Thờ Địa Mẫu: https://thanhdiavietnamhoc.com/hien-...au-tai-ha-noi/
Printable View
THỜ - CÚNG - ĐỌC KINH ĐỊA MẪU: https://tuongphattrangia.com/phat-me-dia-mau-dieu-tri/
THAM KHẢO KINH ĐỊA MẪU: https://onglaidoky3.com/p312a544/sam-hoi-dia-mau-kinh
Nguyên Cổ HỖN NGUYÊN THÁI CỰC TỐI THƯỢNG CỔ THƯỢNG ĐẾ
Nguyên Cổ HỖN NGUYÊN THÁI CỰC TỐI THƯỢNG CỔ THƯỢNG ĐẾ
Nguyên Cổ HỖN NGUYÊN THÁI CỰC TỐI THƯỢNG CỔ THƯỢNG ĐẾ
YAOJI-CINMU MAHADEVI-RSI
NAMO ARYA BHAGAVATI
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...A0N-KINH/page5
瑤池金母
Yaochi Jinmu
Youchi Jinmu
===
miêu tả Vua Mu của Chu viếng thăm Thái hậu tại Yaochi (Yoji) trên núi Côn
https://vi.ert.wiki/wiki/Queen_Mother_of_the_West
http://www.baobinhdinh.vn/viewer.asp...=7&mabb=111131
“Namo Mahadewi Wuji Yaochi Jinmu”
http://buathaishop.com/bai-viet-tam-...376-p1546.html
NAMO MAHADEVI-RSI YAOJI-CINMU
Tìm hiểu “Chín phương Trời, Mười phương Phật”
Hôm Cúng Rằm tháng Bẩy thấy Dì tôi khấn “lạy Chín phương Trời, Mười phương Phật”, cháu tôi hỏi “cháu học thấy có 4 phương 8 hướng thôi, sao bà khấn tới 9, 10 phương vậy”?
Nghe cháu nói tôi chợt nghĩ ta khấn theo kiểu truyền khẩu, ai cũng khấn vậy nhưng chắc gì đã hiểu kỹ. Riêng tôi, bao giờ cũng khấn thêm "Năm phương Đất". Đi sâu vào tìm hiểu mới thấy nhiều vấn đề lý thú.
1. Năm phương Đất: gồm 4 hành (Thuỷ 水, Hoả 火, Mộc 木, Kim 金) của 4 phương (Bắc, Nam, Đông, Tây) và Trung cung Địa Vương Hậu đế 中央地王后帝.
2. Chín phương trời có mấy thuyết giải thích khác nhau:
Theo dân gian Việt Nam gồm có Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc, và Trung ương.
Theo Bát quái gồm 8 quái (Càn 乾 ☰, Khôn 坤 ☷, Cấn 艮 ☶, Chấn 震 ☳, Tốn 巽 ☴, Ly 離 ☲, Khảm 坎 ☵, Đoài 兌 ☱) và Ngọc Hoàng Thượng đế 玉皇上帝.
Người Trung Quốc cổ đại gọi chín phương trời là cửu dã 九野 hay Cửu thiên 九天, Cửu trùng thiên 九重天 bao gồm trung ương và tám phương hướng, tức là tứ chính 四正 (bốn hướng chính: Đông, Tây, Nam, Bắc) và tứ ngung 四隅 (bốn góc: Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc).
Theo sách Lã Thị Xuân Thu (chương Hữu thủy lãm) đời nhà Tần, chín phương trời có tên gọi và vị trí như sau:
(1) Ở trung ương gọi là Quân Thiên 鈞天 (quân: đều đặn, quân bình);
(2) Phương Đông là Thương Thiên 蒼天 (thương: màu xanh biếc);
(3) Phương Đông Bắc là Biến Thiên 變天 (biến: thay đổi);
(4) Phương Bắc là Huyền Thiên 玄天 (huyền: màu đen huyền);
(5) Phương Tây Bắc là U Thiên 幽天 (u: tối tăm, kín đáo, sâu xa);
(6) Phương Tây là Hạo Thiên 顥天 (hạo: sáng trắng);
(7) Phương Tây Nam là Chu Thiên 朱天 (chu: màu đỏ như son);
(8) Phương Nam là Viêm Thiên 炎天 (viêm: nóng, ngọn lửa);
(9) Phương Đông Nam là Dương Thiên 陽天 (dương: trái với âm).
