-
①施无畏手真言:
经文原音译文字:唵嚩日罗曩野吽泮
苦海人的标音为:嗡博日辣囊也哞泮
按他的标音读起来是:ong bo ri la lan ye mou pan zha
而本咒梵音转写为:om vajra naya hom pat
真正的发音应为:ong wa ji-la(弹舌发音) la ya hong(去声) pa-de (注:中间有横线相连的两个音要连 来诵读成一个音)
②宝瓶手真言:
经文原音译文字:唵揭(口+隶)糁满 萨嚩贺
苦海人的标音为:嗡揭利三满焰萨博
按他的标音读起来是:om jie li san man yan sa bo he
本咒梵音转写为:om gare sanmamya svaha
真正的发音应为:ong ka-le(弹舌发音) san man ya shua(不卷舌)ha(注:中间有横线相 的两个音要连起来诵读成一个音)
http://www.bskk.com/thread-253522-1-259.html
-
Thỉnh Quán Thế Âm Bồ Tát Tiêu Phục Độc Hại Đà La Ni Tam Muội Nghi
( https://tangthuphathoc.net/thinh-qua...tam-muoi-nghi/ )
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...itled641dd.png
===
Dâng Tịnh Thủy (Nước)
Thủy trong rạng ánh Phật Đài
Nhiệm mầu Cam Lộ bệnh tai tiêu trừ
Cúng dường các Đấng Chân Như
Sạch tan ba nghiệp An Cư Đạo Tràng.
Na Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
( https://thichminhtam.files.wordpress...baa1i-bi-1.pdf / http://thegioivohinh.com/diendan/sho...%BB%80N/page14 )
==============
KỆ-CHÚ
DÂNG-TRÀ CÚNG-PHẬT
[ Gatha-Mantra Puja-Caya Sambuddha ]
( Nguồn: https://www.wattpad.com/278977-tham-thien-4 )
*正文:
舞 弄 孔 雀 趙 周 茶,
清 水 香 泉 琥 珀 花,
芬 氣 玉 盃 香 馥 郁,
供 養 諸 佛 喜 善 多.
南 無 普 供 養 菩 薩 摩 訶 薩( 三遍 )
南 無 甘 露 王 菩 薩 摩 訶 薩( 三遍 )
*供養水真言 ( 眞言獻閼伽供養 ):
唵。薩哩嚩。播波。娑普吒。那賀曩 �嚩日囉野。薩嚩賀 ( 七徧 )
*Bài 1:
Vô vi khổng tước thiệt châm trà,
Thanh thủy hương tuyền hổ phách ba,
Phấn khí ngọc bôi phương phúc úc,
Cúng dường Chư Phật hỷ thiện đa.
NA MÔ CAM LỒ VƯƠNG BỒ TÁT, MA HA TÁT ( 3 Lần )
*Cúng Dường Nước Chơn Ngôn ( Chơn Ngôn Hiến Ứ Già Cúng Dường ):
.唵。薩哩嚩。播波。娑普吒。那賀曩 ��嚩日囉野。薩嚩賀 ( 七徧 )
.Án, tát rị phạ bá ba ta phổ tra na hạ nẵng phạ nhật ra dã tát phạ hạ ( 7 Lần )
.Án, tát lý-phộc bá ba, sa-phổ tra, na hạ nẵng, phược nhật-la dã, tát-phộc hạ ( 7 Lần )
.OM SARVA PAPA SPHOTA DAHANA VAJRAYA SVAHA ( 7x )
*Bài 2:
Nhu my khổng tước thiệt châu trà,
Thanh thủy hương tuyền hổ phách ba,
Phân khí ngọc bôi phương phúc úc,
Cúng dường Chư Phật hỷ thiện đa.
NA MÔ CAM LỒ VƯƠNG BỒ TÁT, MA HA TÁT ( 3 Lần )
*Cúng Dường Nước Chơn Ngôn ( Chơn Ngôn Hiến Ứ Già Cúng Dường ):
.唵。薩哩嚩。播波。娑普吒。那賀曩 ��嚩日囉野。薩嚩賀 ( 七徧 )
.Án, tát rị phạ bá ba ta phổ tra na hạ nẵng phạ nhật ra dã tát phạ hạ ( 7 Lần )
.Án, tát lý-phộc bá ba, sa-phổ tra, na hạ nẵng, phược nhật-la dã, tát-phộc hạ ( 7 Lần )
.OM SARVA PAPA SPHOTA DAHANA VAJRAYA SVAHA ( 7x )
*Bài 3:
Nhu my khổng tước thiệt châu trà,
Thanh thủy hương tuyền hổ phách ba,
Phân khí ngọc bôi phương phúc úc,
Cúng dường Chư Phật hỷ thiện đa.
NA MÔ PHỔ CÚNG DƯỜNG BỒ TÁT, MA HA TÁT ( 3 Lần )
*Cúng Dường Nước Chơn Ngôn ( Chơn Ngôn Hiến Ứ Già Cúng Dường ):
.唵。薩哩嚩。播波。娑普吒。那賀曩 ��嚩日囉野。薩嚩賀 ( 七徧 )
.Án, tát rị phạ bá ba ta phổ tra na hạ nẵng phạ nhật ra dã tát phạ hạ ( 7 Lần )
.Án, tát lý-phộc bá ba, sa-phổ tra, na hạ nẵng, phược nhật-la dã, tát-phộc hạ ( 7 Lần )
.OM SARVA PAPA SPHOTA DAHANA VAJRAYA SVAHA ( 7x )
*Bài 4:
Vũ lộng khổng tước triệu châu trà,
Thanh thủy hương tuyền hổ phách ba,
Phân khí ngọc bôi hương phúc úc,
Cúng dường Chư Phật hỷ thiện đa.
NA MÔ CAM LỒ VƯƠNG BỒ TÁT, MA HA TÁT ( 3 Lần )
*Cúng Dường Nước Chơn Ngôn ( Chơn Ngôn Hiến Ứ Già Cúng Dường ):
.唵。薩哩嚩。播波。娑普吒。那賀曩 ��嚩日囉野。薩嚩賀 ( 七徧 )
.Án, tát rị phạ bá ba ta phổ tra na hạ nẵng phạ nhật ra dã tát phạ hạ ( 7 Lần )
.Án, tát lý-phộc bá ba, sa-phổ tra, na hạ nẵng, phược nhật-la dã, tát-phộc hạ ( 7 Lần )
.OM SARVA PAPA SPHOTA DAHANA VAJRAYA SVAHA ( 7x )
*Bài 5:
Vũ lộng khổng tước triệu châu trà
Thanh thủy hương tuyền hổ phách ba.
Phân khí ngọc bôi hương phúc úc,
Cúng dường Chư Phật hỷ thiện đa.
NA MÔ PHỔ CÚNG DƯỜNG BỒ TÁT, MA HA TÁT ( 3 Lần )
*Cúng Dường Nước Chơn Ngôn ( Chơn Ngôn Hiến Ứ Già Cúng Dường ):
.唵。薩哩嚩。播波。娑普吒。那賀曩 ��嚩日囉野。薩嚩賀 ( 七徧 )
.Án, tát rị phạ bá ba ta phổ tra na hạ nẵng phạ nhật ra dã tát phạ hạ ( 7 Lần )
.Án, tát lý-phộc bá ba, sa-phổ tra, na hạ nẵng, phược nhật-la dã, tát-phộc hạ ( 7 Lần )
.OM SARVA PAPA SPHOTA DAHANA VAJRAYA SVAHA ( 7x )
*Bài 6:
Khổng tán võ tước thực châu trà,
Thanh thủy hương tuyền hổ phách ba,
Phấn khí ngọc bôi phân phúc úc,
Cúng dường Chư Phật hỷ thiện đa.
NA MÔ CAM LỒ VƯƠNG BỒ TÁT, MA HA TÁT ( 3 Lần )
*Cúng Dường Nước Chơn Ngôn ( Chơn Ngôn Hiến Ứ Già Cúng Dường ):
.唵。薩哩嚩。播波。娑普吒。那賀曩 ��嚩日囉野。薩嚩賀 ( 七徧 )
.Án, tát rị phạ bá ba ta phổ tra na hạ nẵng phạ nhật ra dã tát phạ hạ ( 7 Lần )
.Án, tát lý-phộc bá ba, sa-phổ tra, na hạ nẵng, phược nhật-la dã, tát-phộc hạ ( 7 Lần )
.OM SARVA PAPA SPHOTA DAHANA VAJRAYA SVAHA ( 7x )
P/S: Khi rót Trà Cúng PHẬT, phải đọc Bài Kệ-Chú Hiến-Trà, mà Các Thầy ở Chùa thường gọi là Bài " Chú Cúng Nước ".
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...%BB%80N/page15 /
=========
KỆ-CHÚ
DÂNG-TRÀ CÚNG-PHẬT
[ Gatha-Mantra Sambuddha Caya-Puja ]
( 獻茶供佛 )
*正文:
舞 弄 孔 雀 趙 周 茶
清 水 香 泉 琥 珀 花
芬 氣 玉 盃 香 馥 郁
供 養 香 諸 佛 善 多
南 無 甘 露 王 菩 薩 摩 訶 薩( 三遍 )
*眞言獻閼伽供養:
唵薩哩嚩(二合)播(引)波娑普(二合)吒 �賀曩嚩日囉(二合引)野薩嚩(二合)賀 ( 七徧 )
*Dịch âm:
Vũ lộng khổng tước triệu châu trà
Thanh thủy hương tuyền hổ phách ba
Phân khí ngọc bôi hương phúc úc
Cúng dường CHƯ PHẬT hỷ thiện đa
NA MÔ CAM LỒ VƯƠNG BỒ TÁT, MA HA TÁT ( 3 Lần )
*Cúng Dường Nước Chơn Ngôn - Chơn Ngôn Hiến Ứ Già Cúng Dường ( 眞言獻閼伽供養 ):
.唵薩哩嚩(二合)播(引)波娑普(二合)吒 ��賀曩嚩日囉(二合引)野薩嚩(二合) ( 七徧 )
.Án, tát rị phạ bá ba ta phổ tra na hạ nẵng phạ nhật ra dã tát phạ hạ ( 7 Lần )
.Án, tát lý-phộc bá ba, sa-phổ tra, na hạ nẵng, phược nhật-la dã, tát-phộc hạ ( 7 Lần )
.OM SARVA PAPA SPHOTA DAHANA VAJRAYA SVAHA ( 7x )
*GHI CHÚ:
.Chơn Ngôn Dị Bản: om svabhava sphuta dahana vajraya svaha.
.Khi rót Trà Cúng PHẬT, phải đọc Bài Kệ-Chú Hiến-Trà, mà Các Thầy ở Chùa thường gọi là Bài " Chú Cúng Nước ".
.Link: http://image.so.com/i?src=rel&q=%E4%...99%BE%E5%90%88
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...%BB%80N/page30
-
-
-
-
-
-
-
特色儀軌
Feature Rituals
(二)獻供_十供養
十供養之一:「香供養」
香供養,是以智慧火燒那抽象無價真 ,也就是五分法身香──戒、定、慧 解脫、解脫知見香。其精神為精進, 而能得心神安寧、身體潔淨、三業清 、多聞妙法之功德利益。
香供養
香供養。 2014. 08. 16
十供養之二:「花供養」
花供養,表微妙、萬行開花結果。其 神為持戒,而具有處世如花、見者歡 、身常香潔、歡喜真理之功德利益。
花供養
花供養。 2014. 08. 16
十供養之三:「燈供養」
燈供養,表光明。其精神為智慧,常 燈供養,得眼睛明亮、事業順利、獲 知見、智慧圓滿之功德利益。
燈供養
燈供養。 2014. 08. 16
十供養之四:「塗供養」
塗為梵語「水」意,塗供養表義為甘 水,能撫慰眾生煩惱。其精神為調柔 而具有身心寧靜、相貌莊嚴、遠離煩 惱、人緣良好之功德利益。
塗供養
塗供養。 2013. 08. 25
十供養之五:「果供養」
果供養表出世聖果,其精神為慈悲, 有遠離瘟疫、不受災害、享受快樂、 證佛果之功德利益。
果供養
果供養。 2014. 08. 16
十供養之六:「茶供養」
茶供養取茶之特性,表義為清醒。其 神為禪定,而能得口齒芳香、永離渴 、安樂少病、具大福報之功德利益。
茶供養
茶供養。 2014. 08. 16
十供養之七:「食供養」
食供養象徵禪悅妙食。其精神為布施 而能得力大無窮、壽命綿長、眾人愛 、辯才無礙之功德利益。
食供養
食供養。 2014. 08. 16
十供養之八:「寶供養」
寶供養象徵法寶,其精神為恭敬,而 消除業障、心得安寧、福壽綿長、永 惡道之功德利益。
寶供養
寶供養。 2014. 08. 16
十供養之九:「珠供養」
珠供養表摩尼寶珠,其精神為圓融無 。以圓潤之珠供養佛、僧,得相貌莊 、風度美好、破除慳貪、速證聖果之 功德利益。
珠供養
珠供養。 2014. 08. 16
十供養之十:「衣供養」
「衣」為出家僧眾袈裟,僧寶為求解 而著此服,故袈裟又名「解脫服」。 供養表柔和忍辱、出離生死,其精神 為真誠。 常供養袈裟,能得所有安全、不遭破 、色澤柔美、具有財寶之功德利益。
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...itled7ac69.png
https://uphinhnhanh.com/images/2017/11/10/U.png
https://uphinhnhanh.com/images/2017/11/10/E.png
https://uphinhnhanh.com/images/2017/11/10/Y.png
https://uphinhnhanh.com/images/2017/11/10/T.png
http://www.cibsa.org.tw/cimsbs/00_03...tuals_b01.html
-
-
-
-
-
-
-
-
Ưu Đàm bát nhã Bá Liên Hoa
Tinh hành nghiêm phụng Bửu Liên Tòa
Thập phương Hiền Thánh giai hoan hỷ
Nguyện đắc Tâm khai Trí Huệ Hoa
NA MÔ BẢO ĐÀM HOA BỒ TÁT, MA HA TÁT ( 3 lần )
*Dâng-Hoa-Cúng-Dường Chơn Ngôn:
OM PUSPE PUSPE SU-PUSPE SVAHA ( 7 lần )
*Dâng-Hoa-Cúng-Dường Chơn Ngôn:
OM PÚT-PÊ PÚT-PÊ SU_PÚT-PÊ SOA-HA ( 7 lần )
-
*)VĂN HỒI HƯỚNG
Nguyện ngày an lành, đêm an lành
Tam Bảo gia bị luôn an lành
Hộ Pháp, Trời, Rồng trừ tai chướng
Tất cả viên mãn đại cát tường
(Tụng xong, sau Văn hồi hướng, nếu có Thiện Nguyện của người khác thì cũng
có thể ở đây cầu chúc hồi hướng)
https://kinhmatgiao.files.wordpress....-cat-tuong.pdf
-
Phóng sanh đúng cách
Được đăng bởi Ban Biên Tập vào lúc 28 Tháng Mười Một, 2016 Chuyên mục Thẻ
275
4
1
Phóng sanh đúng cách
Lợi ích lớn nhất của việc phóng sanh chính là: nuôi dưỡng lòng từ bằng cách ban tặng sự sống cho những con vật sắp bị giết. Ngoài ra, phóng sanh còn giúp kéo dài tuổi thọ, giảm đi tật bệnh. Tuy nhiên, phóng sanh không có nghĩa là thảy đại con vật gì để mưu cầu phước. Đó không phải là phương pháp phóng sanh đúng cách.
Phóng sanh đúng cách 1
Phóng sanh đúng cách
Phóng sanh có ý nghĩa gì?
Vào những ngày lễ Tết, những ngày lễ lớn của Phật giáo ( rằm tháng Giêng, tháng Bảy, tháng Mười) hình ảnh người người tay xách nách mang xô, chậu, lồng chứa những con cá, con chim, con rùa,…để phóng sanh đã trở thành nét đẹp trong văn hóa Việt Nam nói chung và của Phật giáo nói riêng. Đó là hành động đẹp bởi nó thể hiện lòng yêu thương loài vật, yêu thiên nhiên, là một hành động rất thánh thiện: Ban tặng sự sống.
Phóng sanh đúng cách 2
Phóng sanh đúng cách
Hình ảnh thái tử Tất Đạt Đa ôm con chim bị thương vào lòng khi bị Đề Bà Đạt Đa bắn cùng lý lẽ biện bạch hùng hồn trước nhà vua và đại thần để giành lấy quyền chăm sóc con chim:
Thói thường những kẻ thương yêu nhau mới ở chung với nhau, còn những kẻ ghét bỏ nhau thì không bao giờ sống chung với nhau. Em có ý dữ, muốn bắn giết con chim, như vậy em và con chim là những kẻ thù ghét nhau, làm sao con chim có thể ở chung với em đựơc. Trong khi đó, anh cứu con chim, anh săn sóc vết thương cho nó, anh suởi ấm cho nó, và anh đang đi kiếm thức ăn cho nó… Vậy anh và chim là những kẻ biết thương yêu nhau, anh và chim có thể ở chung với nhau… Như anh đã nói, con chim cần anh chứ không cần em.
Điều đó cho thấy đạo Phật rất xem trọng sự sống của tất cả loài chúng sanh. Không chỉ có con người mà bất kỳ con vật, cây cỏ,…Bởi Phật dạy rằng “ Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”. Đó là điều khác biệt và tuyệt vời chỉ có ở đạo Phật: TỪ BI KHÔNG PHÂN BIỆT
Xem thêm: Bí quyết để sống lâu
Phóng sanh có lợi ích gì?
* Phóng sanh là giúp những chúng sanh thoát khỏi ngưỡng cửa sinh tử, ban tặng sự sống, xóa đi những nỗi sợ,lo lắng của chúng. Phóng sanh là một hành động rất thiết yếu của người Phật tử bởi nó sẽ giúp chúng ta nuôi dưỡng từ tâm, biết thương yêu, chăm sóc những chúng sanh đau khổ, yếu thế. Từ tâm là một trong những nhân tố đạt được quả vị Thánh.
* Phóng sinh là một việc làm thể hiện lòng Từ bi bình đẳng, mục đích phóng sinh là để đánh thức tâm Bồ đề của chúng sinh (con vật) trước khi phóng sinh.
Phóng sanh đúng cách 3
Phóng sanh đúng cách
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình. Vì mình trải qua nhiều đời đều do đó mà sinh ra, nên chúng sinh trong sáu đường đều là cha mẹ của mình.
Chúng ta đã tạo sát nghiệp nặng nề từ nhiều đời nhiều kiếp đến nay. Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng: “Nếu ác nghiệp này có hình tướng thì cho đến cùng tận hư không cũng không dung chứa hết.” Chúng ta ngay trong kiếp này tạo nghiệp giết hại chúng sinh quả thật đã không thể tính đếm được, huống chi là đã tạo trong nhiều đời nhiều kiếp!
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
Phóng sanh đúng cách
Ngày nay, phóng sanh dường như đang mất đi nét đẹp và ý nghĩa thực thụ của nó. Khi việc phóng sanh len lỏi sự vụ lợi, mong cầu và mê tín bên trong. Nếu phóng sanh không đúng cách chúng ta sẽ không nhận được phước báu trọn vẹn của hành động thiện lành này và còn hơn thế nữa sẽ vô tình gây ra nghiệp sát. Như vậy, để việc phóng sanh có ý nghĩa và đúng pháp, chúng ta cần lưu ý những điều sau:
1. Không nên quá nặng hình thức
Chúng ta thường thấy một số Phật tử mua chim, cá để phóng sanh. Nhưng họ không thả liền mà đem vô chùa chờ quý thầy làm lễ chú nguyện rồi mới thả. Có đôi khi quý thầy bận việc không làm lễ liền thì nhốt trong lồng qua đêm hay đến ngày hôm sau, đợi đến khi làm lễ thì mới thả.
Phóng sanh đúng cách 4
Phóng sanh đúng cách
** Phóng sinh là cơ hội để con vật có điều kiện quy y Tam Bảo và sám hối nghiệp chướng, việc làm tốt trong Đạo Phật, thể hiện lòng Đại từ Đại bi nên trong nghi thức phóng sinh có lễ quy y, sám hối cho con vật trước khi phóng sinh. Nhưng chúng ta cũng không nên quá chấp vào hình thức, tiến hành những nghi lễ rườm rà, câu nệ. Khi phóng sinh, thao tác phải nhanh nhẹn, rốt ráo; nghi lễ ngắn gọn nhưng đủ sức tế độ; không nên nặng phần hình thức, tránh cho các sinh vật phải chịu kéo dài nỗi khổ sợ hãi, ngột ngạt, tù túng vì bị giam cầm; có khi chúng phải mất mạng trước khi được ta phóng thích.
2. Không nên đặt nặng về số lượng
Trong những lễ lớn hay những dịp cầu an đầu năm hay cầu siêu, chúng ta thấy một số Phật tử gọi điện thoại đến chỗ bán chim, bán cá, bán lươn phóng sanh để đặt số lượng mua để phóng sanh. Hay có trường hợp thay vì mua 5 kg cá lớn thì người ta khăng khăng lấy số tiền đó để mua cho được 20kg cá nhỏ để phóng sanh và nghĩ rằng với số lượng phóng sanh càng nhiều thì công đức càng lớn.
Phóng sanh đúng cách 5
Phóng sanh đúng cách
Chúng ta cần phải hiểu rằng, phóng sanh xuất phát từ lòng từ bi, lòng từ tâm, thương xót khi gặp một con vật bị nạn, mình ra tay cứu thoát, hoặc nhìn thấy một hoặc nhiều con vật sắp bị giết, mình bỏ tiền ra mua để cứu sống chúng. Cứu chúng sanh trong thời điểm này mới đúng nghĩa của việc phóng sanh. Do đó, việc gọi điện thoại đặt mua chúng sanh ở các trại cá, chim,.. vô tình chúng ta sẽ khiến những loài vật bị săn bắt nhiều hơn để đáp ứng cho “ nhu cầu phóng sanh”của mình.
** Công đức phóng sanh nhiều hay ít không phụ thuộc hẳn vào số lượng loài vật phóng sanh mà chủ yếu phụ thuộc vào tâm rộng mở của người phóng sanh như thế nào? Nếu một người phóng sanh rất nhiều cá nhưng không có lòng từ, phóng sanh chỉ theo phong trào hay để thể hiện hoặc vì mưu cầu lợi lộc nào đó họ sẽ không có tình yêu thương với loài vật bởi đó không phải là mục đích của việc họ phát tâm phóng sanh. Ngược lại, một người phóng sanh vì tình thương yêu loài vật, cảm thông trước khi đau đớn, khổ sở khi bị giam cầm, cắt cổ, lột da mà khởi tâm xót thương rồi chuộc mạng chúng để phóng sanh thì thật quý biết bao. Đó mới đúng là tâm phóng sanh đúng Chánh pháp.
3. Đừng sợ người khác bắt
Nhiều người cho rằng: Phóng sanh rồi người khác bắt lại cũng vậy. Đây là ý nghĩ rất tiêu cực gây cản trở sự khởi phát của tâm từ bi.
Lão Pháp sư Viên Nhân dạy rằng: “Nhân quả báo ứng như bóng theo hình. Sát sinh tự có ác báo của sát sinh. Phóng sinh tự có thiện báo của phóng sinh. Đừng nên để ý đến sự phê bình, hủy báng của kẻ khác. Chúng ta thực hành thiện nghiệp của mình, kẻ khác tạo ác nghiệp của chính họ. Mai sau quả báo hiện tiền, thiện ác nhân quả báo ứng tuyệt đối không bao giờ sai được.”
** Mỗi loài chúng sanh có một biệt nghiệp khác nhau. Có thể trong số hàng trăm con vật chúng ta phóng sanh sẽ có những con vật bị câu, bị bắt, bị chích điện, bị giăng bẫy rồi giết hại, đó là do thọ mạng loài súc sinh của chúng đã mãn nên phải chuyển kiếp. Không ai quyết định đến biệt nghiệp của chúng. Vì lẽ đó mà ý niệm sợ phóng sanh rồi sẽ bị bắt không nên khởi niệm trong tâm mà phải có cái nhìn theo hướng tích cực: Chúng sanh sắp chết thì ban cho chúng thêm một cơ hội sống. Còn việc sống được hay không, sống bao lâu còn phụ thuộc nhiều yếu tố khác nữa.
Phóng sanh đúng cách 6
Phóng sanh đúng cách
4. Nên tìm hiểu về môi trường sống của loài vật.
Mỗi loài động vật có môi trường sống thích hợp. Phóng sanh là ban tặng sự sống nên chúng ta phải tìm hiểu rõ về môi trường sống của loài vật để đưa chúng đến nơi phù hợp và an toàn. Nếu không khéo vấn đề này chúng ta sẽ vô tình khiến cuộc sống mới của chúng khó khăn hơn và nguy hiểm đến tính mạng. Chẳng hạn phóng sanh cá, không nên thả chúng ở gần những nơi thường câu cá hay những ao hồ ô nhiễm.
5. Không nên xem ngày tháng phóng sanh.
Vì mê tín, vì mưu cầu riêng mà không ít người có quan điểm phóng sanh phải coi ngày tốt xấu, phải chờ dịp lễ lớn phóng sanh mới có phước đức nhiều. Phóng sanh là việc làm từ tâm, nên khi nhìn thấy những loài vật tội nghiệp tâm phát khởi chúng ta phải nên hành động ngay. Đừng nên phân lượng lớn nhỏ, ít nhiều vì các loại lươn, cá, ốc, thú rừng,… bị săn bắt phục vụ cho người ăn thịt lúc nào, ngày nào cũng có, mà thời lượng nào thì sự nguy cấp cũng đều như nhau, tùy vào khả năng từ một, hai con đến muôn ngàn con cũng phải lập tức cứu thoát chúng – càng nhanh càng tốt, mà chẳng cầu được ai biết đến.
Phóng sanh đúng cách 7
Phóng sanh đúng cách
6. Những vấn đề tiêu cực về phóng sanh
Hiện tượng phóng sanh hiện nay đang bị xã hội lên án vì sự thiếu biết.
Vào những ngày lễ Tết, dạo khắp những ngôi chùa rất dễ dàng chứng kiến sự tấp nập của người mua kẻ bán chim phóng sanh. Và cảnh tượng thương tâm xảy ra khi những con chim bay không nổi, phải sà xuống đất và bị giẫm đập, bị mèo ăn hay bị bắt lại bỏ vào lồng tiếp tục vòng quay mua – bán – bắt. Được biết những con chim này thường bị cắt cánh và rất yếu nên không bay xa. Do đó chúng rất dễ bị kẻ bán bắt lại nhiều lần cho đến khi nào kiệt sức. Vì vậy, chúng ta cần phải nhận định sáng suốt trước khi chọn vật phóng sanh để không tiếp tay cho những kẻ mưu lợi xấu và gián tiếp làm tổn thương đến loài vật.
Phóng sanh đúng cách 8
Phóng sanh đúng cách
Ngoài ra, nhiều người còn phóng sanh rắn ở gần khu dân cư, phóng sanh rùa tai đỏ – được thế giới xếp vào loài độc hại và có thể gây bệnh thương hàn, làm ô nhiễm môi trường vào tạo sự sợ hãi cho người khác. Thiết nghĩ lòng từ bi cần phải có trí tuệ để việc thiện được viên mãn.
7. Những điều cần lưu ý khi phóng sanh
Phóng sinh phải phát xuất từ lòng từ bi. Vì nếu không như vậy, việc phóng sinh tuy có tốt, nhưng hiệu quả lại rất hạn chế.
Phóng sinh bằng cái tâm chứ đừng theo phong trào, làm việc bằng chánh kiến chứ không chạy theo số đông.
Phóng sinh là tự do, không phân lượng lớn nhỏ, ít nhiều, không chọn ngày giờ tốt xấu, không nên chờ dịp này hay dịp khác,….
Khi phóng sinh cần thực hiện âm thầm, chọn nơi vắng vẻ càng tốt để tránh lòng tham của những người săn bắt, tạo thêm nghiệp chướng cho họ mà chính chúng ta cũng bị giảm phần công đức.
Tất cả mọi loài chúng sanh đều ham sống sợ chết, không có gì quý hơn sinh mạng của mỗi chúng sanh. Chúng ta phóng sanh tức là trực tiếp giải cứu sinh mạng cho chúng sanh, vì giải cứu sinh mạng cho chúng sanh tức là giúp chúng sanh giữ lại được cái giá trị cao cả nhất, đáng trân quý nhất. Phóng sanh đúng cách là điều cần quan tâm để chúng ta thực hiện trọn vẹn lòng từ bi của mình để nhận được công đức trọn vẹn, giúp chúng sanh có cuộc sống mới bình an.
https://blogphatgiao.com/chuyen-dao/...anh-dung-cach/
-
-
Ưu Đàm bát nhã Bá Liên Hoa
Tinh hành nghiêm phụng Bửu Liên Tòa
Thập phương Hiền Thánh giai hoan hỷ
Nguyện đắc Tâm khai Trí Huệ Hoa
NA MÔ BẢO ĐÀM HOA BỒ TÁT, MA HA TÁT ( 3 lần )
*Dâng-Hoa-Cúng-Dường Chơn Ngôn:
OM PÚT-PÊ PÚT-PÊ SU_PÚT-PÊ SOA-HA ( 7 lần )
-
-
Chết không sợ hãi
VietnamNet 09/03/2017 08:23 GMT+7Gốc
Theo Lame Ole Nydahl, người ta sợ hãi cái chết vì chưa hiểu về nó nhưng ông tin rằng chết không chỉ là ngưỡng cửa bước vào một đời sống khác mà còn là cơ hội để phát triển các phẩm chất của mình.
Việt Nam là một trong những quốc gia mà Lame Ole Nydahl dừng chân để ông nói về một trong những điều con người sợ hãi nhất: cái chết. Mới đây, tại đường sách TP HCM, Ole đã gặp và chuyện trò cùng rất nhiều độc giả, cả người Việt lẫn du khách ngoại quốc có mặt tại đây về nghệ thuật chết.
Chết không sợ hãi - Ảnh 1
Bìa sách Chết không sợ hãi của Lame Ole Nydahl
Con người thường sợ những gì chúng ta không hiểu. Ole tin rằng điều này cũng tương tự với cái chết. Khi cái chết đến gần, hầu hết con người đều cảm thấy sợ hãi. Song một số nghiên cứu gần đây về những trải nghiệm cận tử đã chỉ ra nhiều bằng chứng hơn về sự sống tiếp tục sau cái chết. Trong Phật giáo, cái chết luôn được xem như là ngưỡng cửa bước vào một đời sống khác.
Ole đã mô tả nhiều trải nghiệm tinh tế trong tiến trình hấp hối và giải thích về những trạng thái giữa cái chết và tái sinh. Ông chỉ ra cách để mọi người có thể trải qua tiến trình này một cách tốt đẹp hơn và đạt tới một cấp độ tỉnh thức cao hơn sau khi chết và trong các đời sống tương lai thông qua thiền định. Theo Ole, nếu nhận thức đúng đắn sẽ loại bỏ hiệu quả nỗi sợ hãi, đồng thời gieo những hạt giống hạnh phúc vĩnh cửu trong tương lai.
Ông bày tỏ mong muốn mọi người hiểu biết những tiến trình kì bí này một cách kỹ lưỡng để không chỉ mang lại nhận thức rõ ràng về điểm kết thúc của sự sống mà còn làm phong phú thêm cách nhìn nhận của con người về đời sống hiện tại.
Chết không sợ hãi - Ảnh 2
Trong buổi tọa đàm ra mắt sách Chết không sợ hãi, Ole cùng các độc giả, quan khách trao đổi nồng nhiệt về các vấn đề xoay quanh cái chết từ góc độ khoa học, tôn giáo và tâm linh. Rất nhiều người yêu sách đã dừng chân lắng nghe Ole thuyết giảng dù không đủ ghế ngồi.
Ole say sưa trình bày những vấn đề như: cái chết đến với con người như thế nào, tâm thức sẽ tiếp tục ra sao khi chết đi, làm sao để đối diện với cái chết mà không sợ hãi, cách giúp đỡ những người đang hấp hối, xem cái chết như là một cơ hội để phát triển các phẩm chất của mình…
Ole Nydahl sinh tại vùng phụ cận Copenhagen, từng phục vụ trong quân đội Đan Mạch trước khi chuyển sang nghiên cứu triết học. Năm 1968, Ole và vợ là Hannah Nydahl đã gặp gỡ những bậc thầy của dòng Kim cương Thừa khi đang ở Nepal trước khi trở thành những đệ tử phương Tây đầu tiên của người đứng đầu dòng truyền thừa Karma Kagyu – H.H. đời thứ 16 Gyalwa Karmapa.
Chết không sợ hãi - Ảnh 3
Tác giả Lame Ole Nydahl
Trong khoảng gần 4 năm tu tập chuyên sâu ở Đông Himalaya, họ tiếp nhận những chỉ dẫn chân truyền quan trọng và sâu sắc nhất như: tu tập nền tảng, Đại thủ ấn, phát tâm bồ đề, truyền thừa “Vòng quay thời gian”, sáu Yogas của Naropa, phương pháp chuyển thần thức vào lúc lâm chung… cùng những bộ ‘kho báu truyền thừa’, những bộ lễ thụ pháp từ những thiền sư ở đây.
Theo yêu cầu của Đức Karmapa đời thứ 16, vợ chồng Ole trở lại châu Âu thực hiện nhiệm vụ giảng dạy và thành lập các trung tâm Phật giáo ở phương Tây. Vài năm sau đó, ông lãnh trách nhiệm chính trị của dòng tu Kagyu nên được gọi là “ChokyiMagpon” (hay “Tướng quân Phật pháp”). Sau khi thầy của mình là Đức Karmapa đời thứ 16 viên tịch vào năm 1981, Ole Nydahl vẫn tiếp tục trách nhiệm giảng dạy, truyền cảm hứng cho hàng nghìn thiền sinh phương Tây.
Gia Bảo
https://baomoi-photo-1-td.zadn.vn/w1...2/1_188032.jpg
https://baomoi-photo-1-td.zadn.vn/w7...42/3_47076.jpg
https://baomoi.com/chet-khong-so-hai/c/21719442.epi
-
Ý Nghĩa Cúng Dường Theo Truyền Thống Kim Cương Thừa
10/28/2017
Thông thường bạn có thể nhận thấy khi nghe giảng Phật Pháp, mỗi bậc Thầy có thể giảng theo cách riêng của các Ngài – tùy theo giáo lý thuộc Nguyên thủy, Đại thừa hay Kim Cương thừa. Chỉ riêng trong Kim Cương thừa cũng có rất nhiều truyền thừa khác nhau. Đôi khi bạn thấy lúng túng, cũng có nhiều người nói với tôi rằng họ cảm thấy băn khoăn khi trở thành Phật tử. Trong Kim Cương thừa có quá nhiều con đường, nhiều pháp thực hành… khiến họ không biết phải chọn pháp thực hành nào. Giá như mọi thứ đơn giản hơn. Xét từ một góc độ nhất định thì họ nói đúng. Thoạt đầu bạn có thể thấy hơi phức tạp. Đức Phật Thích Ca đã thuyết giảng 84000 pháp môn khác nhau, bởi vô số người trong chúng ta có những tính cách và trình độ khác nhau. Chẳng hạn như ngày hôm nay tới đây, các bạn mỗi người đều mặc một bộ trang phục khác nhau. Người mặc áo trắng, người mặc complet hoặc đồ thời trang, bởi lẽ mỗi người chúng ta đều có những quan niệm riêng, phong cách và mong muốn riêng. Thế nên nếu có ai đó đưa một cái áo ngắn tay và yêu cầu tất cả mọi người đều phải thích trang phục đó thì chưa chắc mọi người đã nghe theo. Do vậy, nếu Đức Phật chỉ ban cho một pháp môn duy nhất thì có thể sẽ khó thích ứng được với tất cả mọi người. Bởi từ bi nên Ngài đã ban truyền vô số giáo pháp, 84000 pháp môn của Ngài dành cho vô lượng chúng sinh với muôn vàn đặc tính khác nhau.
Như vậy nhìn từ một góc độ khác, chúng ta thấy chỉ riêng số pháp môn vô lượng này cũng đã chứng tỏ Đức Phật là bậc Đại từ bi, với lòng từ mênh mông vô lượng Ngài đã chỉ ra vô số con đường. Bất kể lựa chọn đi theo lối nào, bạn cũng đều cần hiểu về Giáp Pháp, cần biết chắt lọc được tinh túy cốt lõi của 84000 pháp môn. Khi hiểu được điều tinh túy của các pháp môn, chúng ta có thể hiểu được trọn vẹn giáo pháp. Và cốt yếu của giáo pháp nằm trọn trong 3 điều: (i) Không nên làm điều bất thiện gây tổn hại tới người khác hoặc chúng sinh, bởi đó chính là nhân dẫn tới đau khổ cho chính mình và chúng sinh. (ii) Hãy làm mọi thiện hạnh lợi ích cho người khác vì những nghiệp này sẽ mang lại ích lợi cho chúng ta. (iii) Điều thứ ba, vì sao chúng ta lại phạm nghiệp bất thiện ? Vì sao mình nói chuyện mềm mỏng với người này và cáu gắt với người kia. Tất cả đều do tâm. Nếu ta có tâm từ bi, tâm thấu hiểu, tâm cảm thông yêu thương – kết quả là những điều dễ chịu nảy sinh. Từ tâm sân giận, ghét bỏ - những điều bất thiện nảy sinh. Như vậy điều cốt yếu thứ ba là điều phục tâm. Làm việc thiện, từ bỏ việc bất thiện và điều phục tâm mình chính là gốc, tâm sai sử gọi là Tâm vương. Tâm là chủ, Khẩu và Ý là tớ.
Cho dù bạn có đi khắp các đền chùa, dù có thực hành 10000 khóa lễ cúng dường, thì tinh túy của việc thực hành đó cũng nằm trọn trong ba điểm cốt yếu này. Chẳng hạn hôm nay chúng ta có thể nghe rằng Đức Phật dạy khi thực hành thiện hạnh, chúng ta sẽ được đón nhận phúc báo. Những thiện hạnh có thể dưới bất cứ hình thức nào mang lại lợi ích cho người khác, có thể là cúng dường chư Phật và chư Bồ Tát, với động cơ thiện lành mong nguyện lợi ích cho chúng sinh, hoặc cũng có thể là một thiện hạnh giúp đỡ chúng sinh khác trong cơn nguy cấp. Thiện hạnh cứu trợ chúng sinh không nhất thiết phải sang tận Châu Phi mới làm được. Thí dụ ngay khi tới đây, bạn hòa đồng và tuân theo sự sắp xếp, ngồi ngay ngắn theo hàng, hoặc tiếp đón đạo hữu, tất cả những điều đó đều giúp bạn tích lũy công đức. Bất cứ sự cúng dường nào cũng đều mang lại công đức. Và trên con đường tu tập thực hành, chúng ta cũng có phương tiện tịnh hóa để tiêu trừ nghiệp báo khi mắc phải những nghiệp bất thiện. Vì sao chúng ta phải cúng dường rất nhiều – chẳng hạn như hôm nay có thể không nhiều phẩm vật cúng dường so với những dịp khác, nếu bạn biết chúng ta quán tưởng phẩm vật cúng dường như thế nào chắn hẳn bạn sẽ vô cùng ngạc nhiên.
Chúng ta quán tưởng những thiên nữ trong vũ điệu cúng dường. Vô số thiện nam tín nữ cùng phẩm vật như nhà cửa, xe cộ, vô số phẩm vật và nhã nhạc ngân vang, trong Kim Cương thừa chúng ta thường xuyên sử dụng âm nhạc. Vì sao bạn thường cầu nguyện thầm, trí tụng thầm, mọi thứ đều tiến hành trong lặng lẽ, vậy mà các nghi thức lại thường dùng rất nhiều pháp khí âm thanh. Có thể ngày nay bạn nhìn những pháp khí này và cảm thấy xa lạ, song cách đây hàng ngàn năm đây lại là những pháp khí vô cùng quen thuộc, giống như nhạc rock thời nay vậy. Có thể bạn vẫn thắc mắc, cho dù trống và linh có là những thứ quen thuộc trong thời quá khứ, vì sao chúng ta lại cúng dường âm thanh này lên chư Phật ? Có hai lý do, song cả hai đều không phải vì chư Phật thích âm nhạc từ những pháp khí này. Lý do thứ nhất là sự nhìn nhận theo nhân quả: bất cứ thứ gì chúng ta yêu thích – chẳng hạn nếu chúng ta muốn sức khỏe, bạn cần thực hành bố thí thuốc men, như vậy bạn sẽ gieo nhân mang lại sức khỏe cho chúng sinh. Nếu bạn muốn luôn được nghe những điều tốt đẹp, những âm thanh dễ chịu, những điều êm tai, mọi người không la hét cáu gắt với bạn suốt ngày, bạn muốn Sếp luôn nói nhẹ nhàng với bạn, như vậy hàng ngày chúng ta cần nói những điều dễ chịu, mềm mỏng với những người xung quanh.
Khi thực hành Phật Pháp – chúng ta cúng dường âm thanh nhã nhạc, đây là nhìn từ góc độ nhân quả. Như tôi đã nhắc ở trên, cốt yếu của Phật Pháp không nằm ngoài 3 điều – tích lũy công đức, đoạn trừ bất thiện nghiệp và điều phục tâm mình. Như vậy nếu nhìn từ góc độ điều phục tâm, chúng ta cúng dường âm nhạc lên chư Phật, giống như bất cứ khi nào cúng dường, chúng ta đều thực hành buông xả. Cho dù bố thí một đô la cho người hành khất, chúng ta cũng cần buông xả. Như vậy trong tâm chúng ta cũng buông xả âm thanh nhã nhạc để cúng dường lên chư Phật. Điều này có ý nghĩa khác biệt như thế nào ? Loài người chúng ta thường bám chấp mạnh mẽ vào âm thanh mà không chịu hiểu rằng âm thanh vốn là không. Chẳng hạn khi ai đó nói bạn là người tốt thì lập tức miệng bạn sẽ nở nụ cười rất tươi. Chỉ hai phút sau, nếu có ai đó nói bạn là người xấu, thì ngay lập tức tâm trạng bạn sẽ thay đổi. Thực chất khi có ai nói bạn tốt hay xấu, bạn sẽ không đẹp hơn, xấu hơn, gầy hay béo hơn. Tất cả chỉ là âm thanh. Xét theo khoa học, âm thanh được tạo nên từ sự rung động của các nguyên tử vô cùng nhỏ - trong đó chẳng có gì tốt, xấu, vui buồn. Chính sự bám chấp vào âm thanh khiến chúng ta thấy vui hay buồn. Do vậy khi cúng dường âm nhạc lên chư Phật, chúng ta thực hành đoạn trừ tâm bám chấp vào âm thanh của chúng ta – tức là tâm tạo tác khiến chúng ta phân biệt âm thanh thành hay dở, khen chê, trách móc hay chỉ trích. Mọi trải nghiệm vui buồn của chúng ta cũng vậy, mà chúng ta thường gọi là ngũ trần, khởi nguồn từ ngũ căn của chúng ta. Chúng ta thích những thứ mềm mại, không thích những gì thô cứng. Chúng ta thích những thứ đẹp đẽ, không thích đồ xấu xí. Tương tự như vậy, từ âm thanh, mùi vị, đều bắt nguồn từ ngũ giác của chúng ta. Chúng ta có những thứ mình yêu thích hoặc ham muốn. Vậy nên chúng ta có thể cúng dường lên chư Phật bất cứ thứ gì mà ngũ căn của chúng ta yêu thích.
