https://www.youtube.com/watch?v=ZuGOmks54yA
【慈悲報導】2017-03-15 廣修禪寺會宗長老遺骨舍利回台
Printable View
https://www.youtube.com/watch?v=ZuGOmks54yA
【慈悲報導】2017-03-15 廣修禪寺會宗長老遺骨舍利回台
佛教课诵密咒梵汉音义新勘
(3)诸短咒
【勘译版序】
佛法西来,弘传我国,自古以来 梵咒译诵差谬众多,或因地域方言( 如楞严等咒的岭南话记音),或因传 习学诵(譬如将“伽”jiā读作qié), 以致同一梵句,多种谬诵共存。一如 语“虚空”一词,本音gagana,译有 哿哿捺、伽伽那、誐誐曩、葛葛纳… ,如此梵咒译诵,让人实在音义难辨
为便学人闻思修诵,本人不辞肤 ,特据梵汉词汇与佛学词典仔细溯寻 源,并依现今汉语普通话音义,尽力 避用多音字,重新对勘校译了相关梵 之汉音,并且整编成册,以供大众学 参用。限于本人学识,译文或有鄙陋 错谬。识者若有见之,还望不吝赐教 以便圆满此举为谢!
菩萨戒佛子圆智祖鉴 合十
【佛教念诵集·诸短咒】
◎般若佛母真言:
达地雅塔:唵 揭谛揭谛 波罗揭谛
达地雅塔:唵 嘎得嘎得 巴罖嘎得
Tadyatha: om gate gate para gate
即说咒曰:皈依.圆通.圆通,彼岸.圆
波罗僧揭谛 菩提娑婆诃。
巴罖三嘎得 菩提娑哇诃。
Para samgate Bodhi svaha
彼岸.遍圆通,觉悟.增吉祥。
◎破地狱真言:
唵 伽啰帝耶 娑婆诃。
唵 嘎日达耶 娑哇诃。
Om gartaya svaha
顶礼.深坑呀.增吉祥
◎普召请真言:
南无部部帝利 伽哩哆哩 怛哆誐哆耶
南摩部部帝罖 嘎日陀罖 达他嘎达呀
Namo bhu bhu dhira grdhra tathāgataya
皈命.地.地.安详.吉利.如来
◎开咽喉真言:
唵 步步底哩 伽哆哩 怛哆誐哆耶
唵 步步底罖 嘎陀罖 达他嘎达呀
Namo bubhut dhira grdhra tathāgataya
顶礼.饥饿.安详.吉利.如来
◎解怨结真言:
唵 三陀啰 伽陀 娑婆诃。
唵 三达罖 嘎达 娑哇诃。
Om santara gata svaha
顶礼.障隔.圆通.增吉祥
◎地藏菩萨灭定业真言:
唵 钵啰末隣 陀寜頁 娑婆诃。
唵 钵罖摩涅 达涅 娑哇诃。
Om pramāṇa tāṇa svaha
顶礼.超限.施救.增吉祥
◎多罗观音灭业障真言:
唵 阿噜力迦 娑婆诃。
唵 阿若力卡 娑哇诃。
Om arolika svaha.
顶礼.透照.增吉祥。
◎三昧耶戒真言:
唵 三昧耶 萨埵 錽。
唵 三摩耶 萨埵 旺。
Om samaya sattva vam.
顶礼.具誓.勇识.觉性力。
◎变食真言:
南无 萨嚩 怛他誐哆 嚩噜枳帝
南摩 萨瓦 达他嘎达 瓦罗给德
Nama sarva tathagata avalokita
皈命.一切.如来.知见
唵 三跋啰 三跋啰 吽。
唵 三巴罖 三巴罖 吽。
Om sambhara sambhara hum.
顶礼.资粮.资粮.净心。
◎甘露水真言:
南无 苏噜婆耶 怛他誐哆耶
南摩 苏如帕呀 达他嘎达呀
Nama surupaya tathagataya,
皈命.妙色身.如来呀,
怛姪他:唵 苏噜 苏噜 钵啰苏噜
达嗲他:唵 苏如 苏如 钵罖苏如
Tadyatha: Om suru suru pra suru
真谓:顶礼.妙明.妙明.胜上.妙明.
钵啰苏噜 娑婆诃。
钵罖苏如 娑哇诃。
pra suru svaha.
胜上.妙明.增吉祥。
◎一字水轮真言:
唵 錽錽錽錽錽。
唵 汪汪汪汪汪。
Om vam vam vam vam vam vam
顶礼.自性胜智法身觉性力。
◎乳海真言:
南无 三满哆没驮喃 唵 錽。
南摩 三满达 菩陀喃 唵 汪。
Namo samanta buddha nam. Om vam.
皈命.普遍.正觉类, 顶礼.觉性力。
◎施无遮食真言:
唵 穆力陵 娑婆诃。
唵 穆力涅 娑哇诃。
Om mulyena svaha.
顶礼.财利.增吉祥。
◎普供养真言:
唵 誐誐曩 三婆嚩 韈日啰 斛。
唵 嘎嘎那 三巴瓦 瓦折罖 吙。
Om gagana sambhava vajra hum
顶礼.普遍.应成.金刚.净心
◎普回向真言:
唵 娑摩啰 娑摩啰 弥摩曩
唵 萨摩拉 萨摩拉 弥摩喃
Om samala samala mimanam
顶礼.有垢.杂染.思量类.
萨哈啰 摩诃咱哈 吽。
萨哈罖 摩诃咱哈 吽。
sahaja maha jha hum
契合.大.胜离.净心。
◎天厨妙供:
户唵 苏噜萨哩嚩 怛他阿誐多
户唵 苏如 萨尔瓦 达他阿嘎达
Hum suru sarva tathagata.
净心.妙明.诸.如来,
怛你也他 苏噜 娑婆诃。
达地亚他 苏如 娑哇诃。
Tadyatha: suru svaha.
此可谓:妙明.增吉祥。
◎出离真言:
唵 度利益 娑诃。
唵 度热呀 娑诃。
Om dureya svaha.
顶礼.出离.增吉祥。
◎解脱真言:
唵 穆帝 莎诃。
唵 穆帝 莎诃。
Om mukti svaha.
顶礼.解脱.增吉祥。
◎沐浴真言:
唵 底沙底沙 僧伽 娑诃。
唵 底夏底夏 僧嘎 娑诃。
Om tisya tisya samgha svaha.
顶礼.胜明.胜明.僧众.增吉祥.
--------------------------------
菩萨戒佛子圆智祖鉴勘译
2016年10月17日于武平十方禅林
译文如有欠妥,欢迎慈悲指正!
http://blog.sina.com.cn/s/blog_508f18eb0102wvur.html
13. Hộ Ngạn Tất Tri
Hộ ngạn tất tri tất xã ta nẵng nẩm duệ hê, duệ hê tát rị quan mẫu đà nẩm de táo ha.
Hương linh văn, triệu văn triệu thĩnh lai lâm.
https://sites.google.com/site/thichn...le/cac-bai-tan
(Bấy giờ hành giả đem chung tịnh thực đi ra ngoài để lên bàn thí thực, chia làm ba phần:1) thí cho loài thủy tộc
được nhân không. 2) thí cho loài mao quần (thú có lông) được pháp không. 3) thí cho tha phương bẩm thức
thảo (đồ gốm) hình đều được vô sanh nhẫn. Nếu không có bàn án, thì để tịnh thực ở dưới đất hoặc trên tảng đá
lớn. Không được để tịnh thực nơi cây lựu hoặc cây đào, bởi vì quỷ thần không dám tới ăn. Theo Ngài Vân Thê,
không phải chia tịnh thực ra 3 phần là đúng cách. Nhưng hiện nay chúng ta vẫn làm theo thường lệ.)
http://www.bplmonastery.org/uploads/...r10-p1-156.pdf
TRANSFORMATION OF FOOD TRUE WORDS: Biến Thực Chân Ngôn
(biàn shí zhēn yán)
Nam mô tát phạ đát tha, nga đa phạ lồ chỉ đế, án tam bạt ra, tam bạt ra hồng. ( 3 lần )
na mo sa wa dan tuo ye duo wa lu zhi di ‧
nan san bo la, san bo la, ho
‧ng ( 3 times)
( The left hand upholds the food offering and the right hand lightly presses on the food. Make the
following contemplation, “ I now recite this sublime, wondrous Dharma of limitless awesome virtue and
tranquil brightness to aid this portions. It‟s neither one nor limitless, yet at the same time it is one and
limitless. And each portion increases layer upon layer without exhaustion, filling up empty space and
pervading the Dharma realm, so that it universally rescues those hungry beings and causes them to
leave suffering and attain bliss.”)