Sang đời Hán, sách Hoài Nam Tử (chương Thiên văn) giải thích gần giống Lã Thị Xuân Thu, chỉ thay khác nhau hai điểm: Phương Đông Bắc là Mân Thiên 旻天 (mân: bầu trời); phương Tây là Hạo Thiên 皓天 (hạo: sáng trắng; chữ Hán viết khác với Lã Thị Xuân Thu).
Sách Quảng nhã (chương Thích thiên) giải thích cũng hơi khác: Phương Đông là Hạo Thiên 皡天 (hạo: rộng rãi, lồng lộng; chữ Hán viết khác với Lã Thị Xuân Thu và Hoài Nam Tử), phương Tây là Xích Thiên 赤天 (xích: màu đỏ). Các phương còn lại thì cũng giống giải thích của hai sách trên.
Sách Thái huyền kinh của Dương Hùng chỉ liệt kê chín tầng trời (cửu thiên) là: Trung Thiên 中天 (trung: ở giữa); Tiện Thiên 羨天 (tiện: dư thừa); Đồ Thiên 徒天 (đồ: không có); Phạt Canh Thiên 罰更天 (phạt: hình phạt; canh: thay đổi); Tối Thiên 晬天 (tối: trọn một năm); Quách Thiên 郭天 (quách: tường thành bọc phía ngoài); Hàm Thiên 咸天 (hàm: bao gồm tất cả); Trị Thiên 治天 (trị: sửa sang, cai trị); và Thành Thiên 成天 (thành: thành tựu, làm xong).
Thay vì nói chín phương trời, đạo Lão quan niệm có chín tầng trời và gọi là: Cửu trùng, Cửu giai, Cửu tiêu, Cửu thiên.
Một thuyết cho rằng chín tầng trời là:
(1) Uất Thiền Vô Lượng Thiên 鬱禪無量天;
(2) Thượng Thượng Thiền Thiện Vô Lượng Thọ Thiên 上上禪善無量壽天;
(3) Phạn Giám Tu Diên Thiên 梵監須延天;
(4) Tịch Nhiên Đâu Suất Thiên 寂然兜率天;
(5) Ba La Ni Mật Bất Kiêu Lạc Thiên 波羅尼密不驕樂天;
(6) Động Huyền Hóa Ứng Thanh Thiên 洞玄化應聲天;
(7) Linh Hóa Phạn Phụ Thiên 靈化梵輔天;
(8) Cao Hư Thanh Minh Thiên 高虚清明天;
(9) Vô Tưởng Vô Kết Vô Ái Thiên 無想無結無愛天.
Tuy nhiên, trong văn học khi nói chín phương trời thường ngụ ý là trọn cả bầu trời, khắp nơi khắp chốn.
3. Mười phương Phật 十方諸佛 cũng có nhiều cách hiểu:
Gồm 5 phương của Thái tạng giới (Trung ương Đức Tỳ Nô Giá Na, Đông phương Bảo Tràng Như Lai, Nam phương Khai Phu Hoa Vương Như Lai, Tây phương A Di Đà Như Lai, Bắc phương Thiên Cổ Lôi Âm Như lai và các Chư Phật Bồ tát) và 5 phương của Kim Cương giới (Trung ương Đức Đại Nhật NHư Lai, Đông phương A Súc Bệ Như Lai, Nam phương Bảo sinh Như Lai, Tây phương Vô Lượng Thọ Như Lai, Bắc phương Bất Không Thành Tựu Như Lai và các Chư Tôn Bồ Tát)
Hay gồm có Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc, trên trời, dưới đất (hay trung ương).
Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo nhắc lại lời dạy của Đức Chí Tôn nơi đàn ở Cần Thơ, trong đó Đức Chí Tôn giải thích về Thập phương chư Phật như sau: “Dưới 36 từng trời còn có một từng nữa là Nhứt mạch đẳng tinh vi gọi là Cảnh Niết Bàn. Chín từng nữa gọi là Cửu Thiên Khai Hóa, tức là 9 phương trời, cộng với Niết Bàn là 10, gọi là Thập phương chư Phật. Gọi 9 phương trời 10 phương Phật là do đó. Cõi Niết Bàn là chỗ Phật ngự: Phật Tổ ngự nơi hướng Tây, Quan Âm ngự nơi hướng Nam. Mỗi từng đều có sơn xuyên hà hải, tứ phương bát hướng, liên đài hằng hà sa số Phật”.
Như vậy, Cảnh Niết Bàn là ở từng trời thứ 10, bên trên Cửu Trùng Thiên, do Đức Nhiên Đăng Cổ Phật chưởng quản. Nơi từng trời thứ 10 nầy có: Ngọc Hư Cung ở tại trung tâm và Cực Lạc Niết Bàn 極樂涅槃 - 極樂世界 - 極樂國 ở hướng Tây nên cũng gọi là Tây phương Cực Lạc. Tại kinh đô của CLTG có Lôi Âm Tự.
Tuy nhiên, có quan niệm cho rằng thập phương không phải là mười phương mà hàm nghĩa tất cả mọi nơi. Nói mười phương Phật hay thập phương chư Phật tức là chỗ nào cũng có Phật, Phật có ở khắp nơi không phân biệt sang hèn, xấu tốt, dơ sạch, thanh tịnh hay không thanh tịnh…
Lương Đức Mến (TK từ nhiều nguồn, chủ yếu là của Lê Anh Minh và Cao Đài từ điển)
http://holuongduclaocai.blogspot.com...huong.html?m=1
Tìm hiểu “Chín phương Trời, Mười phương Phật”
Hôm Cúng Rằm tháng Bẩy thấy Dì tôi khấn “lạy Chín phương Trời, Mười phương Phật”, cháu tôi hỏi “cháu học thấy có 4 phương 8 hướng thôi, sao bà khấn tới 9, 10 phương vậy”?
Nghe cháu nói tôi chợt nghĩ ta khấn theo kiểu truyền khẩu, ai cũng khấn vậy nhưng chắc gì đã hiểu kỹ. Riêng tôi, bao giờ cũng khấn thêm "Năm phương Đất". Đi sâu vào tìm hiểu mới thấy nhiều vấn đề lý thú.
1. Năm phương Đất: gồm 4 hành (Thuỷ 水, Hoả 火, Mộc 木, Kim 金) của 4 phương (Bắc, Nam, Đông, Tây) và Trung cung Địa Vương Hậu đế 中央地王后帝.
2. Chín phương trời có mấy thuyết giải thích khác nhau:
Theo dân gian Việt Nam gồm có Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc, và Trung ương.
Theo Bát quái gồm 8 quái (Càn 乾 ☰, Khôn 坤 ☷, Cấn 艮 ☶, Chấn 震 ☳, Tốn 巽 ☴, Ly 離 ☲, Khảm 坎 ☵, Đoài 兌 ☱) và Ngọc Hoàng Thượng đế 玉皇上帝.
Người Trung Quốc cổ đại gọi chín phương trời là cửu dã 九野 hay Cửu thiên 九天, Cửu trùng thiên 九重天 bao gồm trung ương và tám phương hướng, tức là tứ chính 四正 (bốn hướng chính: Đông, Tây, Nam, Bắc) và tứ ngung 四隅 (bốn góc: Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc).
Theo sách Lã Thị Xuân Thu (chương Hữu thủy lãm) đời nhà Tần, chín phương trời có tên gọi và vị trí như sau:
(1) Ở trung ương gọi là Quân Thiên 鈞天 (quân: đều đặn, quân bình);
(2) Phương Đông là Thương Thiên 蒼天 (thương: màu xanh biếc);
(3) Phương Đông Bắc là Biến Thiên 變天 (biến: thay đổi);
(4) Phương Bắc là Huyền Thiên 玄天 (huyền: màu đen huyền);
(5) Phương Tây Bắc là U Thiên 幽天 (u: tối tăm, kín đáo, sâu xa);
(6) Phương Tây là Hạo Thiên 顥天 (hạo: sáng trắng);
(7) Phương Tây Nam là Chu Thiên 朱天 (chu: màu đỏ như son);
(8) Phương Nam là Viêm Thiên 炎天 (viêm: nóng, ngọn lửa);
(9) Phương Đông Nam là Dương Thiên 陽天 (dương: trái với âm).
Sang đời Hán, sách Hoài Nam Tử (chương Thiên văn) giải thích gần giống Lã Thị Xuân Thu, chỉ thay khác nhau hai điểm: Phương Đông Bắc là Mân Thiên 旻天 (mân: bầu trời); phương Tây là Hạo Thiên 皓天 (hạo: sáng trắng; chữ Hán viết khác với Lã Thị Xuân Thu).
Sách Quảng nhã (chương Thích thiên) giải thích cũng hơi khác: Phương Đông là Hạo Thiên 皡天 (hạo: rộng rãi, lồng lộng; chữ Hán viết khác với Lã Thị Xuân Thu và Hoài Nam Tử), phương Tây là Xích Thiên 赤天 (xích: màu đỏ). Các phương còn lại thì cũng giống giải thích của hai sách trên.
Sách Thái huyền kinh của Dương Hùng chỉ liệt kê chín tầng trời (cửu thiên) là: Trung Thiên 中天 (trung: ở giữa); Tiện Thiên 羨天 (tiện: dư thừa); Đồ Thiên 徒天 (đồ: không có); Phạt Canh Thiên 罰更天 (phạt: hình phạt; canh: thay đổi); Tối Thiên 晬天 (tối: trọn một năm); Quách Thiên 郭天 (quách: tường thành bọc phía ngoài); Hàm Thiên 咸天 (hàm: bao gồm tất cả); Trị Thiên 治天 (trị: sửa sang, cai trị); và Thành Thiên 成天 (thành: thành tựu, làm xong).
Thay vì nói chín phương trời, đạo Lão quan niệm có chín tầng trời và gọi là: Cửu trùng, Cửu giai, Cửu tiêu, Cửu thiên.
Một thuyết cho rằng chín tầng trời là:
(1) Uất Thiền Vô Lượng Thiên 鬱禪無量天;
(2) Thượng Thượng Thiền Thiện Vô Lượng Thọ Thiên 上上禪善無量壽天;
(3) Phạn Giám Tu Diên Thiên 梵監須延天;
(4) Tịch Nhiên Đâu Suất Thiên 寂然兜率天;
(5) Ba La Ni Mật Bất Kiêu Lạc Thiên 波羅尼密不驕樂天;
(6) Động Huyền Hóa Ứng Thanh Thiên 洞玄化應聲天;
(7) Linh Hóa Phạn Phụ Thiên 靈化梵輔天;
(8) Cao Hư Thanh Minh Thiên 高虚清明天;
(9) Vô Tưởng Vô Kết Vô Ái Thiên 無想無結無愛天.
Tuy nhiên, trong văn học khi nói chín phương trời thường ngụ ý là trọn cả bầu trời, khắp nơi khắp chốn.
3. Mười phương Phật 十方諸佛 cũng có nhiều cách hiểu:
Gồm 5 phương của Thái tạng giới (Trung ương Đức Tỳ Nô Giá Na, Đông phương Bảo Tràng Như Lai, Nam phương Khai Phu Hoa Vương Như Lai, Tây phương A Di Đà Như Lai, Bắc phương Thiên Cổ Lôi Âm Như lai và các Chư Phật Bồ tát) và 5 phương của Kim Cương giới (Trung ương Đức Đại Nhật NHư Lai, Đông phương A Súc Bệ Như Lai, Nam phương Bảo sinh Như Lai, Tây phương Vô Lượng Thọ Như Lai, Bắc phương Bất Không Thành Tựu Như Lai và các Chư Tôn Bồ Tát)
Hay gồm có Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc, trên trời, dưới đất (hay trung ương).
Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo nhắc lại lời dạy của Đức Chí Tôn nơi đàn ở Cần Thơ, trong đó Đức Chí Tôn giải thích về Thập phương chư Phật như sau: “Dưới 36 từng trời còn có một từng nữa là Nhứt mạch đẳng tinh vi gọi là Cảnh Niết Bàn. Chín từng nữa gọi là Cửu Thiên Khai Hóa, tức là 9 phương trời, cộng với Niết Bàn là 10, gọi là Thập phương chư Phật. Gọi 9 phương trời 10 phương Phật là do đó. Cõi Niết Bàn là chỗ Phật ngự: Phật Tổ ngự nơi hướng Tây, Quan Âm ngự nơi hướng Nam. Mỗi từng đều có sơn xuyên hà hải, tứ phương bát hướng, liên đài hằng hà sa số Phật”.
Như vậy, Cảnh Niết Bàn là ở từng trời thứ 10, bên trên Cửu Trùng Thiên, do Đức Nhiên Đăng Cổ Phật chưởng quản. Nơi từng trời thứ 10 nầy có: Ngọc Hư Cung ở tại trung tâm và Cực Lạc Niết Bàn 極樂涅槃 - 極樂世界 - 極樂國 ở hướng Tây nên cũng gọi là Tây phương Cực Lạc. Tại kinh đô của CLTG có Lôi Âm Tự.
Tuy nhiên, có quan niệm cho rằng thập phương không phải là mười phương mà hàm nghĩa tất cả mọi nơi. Nói mười phương Phật hay thập phương chư Phật tức là chỗ nào cũng có Phật, Phật có ở khắp nơi không phân biệt sang hèn, xấu tốt, dơ sạch, thanh tịnh hay không thanh tịnh…
Lương Đức Mến (TK từ nhiều nguồn, chủ yếu là của Lê Anh Minh và Cao Đài từ điển)
We call you different names: some call Thee Allah; some call you Elohim; some call you Jehovah; some call you Brahma; and some call you the Unmoved Mover; some call you the Archetectonic [sic] Good. But we know that these are all names for one and the same God, and we know you are one.
Chúng ta gọi Thiên Chúa - Đức Chúa Trời - Thượng Đế bằng những cái tên khác nhau: một số gọi Thee Allah; một số gọi Thiên Chúa - Đức Chúa Trời - Thượng Đế là Elohim; một số người gọi Thiên Chúa - Đức Chúa Trời - Thượng Đế là Đức Giê-hô-va; một số gọi Thiên Chúa - Đức Chúa Trời - Thượng Đế là Đại Phạm Thiên Brahma; và một số người gọi Thiên Chúa - Đức Chúa Trời - Thượng Đế là Đấng Bất Biến; một số người gọi Thiên Chúa - Đức Chúa Trời - Thượng Đế là Đấng Sáng Tạo ( Tốt ). Nhưng chúng ta biết rằng tất cả đều là tên của 1 và cùng 1 Đức Chúa Trời, và chúng ta biết Thiên Chúa - Đức Chúa Trời - Thượng Đế là 1.
http://www.thekinglegacy.org/news/20...ng-kings-books
Đại Phạm Thiên ( Maha-Brahma ) là chúa sáng tạo / Thần Sáng Tạo Brahma
Nala diên thiên ( Narayana-Deva ) là vị thần bảo vệ / Thần Bảo Hộ Visnu
Đại tự tại thiên ( Maha-isvara/ Mahe'svara ) là vị thần phá hoại / Thần Hủy Diệt Siva
Thượng đế của Lão giáo và Hồi giáo tương đương với vị chủ tể cõi Trời Đao Lợi của Phật giáo = Indra
Thượng Đế của đạo Gia Tô (từ Ma Tây đến Pao lô và Angustanh v.v… đã thăng lên nhiều cấp) tương đương với Phạm thiên vương của Phật giáo = Maha-Brahma
Thượng đế của Ấn Độ giáo đồng nhất với Đại tự tại thiên vương của Phật giáo = Maha-isvara/ Mahe'svara
https://phatgiao.org.vn/phat-giao-co...ng-d38926.html
=====
大自在天, (Maheśvara), dịch âm là Ma Hê Thủ La Thiên Vương tức vua của tầng trời cao nhất trong Sắc Giới, trụ ở tầng trời Đệ tứ thiền, là chúa tể của Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, thần thủ hộ của Phật Giáo. Đây là một danh xưng khác của thần Thấp Bà (Shiva) một trong ba vị Chủ thần của Bà-la-môn giáo, tức thần hủy diệt trong Ấn Độ Giáo. Trong kinh điển, vị này vừa là thần hộ pháp, vừa là Ma Vương lợi hại nhất. Vị thiên vương này còn được biết dưới các danh xưng như Thương Yết La Thiên, Y Xá Na Thiên v.v… Bồ Tát hiện thân trời này nhằm hóa độ những ngoại đạo sùng bái Đại Tự Tại Thiên, tức những kẻ thường được gọi là Đồ Thán Ngoại Đạo (ngoại đạo bôi than hay tro lên thân) hay Tự Tại Ngoại Đạo, hay Shaivist.
https://blog.phapthihoi.org/tu-dien-...-tu-tai-thien/
====
Tự Tại Thiên Thân là thân trời thị hiện thứ ba trong sáu loại thân trời. Tự Tại Thiên chính là Tha Hóa Tự Tại Thiên, là tầng trời cao nhất trong Dục Giới. Gọi là Tha Hóa Tự Tại hàm ý: Tất cả những thứ vui sướng trong cõi trời ấy mình chẳng cần phải phí sức biến hóa ra, tự có người khác biến hóa các thứ, các dạng khoái lạc ngũ dục cho mình hưởng thọ vô ngại tự tại; bởi thế gọi là Tha Hóa Tự Tại Thiên. Đấy là do phước đức của các vị trời này cảm thành. Trí Độ Luận, quyển chín, chép: “Chư thiên này đoạt lấy những thứ vui sướng do người khác biến hóa ra để tự hưởng thọ, nên gọi là Tha Hóa Tự Tại”. Sách Câu Xá Tụng Sớ, phẩm Thế Gian, quyển một, chép: “Tha Hóa Tự Tại Thiên, ư tha hóa trung đắc tự tại” (Tha Hóa Tự Tại Thiên được tự tại nơi những thứ do người khác biến hóa ra).
Theo Phật pháp, Tự Tại Thiên của Dục Giới và Đại Tự Tại Thiên thuộc Sắc Giới đều là ma thiên vương trái nghịch, tổn hại Chánh Pháp; như ta thường nói Thiên Ma là chỉ loại trời này. Nếu đệ tử Phật tu hành đắc lực, Ma Vương bèn đến nhiễu loạn, khiến cho hành giả càng gặp nhiều rắc rối. Như trước khi đức Phật Thích Ca thành đạo dưới cội Bồ Đề từng bị Ma Vương nhiễu loạn.
Ma Vương có hai biện pháp nhiễu loạn là cứng và mềm khác nhau. Biện pháp mềm dẻo là dùng các thứ dục lạc để dẫn dụ, như sai ma nữ đến mê hoặc, ban cho ngôi vua, dâng tặng tài lợi v.v… Biện pháp cứng rắn là dùng các thủ đoạn uy hiếp, như ma binh, ma tướng dùng đao, thương, kiếm, kích v.v… đến tấn công. Nhưng lúc đó, đối với hết thảy, đức Phật chẳng thèm quan tâm đến, cũng chẳng bị lay động, thật sự đạt đến công phu như Nho Gia nói: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, oai vũ bất năng khuất” (Chẳng bị phú quý làm cho dâm, chẳng vì bần tiện mà thay đổi, chẳng bị oai vũ khuất phục). Bởi thế, đức Phật có thể hàng phục Ma, thành Chánh Giác. Hàng ma chính là hàng phục Thiên Ma trời Tha Hóa Tự Tại.
Ma Vương nhiễu loạn người tu hành, nên thường gọi Ma Vương là phường bất hảo, muốn lìa khỏi Ma, chẳng những không hợp tác với hắn mà cũng chẳng muốn qua lại với hắn. Nhưng trong Đại Thừa Phật pháp, Ma Vương cũng cần được cảm hóa. Ma Vương vốn ở trong chỗ tối tăm, phải khuyên lơn dẫn dắt gã hướng đến quang minh. Hành vi của Ma Vương khiến gã bị hướng xuống dưới đọa lạc, cho nên phải khuyến khích gã không ngừng hướng thượng. Ma Vương động niệm đều là hướng đến phương diện ác, nên phải lập cách khiến cho gã cải thiện hồi đầu.
Bởi vậy, trong thế gian nếu có chúng sanh “nên dùng thân Tự Tại Thiên để được độ”, Quán Thế Âm Bồ Tát đại từ đại bi “liền hiện thân Tự Tại Thiên để mà thuyết pháp”. Pháp được thuyết chẳng phải là pháp Ma Vương mà là chánh pháp của Như Lai, khiến cho kẻ ấy từ chỗ tối tăm hướng đến chỗ quang minh, từ đọa lạc tiến đến thăng hoa, từ tội ác hướng đến thuần thiện, khiến kẻ ấy cải tà quy chánh, rốt cuộc được giải thoát.
Ma Vương đối địch đức Phật. Nếu hiện thân Phật để cảm hóa gã, chẳng những không cảm hóa được gã, lại càng khiến gã chống chọi Phật. Nếu hiện thân Bồ Tát để cảm hóa gã, gã cũng cho là Bồ Tát tranh giành quyến thuộc của gã, nên cũng chẳng thể tiếp nhận sự giáo hóa của Bồ Tát. Trong tình hình như vậy, tốt nhất là thị hiện thân phận giống như gã, trước hết hành xử giống hệt như gã, một thời gian sau mới dùng Phật pháp để khuyến dụ, khiến gã cải tà quy chánh trở thành người tốt, rồi tiến lên, dẫn gã vào trong Phật pháp. Chỉ có cách vận dụng phương tiện như thế mới có thể độ được Tha Hóa Tự Tại Thiên Ma.
Bởi thế, Đại Thừa Phật pháp chẳng những không ghét Ma, hận Ma, trái lại thông cảm và thương xót Ma cao độ, dùng Phật pháp chuyển hóa chúng thì mới là tinh thần Phật pháp. Nếu gặp Ma đến liền lập tức tách lìa, chẳng quan tâm đến nó, chẳng phải là ác ma và ác nhân trong thế gian vĩnh viễn chẳng được giáo hóa, chẳng thể cải tà quy chánh ư? Bởi thế, Bồ Tát hóa độ chúng sanh chẳng vứt bỏ bất cứ đối tượng nào. Đại Thừa Phật pháp vĩ đại chính là vì vậy.
Thân Đại Tự Tại Thiên là thân trời thị hiện thứ tư trong sáu thân trời. Đại Tự Tại Thiên là tiếng Hán, tiếng Ấn gọi là Ma Hê Thủ La Thiên (Maheśvara), cũng tức là Đại Ma Vương Thiên, là một vị trời thuộc cõi trời Quảng Quả (Bṛhatphala) thuộc Đệ Tứ Thiền Thiên của Sắc Giới, cũng là ma quỷ nhiễu loạn người tu hành giống như Tự Tại Thiên đã nói ở phần trên.
Trí Độ Luận nói Đại Tự Tại Thiên bốn mắt, tám tay, cưỡi ngựa trắng, tay cầm phất trần trắng, là vị trời được ngoại đạo sùng phụng. Nếu có chúng sanh trong quốc độ “nên dùng thân Đại Tự Tại Thiên thì mới đắc độ”, Quán Thế Âm Bồ Tát đại từ đại bi “liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên để mà thuyết pháp”, khiến cho kẻ ấy tu học Phật pháp, thân tâm được tự tại giải thoát.
Nói đến đây ắt có người hỏi: Vì sao Bồ Tát hiện thân Ma thuyết pháp? Trong phẩm Bất Tư Nghị của kinh Duy Ma Cật có ghi:
“Nhĩ thời, Duy Ma Cật ngữ Đại Ca Diếp: “Nhân giả! Thập phương vô lượng A-tăng-kỳ thế giới trung tác Ma vương giả, đa thị trụ bất khả tư nghị giải thoát Bồ Tát, dĩ phương tiện lực cố, giáo hóa chúng sanh, hiện tác Ma Vương”.
(Lúc bấy giờ, Duy Ma Cật bảo Đại Ca Diếp:
- Thưa nhân giả! Những người làm Ma Vương trong mười phương vô lượng A-tăng-kỳ thế giới, đa số là bậc Bồ Tát trụ giải thoát chẳng thể nghĩ bàn, do dùng sức phương tiện giáo hóa chúng sanh bèn hiện làm Ma Vương).
Bồ Tát thị hiện thân Ma Vương chẳng những không bị ma chúng quấy nhiễu, mà còn đúng pháp giáo hóa chúng ma; bởi lẽ, phải hiện thân Ma Vương mới có thể cảm hóa được chúng. Vì thế, bất đắc dĩ phương tiện thị hiện như thế. Đấy chẳng phải là điều nhãn quang tầm thường có thể nhìn ra được, bởi thế, chúng ta chớ có coi Ma Vương thật sự là Ma Vương, mà có khi phải coi như là Bồ Tát, sự thị hiện thân Ma Vương của Bồ Tát này có thể chứng minh được.
https://nigioikhatsi.net/viet/giangg...giangky-29.htm
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
PHỔ MÔN PHẨM GIẢNG KÝ
觀世音菩薩普門品講記
演培老法師講述
釋寬嚴記
Chủ giảng: Lão pháp sư Thích Diễn Bồi
Pháp sư Thích Khoan Nghiêm ghi.
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(theo ấn bản của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội, tháng 04, năm 2004)
Đại Phạm Thiên Vương là chúa trời cõi Đại Phạm, tức là vị Phạm Thiên được hàng Bà La Môn Ấn Độ sùng bái, cũng chính là Thượng Đế được tin thờ bởi Thiên Chúa Giáo.
Theo tư tưởng Bà La Môn Giáo (Brahmanism, Hinduism), nhân loại trong thế giới này thậm chí hết thảy hữu tình, núi sông, đại địa, hoa, quả, cây cối đều do Đại Phạm Thiên Vương sáng tạo. Bởi thế, Bà La Môn giáo coi Đại Phạm Thiên là đấng sáng tạo nhân loại vũ trụ. Thân Đại Phạm Thiên vô thủy, vô chung, vĩnh hằng, bất biến, có thể chi phối và là chúa tể của hết thảy nhân loại, bởi thế Đại Phạm Thiên chiếm một địa vị rất cao trong Bà La Môn giáo Ấn Độ.
Nhưng từ lập trường Phật giáo: Xét về mặt tôn giáo, Phạm Thiên là đối tượng tín phụng của Nhất Thần Giáo. Ông ta tâm tham dục rất mỏng nhẹ, đã đoạn trừ tất cả vật dục và dâm dục của Dục Giới, chẳng còn sanh khởi tâm Sân nữa, bởi thế giáo đồ Nhất Thần Giáo đều nghĩ ông ta là một Đấng Sáng Tạo rất nhân ái. Nhưng từ Phật pháp mà nói, quả thật ông ta chẳng sanh khởi tâm sân khuể, tâm tham dục đúng là rất nhạt, nhưng tâm kiêu ngạo và siểm mị rất nặng!