700
Nói như vậy để bạn hiểu được vì sao chúng ta lại có những thiên nam, thiên nữ trong vũ điệu cúng dường – bởi sự liên hệ với sự bám chấp vào nhãn căn (mắt nhìn). Như vậy chúng ta cúng dường những thứ tốt đẹp – mỹ nam, mỹ nữ, nhà cửa – bất cứ thứ gì mắt chúng nó nhìn thấy và cho là đẹp, đều có thể cúng dường lên chư Phật. Mấu chốt ở đây không phải là chư Phật thích những thứ này, mà đây là những thứ do nghiệp lực khiến chúng ta nảy sinh tham muốn và khởi tâm bám chấp – vì vậy chúng ta cần đoạn trừ tâm bám chấp này. Do đó, chúng ta có thể cúng dường bất cứ thứ gì có thể cuốn hút ngũ căn của chúng ta, như hoa đẹp, quả ngon, quần áo, trang sức – chúng ta cúng dường tất cả những thứ này lên chư Phật bởi chúng làm tăng trưởng tâm tham muốn và bám chấp mạnh mẽ của chúng ta. Mục đích không phải làm hài lòng chư Phật hay không, cho dù bạn có cúng dường một triệu đô la hay chỉ một hòn đá bình thường, đối với Phật đều như nhau. Bạn có phỉ báng hay tán thán chư Phật cả ngày cũng chẳng khác gì nhau, các Ngài sẽ chẳng hề động tâm. Chỉ có chúng ta sẽ gánh lấy nghiệp báo hay tích lũy công đức tùy theo hành động của mình, còn đối với chư Phật sẽ không có bất cứ sự phân biệt nào. Điều quan trọng là sự tác động đối với tâm chúng ta, vì vậy trong Đại Thừa hoặc Kim Cương Thừa, khi chúng ta cúng dường, chẳng hạn hôm nay chúng ta chỉ có vài bông hoa để cúng dường, song chúng ta vẫn quán tưởng toàn vụ trụ ngập tràn những bông hoa tươi đẹp. Chúng ta có thể cúng dường lên chư Phật cả Hong Kong. Cho dù chúng ta không có toàn quyền đối với Hong Kong, song chúng ta vẫn có thể quán tưởng như vậy. Và chúng ta vẫn tích lũy nhiều công đức, bởi tất cả đều bắt nguồn từ tâm chúng ta và giúp chúng ta đoạn trừ bám chấp. Đó chính là cách mọi thứ đang diễn ra.
Trích Khai thị của Đức Nhiếp Chính Vương Gyalwa Dokhampa về Pháp tu Lục Độ Mẫu Tara, tháng 1 năm 2013 tại Hong Kong
Nguồn: drukpavietnam.org
TAG: /
http://drukpavietnam.org/sites/defau...?itok=uDOQtpY2
http://drukpavietnam.org/sites/defau...?itok=0cdpuIhC
http://drukpavietnam.org/sites/defau...?itok=BrU8Faa2
http://drukpavietnam.org/sites/defau...?itok=JJ5a5EZz
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...32778367_n.jpg
http://vajrayanapractice.com/y-nghia...uong-thua.html
-
Tu Tập Pháp P’howa Chuyển Di Thần Thức
10/23/2017
QUY Y VÀ BỒ ĐỀ TÂM
Bài nguyện về quy y và phát bồ đề tâm, được đọc ba lần, mở đầu khóa tu p’howa. Chúng ta quy y Tam Bảo, công nhận [và quy y] vị Thầy hướng dẫn là Phật Thích Ca Mâu Ni, người đã bày tỏ một cách hoàn hảo con đường giác ngộ của bồ tát; quy y giáo pháp của Phật, phương tiện để chúng ta theo gương Phật; và quy y những vị theo chân Ngài, tức tăng đoàn, như những vị đồng hành trên đường tu. Chúng ta quy y không chỉ cho kiếp này, nhưng cho tới khi chúng ta đạt giác ngộ, và trưởng dưỡng ý nguyện bồ đề tâm cho tới khi, không chỉ riêng chúng ta, mà tất cả chúng sinh, thành Phật.
Để theo con đường của Phật Thích Ca Mâu Ni, chúng ta nguyện tu tập không ngưng nghỉ sáu pháp toàn thiện (lục độ, hay lục ba la mật) của bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ. Những pháp này là con đường của một vị bồ tát, người thệ nguyện thành đạt giác ngộ để làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.
Bài nguyện quy y và phát bồ đề tâm, một bài nguyện tổng quát cũng dùng cho các pháp tu khác, thiết lập một nền tảng mạnh mẽ và đầy ý nghĩa cho pháp p’howa. Nó nhắc nhở chúng ta rằng pháp môn p’howa lưu xuất từ di sản Phật Pháp, và rằng những vị tu tậpvới chúng ta là trong tăng đoàn cao quý. Họ gồm những vị đã nhìn qua các quan tâm về mình, những vị đã thấy các đau khổ của người khác và khởi tâm nguyện từ bi để cứu độ. Sự kết hợp giữa tâm nguyện từ bi này với ước vọng đạt nguyện bằng cách giác ngộchính là sự khai sinh của bồ đề tâm, và ghi dấu sự chuyển hóa của những người bình thường này trở thành con Phật.
Pháp môn p’howa, được tu tập với sự tỉnh thức về sự chết, cung cấp một diễn trường mạnh mẽ cho việc thực hiện ý nguyện bồ đề tâm. Khi chúng ta nghĩ về nỗi đau khổ khi hấp hối – sự bất định dày đặc và nỗi buồn của sự cắt lìa, từng sự cắt lìa một, những dây liên kết của chúng ta với bạn hữu và gia đình, vào tài sản, vào đặc tính cá nhân, vào chính thân xác mình – chúng ta có hay không đã đập vỡ các quan tâm bình thường? Chúng ta mong muốn tu tập, vừa cả do nỗi sợ hãi sự chết và cả do niềm hy vọng rằng xuyên qua p’howa, chúng ta sẽ có thể nhảy qua vô lượng chu kỳ sinh tử luân hồi, và được tái sinh trực tiếp trong cõi thanh tịnh của Phật A Di Đà. Áp dụng sáu pháp toànthiện của bồ tát đạo vào p’howa sẽ cung cấp phương tiện thành tựu các quyền năng phi thường trong kiếp này, kể cả khả năng chuyển di thần thức của những người đang hấp hối. Tận cùng, thành tựu sáu pháp tu tập này dẫn chúng ta không chỉ tới nơi cõi tịnh độ cực lạc mà còn tới sự toàn giác.
Chúng ta bày tỏ hạnh bố thí xuyên qua pháp p’howa bằng cách dâng hiến thì giờ và nỗ lực để tu tập, qua việc học cách thực thi pháp p’howa cho người khác, và qua tâm nguyện chúng ta muốn làm lợi ích cho mọi chúng sinh.
Chúng ta trưởng dưỡng hạnh trì giới bằng cách ngồi với tư thế tốt và bằng cách làm từng bước tu tập tốt, và qua ý nguyện muốn gạt bỏ qua một bên mọi sinh hoạt bên lề, và tập trung vào pháp p’howa trong các thời thực tập, khi những người khác đang hấp hối, và vào giây phút họ từ trần.
Nhẫn nhục thì cần thiết khi chúng ta gặp các trở ngại tu tập, như thiếu thoải mái khi ngồi và trong tiến trình tìm đạt các dấu hiệu thể lý (LDG: dấu hiệu cụ thể cho thấy người chết siêu sinh tịnh độ). Nhẫn nhục cũng cần thiết khi những người khác tìm cách ngăn cảnchúng ta trong khi chúng ta đang nỗ lực thực hiện pháp p’howa cho người đang hấp hối hay cho chính mình.
Với tinh tấn, chúng ta liên tập tu học cho tới khi chúng ta có tự tin vào khả năng mình và không bao giờ bị lôi kéo ra khỏi pháp tu dẫn tới cõi tịnh độ.
Với thiền định, chúng ta cắt bỏ mọi vọng tưởng trong thiền định và liên tục chú tâm và pháp quán tưởng và tụng niệm. Vào giây phút hấp hối, chúng ta tập trung vào Phật A Di Đà, mà vị Phật này là một thể với bổn sư của chúng ta.
Pháp toàn thiện về trí huệ xảy ra xuyên qua sự chứng ngộ về pháp tu này như là một hiển lộ thanh tịnh của sự hợp nhất giữa pháp tướng và tánh không. Tiến trình thiền phápp’howa dẫn chúng ta tới chứng ngộ này, bởi vì trong chuỗi thứ tự mau chóng, chúng tathay đổi giữa pháp quán tưởng (visualization) và pháp hội nhập (dissolution) vào trong bản tánh bất nhị, phi khái niệm của Phật A Di Đà.
PHÁP THỰC TẬP CHÍNH YẾU
Quán Tưởng về Đức Quan Thế âm
Từ lúc khởi đầu của phần tu tập chính, chúng ta bẻ gãy xích xiềng của tâm chấp ngãbình thường, và đưa ra từ chính mình cái linh ảnh hóa thân thanh tịnh của bản tánh mình như là Đức Quan âm, vị Thánh của lòng Đại Bi. Việc tự quán tưởng như vị bổn tôn có ba phương diện quan trọng: quán tưởng linh ảnh trong chi tiết rõ ràng, hiểu ý nghĩa biểu tượng của linh ảnh đó, và gìn giữ cái “tự hào” của vị bổn tôn - nghĩa là, xuyên qua định tâm mà hiển lộ thân, khẩu và ý của vị bổn tôn không bị gián đoạn. (LDG: Ngắn gọn, tự tâm mình lưu xuất ra linh ảnh Đức Quan âm, rồi học nhân tự quán tưởng mình hợp nhất với Ngài trong cả 3 nghiệp thân, khẩu và ý.)
Để tự quán tưởng mình như Đức Quan âm, hãy an nghỉ trong bản tánh của tâm mình như sự rỗng rang, không giữ [niệm] gì cả – không cả trần cảnh của thế giới bên ngoài, mà cũng không cả thế giới bên trong của các suy nghĩ, khái niệm và cảm xúc. Thân xác học nhân không còn trong hình tướng thể lý, dầy đặc, nhưng bây giờ chiếu sáng, màu trắng rực rỡ như một ngàn mặt trời chiếu sáng trên một đỉnh núi tuyết. Ngồi trong tư thế kiết già trên một hoa sen trắng và đĩa mặt trăng, học nhân có một khuôn mặt và bốn cánh tay. Hai bàn tay dưới thấp ôm một viên ngọc như ý màu xanh da trời áp vào tim; bàn tay phải phía trên cầm một xâu chuỗi thủy tinh, và bán tay trái phía trên cầm cọng hoa sen trắng nở gần bên tai.
Như Đức Quan âm, học nhân mặc năm mảnh lụa của các vị bổn tôn báo thân – các dây ngũ sắc thả treo từ trên vương miện xuống, một mảnh lụa trắng phía trên thêu với chỉ vàng, một khăn quàng dài màu xanh lá cây bay phất phơ và quấn phía trên các cánh tay, một váy ngắn mà xanh da trời cùng với các quần màu đỏ phía dưới, và một dây lưng. Học nhân cũng mặc tám món bảo ngọc – một vương miện mang các bảo ngọc ngũ sắc, các bông tai, ba độ dài của các dây chuyền đeo cổ, dây chuyền đeo tay, dây chuyền đeo cánh tay, và dây chuyền đeo cổ chân. Những vật trang trí này được khảm vào bằng đá quý.
Mỗi mặt của hình ảnh này khởi lên một cách tự nhiên và biểu lộ các các phẩm chất, sự hiển lộ thanh tịnh, của tự tánh tuyệt đối. Khi quán tưởng tự thân mình như Đức Quan âm, chúng ta không chỉ tự trang phục mình trong hình tướng bề ngoài đẹp đẽ. Trong cảnh chứng nhập bất nhị mà chúng ta tìm đạt, tất cả các chi tiết hình tướng đó và ý nghĩaphong phú của chúng hiển lộ một cách tự nhiên từ tánh Phật, tánh của chúng ta và của Đức Quan âm không hai không khác.
Màu trắng rực rỡ của Đức Quan âm khởi lên như phẩm chất không bị ô nhiễm bởi sinh tử luân hồi. Tòa sen của ngài là hiển lộ của tánh không, đĩa mặt trăng là phương tiện thiện xảo. Khuôn mặt của ngài là hiển lộ cho bản chất bất biến của sự thật tuyệt đối.
Bốn cánh tay của Đức Quan âm khởi lên như biểu hiện của bốn phẩm tánh vô lượng của từ, bi, hỉ và xả. Hai bàn tay để nơi ngực ngài là để kiết ấn đại bi, và cầm một viên ngọc như ý màu xanh da trời tượng trưng cho tình yêu và lòng thương xót; viên ngọc tự nó đã mang hạnh phúc tới cho chúng sinh. Bàn tay phải phía trên cầm một xâu chuỗi các hạt thủy tinh cùng cỡ bày tỏ tâm xả vô lượng. Bàn tay trái phía trên cầm một hoa sen nở phía bên tai để hiển lộ tâm hỉ vô lượng, đặc biệt là niềm vui được nghe giáo pháp. Cọng hoa cũng nổ ra một trái và một búp. Cánh hoa nở trọn tượng trưng cho chư Phật hiện tại; trái tượng trưng chư Phật quá khứ; và búp tượng trưng chư Phật tương lai.
Thế ngồi kim cang tọa là biểu hiện khác của tâm xả vô lượng của Đức Quan Aâm, mà tâm này khởi lên từ chứng ngộ tuyệt đối của bản tánh đơn nhất – cái tánh không, một vị đơn nhất – của toàn thể cõi luân hồi và niết bàn. Các trang phục lụa và bảo ngọc, được mang với sự không dính mắc hoàn toàn, bày tỏ sự giàu có của báo thân. Ngài không cần rời bỏ gì hết, bởi vì Ngài không hề nắm giữ gì hết.
Quán Tưởng Kênh Trung Tâm
Chính xác, nơi chính giữa thân ánh sáng của Đức Quan âm là kênh trung ương, chạy từ khoảng cách 4 ngón tay dưới rún, nơi nó [kênh trung ương] được đóng lại, tới luân xa đỉnh đầu, khoảng cách 8 ngón tay phía sau mí tóc nguyên thủy, nơi nó [kênh trung ương] mở ra. Nó thì thẳng và mỏng y hệt thân của một mũi tên, mềm và linh động như các cánh của một hoa sen, và sáng như ánh sáng ngọn đèn bơ. Đường kính của nó [kênh trung ương] thì bằng đường kính của ngón tay nhỏ của mỗi người. Nó không phải là một kênh vật chất, thể lý, nhưng thực ra là được cấu thành từ ba cột ánh sáng có chung trọng tâm, cột trong cùng màu đỏ, cột giữa xanh da trời, và cột ngoài cùng màu trắng.
Sự tọa lạc chính xác ngay giữa của kênh bày tỏ pháp Trung Đạo vĩ đại, một quan điểmhoàn toàn xa lìa các cực đoan của thường kiến (tin vào sự hiện hữu tự thân) và đoạn kiến (tin vào hư vô, không có hiện hữu).
Bản chất trống rỗng của kênh trung ương và cột màu xanh da trời của nó đáp ứng với pháp thân. Sự chói sáng của nó và cột màu đỏ đáp ứng với sự hiển hiện rực rỡ của báo thân. Chức năng của kênh như là con đường tới Cõi Tịnh Độ Cực Lạc và cột màu trắng đáp ứng với sắc thân.
Quán Tưởng Luân Xa Quả Tim
Trong luân xa quả tim, một lớp ánh sáng rực rỡ tiếp cận với kênh trung ương, cho nên trong thiền định, chúng ta chỉ làm việc với nửa phần trên. Trên lớp ánh sáng này, một hoa sen trắng tám cánh chứa một bầu năng lực màu xanh lá cây lấp lánh. Tám cánh hoa này biểu hiện cho tám phương diện của ý thức (LDG: bát thức), trong đó có năm thức đi kèm theo năm giác quan, một thức làm nền tảng sơ nguyên của tất cả kinh nghiệm bình thường, một thức cho chúng ta khái niệm hóa các dữ kiện cảm quan, và một thức chấp ngã khởi lên các cảm xúc xung đột.
Năng lực xanh lá cây lấp lánh, cũng được mô tả như “gió nghiệp,” bày tỏ phẩm chất hằng hữu của tâm về tính thần túc – tức là khả năng của nó đi tới bất cứ nơi đâu chớp nhoáng. Sự nhận biết, một phẩm chất khác của tâm, được biểu hiện trong một quả cầu trong sáng của ý thức nằm trên nguồn năng lực xanh lá cây đang rung động. Tính thần túc và tính nhận biết là các phẩm chất liên lập của tâm; cho nên, bầu năng lực xanh lá cây và quả cầu trong sáng của ý thức vẫn không tách rời nhau.
Quả cầu ý thức có kích thước một viên ngọc nhỏ và chiếu màu cầu vòng với năm màu của trí tuệ – xanh da trời, trắng, đỏ, vàng, và xanh lá cây. Kinh điển sadhana nói về nó như là “quả trứng của một con chim masal.” So sánh này khởi lên từ một linh ảnh của nữ đại thành tựu giả Machig Lapdron trong đó bà nhìn thấy hai con chim dị thường đang giao cấu. Một cách đồng thời, mỗi con chim nhả ra từ miệng một quả trứng trông như ngọc quý với các vòng ngũ sắc. Tâm bình thường trong bản tánh thanh tịnh biểu hiện cho năm thức không bị ràng buộc trong thời gian.
(LDG: chữ “sadhana text” trong đoạn văn trên chỉ cho một loại văn bản đặc biệt của Kim Cang Thừa. Cuốn The Encyclopedia of Eastern Philosophy and Religion, NXB Shambhala, Boston 1994, giải thích rằng đó là “một loại đặc biệt các văn bản nghi lễ và các pháp thiền quán ghi trong đó. Kinh điển sadhana mô tả chi tiết các vị bổn tôn được kinh nghiệm như là hiện thực tâm linh, và toàn bộ tiến trình từ pháp quán tưởng bổn tôn cho tới hòa nhập vào thiền định vô tướng...” Nơi đây chúng ta thấy, mặc dù Tịnh Độ Tôngđược chư Tổ Trung Hoa tách ra làm một tông phái riêng, nhưng tại Tây Tạng lại được xếp vào làm một phần của Phật Giáo Kim Cang Thừa.)
Quán Tưởng về Phật A Di Đà
Khoảng ba tấc phía trên luân xa đỉnh đầu đã mở của hành giả là Phật A Di Đà không tách lìa khỏi hành giả, ngồi trên một hoa sen đa sắc ngàn cánh với một đĩa mặt trời và đĩa mặt trăng. Ngài màu đỏ hồng ngọc, và chiếu ra các tia sáng đỏ theo hình quả cầu ra xa vô cùng – tên Ngài trong Tạng Ngữ là Odpagmed, nghĩa là “Vô Lượng Quang.” Ngài có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của một vị Phật, gồm cả vòng hào quang nơi đỉnh đầu Ngài, các chái tai dài, một thân hình cân đối tuyệt hảo, và các luân xa tám cạnh nơi gót chân và lòng bàn tay. Ngài cũng có 60 phẩm chất của diệu âm, kể cả âm điệu dịu dàng, khả năng truyền âm thanh mà không cần lớn tiếng, và khả năng truyền thông mà không cần người thông ngôn.
Trong hình tướng sắc thân của Ngài, Ngài mặc ba y của một vị sư đặc biệt, một áo xanh da trời như tấm y bên trong, một tấm y phía trên màu vàng, và một tấm y bên ngoài màu đỏ, tương ưng với ba môn học của giới (vinaya), định và huệ. Tay của Ngài đặt thành ấn tam muội, giữ một bình bát khất thực bằng ngọc màu xanh da trời sậm chứa đầy nước cam lồ để làm thành tựu các nhu cầu và chữa trị các bệnh cho chúng sinh. Ngài ngồi trong tư thế kim cang tọa (vajra posture).
Cũng như với Đức Quán Thế Aâm, mỗi phương diện của hình ảnh đều có ý nghĩa thiêng liêng. Hoa sen biểu hiện cho tính thanh tịnh tự thân của bản tánh tuyệt đối, mà bản tánhnày không bị nhiễm ô bởi các hiện tượng luân hồi. Đĩa mặt trời tương ưng với sự tỉnh thức không ràng buộc bởi thời gian, đĩa mặt trăng tương ưng với các phương tiện thiện xảo. Hai chân xếp lại trong thế kim cang tọa nói lên ý nghĩa bình lặng.
Màu đỏ hồng ngọc của Phật A Di Đà khởi lên từ việc ngài là chủ tể của gia đình hoa sen, với nối kết đặc biệt với sự hóa hiện của lời nói giác ngộ. Xuyên qua tâm ý giác ngộ của Ngài, Phật A Di Đà thực hiện các quyền lực thu hút chúng sinh về giải thoát xuyên quatình yêu và ý thức phân biệt – sự nhận biết cùng lúc về Tánh Không và chi tiết hiển hiệncủa mọi hiện tượng, cũng như tính tương thuộc hoàn toàn vào nhau của các hiện tượng.
Quán Tưởng về Thánh Chúng của Phật A Di Đà
và Cõi Tịnh Độ Cực Lạc
Trong khi tu pháp p’howa, chúng ta có thể tập trung vào riêng hình ảnh Phật A Di Đà, nhưng chúng ta nên quán tưởng hình ảnh Ngài trong Cõi Cực Lạc, vây quanh bởi vô lượng các vị Phật và Bồ Tát, các vị sư bên phía trên đầu Ngài. Bồ Tát Quán Thế Aâm đứng trong hình tướng hai tay, trên một hoa sen và đĩa mặt trăng phía bên phải Phật A Di Đà, bàn tay phải của Ngài kết pháp ấn của sự độ lượng bố thí, tay trái Ngài cầm cọng hoa sen đặt nơi phía quả tim. Bồ Tát Kim Cang Thủ (Vajrapani) đứng trên một hoa senvà đĩa mặt trăng phía bên trái Phật A Di Đà, bàn tay phải của Ngài hướng mặt xuống trong tư thế bảo vệ, tay trái cầm cọng hoa sen mà đóa nở bên tai Ngài. Đức Kim Cang Thủ đã tiết lộ và bảo vệ các kinh về mật chú.
Quán Tưởng về Sự Chuyển Di Thần Thức;
Thần Chú P’hat
Với việc trì tụng câu chú “P’hat,” thần thức t’higle phóng ra từ trái tim để vào tâm của Phật A Di Đà. Câu chú một âm này gồm có hai âm thanh. Đầu tiên là “p’ha,” bày tỏ phẩm chất nam tính của phương tiện thiện xảo; thứ nhì là “ta,” bày tỏ phẩm chất nữ tính của trí huệ. Trong nghi quỹ, nó được viết là “Ah P’hat.” Phần “Ah” là một âm đơn nghe như nối tiếp với mẫu tự đứng trước. Thế có nghĩa là phần đầu “Ah” được gắn vào âm cuối của bài kinh nguyện hai dòng hướng về Phật A Di Đà, vang như là “Lob-Ah.” Rồi thì “P’hay-Ah, P’hay-Ah, P’hat!”
Chuỗi thứ tự của việc chuyển di khởi đầu với việc thiết lập các phương diện của quán tưởng – nhìn thấy mình như là Đức Quan âm, kênh trung ương, thần thức t’higle nằm ngay trái tim, với Phật A Di Đà bên trên. Rồi chúng ta trì tụng bài kinh nguyện 2 dòng (“Con cầu xin Phật A Di Đà tiếp dẫn con tái sinh vào Cõi Cực Lạc”) ba lần, hoặc là bằng Tạng ngữ hay Anh ngữ. (LDG: người Việt thì nên đọc bằng Việt ngữ.)
Tập trung mạnh mẽ vào thần thức t’higle, chúng ta phát âm “P’hay-Ah” và phóng thần thức xuyên qua kênh trung ương, xuyên qua luân xa đỉnh đầu đã mở, và vào tâm của Phật A Di Đà, và rồi an nghỉ trong sự tỉnh thức bất nhị.
Kế đó, chúng ta tập trung lần nữa vào thần thức t’higle nơi quả tim của mình. Không cần gì phải mang phần thần thức t’higle đã chuyển di xuống từ Phật A Di Đà; chúng ta chỉ đơn giản tái tập trung, đọc câu chú, chuyển di và rồi an nghỉ trong sự tỉnh thức bất nhị.
Chúng ta lập lại sự chuyển di lần thức ba – bây giờ phát âm sắc nhọn “P’hat!” – và an nghỉ. Sau lần chuyển di thứ ba, toàn bộ chu kỳ này được lập lại, khởi đầu bằng bài kinhnguyện 2 dòng.
Trong khi tu tập p’howa, học nhân có thể gặp vài sự kém thoải mái khi luân xa đỉnh đầu mở ra, có thể trong hình thức nhức đầu, choáng váng, nóng nơi đỉnh đầu, hay một điểm đau mà điểm này có thể rỉ ra một giọt máu hay giọt huyết tương. Đó là các dấu hiệu của sự tiến bộ và sẽ biến mất khi cường độ tu tập dày đặc được giảm xuống, mặc dù luân xa đỉnh đầu không bao giờ khép lại nữa. Chúng ta cần phải tu tập cho tới khi chúng ta tự tin rằng con đường p’howa của chúng ta đã được thiết lập, và rằng chúng ta sẽ làm phép chuyển di p’howa này gần như tự động vào thời điểm lìa trần. Một khi chúng ta đã đạt niềm tin như thế, chúng ta có thể giảm sự tu tập về một chu kỳ của ba bài kinh nguyện và ba lần chuyển di thần thức, và tập trung thay vào đó là phép tu trường thọ.
Đôi khi, người ta đặt câu hỏi là có an toàn hay không với phép tu tập p’howa, rủi có khi nào thần thức có thể bất ngờ xuất ra luôn không. Không có sự nguy hiểm như thế. Ngay cả khi người ta yếu và bên mép bờ sự chết, cần phải có nỗ lực lớn lao để ảnh hưởng tới sự chuyển di. Những nguồn sinh lực buộc tâm thức vào với thân thể, và tới khi nào chúng suy giảm đủ thì mới cho tâm thức xuất ra; thực sự, chuyển di thần thức cũng y hệt như bứt quả xanh ra khỏi cây: nó sẽ không được thả ra cho tới khi nào quả chín.
Bài kinh nguyện dòng phái
Trong pháp tu tập p’howa, chúng ta không cần tụng bài kinh nguyện dòng phái, các bài kinh nguyện cho sự chuyển di lên pháp thân, báo thân và sắc thân, hay là kinh nguyện lên vị thầy bổn sư. Tuy nhiên, những bài kinh nguyện này gợi lên sự hưng phấn và làm tươi mới sự tu tập của chúng ta với một điểm tập trung hơi khác về pháp quán tưởng.
Có hai cách căn bản để quán tưởng các vị thầy trong dòng phái. Cách đơn giản nhất là quán tưởng họ trong một đường dọc thẳng đơn độc bên trên đầu Phật A Di Đà trong phép quán tưởng chính, với pháp thân của Phật A Di Đà ở nơi cao nhất của thánh hội, và quán tưởng các thánh tăng trong dòng phái người này bên trên người kia theo cùng thứ tự trong bài kinh nguyện dòng phái. Vị thầy bổn sư của chúng ta ngồi bên trên sự quántưởng của chúng ta về Phật A Di Đà.
Phương pháp thứ nhì là quán tưởng pháp thân Phật A Di Đà ngồi nơi điểm cao nhất, rồi dưới ngài một chút về bên phải là báo thân Đức Quan Aâm. Sắc thân của Đức Liên Hoa Sanh, vị đã mang pháp môn chuyển di thần thức p’howa này vào cõi người, ngồi một chút phía dưới Phật A Di Đà bên trái. Vây quanh ba vị này là tất cả các thánh tăng khác trong dòng phái, gồm cả trợ thủ của Đức Liên Hoa Sanh là thiên nữ Yeshe Tsogyal, và đệ tử của ngài là Langdro Konchog Jungnay, vị mà có dòng tâm thức hóa thân ra làm người khám phá các kinh điển quý giá ẩn tàng (Tạng ngữ. Terton) Rigdzin Longsal Nyingpo. Một lần nữa, vị thầy bổn sư của chúng ta ngồi giữa thánh hội, mối dây liên lạcchính yếu cho sự giải thoát của chúng ta.
Dù chúng ta hình dung thánh hội cách nào, chúng ta cũng cảm nghiệm được lòng từ bi thâm sâu và sự chứng đạt mạnh mẽ chiếu sáng từ mỗi vị lạt ma, tập trung về hướng chúng ta với ý hướng tròn đầy rằng chúng ta tìm được giải thoát ra khỏi chu kỳ vô tậncủa sinh và tử. Ý hướng của các vị lạt ma nối kết với sự tận hiến của chúng ta như lưỡi câu và dây câu, nâng chúng ta cao lên, đưa chúng ta vào cõi tịnh độ. Được tắm gội trong ân sủng của chư vị, chúng ta chuyển di thần thức tương tự như phần trước.
Các Bài Kinh Pháp Thân, Báo Thân,
Sắc Thân, và Bổn Sư
Đối với bài kinh pháp thân, việc quán tưởng và chuyển di thì chính xác như đã làm sau bài kinh nguyện hai dòng dâng lên Phật A Di Đà. Trong phần chuyển di sau bài kinhnguyện đối với phương diện báo thân, chúng ta quán tưởng hoặc là Phật A Di Đà hay Đức Quan âm trên đầu chúng ta; nếu [chọn cách] quán Đức Quan Aâm, thì chúng ta [tự quán mình] như là Đức Quan Aâm và cùng lúc cũng có Đức Quan Aâm trên đầu mình. Tương tự, theo sau bài kinh nguyện hướng về Đức Liên Hoa Sanh như phương diện sắc thân, chúng ta có thể quán tưởng hoặc là Phật A Di Đà hay Đức Liên Hoa Sanh trên đầu chúng ta.
Chúng ta có thể thực hiện tương tự pháp chuyển di sau bài kinh nguyện hướng về bổn sư bằng cách quán tưởng hoặc là Phật A Di Đà hay thầy bổn sư của chúng ta trên đầu chúng ta. “Thầy bổn sư” (root lama) là vị thầy đầu tiên chỉ cho chúng ta bản tánh của tâm. Hầu hết mọi người không có một vị thầy bổn sư, hoặc là vì họ không gặp được một vị thầy kiến tánh, hoặc là vì họ đã chưa chín mùi để tiếp nhận sự trao truyền dĩ tâm ấntâm trực tiếp của vị thầy. Nếu chúng ta chưa có một vị thầy bổn sư, chúng ta nên quán tưởng Phật A Di Đà với sự hiểu biết rằng ngài biểu tượng cho tất cả các phẩm chất của vị thầy trí tuệ đã giác ngộ.
Việc đọc tụng những kinh nguyện này thì hệt như là nhìn vào cùng một yếu tính xuyên qua nhiều mặt của một lăng kính. Vị thầy bổn sư của chúng ta, Đạo Sư Liên Hoa Sanh, và Đức Quan âm thì không tách rời ra khỏi Phật A Di Đà, khởi lên trong những hóa thânkhác nhau để đáp ứng với các nhu cầu cụ thể của chúng sinh. Ước nguyện rằng chúng ta tìm cầu giải thoát sẽ rung động mạnh mẽ xuyên qua tất cả các vị đó. Chúng ta chỉ cần nối kết xuyên qua niềm tin và ước nguyện của chính chúng ta.
CHÚ GIẢI VỀ P’HOWA
Hướng Dẫn về Pháp Môn Chuyển Di Thần Thức Siêu Sinh Tịnh Độ
theo Truyền Giảng của Rigdzin Longsal Nyingpo
Tác giả: Chagdud Khadro - Dịch giả: Cư sĩ Nguyên Giác
TAG: /
http://vajrayanapractice.com/tu-tap%...than-thuc.html
-
Muốn thành công phải trải qua nhiều thất bại
Trên đường đời có dại mới thành khôn
Đem đau thương tôi luyện cả tâm hồn
Đem tri thức tôi rút thành kinh nghiệm.
P/s: Buổi tối cuối tuần vui vẻ,an lạc....nhé.
https://www.facebook.com/pg/Mandala-...5702081/posts/
-
Đức Sakya Trizin đời thứ 42 truyền dạy pháp tu Phowa tại Củ Chi, Tp.HCM
(PGVN)
Ngày 23/10/2017, tại tháp Long Thọ, ấp Cây Trắc, xã Phú Hòa Đông, huyện Củ Chi, Tp.Hồ Chí Minh cung nghinh đức Sakya Trizin đời thứ 42 từ Ấn Độ sang. Sau khi vòng quanh tham quan gia trì, Ngài truyền dạy pháp tu Phowa.
“Thông thường, từ “thần thức” được dùng cho người đã lâm chung đang ở trong giai đoạn trung ấm, trong khi từ “tâm thức” được dùng cho người còn tại thế. Trên phương diện tối hậu thì tâm thức là một dòng tương tục không có sống chết, có chăng chỉ là cái tan hoại của thân vật lý. Thêm vào đó, trong bối cảnh của pháp tu “Phowa,” và nhất là đối với các hành giả tu tập pháp chuyển di nương vào ba ẩn dụ, việc này bao gồm các nghi thức chuyển di vào giờ phút lâm chung trong giai đoạn tan rã trước khi thân và tâm thực sự tách rời (nghĩa là khi hơi thở vi tế bên trong vẫn còn hiện hữu), danh từ “tâm thức” hay “thần thức” mà ngài Sakya Trizin đời thứ 42 chia sẻ về pháp thực hành chuyển di.
Trong các bài nguyện và hồi hướng dành cho giai đoạn lìa đời và thân trung ấm có nhắc đến pháp môn chuyển di tâm thức (*) có tên gọi là “Phowa.” Đây là pháp tu khởi thủy được truyền xuống từ đức Liên Hoa Sinh sau khi đã ngài dùng thần lực đến cõi Tịnh độ thọ pháp này từ đức A Di Đà và đây cũng là một trong sáu pháp tu Du Già của Naropa. Đối với pháp tu này thì ngài Tổ sư Marpa (1012-1096) đại dịch giả Tây Tạng và Sơ Tổ dòng Kagyu, đã từng nói rằng: ‘Có nhiều giáo pháp để hành giả đạt giác ngộ, nhưng ta có một giáo pháp có thể mang lại giác ngộ mà chẳng cần thiền định, đó chính là pháp môn chuyển di tâm thức’. Do đó, trong Kim Cương thừa, pháp môn “Phowa” được xem như là phương tiện trực tiếp nhất và nhanh chóng nhất để đạt giác ngộ trong thời điểm lâm chung. Nói chung pháp chuyển di tâm thức được phân loại như sau:
1. Pháp chuyển di siêu việt tới pháp thân nhờ vào dấu ấn của “kinh nghiệm” kiến tính.
2. Pháp chuyển di trung bình tới báo thân nhờ hợp nhất các giai đoạn sinh khởi (generation stage) và viên mãn (perfection stage) dựa vào các pháp tu bản tôn của Kim Cương thừa.
3. Pháp chuyển di thấp tới hóa thân nhờ vào lòng bi mẫn vô lượng.
4. Pháp chuyển di thông thường “đến cõi Cực Lạc của đức Phật A Di Đà” nương vào ba ẩn dụ.
5. Pháp chuyển di thực hiện cho người chết với cái móc của lòng bi mẫn.
Theo Tạng ngữ thì động từ “Phowa”có nghĩa là dời đi, chuyển đi, dọn đi, chuyển di, chuyển dời từ một nơi này đến một nơi khác (to transfer, to move, to migrate. Và từ này cũng được các dịch giả Anh ngữ dùng trong bối cảnh của pháp “Phowa” ám chỉ hành động “phóng xuất” một cách nhanh chóng (to eject). Do đó, ngoài nghĩa bóng là hành động phóng xuất tâm thức một cách thần tốc ra khỏi xác thân để hòa nhập vào với đức A Di Đà nơi cõi Cực Lạc nương vào ba ẩn dụ (như trong “Phowa” thứ 4) thì từ “Phowa” nói chung mang một ý nghĩa thâm sâu, đó là chuyển dời (chuyển di) tâm thức của chúng ta từ một nơi là cảnh giới hay tâm cảnh của xác thân phàm đến hòa nhập vào một nơi khác là cảnh giới thanh tịnh của pháp thân, báo thân, hóa thân và cực lạc.
Cho nên ta có thể hiểu rằng “Phowa” là tên gọi của pháp môn “Chuyển Di” nói chung, và hành động “phóng xuất” là một hành động cần thiết trong phần quán tưởng của pháp môn “Chuyển Di” này.
Sau đây là những bước thực hành chính yếu của pháp môn “Phowa” (Chuyển di Thần thức); cho dù bản thân quý vị “khi đang còn tại thế” hay là đem pháp tu này vào thực hành “khi lâm chung” thì những bước thực hành cũng đều giống nhau.
Trình tự của pháp Thiền định Chuyển di Thần thức:
Hãy tĩnh tọa thoải mái trên một tấm nệm, chân bắt chéo trong tư thế Kim cương giữ cho lưng thẳng ngay.
1. Pháp chuẩn bị: Trước tiên hãy hoàn tất toàn thể các pháp tu dự bị thật rõ ràng, chi tiết, bắt đầu bằng bài tụng “Gọi đức Bản tôn từ Chốn xa” và tiếp tục cho đến phần tan hòa (Dissolution) trong bốn pháp “Bản sư Du già” (Guru Yoga).
2. Pháp Quán tưởng chính yếu: Hành giả hãy quán tưởng xác thân phàm của mình 318 trong một khoảng khắc, trở thành thân tướng của Nữ Kim Cương Du Già (Vajra Yogini). Nữ Kim Cương Du Già (Vajra Yogini) mang màu sắc đỏ, có một khuôn mặt và hai cánh tay, đang đứng bằng cả hai chân, bàn chân phải giở lên trong “tư thế dạo từng bước chân an lạc”. Tam nhãn (ba con mắt) của Kim Cương Du Già (Vajra Yogini) ngước lên trời. Những hướng dẫn này nhằm mục đích chuyển di nên quán tưởng Ngài với nét đầy quyến rũ, an bình đồng thời hơi phẫn nộ. Bàn tay phải của Ngài đưa lên trên không trung, khua lách cách một cái trống nhỏ làm bằng sọ người, đánh thức chúng sinh ra khỏi giấc chiêm bao vô minh lầm lạc. Trong bàn tay trái, Ngài cầm một lưỡi dao lưỡi liềm ngang hông để cắt đứt tận gốc tam độc tham sân si. Thân mình của Ngài trần trụi ngoại trừ một vòng hoa và các vật trang sức bằng xương (đeo trên người). Như một căn lều bằng lụa đỏ, Ngài hiển lộ nhưng không có thực chất hay thực sự có ở đó. Tất cả những điều này là áo giáp hư huyễn bên ngoài (outer empty enclosure) của thân tướng.
Ở ngay trung tâm, suốt dọc thân thẳng đứng của quý vị (nay trong hình tướng của Nữ Kim Cương Du Già (Vajra Yogini), hãy quán tưởng đường kinh mạch trung ương giống như một cây cột trong một ngôi nhà trống. Được gọi là kinh mạch “trung ương” bởi đường khí ấy nằm ngay nơi trục của thân, không nghiêng sang trái hay sang phải. Đường kinh mạch trung ương có bốn đặc tính.
Thứ nhất, mang màu xanh biếc như một phim ảnh màu chàm (indigo), tượng trưng cho Pháp Thân bất biến.
Thứ nhì, kết cấu của đường khí ấy vi tế giống như một cánh hoa sen, tượng trưng cho tính chất mỏng manh của những bức màn che chắn xuất hiện từ những thói quen huân tập.
Thứ ba, đường khí ấy sáng như ngọn lửa của một cây đèn dầu mè, tượng trưng cho bóng tối vô minh đã được xua tan.
Thứ tư, đường khí ấy thẳng như một khúc tre, là biểu hiện sẽ không bao giờ dẫn tới những con đường xấu thấp hoặc sai lạc. Đầu trên của đường kinh trung ương mở thẳng vào cửa Phạm Thiên nơi đỉnh đầu (nơi tâm thức có thể thoát ra), giống như một cửa sổ mở toang trên mái nhà, biểu hiệu cho con đường đưa tới giải thoát và những cõi tái sinh cao hơn, trong khi đầu dưới của đường kinh trung ương đóng kín lại không có lỗ mở nào, dưới rốn khoảng bốn ngón tay, biểu hiện rằng những lối trở lại vào vòng luân hồi sinh tử và các cõi tái sinh thấp đã được đóng kín. Tất cả những điều này là áo giáp rỗng rang bên ngoài (outer empty enclosure) của đường kinh mạch trung ương.
Bây giờ hãy quán tưởng bên trong đường kinh mạch trung ương ở khoảng ngang tầm trái tim, chỗ đó như hơi phồng ra, giống như một cái mắt trong một thân tre. Phía trên chỗ cái mắt phồng ra này, hãy quán tưởng giọt tinh chất (bindu) của năng lực, màu xanh lá cây nhạt, sống động và mạnh mẽ. Ngay trên đó là tinh túy của tâm thức của bạn, một chữ hrih màu đỏ, với dấu nguyên âm dài và hai chấm nhỏ thay thế cho visarga(*), lay động và rung rinh như một lá cờ trong gió.
(*) Đây là một dấu hiệu của Phạn ngữ được phát âm như một âm “h” nặng. Theo cách phát âm của tiếng Tây Tạng thì chỉ cần kéo dài âm tiết, và được viết bằng hai vòng tròn nhỏ, cái này trên cái kia, tượng trưng cho trí tuệ và phương tiện.
Trong không gian trên đầu quý vị một cubit (khoảng 46 cm), hãy quán tưởng một chiếc ngai báu, được tám con công vĩ đại nâng lên. Trên đó là một hoa sen nhiều màu, cùng với hai đĩa mặt trời và mặt trăng, cái này nằm trên cái kia, tạo thành một tấm nệm ba lớp (xếp chồng lên nhau). An tọa trên toạ cụ ấy là Bản sư vinh quang của quý vị, là kho tàng bi mẫn không gì sánh bằng, hiển lộ trong thân tướng của tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai, và trong thân tướng của đức Phật Thế Tôn và đức Hộ Phật A Đà. Ngài mang sắc màu đỏ, giống như một trái núi bằng hồng ngọc được một ngàn mặt trời bao bọc. Ngài có một khuôn mặt, hai bàn tay nghỉ ngơi trong tư thế thiền định, cầm một bình bát chứa đầy chất cam lồ bất tử của trí tuệ. Ngài đắp tam y, là y phục của một hóa thân siêu phàm 320 tuân giữ phạm hạnh thanh tịnh. Thân Ngài mang ba mươi hai tướng chính và tám mươi tướng phụ, chẳng hạn như nhục kế nhô cao (usnisa) trên đỉnh đầu và các luân xa in dấu trên lòng bàn chân - toàn thân Ngài được bao phủ trong ánh hào quang rực rỡ đến từ muôn ngàn tia ánh sáng đang phóng tỏa.
Bên phải đức A Di Đà là đấng Quán Thế Âm cao quý, hiện thân của lòng bi mẫn của tất cả chư Phật - đức Quán Thế Âm mang sắc trắng, với một khuôn mặt và bốn cánh tay. Đôi bàn tay ở phía trên chắp lại nơi tim, lòng bàn tay úp vào nhau. Bàn tay phải ở phía dưới đang lần một chuỗi tràng pha lê màu trắng, và bàn tay trái phía dưới đang cầm một cành sen trắng, bông hoa nằm sát tai Ngài, tất cả các cánh hoa đều nở bung ra.
Bên trái đức A Di Đà là Kim Cương Thủ (Vajrapani), Pháp Vương của các pháp ẩn mật, hiện thân của thần uy và oai lực của tất cả chư Phật. Ngài mang sắc màu xanh dương, hai bàn tay bắt chéo trước ngực; trong tay Ngài cầm một cái chày kim cương và một cái chuông.
Đức Phật A Di Đà an tọa, hai chân xếp chéo trong tư thế Kim Cương. Điều này tượng trưng cho việc Ngài luôn an trụ mà không rơi vào những cực đoan của cả sinh tử lẫn Niết Bàn. Còn hai vị Bồ Tát (Quán Thế Âm và Kim Cương Thủ) trong tư thế đang đứng thẳng, điều này tượng trưng việc các Ngài không bao giờ mệt mỏi khi làm việc vì lợi ích của chúng sinh.
Xung quanh ba vị Hộ Phật và Bản Tôn chính yếu này, là tất cả các bậc Thầy của dòng truyền thừa của pháp chuyển di thâm diệu. Tất cả các Ngài hội tụ lại như những đám mây trong một bầu trời trong trẻo. Các Ngài hướng khuôn mặt tràn đầy lòng từ ái về phía bạn và tất cả các chúng sinh khác. Các Ngài chăm chú nhìn bạn với những đôi mắt ánh lên nụ cười, nghĩ tưởng về quý vị với niềm hoan hỷ. Hãy nhớ tưởng tới các Ngài như những người đưa đường vĩ đại giúp giải thoát bạn và tất cả chúng sinh khỏi những thống khổ của vòng sinh tử và các cõi thấp, đưa dẫn bạn tới cõi thuần tịnh của đại lạc. Hãy quán tưởng theo văn bản, bắt đầu từ câu:
Thân xác phàm 318 của con trở thành sắc tướng của Thánh Nữ Kim Cang Du Già (Vajra Yoginī)... xuống đến câu:...Ba con mắt Ngài ngước nhìn lên bầu trời.
Rồi từ câu: Đường khí mạch trung ương chạy dọc suốt giữa thân Ngài... cho tới câu:... Thân Ngài thật toàn mỹ với tất cả các tướng chính và phụ... Sau đó, với tất cả niềm tin và kỳ vọng, toàn thân bạn như bừng bừng lên và nước mắt tuôn rơi, hãy lập lại càng nhiều lần càng tốt lời khẩn nguyện sau đây:
Đức Thế Tôn, Như Lai, A La Hán, Đức Phật Toàn Giác, đấng Hộ Phật A Di Đà, con xin quy mạng lễ. Con xin cúng dường lên Ngài. Con xin nương tựa nơi Ngài.
Rồi hãy tụng đọc đầy đủ bài cầu nguyện kế tiếp ba lần, bắt đầu từ câu: Emaho (Kỳ diệu thay)! Nơi chốn này, cõi Sắc Cứu Cánh Thiên viên mãn đã hiển hiện tự nhiên... cho đến câu: ... Nguyện cho con nắm giữ được đại-phương quảng-trí của Pháp Thân!
Kế đó hãy tụng ba lần phẩm cuối cùng, bắt đầu từ câu: Với lòng quy ngưỡng trong tâm...
Cuối cùng, tụng ba lần dòng cuối cùng sau đây: ... Nguyện cho con an trụ trong đại - phương quảng - trí của Pháp Thân!
Trong khi quý vị cầu nguyện, hãy chỉ chú tâm vào chữ hrīh, là biểu tượng của Giác tính của bạn, và cầu nguyện với lòng quy ngưỡng hướng về bậc Thầy và đấng Hộ Phật của bạn, tức đức Phật A Di Đà, tới nỗi đôi mắt bạn trở nên đẫm lệ.
Sau đây là đến phần nghi thức phóng xuất thần thức. Khi bạn tụng “Hrīh, Hrīh,” năm lần từ phía sau vòm miệng, chữ hrīh màu đỏ, tượng trưng cho Giác tính của bạn, được giọt tinh lực (bindu of energy) rung động màu xanh lá cây nhạt 321 nâng bổng lên, càng lúc càng được nâng bổng lên cao và luôn luôn rung động (tất cả đều nằm ở giữa đường khí mạch trung ương). Khi giọt tinh lực hiện ra ở cửa Phạm Thiên trên đỉnh đầu bạn, hãy hô lớn “Hik!” và quán tưởng giọt tinh lực ấy phóng vút lên, giống như một mũi tên được tên khổng lồ bắn đi, và tan hòa vào trái tim đức Phật A Di Đà.
Hãy thực hành nghi thức trên bảy lần, hai mươi mốt lần hoặc nhiều hơn nữa, trong khi quán tưởng chữ hrīh trong tim bạn và lập lại tiếng hô “Hik!” như trước đó. Trong các truyền thống khác, người ta hô “Hik!” khi phóng tâm thức lên và hô “Ka” khi thả cho thần thức rơi trở xuống, nhưng theo truyền thống này chúng ta không hô “Ka” khi thả cho thần thức rơi trở xuống.
Sau đó, hãy hành trì nghi thức như trên càng nhiều lần càng tốt, số lần nhiều ít tùy nghi sao cho phù hợp với bạn, và bắt đầu với câu: Đức Thế Tôn... Đấng Hộ Phật A Di Đà... Sau đó tụng những lời cầu nguyện và thực hành kỹ thuật phóng xuất tâm thức và những nghi thức còn lại. Rồi một lần nữa, hãy tụng ba hay bảy lần câu: Đức Thế Tôn... Đấng Hộ Phật A Di Đà... xuống đến câu: ...Con xin cúng dường lên Ngài. Con xin nương tựa nơi Ngài.
Hãy thực hành theo nghi thức này với lời khẩn nguyện chuyển di cô đọng được gọi là Cắm Cọng Cỏ, được vị tôn giả khai quật tàng kinh Nyi da Sangye 322 biên soạn và trao truyền qua dòng truyền thừa của Tu viện Dzogchen: Đức Phật A Di Đà, con xin quy mạng lễ trước Pháp tòa; Đức Liên Hoa Sinh xứ Oddiyāna, con khẩn cầu Ngài; Bản sư Từ ái, xin che chở con bằng lòng bi mẫn của Ngài!
Chư vị Bản Sư và Tôn Sư thuộc dòng truyền thừa, xin dẫn dắt con trên con đường tu.
Xin gia hộ cho con để con có thể thành tựu con đường chuyển di thâm diệu.
Xin gia hộ cho con để con đường chuyển di thần tốc này có thể đưa con tới cõi tịnh độ.
Xin gia hộ cho con và những chúng sinh khác để ngay khi cuộc đời này chấm dứt,
Xin cho chúng con được vãng sinh nơi cõi Cực Lạc!
Emaho! Đức Phật A Di Đà, đấng Hộ pháp Phật kỳ Diệu nhất, Đức Quán Thế Âm Đại Từ Đại Bi và Đức Kim Cương Thủ đầy uy lực.Vì lợi lạc của bản thân cùng những chúng sinh khác, con xin chí tâm chí thành khẩn cầu chư vị:
Xin gia hộ cho chúng con để chúng con có thể thành tựu con đường chuyển di thâm diệu.
Xin gia hộ cho chúng con để chúng con có thể thành tựu. Xin gia hộ cho chúng con để vào giây phút lìa đời. Tâm thức của chúng con sẽ được chuyển di tới Pháp Giới Cực Lạc!
Hãy tụng đọc lời cầu nguyện này ba lần, lập lại hai dòng sau cùng thêm ba lần nữa. Rồi hãy thực hành kỹ thuật phóng xuất tâm thức như đã được giảng dạy trước đó.
Khi quý vị đã hoàn tất pháp môn chuyển di nhiều lần và đến lúc kết thúc thời khóa, hãy niêm phong pháp môn lại trong đại-phương quảng-trí của năm Thân (expanse of the five kāyas) bằng cách hô lên tiếng“P’et” năm lần. Sau đó, hãy an trú trong trạng thái an tịch tự nhiên không tạo tác bất kỳ điều gì.
Sau đó, tất cả những vị Thầy của dòng truyền thừa trên đỉnh đầu quý vị sẽ tan hòa vào ba vị thượng thủ (A Di Đà, Quán Thế Âm và Kim Cương Thủ); rồi hai vị Bồ Tát Quán Thế Âm và Kim Cương Thủ tan hòa vào đức Phật A Di Đà; và đức Phật A Di Đà (Vô Lượng Quang) tan thành ánh sáng và sau đó tan hòa vào bạn. Hãy quán tưởng chính bạn ngay lập tức hóa hiện thành ra vị Hộ Phật Vô Lượng Thọ (Amitayus) trong sắc màu đỏ, với một khuôn mặt, hai tay và hai chân. Ngài tọa thiền trong tư thế Kim Cương (Vajra). Hai tay ngài bắt ấn thiền định, cầm một bình bát sinh lực tràn đầy cam lồ của trí tuệ bất tử và trên đỉnh bình bát có một nhánh cây như ý. Ngài mang trên mình mười ba bảo vật trang sức của Báo Thân.
Hãy tụng câu “Om Amarani Jīvantiye Svāhā” (minh chú của đức A Di Đà Vô Lượng Thọ) một trăm lần, sau đó hãy tụng đà ra ni trường thọ và những câu minh chú khác. Điều này ngăn ngừa giúp cho thọ mạng của quý vị không bị ảnh hưởng bởi pháp thực hành chuyển di và nhờ vào chân lý của duyên tương khởi này, sẽ tẩy trừ bất kỳ chướng ngại nào có thể đe dọa đến thọ mạng của bạn. Phần hành trì minh chú và quán tưởng Vô Lượng Thọ này không cần thiết khi bạn thực hành pháp chuyển di tâm thức cho một người hấp hối hay cho người đã chết, và cũng không cần thiết khi bạn đang thực sự thực hành pháp chuyển di cho chính bản thân bạn vào lúc lìa đời.
Những dấu hiệu thành tựu trong pháp chuyển di được mô tả trong bản chánh văn như sau:
Đầu đau nhức; một giọt huyết thanh (serum) lóng lánh như sương xuất hiện; Có thể từ từ cắm sâu một cọng cỏ (vào trên đỉnh đầu).
Hãy miên mật hành trì cho đến khi những dấu hiệu này xuất hiện.
Để kết thúc, hãy hồi hướng công đức và trì tụng Bài Nguyện Vãng Sinh Tây Phương Cực Lạc và những bài nguyện khác. Khác với những pháp môn hành trì khác của hai giai đoạn phát triển và hoàn thiện, những giáo huấn về con đường thâm diệu của pháp chuyển di không đòi hỏi thời gian tu tập lâu dài. Những dấu hiệu thành tựu nhất định sẽ xảy đến sau một tuần lễ thực tập miên mật. Đó là điều tại sao phương pháp này được gọi là “Giáo Pháp đem lại Phật Quả phi thiền định,” và đó là điều tại sao mọi người nên lấy con đường tắt vô song này làm pháp môn hành trì hằng ngày.
Không thể tự lo cho mình, com lảm nhảm lung tung với người quá cố.
Không tu hành, nhưng con trải rộng vòm giáo pháp vô tận.
Xin từ bi gia hộ cho con và những kẻ gian xảo như con. Để chúng con có thể tinh tấn, hành trì miên mật.
Những giáo huấn dưới đây, gồm mười hai đề mục chính yếu, với sáu đề mục đầu tiên liên quan tới những pháp tu dự bị thông thường bên ngoài:
1. Sử dụng đời người cho những điều thật sự quan trọng bằng cách quán chiếu về những điều kiện tự do và những thuận duyên rất khó tìm.
2. Tự thôi thúc mình phải tinh tấn bằng cách quán chiếu về lẽ vô thường của cuộc đời.
3. Phát khởi quyết tâm cầu tìm giải thoát cùng với tâm từ bi nhờ vào việc nhận biết ra được bản chấtcủa toàn bộ vòng sinh tử luân hồi là đau khổ.
4. Từ bỏ những điều xấu ác và noi theo những điều tốt lành trong bất kỳ việc gì nhờ vào những hiểu biếtrốt ráo về những hậu quả của việc làm của mình.
5. Càng ngày càng thiết tha với kết quả thành tựu bằng cách nhớ đến những lợi lạc của giải thoát.
6. Bằng cách theo chân một vị Thầy tâm linh chân chính, tự rèn luyện bản thân để tích cực theo gương những chứng nghiệm và thiện hạnh của Ngài.
Năm đề mục kế tiếp bao gồm những pháp tu dự bị phi thường hay những chuẩn bị bên trong:
1. Đặt ý nguyện tìm cầu giải thoát trên nền tảng của quy y Tam Bảo.
2. Thiết lập một cái khung vững chắc cho vô lượng công hạnh của một vị Bồ Tát bằng cách khơi dậy tâm Bồ Đề tối thượng.
3. Sám hối những ác hạnh và những vi phạm giới hạnh, là gốc rễ của tất cả những gì bất thiện, và nương vào bốn lực tịnh hóa nghiệp, thực hành thiền định và trì tụng về đức Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva).
4. Tích lũy công đức và trí tuệ, là suối nguồn của tất cả những tiến triển tâm linh, bằng cách cúng dường những cõi Tịnh Độ của ba Thân (kāyas) trong hình thức của một mạn đà la.
5. Tự khơi dậy tuệ giác tối thượng trong bản thân bằng cách khẩn nguyện Bản Sư, là suối nguồn của mọi năng lực gia trì.
Cuối cùng, trong trường hợp cái chết đột ngột xảy đến trước khi bạn có thể hoàn tất con đường tu, hãy nương vào pháp chuyển di tâm thức để nối kết với các cõi tịnh độ, dẫn đến Phật Quả mà không cần thiền định.
Những pháp tu dự bị này cũng có thể được trình bày như sau:
(1) Nhờ vào bốn tư tưởng quán chiếu chuyển tâm giúp bạn quay lưng lại với cõi sinh tử luân hồi và nhờ vào những hiểu biết về lợi ích của giải thoát, bạn có thể làm sống dậy lòng cương quyết tìm cầu giải thoát, và chính lòng cương quyết chí thành này sẽ mở ra một lối vào cho toàn bộ con đường tu.
(2) Nhờ theo chân một vị Thầy tâm linh, suối nguồn của mọi phẩm hạnh tốt lành, bạn sẽ tạo được những thuận duyên cho con đường tu.
(3) Nhờ quy y Tam Bảo làm nền tảng, và nhờ khơi dậy được tâm Bồ Đề, tu tập hành trì theo sáu pháp toàn thiện siêu việt (lục độ ba la mật) mà bạn sẽ được dẫn dắt đi trên con đường chánh đạo của chư Phật Toàn Trí Toàn Giác. . .”
Sau buổi Pháp thoại, hàng nghìn người xếp hàng dâng lễ phẩm cúng dường, và thụ quán đỉnh Bạch Văn Thù, chúc Phúc Cát tường trong niềm hoan hỷ, pháp lạc vô biên.
Công Viên Hỏa Táng Tháp Long Thọ được đầu tư và xây dựng tại nghĩa trang chính sách Huyện Củ Chi - ấp Cây Trắc, xã Phú Hòa Đông, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.
Trung tâm Hỏa táng Long Thọ, được sở hữu độc quyền hệ thống Super power III của Mỹ với công nghệ hỏa táng tân tiến nhất hiện nay. Với đặc điểm không khói, không ùi, không gây ô nhiễm môi trường và tiết kiệm năng lượng, khu Hỏa táng Long Thọ vừa đảm bảo an toàn môi sinh tại các khu vựa lân cận, đòng thời rút ngắn đáng kể thời gian hỏa táng. Khách hàng có thể trực tiếp quan sát từ khu vực cách ly toàn bộ diễn biến của quá trình thực hiện hỏa táng để kiểm nghiệm công nghệ cũng như được trực tiếp theo dõi việc hỏa táng di hài người thân.
Khu vực Tang lễ với 10 phòng hành lễ trang trọng, tôn nghiêm, trang bị hệ thống âm thanh, ánh sáng cùng màn hình LED và hệ thống camera tường thuật diễn biến buổi lễ theo tiêu chuẩn châu Âu, giúp gia đình chu toàn buổi lễ tiễn đưa vầy đầy đủ nghi thức, trọn vẹn và thanh thản cho chuyến hành trình đến cõi lạc của thân quyến.
Khu vực phòng hành lễ của Hỏa táng Long Thọ được thiết kế sang trọng, mang nhiều nét đặc sắc của văn hóa Việt Nam, từ họa tiết chim hạc của trống đồng đến hoa sen điêu khác chạm trỗ tỉ mỉ tinh tế trên tường. các thiết kế tại Hỏa táng Long Thọ luôn đề cao việc gìn giữ văn hóa dân tộc Việt, thanh tịnh, trang nhã và đảm bảo sự sang trọng cho buổi lễ tiễn đưa người quá cố về với cõi vĩnh hằng.
Vân Tuyền
http://m.phatgiao.org.vn/quoc-te/201...-Tp-HCM-28793/
-
CÁI CHẾT CỦA MỘT HÀNH GIẢ
Những Ngày Cuối cùng của Thân phụ Thầy Khenpo Gawang
Cha tôi, Dechen Chogyal, đã mất ngày 15 tháng Hai, 2011. Tháng Mười Hai năm 2010, cha tôi ở trong ẩn thất cùng mẹ tôi và chị tôi. Vào lúc đó, ông rất yếu và nói ông cảm thấy cuộc đời ông sắp chấm dứt. Mặc dù bắt đầu thấy khá hơn, từ địa điểm nhập thất ông di chuyển tới lều chăn trâu yak của gia đình ở trên núi cao.
Ông nói với người con trai trưởng là muốn gia đình chuẩn bị khắc vào đá cho ông ba quyển Kinh là Thời Hiền kiếp, Kinh Đại Giải thoát, và Kinh Vô Lượng Thọ. Con trai ông đã tiếp xúc với một tu viện để xin khắc ba quyển Kinh này và các viên đá được đặt ở một vị trí vô cùng đặc biệt mà Patrul Rinpoche đã gia hộ.
Sau đó cha tôi bắt đầu làm và nung những pho tượng nhỏ từ đất sét làm đồ gốm ở địa phương, người Tây Tạng gọi chúng là tsatsa. Thường thì cha tôi ngủ nhiều hoặc nghỉ ngơi trên giường trong khi tụng thần chú và quay kinh luân (bánh xe cầu nguyện). Bây giờ ông thức dậy lúc 5,30 giờ sáng và làm các pho tượng nhỏ suốt ngày. Từ cuối tháng Mười hai cho tới đầu tháng Giêng, cha tôi làm những pho tượng nhỏ này. Trong khi làm tượng, với vẻ vô tư, vui đùa, ông nói với những người láng giềng và các vị khách là ông sắp chết.
Vào đầu tháng Giêng, ông bắt đầu ăn những gì ông muốn. Ông yêu cầu cháu trai, cháu gái và cũng là những người hàng xóm của ông mang sữa và sữa chua lại cho ông. Họ sợ những món này không tốt cho ông nhưng ông nói: “Bây giờ sức khỏe và đời ta sắp hết, vì thế thật tốt khi ăn những gì ta muốn và hãy vui vẻ lên.” Cha tôi ngâm mình trong những con suối nóng ở địa phương, điều đó khiến ông rất yếu. Theo yêu cầu của những người khác trong gia đình, ông di chuyển về nhà của trưởng nam với hy vọng là anh ấy sẽ tìm được cách chữa trị.
Cha tôi biết là chẳng bao lâu nữa ông sẽ chết. Tôi gọi điện thoại trò chuyện với ông vào ngày 13 tháng Hai, khuyên ông đi bệnh viện. Ông nói: “Không, không, ba không muốn đi bệnh viện. Ba đang hỏi ý kiến một bác sĩ địa phương và đang bàn về thuốc của ông ấy. Nếu thuốc này chữa được thì nó sẽ giúp ba trường thọ và nếu không thì đời ba sẽ chấm dứt.” Khi bác sĩ đến, ông cho thuốc uống trong ba ngày. Sau này anh tôi kể lại là ba nói: “Bây giờ ba còn ba ngày để sống.”
Anh tôi nói lúc đầu khi ông đến thị trấn, một vài người trong gia đình tỏ ý muốn mua thuốc cho ông. Ông nhắc họ những lời của Đạo sư vĩ đại Liên Hoa Sanh, là bậc Thầy mà ông vô cùng kính ngưỡng, rằng loại thuốc tốt lành được dùng vào lúc chấm dứt cuộc đời là thuốc độc.
Anh tôi nói với tôi là tối ngày 13, ông mời tất cả những người thân thuộc và con cháu ở gần đó đến ăn tối. Ông nói: “Ta phải ăn uống với nhau và có một thời gian tuyệt diệu.” Sau khi họ ăn uống, ông nói: “Ta phải ngủ với nhau đêm nay.” Gia đình cố gắng chuyển giường của ông vào một góc yên tĩnh nhưng ông nói: “Không, tôi không muốn ở trong góc, tôi muốn ở giữa phòng. Ta sẽ cùng ngủ ở đây đêm nay.” Ông rất hài lòng về bữa ăn và yêu cầu giường của ông được để lại đúng chỗ trong phòng.
Tôi gọi điện thoại vào sáng hôm sau. Thoạt đầu cha tôi không muốn nói chuyện với tôi bởi ông lo là tôi sẽ yêu cầu ông đi bệnh viện. Khi tôi nói: “Không, con không muốn nói ba đi bệnh viện,” thì ông nói chuyện với tôi thật vui vẻ.
Chúng tôi đã có một cuộc trò chuyện tuyệt vời. Ông nói là ông không hối tiếc điều gì về cuộc đời của ông và không tham luyến bất kỳ điều gì. Ông nói: “Mọi điều ba ước muốn đã hoàn thành. Ba đã có thể thực hiện một chuyến hành hương vô cùng tốt đẹp đến mọi thánh địa. Ở mỗi nơi, ba đã cầu nguyện và hồi hướng công đức cho toàn thể chúng sinh. Ba không chỉ nghĩ đến bản thân mà còn nghĩ đến tất cả chúng sinh. Bây giờ, ba không có bất kỳ vấn đề gì. Ba không hối tiếc.”
Kế đó ông yêu cầu tôi là nếu có thể, hãy chăm sóc mẹ tôi chừng nào bà còn sống và tôi hứa là sẽ thực hiện điều đó. Tôi nói với ông: “Ba đã thực hành Pháp cả đời và thật là tốt khi ba không hối tiếc hay bám luyến.” Ông lại nói: “Ba không có bất kỳ hối tiếc hay dính mắc nào.”
Đây là cuộc trò chuyện cuối cùng của chúng tôi. Tôi nghĩ: “Tốt, ông vẫn ổn.” Tôi thoáng buồn, nhưng điều ấy có thể chịu đựng được. Tôi biết là ông thanh thản và tỉnh thức, và đây là một cách chết tốt lành.
Hôm trước ngày cha tôi mất, ông vẫn còn rất mạnh mẽ, trò chuyện và thanh thản. Ông không lo lắng hay sợ hãi về cái chết và không cảm thấy đau đớn gì. Khi có người đến thăm, ông cho họ lời khuyên và một vài giáo lý. Ông nói với họ: “Hãy nhìn vào tình cảnh của quý vị thật cẩn trọng và làm những gì quý vị cần làm để duy trì đời sống của gia đình và bản thân. Khi chết, quý vị không thể mang theo mình bất kỳ điều gì ngoại trừ Giáo pháp và trái tim cùng tâm thức tốt lành của quý vị.”
Ông nói: “Điều vô cùng quan trọng là phải luôn luôn hồi hướng đức hạnh cho tất cảchúng sinh.” Gần túp lều chăn trâu yak là một ngọn núi lớn tên là Núi Garuda (Núi Kim Xí Điểu) mà ông lấy làm ví dụ. Ông nói chúng ta cần tạo lập đức hạnh lớn gấp đôi Núi Garuda. Ông nói: “Không nên làm bất kỳ ác hạnh nào, cho dù vô cùng bé nhỏ, chẳng hạn như những hành vi quấy rầy tâm thức của người khác. Điều quan trọng nhất là luôn luôn có một trái tim tốt lành.” Ông lại nói: “Tôi không tham luyến hay hối tiếc. Đừng lo lắng cho tôi.”
Rồi từ từ, trong tiến trình chết, ông không nói được nữa. Ông vẫn tỉnh thức và thư thái, với tâm trí minh mẫn. Khi những người khách đến, chẳng hạn như em trai và cháu tôi, họ có thể thấy là ông hiểu và nhận ra họ. Ông chạm nhẹ vào tim và chắp tay trong cử chỉ cầu nguyện như thầm nói những lời khuyênnhủ cuối cùng.
Trong toàn bộ tiến trình, ông không hề đau đớn hay rối loạn. Ông rất tinh tế và minh mẫn, ngay cả trong tiến trình chết. Một tu sĩ là cháu trai của ông đứng ở bên cạnh và đọc Giải thoát Nhờ Sự Nghe trong Bardo hay Bardo Tödrol (Tử Thư Tây Tạng). Rõ ràng là ông hiểu những gì được đọc cho ông. Ông nói: “Tôi hiểu.” Hơi thở của ông ngắn dần và cuối cùng ngừng lại. Gia đình đã mô tả điều đó giống như một ngọn đèn bơ vụt tắt khi giọt dầu cuối cùng đã cạn.
Vài tuần trước tôi đã gọi cho chị tôi; chị đang nhập thất trọn đời trên núi cao. Chị có một điện thoại di động và chúng tôi đã lập kế hoạch để tôi gọi điện thoại. Vào lúc đó chúng tôi có một cuộc trò chuyện dài về cha tôi. Tôi nói là theo tôi nghĩ, cha cần nhận một vài chỉ dẫn và hiện có một vài vị Thầy vô cùng vĩ đại đang nhập thất trọn đời ở gần đó và các ngài là bạn của ông.
Chị tôi nói: “Ba không cần nhận bất kỳ giáo lý hay chỉ dẫn nào. Ông đã nhận được tất cả những giáo lý đó ở trong tù, và đối ông như thế là đủ.” Mặc dù không đọc được, ông được nhiều vị Thầy vĩ đại thăm viếng trong nhiều năm và đọc cho ông, và ông hiểu biết nhiều.
Cha tôi trải qua nhiều năm trong một nhà tù Trung quốc vào đầu thập niên 1960. Vào thời gian đó ông đã nhận được những giáo lý tuyệt hảo từ các Lạt ma vĩ đại cùng bị giam giữ với ông. Ông nhắc đi nhắc lại lời dạy cốt tủy của các vị Thầy là phải thấy tình cảnh tệ hại ở Tây Tạng không chỉ là lỗi lầm của người Trung quốc mà còn bởi ác nghiệp của chúng ta được tiêu trừ. Các ngài nói: “Ta không nên cảm thấy sân hận, thù ghét và làm điều xấu ác đối với người Trung quốc. Thay vào đó, trước hết ta cần phát khởi lòng bi mẫn và hồi hướng mọi đức hạnh của ta cho họ.”
Tôi xin chia sẻ một câu chuyện mà ông đã kể cho tôi về thời gian ông ở trong tù. Khi ấy ông ngủ cùng phòng với vị Thầy chính của ông là Lạt ma Ngasung. Một người bạn của cha tôi ở phòng bên cạnh. Nửa đêm, ông ta gọi lớn: “Ngasung, Ngasung, tôi sắp chết! Tôi nên làm gì?” Lạt ma Ngasung nói vọng qua tường: “A Di Đà ở phương bắc và màu đỏ.” Người bạn của ông gọi lại: “Phải, phải, đúng thế!” Đến sáng thì ông ta chết.
Như vậy bạn thấy là cha tôi đã nhận được những giáo lý tuyệt vời trong nhà tù của Trung quốc và ông đã gặp các vị Thầy vĩ đại. Cha tôi là một người chăn giữ trâu yak và mù chữ nhưng ông đã hiến mình cho Giáo pháp. Ông không đọc được nhưng có thể trì tụng nhiều thần chú như thần chú Mani và Kim Cương Đạo sư. Ông luôn luôn tụng những bài hồi hướng công đức và nguyện ước tất cả chúng sinhđều được giải thoát, không đau khổ và được hạnh phúc. Ông là người rất tốt lành.
Trong cuộc trò chuyện đó với chị tôi bằng điện thoại di động, chị nói rằng cha tôi đang sống ở túp lều của người chăn trâu yak và làm những pho tượng nhỏ. Sức khỏe của ông đã khá hơn và ông thật tuyệt vời với rất nhiều phẩm tính tốt lành. Chị nói về thời gian ông sống trong ẩn thất với chị. Ở đó có một vài con dê bé xíu bị bỏ rơi vì mẹ của chúng đã chết. Chị nói ông xúc động đến nỗi bật khóc và chị cảm nhận sâu xa trái tim và lòng bi mẫn tốt lành của ông.
Trong suốt thời gian này mẹ tôi ở trong ẩn thất cùng với chị tôi. Khi cha tôi bắt đầu yếu, mẹ tôi quyết định tụng một tỉ thần chú Mani để làm lợi lạc cho ông. Khi có dấu hiệu rõ ràng là ông sắp mất, một người em khác đến ẩn thất và hỏi mẹ tôi có muốn đến thị trấn thăm cha tôi không.
Bằng trí tuệ, mẹ tôi nói: “Mẹ không cần phải đi. Nếu đi thì mẹ phải ở đó một thời gian dài và không thể tụng thần chú như ở đây. Không ai sống mà thoát được tuổi già dẫn đến cái chết và sự thực là như thế đấy. Vì thế mẹ nên ở trong ẩn thất và tụng thần chú Mani.”
Mẹ tôi không bối rối hay khóc lóc mà vẫn tiếp tục thực hành và trì tụng thần chú Mani. Chị tôi, một sư cônhập thất trọn đời, nói: “Bây giờ chính là lúc để ông ra đi và ông đã sẵn sàng. Cha mẹ già có thể chết trước con cái là điều đúng đắn. Nếu con cái chết trước mà cha mẹ đã già yếu, cha mẹ phải ở lại với khổ đau ghê gớm của tuổi già.”
Tất cả gia đình mở rộng và bạn hữu của tôi cảm thấy cha tôi đã chết đúng lúc với thái độ và cái nhìn đúng đắn. Ông có niềm tin to lớn ở Giáo pháp và không hối tiếc về cuộc đời mình. Ông không dính mắc vào bất kỳ điều gì và như thế thì rất tốt, bởi do bám luyến vào con người và mọi sự nên nhiều người thấy chết vô cùng khó khăn.
Cha tôi biết là mình sắp chết. Tâm ông rất minh mẫn, ông thanh thản và trò chuyện với từng người trong gia đình, cho họ lời khuyên tâm huyết. Gần đến lúc ra đi, trong khi vẫn còn nói được, ông lập đi lập lại: “Tôi sắp chết, vì thế cầu mong tôi nhận lãnh đau khổ của tất cả chúng sinh. Cầu mong tôi nhận vào mình bệnh tật, đau khổ và mọi vấn đề bởi tôi sắp chết.” Đối với những người có mặt ở đó thì rõ ràng là ngay cả khi ông không còn nói được nữa, ông vẫn cầu nguyện và giữ vững nguyện ước này.
Nhiều thế hệ trong gia đình tôi là các hành giả thuộc Dòng truyền thừa Nyingma. Bác tôi, người đã mất hai năm trước, lúc nào cũng có vẻ như đang thiền định. Bác có một năng lực nhờ việc trì tụng thần chú– khi có người bị thương, bác tụng một thần chú để có thể giúp đỡ họ. Tôi nhớ lại khi còn nhỏ, chúng tôi quấy rầy bác khi bác thiền định. Chúng tôi ẩn núp và gọi bác khi bác nỗ lực tập trung. Sau khi bác mất, thân thể bác ở trong tư thế thiền định ba ngày.
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự. Cả hai người đều mù chữ nhưng thực hành của các ngài thật vững chắc và mãnh liệt.
Khenpo Gawang Rinpoche thuật lại. Candia Ludy và Ellie Maclin hiệu đính sơ lược.
Ảnh : Cha, Mẹ, Khenpo Gawang, và Chị (Từ trái qua)
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...63025080_n.jpg
https://www.facebook.com/pg/Mandala-...5702081/posts/
-
" CHÚ NGUYỆN VÀO NƯỚC ĐỂ TRỊ BỆNH "
Chữa bệnh bằng nước đã được chú nguyện là một việc làm thông thường ở Tây Tạng, nơi các Lama và các hành giảthiền định thường chữa bệnh bằng cách chú nguyện vào nước và cho bệnh nhân uống. Pháp thực hành này gồm có việc thiền định và trì tụng mật chú Quán Thế Âm, Phật Dược Sư, Tara, hay các vị Bổn tôn khác. Sau đó, nước đã chú nguyệnsẽ được uống nhiều lần trong ngày. Việc này đặc biệt rất tốt cho trẻ con và người già, là những người thường không thể chú tâm hay thấy khó khăn trong việc quán tưởng và trì tụng mật chú. Đây có lẽ cũng là cách duy nhất để chữa bệnh cho những người mà bạn không thể gặp gỡ giao tiếp.
Bạn có thể chú nguyện vào nước và sử dụng để chữa bệnh cho chính mình hay người khác. Hãy nhớ lại câu chuyện về ông Lee ở Singapore. Ông ta đã khỏi bệnh ung thư dạ dày bằng cách trì tụng bài Hai mươi mốt lời xưng tán Đức Tara mỗi ngày và uống nước đã được chú nguyện.
Người ta thường trì tụng mật chú để tạo ra năng lực trong một chất liệu và rồi dùng chất ấy để chữa bệnh, đặc biệt là những bệnh về xương. Cũng có thể thiền định và trì tụng mật chú rồi chú nguyện vào bột hay kem, rồi thoa ngoài da. Các mật chú không chỉ có năng lựctrong việc chữa bệnh cơ thể mà còn tịnh hóa tâm, và đây là điểm chính. Mật chúcó năng lực tịnh hóa nhân của bệnh và tất cả các vấn đề khác nữa: các hành vivà suy nghĩ bất thiện, cũng như các chủng tử đã để lại trong tâm. Thật ra, việc uống nước đã chú nguyện chính là để chữa lành những căn bệnh nội tâmlâu đời này.
Để chú nguyện vào nước, bạn hãy đặt một lọ chứa nước lên bàn thờ hay trước mặt bạn. Hãy quán tưởng rằng, nhờ vào lòng bi mẫn của đấng giác ngộ mà bạn đã quán tưởng, những dòng sữa cam lồtừ tim hay bàn tay vị ấy chảy vào trong nước. Hãy trì tụng mật chú của vị bổn tôn đó càng nhiều càng tốt, rồi thổi vào nước. Khi bạn trì tụng càng nhiều mật chú, lời nói của bạn càng có nhiều năng lực, và hơi thở của bạn càng có nhiều sức chú nguyện nhiều hơn. Hơi thở của bạn sẽ có năng lực chữa bệnh nhờ vào năng lực của mật chú; năng lực chữa bệnh đến từ năng lực của tâm thiêng liêng của Đức Phật yêu thương bi mẫn đối với tất cả chúng sinh hữu tình. Mặc dù Chư Phật có vô lượng phẩm tính, nhưng các ngài dẫn dắt chúng ta chủ yếu là vì lòng bi mẫn.
Mỗi một nguyên tử nước đã được chú nguyện đều có năng lực chữa bệnh không thể nghĩ bàn, và không chỉ chữa lành bệnh tật cơ thể, vốn chỉ là một vấn đề, mà còn giải quyết được nhiều vấn đề bất ổn khác.
Pháp thiền định Quán Thế Âm chữa bệnh
Khi thực hành pháp tu tập này, bạn nên có một động cơ hoàn toàn nhất tâmnghĩ đến các chúng sinh khác, hết lòngbi mẫn, xót thương sự đau khổ của các chúng sinh khác đến mức không thể chịu nổi. Do năng lực mãnh liệt của mật chú Quán Thế Âm nên ngay cả khi pháp này được thực hiện với một động cơ bất tịnh thì cũng vẫn có lợi ích, bệnh tật vẫn sẽ được chữa lành; vì thế, không có gì phải nghi ngờ về kết quả của thực hànhnày một khi nó được thực hiện với thiện tâm chỉ biết quan tâm chăm lo cho chúng sinh khác.
Bất kỳ ai đã từng nhập thất ẩn tu phápQuán Thế Âm, hay những người trì tụng mật chú Quán Thế Âm hàng ngàn biến mỗi ngày đều có thể giúp chữa lành những bệnh trầm trọng không thể chữa được bằng các phương pháp thông thường.
Bạn hãy quán tưởng chính bản thânmình là Đức Thiên Thủ Quán Thế Âm, hoặc quán tưởng Đức Quán Thế Âm ở ngay phía trên bình chứa nước. Nước cam lồ chảy vào bình nước từ tay phải của Ngài đang bắt ấn ban các thực chứng tối thượng.
Trong khi quán tưởng như vậy, bạn trì tụng mật chú Quán Thế Âm bản dài (hay bản ngắn) càng nhiều lần càng tốt. Cứ mỗi lần trì tụng xong một chuỗi hạt, bạn lại thổi vào nước nhiều lần. Hãy nghĩ rằng nước đã được chuyển hóathành nước cam lồ với năng lực mãnh liệt, có thể ngay tức thời an định được bệnh và nhân của bệnh. Nếu bạn tụng càng nhiều biến, thì nước được chú nguyện đó sẽ càng có nhiều năng lực và hiệu quả hơn.
Mật chú Quán thế âm – Bản dài
NAMO RATNA TRAYAYA / NAMAH ARYA JNANA SAGARA / VAIROCHANA / VYUHA RAJAYA / TATHAGATAYA / ARHATE / SAMYAKSAM BUDDHAYA / NAMAH SARVA TATHAGATEBYAH ARADBHYAH / SAMYAKSAM BUDDHEBHYAH / NAMAH ARYA AVALOKITESHVARAYA / BODDHISATTVAYA / MAHASATTVAYA / MAHAKARUNIKAYA / TADYATHA / OM / DHARA DHARA / DHIRI DHIRI / DHURU DHURU / ITTI VATTE / CHALE CHALE / PRACHALE PRACHALE / KUSUME / KUSUME VARE / ILI MILI / CITI JVALAM / APANAYE SVAHA.
Mật chú Quán Thế Âm – Bản ngắn
OM MANI PADME HUM
Vào cuối thời khóa trì tụng mật chú, bạn hãy đọc lời khẩn cầu tha thiết lên Đức Quán Thế Âm:
Con xin đảnh lễ Đức Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát, nương nhờ vào lòng bi mẫntột cùng và trí thấu hiểu trọn vẹn của Ngài, cầu mong sao bất kỳ ai uống nước này đều sẽ chữa được bệnh cũng như sự đau khổ của họ, cầu mong sao tâm của họ được tịnh hóa.
Con khẩn xin Đức Quán Thế Âm tan nhập vào nước đã chú nguyện này, và cầu mong sao … … (đọc tên người bệnh) chỉ cần uống nước này vào thì tâm vị kỷsẽ được chuyển hóa thành Bồ đề tâmthanh tịnh, cội nguồn của tất cả hạnh phúc và thành tựu cho tất cả chúng sinhhữu tình. Cầu mong sao họ tự quên mình để phụng sự người khác với tâm từ bi này.
Cầu mong sao lòng sân hận của họ được chuyển hóa thành đức nhẫn nhục. Cầu mong sao sự bất mãn chuyển hóathành sự mãn nguyện. Cầu mong sao vô minh được chuyển hóa thành trí tuệnhận biết nhân của hạnh phúc và nhân của khổ đau, và trí tuệ nhận biết bản chất tuyệt đối, tức tánh Không, của cái “tôi” và của mọi sự đang hiện hữu. Cầu mong sao tâm của họ được chuyển hóathành tâm giác ngộ viên mãn.
Cầu mong sao thân, khẩu, ý của họ có năng lực mãnh liệt để dẫn dắt, làm lợi lạc, làm thỏa mãn mọi ước muốn của tất cả chúng sinh hữu tình.
Đức Quán Thế Âm cực kỳ hoan hỷ nghe những lời khẩn cầu chân thành của bạn, Ngài tan vào ánh sáng trắng và tan nhập vào nước. Bạn hãy tưởng tượng nước tăng thêm nhiều lên và có năng lực cực kỳ mãnh liệt, mãnh liệt đến nỗi bất cứ ai uống vào đều sẽ tịnh hóa được mọi bệnh tật và nhân của bệnh tật, mọi nghiệp chướng tội lỗi. Hãy nghĩ rằng nước được chú nguyện đó lúc này đã có năng lực để hiện thực hóa những điều mà bạn cầu xin Đức Quán Thế Âm.
( Đức Lama Zopa Rinpoche
Điều trị bệnh tận gốc – Năng lực của Tâm bi mẫn)
https://www.facebook.com/pg/Mandala-...5702081/posts/
-
TÁI SANH NƠI THẾ GIỚI CỰC LẠC
- Drikung Chetsang Rinpoche giảng
- Clips Đức KARMAPA 17 tụng Bài Nguyện Cầu Sanh cõi Dewachen (Cực Lạc Phật A di đà)
Cách thức để được sinh ra ở Dewachen (Cực Lạc) là lập một niềm tin và ước nguyện mạnh mẽ đối với cõi Tịnh Độ, và khát khao được sinh ra ở đó.
Pháp môn Tịnh Độ vừa cực khó vừa cực dễ
Khi bạn sinh ở cõi đó, bạn không sinh bằng một tiến trình bình thường. Trong thế giới của ta, hết thảy chúng ta đều tới đó trong sự khổ nhọc và làm việc trong sự buồn phiền. Ở nơi đây sự sinh ra là một tiến trình đau đớn.
Ở Cõi Dewachen, bạn không sanh ra nhờ một thai tạng, mà đúng hơn bạn được sinh một cách kỳ diệu trong nhụy một hoa sen nở. Nếu bạn cầu nguyện với sự nhất tâm và niềm tin nhiệt thành mãnh liệt được sinh ra ở đó thì bạn sẽ được như ý.
Nếu bạn nuôi dưỡng bất kỳ mối nghi ngờ nào thì bạn vẫn được sinh ở đó nhưng sẽ sinh trong một bông sen chưa nở. Bạn được tắm trong ánh sáng chói ngời của Đức Phật nhưng bạn không thể nhận ra mọi phẩm tính của cõi Tịnh Độ và không thể tùy ý du hành đây đó. Bạn ở trong một bông sen khép miệng cho tới khi những vết tích sau cùng của sự hoài nghi và tiêu cực bị tẩy trừ. Khi ấy bông sen sẽ nở ra.
Nếu bạn không có chút nghi ngờ nào thì bạn được sinh trong một bông sen nở. Điều này gắn liền với loại nguyện ươc được tái sinh trong Cõi Tịnh Độ mà bạn đã lập nên vào lúc chết. Hãy lưu giữ trong tâm sự phân biệt hết sức quan trọng này giữa hai loại sinh ra khác nhau trong cõi Tịnh Độ. Điều tối quan trọng là phải lập nguyện ước đúng đắn được tái sinh vào lúc chết. Hãy làm điều này một cách mạnh mẽ không chút nghi ngờ.
Nếu bạn cho phép sự hoài nghi đi vào tâm bạn thì bạn sẽ sinh trong một bông sen khép miệng. Nếu vào lúc chết bạn lập nguyện ước mạnh mẽ này thì khi ấy, không phải trải nghiệm bất kỳ điều gì, bạn được sinh trong nhụy một bông sen nở trước sự hiện diện của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà. Một trong những phẩm tính kỳ diệu của việc được tái sinh trong Cõi Cực Lạc là nếu bạn từng đọc những quyển sách mỏng về việc du hành tới những cõi Tịnh Độ khác thì bạn có thể đi tới đó lập tức ngay khi ước muốn điều đó. Bạn có thể di chuyển một cách thần diệu tới bất kỳ cõi Tịnh Độ nào khác chỉ bằng cách lập nguyện tới nơi đó. Từ thế giới này, bạn không thể tức thì đi tới cõi Tịnh Độ khác, nhưng từ cõi Tịnh Độ Cực Lạc thì bạn có thể. Bạn có passport, visa, và mọi loại vé cần thiết để đi tới mọi Tịnh Độ của bất kỳ Đức Phật nào, ở mọi phương và bất cứ khi nào bạn muốn.
Khi bạn sinh trong một hoa sen nở, bạn vẫn chưa viên mãn. Bạn đã tẩy trừ khỏi dòng tâm thức của bạn mọi điều tiêu cực, mặc dù bạn chưa là Phật nhưng bạn được sinh trong một hình thức có nhiều phẩm tính tích cực giống như những phẩm tính của một vị Phật. Bạn được sinh ra với một thân sắc vàng rực rỡ. Bạn có những năng lực siêu nhiên và siêu giác. Bạn được thụ hưởng năm loại năng lực siêu giác. Phẩm tính khác mà bạn có như một hài nhi là mọi vật bạn cần để cúng dường chư Phật mà hiện nay bạn nhận thức bằng đôi mắt vật lý của bạn thì ở cõi Tịnh Độ, chúng sẽ tự động hiển lộ trong đôi bàn tay bạn. Bằng cách ấy bạn có thể dễ dàng tích tập công đức và hoàn thiện nó để tích tập trí tuệ. Hơn nữa, cuối cùng thì sự tích tập công đức và trí tuệ đưa tới Phật Quả sẽ xảy ra rất nhanh chóng trong Cõi Tịnh Độ Cực Lạc.
Trái nghịch với những cõi Tịnh Độ khác, trong cõi Dewachen (Cực Lạc) tiến trình tích tập công đức và trí tuệ rất nhanh chóng. Chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói: “Do đó việc cầu xin được tái sinh ở cõi Dewachen tích tập công đức nhiều như thể con cúng dường bảy loại ngọc quý và những châu báu khác đầy tràn ba ngàn thế giới (được đề cập trước đây).”
Nói chung, chúng ta có thể nói rằng bất kỳ chúng sinh nào nghe danh hiệu của Đức Phật A Di Đà (phù hợp với những Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà) lập nguyện tái sinh trong cõi Dewachen và dấn mình vào thực hành đó đều có thể được tái sinh trong cõi Dewachen. Những người từng tích tập sự tiêu cực của năm trọng tội thì khó đạt được điều đó. Mặc dù thế, ngay cả đối với những người tội lỗi nặng nề như thế, nếu họ thực hành mãnh liệt thì họ vẫn có thể được tái sinh trong cõi Dewachen.
Tóm lại, về những giáo lý của Đức Phật A Di Đà và Cõi Tịnh Độ Cực Lạc thì thực hành này rất phổ biến trong tất cả những quốc gia theo Phật Giáo Đại thừa. Tại sao thế? Đó là bởi tính chất của những lời nguyện của Đức Phật A Di Đà. Thực hành Đức Phật A Di Đà và Cõi Tịnh Độ thích hợp với những người bình thường và ai cũng có thể thực hành. Bạn không phải là một đại nhân cao quý đã từ bỏ mọi ác hạnh. Bạn không phải là một hành giả tuyệt vời. Tùy thuộc vào năng lực những lời nguyện của Đức Phật A Di Đà, bạn có thể dấn mình vào thực hành này. Đây là một thực hành Kinh thừa. Do đó, nó là Pháp môn mọi người có thể thực hành. Nó rất dân chủ và được dành cho tất cả mọi người.
Đức Phật A Di Đà & Cõi Tịnh Độ Cực Lạc
DRIKUNG KYABGON CHETSANG RINPOCHE
Minh Hoạ videoclip: Đức KARMAPA 17 tụng Nguyện Vãnh Sanh Cực Lạc A di đà
-
-
-
[english n/a]_Lama Sonam Jorphel Rinpoche's teachings on Bardo | “Bardo” trong tiếng Tây tạng có nghĩa là “trạng thái trung gian”. Chúng ta luôn trong một “bardo” nào đó. Hay có thể hiểu rằng luôn ở trong một trạng thái nào đó của luân hồi sinh tử. Chừng nào chưa đạt đến giác ngộ thì chúng ta còn lang thang trong sáu bardo này.
Giai đoạn từ khi vừa lọt lòng mẹ cho đến lúc từ giã cõi đời này là một bardo - bardo cuộc sống. Trước đó là giai đoạn hình thành bào thai trong cơ thể mẹ. Giai đoạn hình thành bào thai này thực chất là sự hình thành, phân bố và kết hợp của ngũ đại: địa (đất), thủy (nước), hỏa (lửa), phong (gió) và không. Lúc vừa được sinh ra cũng là lúc chúng ta bắt đầu đối mặt với cái chết. Đến lúc chúng ta thật sự đối mặt với cái chết thì sẽ xảy ra quá trình ngược lại - đó là sự phân rã của các đại. Có 25 tiến trình phân rã khác nhau, nhưng tựu chung lại thì có 4 quá trình cơ bản. Đó là: địa đại phân rã thành thủy đại, thủy đại phân rã thành hỏa đại, hỏa đại phân rã thành phong đại, phong đại tan vào không.
Mấu chốt ở đây là việc người chết phải nhận ra quá trình tan rã của các đại. Tuy nhiên điều này thường không dễ vì khi quá trình tan rã xảy ra thì người chết phải trải nghiệm sự đau đớn tột cùng. Do đó người chết không thể suy nghĩ và cảm nhận chính xác. Vì vậy trong khi còn sống, các con nên cầu nguyện liên tục để có được một cái chết an bình, không đau đớn. Nhờ đó khi chết các con mới có thể đủ tỉnh táo vượt qua cảm giác đau đớn để hướng tâm đến Guru hoặc Tam Bảo và nhận ra được quá trình phân rã của các đại. Các con phải biết rằng sống cả đời như thế nào thì lúc chết các con sẽ gặp những điều tương tự như thế. Những người sống cả đời thiện lành thì sẽ chết trong an bình, hạnh phúc. Ngược lại nếu sống cả đời toan tính, ác độc thì sẽ chết trong tâm thái sợ hãi, bất an..."
Trích những bài giảng của Drubwang Sonam Jorphel Rinpoche cho đệ tử Việt nam.
Ảnh: Sư phụ Sonam Jorphel Rinpoche cùng Trưởng lão Đại sư Nubpa Rinpoche cùng diện kiến Sư Tổ Chungtsang Rinpoche tại Nepal
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...8f&oe=5A9505D1
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
Ý NGHĨA CỦA TORMA TRONG THỰC HÀNH KIM CANG THỪA.
Rất nhiều nghi lễ thực hành trong Phật giáo Tây Tạng yêu cầu cần có những vật phẩm cúng dường quý báu, gọi là TORMA.
Từ 'torma' trong tiếng Tây Tạng, thì 'tor' có nghĩa gốc là "làm tan ra", hay ném ra một số lượng nhỏ những món đồ gì đó. Hậu tố 'ma' thể hiện cho tình yêu thương. Nên ta có thể nói rằng từ 'torma' có nghĩa là ta dâng tặng ai đó món đồ gì đó với tất cả tình yêu thương. Theo truyền thống, bánh Torma thường được để bên ngoài sau khi được sử dụng trong một nghi lễ, và khi đó sẽ thành thức ăn cho côn trùng hay thú hoang.
Để có thể thực sự đạt được sự tỉnh giác hoàn toàn, mỗi người tu cần phải có sự tích lũy đủ cả công đức và trí tuệ. Trí tuệ được phát triển qua sự tu học và thiền quán, suy ngẫm. Công đức được đạt qua sự cúng dường và hoàn thiện hạnh bố thí. Vì thế, Bánh Torma giúp ta trong sự thực hành hạnh bố thí, và được sử dụng trong các nghi lễ thực hành của Phật Giáo Kim Cương Thừa như một phương tiện thiện xảo để tích lũy công đức. Chúng cũng là phương tiện thiện xảo trong sự thực hành hạnh xả bỏ. Torma không chỉ có nghĩa là đưa ra một món cúng dường, chúng còn có nghĩa là từ bỏ sự bám chấp.
Trong sự thực hành Bổn tôn của Phật giáo Tây Tạng, Torma trở thành nền tảng cơ bản cho sự quán tưởng những vật phẩm cúng dường rộng lớn và vô lượng. Nhưng Torma không chỉ có ý nghĩa là cúng dường cho bản tôn trí tuệ. Torma cũng có thể cúng cho vô lượng vong hồn, chúng sinh vô hình chưa đạt được sự giác ngộ, là những chúng sinh đang lang thang đói khát, vô minh trong cõi Thân trung ấm, trạng thái lơ lửng giữa cái chết và sự tái sinh. Có những bánh torma làm để cúng cho những ma ác để chúng để yên cho chúng ta, và không cản trở sự tiến bộ tâm linh của ta. Và có cả những món cúng dường Torma gọi là 'tsok' ta cùng chia sẻ với các đạo hữu, huynh đệ tỉ muội kim cương trong bối cảnh một bữa tiệc tâm linh.
Có một số torma được tạo thành, không phải với ý nghĩa cúng dường, mà có ý nghĩa như sự đại diện của bổn tôn cùng đoàn tùy tùng. Mặc dù hình dáng của torma trông chẳng hề giống với những hình ảnh bổn tôn ta vẫn thường thấy trong tranh ảnh Phật giáo Tây Tạng, nhưng hình ảnh biểu tượng và màu sắc cũng thâu nhiếp tinh yếu của những phẩm chất giác ngộ của một vị bổn tôn nào đó, vì thế, là đại diện của tôn đó.
Có những Torma đại diện hoàng cung Mandala của một vị bản tôn nào đó. Và còn rất nhiều loại vật phẩm Torma khác, tùy thuộc vào sự thực hành riêng của bạn. Ngoài ra còn có tầng ý nghĩa bên ngoài, bên trong và bí mật của Torma nữa.
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
[english below]
"Thuốc pháp các bậc Đạo sư ban cho các con cũng là một dạng giải thoát qua sự đeo. Các con đừng nghĩ đây là lời nói đùa, viên thuốc Pháp nhỏ bé này hàm chứa rất nhiều chất liệu cát tường trong đó. Trong [viên thuốc pháp này] có những thứ quý giá như tóc, pháp khí của các bậc thánh sư và rất nhiều loại thảo dược quý được nghiền ra thành bột" | Lama Sonam Jorphel Rinpoche
"The Dharma pills given by your Guru belong to "Liberation through wearing". Don't think this a joke. Those liltle pills contain many many auspicious ingredients inside. Those can include precious things from enlightened Vajara masters as hair, other belongings..and many precious herbal medicine in powder". | Lama Sonam Jorphel Rinpoche
"Bài giảng của Thầy"
Việt dịch: Hiếu Thiện & nhóm Liên Hoa Tâm
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...39065764_n.jpg
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
[english n/a]
Chuyện Tiểu Ngọc nữ
Phía bắc của núi Tu di là Cư Lư Châu, người cõi ấy bình đẳng an vui, sống lâu một ngàn tuổi. Họ là hàng Tiên nên nhiều thú vui, ít có sự khổ, có cây kappa [Như Ý], muốn vật chi, ưng ăn món gì, thực phẩm cách nào thì đi đến cây kappa thì được như ý nguyện. Trừ phi dùng định lực của các đại sư hoặc thần thông của các bậc Bồ tát, chẳng có cách gì để di chuyển đến châu này.
Ngày kia nhân tiết Lập thu, tiên chúng cõi này bày hội lớn, kể cả các vị tiên các tầng trời Đâu suất, Phạm thiên cũng dập dìu phó hội. Hào quang nhiều màu sắc của chúng tiên đan chéo ngang trời thành mạng lưới cầu vồng rồi họ thanh thoát hiện thân trong mây, thật diễm lệ không tả hết.
Trong dòng nam thanh nữ tú dập dìu qua lại có nàng tiểu Ngọc nữ cũng như thế bỡ ngỡ ngược xuôi trong chúng hội. Nàng là con gái của Chuyển Luân thánh vương coi sóc Cư Lư châu, nàng luôn mang trên tóc viên ngọc Như ý, báu thứ năm của vua Luân vương, ngọc ấy khiến cho ban đêm như ban ngày, lại có thể giữ cho ai đeo ngọc này vĩnh viễn không già đi.
Tuổi còn thơ bé nhưng Tiểu ngọc nữ không ngây thơ mà tính tình lạ lùng ít nói, cô lạnh như băng như tuyết, sâu sắc lạ kỳ và đặc biệt hiểu biết về âm luật. Thi thoảng lại thấy nàng ôm cầm vận lên, tiếng đàn như nước reo, song dư âm thì mang mang sâu chứa.
Thấy dòng người đang dần tụ về một chốn, tiểu ngọc nữ tò mò theo. Đến nơi, thì ra là một hý trường (sân khấu kịch). Nàng thấy hội chúng cả ngàn nam nữ đang yên lặng xem ca nhi diễn bày một vở kịch, tiếng hát lảnh lót vút cao, chúng tiên nương theo tâm cảnh của ca nhi mà hào quang phóng chiếu êm đềm. Thốt nhiên tiểu ngọc nữ nhận thấy Ngọc như ý chầm chậm phát sáng, tâm tư bỗng lạnh như băng, bao nhiêu xúc tình từ lời ca nhi cũng chỉ làm nàng ngậm ngùi thấy mình cô độc.
Nàng dùng Tam muội Định phóng tâm qua vô số vũ trụ, hiện thân đồng thời hàng trăm cảnh giới tất cả nơi đâu có chúng sinh nàng đều dùng định lực nhìn thấu suốt dòng tâm thức của họ rồi thoát ra. Thời gian quán sát ấy cũng tương đương 500 năm nhưng nhờ năng lực của ngọc Như ý, nàng chỉ cảm thấy như chỉ mới uống một chén trà. Thoát về thực tại lòng nàng chỉ còn nỗi ưu tư không dứt. Nàng thấy hết thảy các thế giới chỉ là sự trình chiếu của dòng tâm thức không bắt đầu không kết thúc, hết thảy các thế giới chỉ giống một giấc mơ, mà chúng sinh nơi ấy lại luôn cho đó là thực tại.
Hý trường đã tan mà tiểu ngọc nữ chìm đắm trong suy tưởng. Ráng trời nhuộm đỏ chiều tà rồi trăng lên mà nàng vẫn bất động trong quầng sáng dịu dàng của Ngọc như ý. Nàng cúi đầu thì thầm thốt: Rốt cục ta là ai, ta sống vì cái gì đây?
Trong bao la hư không tịch mịch bỗng có lời ca khẽ ngân:
- Cứ đốt lò hương cho đến sáng
Thử xem mưa gió đến bao giờ..(1)
Nàng như bừng tỉnh, nhìn thấy quanh chẳng thấy ai mà trong tâm rõ rệt có linh ảnh của của ngọn núi nào đó tại một đại châu phương Nam, tên núi Ashvakarna (Bất tử Phong) - có vị Tiên chủ điềm đạm nắn tiếng hồ cầm bên chú tiểu đồng, ngâm lời ca từ cảnh giới khác song trong lòng đôi bên không còn khoảng cách nào. Tiểu đồng nhìn nàng đầm ấm, ánh mắt long lanh..
...Đêm hôm ấy, tại ngọc cung của Luân vương, Ngài khẽ đỡ lấy viên ngọc Như ý từ tay tiểu ngọc nữ, rồi xa xăm nói ý con đã vậy, ta không từ chối.. Cõi nước ấy có đầy đủ hỷ lạc và bi lụy, nhưng cũng là cảnh giới của vô vàn bồ tát hiện thân, hẹn gặp lại con.
--
Nam Thiệm Bộ châu, cõi người.
Vùng nọ có một đô thị sầm uất, dân cư đông đúc, khí hậu điều hòa. Thương thuyền lui tới tấp nập bất kể ngày đêm, người đi như hội. chỗ đẹp nhất vẫn là khu phố cổ, nhiều ngõ ngách nhỏ hẹp ẩn mình dưới hàng liễu rũ xanh tươi. Trong khu phố cổ có một kỹ viện, xây dựng lên từ đời nào không rõ. Kỹ viện có nhiều nàng kỹ nữ xinh đẹp, múa hát rất hay. Thương nhân đến đây lắm kẻ quên đường về (2).
Trong các nàng kỹ nữ, có một nàng kiều nữ, mặt đẹp như ngọc. Tông tích người kỹ nữ này không ai rõ, chỉ biết rằng nàng đã vào kỹ viện rất sớm.
Nàng không múa bao giờ, chỉ ca hát. Đặc biệt nàng tự ôm đàn, vừa đàn vừa ca, không hát cùng ai, không để cho ai đàn hát họa theo. Nàng tính tình lạ lùng ít nói lại cô lạnh như băng tuyết, sâu sắc lạ kỳ và đặc biệt hiểu biết về âm luật. Mama tổng quản kỹ viện thương yêu vô cùng, gọi nàng là Tiểu Ngọc. Cũng lạ là chưa thấy nàng từ chối bồi tiếp một khách nào, dù là cự phú, công tử, kiếm khách hoặc những người thấp hèn miễn là họ hiếu âm [yêu thích âm nhạc]. Mỗi cuộc hầu rượu với khách tri âm, nàng đặc biệt thích đeo một viên ngọc màu trắng lên đỉnh tóc, xông trầm rồi so dây, ca hoài về một khách phương Nam nào đó:
Hai ta lưu lạc phương Nam này
Đã mấy mùa qua én nhạn bay
Xuân đến khắp trời hoa rượu nở
Riêng ta với ngươi buồn vậy thay !
Tâm giao mấy kẻ thì phương Bắc
Ly tán vì cơn gió bụi này
Ai biết thương nhau từ buổi trước
Bây giờ gặp nhau trong phút giây
Quê nhà xa lắc xa lơ đó
Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay (3)
Khách nghe bài ca không khỏi bâng khuâng. Có kẻ đại phú bỏ ra trăm vạn để mong Tiểu Ngọc về theo nhưng chỉ nhận được nụ cười mơ hồ. về sau nàng chỉ còn hát đúng bài hát Khách phương nam kia, khi hát thì nàng hầu như lạc vào một cảnh giới nào đó. Cảnh giới đó âm thanh cũng như hình sắc, tư tưởng không còn phân biệt mà dường như là một thực tại duy nhất, nơi đó ngập tràn hỷ lạc vẫy gọi, thấp thoáng một nhân ảnh ánh mắt đầm ấm, cảnh giới thù thắng và vi diệu tới mức nàng chỉ muốn nhập vào vĩnh viễn không bao giờ trở lại thực tại. Nhiều năm trôi qua nàng hầu như không còn để ý đến thời gian, âm sắc càng lúc càng đơn độc, nét đẹp băng tuyết bất chấp thời gian.
Đêm nọ, nàng trầm mặc khảy lên vài tiếng đàn hát bài ca quen thuộc, rồi lòng rỗng rang nàng không đàn nữa mà quán sát những thanh âm còn lưu luyến trong tâm. Không biết bao lâu như thế thì bất chợt những thanh âm ấy bỗng hóa hiện thành một vừng sáng trắng hòa dịu bên trong là vị tiên chủ quen thuộc ánh nhìn thương xót, trong tim của Tiên chủ là một chủng tự Phạn văn phát hào quang trắng sáng xoay quanh là 6 chữ khác tỏa ánh sáng sáu màu trắng xanh vàng lam đỏ xanh thẫm, ánh sáng tan nhập vào tim nàng - trong sát na đó nàng tan nhập vào ánh sáng trắng và bỗng thấy vô biên bồ tát kinh hành chung quanh, kỹ viện tan biến mà chỉ còn thấy cõi đất hoàn toàn thanh khiết vi diệu, bằng phẳng rải đầy kim cương ngọc báu, tất cả mọi người trong kỹ viện hiện thân ánh sáng ngồi trên hoa sen lắng nghe tiên chủ đang tự tại trong hư không giảng thuyết diệu pháp. Nàng chợt thấy những thanh âm của nàng hát lâu nay vốn là một với những thanh âm khác và cũng không khác gì thanh âm của yên lặng. Nàng lại thấy trong im lặng vốn đã tàng chứa vô lượng thanh âm. Nàng định tâm quán sát hết thảy các thanh âm trong vũ trụ và thấy chúng chỉ là biến hiện từ sáu âm vang rền của vòng chân ngôn trong tim tiên chủ: Om-ma-ni-pad-me-hum (4) Thanh âm thần chú xô vào dòng tâm thức của nàng khiến nàng bùng vỡ nhận ra quá khứ, vị lai, âm thanh, hình sắc, tư tưởng chỉ là một ảo giác của tâm, hoát nhiên nàng đại ngộ chân tánh của thực tại.
Khi nàng xuất định thì trời đã quá nửa đêm về sáng. nhìn ra song cửa kỹ viện qua ánh đêm nàng chợt thấy một thiền sư trẻ mang kiếm gãy đang ngồi trong tư thế đại định, mờ mờ hắn có ánh sáng tỏa ra sau đỉnh đầu, nhưng thân tướng đang rung lắc dường như sắp vào lúc sinh tử trong thiền định. Rùng mình lấy nhân trạng như một bà lão ăn xin, nàng ho sù sụ xếp chân ngồi bên gã thiền sư, vẻ khó nhọc thốt lên tiếng ca:
Muốn có, bụi cát đều là Có
Muốn không, hết thảy đều là Không
Có, Không (như) ánh trăng đáy nước
Đừng dính mắc Có cùng Không (5)
Lập tức đại địa dường như chấn động, thần sắc gã thiền sư tan đi nét thống khổ, có chút nụ cười, vầng sáng trên đỉnh hắn trở nên rực rỡ, nàng mỉm cười chạm vào thanh tàn kiếm trên vai hắn, kiếm gãy ấy hóa thành một cây Cổ Thiết cầm..
…
Khi ấy tại ngọc cung ở Bắc Cư Lư Châu, Luân vương thấy Ngọc Như ý trên tay bỗng rực sáng và tan vào Pháp giới, Ngài khẽ cười nói với tiên chúng, "Chuyện cần làm đã làm xong, ta không cần ở lại đây nữa"; nói xong Ngài tan thành ánh sáng cầu vồng phá không bay về phương Nam nơi trú xứ của ngọn Bất tử Phong trầm mặc.
(còn tiếp)
tiểu phàm
---
(1) trích từ Hải vân thi tập, cũng được Nguyễn tuân trích trong Vang bóng một thời
(2) Cảm hứng từ truyện Nàng Kỹ nữ - Nguyễn tường Bách
(3) trích Hành phương Nam, nguyễn bính
(4) Thần chú của Bồ tát Quán thế âm
(5) thi kệ của thiền sư Từ đạo hạnh, thời Lý
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
[english below]
Câu hỏi: Khi đang trì tụng thần chú mà nói chuyện sẽ có tác hại như thế nào?
Sonam Jorphel Rinpoche: Minh chú là cam lồ pháp bảo có năng lực gia trì. Lời nói chuyện của chúng ta thuộc về thế tục nên chúng bất tịnh. Nếu trộn lẫn cam lồ với thuốc độc thì kết quả thu được vẫn chỉ là thuốc độc, chúng làm mất năng lực gia trì của minh chú. Khi trì chú nhất định không được nói chuyện.
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
Quả báo không phải không tới, chỉ là chậm một chút mà thôi..