(Tay trái cầm chung, tay phải đè nhẹ trên miệng chung & quán tưởng như sau:”Con tụng vô lượng oai
đức tự tại quang minh thắng diệu La Ni nầy, gia trì thức ăn đây, tức một phần thức ăn này xuất ra vô
lượng thức ăn hoặc một khi ăn thì không phần nào mà không là vô lượng, mà mỗi phần là vô lượng, mỗi
mỗi xuất vô lượng vô tận xung đầy hư không châu biến pháp giới, phổ tế ngạ quỷ- ly khổ đắc lạc.”)
SWEET DEW TRUE WORDS: Cam Lồ Thủy Chân Ngôn
(gān lù shui zhēn yán)
Nam mô tô rô bà da, đát tha nga đa da, đát điệt tha, án tô rô tô rô, bát ra tô rô,
bát ra tô rô, ta bà ha. ( 3 lần )
na mo su lu po ye
( place pure vase on the rim of the cup which contains seven grains of rice)
(để tay lên vành miệng chung trong đựng 7 hạt gạo)
dan tuo ye duo ye da zhi tuo nan
su lu su lu (swirl the pure vase around the incense twice)
(quay tịnh bình quanh lư hương 2 vòng)
- 135 -
bo la su lu bo la su lu
(swirl the pure vase around the cup twice) (quay tịnh bình chung quanh ly 2 lần)
suo po he ( 3 times) (Pour 1/3 of water into the cup.) (Rót 1/3 nước vào bình)
(The first pour of water, swirl outside to the right. The second and the third pour of water, swirl inside to the left)
(rót nước lần đầu, quay vòng bên phải, hướng phía ngoài; lần nhì và lần ba quay vòng bên trái, hướng về phía trong)
(Contemplate how this water, aided by the power of mantras, become pure and clean and completely
pervades the Dharma realm. It enables the throats of all hungry ghosts to open by themselves. Living
beings throughout the Dharma realm attain the food and drink of sweet dew all in an instant.)
(Quán tưởng nước gia trì chú lực này trạm nhiên châu biến pháp giới khiến chư ngạ quỷ tự khai yết hầu
và chúng sanh pháp giới đồng thời đều được cam lộ ẩm thực)
THE ONE CHARACTER WATER WHEEL TRUE WORDS: Nhứt Tự Thủy Luân Chân Ngôn
(yī zì shuǐ lún zhēn yán)
Án noan noan noan noan noan ( 3 lần ) ‧
nan wan wan wan wan wa
‧n ( 3 times)
MILK OCEAN TRUE WORDS: Nhũ Hải Chân Ngôn
(rǔ ǎi zh n yán )
Nam mô tam mãn đa mẫu đà nẩm án noa ( 3 lần )
na mo san man duo, mo tuo nan, nan wan ( 3 times)
( After the third recitation of the mantras, the attendant presses his finger on the rim of the cup. Upon the first
recitation ( of the seven Buddhas‟ names), at the word „li”, the attendant turns to the left and walks to the left corner,
facing outside. Upon the second recitation, at the word “li”, the attendant walks back to his original position,
facing right. Upon the third recitation, at the word “li”, the attendant turns and walks to the middle of the hall,
facing the front. The attendant gets his cues from the sound of the handbell.)
(Sau lần thứ ba niệm chú, hành giả ấn ngón tay lên miệng chung, vào lần thứ nhất niệm 7 vị Phật, ngay
chữ “Ly” hành giả quay về phía trái và đi về phía trái hướng ra ngoài. Vào lần thứ 2 đến chữ “Ly”, hành
giả đi tiếp về chỗ cũ hướng về phía mặt. Vào lần thứ 3 đến chữ “Ly”, hành giả quay và đi về giữa chánh
điện hướng về phía trước.Hành giả nghe tiếng khánh như tín hiệu)
HOMAGE TO THE THUS COME ONE MANY JEWELS
Nam mô Đa Bảo Như Lai,
ná mó duō bǎo rú lái
- 136 -
HOMAGE TO THE THUS COME ONE JEWELLED VICTORY.
Nam mô Bảo Thắng Như Lai,
ná mó bǎo shèng rú lái
HOMAGE TO THE THUS COME ONE WONDROUS FORM.
Nam mô Diệu Sắc Thân Như Lai,
ná mó miào sè shēn rú lái
HOMAGE TO THE THUS COME ONE VAST AND EXTENSIVE BODY.
Nam mô Quảng Bác Thân Như Lai,
ná mó guǎng bó shēn rú lái
HOMAGE TO THE THUS COME ONE APART FROM FEAR.
Nam mô Ly Bố Úy Như Lai
ná mó lí bù wèi rú lái
1,2,3 step forward at the first time) ( 1,2,3 bước về phía trước)
HOMAGE TO THE THUS COME ONE SWEET DEW KING.
Nam mô Cam Lồ Vương Như Lai
ná mó gān lù wáng rú lái
HOMAGE TO THE THUS COME ONE AMITABHA.
Nam mô A Di Đà Như Lai (3x)
THESE SPIRITUAL MANTRAS AID
AND UPHOLD THE
Pure Dharma food,
Dharma-Offering food,
Sweet Dew water,
Thần chú gia trì
shén zhòu jiā chí
Tịnh pháp thực,
jìng fǎ
‧shí
Pháp thí thực,
fǎ shi shí
Cam lồ.thủy,
gān lù shuǐ
(At the first time: With the index finger write the “hong ” character over the water.)
( Lần đầu với ngón trỏ viết chử “hồng ” trên nước.)
- 137 -
UNIVERSALLY GIVEN TO THE
MULTITUDES OF THE
Disciples of the Buddha
LIKE SAND GRAINS IN A
Sentient beings RIVER.
Solitary spirits
Phổ thí hà sa chúng
pǔ shī hé shā zhòng
Phật tử
fó zǐ
Hữu tình
yǒu qíng
Cô hồn
gū hún
(when the word « Buddha f » is recited, write « hong » again.)
(khi niệm đến chữ Phật, viết chữ « hông » lần nữa)
(flick the water) (búng nước)
I VOW THAT THEY WILL ALL BE SATISFIED AND RENOUNCE STINGINESS AND GREED,
Nguyện giai bảo mãn xả kiên tham,
yuàn jiē bǎo mǎn shě qiān tān
AND QUICKLY BE FREED FROM DARKNESS AND BE REBORN IN THE PURE LAND,
( flick the water and kneel)
Tốc thoát u minh sanh Tịnh Độ, ( búng nước rồi quỳ)
sù tuō yōu míng shēng jìng dù
AND TAKE REFUGE WITH THE TRIPLE JEWEL AND GIVE RISE TO BODHI,
Quy y Tam bảo phát Bồ đề,
guī yī sān bǎo fā pú tí
AND ULTIMATELY REALIZE THE UNSURPASSED PATH
Cứu cánh đắc thành vô thượng đạo
jiù jìng dé chéng wú shàng dào
WITH THE LIMITLESS MERIT AND VIRTUE WHICH EXHAUSTS THE FUTURE,
Công đức vô biên tận vị lai,
gōng dé wú biān jìn wèi lái
- 138 -
MAY ALL
Disciples of the Buddha
SHARE IN THE FOOD OF DHARMA
(flick it three times, to the left, right, and center) (3x) Sentient beings
Solitary spirits
Nhất thiết
yí qiè
Phật tử
fó zǐ
đồng pháp thực (búng 3x;trái, phải & giữa)
tóng fǎ shí (3x)
Hữu tình
yǒu qíng
Cô hồn
gū hún
( At this time the attendant holds the pure food and goes outdoors to put it on the offering platform. He divides it
into three shares : the first share to creatures of the sea, so that they attain the emptiness of people ; the second
share to the fur group, so that they attain the stillness of dharmas ; and the third share to those who posses
consciousness and barrel-like appearances, throughout other lands, causing them all to be full and content, and to
attain the patience of non-production. If there‟s no platform, then place the food on clean ground or upon a big
stone. Do not place it under either a pomegranate of peach trees, because ghosts and spirits are afraid of these
kinds of trees, and will not dare to partake of the food. Also, according to the manual of Dharma Master Yun-ch‟i,
one does not divide the food into three portions—which is the right method. But now we just go along with the
general custom.)
