số bậc lão niên quanh vùng khẳng định đó là sự nhầm lẫn, bởi suối Đổ thiên thai chỉ là nơi bà vân du. Và rằng 4 cây kỳ nam kỳ thực được bà trấn tại Đồng Bò (phía nam), Hòn Bà (phía bắc), Hòn Dữ (phía tây) và suối Ngổ (phía đông).
Tuy mỗi người có nhiều chuyện kể khác nhau quanh quyền uy, sự linh ứng cùng hiện tượng siêu nhiên “Bà về sấm nổ”, nhưng cả thảy đều có điểm chung là cùng nhìn nhận sự việc cây kỳ nam của Bà thiên Y A Na đặt để đâu đó quanh suối Đổ là chuyện có thật. Thế nên như đã nói, ngay tại thời điểm này, vẫn có các phu trầm thượng đỉnh non thiêng mong được Bà Cô... ban lộc!
N.Thành Dũng
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...2_ban14491.jpg
Bàn thờ Bà Chúa xứ Trầm.
http://antg.cand.com.vn/Kinh-te-Van-...u-Tram-343802/
Chùa Thiền Phước - điểm giao thoa văn hóa
Có một ngôi chùa Việt Nam được xây dựng với lối kiến trúc có một không hai tại Campuchia.
Nguyễn Bình, thông tín viên RFA
2010-03-11 Email Ý kiến của Bạn Chia sẻ In trang này
In trang này Chia sẻ Ý kiến của Bạn Email
Chùa Thiền Phước ngay giữa thủ đô Phnom Penh
Chùa Thiền Phước ngay giữa thủ đô Phnom Penh
Ảnh do Nguyễn Bình cung cấp
03112010-chuathienphuoc-NBinh.mp3
00:00/00:00
Phần âm thanh Tải xuống âm thanh
Chùa Việt
Nếu không nghe tiếng tụng kinh hoặc không nhìn bảng hiệu nghi tên bằng tiếng Việt là chùa Thiền Phước, thì du khách khó có thể nhận ra đây là ngôi chùa Việt Nam ở Campuchia.
Chùa Thiền Phước, tọa lạc tại quận Toulkok, ngay giữa thủ đô Phnom Penh của Campuchia, là một trong số ít ỏi cơ sở thờ tự của Việt Kiều Campuchia được tạo dựng sau khi chế độ Khmer Đỏ sụp đổ, và quyền tự do tín ngưỡng được phục hồi.
So với các cơ sở tôn giáo khác của người Việt, chùa Thiền Phước có nét độc đáo là được xây dựng kết hợp 2 lối kiến trúc có nền tảng từ 2 nền văn minh thường hay xung khắc trong quá khứ cũng như hiện tại, đó là văn minh Trung Hoa và Ấn Độ.
Bà con phật tử ở đây cho biết chùa Thiền Phước được xây dựng vào năm 1983, do cố Hòa thượng Thích Thiện Tùng đứng ra đảm nhiệm và là người chủ trương sử dụng lối kiến trúc của nước sở tại pha với kiến trúc chùa Việt Nam truyền thống, sao cho phù hợp với thuật xử thế “Nhập giang tùy khúc”.
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...imageb0ed7.jpg
Bên trong chánh điện chùa Thiền Phước. Ảnh do Nguyễn Bình cung cấp Ảnh do Nguyễn Bình cung cấp
photo-250-3.jpg
Bên trong chánh điện chùa Thiền Phước. Ảnh do Nguyễn Bình cung cấp Ảnh do Nguyễn Bình cung cấp Hòa thượng Thích Thiện Tùng đã viên tịch cách đây khoảng 3 năm. Vị sư trụ trì đời thứ hai của ngôi chùa là Hòa thượng Thích Thiện Hòa. Trong chùa hiện chỉ có 2 vị sư và 2 phật tử đang làm công quả.
Ông Lê Văn Thành đang làm công quả trong chùa cho biết ý nguyện của Hòa thượng Thích Thiện Tùng khi bắt đầu xây đựng ngôi chùa là do “mình ở đất nước Campuchia. Ông thầy tôi là người sinh đẻ ở Campuchia, quê ở Pursat . Ông làm kiểu Campuchia có, kiểu Tàu có, kiểu Việt Nam có, để ngày sau có chuyện gì người ta không đập bỏ.”
Nhìn bề ngoài, trên nét cong cong của mái ngói kiểu chùa Việt Nam, có tượng rồng đúc bằng xi măng thân ngắn kiểu Việt Nam, Trung Hoa và có cả thân dài khiểu Campuchia và Ấn Độ. Có hoa văn của triều đại Angkor bao quanh ngọn tháp và chim thần Gruda trong truyền thuyết Ấn Độ giáo xòe cánh như đang nâng đỡ dưới mái hiên.
Văn hóa Việt
Bên trong chánh điện, có vẽ hình sự tích đức Phật trên vách tường bao quanh và tượng Phật tổ Như Lai được đặc ngay chính giữ như hầu hết ngôi chùa Khmer theo hệ phái Nam Tông. Nhưng bên cạnh có cả các chư vị Bồ Tát, A La Hán của hệ phái Bắc Tông như trong các ngôi chùa ở Việt Nam, và phía trước chánh điện có hình bà Chúa Xứ bên Châu Đốc, v.v..
https://uphinhnhanh.com/images/2017/06/20/image1.jpg
Tượng bà Chúa Xứ trong chùa Thiền Phước. Ảnh do Nguyễn Bình cung cấp Ảnh do Nguyễn Bình cung cấp
chuaxu-250.jpg
Tượng bà Chúa Xứ trong chùa Thiền Phước. Ảnh do Nguyễn Bình cung cấp Ảnh do Nguyễn Bình cung cấp Một phật tử khác, xin giấu tên cho biết mặc dù lối kiến trúc và trang trí pha tạp này được lòng người bản xứ và lãnh đạo Phật giáo nước sở tại, nhưng lại gặp rắc rối với Hội Việt kiều. Theo ông, Hội Việt kiều lúc ấy trực thuộc cơ quan an ninh của Việt Nam, mà người dân quen với cái tên là A50.
Lúc đầu họ khó chấp nhận một ngôi chùa Việt Nam giống Miên như thế này, nhưng dần dần cũng quen. Ông nói: “A50 thì tôi biết rành. Nó không cho xây dựng chùa chiền Việt Nam có hình đức Phật và sự tích đức Phật như thế này. Rồi ông thầy tôi đi thưa lên ông Vua Sãi (Tăng Hoàng) và ông đó ủng hộ chùa này.”
Hiện chùa Thiền Phước, ngoài cơ sở tôn giáo qui tụ hàng trăm Phật tử đủ mọi sắc tộc đến sinh hoạt, còn là địa chỉ du lịch giới thiệu được một phần văn hóa Việt Nam.
Theo dòng thời sự: