-
[english n/a]
LỢI ÍCH CỦA VIỆC NHIỄU QUANH BẢO THÁP VÀ CẦU NGUYỆN
The benefit of doing Kora around stupa with prayers
--
Bài viết này đã được chào đón nồng nhiệt tại trang Đại Bảo Tháp Mandala Tây Thiên. Vì sự lợi ích quá lớn nên page vẫn xin trích đăng lại để lợi ích cho những ai chưa đọc. Ngoài ra, chúng ta rất may mắn khi có được Bảo tháp Tây thiên Phù nghì - những ai chưa có duyên đi Nepal, Ấn độ, Tây tạng để nhiễu tháp thì vẫn hoàn toàn có thể đi Tây thiên (gần Hà nội) để thực hành pháp với năng lực gia hộ của Bảo tháp_admin
--
Một lần, Vua Trisong Detsen hỏi Đại Sư Liên Hoa Sinh: “Thưa Đại Sư! Xin Ngài nói cho chúng con biết về lợi ích và phước báu của việc phục lạy trước Bảo Tháp, đi nhiễu quanh Tháp, chiêm bái và cúng dường, cùng làm công quả cho nơi tụ hội hợp nhất của chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai”.
Đức Liên Hoa Sinh trả lời: “Thưa Đại Vương! Xin Ngài hết sức chú ý nghe Ta nói!
Sau khi chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai đã thực sự tan hòa, nhập vào Tâm Thuần Tịnh của Bảo Tháp vĩnh viễn, thì Đại Bảo Tháp này có quyền năng khiến cho mọi lời cầu xin và mọi ý nguyện đều được thành tựu tức khắc và vô cùng, vì Tháp đã trở thành Viên Ngọc Như Ý (Yeshe Norbu).
Chúng sinh bất cứ ai với tấm lòng trong sạch phục lạy trước Đại Bảo Tháp, nhiễu quanh Tháp và chiêm bái Tháp sẽ có được lợi ích và phước huệ vô lượng không thể nghĩ bàn, vượt quá cả sự diễn tả của chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai, vì những tảng đá xây thành Bảo Tháp này là để mang lại niềm vui bất khả tư nghị cho loài người.
Vì Đại Bảo Tháp này là nơi nhận Phật Tâm của chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai, nên Tháp cũng là nơi chiêm bái của những người phàm cũng như chư thiên. Đối với người và trời, bất cứ lời cầu xin hay khấn nguyện nào trước Tháp này, cũng sẽ được ban cho sự như ý, thậm chí ngay cả sự chứng ngộ tối thượng và quyền năng tâm linh cũng có thể được đạt được.
Đại Bảo Tháp, Viên Ngọc Như Ý Quý Báu này sẽ ban cho mọi điều hạnh phúc. Người nào đến viếng Tháp sẽ không bị sa vào ba cõi thấp: ngạ quỷ, súc sinh và địa ngục, khi thần thức của người đó lang thang trong cõi Bardo sau khi chết.
Người nào nghe thấy sự rung động của Đại Bảo Tháp bằng tai của mình, thì chủng tử giác ngộ tối thượng sẽ được gieo trồng trong người đó.
Người nào quán tưởng bản tính của Đại Bảo Tháp thì người đó sẽ không xáo động, kiêu mạn, hôn trầm và sẽ tái sinh vào dòng thiền định.
Người nào cung kính khoanh tay trước Tháp, người đó sẽ đi theo Chính Đạo.
Bất kỳ người nào cúi mình đảnh lễ sâu sa trước Đại Bảo Tháp, người đó sẽ trở thành một Bậc Chuyển Luân Vương (Vua của Vũ Trụ).
Người nào nhiễu quanh Đại Bảo Tháp sẽ đạt được bảy điều thiêng liêng hạnh phúc: Tái sinh cao quý, thân thể tốt đẹp, rất sung sướng, có trí huệ và đức hạnh, giàu có và quyền lực, không có bệnh tật và cực kỳ trường thọ.
Người nào cầu nguyện sẽ được như ý tức khắc cho mình cũng như cho người khác.
Người nào cúng dường cho các tu sĩ của Tháp, thì kiếp sau của họ sẽ không còn bị đói khát, bệnh tật.
Người nào dâng hoa cho Đại Bảo Tháp thì sẽ được phước, lộc, an khang.
Người nào dâng hương nhang sẽ đạt được việc làm trong sạch và đạo đức.
Người nào dâng đèn sẽ thoát khỏi bóng tối vô minh và đạt được giác ngộ.
Người nào dâng hương liệu thơm sẽ không gặp phiền não, đau khổ.
Người nào cúng dường thực phẩm ban phước sẽ sống một đời thiền định và không bị đói.
Người nào dâng âm nhạc lên Đại Bảo Tháp là hoằng truyền Pháp âm ra khắp mười phương.
Người nào dâng âm thanh của chiêng, chập chõa sẽ đạt sự hiểu biết sâu rộng và thịnh vượng.
Người nào dâng âm thanh của chuông nhỏ sẽ có giọng nói ngọt êm, giọng nói thiêng liêng của vua trời Phạm Thiên.
Người nào dâng một đồ hình Mandala lên Đại Bảo Tháp sẽ đạt được công đức và trí huệ viên mãn như kết quả của tu tập tâm linh tạm thời và tối hậu."
Trích "Huyền Thoại Đại Bảo Tháp"
Nguồn: FB Đại Bảo Tháp Mandala Tây Thiên
[Xin ghi rõ nguồn nếu bạn muốn chia sẻ bài viết này ở một trang tin khác_Trong dịch thuật về Pháp xin không tự ý chỉnh sửa bản dịch gốc_admin]
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...ce&oe=5A8E7466
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
Thỉnh đạo sư truyền lực gia trì [english n/a]
--
Page xin chia sẻ bài giảng từ Ngài Sonam Tenzin Rinpoche để các bạn có một kiến thức hay - trường hợp bạn muốn thực hành theo thì nhất định phải thỉnh ý Root Guru và /hoặc các Đạo sư trong truyền thống của mình. Xin hoan hỷ lưu tâm.
---
Trước mọi công phu hành trì, chúng ta nên bỏ vài phút để quán tưởng thỉnh Đạo sư truyền lực gia trì. Pháp thỉnh Đạo sư gia trì này rất đơn giản, chỉ cần:
Ngồi xếp bằng trên tọa cụ theo thế kiết già,
Tưởng tượng trên đỉnh đầu mình có một đài sen ngàn cánh, trên đài sen là một đài mặt trăng dẹp, bên trên là đấng Bổn sư của mình.
Tưởng tượng bổn sư và Phật Kim Cang Trì là một. Hướng về bổn sư, khởi tâm thỉnh lực gia trì của đức bổn sư mang sắc tướng Phật Kim Cang Trì.
Nhờ lòng chân thành thỉnh cầu như vậy, đức bổn sư rất hoan hỷ, mỉm nụ cười từ bi, tan xuống đỉnh đầu ta, rót vào tim ta. Theo y học thì trái tim nằm bên trái, nhưng lúc quán tưởng hãy tưởng tượng trái tim nằm ở giữa lồng ngực, như một quả trứng mở ra. Lực gia trì của đức bổn sư mang sắc tướng Phật Kim Cang Trì rót xuống đỉnh đầu, rót thẳng vào trong tim. Trái tim như quả trứng mở ra, trọn vẹn lực gia trì rót vào, trái tim khép lại, giữ kín chặt nơi đó.
Hãy thấy tinh túy của mình và tinh túy của bổn sư trở thành bất nhị, không thể phân chia. Hãy tin chắc rằng đức bổn sư Phật Kim Cang Trì có được bao nhiêu từ bi trí tuệ, bây giờ bản thân mình cũng có được đầy đủ bấy nhiêu.
Pháp hành này rất quan trọng, trước thời công phu sáng, trước mọi pháp hành, hãy nên thỉnh lực gia trì của Đạo sư. Là vì quán tưởng tinh túy của đạo sư rất quan trọng. Không có đạo sư sẽ không thể đạt quả giác ngộ. Chúng ta đã không còn đủ phước duyên để trực tiếp gặp đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nhưng đạo sư là hiện thân của Phật Thích Ca Mâu Ni, vì vậy gặp được đạo sư cũng như gặp Phật. Vì vậy mỗi khi quán tưởng đạo sư và Phật Kim Cang Trì bất nhị, mỗi khi quán tưởng được như vậy, nghiệp chướng nhiều đời đều được thanh tịnh. Nhiều kinh sách nói rằng dù quán tưởng trăm ngàn ảnh Phật, công đức này vẫn không thể sánh với công đức của chỉ một khoảnh khắc ngắn ngủi hướng về đạo sư, bất nhị với Phật Kim Cang Trì. Là vì chúng ta ngày nay không còn đủ phước duyên trực tiếp gặp đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nhưng vẫn còn gặp được bậc đạo sư, mang thân người, gần bên chúng ta. Không xa, rất gần. Vì vậy nếu hướng về đạo sư để thỉnh lực gia trì thì lực gia trì sẽ rót xuống mau chóng và mãnh liệt, vì rất gần.
Lực gia trì chỉ có thể rót xuống từ một dòng truyền thừa không gián đoạn. Người không tiền thì dù muốn mang tiền cho người khác cũng không có để mà cho. Tương tự như vậy, lực gia trì muốn rót vào tâm đệ tử thì phải rót từ một nơi còn chan chứa lực gia trì, phải từ dòng truyền thừa không gián đoạn, thẳng từ Đức Phật rót xuống. Dòng truyền thừa nếu đã đứt đoạn thì còn lực gia trì đâu nữa để mà rót xuống. Sự liên tục của dòng truyền thừa là yếu tố vô cùng quan trọng.
Dòng truyền thừa của Thầy, quý vị ở đây cũng biết, thuộc dòng truyền thừa Kagyu, là một trong bốn dòng của Phật Pháp Tây Tạng, xuất phát từ đức Phật Kim Cang Trì. Phật Kim Cang Trì không phải là hóa thân của Phật, hoàn toàn không mang sắc tướng con người mà chính là pháp thân của Phật. Đức Phật Kim Cang Trì thuyết giảng Pháp Đại Thủ Ấn, có bao nhiêu từ bi, trí tuệ rót hết cho vị sơ tổ của dòng Kagyu là ngài Tilopa, bậc cao tăng Ấn Độ. Rồi ngài Tilopa truyền hết chứng ngộ trí tuệ và từ bi cho đại đệ tử là ngài Naropa. Sau đó ngài Marpa từ Tây Tạng phải cực khổ du hành qua Ấn Độ để thỉnh chánh pháp. Ngài Naropa đã truyền hết chứng ngộ cho ngài Marpa mang về Tây Tạng. Hồi đó không có máy bay, xe hơi, phương tiện di chuyển rất cực khổ, các ngài phải vượt đường xá hiểm trở để thỉnh nguồn giáo pháp cực kỳ quý giá. Khi ngài Marpa về lại Tây Tạng thì một trong những vị đại đệ tử của ngài là đức Milarepa, đã dựa vào giáo pháp này mà tu một đời thành Phật, đều nhờ vào dòng truyền thừa này. Milarepa truyền lại dòng truyền thừa đại thủ ấn này cho đệ tử chân truyền là Gampopa. Ngài Gampopa có 4 đại đệ tử, từ bốn vị này thành bốn nhánh truyền thừa chính của dòng Kagyu: dòng Barom Kagyu của Thầy, xuất phát từ đức Barom Darma Wangchuk; dòng Karma Kagyu xuất phát từ đức Karmapa đời thứ nhất, ngài Dusum Khyenpa; dòng Tshalpa xuất phát từ đức Tsondragpa và dòng Phamo Kagyu xuất phát từ đức Phamo Trupa. Sau đó lại có thêm tám nhánh phụ. Dòng truyền thừa Kagyu từ đó mà ra, đến nay vẫn còn liên tục không gián đoạn, do những đời tổ sư tiếp nối giữ gìn chứ không phải do người có quyền có thế hay có tiền có của tự sáng tạo ra. Trải qua nhiều đời chân truyền, thành một dòng không gián đoạn, được gọi là Chuỗi Hạt Vàng. Quí vị hôm nay có được thiện duyên tiếp xúc với Chuỗi Hạt Vàngvô cùng quý giá này, nếu có được tâm trong sáng, dựa vào dòng chánh pháp này nhất định sẽ có khả năng đạt mọi chứng ngộ từ bi và trí tuệ từ đức Phật truyền xuống.
Còn một điều rất quan trọng Thầy muốn chia sẻ với quý vị: trước khi theo một vị thầy, chúng ta cần rất thận trọng, dùng lý trí xét cho thật kỹ xem vị thầy này có phải là bậc chân sư hay không. Đương nhiên không nên rơi vào vòng thị phi khen chê đúng sai v.v... nhưng phải biết dùng lý trí suy xét xem vị thầy này thuộc dòng truyền thừa nào, sư phụ là ai, nhân phẩm như thế nào, có phải là bậc chân sư xứng đáng cho mình theo học Pháp hay không. Một khi đã đến nghe Pháp, thọ gia trì, nhận quán đảnh là đã quá trễ, đã lỡ tạo duyên với ác tri thức. Phải biết thận trọng suy xét cho kỹ lưỡng trước khi tạo duyên.
Thời gian gần đây, Thầy nghe nói có nhiều việc xảy ra ở Việt Nam, có nhiều người đứng ra tự xưng là La-ma, đạt chứng ngộ này, chứng ngộ nọ, được sự công nhận của bậc chân sư này, chân sư kia v.v... Những việc như vậy chúng ta phải vận dụng lý trí để mà suy xét. Ví dụ nghe nói đời nay có người tự cho là còn giữ được huyết của đức Phật, còn trong ly, màu đỏ. Chỉ cần suy nghĩ một chút, từ thời Phật đến nay đã hơn 2500 năm, thời đó hoàn toàn không có chất bảo quản như ngày nay, làm cách nào có thể giữ máu Phật qua hơn hai ngàn năm không biến màu? Những việc này có thể dùng lý trí để mà biết là chân hay giả.
Xá lợi Phật cũng vậy, xá lợi Phật rất hiếm hoi, nếu có được 1 – 2 viên, điều này còn có thể chấp nhận được. Cả một quốc gia như Nepal cũng chỉ có được một viên xá lợi. Thế nhưng ngày nay chúng ta may mắn đến nỗi xá lợi có thể hốt cả nắm, có thể mua một cách dễ dàng. Những điều này phải khiến chúng ta suy nghĩ xem là giả hay chân. Khi Thầy nghe những việc như thế này, Thầy cảm thấy rất quan tâm. Nhất là đối với những đệ tử có duyên với Thầy, Thầy luôn quan tâm lo lắng. Nếu quý vị tìm được một bậc chân sư khác và theo học thì Thầy hoan hỷ không lo lắng, tu với ai cũng được, miễn tu theo dòng chánh pháp thì đều giống nhau cả, Thầy không có tâm phân biệt. Nhưng nếu chúng ta không dùng lý trí để suy xét, ai nói gì cũng tin theo, gặp đâu cũng đi theo, tự tạo chướng ngại cho chính mình, Thầy cảm thấy có trách nhiệm đối với quí vị. Xin quí vị thận trọng, tự bảo vệ cho chính mình.
SONAM TENZIN RINPOCHE | truyền thống Barom Kaguyd
Hồng Như thông dịch
-
Drikung Kagyu Dharma Raja đã thêm 14 ảnh mới.
19 Tháng 6 2016 ·
Hôm nay 19.6 là sinh nhật Đức Karmapa thứ 17, Ogyen Trinley Dorje
Today June 19th is birthday of HH the 17th Karmapa, Ogyen Trinley Dorje
Nhân dịp sinh nhật lần thứ 31 của Đức Karmapa 17, Ogyen Trinley Dorje, vị đứng đầu truyền thống Karma Kagyu, một trong 12 nhánh của học phái Kagyu, cầu nguyện cho Ngài được trường thọ và Phật sự của Ngài luôn trải rộng và lan xa đến vô cùng.
Page xin được trích đăng Tiểu sử của Ngài:
---
Đức Gyalwang Karmapa đời thứ 17 – Orgyen Trinley Dorje
1/ Các vị Karmapa
Karmapa có nghĩa là “bậc hoằng hoá công hạnh của chư Phật” hay là ʺhiện thân của tất cả các họat động của chư Phật”. Theo truyền thống Tây Tạng, những bậc đạo sư giác ngộ vĩ đại được cho là có thể tự sắp đặt để tái sinh như một vị thầy, là người có thể tiếp tục việc truyền dạy của vị tiền bối trong kiếp trước đó. Theo truyền thống này, các vị Karmapa đã tái sinh trong thân tướng của một hoá thân, trải qua mười bảy đời, cũng như trong đời hiện tại, và tất cả các vị hoá thân đều đã đóng vai trò quan trọng nhất trong việc bảo vệ và truyền bá Phật Pháp tại Tây Tạng.
Trước khi vị Karmapa đầu tiên được sinh ra đời – là một vị chân sư của Phật Giáo, là người sau này được biết đến như là ngài Karmapa – thì việc này đã được tiên đoán bởi đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong lịch sử và bởi vị đạo sư Mật tông vĩ đại, đức Liên Hoa Sanh (Guru Padmasambhava) của xứ Ấn. Qua nhiều thế kỷ, các vị Karmapa đã từng là nhân vật trọng yếu trong việc tiếp nối truyền thống Kim Cang thừa nói chung và tiếp nối dòng truyền thừa Kagyu nói riêng. Các ngài đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc duy trì các pháp tu tập và hành trì của tất cả các dòng truyền thừa Phật giáo.
Sự ra đời và những năm tháng đầu đời của Ngài Karmapa thứ 17:
Vào năm 1985, một bé trai được sinh ra trong một gia đình du mục tại vùng Lhatok phía đông Tây Tạng. Trong những tháng trước khi cậu bé chào đời, mẹ cậu có những giấc mơ kỳ lạ trong thời kỳ mang thai cậu. Vào ngày cậu bé ra đời, một con chim cu đến đậu trên chiếc lều nơi cậu được sinh ra, và rất nhiều người nghe thấy một âm thanh huyền bí giống như tiếng ốc biển vang vọng khắp nơi trong thung lũng nơi gia đình của đứa trẻ mới ra đời sinh sống.
Ở Tây Tạng, những sự kiện như vậy được xem là những điềm báo tốt đẹp về sự ra đời của một bậc thầy giác ngộ.
Cậu bé du mục được gọi là Apo Gaga. Trong khi những năm tháng đầu đời của cậu, theo gia đình cậu cho biết, có vẻ tràn đầy phúc lành thì trong gian đoạn đầu đời này, Apo Gaga không hề nói về bất cứ sự liên hệ nào với các ngài Karmapa cả. Tuy nhiên, vào năm1992, cậu yêu cầu gia đình mình chuyển vị trí du cư của gia đình tới một thung lũng khác, và cậu bảo họ hãy chờ một chuyến viếng thăm của các nhà sư du hành. Không lâu sau khi dựng xong ngôi nhà của họ ở địa điểm mới, các môn đệ của Karmapa thứ 16 tìm đến thung lũng đó theo hướng dẫn bí truyền của Karmapa thứ 16, trong lá thư tiên tri của ngài. Sự ra đời và các chi tiết khác về cuộc sống của Apo Gaga đều phù hợp với lời tiên tri trong lá thư. Apo Gaga đã được thừa nhận là vị Karmapa đời thứ 17, Ogyen Drodul Trinley Dorje.
Bên cạnh lá thư tiên tri [về vị tái sinh] của mình, ngài Karmapa đời thứ 16 đã viết rất nhiều các bài thơ, hay các bài đạo ca, tiên đoán rằng mặc dù ngài phải rời bỏ ngôi tổ đình của mình ở Tsurphu, Tây tạng, thì ngài sẽ nhanh chóng trở lại Tsurphu, và [còn tiên đoán] rằng vị thầy gốc hay bổn sư (root guru) của ngài sẽ là Ngài Situ Rinpoche, và [vị tái sinh của] ngài sẽ tu tập ở Ấn độ. Sau cái chết của ngài Karmapa thứ 16, mọi chuyện trở nên rõ ràng là những lời tiên tri của ngài [Karmapa 16] được dành cho người sẽ kế vị ngài.
Thêm vào đó, một vị thầy của thế kỷ 19, Chogyur Lingpa đã đưa ra một loạt tiên đoán về các đời Karmapa, cũng như lời tiên tri về đời thứ 17, và lời tiên đoán của Chogyur Lingpa phù hợp với các chi tiết về sự ra đời của Ngài [Karmapa đời thứ 17]. Vì tất cả những lời tiên tri này tự chúng đã hoàn toàn đầy đủ mà không cần sự chứng nhận của bất cứ vị thầy nào khác, nên theo truyền thống [về việc thừa nhận tái sinh] thì ngài Karmapa được xem như là ʺtự thừa nhậnʺ (self‐recognized).
2/Ngài Karmapa trở về Tsurphu ‐ tổ đình lịch sử của các vị Karmapa ‐ tại Tây Tạng
Ngài Karmapa thực sự đã trở về tu viện Tolung Tsurphu ở trung tâm Tây tạng vào năm 1992, nơi ngài được phong vị vào ngày 27 tháng 9 năm 1992, với sự chấp thuận của chính phủ Trung quốc. Đây là lần đầu tiên người Trung quốc chấp thuận một việc như thế này.
Tại Tsurphu, hơn 20,000 người đã cầu nguyện và vân tập để chứng kiến sự trở về của Ngài Karmapa. Sáng ngày hôm sau, khoảng 25,000 người xếp hàng trước Ngài để được ngài gia hộ.
Tại Tsurphu, ngài Karmapa nghiên cứu môn khoa học Phật giáo về tâm, học [cách cử hành] các nghi lễ, và [thực tập] các môn nghệ thuật mang tính tâm linh như các điệu nhảy múa [lama dance] chẳng hạn. Mỗi ngày, có hàng trăm vị khách từ khắp nơi trên Tây Tạng cũng như trên thế giới đến thăm ngài. Ngài cuối cùng bắt đầu ban phát các lễ gia lực và tham dự vào một số các nghi lễ khác nhau tại tu viện. Vào khooảng lên 10 tuổi, Ngài đã có thể nhận ra được tái sinh của các bậc thầy hoá thân, trong đó có cả những vị thầy xuất chúng như Pawo Rinpoche, Jamgon Kongtrul Rinpoche và Dabzang Rinpoche.
Trong khi Ngài ở Tsurphu, tu viện trải qua giai đoạn tái thiết trên một phạm vi rộng lớn để phục hồi lại các ngôi chùa, đền điện, các ngôi bảo tháp chứa nhục thân của các vị thầy, một Phật học viện (shedra), và nhiều căn nhà đã bị phá huỷ trong nhiều năm. [Việc tái thiết] đã được hoàn thành như là một trong các bổn phận chính yếu của ngài Karmapa. Tuy nhiên, cùng với năm tháng trôi qua, Ngài chịu sức ép ngày càng tăng từ phía chính quyền Tây tạng và Trung quốc trong các hoạt động đi ngược lại với bổn phận của một vị Karmapa như Ngài. Ngài đã từ chối công khai việc lên án Đức Đạt lai Lạt Ma và việc thừa nhận Ban Thiền Lạt Ma, và tham gia vào một loạt các hoạt động trái ngược với mong muốn của nhà cầm quyền. Mặc dù Ngài liên tục chịu sự giám sát của chính phủ Trung quốc, những người đã từ chối việc cấp phép cho Ngài rời khỏi đất nước mặc dù chỉ cho một thời gian ngắn,[ nhưng cuối cùng] Ngài và đoàn tuỳ tùng cũng đã dàn dựng một kế hoạch táo bạo để trốn khỏi Tây Tạng đến Ấn độ. Cuối cùng, vào năm 1999, có lẽ nhận ra sự hữu ích của mình ở Tây tạng đang bị huỷ hoại, Ngài quyết định [bỏ nước] ra đi.
3/Cuộc bỏ trốn vĩ đại của Ngài Karmapa
Sau vài tháng lập kế hoạch một cách cẩn trọng, vào ngày 28 tháng 12, vị Karmapa mười bốn tuổi đã giả vờ nhập thất, và thay vào đó mặc quần áo thường dân rồi lẻn trốn qua ngã cửa sổ.
Rời tu viện Tsurphu cùng nhóm tùy tùng, ngài bắt đầu một cuộc bỏ trốn táo bạo bằng xe hơi, bằng đôi chân, trên lưng ngựa, trên máy bay, trên tầu hoả và taxi; [đây là] một chuyến đi quả cảm đã trở thành đầu đề cho nhiều bài báo trên khắp thế giới. Vào ngày 5 tháng 1 năm 2000, ngài đến Dharamsala, Ấn độ, cùng với sự ngạc nhiên to lớn và niềm vui tràn ngập của thế giới, nơi ngài được diện kiến đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14. Ngài được chính phủ Ấn độ cấp cho quy chế tỵ nạn.
Từ năm 2000 đến nay, Ngài tiếp tục sống gần Dharamsala. Ngài đã được nhà cầm quyền Ấn độ cấp phép cho ngài du hành tới các địa điểm Phật tích ở Ấn độ và hàng năm đi đến Bồ Đề Đạo Tràng và Vườn Lộc Uyển dự các pháp hội Kagyu quan trọng mà ngài chủ trì. Ngài cũng đã đến Ladakh, vùng định cư của người Tây Tạng ở Nam Ấn độ, Calcutta và các nới khác trong vùng Himachal. Ngài vẫn đang đợi sự cho phép của chính phủ Ấn độ để rời Dharamsala trở về Tu viện Rumtek, là ngôi tổ đình truyền thống của các vị Karmapa tại Ấn độ.
Thông tin về các hoạt động rộng khắp của Ngài từ ngày ngài đến [Ấn độ] và lịch trình hiện tại của ngài cũng có thể tìm thấy trên trang web này: http://www.kagyuoffice.org
Tài liệu trên được dịch từ nguồn: http://www.kagyuoffice.org/karmapa.html
Nguyễn Thanh Hà chuyển Việt ngữ
Hà Lan, tháng 3/2008
Nguồn ảnh: Karma Doljang & Google Image
[Xin ghi rõ nguồn và người dịch nếu bạn muốn chia sẻ bài viết này ở một trang tin khác_admin]
-
-
[english n/a]
Câu hỏi: Thưa thầy khi lạy mà mệt có thể nghỉ một chút rồi mới lạy tiếp được không ạ? Ví dụ lạy 54 lần nghỉ ngơi rồi mới lạy tiếp 54 lần nữa.
Lama Sonam Jorphel Rinpoche: Nguyên tắc của việc lễ lạy là không được dừng lại giữa chừng, phải đủ 108 lạy mới được dừng lại. Vì là những hành giả sơ sơ, thời gian đầu các con có thể thực hành ít hơn nhưng sau này phải tăng dần số lần lễ lạy. Những ngày đầu các con không nên gắng quá mà hại sức khỏe, cứ làm đúng sức của mình thôi.
Nhập thất khác với tu trì hằng ngày. Khi nhập thất, các con phải hành trì liên tục theo đúng lời nguyện của mình. Việc tu trì hằng ngày thì không như vậy. Hoàn toàn tùy duyên, tùy khả năng, tùy sức lực các con.
Tại sao người ta thường nói là 100 nhưng tràng hạt lại có đến 108. Con số lẻ ra này chính là 10% của túc số 100. Vì trong khi trì chú và quán tưởng thường chúng ta hay mắc những lỗi như tính sai. Thế nên nói là 100 nhưng không bao giờ đầy đủ được 100. Do đó mà có phần thêm 10%.
Bình thường khi tính túc số hay dùng 100.000 lần cho lễ lạy, tụng lời nguyện Bồ đề tâm, trì chú Kim cang Tát đỏa hay cúng dường mạn đà la. Nhưng thực tế, các con phải thực hiện 100.000 lần nhân với 10% nữa.
100.000 lần hay 110.000 lần thì bản chất cũng đều như nhau cả. Do chư Phật thấu hiểu tâm tư vốn lệch lạc của chúng sinh mà bày ra vô lượng phương tiện để chỉnh tâm chúng sinh cho ngay thẳng lại. Thử hỏi 100.000 hay 100.000 cộng với 10% liệu có đủ không? Cho dù nhân thêm nhiều lần nữa cũng chưa chắc đã đủ. Tuy nhiên các ngài làm như vậy là để nhắc các con rằng mọi hành động của mình không bao giờ là hoàn hảo. Các con nói trì tụng được 100 biến minh chú nhưng không bao giờ được trọn vẹn 100 biến. Số lượng biến minh chú trì tụng được không quan trọng bằng chất lượng câu chú các con trì tụng.
Lama Sonam Jorphel Rinpoche
"Bài giảng của Thầy"
Việt dịch: Hiếu Thiện & nhóm Liên hoa tâm
[Xin ghi rõ nguồn và người dịch nếu bạn muốn chia sẻ bài viết này ở một trang tin khác_Trong dịch thuật về Pháp xin không tự ý chỉnh sửa bản dịch gốc_admin]
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
[english n/a]
TINH TẤN | Efforts | Shantideva
1- Sau khi tu nhẫn, cần tu tinh tấn. Có tinh tấn thì mới có thể an trú tâm Bồ-đề. Cũng như không có chuyển động nếu thiếu gió, phước đức không sinh nếu không tinh tấn.
2- Tinh tấn là hăng hái đối với điều lành. Những chướng ngại cho tinh tấn là biếng nhác, tham đắm những chuyện thấp hèn, tự khinh mình, nản chí thối lui.
3- Vì tham hưởng thú vui làm biếng, ưa ngủ nghỉ , không chán khổ luân hồi, mà ta càng ngày càng giải đãi.
4- Đã bị vướng vào lưới mê, kế tiếp lại mắc cái bẫy thọ sinh. Sao ta không biết mình sẽ sa vào miệng thần chết ?
5- Không thấy tử thần đã tuần tự giết đồng loại ta sao ? Thế mà những kẻ tham ngủ vẫn bất động như trâu thấy đồ tể.
6- Sau khi niêm phong tất cả lối thoát, tử thần đang rình rập, sao người có thể ham ăn và ngủ ?
7- Tử vong sẽ đến rất nhanh, hãy sớm trữ lương thực cho kịp. Nếu chờ tử thần đến bên hông mới hết lười biếng thì đã quá muộn, còn ích gì ?
8- Có khi việc chưa làm, hoặc mới khởi sự, hoặc còn dang dở, tử thần đột nhiên xuất hiện : Ôi, mạng ta hết rồi !
9- Khi thân thuộc bằng hữu ta đã tuyệt vọng, đau buồn sưng mắt, hai dòng lệ chảy dài trên má, đấy là lúc ta thấy sứ giả thần chết đến.
10- Kinh sợ nhớ lại tội lỗi mình, hãi hùng nghe những âm thanh ở địa ngục, ta hoảng hốt vùi thân trong phẩn uế, lúc ấy còn làm được gì ?
11- Hiện tại, cái khổ chết đã khiến ta sợ hãi như con cá lăn lộn trên cát nóng, nói gì cái khổ khó nhẫn ở địa ngục, quả báo tội lỗi ta đã làm ?
12- Như thịt da trẻ sơ sinh chạm phải nước sôi thì đau đớn kinh khủng, kẻ đã tạo nghiệp địa ngục là ta làm sao có thể an nhiên được ?
13- Kẻ yếu đuối không nỗ lực mà muốn được kết quả, thì phải chịu nhiều tai hại. Khi cái chết đến, họ kêu trời, tôi đau khổ chết mất.
14- Nhờ nương vào chiếc bè là thân người này, ta có thể vượt qua biển khổ lớn. Chiếc bè này khó có lại, hỡi kẻ ngu, đừng ham ngủ !
15- Sao lại bỏ pháp hỷ thù thắng, nguồn gốc của tối thượng an lạc, mà vui với những thói hèn hạ chỉ đưa đến tán loạn lăng xăng ?
"Nhập bồ tát hạnh" | Bồ tát Tịch Thiên
Việt dịch: Thích Nữ Trí Hải
nguồn: thuvienhoasen.org
[Xin ghi rõ nguồn và người dịch nếu bạn muốn chia sẻ bài viết này ở một trang tin khác_admin]
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
[english n/a]
Truyền thuyết Đại sư Virupa_Chân Sư Của Các Thiên Nữ
Ngài Virupa vốn sinh trưởng ở miền đông xứ Triputa thuộc vương quốc Bengal dưới thời vua Devapala . Ngay từ thuở thiếu thời, ngài đã qui y tu học tại tu viện Somapuri. Không lâu sau đó, ngài nằm mộng thấy Kim cương nữ Bồ Tát trao cho tâm pháp. Với lòng mong muốn mau thành tựu, ngài gia công trì tụng Kim cương chân ngôn hai mươi triệu biến trong suốt thời gian 12 năm. Nhưng ngài vẫn không thấy có dấu hiệu chứng đắc .
Một hôm, quá ư thất vọng. Ngài ném xâu chuỗi vào hố xí và rủa thầm : “ Mấy cái hạt vô tích sự này. Chẳng liên quan gì đến niềm an lạc của ta ” . Tuy nhiên , vào một đêm trong khi đang hành trì công phu . Sự bừng ngộ xảy ra trong tâm thức, ngài chợt nhớ đến xâu chuỗi đã mất . Tức thì Kim cương nữ Bồ tát hiện ra trao lại cho ngài xâu chuỗi và dạy rằng : “ Ngươi chớ phiền não. Ta sẽ luôn ở bên ngươi để hộ trì. Hãy loại bỏ các kiến chấp phiền não mà gắng công tu tập”. Sau đó ngài Virupa tu tập Kim cương tâm pháp thêm mười hai năm nữa thì ngài thấu triệt Đệ nhất nghĩa đế . Kể từ ấy ngài vượt thoát ra ngoài vòng sinh tử .
Mặc dù vậy , Virupa là ngưòi vốn quen rượu thịt . Hằng ngày , người hầu thường đi ra ngoài kiếm rượu thịt để dâng cho ngài . Cho đến một hôm người hầu lén bắt trộm những con chim câu của tu viện làm thịt . Thấy bỗng dưng mất những con chim câu, vị giám viện rung chuông họp tăng chúng lại tra hỏi : “ Ai trong các người đã ăn thịt những con chim câu của tu viện ? ” .