(Bấy giờ hành giả đem chung tịnh thực đi ra ngoài để lên bàn thí thực, chia làm ba phần:1) thí cho loài thủy tộc
được nhân không. 2) thí cho loài mao quần (thú có lông) được pháp không. 3) thí cho tha phương bẩm thức
thảo (đồ gốm) hình đều được vô sanh nhẫn. Nếu không có bàn án, thì để tịnh thực ở dưới đất hoặc trên tảng đá
lớn. Không được để tịnh thực nơi cây lựu hoặc cây đào, bởi vì quỷ thần không dám tới ăn. Theo Ngài Vân Thê,
không phải chia tịnh thực ra 3 phần là đúng cách. Nhưng hiện nay chúng ta vẫn làm theo thường lệ.)
http://www.bplmonastery.org/uploads/...r10-p1-156.pdf
Phóng sanh tại tháp Long Thọ - Củ Chi
Cập nhật: (13/06/2017 03:21 AM)
VERSION ENGLISH
Click Xem hình lớn
Ngày 12/06/2017 (nhằm 18/05 Đinh Dậu) chư Tăng chùa Hoằng Pháp đã đến công viên hỏa táng Tháp Long Thọ xã Phú Hòa Đông, huyện Củ Chi phóng sanh.
Đại đức Thích Tâm Huệ cất cao tiếng niệm Phật cầu quốc thái dân an và cầu nguyện cho những hương linh hỏa táng tại tháp Long Thọ sớm được siêu sanh về miền cực lạc. Buổi lễ kết thúc, 59 chú chim bồ câu tự do tung bay trên bầu trời Tháp Long Thọ trong niềm hoan hỷ của Ban giám đốc công viên cùng tất cả mọi người.
Sau đây là hình ảnh ghi nhận:
http://www.chuahoangphap.com.vn/tu-t...tho-cu-chi-70/
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...C_3001copy.jpg
https://1.bp.blogspot.com/-hujFVWphU...006%2Bcopy.jpg
https://4.bp.blogspot.com/-thFH484ZM...007%2Bcopy.jpg
https://4.bp.blogspot.com/-_ayns-RtO...020%2Bcopy.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...C_3921copy.jpg
https://2.bp.blogspot.com/-tl2OBwian...010%2Bcopy.jpg
https://1.bp.blogspot.com/-JoshzW1Ju...011%2Bcopy.jpg
https://2.bp.blogspot.com/-BqdJdpDW8...032%2Bcopy.jpg
https://4.bp.blogspot.com/-E_MUKi5Mb...030%2Bcopy.jpg
http://sakyangorpa.blogspot.com/2017/07/20170714.html
----------
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...87562724_o.jpg
http://sakyangorpa.blogspot.com/2016/02/20160227.html
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...42496757_o.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...4175266_o1.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...17314465_o.jpg
http://sakyangorpa.blogspot.com/2017/05/20170518.html
===
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...31810910_n.jpg
http://sakyangorpa.blogspot.com/2016...og-post_8.html
====
https://uphinhnhanh.com/images/2017/10/16/v.jpg
http://3.bp.blogspot.com/-H2F5p0zgvx...555%2Bcopy.jpg
http://1.bp.blogspot.com/-Ijne6rqKvz...559%2Bcopy.jpg
http://4.bp.blogspot.com/-mybd2fuGAi...583%2Bcopy.jpg
http://3.bp.blogspot.com/-qSkC3UJsVP...604%2Bcopy.jpg
http://4.bp.blogspot.com/-9QmdPeS58C...591%2Bcopy.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...C_7612copy.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/10/16/bnm.jpg
HOA SALA
( https://dotchuoinon.com/2016/03/01/hai-loai-hoa-sala/ )
https://uphinhnhanh.com/images/2017/10/16/b.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...C_0552copy.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...C_0667copy.jpg
https://1.bp.blogspot.com/-98xngnJi-...671%2Bcopy.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...C_0548copy.jpg
https://3.bp.blogspot.com/-hJGGDu5KL...609%2Bcopy.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...C_0565copy.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...C_0566copy.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/10/16/29d465.jpg
http://sakyangorpa.blogspot.com/2017/05/20170516.html
Tóm Lược về PHOWA: Đại Pháp Chuyển Di Tâm Thức
Sakya Vietnam
Tóm Lược về “Phowa”
Đại Pháp Chuyển Di Tâm Thức
Giáo Huấn Dành Cho Người Hấp Hối:
Phật Quả Không Cần Thiền Định
Lời mời đầu của người biên tập:
Thông thường, từ “thần thức” được dùng cho người đã chết
đang ở trong giai đoạn trung ấm, trong khi từ “tâm thức”
được dùng cho người còn sống. Trên phương diện tối hậu thì
tâm thức là một dòng tương tục không có sống chết, có
chăng chỉ là cái tan hoại của thân vật lý. Thêm vào đó,
trong bối cảnh của pháp tu “Phowa,” và nhất là đối với các
hành giả tu tập pháp chuyển di nương vào ba ẩn dụ, việc này
bao gồm cảc nghi thức chuyển di vào giờ phút lâm chung
trong giai đoạn tan rã trước khi thân và tâm thực sự tách
rời (nghĩa là khi hơi thở vi tế bên trong vẫn còn hiện
hữu), nên chúng tôi xin lựa chọn sử dụng từ “tâm thức”
thay vì “thần thức” trong bài giới thiệu này về pháp thực
hành chuyển di.
Trong các bài nguyện và hồi hướng dành cho giai
đoạn lìa đời và thân trung ấm có nhắc đến pháp môn
chuyển di tâm thức (*) có tên gọi là “Phowa.” Đây là
pháp tu khởi thủy được truyền xuống từ đức Liên
Hoa Sanh sau khi đã ngài dùng thần lực đến cõi Tịnh
độ thọ pháp này từ đức A Di Đà và đây cũng là một
trong Sáu Pháp Tu Du Già của Naropa. Đối với pháp
tu này thì ngài Marpa, đại dịch giả Tây Tạng và Sơ Tổ
dòng Kagyu, đã từng nói rằng: ‘Có nhiều giáo pháp
để hành giả đạt giác ngộ, nhưng ta có một giáo pháp
có thể mang lại giác ngộ mà chẳng cần thiền định, đó
chính là pháp môn chuyển di tâm thức.’ Do đó, trong
Kim Cang Thừa, pháp môn “Phowa” được xem như là
phương tiện trực tiếp nhất và nhanh chóng nhất để
đạt giác ngộ trong thời điểm lâm chung. Nói chung
pháp chuyển di tâm thức được phân loại như sau:
1. Pháp chuyển di siêu việt tới Pháp thân nhờ vào
dấu ấn của [kinh nghiệm] kiến tánh.
2. Pháp chuyển di trung bình tới Báo thân nhờ
hợp nhất các giai đoạn sinh khởi (generation
stage) và viên mãn (perfection stage) dựa vào
các pháp tu Bổn Tôn của Kim Cang Thừa.
3. Pháp chuyển di thấp tới Hóa thân nhờ vào lòng
bi mẫn vô lượng.
4. Pháp chuyển di thông thường [đến cõi Cực Lạc
của đức Phật A Di Đà] nương vào ba ẩn dụ.
5. Pháp chuyển di thực hiện cho người chết với
cái móc của lòng bi mẫn.
Theo Tạng ngữ [qua sự trao đổi với thầy Damien
Jampa, điều hành trung tâm Tạng ngữ Esukhia tại
Dharamsala cùng với quý Khenpo người Tạng] thì
động từ “Phowa” འཕོ་བ་ có nghĩa là dời đi, chuyển đi,
dọn đi, chuyển di, chuyển dời từ một nơi này đến một
nơi khác (to transfer, to move, to migrate. Và từ này
cũng được các dịch giả Anh ngữ dùng trong bối cảnh
của pháp “Phowa” ám chỉ hành động “phóng xuất”
một cách nhanh chóng (to eject). Do đó, ngoài nghĩa
bóng là hành động phóng xuất tâm thức một cách thần
tốc ra khỏi xác thân để hòa nhập vào với đức A Di Đà
nơi cõi Cực Lạc nương vào ba ẩn dụ (như trong
“Phowa” thứ 4) thì từ “Phowa” nói chung mang một ý
nghĩa thâm sâu, đó là chuyển dời (chuyển di) tâm
thức của chúng ta từ một nơi là cảnh giới hay tâm
cảnh của xác thân phàm đến hòa nhập vào một nơi
khác là cảnh giới thanh tịnh của Pháp thân, Báo
thân, Hóa thân và Cực Lạc.