(English n/a)
Có thể nhiều người thắc mắc rằng, tại sao có kẻ làm điều ác đến thế nhưng lại không gặp ác báo, câu chuyện sau đây sẽ giải thích rõ cho vấn đề này.
Đức Phật từng có lần đi tới một nơi mà ở đó chỉ toàn là bụi đất, không có một cây cối nào sinh sống. Ngài kể với vị đệ tử đi theo mình rằng, nơi đây trước kia rất giàu có, nhưng quốc vương là một người vô đạo. Một hôm, ông ta đã giết một vị chứng đắc quả vị A La Hán. Sau khi ông ta giết vị A La Hán rồi, trên trời đã thả xuống rất nhiều vàng bạc châu báu liên tiếp trong bảy ngày liền. Tất cả dân chúng đất nước đều vui như điên cuồng. Nhưng sau 7 ngày thì trên trời liền thả xuống toàn là bùn đất khiến cho cả đất nước đều bị vùi lấp.
Nguyên lai lúc đầu trên trời cho thả xuống vàng bạc châu báu là bởi vì vị quốc vương này có phúc báo. Bởi vì ông ta có phúc báo che chở cho nên ác nghiệp kia không có cách nào hiện ra trước. Trời thả vàng bạc châu báu xuống là để cho ông ta hưởng hết phúc báo. Sau khi đã không còn phúc báo che chở nữa, ác nghiệp liền lập tức hiện ra chính là lúc trời thả bùn đất xuống.
Người làm việc ác chưa bị báo ứng là vì còn chưa hưởng hết phúc báo, một khi phúc báo đã hưởng hết thì nghiệp báo lập tức xuất hiện. Có người kinh doanh ngành nghề sát sinh mà kiếm tiền, số tiền này kỳ thực là phúc báo ở trong mệnh của họ. Dù họ cũng có thể thông qua các cách khác để kiếm tiền, ví như gửi tiền ngân hàng để lấy lãi…, nhưng họ đã dùng sai phương pháp kiếm tiền. Số tiền đã kiếm được kia đợi hưởng thụ xong rồi thì ác báo của giết nghiệp kia sẽ tới.
Người xưa giảng "có phúc báo không thể hưởng thụ hết”, lúc có phúc báo càng phải làm việc thiện, làm việc có đức, dùng âm đức để đền bù cho những việc làm sai trái trong quá khứ, chứ không phải là chỉ biết hưởng thụ phúc báo. Nếu như phúc báo kia một khi hưởng hết rồi, bị rớt xuống rồi thì mong muốn bồi đắp phúc báo là việc không hề dễ dàng.
Trong "địa tạng kinh” có giảng, con người một khi đã rơi vào "tam ác đạo” (ba đường là địa ngục, súc sinh và ngạ quỷ) rồi, thì sẽ ở trong tam ác đạo mà luân chuyển, vào địa ngục làm quỷ đói, sau khi làm quỷ đói rồi lại làm súc sinh, sau khi làm súc sinh mới được làm người. Vậy sau khi làm người rồi, không có phúc báo, nghèo khó thấp hèn, không có cách nào bồi dưỡng phúc báo, rồi lại rớt xuống, điều này rất đáng thương.
Chúng ta mong muốn bồi đắp thêm phúc báo thì ban đầu cũng cần phải là có phúc báo, có phúc báo làm nền tảng, mới có thể bồi đắp phúc báo được.
Ác hữu ác báo, chỉ là thời điểm chưa tới mà thôi!
Nguồn: internet
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
Lama Sonam Jorphel Rinpoche hướng dẫn những ngày linh thánh tăng trưởng công đức theo Tạng lịch cho hành giả Kim cương thừa [english n/a]
Các ngày sau đây là những ngày quan trọng trong năm, cần cúng & cần tu tập vì những ngày đó công đức được tăng trưởng lên một triệu lần (theo [âm] lịch Tây Tạng):
1- Tháng đầu tiên: ngày mồng một cho đến ngày 15 của tháng là 15 ngày Đức Phật phô diễn thần thông. Đây là những ngày cần cúng để Phật tử phát triển tín tâm và tăng trưởng công đức. Ngày 15 là ngày quan trọng nhất.
2- Tháng thứ tư - tháng của đức Phật Thích Ca: Ngày 15/4 có ba sự kiện trùng nhau: Phật đản sinh, Phật thành đạo và Phật nhập Niết bàn.
3- Tháng thứ 6, ngày thứ 4: Đức Phật chuyển Pháp luân lần đầu tiên tại vườn Lộc Uyển.
4- Tháng thứ 9, ngày 22: Đức Phật từ cõi trời Indra (Đế Thích - xin xem giải thích ở phần trên _ LND) xuống trần sau ba tháng thuyết pháp cho mẹ. Sau khi sinh đức Phật ra đời được một tuần thì mẹ Ngài mất và bà được lên cõi trời Đế thích. Đức Phật lên cõi trời Indra thuyết pháp cho mẹ trong ba tháng giúp cho bà đạt được chứng ngộ. Ngày 22/9 là ngày đức Phật xuống trần. Đây là ngày rất quan trọng, công đức tăng trưởng rất lớn, do đó chúng ta nên tinh tấn tu tập cả tháng 9, nếu không thì cũng phải tu tập chăm chỉ vào ngày 22/9.
5- Các ngày 8, 10, 15, 25, 30 của mỗi tháng cũng là những ngày công đức tu tập được tăng trưởng nhiều lần:
- Ngày 08: ngày vía Phật Dược sư.
- Ngày 10 : ngày vía Guru Rinponche (đức Liên Hoa Sinh)
- Ngày 15: ngày vía Phật A Di Đà.
- Ngày 25: ngày vía Dakini.
- Ngày 30: ngày của Đức Phật Sakyamuni.
Về các ngày thiêng trong năm Mật giáo có truyền thống rất phong phú và được duy trì không gián đoạn. Mỗi dòng truyền thừa có hàng trăm, hàng ngàn vị đại đạo sư (các ngài chính là các bậc Bồ Tát). Do đó có rất nhiều ngày đặc biệt liên quan đến ngày các ngài sinh, các ngài nhập Niết bàn. Hầu như tất cả các ngày đều có liên kết đến một sự kiện đặc biệt nào đó. Chính vì vậy các vị thầy của chúng ta ngày nào cũng phải tu. Chúng ta nếu cũng thực hiện tu tập đều đặn được như vậy thì rất tốt. Nếu không thì cũng phải tu tập vào những ngày quan trọng là những ngày liên quan đến đức Phật và những ngày đã kể ở trên vì những ngày đó công đức tăng lên hàng trăm, hàng triệu lần.
Lama Sonam Jorphel Rinpoche
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
truyện đọc | Con quỷ hay Bồ tát [english n/a]
Ngày xửa ngày xưa, trên một vùng thảo nguyên xa xôi nọ, có một cô gái tên là Jaya. Được sinh ra trong một gia đình hạnh phúc, ba mẹ hết lòng yêu thương, cô sống mà không phải suy tư gì. Nhưng kể từ khi cha mẹ qua đời, Jaya phải sống một mình với người dì họ tên là Sagara. Chồng của dì cũng mất sớm, dì có 2 người con và chỉ coi cô như con ở. Càng ngày dì càng trở nên cáu gắt và bất công đối với cô. Jaya phải làm việc nhà quần quật từ sáng đến tối nhưng chẳng bao giờ làm dì hài lòng.
Vào một buổi sáng nọ, Jaya thức dậy từ năm giờ sáng để nấu cám cho lợn ăn. Nồi cám chưa kịp sôi, dì cô đã gắt lên: "Sao giờ này còn chưa đi chẻ củi?". Jaya chạy vội ra sân, ôm đống củi đi chẻ thì một lúc lại nghe tiếng cằn nhằn: "Sao cái sàn nhà bẩn thế, giờ này mà mày còn chưa quét nhà?". Xếp nhanh những thanh củi vừa được chẻ, cô chạy vào vớ lấy cái chổi và quét nhà. Vừa quét được vài nhát, Jaya lại nghe tiếng dì la ló ở dưới bếp: "Cái nồi này bẩn quá, bao giờ mày mới học được cách lau sạch đây?".
Cô liền chạy xuống bếp: "Con xin lỗi, tối qua con vội đi vắt sữa bò nên rửa có phần không sạch. Dì để đấy, tí nữa con rửa lại". Bà dì hét lớn: "Không xin lỗi gì hết, đồ lười biếng!"
Nước mắt lăn xuống từ đôi mắt nâu buồn của Jaya. Cô để chổi sang một bên, xắn đôi tay áo nhàu nát màu đất của mình lên ngang khuỷu rồi bắt đầu lấy giẻ lau chiếc nồi. Tay của cô run lên cùng với tiếng nức nở làm nước lại bắn xuống sàn nhà. Dì của Jaya với khuôn mặt đỏ giận dữ và đôi mắt trợn trừng, xông tới mắng: "Mày bôi bẩn còn nhiều hơn làm sạch, đồ ẩu đoảng vô tích sự! Nuôi mày chỉ tốn cơm, lớn tí nữa tao sẽ bán mày đi làm vợ lẽ người ta cho rảnh nợ..."
Jaya đáng thương cất vội cái nồi, cúi xuống lau sàn nhà rồi ôm khuôn mặt đầy nước mắt chạy thẳng ra ngoài cánh đồng. Quá đau khổ, cô đứng khóc nức nở dưới gốc cây. Đây không phải lần đầu tiên dì bất công với cô như thế. Cô cố nhắc lại với mình lời của vị sư già cô thường kính trọng: "Hãy nhìn mỗi người con gặp như một vị Bồ tát". Nhưng khác với mọi lần, nó không làm cô vơi nhẹ một chút buồn nào. Hình ảnh của người dì với khuôn mặt đỏ dữ tợn, đôi mắt long sòng sọc và tiếng quát tháo không tài nào ra khỏi tâm trí của cô. Tuyệt vọng, cô chỉ muốn tìm một góc nào thật kín, thật tối để được nằm khóc cho đến cạn kiệt nước mắt và có lẽ không cần phải dậy nữa!
Cô lầm lũi bước đi về phía ngọn núi phía sau nhà, nơi có một cái động to và sâu thẳm. Chiếc động này cô đã đi qua nhiều lần nhưng chưa bao giờ dám chui vào. Khi Jaya đến trước cửa động, cô trèo lên những tảng đá, tò mò nhìn vào phía trong. Một miệng hang sâu hun hút hiện ra với những tiếng gió rít lên ghê rợn. Mím chặt môi, cô bước vào cửa động.
"Thật là tối, đúng là chỗ mình cần!", cô tự thì thầm với chính mình. Dần dần chỉ còn một chút ánh sáng từ bên ngoài có thể lọt vào. Mỗi bước chân của cô vang lên rồi lọt thỏm vào chiều sâu hun hút. Jaya bỗng trượt ngã xuống mặt hang lạnh ngắt. Khi cô ngẩng mặt lên, cô cảm thấy như đông cứng lại vì những gì mình nhìn thấy...
Trước mắt của cô là một gương mặt đỏ rực với hai mắt long sòng sọc giống như một nữ quỷ hung dữ. Jaya bò lùi về phía sau một tảng đá, thân thể cô run rẩy. Một âm thanh ồm ồm vang lên từ phía đối diện:
- Vẻ ngoài này tạm bợ - Con yêu ơi đừng sợ!
Jaya vẫn không yên tâm hơn, cô lùi sâu hơn vào phía sau tảng đá và rút con dao mang sẵn trong người. Âm thanh lại vang lên:
- Đừng trốn và đừng chạy - Không như con thấy vậy!
- Có phải ngươi đang nói chuyện với ta không? Jaya thốt lên từ phía sau tảng đá.
- Mở trái tim con ra - Cho nỗi sợ lùi xa!
Không nghi ngờ gì nữa, nữ quỷ đang nói chuyện với Jaya.
- Bà muốn gì ở tôi? Jaya nói như khóc.
- Hãy nhìn sâu vào mắt - Những nhầm lẫn sẽ tắt!
"Nhìn vào mắt nữ quỷ ư? Làm sao mình dám!", Jaya nghĩ vậy nhưng ngồi dậy, ngẩng đầu lên, nhìn qua tảng đá với đôi mắt he hé. Nữ quỷ đang gần ngay phía trước rồi, "Có lẽ mình nên làm điều đó nếu không nữ quỷ sẽ ăn thịt mình mất!". Cô mở mắt ra nhưng không dám nhìn thẳng vào mắt nữ quỷ mà vội quay đầu đi ngay vì vẫn còn sợ hãi.
- Nhìn ta như người bạn - Nỗi sợ con sẽ cạn.
- Tôi sẽ cố gắng, nhưng bà đừng đến gần hơn nhé!
Jaya lấy hết can đảm, quay đầu nhìn lại một lần nữa. Cô nhớ lời của vị sư già: "Hãy nhìn bất cứ ai con gặp như một vị Bồ Tát". Đầu tiên cô nhìn thấy một nữ quỷ hung tợn, sau đó cô nhìn thấy một đôi mắt long lanh. "Đây có thể là một vị Bồ Tát như lời tu sĩ dạy", cô tự trấn an mình. Nhìn sâu hơn nữa vào đôi mắt ấy, cô bỗng thấy một sự dịu dàng kỳ lạ rồi khuôn mặt của nữ quỷ bỗng trở nên xinh đẹp lạ thường. Ngay thời điểm ấy, nữ quỷ bỗng tan thành một làn khói. Và, ngay ở chỗ đó, một người phụ nữ xinh đẹp và hiền từ đang đứng giữa một quầng sáng rực rỡ! Quá bất ngờ, Jaya lắp bắp:
- Bà.... Bà là ai?
- Bồ tát chính là ta - Cuối cùng con nhận ra.
Jaya thở phào nhẹ nhõm, trong cô dâng lên một sự ngạc nhiên và ngưỡng mộ:
- Con đã từng nghe về các nữ Bồ tát, họ có những phép thuật rất kỳ diệu, chắc hẳn bà cũng có chứ?
- Kỳ diệu hơn mọi điều - Trái tim biết thương yêu.
Câu trả lời quả là khó hiểu. Nhưng Jaya vẫn chưa hết bỡ ngỡ, cô nhìn quanh và hỏi:
- Thế còn con quỷ dữ lúc nãy đâu rồi?
Một nụ cười rạng rỡ nở trên khuôn mặt nữ Bồ tát:
- Ta là như thế nào - Do cách con nhìn vào.
- Có nghĩa là bà cũng là con quỷ dữ lúc nãy ư?
Nữ Bồ tát mỉm cười gật đầu và nói thêm:
- Điều bây giờ con cần - Là nuôi những hạt mầm.
Jaya tròn mắt:
- Hạt mầm gì cơ ạ?
Nữ Bồ tát cho tay vào trong tảng đá cứng, thật kỳ lạ, tảng đá bỗng như trong suốt mà không hề ngăn cản tay bà. Bà lấy ra một cuộn giấy và đặt vào tay của Jaya:
- Vượt qua mọi sợ hãi - Tình yêu sẽ còn mãi!
Vừa nói xong, nữ Bồ tát tan dần vào ánh sáng và biến mất.
- Từ từ đã, con vẫn chưa hiểu gì cả!
Jaya nói vọng theo, nhưng cô đã không còn thấy thêm gì nữa.
Tuy không hiểu nhiều nhưng Jaya vẫn cảm thấy trong lòng ấm áp, cô rời khỏi hang. Trời đã gần tối, mặt trăng đã lấp ló trên đỉnh núi. Nhìn xuống bàn tay, Jaya thấy cuộn giấy mở đầu bằng 4 chữ "Con đường Trong suốt". Từ những gì nữ Bồ tát nói, cô hiểu đây là những hạt mầm mình cần phải vun trồng. Tậm trạng vui vẻ, Jaya cất bước về nhà...
Vừa mở cửa, cô đã nghe thấy tiếng hét của dì Sagara:
- Sao giờ này mày mới về? Đáng ra giờ này mày phải nấu xong cơm rồi! Lại đây, mày sẽ biết tay tao.
Nỗi sợ bị dì đánh mắng lại nổi lên trong lòng. Cô lùi vào phía sau cánh cửa, hai tay nắm chặt, chuẩn bị đón cơn thịnh nộ sắp đổ lên đầu. Cô định chạy ra cánh đồng và khóc như mọi khi...
"Vẻ ngoài này tạm bợ - Con yêu ơi đừng sợ!"
Âm thanh lúc nãy trong động bỗng tự nhiên vang lên trong đầu cô. Jaya dừng lại, nỗi sợ của cô dường như yếu đi...
"Đừng trốn và đừng chạy - Không như con thấy vậy!"
Trí nhớ rõ mồn một về những gì đã diễn ra trong động sâu lại hiện ra. Jaya suy nghĩ về câu nói đó, tự nhủ rằng, có lẽ hoàn cảnh chưa đến mức đáng sợ như mình tưởng.
"Mở trái tim con ra - Cho nỗi sợ lùi xa".
Jaya nhìn về khuôn mặt đỏ lựng của dì, cô cố gắng suy nghĩ cho dì mình. Phải chăng dì cũng có những nỗi khổ riêng nên mới suốt ngày cáu gắt như vậy? Thay vì sợ hãi, cô mở rộng trái tim, một niềm thương cảm nhen nhóm...
"Hãy nhìn sâu vào mắt- Những nhầm lẫn sẽ tắt".
Cô nhìn sâu vào mắt dì... Đầu tiên cô thấy một ánh mắt giận dữ, nhưng ẩn dưới đó là bao đau khổ khôn nguôi vì phải hứng chịu cái chết của chồng cùng với những năm tháng nhọc nhằn một mình nuôi 2 đứa con ruột lẫn đứa cháu họ. Rồi cô thấy một ánh mắt cũng đang khao khát yêu thương và thông cảm.
Cô bỗng thấy biết ơn và yêu thương dì hơn bao giờ hết! Dù sao nếu không có dì, cô cũng đã phải sống cuộc sống phiêu bạt nay đây mai đó. Nếu không có dì, cô sẽ không chạy vào động và không gặp được nữ Bồ tát. Nếu không có dì, cô đã không có quyết tâm thực hành những điều nữ Bồ tát dạy.
"Nhìn ta như người bạn - Nỗi sợ con sẽ cạn"
Người dì suốt ngày chỉ đem đến khổ đau và tai họa dường như biến mất. Trước mặt cô là một bà mẹ tần tảo, thân thương, đã chịu nhiều đau khổ mà không có ai chia sẻ cùng. Không còn một chút sợ hãi nào, cô tiến đến gần hơn, ôm chầm lấy dì.
"Bồ Tát chính là ta - Cuối cùng con nhận ra"
Jaya nghẹn ngào xúc động... Nhờ có lời dạy này, cô nhận ra rằng dì mình không khác nào một vị Bồ tát đã ở bên cô từ lâu. Tất cả những điều dì đã làm với cô từ yêu thương, chăm sóc đến giận dữ, đánh đập đều có một ý nghĩa nào đó mà đến giờ cô mới bắt đầu hiểu được. Cô thơm lên má dì. Lần đầu tiên, cô thấy khuôn mặt dì khi dịu xuống cũng thật là đẹp!
"Vượt qua mọi sợ hãi - Tình yêu sẽ còn mãi".
Ở đâu không còn sợ hãi, ở đó sẽ có tình yêu. Tình yêu đã có sẵn ở đó nhưng tạm bị nỗi sợ hãi che mờ. Có lẽ đó là bài học đầu tiên, "Bồ tát dì" đã đến và dạy cho cô.
"Ta là như thế nào - do cách con nhìn vào".
Đó là bài học thứ 2. Dì của Jaya có phải là một nữ Bồ tát hay không hoàn toàn do cách cô nhìn.
Cái ôm và nụ hôn của Jaya làm dì cô khựng lại, trái tim của bà như được đánh thức, người của bà chùng xuống, không nói nên lời. Tuy cơn giận chưa tan hẳn nhưng bà bỗng thấy lòng nhẹ đi, bà không muốn trách mắng nữa mà chỉ đẩy cô ra rồi bỏ đi.
"Kỳ diệu hơn mọi điều - Trái tim biết thương yêu".
Lúc này, tất cả những điều nữ Bồ tát nói trở nên vô cùng ý nghĩa đối với Jaya. Cô học được rằng, thật tuyệt vời khi biết cách yêu thương ngay khi người khác đang làm mình đau khổ. Cô không muốn nhìn dì như một người gây chuyện nữa, cô sẽ nhìn dì mình như một vị Bồ tát.
"Điều bây giờ con cần - là nuôi những hạt mầm".
Cô sẽ học cách gieo những hạt mầm của tình thương và trí tuệ, cho dù người kia đối xử với cô như thế nào. Cô muốn làm theo những gì ghi trong cuộn giấy. Còn gì tuyệt vời hơn nếu có thể trở thành một vị Bồ tát để giúp đỡ mình và mọi người một cách sâu sắc! Cô tự hứa với lòng phải quyết tâm thực hiện những gì ghi trong cuộn giấy mà nữ Bồ tát đã trao.
Ngày qua ngày, Jaya đối xử với dì mình như đối xử với một nữ Bồ tát. Mỗi khi bị dì nóng giận và quở trách, cô liền coi đó là một cơ hội để áp dụng Pháp. Dù bị dì đối xử bất công, cô cũng không giữ một chút oán trách nào trong tâm. Mỗi lần bị làm tổn thương, nhờ có Pháp, cô đều cố gắng đáp lại bằng ánh mắt và nụ cười yêu thương. Cô thực hành chăm chỉ những gì ghi trong cuộn giấy. Đối với cô, Dì thực sự đã trở thành một vị Bồ tát giúp cô tiến nhanh hơn trên con đường đã chọn.
Rồi ngày nọ, vào một đêm trăng sáng, Jaya đang ngủ trên tấm nệm của mình. Dì đã đến ngồi bên, vuốt nhẹ mái tóc mềm mại của cô, thì thầm:
- Con yêu, hãy chỉ cho ta cách để trở nên yêu thương và trí tuệ, giống như con!
Nguyên tác: KHO TÀNG TRUYỆN CỔ TÍCH TRONG SUỐT
Zangthalpa - Phần 4: CON QUỶ HAY BỒ TÁT
Nguồn: FB Group Trong suốt
Ảnh: Đại Hộ pháp Mahakala
Nguồn ảnh: www.ebay.co.uk
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/