Chúng tăng đồng thanh đáp : “ Bạch thầy , việc này vốn chưa từng xảy ra . Có điều chắc chắn là không ai trong chúng tôi lại có thể sát hại những con chim câu ấy ” . Chợt một vị tăng nhìn vào cửa sổ phòng của Virupa , thấy ngài đang dùng thịt chim câu với rượu . Lập tức Virupa bị trục xuất ra khỏi tu viện. Gửi lại chiếc bình bát nơi bàn thờ .
Virupa đảnh lễ lần cuối cùng trước tượng đức Thế Tôn , bậc đạo Sư mà ngài đã thờ phụng hơn 24 năm qua . Rồi ra đi . Lúc rời cổng tu viện , một ông tăng chặn lại hỏi : “ Thầy sẽ đi về đâu ? ”. Ngài đáp: “ Ta đi theo con đường của riêng của ta ” .
Gần tu viện Somapuri có một hồ sen lớn , quanh năm phủ đầy lá . Khi đến gần hồ, Virupa liền ướm thử chân trên một lá sen để xem có chìm không . Đoạn ngài niệm danh hiệu Phật , rồi bước thoăn thoắt trên những cánh sen để đi qua bên kia bờ hồ. Chứng kiến cảnh Virupa hiển lộ thần thông như thế, chúng tăng đều kinh hoàng, lòng tràn đầy hối hận.
Họ tiến lại gần, năm vóc sát đất đảnh lễ và sờ vào chân ngài với niềm cung kính vô biên : “ Ngài thật có pháp lực vô biên . Cớ sao lại nhẫn tâm giết hại những con chim câu của chúng tôi ? ” . Virupa mỉm cười đáp : “ Những gì các ông thấy biết cũng chỉ là ảo ảnh . Giống như các hiện tượng thông thường khác trong thế gian ” . Nói xong , sư sai người hầu mang lại những mẫu xương , thịt vụn của chim . Bỏ vào lòng bàn tay trái đưa lên cao , tay phải khẻ khảy móng mấy cái . Những con chim câu liền sống lại và bay đi . Trông chúng to đẹp và khỏe hơn trước .
Từ bỏ lối sống của một nhà sư trong tu viện Somapuri . Virupa trở thành nhà Du-già khất thực . Lang thang đến bờ sông Hằng , ngài xin vị nữ thần sông một ít vật thực . Nhưng nữ thần tỏ ra kiêu kỳ từ chối khiến sư nổi giận rống lên một tiếng rồi tách nước sông làm đôi để đi qua . Đi mãi đến thị trấn Kanasata . Tại đây , ngài ghé lại tửu quán để dùng cơm và uống rượu . Cơm trắng rượu nồng là hai thứ mà ngài ưa thích nhất . Thấy Virupa uống rượu liên miên, chủ quán có ý định đòi tiền trước .
Virupa cười bảo : “ Ta sẽ ra đi khi trời tối. Lúc ấy trả tiền cũng không muộn”. Nói xong , tay trái ngài cầm dao quán chỉ thẳng vào mặt trời . Dùng phép “ Định thân ” chặn đứng mặt trời . Chia bầu trời làm thành hai phần : Bên tối và một bên sáng . Cứ như thế trải qua suốt mấy ngày , ngài tiếp tục uống và dùng lửa tam muội thiêu đốt năm trăm ngàn quỷ thần trong vùng khiến hạn hán xảy ra .
Đức vua xứ Kanasata lấy làm kinh hoàng về việc lạ chưa từng có ở đất nước . Nhưng không rõ duyên do gì . Cả triều đình cũng bó tay không biết tai họa từ đâu mà đến. Cuối cùng, nữ thần Mặt Trời hiện ra báo cho nhà vua . Sở dĩ có việc lạ như thế là do hành giả Du-già nợ tiền cơm rượu và chính nữ thần này cũng đang phải khốn đốn . Nhà vua bèn sai người đến trả tiền cho chủ quán. Virupa biến mất .
Ít lâu sau , Virupa du hành đến Indra . Đây là vùng đất có nhiều tín đồ Bà-la-môn rất cuồng tín . Virupa tình cờ đi ngang qua một tượng thần Siva bằng đá cao đến hơn 20 mét . Những tín đồ Bà-la-môn đang canh giữ tượng thần buộc ngài phải vái chào thánh tượng Siva . Ngài chối từ và nói rằng : “ Bậc trưởng thượng mà phải vái chào kẻ dưới hay sao ? ” .
Vua xứ Indra cũng có mặt ở đó , bèn lên tiếng bênh vực cho các đạo sĩ Bà-la-môn . Nhà vua phán : “ Nếu không vái chào thánh tượng . Ngươi sẽ phải tội chết ”. Ngài nói : “ Nhưng nếu đảnh lễ vị thần này , ta sẽ mắc tội lớn hơn tội chết ” . Vua nói rằng : “ Ngươi cứ làm . Hãy để tội ấy trẫm gánh chịu ” . Virupa liền chắp tay cung kính . Tức thì , tượng thần Siva nứt đôi , một giọng nói rền vang như sấm sét từ cõi trời vọng xuống : “ Đệ tử có mặt . Bạch thầy có điều gì dậy bảo ? ” . Ngài Virupa nói : “ Nay ta quy y cho ngươi . Hãy phát nguyện hộ trì chánh pháp ” . Thần Siva hiện ra , phát nguyện đúng theo lời dạy . Rồi tượng đá khép lại nguyên vẹn như cũ .
Từ Indra , Virupa lại vân du đến Devikota thuộc miền đông Ấn . Hầu hết cư dân vùng này đều là phù thủy ăn thịt người , uống máu nóng . Họ thường rình rập bỏ bùa mê các khách bộ hành tình cờ qua lại vùng này để bắt đem về tế lễ . Một ngày nọ Virupa cùng một thiếu niên đi vào vùng này. Cả hai dừng chân ở một ngôi đền thờ cuối làng để nghỉ qua đêm . Trong cuộc tương ngộ này Virupa ban cho chú bé một câu thần chú để hộ thân .
Cả hai lăn ra ngủ vùi vì quá mệt mỏi sau chặng đường dài . Lúc ấy bọn phù thủy đang tụ tập để tế lễ . Họ đã có thịt thú vật nhưng còn thiếu máu người để cử hành đúng nghi thức của cuộc tế . Gã phù thủy cầm đầu đã bỏ bùa Virupa và cậu bé vào buổi sáng , nên sai thuộc hạ đến ngôi đền để bắt hai nạn nhân của chúng .
Nhờ mật chú hộ thân , cơ thể của cậu bé như dính chặt xuống mặt đất . Khiến bọn phù thủy dùng hết sức cũng không tài nào nhấc lên nổi . Chúng đành khiêng một mình Virupa đang còn say ngủ về nơi ở . Bọn phù thủy tưới rượu lên khắp thân hình Virupa . Tay cầm dao, miệng cười rú lên một cách ma quái .
Tiếng cười mỗi lúc một lớn, nhưng khi chúng chưa dứt tiếng cười, . Virupa liền ngồi choàng dậy cất tiếng cười . Lần này, tiếng cười của Virupa to hơn gấp ngàn lần tiếng cười của bọn phù thủy . Âm thanh chấn động đến tam thiên đại thiên thế giới, khiến bọn chúng mất hết ý thức . So với tiếng cười của Virupa, tiếng cười của bọn phù thủy chỉ như tiếng khóc của trẻ sơ sinh .
Quá kinh sợ , bọn phù thủy khẩn nài xin ngài tha tội . Sau khi dùng thần lực nhiếp phục bọn phù thủy , Virupa làm lễ quy y cho chúng . Ngài dạy: “ Nếu các ngươi một lòng chí tín , quy ngưỡng Tam bảo thì ta luôn kề cận các ngươi để hộ trì, tránh khỏi mọi sự tổn hại . Ngày ngày các ngươi phải chuyên cần tu tập hạnh Bồ Tát . Nếu các ngươi giải đãi, tự thân sẽ bị mất đi một cốc máu .
Nếu các ngươi quay lưng lại với chánh pháp quay trở về với loài quỷ thần . Chiếc đĩa này sẽ chém lìa đầu các ngươi . Lúc bấy giờ, Bắc phương Quỷ Vương sẽ đến hút cạn máu của các ngươi ” . Bọn phù thủy nhất mực vâng lời dạy của ngài Virupa .
Tương truyền , ngày nay người ta vẫn còn thấy hình dáng chiếc dĩa này và Bắc phương Quỷ Vương trong dải Ngân hà . Sau khi nhiếp phục bọn phù thủy, Virupa lại vân du sang xứ khác . Ít lâu sau, ngài lại trở về viếng thăm vùng Dekikotta .
Lúc bấy giờ , vị đại Phạm Thiên và thị giả của ngài là Umadevi . Dùng thần thông tạo ra một thành phố gồm bốn triệu cư dân để tôn vinh và thờ phụng ngài . Tất cả vật thực dành cho buổi lễ cung nghinh ngài Virupa trở lại Dekikotta được chư thiên mang đến từ 33 cõi trời trong Dục giới . Truyền thuyết nói rằng ngài thọ đến 700 tuổi mới viên tịch.
---
Hành trì
Chướng ngại của Virupa cũng chính là phiền não của các hành giả Mật tông lúc còn sơ cơ . Trở lực ấy có lẽ do quá đem tâm dục cầu khiến sắc ý bột phát trong giai đoạn tu định . Cũng vì Kiến chấp ( Preconception ) với Chân tính ( Nature of reality ) . Kim Cương thánh nữ hiện ra như một thực thể nội tại vô biên đã phá vỡ cái vòng lẩn quẩn mà Virupa bị kẹt trong đó suốt 12 năm và giải thoát ngài ra khỏi sự bế tắc của tâm thức . Không dựa vào sự vật bên ngoài , vất bỏ xâu chuỗi để đi vào bản tâm thanh tịnh . Đó là nhận thức đầy tính dứt khoát của Virupa .
Trong kinh dạy rằng :
“ Bản tâm thanh tịnh được gọi là hạt châu như ý ” .
Bản tâm vốn không , các pháp lưu xuất thành niệm là do các căn .
Trong thiền định các kiến chấp tạo nên vọng tưởng biến thành phiền não.
Trích "84 VỊ ĐẠI THỦ ẤN"
Link gốc: http://phapdang.com/84-vi-dai-thu-an/.html
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
[english below]
Gyalwa Karmapa 16 | "Chính vì bị vây bủa bởi những nỗi âu lo quá đỗi về vật chất, nhịp độ sinh hoạt của họ [con người] cũng trở nên khẩn trương hơn. Một hoàn cảnh bận rộn này sẽ dẫn đến một hoàn cảnh bận rộn khác, và cứ thế tiếp tục mãi không ngừng. Bạn luôn luôn bận rộn. Chân lý luân hồi biểu hiện rõ ràng trong cuộc sống của bạn. Để cứu chữa tình trạng này, trước tiên một người cần an tịnh tâm mình. Đừng để cho mình bị cuốn hút hoàn toàn bởi ngoại cảnh. Hãy phát huy một vài mức độ tĩnh lặng. Hãy trau giồi việc hàng phục đơn giản đối với tâm, cũng như hãy vun bồi tâm thức an tịnh, trong sáng. Ít nhất là hãy làm cho tâm được cởi mở, rộng thoáng. Cho dù bạn là ai, mọi người trước tiên cần hướng đến thiền tập cơ bản, mà thiền tập này được sáng tạo một cách cụ thể hầu mang lại sự an tịnh trong tâm cho chúng sinh bị bận rộn này nọ liên miên. Đây là bước đầu tiên trong việc hành Pháp, mà Pháp lại vô cùng quan trọng cho chính mình và người khác."
trích LỜI KHUYÊN CHO VIỆC THỰC HÀNH TÂM LINH
Do ngài GYALWA KARMAPA thứ 16 thuyết giảng
Tài liệu được dịch từ nguồn: http://www.kagyu.org/kagyulineage/bu.../tra/tra02.php
Nguyễn Thanh Hà chuyển Việt ngữ (3/2008)
Tâm Diệu Phú hiệu đính (4/2008)
[english below]
Gyalwa Karmapa thứ 16 | "Thật là cần thiết để thực tập rốt ráo và thấu hiểu nghĩa lý giáo pháp. Và để đạt được điều đó, thì yếu tố quan trọng nhất, một lần nữa, lại là sự thực hành Bồ đề tâm, tức là tâm Giác ngộ, mà theo đó bạn sẽ dần dà bước trên con đường Kim Cang thừa. Ở mọi lúc mọi nơi, Bồ đề tâm là tuyệt đối cần thiết. Trừ phi các phương thức kỹ xảo uyên thâm của Kim Cương thừa cần được hỗ trợ bởi Bồ đề tâm, một người sẽ không nhất thiết phải đạt cho được các chứng ngộ cao sâu, đầy ý nghĩa. Vì thế, bạn có thấy không, thật ra vạn sự vạn vật đều bắt nguồn từ sự thực hành Bồ đề tâm."
trích LỜI KHUYÊN CHO VIỆC THỰC HÀNH TÂM LINH
Do ngài GYALWA KARMAPA thứ 16 thuyết giảng
Tài liệu được dịch từ nguồn: http://www.kagyu.org/kagyulineage/bu.../tra/tra02.php
Nguyễn Thanh Hà chuyển Việt ngữ (3/2008)
Tâm Diệu Phú hiệu đính (4/2008)
Nguồn ảnh: wernererhardfoundation.org
[Xin ghi rõ nguồn và người dịch khi chia sẻ bài viết trên ở một trang tin khác_xin không tự ý chỉnh sửa bản dịch gốc_admin]
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...0a&oe=5A9E5A4B
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
[english n/a]
Câu hỏi: Một người tu có được theo hai dòng truyền thừa hoặc có hai Guru không?
Sonam Jorphel Rinpoche: Đi chân nào bước chân nấy thôi, bước hai chân cùng một lúc sẽ bị té. Hành giả sơ cơ thường có một Bổn sư. Hành giả quán tưởng vị Bổn sư của mình và quán tưởng các đạo sư khác cũng hiệp hội trong đức Bổn sư của mình. Trong Guru của mình có tất cả chư Phật, chư Bồ Tát. Cái cây chỉ có một gốc. Mình phải phân biệt như thế thì phương pháp tu mới thuận. Tâm thành tín của ta phải như nhau không khác đối với tất cả các bậc đạo sư. Trong tâm thành kính của mình các đạo sư đều phải như nhau không có sự phân biệt. Nhưng về pháp tu của riêng cá nhân thì phải làm đúng theo như Bổn sư hướng dẫn.
Câu hỏi: Các thầy thường khuyên không nên “guru shopping”. Thế nhưng tuy con đã gặp nhiều Đạo sư mà chưa thấy thật sự gắn kết được với vị nào. Xin thầy cho con lời khuyên có nên tiếp tục tìm kiếm Đạo sư không?
Sonam Jorphel Rinpoche: Ở thời gian đầu, tìm đến nhiều vị thầy để nghe giảng pháp là điều rất tốt lành. Tuy nhiên, sau một thời gian thì các con phải tự quyết định chọn lựa Bổn sư cho mình. Do mối kết nối đạo sư-đệ tử là kết nối nghiệp cho nên cũng không khó lắm để nhận biết. Nối kết được với một vị thầy là điều rất quan trọng. Vì lúc đó các con mới có thể thật sự khởi tu theo lộ trình của dòng truyền thừa dưới sự dẫn dắt của Guru được.
"Bài giảng của Thầy"
Việt dịch Hiếu Thiện & nhóm Liên Hoa Tâm
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
Ngày mai Thứ 2 ngày 3/7/2017 theo Tạng truyền Phật Giáo là ngày Guru Rinpoche(Mùng 10/5) .Các Tantra Mật Điển nói rằng vào những ngày cát tường như thế ,cho dù một thiện hạnh nhỏ bé như cúng dường một bông hoa ,một giọt nước .....công đức đó sẽ đưa bạn đến hạnh phúc tối thượng.
_Vào ngày thứ 10 tháng 5, tháng Mùi, khi chúng ngoại đạo tirthika xứ Nam Ấn Độ đang gây đe dọa to lớn làm tổn hại tới Phật Pháp, qua sự hiển lộ bao la của huyền thuật, Ngài đập tan chúng thành bụi vụn nát cùng các chư thiên, hộ thần của chúng, giương cao ngọn cờ chiến thắng các giáo lý chư Phật. Và Ngài được biết tới là Guru Sengé Dradok – Đạo Sư Sư Tử Hống
_Lời dạy từ Chuỗi Hạt Vàng nói rằng:
Đặc biệt vào lễ hội ngày thứ 10, Ta, Orgyen,
Sẽ tới Tây Tạng, xứ tuyết, và hiện diện ở khắp mọi nơi.Cưỡi trên những tia sáng mặt trời và mặt trăng, cùng những giọt hơi nước li ti trong cầu vồng.Quét sạch những che chướng, chướng ngại từ những đứa con sùng mộ của Ta.Ban 4 quán đảnh cũng như những gì các con khao khát.Đây là lời thệ nguyện nghiêm túc của Ta; và Padma không bao giờ lừa dối cả, Ta hứa điều này.Nếu các con có lòng sùng mộ nơi Ta,
hãy thực hành liên tục, không gián đoạn vào mỗi ngày mùng 10.Và bằng cách hành động theo những chỉ dẫn của Ta,
toàn bộ xứ sở sẽ vui hưởng hạnh phúc và thịnh vượng, sung túc!
_Đảnh lễ đạo sư Liên Hoa Sanh
Om AH Hum Benza Guru Padme Siddhi Hum
=====
gày 5/5/2017 nhằm 10/3 Phật Giáo Tạng truyền .Thánh vía Đạo Sư Liên Hoa Sanh ( Guru Rinpoche)
_ Trên bước đường hoằng Pháp Guru Rinpoche đi đến xứ Zahor .Ngài hóa độ công chúa Hindu tên là Mandarava .Nàng chính là hiện thân của Dakini trí tuệ .Tức giận vì tưởng con gái của mình đã bị người lạ này mê hoặc, vua xứ Zahor cho bắt và thiêu sống Ngài. Đức Liên Hoa Sinh đã để cho quân lính bắt trói, rồi thị hiện biến đống củi đốt dưới chân thành một hồ nước và an tọa trên một đóa hoa sen ở giữa hồ nước này. Kinh ngạc và nhận ra bậc giác ngộ trước mặt, đức vua và người dân đảnh lễ và cúng dàng vương quốc lên Đức Liên Hoa Sinh.
Ngài từ chối ngai vua nhưng ở lại nơi này ban truyền giáo pháp trong nhiều năm, giúp 100,000 người dân xứ Zahor đạt giác ngộ. Hồ nước nơi Ngài thị hiện thần thông được đặt tên là Tso Pema, nằm tại Ấn Độ ngày nay và là một điểm hành hương quan trọng của vô số Phật tử.
_ Terma( kho tàng ẩn dấu) của Ratna Lingpa nói rằng:
Vào lúc mặt trời mọc vào mỗi ngày thứ 10 của tháng.Nếu bất kỳ ai nhớ nghĩ tới ta,họ và Ta sẽ bất khả phân( khai thị của Guru Rinpoche).Cầu nguyện cho những ai có lòng sùng mộ nơi Đạo Sư Tôn Quý sẽ nhận được ân phước từ ngài .
Om Ah Hum Benza Guru Padme Siddhi Hum .
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
Đây là Kho Tàng Mật Điển được khám phá bởi Đạo Sư Tôn Quý Dilgo Khyentse.Trong thời đại mạt Pháp 360 loại bệnh hiểm nghèo sẽ xuất hiện.Nếu các con thực hành nghi quỷ này thì bệnh tật sẽ được đẩy lùi.Thực hành nghi quỷ này có thể giúp đỡ các bệnh nhân trong giai đoạn cuối và một số trường hợp sẽ biến mất hoàn toàn căn bệnh.Thực hành này giúp chuyển hóa sân hận và ái dục.Cuối cùng sẽ đạt được Giác Ngộ.Nếu muốn thực hành nghi quỷ này bạn phải thọ nhận Quán Đảnh trực tiếp từ một Đạo Sư thuộc truyền thừa Thanh Tịnh
http://www.wisdomcompassion.org/guruorgyenmenla
[IMG]file:///C:/Users/Administrator/Downloads/8f5b64_f3cf2e8aa2d849eeb05c232036a51c60-mv2_d_1536_2048_s_2.webp[/IMG]
===========
།ཅེས་པའང་འཇམ་དབྱ ས་མཁྱེན་བརྩེ་དབང པོས་སོ།། །སརྦ་མདྒ་ལཾ།། །སངསརྒྱས་སྨན་བླའ ་རྒྱུན་ཁྱེར་ནི།
Padmasambhava's Short Daily Practice in the form of the Medicine Buddha
Nghi Quỷ Ngắn Đức Dược Sư Liên Hoa Sanh
Orgyen Menla photo courtesy of Mala Ḍākinī Shop in Vietnam.
Hình tượng Ngài Orgyen Menla từ Mala Dakini Shop, Việt Nam.
་
Must receive empowerment and instruction from a pure lineage to practice.
Phải thọ nhận Quán Đảnh Liên Hoa Sanh trực tiếp từ một Đạo Sư thuộc truyền thừa Thanh Tịnh để thực hành.
ཨོ་རྒྱན་སྨན་བླ་འ ི་ནི་ སྐྱབས་རྗེ་མཁྱེན་ རྩེ་རིན་པོ་ཆེའི་ ཀའ་འབུམ་ཐ་བའི་ནང ་ལ་བཞུགས་ཡོད།
Padmasambhava in the form of the Medicine Buddha, text received in a pure vision by H.H. Dilgo
Kyentse Rinpoche.
Sự hợp nhất của Đạo Sư Liên Hoa Sanh và Đức Phật Dược Sư, bản thảo được nhận dưới sự chứng
minh thuần khiết của Đức Pháp Vương Dilgo Kyentse Rinpoche.
།གསོལ་འདེབས་ལེའུ བདུན་མ་ལས། སྣང་སྲིད་དབང་དུ་ ྔུད་པའི་བརྒྱུད་འ ེབས་བཞུགས་སོ།
Guru Rinpoche's Seven-Chapter Supplication. In the Lineage Prayer (gyud deb)
Thất Nguyện Bảy Chương Đạo Sư Liên Hoa Sanh. Trong dòng truyền thừa (Gyud Deb)
༄༅། པདྨ་ཧེ་རུ་ཀ་ཡི་ད ོངས་པ་ཡིས༔ དབང་གི་ལྷ་མོ་ནྰ་ ་རྫུ་ན་དང༔
PADMA HERUKAYI GONG PAYIY WANG GI LHA MO NAGARJU DA DANG
Throught the enlightened intent of Padma Heruka, through Wang-gi Lhamo, through Nagarjuna,
Nương năng lực Giác Ngộ Hoạt Bi Liên Hoa, thấu xuốt Wang Gi Lhamo, Long Thọ Bồ Tát,
པདྨ་འབྱུང་གན་བར་ ྱིན་བརླབས་ཏེ༔ འདས་དང་མ་བྱོན་ད་ ྟ་དུས་གསུམ་གྱི༔
PADMA JUNG NAY BAR DU JIN LAB TEY DAY DANG MA JON DA TA DU SUM GYI
And down through Padmasambhava, the blessings have been maintained. I supplicate the lama three times, past, future, and present.
Xuống tận Đạo Sư Liên Hoa Sanh, Xin gia hộ con. Con khẩn nguyện chư Đạo Sư trong ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai.
གསུང་གི་བརྒྱུད་པ ི་བླ་མ་ལ་གསོལ་བ་ དེབས༔ ཨོ་རྒྱན་པདྨ་འབྱུ ་གནས་ལ་གསོལ་བ་འད བས།
SUNG GI GYUD PAI LA MA LA SOL WA DEB ORGYEN PADMA JUNG NAY LA SOL WA DEB
The lineage of enlightened speech; I supplicate Orgyen Padma Jungnay
Extracted from the "Supplication in Seven Chapters" that derives from the terma discovered by Tulku Zangp Dragpa.
Nguyện dòng truyền thừa Giác Ngộ; Con khẩn nguyện Orgyen Padma Jungnay
Được cô động từ "Thất Nguyện trong Bảy Chương" phát xuất từ kho tang mật điển khai phá bởi bậc Chuyển Thế Zangp Dragpa.
།སྒྱབས་གནས་ཀུན་འ ུས་ཨོ་རྒྱན་རིན་པ ་ཆེ། བཟོད་མེད་གདུང་ཤུ ས་དྲག་པོས་་གསོལ་ ་འདེབས།
KYAB NAY KUN DU ORGYEN RINPOCHHE RZOD MED DUNG SHUK DRAK PO SOL WA DEB
Embodiment of all sources of refuge, Orgyen Rinpoche, to you we pray with a yearning so strong it is hard to bear.
Hiện thân của cội nguồn Quy Y, Orgyen Tối Tôn Quý, chúng con khẩn nguyện đến ngài bằng tín tâm mãnh liệt.
།ཕྱི་ནང་གསང་བའི་ ར་ཆད་དབྱིངས་སུ་ག ོལ། །བསམ་དོན་ཆོས་བཞི ་འགྲབ་པར་བྱིན་གྱ ས་རློབས།
CHHI NANG SANG WA'I BAR CHHED YING SU SOL SAM DON CHHO ZHIN DRUB PAR J IN GYIY LOB
Dispel all outer, inner and secret obstacles into space and grant your blessings so that our aims and wishes are fulfilled.
Xin ngài xua tan các chướng ngại bên ngoài, bên trong và bí mật vào không gian và gia hộ chúng con thành tựu mọi ước nguyện.
སྐྱབས་སེམས་ནི།
Refuge and Bodhicitta:
Quy Y và Phát Bồ Đề Tâm:
སངས་རྒྱས་ཆོས་དང་ ོགས་ལ། བྱང་ཆུབ་བར་དུ་བད ་སྐྱབས་མཆི།
SANG GYE CHÖ DANG TSOK LA CHANG CHUB BAR DU DAG GYAP TCHI
In the Buddha, Dharma and Sangha, I take refuge until enlightenment.
Phật bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo con xin nương tựa cho đến khi Giác Ngộ.
།རང་གཞན་དོན་གཉིས རབ་བསྒྲུབ་ཕྱིར རྫོགས་པའི་སངས་རྒ ས་མྱུར་ཐོབ་ཤོག
RANG SHIN DÖ NYI RAB DRUP CHIR ZOG PI SANG GYE NYUR TOP SHOG
For the benefit of myself and others, may I achieve enlightenment for the benefit of all sentient beings.
Vì lợi lạc cho con và vô lượng hữu tình, nguyện con thành Phật độ chúng sanh.
ལན་གསུམ།
(Repeat it three times )
(Lập lại 3 lần)
།རང་ཉིད་སྐད་ཅིག་ ྲན་རྫོགས་སུ། ཨོ་རྒྱན་སྨན་གྱི་ ླ་མ་ནི།
RANG NYI KED CHIG TREN DZOG SU URGYEN MEN GYI LA MA N
In a second I am transformed into the deity Urgyen Menla (Guru Padmasambhava in the form of the Medicine Buddha).
Trong sát na con hóa thành Bổn Tôn Orgyen Menla (Sự hợp nhất của Đạo Sư Liên Hoa Sanh và Đức Phật Dược Sư).
མཐིང་གསལ་སྨན་མཆོ ་ལྷུང་བཟེད་བསྣམས སྙན་ཞུ་གསང་གོས་ཕ ས་བེར་གསོལ།
TING SAL MEN CHOG LUNG TSE NAM NYEN SHU SANG GOA PÖFER SO
His color is a very clear blue, in his left hand there is a bowl full of medicine, and in his right hand there is a vajra. He is wearing a Saor king's hat and a red and yellow robe.
Ngài có màu xanh lưu ly thanh tịnh, trên tay trái cầm bát Thánh Dược và tay phải kết ấn Kim Cương. Ngài đội mũ Liên Hoa Giải Thoát, khoát trên mình ý đỏ và vàng.
བྱིན་རླབས་གཟི་བར ིད་ལྔན་པར་གསལ།
CHIN LAP ZIG CHID DEN PAR SAL
The energy of the blessings, which comes as one thousand suns, are absorbed in you
Năng lượng gia trì đến từ một ngàn mặt trời chiếu thẳng đến con
ཨོཾ་ཨཱཿཧཱུྃ་བཛྲ་ ུ་རུ་སཾ་བྷ་ཝ་བྷཻ ཥ་ཛྱེ་ས་མུཏྐ་ཏེ་ སྭཱ་ཧཱཿ
OM AH HUNG VAJRA GURU PAMA SAMBAWA BEKANZE RADZA SAMUGATE SO HA
Vietnamese Transliteration:
Phiên Âm Việt:
Ốm, A, Hung, Va Troa, Gu Ru, Pa Ma, Săm Ba Va, Bê Kan Giê, Ran Gia, Sam Mut Ga Tê, Sô Ha
(Repeat the mantra as long as you can and then make the dedication).
(Trì tụng càng nhiều càng tốt và sau đó hồi hướng).
སེམས་ཅན་ནད་པ་ཇི་ ྙེད་པ མྱུར་དུ་ནད་ལས་ཐར གྱུར་ཅིག
SEM CHEN NED PA Jl NYED PA. NYUR TU NED LEY THAR GYUR CHIG
All the beings who are sick, may they swiftly be freed from their diseases
Tất cả các chúng sanh bệnh khổ, nguyện cho họ nhanh chóng thoát khỏi bệnh tật
འགྲོ་བའི་ནད་ནི་མ ལུས་པ རྟག་ཏུ་འབྱུང་མེད པར་ཤོག
DROWE NED NI MA LUA PA.TAK TU JUNG WA MED PAR SHOG
All the sicknesses of beings, without exception, may they never occur (again).
Tất cả bệnh khổ của vô lượng hữu tình, không xót nguyện không trở lại.
དགེ་བ་འདི་ཡིས་མྱ ར་དུ་བདག ཨོ་རྒྱན་སྨན་བླ་འ ྲུབ་གྱུར་ནས།
GE WA DI Yl NYURDU DAG URGYEN MENLA DRUP GYUR NEY
འགྲོ་བ་གཅིག་ཀྱང་ ་ལུས་པ དེ་ཡིས་ས་ལ་འགོད་ ར་ཤོག
DRO WA THIGKYANGMA LCJPA DE Yl SALA GÖ PAR SHOG
Through this merit may I quickly realize the Tathāgata and through this may all beings with no exception reach and realize such a state.
Thông qua công hạnh này nguyện con nhanh chóng thành tựu quả vị Chánh Giác và nương theo công đức này nguyện cầu cho tất cả chúng sanh đồng thành Phật Đạo.
ཅེས་པའང་མངྒ་ལས་ས །
This was written by Mangala (The name Mangala was given to Dilgo Kyentse Rinpoche by Mipham Rinpoche )
Biên soạn bởi Mangala (Mangala là cái tên của Đạo Sư Dilgo Kyentse Tôn Quý được đặc bởi Đức Mipham Rinpoche )
Tất cả sự thiếu xót xuất phát từ ngu dốt của cá nhân con, con xin đê đầu Sám Hối. Mọi công hạnh con tích lũy được xin hồi hướng cho vô lượng hữu tình khổ não.
Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
Cẩn bút Lama Lợi Tha
https://www.wisdomcompassion.org/guruorgyenmenla
-
Yeshe Tsogyal mua người bạn đời
Yeshe Tsogyal là một nữ đệ tử nổi danh của đại sư Liên Hoa Sinh và về sau trở thành truyền nhân trực tiếp của ngài. Trong lúc Liên Hoa Sinh ngồi yên trong một động đá ở Tây Tạng thì Yeshe Tsogyal lúc đó khoảng ba mươi tuổi đi hành hương ở Nepal, thăm viếng các thánh địa, kể cả đến Bonadath tại Talkessel của Katmandu.
Nàng cúng dường một ít bột vàng nơi ngưỡng cửa đền và xin đại sư của mình hướng dẫn. “Khổ của chúng sinh trên thế gian thật vô cùng. Làm sao con đủ trí lực để giải thoát cho họ khỏi vô minh? Con làm sao để thực sự hữu dụng?” Nàng cầu xin cho đến lúc mái điện bằng vàng sáng rực lên và chói như mặt trời trước mắt nàng. Trong ánh sáng rực rỡ đó Liên Hoa Sinh hiện ra và nói: “Con gái thân mến, hôm nay con hãy ra chợ và mua một gã nô lệ, gã này là bạn đời của con, được định từ trước. Khi ấy con sẽ đạt tới tâm thức xuất thần và trí lực con sẽ phát triển gấp bội. Sau đấy hãy cùng ngưòi đó về Tây Tạng lại ngay. Sau đó ta sẽ hướng dẫn cho hai con vào các phép tu Mật tông bí ẩn nhất”.
Yeshe Tsogyal vào thành và đi xem các hàng quán, luôn luôn lắng nghe tiếng nói của trực giác, vì trực giác chính là vị đạo sư thầm kín bên trong. Nàng nhìn mặt hàng trăm người và đi từ đầu chợ đến cuối chợ, lúc tới cổng phía Nam thì một người thanh niên gợi chuyện với nàng. Chàng thanh niên này chỉ quấn ngang người một tấm vải. Trên ngực của chàng có một nốt ruồi đỏ. Yeshe Tsogyal thấy mặt và tay của chàng có nhiều dấu hiệu bí ẩn. Chàng hỏi người phụ nữ Tây Tạng: “Nàng từ đâu đến? Tôi tên là Arya Salee. Lúc tôi còn nhỏ, người ta bắt tôi từ Ấn Độ qua Nepal và sống bảy năm nay như nô lệ của một thương gia giàu có.”
Yeshe Tsogyal vui mừng, nói nhỏ: “Ôi đúng là người mà ta cần tìm rồi. Hãy đưa ta đến chủ ngươi ta sẽ mua lại ngươi, để ta đưa ngươi đến nơi chốn đích thực của ngươi”.Trong phút chốc Yeshe Tsogyal giải thích cho chàng thanh niên nghe để chàng tin và hiểu nàng. Thật ra cũng chỉ cần ít lời thôi, dù khó tin cũng phải nói rằng, hai người này chỉ nhìn nhau đã yêu nhau một cách sâu kín và trong sạch nhất.Cả hai liền đến nhà của vị thương gia nọ và Arya Salee phải tạm thời giã từ người bạn. Còn Yeshe Tsogyal ngồi trước cửa và bắt đầu đọc lời cầu nguyện và ca những bài ca chứng đạo.Không bao lâu sau, chủ nhà thân hành ra đến cửa và hỏi mục đích của người phụ nữ Tây Tạng lạ lùng này. Nàng thẳng thắn trả lời, nàng được Liên Hoa Sinh cử đến đây để mua gã nô lệ đó và đưa đi xa.Vị thương gia giật mình: “Tên nô lệ đó đã chiếm cảm tình của ta, ta coi nó như con ruột. Ngoài ra hồi xưa ta đã trả giá đắt để mua nó. Không, không thể được”.
Yeshe Tsogyal giơ hai tay lên trời và bắt đầu ca bài ca về giải phóng con người khỏi sự trói buộc và sự giải thoát cuối cùng. Vị thương gia thở dài và suy nghĩ cặn kẽ. Không, ông không thể xua đuổi người đàn bà mới nhìn như một kẻ ăn xin nhưng thật sự là một người tâm linh rất sâu kín này. Vì xung quanh nhiều người tụ lại để nghe giọng hát tuyệt vời của nàng, ông mời Yeshe Tsogyal vào nhà nói chuyện.Trong nhà, vợ của thương gia cũng tham gia câu chuyện. Sau khi nghe nàng kể mọi chuyện, bà nói: “Ta cảm phục lòng can đảm và niềm tin của ngươi. Nàng đi từ rất xa đến đây và xem ra là một người đặc biệt già dặn và nhân hậu. Hãy đưa cho chúng ta năm trăm đồng tiền vàng và đó là số tiền ngày xưa ta đã trả cho tên này. Mặc dù ngày nay nó đã khác hẳn và giá trị cao hơn nhiều, nhưng nó là của ngươi, nhân danh Liên Hoa Sinh. Nhưng xin hỏi ngươi muốn gì với nó? Ngươi muốn cưới nó hay để nó làm kẻ hầu cận cho ngươi?”
“Tôi sẽ giải phóng chàng”, Yeshe Tsogyal nói. “Và vì tôi đã cúng dường hết vàng bạc, tôi xin tạm đi để kiếm tiền chuộc chàng”.Không biết phải làm thế nào, Yeshe Tsogyal cứ theo những dấu hiệu dẫn nàng kiếm được số vàng này. Tại một góc phố nàng nghe tiếng than khóc. Tới nghe chuyện thì nàng biết thêm một thương gia bán thực phẩm nọ vừa mất đứa con trai trong một trận đấu kiếm tại biên giới Nepal. Xác đứa con trai vừa được đưa về nhà và tang quyến đang chờ một vị Tăng tới cầu siêu.Yeshe Tsogyal cám ơn thầy đang hướng dẫn mình và nhờ chỉ đường đến nhà thương gia đó. Vừa thấy cha mẹ người chết đang gục đầu đau khổ, nàng cất tiếng ca một bài ca về lòng từ bi. Nàng hát về sự sống vươn lên từ cái chết, hát về mong ước được giải phóng Arya Salee và các chúng sinh khác. Tiếng hát của nàng đầy khí lực và chất thiện mỹ làm cha mẹ người chết quì xuống bên nàng khi nàng chấm dứt tiếng hát.
“Nàng là một nữ tu sĩ hát hay”, họ vừa tuyệt vọng, vừa hy vọng. “ Nàng đầy uy lực, chúng ta chỉ biết thế nhưng không thể đo lường. Nếu nàng đến đây để cứu sống con ta, ta sẽ cho nàng đủ tiền để cứu cả con vua Nepal. Nhưng ta không biết, phép lạ có xảy ra với người bé mọn như chúng ta được hưởng hay không?” Yeshe Tsogyal cúi đầu ba lần trước cha mẹ người chết và gật đầu. Tự đáy lòng nàng cảm tạ Liên Hoa Sinh và bắt đầu hát:
“Cúi lạy đấng đã sinh trong hoa sen, Liên Hoa Sinh,
Hiện thân của tự tính bất diệt.
Tự tính của tất cả mọi sự.
Là Phật tính vĩnh viễn thanh tịnh, bất sinh bất diệt.
Đó là gốc sinh ra mọi hiện tượng.
Giữ cái bất ly của tính Không và Năng lực,
Thì hành động thiện ác,
Chỉ sinh ra nghiệp lực không tránh khỏi.
Nhưng ta là một đạo sư đã xa rời tính nhị nguyên.
Nên cái chết hay sống không hề gây ngăn ngại.
Năng lực này là của ta, năng lực hàn gắn mọi đổ vỡ:
Hãy tuôn trào phép mầu nhiệm”.
Yeshe Tsogyal đưa tay trỏ rờ trái tim và cúi đầu nhả một giọt nước miếng vào miệng người chết. Nàng thì thầm một câu thần chú bên tai và hai tay vuốt lên vết thương trên ngực. Bỗng nhiên vết thương khép kín, mắt người chết mở to. Chàng thanh niên ngồi dậy và cười ngạc nhiên.Cả tang quyến vội đến cảm tạ Yeshe Tsogyal nhưng nàng từ chối:“Đừng cám ơn tôi, hãy cảm tạ năng lực, năng lực đã hàn gắn lại những gì chúng ta muốn hủy hoại. Hãy cảm tạ chư Phật và Liên Hoa Sinh đã truyền cho năng lực đó”.
Vị thương gia bán thực phẩm lòng tràn hạnh phúc, trao cho Yeshe Tsogyal môt túi vàng và nữ tu sĩ cảm ơn nhận lãnh. Một đám đông người đi theo khi nàng đi mua lại Arya Salee. Nàng trả cho thương nhân nọ đến một ngàn đồng tiền vàng để mua người nô lệ, mà giờ đây đã trở thành người bạn đường của nàng.Cả hai lên đường đi bộ về Tây Tạng để được Liên Hoa Sinh trực tiếp dạy cho phép Mật tông. Trong một hang núi cao gần chỗ tuyết đóng quanh năm, cặp nam nữ này sống và thực hành phép tu Yoga xuất thần và phép thiền quán trong giao phối để đạt được giác ngộ viên mãn.
Cuối cùng Yeshe Tsogyal sống đến 106 tuổi. Là truyền nhân của Liên Hoa Sinh, bà đã đưa vô số đệ tử đến giải thoát hoàn toàn. Theo lệnh của Liên Hoa Sinh, bà cất giấu nhiều bí lụctrong nhiều hang động tại miền núi Tây Tạng và nhờ vậy mà giữ được các kinh sách này cho đời sau. Các bí lục này lần lượt được các đệ tử tái sinh của Liên Hoa Sinh khám phá trong các thế kỷ sau.
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...23347464_n.jpg
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
Chướng ma trên đường tu tập không phải là Thiên Ma Ba Tầng vì Thiên Ma không bao giờ để ý đến những người mới bước vào con đường tu tập . Chính con ma tham lam,tà kiến nhiễu hại người mới bước vào con đường tu đạo . Bạn sẽ dễ dàng chấp nhận những giáo lý từ những vị thầy vì nghe nói vị ấy là Tiến Sĩ ,Khenpo hay Rinpoche .Vì lối sống tham lam bạn sẽ bị choáng ngợp bởi những lời hứa như "thành Phật trong một đời ,nhanh chóng viên mãn Phật quả hay tối trừ nghiệp chướng một cách nhanh chóng ".
_ Vì thói quen tà kiến không tin nhân quả bạn dễ dàng bị lừa bịp như trẻ con khi nghe ai đó nói rằng " chỉ đơn giản trì một loại thần chú nào đó bạn sẽ trở nên giàu có "
_ Kết quả là hiện nay có quá nhiều vị thầy " Mật Tông " chính hiệu chưa từng đọc qua 37 Phẩm Trợ Đạo ,chưa từng thực hành một khóa tu nhập thất .
_Vì quá cuồn tín Tây Tạng bạn dễ dàng chấp nhận một Lạt Ma có vợ ,ăn thịt và không thiền định .
_ Nếu thực hành với đức tin mù quán như thế Đạo Sư Liên Hoa Sanh dạy "Dù con có được một kẻ bịp bợm phong chức vào hàng bộ trưởng và như thế có được quyền hành, con sẽ chỉ gặp bất hạnh. Cũng thế, dù con có thể có được một truyền Pháp từ một vị Thầy tự bản thân đã chưa từng nhận nó, thì tâm thức con sẽ bị hư hại. Hơn nữa con sẽ hủy hoại tâm thức của những người khác và rớt vào các cõi thấp như một đàn gia súc đóng ách lại với nhau cùng rơi xuống một vực thẳm. Bị khiêng đi trong một hòm sắt không lối thoát, con sẽ bị đưa xuống đáy địa ngục.
_ Cầu cho những ai đang bị rơi vào cái bẩy mê lầm ,tà kiến và những Đạo Sư bịp bợm sớm tìm thấy sự bình an trong Chánh Pháp .Cầu Đạo Sư Liên Hoa Sanh xin đoái hoài đến chúng con những kẻ đói Pháp và khát ngưỡng giáo lý Thiêng Liêng của Mật Thừa .
Om Ah Hum Benza Guru Padme Siddhi Hum
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
_Trong thời đại suy đồi,xung đột tràn ngập này, sự thực hành Liên Hoa Sinh (Guru Rinpoche,Padmakara) là rất quan trọng. Khi tôi năm hay sáu tuổi, tôi phải thực hành 7 Dòng Liên Hoa Sinh . Tôi đã thực hành và duy trì một kết nối sâu sắc và lâu bền với Ngài. Tôi và cha mẹ là dân du mục và chúng tôi phải di chuyển đến những địa điểm khác nhau vào mùa hạ và đông. Mọi người muốn nơi tốt nhất với cỏ và nước. Cha bảo tôi thực hành Bảy dòng Liên Hoa Sinh và tôi làm điều đó suốt ngày. Nếu cha tôi tìm thấy một địa điểm tốt đẹp để dựng lều, ông nói, “Con đã thực hành rất tốt”. Nếu chúng tôi không có đến được một nơi như vậy, ông nói, “Ta chắc rằng con đã không hành trì đúng đắn” Một ngày khói đỏ sậm xuất hiện. Vị thủ lĩnh của vùng nói rằng có đám lửa trên núi và nếu lửa thiêu cháy đám cỏ, mọi thức ăn cho gia súc sẽ mất. Tôi lên đỉnh đồi và thực hành Bảy dòng và thổi vào gió. Tôi không biết liệu rằng nó có giúp ích không nhưng lửa đã không lan tới chỗ chúng tôi. Vị thủ lĩnh cho tôi một yuan và tôi thấy rất vui sướng và đưa nó cho cha mẹ. Trước kia, tôi chưa từng nhận một món quà. Tôi đã có kiểu kết nối với Padmakara như vậy. Thậm chí bây giờ, tôi vẫn có kết nối giống vậy.
Bạn có thể thực hiện kết nối Padmakara giống như tôi với các thực hành khác như Tara , Manjusri , ...
Pháp Vương Karmapa 17th - Ogyen Trinley Dorje
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
Gia hộ chày kim cương và chuông
Trong quyển "Kim Cương Ðại Phẫn Nộ Thập Tam Thần Minh Môn" của đạo sư Tsong Khapa nói:" Chày kim cương là phương tiện và chuông là trí huệ.Cả hai đều là phẩm tính của bồ đề tâm tối thượng."
Trên bàn ở trước mình,hành giả đặt một cái chuông,quay mặt chuông về phía mình (trên cán chuông có hình mặt vị thần).Ðặt chày kim cương ở bên phải cái chuông và trống Damaru ở bên trái.Ở phía bên kia của chày kim cương,hành giả đặt chén sọ,trán của sọ quay về phía mình,rồi đổ đầy cam lộ.
Có hai loại: Chày kim cương và chuông bên ngoài,chày kim cương và chuông bên trong.Chày kim cương và chuông bên trong là chày và chuông thật sự,hay ý nghĩa.Chày kim cương và chuông bên ngoài là biểu tượng.
Chày kim cương thật sự bên trong là phương tiện đại lạc.Chuông thực sự bên trong là trí huệ liễu ngộ tánh không.Khi cầm chày và chuông bên ngoài,hành giả nên quán niệm ý nghĩa nói trên.Thêm nữa,khi cầm chày kim cương nên quán niệm rằng mình đang nắm tất cả các pháp môn tu tập từ thần linh quán cho tới pháp vô học.Khi cầm chuông nên quán niệm rằng mình đang có đầy đủ các trí huệ từ thần linh quán cho tới pháp vô học. Chày và chuông đều có tánh chất bồ đề tâm tuyệt đối. Bồ đề tâm tương đối là ý nguyện đạt giác ngộ vì lợi ích chúng sinh.Bồ đề tâm tuyệt đối là trí huệ phát sinh do bồ đề tâm tương đối và chứng ngộ tánh không.
Ðối với thân,khẩu,ý của một vị Phật thì chày kim cương tượng trưng cho trí huệ và đại lạc đồng xuất hiện,và như vậy là tâm một vị Phật.Chuông tượng trưng thân của một vị Phật,và tiếng chuông tượng trưng lời của một vị Phật.
Vậy pháp gia trì chày kim cương và chuông là quán niệm về ý nghĩa của chúng.
_ Ngày mai 27/8 là một ngày linh thánh cát tường Dakini day . Nguyện tất cả hành giả Kim Cương Thừa trụ trong trạng thái trí tuệ siêu việt .
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...07&oe=5AA45479
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
-
Đạo Sư Liên Hoa Sanh ( Guru Rinpoche) dạy
- Khi bắt đầu thực hành, hãy làm một lễ cúng dường lớn với nhiều đồ ăn thức uống tốt nhất. Bày trước các đấng Tôn Quý vào ngày mười bốn và khẩn cầu các Ngài đến hưởng cúng dường. Sau đó làm lễ cúng dường vào ngày rằm. Những cúng dường này có bốn loại: cúng dường lễ lạy, cúng dường phẩm vật, cúng dường tán thán và cúng dường thực hành.
_Cúng dường lễ lạy: đứng thẳng và chấp hai tay. Tưởng nhớ những công đức của chư Phật và chư Bồ Tát. Hãy quán tưởng đầu con chạm vào chân có dấu hiệu Pháp luân của các Ngài khi con đảnh lễ.
_Tiếp theo là cúng dường phẩm vật: hãy bày những đồ cúng dường không phải là sở hữu của người nào (như hoa) và những đồ cúng dường được quán tưởng, với chính thân con cũng vậy.
_Hãy cúng dường những lời tán thán với âm điệu du dương.
_Cúng dường thực hành là phát nguyện rằng những thiện căn từ sự trau dồi Bồ đề tâm của tánh Không và lòng bi bất khả phân là để cho giác ngộ vì lợi lạc của tất cả chúng sanh.
Om Ah Hum Benza Guru Padme Siddhi Hum !
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
Tâm chí thành và lòng sùng mộ
Đạo Sư vĩ đại xứ Oddiyana có nói:
Đối với tất cả thiện nam tín nữ có lòng tin nơi ta. Ta Liên Hoa Sanh, Chưa hề rời xa – Ta ngủ bên cửa nhà họ.
Với Ta, không có cái chết; Trước mặt mỗi người có tín tâm,
đều có một Liên Hoa Sanh.
Khi ta có niềm tin kiên cường, lòng bi mẫn của Đức Phật có thể hiện diện trong bất kỳ sự việc gì. Điều này được minh họa qua câu chuyện của một bà lão sùng tín được cứu giúp để đạt được Phật Quả nhờ vào một cái răng của một con chó.
Ngày xưa có một bà cụ, con trai bà là một thương gia. Anh ta thường đi Ấn Độ buôn bán. Một hôm bà cụ nói với con: “Ở Bồ Đề Đạo Tràng tại Ấn Độ có Đức Phật Toàn Giác. Con hãy đem về cho mẹ một vài thánh tích đặc biệt từ Ấn Độ để mẹ có thể đảnh lễù.” Bà lập lại lời thỉnh cầu nhiều lần, nhưng người con thường quên lãng và chẳng bao giờ đem về cho bà những gì bà yêu cầu.
Một hôm, khi người con đang chuẩn bị đi Ấn Độ thêm một lần nữa, bà mẹ nói: “Lần này, nếu con không đem về vật gì để mẹ đảnh lễ thì mẹ sẽ tự sát trước mặt con!”
Người con đi Ấn Độ, kết thúc việc mua bán như đã dự định và lên đường trở về nhà, một lần nữa lại quên điều yêu cầu của mẹ. Chỉ khi về gần tới nhà anh ta mới chợt nhớ ra.
“Nay ta sẽ phải làm gì?” anh tự nghĩ. “Ta đã không mang được thứ gì về để cho mẹ già của ta đảnh lễ. Nếu ta về nhà tay không, bà sẽ tự sát!”
Nhìn quanh, anh ta thấy một cái đầu chó đang nằm trên đất gần đó. Anh ta nhổ một cái răng và dùng miếng lụa gói lại.
Về đến nhà, anh đưa nó cho mẹ và nói: “Đây là một trong những răng nanh của Đức Phật. Mẹ có thể dùng nó để trợ giúp cho mẹ khi cầu nguyện.”
Bà lão tin lời con. Bà có lòng tin mãnh liệt nơi chiếc răng, hoàn toàn như thể đó thực sự là chiếc răng của Phật. Bà luôn luôn cúng dường và đảnh lễ, và từ chiếc răng chó xuất hiện nhiều hạt ngọc kỳ diệu. Khi bà lão chết, một vòm ánh sáng cầu vồng xuất hiện quanh bà cùng những dấu hiệu khác của sự thành tựu.
Một cái răng chó thì không chứa đựng chút lực gia trì nào. Nhưng lòng tin của bà lão mãnh liệt tới nỗi bà đoan chắc rằng nó thực sự là răng của Đức Phật. Nhờ niềm tin của bà, chiếc răng thấm đẫm ơn gia hộ của Đức Phật, cho tới cuối cùng thì cái răng chó không khác gì chiếc răng Phật thực sự.
Trích Lời vàng của thầy tôi
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
Có nhiều câu hỏi được gởi đến về chày Kim Cang .Xung quanh chủ đề này có rất nhiều mâu thuẫn trong câu trả lời do việc sử dụng chày ở các trường phái Mật Giáo khác nhau sẽ có lý luận dị biệt.Hành giả tôn trọng tất cả các trường phái nên không giải thích theo theo ý của riêng mình chỉ trích dẫn khai thị của ngài Kim Cương Thủ Dạ Xoa cho Tô Bà Hô Đồng Tử .
Chày kim Cang nhất nhất phải làm 5 chia sạch sẽ đẹp đẽ. Hành giả khi muốn niệm tụng dùng hương bôi, rải các thứ hoa tốt đẹp cúng dường, phát tâm đại từ bi, tay cầm chày Kim cang niệm tụng. Pháp sự xong lại cúng dường, đem chày để nơi chân bổn Tôn, lần nào cũng đều như vậy. Nếu không cầm chày Kim cang mà tụng niệm thì không có thành tựu. Vì sao vậy? Vì Thiện thần không gia bị, quỷ thần không sợ, các Pháp sự khó được thành nghiệm. Nếu không đủ sức tạo chày Kim cang, cần phải tác Kim cang ấn, sau đó một lòng như Pháp trì tụng cũng có thể thành tựu, không được tán loạn uổng mất công phu.
Chúc quý vị luôn trụ trong chánh niệm ,an lạc ,từ bi .Om Mani Padme Hum .
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
Ngày mai mùng 10 tháng 2 theo truyền thống Kim Cương thừa Tây Tạng là ngày Thánh vía Đạo Sư Tôn quý Liên Hoa Sanh,theo
lời chỉ dẫn terma của Ratna Lingpa nói rằng:
"Vào lúc mặt trời mọc vào mỗi ngày thứ 10 của tháng
Nếu bất kỳ ai nhớ nghĩ tới Ta
Họ và Ta sẽ bất khả phân.
Hỡi Đức Vua Tây Tạng, các thống lĩnh, các đệ tử - những đứa con của Ta,
Vào ngày thứ 10 hàng tháng
Vì các con Ta sẽ tới trong thân tướng con người, và Ta hứa điều này.
Padmasambhava không phải là người lừa dối kẻ khác!"
Vào ngày thứ 10 tháng 2, tháng Thìn, khi Ngài diện kiến nhận giáo huấn từ Đức Ananda, học tập với nhiều học giả và các bậc thầy giác ngộ, Ngài làm chủ tất cả.Kinh Điển và Mật Điển, viên mãn những lĩnh vực học tập vô hạn và Ngài được biết tới như là Guru Loden Choksé – Đạo Sư Nồng Nhiệt Thông Tuệ Viên Mãn
Chỉ Dẫn Chuỗi Hạt Vàng tuyên bố:
Đặc biệt vào lễ hội ngày thứ 10, Ta, Orgyen,
Sẽ tới Tây Tạng, xứ tuyết, và hiện diện ở khắp mọi nơi,
Cưỡi trên những tia sáng mặt trời và mặt trăng,
cùng những giọt hơi nước li ti trong cầu vồng,
Quét sạch những che chướng, chướng ngại từ những đứa con sùng mộ của Ta,
Ban 4 quán đảnh cũng như những gì các con khao khát.
Đây là lời thệ nguyện nghiêm túc của Ta;
và Padma không bao giờ lừa dối cả, Ta hứa điều này.
Nếu các con có lòng sùng mộ nơi Ta,
hãy thực hành liên tục, không gián đoạn vào mỗi ngày mùng 10,
Và bằng cách hành động theo những chỉ dẫn của Ta,
toàn bộ xứ sở sẽ vui hưởng hạnh phúc và thịnh vượng, sung túc!
Những lời hứa như vậy của Ngài được nhắc tới không chỉ một lần, và chúng là
những lời kim cương chân thực từ khẩu ngữ giác ngộ của Ngài, điều sẽ không
bao giờ có thể sai lầm hay là dối gạt cả. Vì vậy tất cả những ai đi theo Ngài, từ
sâu thẳm trong trái tim mình, hãy nên tin tưởng trọn vẹn điều này, và chúng ta
nên thực hiện một nỗ lực bao la để khuyến khích và lan tỏa lễ kỷ niệm hạnh
phúc, hỷ lạc này cho bản thân mình cùng những người khác, bây giờ và mãi mãi
sau này.
Không còn nghi ngờ gì nửa ,con xin đảnh lễ dưới chân ngài ,ÔI ! Padmasambhava tôn quý !
OM AH HUM BENZA GURU PADME SIDDHI HUM
Trong hình ảnh có thể có: 5 người, trong nhà
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/