Cho nên ta có thể hiểu rằng “Phowa” là tên gọi của
pháp môn “Chuyển Di” nói chung, và hành động
“phóng xuất” là một hành động cần thiết trong phần
quán tưởng của pháp môn “Chuyển Di” này.
Pháp chuyển di siêu việt tới Pháp thân (Dharmakaya
Phowa:
Đối với những người khi còn sống đã tu tập thuần
thục và kinh qua được sự thấy biết không sai lầm về
chân tánh vô tạo tác (kiến tánh), thì vào lúc lìa đời, họ
có thể hiệp nhất chân không và giác tánh vào con
đường tu mật, xuyên qua pháp trekcho thuần tịnh
nguyên sơ, và như thế, có thể chuyển di tâm thức của
họ vào đại phương quảng trí [thể nhập cảnh giới bao
la hay tự tánh quang minh] của Pháp thân.
Pháp chuyển di trung bình tới Báo thân nhờ hợp nhất
hai giai đoạn sinh khởi và viên mãn (Sambhogakaya
Phowa):
Đối với những người đã quen thuộc với công phu
hành trì các pháp môn của hai giai đoạn sinh khởi và
viên mãn, kết hợp cả hai như một pháp du già bất
khả phân, cũng như nếu họ đã tu tập thuần thục để
có thể nhìn thấy sắc tướng của vị Bổn Tôn Hộ Phật
chẳng khác gì một cảnh trí hóa hiện thần diệu, thì khi
những ảo giác của trạng thái trung ấm xuất hiện vào
giây phút lìa đời, họ có thể chuyển hóa tâm thức của
họ thành Hợp nhất trí thân (union wisdom kaya), [là
sự hợp nhất giữa Sắc thân và Pháp thân].
Pháp chuyển di thấp tới Hóa thân nhờ vào lòng bi
mẫn vô lượng (Nirmakaya Phowa):
Những ai đã nhận các lễ quán đảnh của Kim Cang
Mật Thừa, đã trì giữ mật nguyện không hề sai trật, có
thiên hướng nghiêng về các pháp tu trong hai giai
đoạn sinh khởi và viên mãn của Bổn Tôn, và những
ai đã thọ lãnh những giáo huấn về trạng thái trung
ấm, là những người có thể: “… gián đoạn việc nhập
thai, […] nhớ quay ngược lại: Đây là lúc đòi hỏi sự xác
quyết và một tri kiến thuần tịnh.” Những ai thực hành
pháp chuyển di này [trong giai đoạn trung ấm] phải
chặn đứng bất kỳ lòng tham cầu nhập vào một thai
tạng bất tịnh nào, và họ có khả năng đóng lại con
đường dẫn đến một tử cung hay hoàn cảnh nào
không thuận lợi. Được lòng đại bi dẫn dắt cùng với
sự phát nguyện muốn tái sinh như một Hóa thân, họ
sẽ tự chọn lựa để tái sinh vào làm con của những bậc
cha mẹ hay hoàn cảnh thuận duyên, để có thể tiếp tục
thực hành giáo pháp và hóa độ chúng sinh trong
tương lai, hoặc họ sẽ chuyển di tâm thức vào một
trong những cõi Tịnh độ.
Pháp chuyển di thông thường [vào cõi Cực Lạc của
đức Phật A Di Đà] nương vào ba ẩn dụ:
Hành giả cũng có thể thực hành pháp chuyển di dựa
vào ba ẩn dụ để quán tưởng như sau: 1). Quán đường
khí mạch vi tế trung ương trong thân thể như con
đường du hành, 2). Quán giọt tinh chất (bindu) hay
tâm thức [đang trú nơi luân xa tim] như người lữ
hành, và 3). Quán cõi Tịnh độ Cực Lạc như là đích
đến.
Hành giả sẽ quán mình trong sắc tướng thanh tịnh
của đức Kim Cang Thánh Nữ Du Già (Vajrayogini)
hoặc đức Quán Thế Âm (Chenrezig), rồi qua một tiếng
hô, phóng giọt tinh chất từ luân xa tim xuyên qua
đường khí mạch vi tế trung ương lên ngã đỉnh đầu
để xuất ra từ huyệt bách hội trên đỉnh đầu, giúp tâm
thức của hành giả tan hòa vào trái tim của đức Phật A
Di Đà nơi cõi Cực Lạc.
Pháp chuyển di thực hiện cho người chết với cái móc
của lòng bi mẫn:
Hành giả cũng có thể thực hành pháp “Phowa” này
thay cho người hấp hối hoặc kể cả khi người ấy đã ở
trong trạng thái trung ấm. Pháp này có thể được thực
hiện bởi một hành giả du già với mức độ tu chứng
sâu dày, có khả năng làm chủ được tâm và trí giác, và
có khả năng nhận ra được tâm thức hay thần thức của
người chết trong giai đoạn trung ấm. Nói chung, để
thực hiện pháp chuyển di cho người chết, ta cần phải
chứng đắc được Kiến đạo, con đường của Cái Thấy.
Tuy nhiên, bất cứ ai là người thực sự biết được đích
xác thời điểm nào là thời điểm để thực hành pháp
chuyển di—khi hơi thở bên ngoài (outer breath) đã
ngưng nhưng hơi thở bên trong (inner breath) vẫn còn
tiếp tục—thì họ cũng đều có thể thực hiện pháp
chuyển di giúp cho người đang lâm chung nếu như
họ có được chút ít kinh nghiệm về các giáo huấn
“Phowa.” Điều này cực kỳ lợi lạc cho người hấp hối,
giống như người lữ hành được bạn mình dẫn đi trên
đúng con đường, và việc này có khả năng ngăn chặn
việc tái sanh vào các cõi thấp.
Sẽ khó khăn hơn để có thể thực hành pháp chuyển di
một khi thân và tâm đã hoàn toàn tách rời. Vì thế, cần
có một hành giả du già có khả năng làm chủ được
tâm, và có thể nhận ra được người chết trong trạng
thái trung ấm. Tác động tới người không còn thân xác
vật lý nữa là điều dễ dàng, và khi được thực hiện bởi
một hành giả du già như thế thì ngay tự nghi thức
thực hành chuyển di cũng sẽ có năng lực phóng xuất
tâm thức của người chết tới cõi Tịnh độ.
Riêng pháp “chuyển di tâm thức [vào cõi Cực Lạc của
đứ
c Phật A Di Đà] nương vào ba ẩn dụ” còn được gọi
là pháp “chuyển di tâm thức của ta vào với tâm thức của
Đạo sư,” và trong trường hợp này, Đạo sư ở đây
chính là đức Phật A Di Đà, là pháp tánh bản lai.
Pháp chuyển di này cũng phù hợp với điều mà Diệt
Tộ
i Trang Nghiêm Sám Hối Mật Điển gọi là “pháp
chuyển di trái cầu ánh sáng (ball of light) [tâm thức]
nương vào âm thanh [tiếng hô] vào lúc lìa đời.”
Các giáo huấn của pháp chuyển di tâm thức nương
vào ba ẩn dụ gồm có hai phần: phần đầu là thực tập
[khi còn sống], và sau đó là phần thực hành thực sự
[vào lúc lìa đời].
Khi còn sống, nương vào những hướng dẫn về pháp
chuyển di mà bạn đã được thọ nhận, bản thân bạn
hãy miên mật tu tập và hãy tinh tấn thực hành pháp
chuyển di cho tới khi có những dấu hiệu thành tựu.
Hiện nay, trong khi toàn thể các đường khí mạch,
năng lực và giọt tinh chất của bạn vẫn còn nguyên
vẹn và sung mãn, bạn sẽ thấy việc chuyển di rất khó
khăn. Nhưng một khi đã tới giờ phút cuối cùng của
cuộc đời, hay vào lúc đã quá già yếu thì việc chuyển
di sẽ trở nên rất dễ dàng. Giống như trái cây trên
cành, khó hái vào mùa hè khi trái non ấy còn đang
phát triển. Nhưng vào mùa thu, một khi nó đã chín
nhũn và sẵn sàng rụng thì chỉ cần áo quần của bạn
chạm nhẹ vào là cũng đủ làm cho nó rụng xuống.
Vào lúc lìa đời, thời điểm để thực sự thực hành nghi
thức chuyển di là sau khi những dấu hiệu hấp hối bắt
đầu xuất hiện, khi mà bạn có thể biết chắc rằng
không còn có thể quay ngược lại nữa và tiến trình tan
rã đã bắt đầu. Không được phép làm như vậy vào bất
kỳ thời điểm nào khác [như một hình thức tự sát]. Vì
như trong các Mật điển có nói: “Chỉ được thực hành
pháp chuyển di khi thời điểm thích hợp đã đến, nếu
không thì chẳng khác nào giết chết các Bổn tôn.” Đó
là bởi vì theo Kim Cang Thừa, thân thể của hành giả
được xem như là một mạn đà la thần diệu của các
Bổn tôn. Trong ý nghĩa này thì thu ngắn mạng sống
của ta bằng cách thức thực hành pháp chuyển di sớm
hơn thời điểm cũng đồng nghĩa với việc phá hủy
mạn đà la của các Bổn tôn.
Trong khuôn khổ của tuyển tập cầu nguyện và hộ
niệm nhỏ bé này, đại pháp chuyển di tâm thức
“Phowa” vào cõi Cực Lạc của đức A Di Đà là một
pháp tu thâm diệu và được giới thiệu theo một cách
thức giản lược như trên. Tuy nhiên, các hành giả
muốn tu tập theo pháp môn này cần phải thọ giáo với
một vị chân sư đã đắc pháp “Phowa” và chỉ nên xem
những giải thích tóm gọn trên đây thuần túy là một
bài giới thiệu giản đơn chứ không phải là các hướng
dẫn cụ thể, rốt ráo của toàn bộ nghi thức hành trì.
Các lời giới thiệu về “Phowa” trên đây được Tâm Bảo Đàn biên
tập và trích lược dựa trên Phần Ba: Chương Một của tập sách
“Lời Vàng Của Thầy Tôi” (tựa đề Anh ngữ “The Words of My
Perfect Teacher”) do nhóm Padmakara Translation Group
chuyển qua Anhn ngữ từ Tạng ngữ. Nhóm Longchenpa chuyển
Việt ngữ lần đầu vào năm 2004. Thanh Liên hiệu đính sơ khởi
vào năm 2006. Tâm Bảo Đàn hiệu đính toàn bộ vào năm 2008
với sự đóng góp của Từ Bi Hoa.
http://sakya-vietnam.org/tom-luoc-ve...-thuc-415.html
CÚNG TSOK
CÚNG TSOK
Thông qua sự kết nối cát tường này, các con sẽ cùng đạt tới Giác ngộ và sẽ cùng tái sanh vào một cõi tịnh độ.”
Tổ Milarepa đã đưa ra ba giáo huấn về cúng tsok. Ngài dạy rằng:
– Khi ta ăn thì thức ăn trở thành một bữa tiệc cúng dường thịnh soạn.
– Khi ta đi thì việc đó phải trở thành đi nhiễu (cora).
– Khi ta ngủ và nằm mơ thì việc đó phải trở thành thực hành giấc mộng ánh sáng.
Thế nên khi thực hành cúng tsok, Lama Chopa, có nghĩa là các con cúng dường Đạo sư – đó là tiệc cúng dường. Khi tiến hành cúng dường hãy nghĩ rằng Đạo sư luôn ở trong tim. Đạo sư luôn luôn ở trong tâm con. Bất cứ điều gì ta nghĩ tưởng sẽ đều trở thành sự thật. Ví dụ, khi con nghĩ tưởng về Bổn tôn, nghĩ rằng ta là Bổn tôn thì ta sẽ trở thành Bổn tôn. Và vì ta đã là một vị Bổn tôn, thức ăn ta thọ dụng sẽ trở thành vật phẩm cúng dường Bổn tôn. Ta sẽ không bị vi phạm giới hạnh vì khi nghĩ tưởng về Bổn tôn thì lúc đó tâm ta không có ngã chấp.
Tất cả chỉ là bản tánh thanh tịnh của chư Phật, bản tánh của Pháp thân. Và nơi Tánh Không thanh tịnh điều gì cũng có thể. Vì nó vốn trống không nên có thể trở thành bất kỳ điều gì mà ta nghĩ tưởng đến. Khi ta phát khởi tâm Bồ-đề và nghĩ tưởng về Bổn tôn, lập tức ta trở thành như vậy. Khi ta nghĩ về bản thân [với tâm chấp ngã], ta sẽ không thể trở thành Bổn tôn vì đã là “ta” rồi.
Thế nên, điều quan trọng nhất là khi chúng ta thọ dụng thức ăn và cúng dường như thế này thì chúng ta phải phát khởi tâm Bồ-đề. Ta thực hành không phải vì lợi ích cho riêng bản thân mà vì lợi lạc cho tất cả những chúng sinh khác. Lợi lạc cho chúng sinh khác mới thật sự là tối quan trọng.
Để sinh tồn chúng ta phải ăn để sống – điều đó không có gì đáng quan ngại. Nếu tâm chúng ta chân thật thì việc nuôi dưỡng thân mình không có gì sai trái. Để thân ta tồn tại và làm lợi lạc cho chúng sinh khác thì nó cũng cần được nuôi dưỡng duy trì. Tuy nhiên, khi cúng tsok thì phải nhớ rằng đây là thực hành của Kim Cang thừa. Điều này sẽ khiến ta khởi phát những tri kiến thanh tịnh. Trong khi cúng tsok, hãy nhận thấy rằng ta và các chúng sinh khác cũng đều thanh tịnh như Bổn tôn.
Về bản chất, tâm ta vốn hoàn toàn thanh tịnh. Thân chúng ta bao gồm ngũ uẩn. Về bản chất, ngũ uẩn cũng là hoàn toàn thanh tịnh. Người ta thường nói rằng ngũ uẩn chính là ngũ trí Phật mẫu. Ngũ độc trong tâm của chúng sinh khi được nhận biết sẽ trở thành ngũ trí Như Lai thực sự. Tất cả mọi sự xuất hiện và tồn tại đều hoàn toàn thanh tịnh. Ví dụ, một miếng trái cây chứa đựng các nguyên tố, và vì vậy bản tính nó là thanh tịnh. Vì thế, điểm cốt yếu của cúng dường tsok là để nhớ rằng thật ra về bản chất toàn thể vũ trụ và tất cả chúng sinh đều thanh tịnh. Nếu các con hiểu được điều này thì nó sẽ trở thành sự thật.
Cúng dường tsok chân thật sẽ nhận được sự gia trì bảo hộ lớn lao. Nếu không còn chấp ngã, các con sẽ thấy mình và những người khác là Bổn tôn. Khi đó, cho dù con hưởng thụ lạc cảnh nào cũng không tạo thành những hành động bất thiện, mà thay vào đó sẽ tích tụ phước đức không ngừng (do ngũ độc chuyển hóa thành năng lực từ bi trưởng dưỡng tâm Bồ-đề). Chỉ khi ta thỏa mãn, dính mắc với những tham luyến của mình thì mới tích lũy nghiệp bất thiện.
Khi nuông chiều tâm chấp ngã thì các con đã tích lũy nghiệp bất thiện. Vì vậy, tâm Bồ-đề cũng theo đó mà suy giảm. Cúng dường có trở nên thanh tịnh hay không phụ thuộc vào khả năng trưởng dưỡng tâm Bồ-đề và tri kiến thanh tịnh. Nếu các con có khả năng khởi phát tâm Bồ-đề thì những hưởng thụ lạc cảnh đều trở thành những bữa tiệc cúng dường thịnh soạn đến Bổn tôn. Không có tâm Bồ-đề, không có tri kiến thanh tịnh thì việc đó sẽ trở thành những hoạt động đơn thuần của luân hồi.
Trong lễ cúng dường tsok, chúng ta cũng cúng dường cả những hỉ lạc từ ngũ uẩn cho tất cả chúng sinh có thân cũng như không có thân đang ngập tràn trong không gian.
Đức Phật từng dạy rằng, để có thể liên tục giữ được tâm chuyên nhất chúng ta cần thực hành minh chú Om ah hung. Nếu các con thực tin vào câu minh chú đó với tâm chân thành thì với mỗi hơi thở, các con đều thâm nhập khắp sáu cõi luân hồi. Và khi ta cúng dường thức ăn đến tất cả chúng sinh, tâm chân thành và chuyên nhất sẽ lan tỏa khắp sáu cõi và đến tận những cõi tịnh độ để dâng cúng lên toàn thể chư Phật.
Các con thật sự đang tiến đến gần nhau hơn để chia sẻ tình yêu thương, để hạnh phúc cùng nhau. Các con đã thiết lập được sự nối kết với nhau trong nhiều đời, và thông qua sự kết nối tốt lành này các con sẽ cùng đạt được Giác ngộ và sẽ cùng tái sanh vào một cõi tịnh độ. Trong tương lai, các con sẽ cùng thâm nhập một Mạn-đà-la. Tuy nhiên để điều đó trở thành hiện thực, các con phải tuân thủ giới nguyện (samaya).
Khi nói về giới nguyện, chúng ta thường nghĩ tới việc giữ giới nguyện thanh tịnh [trong quan hệ] với Đạo sư của mình. Tuy nhiên, giữ giới nguyện trong sạch còn có nghĩa là không được phá giới nguyện đó đối với các đạo hữu và những chúng sinh khác. Thật là vô nghĩa nếu ta nói mình giữ giới nguyện với Đạo sư trong khi đó lại phá vỡ giới nguyện với đạo hữu.
Giới nguyện này rất đơn giản - đó là tình thương yêu. Các con càng phải dành tình thương yêu cho những người ở gần bên mình, xung quanh mình trong đời sống hằng ngày. Thế nên, đừng bao giờ để giới nguyện này suy giảm, vì tất cả chúng ta có thể cùng nhau đạt đến giác ngộ.
Và tất nhiên, sự giận dữ có thể phát khởi bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, dù nó phát khởi, các con có thể tức thời nhận ra và sám hối. Hãy thực hành kham nhẫn và luôn nghĩ rằng: “Ta phải kham nhẫn.” Ngoài ra các con còn phải trưởng dưỡng tri kiến thanh tịnh trong tâm. Đặc biệt là đối với các đạo hữu, các con phải thấy rằng tất cả người nam đều là Chenrezig (Quán Thế Âm) và tất cả người nữ đều là Tara.
Trong khi cúng dường tsok, các con nên cầu nguyện: “Nguyện cho tất cả chúng sinh nam đều khởi phát tâm Bồ-đề và trở thành Chenrezig. Nguyện cho tất cả chúng sinh nữ đều khởi phát tâm Bồ-đề và trở thành Tara.” Đây cũng là một lợi lạc khác của việc cúng dường tsok. Lễ cúng dường tsok thanh tịnh hay không tùy thuộc vào năng lực trưởng dưỡng tâm Bồ-đề và tri kiến thanh tịnh.
Bài pháp thoại ngày 24.10.2010 tại Hà Nội, giảng về cúng tsok và pháp tu ngondro (bổ sung phần vấn đáp ngày 24.10 và 25.10).
TÂM YẾU ĐƯỜNG TU
SONAM RINPOCHE & GARCHEN RINPOCHE
Pháp đàm với Garchen Rinpoche
Việt dịch: Hiếu Thiện & Tâm Bảo Đàn
Nhà xuất bản Tôn Giáo 2016
http://vietrigpalungta.com/cung-tsok.html
TT. Thích Thiện Thuận thuyết giảng chủ đề “Ý nghĩa Kinh Địa Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện”
Fri, 09 / 2015 5:32 am | Thiện Hưng
Để giải nghi cho hành giả trong việc cầu siêu cho song thân quá vãng, TT. Thích Thiện Thuận đã thuyết giảng chủ đề “Ý nghĩa Kinh Địa Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện” tại Linh Quang tịnh xá (quận 4, Tp. HCM) vào tối ngày 7/9/2015 (nhằm 21/7 âm lịch).
Kinh Địa Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện được Đức Thế Tôn thuyết cho Thánh mẫu Maya tại cung trời Đao Lợi. Tiền thân của Bồ-tát Địa Tạng là một nữ Bà-la-môn thương xót mẹ và phát nguyện cứu mẹ thoát khỏi cảnh giới địa ngục. Bồ-tát cũng phát đại nguyện “địa ngục vị không, thệ bất thành Phật. Chúng sanh độ tận, phương chứng Bồ-đề”. Bồ-tát Địa Tạng là bậc thầy giáo hoá chúng sanh trong cảnh giới tăm tối là ý nghĩa câu “U minh giáo chủ bổn tôn Địa Tạng Bồ-tát ma-ha-tát”. Địa ngục không ở đâu xa mà chính là nơi mà chúng ta không cảm thấy hài lòng. Bồ-tát Địa Tạng dùng tuệ giác của mình sẵn sàng đập tan bức tường vô minh do sân hận, si mê, tham chấp, hận thù, thị phi soi sáng cho chúng sanh nhìn thấy nghiệp do chính mình tạo ra từ vô thỉ kiếp. Các công hạnh của bồ-tát thật vô lượng vô biên.
Kết thúc buổi pháp thoại, đại chúng đồng chấp tay trang nghiêm thính kinh Địa Tạng, do Thượng tọa giảng sư tuyên đọc Phẩm 2 – Phân thân tập hội.
MỘT SỐ HÌNH ẢNH THỜI PHÁP THOẠI
http://vienchuyentu.com/wp-content/u...2015/09/L1.jpg
http://vienchuyentu.com/wp-content/u...2015/09/L2.jpg
http://vienchuyentu.com/tt-thich-thi...at-bon-nguyen/
Chương 12 : Sự quả báo về việc phóng sanh và sát sanh - Wattpad
https://www.wattpad.com/289389438-ng...-quả-báo-v...
Read Chương 12 : Sự quả báo về việc phóng sanh và sát sanh from the story ... Mình luôn tin là có luật nhân quả và cũng tin là đức năng sẽ thắng số ! ... (Trích từ sách "Địa Ngục Biến Hiện Ký của Liên Sanh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn) + ... Tôi đã hỏi Diêm Vương việc gì đã liên quan đến cây đinh vô hình làm đau của bà đệ ...
https://www.wattpad.com/289389438-ng...%BB%87c/page/3
Ksitigarbha sculpture 地藏王/菩薩/地藏王菩薩/地藏菩薩/像Stock ...
Alamy299 × 470Tìm kiếm bằng hình ảnh
Ruined statue Ksitigarbha Bodhisattva · Vietnamese temple honoring the great Ksitigarbha Bodhisattva for his vows of compassion. - Stock Photo
OM UCCHISHTA-PINDA-ASHIBHYAH SVAHA: “OM for the blessing of the leftover morsels—so be it.”
https://www.nalandatranslation.org/o...-three-jewels/
PHOWA: Tóm Lược Về Đại Pháp Chuyển Di Tâm Thức
https://drive.google.com/file/d/0B9K...ZJOUplSzQ/view
Đức Phật Dạy Cầu Nguyện Cho Thân Trung Ấm (Tiểu Luận)
https://drive.google.com/file/d/0B9K...F6dWJqM0k/view
https://www.youtube.com/watch?v=k_DrqRHVGqE
BHARDO THODOL IN NEPALI LANGUAGE
https://www.youtube.com/watch?v=9FMUsOe1wt8
BHARDO THODOL IN NEPALI LANGUAGE भार्दो थोडोल (मृत्यु देखि पुनर्जन्म नभएसम्मको अवधि) (Part - II)
October 21, 2017
TIẾNG NÓI LƯƠNG TRI
TRANG CHỦTHỜI SỰ – VĂN HÓA – CHÍNH TRỊVĂN HỌC – NGHỆ THUẬTTÌM HIỂU – ĐỜI SỐNGMỞ RỘNG TÂM HỒNTÀI LIỆU – LỊCH SỬĐÓNG GÓP BÀI VỞ
:
GS Lê Đình Thông – Khai Bút Thính Nhạc - Thursday, February 2, 2017 Tổ Đình Việt Nam, Seatle – Tưởng Niệm Vua Quang Trung - Thursday, February 2, 2017 TS. Bùi Hồng Lĩnh – Em Hãy Thở Đi - Thursday, February 2, 2017 Một nhãn quan Việt Nam: Tại sao trận đấu biển đông giữa Mỹ và Tầu có thể vừa là Stalingrad vừa là Pearl Harbor của Thế Kỷ 21? - Thursday, February 2, 2017
Search Here
Suy Niệm Về Sự Chết
Posted by TiengNoiLuongTri on Wednesday, September 3, 2014 · Leave a Comment
Giới Nghiêm Đặng Tấn Hậu
Ngày rằm tháng bảy âm lịch nhằm tháng tám dương lịch, dân gian có tục lệ cúng cô hồn hay cúng những vong linh vừa mới mất còn trên con đường tìm chổ “tái sinh” vào cảnh giới kế tiếp. Do đó, bài viết “suy niệm về sự chết” trong tháng tám nghĩ cũng thích hợp cho đề tài trong tháng. Mặc dù chúng ta không có tự do quyết định về sự sinh ra đời, nhưng chúng ta có thể làm chủ được sự chết vì chúng ta biết trước sự chết sẽ đến với chúng ta. Nếu chúng ta có chuẩn bị tinh thần thì khi thần chết đến, chúng ta sẽ nhẹ nhàng, thanh thản ra đi. Tâm lo sợ, luyến tiếc lúc chết sẽ là lực gây trở ngại cho thần thức trên con đường tìm đường “tái sinh” vào kiếp sống vị lai.
Hầu hết các tôn giáo đều tin con người gồm có hai phần: tinh thần và thể xác. Đa số hiểu tinh thần là linh hồn nên khi chết, linh hồn lìa khỏi thể xác vì linh hồn không bị tiêu diệt, còn thể xác sẽ bị tiêu hoa.i. Phật giáo nam tông giải thích không nhiều về sự chết; đại khái khi tim vừa ngừng đập thì “linh hồn” (nhà Phật gọi là thần thức) liền tái sanh vào cảnh giới khác do chính nghiệp lực của mình. Phật giáo bắc tông giải thích thần thức “tái sinh” vào “thân trung ấm” trong vòng 49 ngày nên có tục lệ cúng bảy thất tại các chùa đại thừa Trung Hoa và Việt Nam.
Phật giáo mật tông trình bày chi tiết hơn về các hiện tượng lúc lâm chung, lúc mang thân trung ấm và lúc tái sanh. Tông phái “cổ mật” (nyinmapa) lấy lời dạy trong kinh Bardo Thodol (Kinh tử thư) giải thích về sự xuất hiện của các vị bồ tát, thần, quỷ v.v do ảo tưởng của tâm gây ra. Tông phái “áo vải” (kagyupa) chỉ dạy về pháp chuyển tâm (phowa) để giúp thần thức của người chết vãng sinh mau chóng về cõi Tịnh Độ sau khi chết. Tông phái “giới đức” (gelupa) đề cập đến các hiện tượng tâm-vật lý xảy ra lúc chết và lúc tái sanh.
Bài viết thử tìm hiểu về các giai đoạn lúc chết, lúc mang thân trung ấm và lúc tái sanh để chúng ta, người chết cũng như người sống, chuẩn bị tinh thần lúc ra đi cũng như chỉ dẫn cho người hộ niệm phải làm gì đối với người sắp chết. Bài viết dựa trên nền tảng đại cương của Phật giáo; đặc biệt là Phật giáo mật tông với lời dạy của 3 tông phái “cổ mật”, “áo vải” và “giới đức”. Tinh thần bấn loạn khi chúng ta gặp chuyện bất ngờ; ngược lại, tâm không có sợ hãi nếu chúng ta biết trước và chuẩn bị cho những gì sắp xảy ra cho chính mình hay cho thân nhân.
THÂN TRUNG ẤM
Một số người giảng con người có 3 thân là tiền ấm, trung ấm và hậu ấm. Tiền ấm là thân hiện tại của chúng ta (lúc sống), trung ấm là thân ở giai đoạn từ lúc chết đến lúc tái sanh và hậu ấm là thân tái sanh vào kiếp kế. Thông thường, chúng ta hiểu thân trung ấm dịch từ chữ Bardo của Phật giáo mật tông. Thực ra, danh từ Bardo có nghĩa là giai đoạn từ điểm bắt đầu đến điểm kết thúc; thí dụ, chương trình xây cât nhà cũng là Bardo. Do đó, chúng ta có nhiều bardo (chương trình) tùy theo trường hơ.p.
“Thân trung ấm” chỉ là một trong những thí dụ nhỏ để nói về “bardo”. Vì bài viết chỉ đề cập về sự chết nên chúng ta tạm liệt kê 6 giai đoạn “bardo”: 3 giai đoạn áp dụng trong khi mang thân xác (lúc sống) và 3 giai đoạn sau khi chết. Ba giai đoạn “bardo” trong khi sống gồm có:
• giai đoạn từ lúc sinh đến khi chết;
• giai đoạn trong khi ngủ (hay nằm mơ);
• giai đoạn trong khi thiền đi.nh.
Ba giai đoạn sau khi chết gồm có:
• giai đoạn lúc lâm chung;
• giai đoạn 49 ngày;
• giai đoạn lúc tái sanh.
Mặc dù bài viết chỉ đề cập 3 giai đoạn sau khi chết, nhưng chính nhờ kinh nghiệm của 3 giai đoạn lúc sống mà chúng ta có thể hiểu được phần nào những gì lúc chết. Thí dụ, tái sanh là gì? Nếu chết hiểu là “thân-tâm” chấm dứt và “tái sanh” là “thân-tâm” thành hình thì chúng ta có rất nhiều kinh nghiệm để hiểu về sự chết và tái sanh trong khi sống. Chứng cớ là các tế bào trong cơ thể của chúng ta thay đổi hoàn toàn 7 năm 1 lần. Nếu đúng thì cơ thể lúc mới sinh ở 0 tuổi và ở 8 tuổi phải khác nhau (hay nói đúng hơn là đã tái sinh vào cơ thể mới vào lúc 8 tuổi).
Nếu luận cho chính xác hơn thì mỗi phút, mỗi giây, hơi thở vào ra trong cơ thể của chúng ta cũng đủ chứng minh có sự sinh tử của cơ thể vì không khí ra vào trong buồng phổi khác nhau từng phút, từng giây. Sự thay đổi về tinh thần còn nhanh chóng hơn nữa. Thông thường, sự thay đổi của vật chất (các nguyên tử) bằng 17 chập tư tưởng; còn gọi là 17 tâm sát na “cittakhana”; tức là tinh thần biến đổi rất nhanh.
Điều cần biết, chỉ có tốc hành tâm (javana) nằm trong 17 tâm sát na là gây ra “tâm quả” vì có tác ý (hành) nên tạo ra thọ cảm (feeling) vui buồn và tạo ra nghiệp đẩy thần thức sinh vào cảnh giới kế tiếp mà 2 chập cuối cùng trong tốc hành tâm được biết là “cận tử nghiệp” ảnh hưởng đến đời sống vị lai. Do đó, nếu cận tử nghiệp vui thì thần thức “tái sanh” vào cảnh an lạc; nếu buồn thì tái sanh vào cảnh giới “không an vui”. Điều này cũng có thể hiểu, cái vui hiện tại ảnh hưởng đến tâm hạnh phúc tương lai (ví như tái sanh vào cõi trời), cái buồn hiện tại ảnh hưởng đến tâm không an lạc tương lai (ví như tái sanh vào cõi địa ngục).
Lâm Chung
Theo Phật giáo mật tông, một người rơi vào tình trạng lâm chung (dù tự tử hay bị tai nạn) cũng đều phải trãi qua các giai đoạn giống nhau trước khi chết như sau (chỉ khác là tiến trình của các giai đoạn xảy ra nhanh hay chậm):
Tứ đại (đất, nước, lửa, gió) ngưng hoạt động theo thứ tự. Đất (xương, da thịt) xảy ra trước, kế tiếp là nước (máu, nước tiểu), tiếp theo là lửa (hơi nóng lạnh), cuối cùng là gió (hơi thở) chấm dứt. Vì thế, người sắp chết thấy các hiện tượng tâm-vật lý thường xảy ra tuần tự như sau:
• cơ thể (đất) ngưng hoạt động nên chúng ta cảm thấy cơ thể cứng lại, nhưng vì còn có hiện tượng nước (nổi bật) làm cho chúng ta thấy “ảo giác” về các sự vật ví như người đi trong sa mạc thấy “nước” do ảo ảnh gây ra.
• chất nước chấm dứt nên miệng khô, lưỡi cứng, nhưng vì hiện tượng “lửa” (chất nóng) vẫn còn nên chúng ta có ảo giác thấy khói bốc lên.