Đối với vấn đề này, kinh Phật cho biết: Lúc Phật còn tại thế, trong số đệ tử Phật có ngài tỳ-kheo Mã Thắng (Ashvajit) từng lên cung Đại Phạm Vương, gặp đúng lúc Phạm Thiên giáo huấn thần dân vô cùng kiêu ngạo như thế này:
- Ta là chúa tể của thế gian, là đấng sáng tạo nhân loại, là tuyệt đối rốt ráo, là an lạc tối cực. Các người là con dân của ta, chẳng thể đạt đến địa vị như ta.
Đang cao hứng tuyên bố nẩy lửa như thế, chợt thấy tỳ-kheo Mã Thắng đứng trước mặt, Phạm Vương lập tức im bặt không nói nữa, dẫn tỳ-kheo Mã Thắng ra chỗ không có người, rồi mới khe khẽ bảo tỳ-kheo Mã Thắng:
- Những lời tôi vừa mới tuyên bố cùng thần dân xin Ngài chớ cho là thật, ngàn vạn lần xin đừng rêu rao những lời đùa bỡn ấy trước mặt người khác.
Do đây ta có thể thấy Phạm Thiên có hai thứ phiền não: Trước mặt thần dân tỏ vẻ kiêu ngạo, trước mặt tỳ-kheo Mã Thắng tỏ vẻ siểm mị. Như vậy, phiền não vẫn còn tồn tại.
Sanh lên trời, nếu sanh vào Dục Giới, chỉ hành Ngũ Giới Thập Thiện là đủ, còn muốn sanh lên hai cõi trên (Sắc Giới và Vô Sắc Giới) lại phải tu thêm Thiền Định, nhưng chỉ có thể sanh làm quan tướng nhà trời và dân chúng cõi Sơ Thiền. Nếu muốn làm Đại Phạm Thiên Vương phải tu Tứ Vô Lượng Tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả; cho thấy làm Đại Phạm Thiên Vương cũng chẳng phải là chuyện đơn giản. Đạt đến địa vị Đại Phạm Thiên Vương cố nhiên là cao quý vĩ đại nhất trong Bà La Môn giáo, nhưng nhà Phật chẳng nghĩ như thế, chẳng qua Phạm Vương chỉ là một vị thiên vương, vẫn chưa thể siêu xuất tam giới, liễu thoát sanh tử.
Phạm Thiên tuy tự nhận mình là đấng sáng tạo nhân loại vũ trụ, nhưng không cách nào cứu vãn hiện thực khổ não cho thế gian, bởi thế sau khi đức Phật xuất hiện trong thế gian thành Chánh Giác, thoạt đầu chẳng nghĩ đến chuyện thuyết pháp, sau vì Đại Phạm Thiên Vương cầu thỉnh, Phật mới bắt đầu thuyết pháp cho nhân loại. Như vậy điều này đủ chứng tỏ bậc thật sự cứu vớt thế gian chỉ có mình đức Phật. Nếu Phạm Thiên có năng lực cứu thế gian, cần gì phải thỉnh Phật thuyết pháp? Cũng vì vậy, Phạm Thiên quy y đức Phật, trở thành vị hộ pháp cho Phật pháp.
Thông thường, trong các chùa miếu, Phật điện, Đại Thừa Phật giáo đa phần tạc tượng hai đại Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền bên cạnh tượng Phật; Tiểu Thừa Phật giáo đắp tượng hai đại tôn giả A Nan, Ca Diếp hai bên tượng Phật, nhưng cũng có chỗ tạc tượng Đại Phạm Thiên và Đế Thích Thiên hai bên tượng Phật, bởi Đại Phạm Thiên và Đế Thích Thiên là hai vị hộ pháp đắc lực của Phật pháp. Quán Âm Bồ Tát biết đối với loại chúng sanh này, chẳng thể dùng thân phận nào khác để độ thoát được, bèn hiện thân tướng Phạm Thiên vì kẻ đó nói pháp “ly ái đoạn dục”, pháp Tứ Vô Lượng Tâm, để kẻ đó y pháp tu hành ngõ hầu giải thoát thân tâm. Vị trời này sở dĩ gọi là Phạm Thiên là do sắc tướng thanh tịnh không có ái dục.
https://nigioikhatsi.net/viet/giangg...giangky-29.htm