• chất nóng (lửa) chấm dứt, cơ thể lạnh đi, nhưng vì hiện tượng “gió” (hơi thở) vẫn còn nên chúng ta có ảo giác thấy các tia lửa.
• chất gió (hơi thở) dần dần chấm dứt làm cho chúng ta có cảm giác thấy ngọn đèn lung lay sắp tắt.
Đó là các hiện tượng ảo giác “thô” (gross) do thể xác mang lại; tiếp theo là 3 hiện tượng vi tế (subtle) xảy ra. Thông thường, tứ đại “thô” liên hệ với lục thức như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; còn các giọt vi tế (drop) liên hệ với mạt na thức (tiềm thức) và “thần thức” thật vi tế là “a lại da thức” của con người. [Tưởng cần nhắc lại, khoa tâm lý học (psychology) lấy từ chữ “psyche” tức là “cái ta” nên chỉ nghiên cứu đến phần vi tế gọi là “tiềm thức” (tương đương với mạt na thức chấp vào cái ta),nhưng chưa tìm hiểu đến phần “thật vi tế” là tạng thức còn gọi là “a lại da thức” trong nhà Phật.]
• 1 giọt khí mầu trắng từ đỉnh đầu chạy xuống tới tim nên người sắp chết thấy ánh sáng trắng bao trùm cả cơ thể.
• 1 giọt khí (drop) mầu đỏ từ hạ bộ lên tới tim nên người sắp chết thấy ánh sáng mầu đỏ hiện ra.
• cả hai giọt “trắng” và “đỏ” hòa hợp với nhau tại tim làm cho người lâm chung có kinh nghiệm đầu tiên về trạng thái “không” (sunyata) rồi mới ngất đi. Lúc bây giờ, người này thấy tất cả đều tối đen như mư.c. Bây giờ mới thực sự kể như chết vì thần thức “thật vi tế” đã xuất ra khỏi thể xác.
[ Tưởng cần nhắc lại, mục đích chính của PG là chấm dứt sanh tử luân hồi vì cõi sa bà đầy khổ đau; kể cả hạnh phúc cũng là khổ đau, bất toại nguyê.n. Thí dụ, ăn ngon, nhưng ăn nhiều bị tức bụng phát sinh đau khổ. Muốn chấm dứt tái sanh, hành giả phải diệt trừ “cái ta” (ego) nên mới có giáo lý về “vô ngã” hay “tánh không”. Có 3 trình độ hiểu biết về “vô ngã” (hay tánh không) từ dễ hiểu đến khó hiểu như sau:
• thứ nhất là thời gian vô thường vì không có cái gì là “thường còn” (cái ta lúc trước khác với cái ta bây giờ);
• thứ hai là không gian duyên hợp vì các yếu tố hợp lại tạm giả danh mà có tên (anh A chỉ là tổng hợp của 5 uẩn mà giả danh gọi là anh A);
• thứ ba là vạn pháp đều không; kể cả nhân quả, nhân duyên. Thí dụ,
Nhân là con ngựa thì tại sao không sinh ra quả là con bò mà lại sinh ra con ngựa? Vì nhân đã có quả chăng? nên nhân “con ngựa” mới sinh ra quả “con ngựa”? Nếu nhân đã có quả thì nhân không cần sinh ra quả vì quả đã có rồi trong nhân (kinh 12 cửa không của bồ tát Long Thọ) nên tất cả đều là “không”. PG mật tông chỉ dạy nếu thần thức nhận chân được “tánh không” trong lúc lâm chung, người này có thể chứng ngộ Niết Bàn ngay tức khắc. Do đó, cái chết là dịp may cho người chết đắc đạo nhanh chóng vì chứng ngộ “tánh không” lúc lâm chung.]
Trở lại đề tài, một người có kinh nghiệm về cơ thể học, họ có thể kiểm chứng một người sắp lâm chung có chết thực sự hay không? Họ không cần dùng máy đo tim hay đo bộ não mà chỉ cần quan sát máu đỏ có chảy ra từ mũi hay khí trắng có tiết ra từ hạ bộ hay không? Thời gian từ lúc sắp lâm chung tới khi chết thực sự có thể kéo dài vài giờ hay đôi ba ngày; chứ không nhất thiết là ba ngày như một số người nghĩ.
Với tính cẩn thận, các vị lạt ma khuyên thân nhân không nên đụng đến cơ thể của người lâm chung khoảng 8 tiếng (nếu có thể được 3 ngày thì tốt hơn) vì “thần thức” (rất vi tế) nằm trong sự hợp nhất giữa hai giọt trắngđdỏ có thể xuất ra bất kỳ nơi nào trong cơ thể từ nơi tim. Theo đức tin, nếu người thân đụng cơ thể của người lâm chung, thần thức “thật vi tế” rất nhạy cảm có thể xuất ra từ nơi gần đó như ở các cửa “ô uế” (nằm ở hạ bộ) thì vị này sẽ tái sanh vào “khổ cảnh” nên tông phái “áo vải” mới có kỷ thuật “phowa” (chuyển đưa thần thức” về cõi Tịnh Độ của Đức Phật Di Đà lúc lâm chung).
[Điều cần biết, cõi Tịnh Độ không phải là Niết Bàn vì theo định nghĩa, Niết Bàn là trạng thái, nơi chốn cực lạc an vui và chấm dứt sanh tử luân hồi, chấm dứt tam độc tham-sân-si; còn cõi Tịnh Đồ chỉ là nơi chốn “tạm” do hạnh nguyện của Đức Phật Di Đà tạo ra để những người có đức tin về ngài có thể “tái sinh” về nơi đây nhằm tiếp tục tu học chứng đạo quả giải thoát Niết Bàn. Lẽ tất nhiên, kinh kể cảnh này chỉ có “tu” chứ không có cơ hội đàn ca, hát xướng, nhậu nhẹt cho những người “không có duyên với Phật Pháp”.]
Theo “cổ mật”, tứ đại gồm có đất nước gió lửa hiện ra trước khi chết tượng trưng qua 4 vị “thần nữ” ; đó là ngài Buđhalocana tượng trưng cho yếu tố đất, ngài Mamaki là yếu tố nước, ngài Pandaravasini là yếu tố lửa và ngài Samyatara là yếu tố gió. Nếu người lâm chúng thấy hình tượng của các ngài hiện ra, chúng ta không có gì phải sợ hãi vì hình ảnh này luôn luôn ẩn hiện trong tứ đa.i. Nếu sợ hãi thì nghĩ đây chỉ là giả tướng, ảo ảnh để giữ tâm bình thản lúc ra đi.
PG thường đề cập Phật có 3 thân: sắc thân (nirmakaya) là thân 5 uẩn còn gọi là đường đi mầu trắng, báo thân (sambhogakaya) là thân biến hóa còn gọi là đường đi mầu đỏ và pháp thân (dharmakaya) là Phật tánh còn gọi là đường đi mầu đen. Ánh sáng trắng trong (clear light) có người dịch là “thanh tịnh quang”biểu tượng cho sự chứng ngộ hoàn toàn về “tánh không”. Người chết nhận chân được thanh tịnh quang lúc lâm chung thì kể như chấm dứt sanh tử luân hồi vì đạt vào trạng thái Niết Bàn “cực lạc”, không còn “cái ta” do vô minh tạo ra.
49 Ngày
Chuyện gì xảy ra sau khi chết và trước khi tái sanh vào cảnh giới mới; đó là giai đoạn 49 ngày mà thần thức sẽ “chết đi sống lại 7 lần trong 49 ngày”. Người sống trong giai đoạn này thường được hiểu là mang thân trung ấm; nghĩa là không cần ăn uống như người sống vì không có xác phàm “thô” mà chỉ có thân “vi tế”. Vị này có thể nghe, ngữi, thấy cảnh vật chung quanh và có thể đi đến bất cứ nơi nào trong tích tắc đồng hồ vì thân không bị không gian cản trở.
Do đó, người sống thường cúng cho người mang thân trung ấm các thức ăn nóng hay đốt nhang khói là lý do đó. Lẽ tất nhiên, có gia đình không thích đốt nhang hay đèn vì sợ khói mà thay thế bằng loại nhang đèn điện thì kể như người chết không được hưởng mà chỉ có ích lợi cho người sống vì họ có cảm tưởng đã làm xong bổn phận đối với vong linh người đã chết.
[Tưởng cần nhắc lại, theo mật tông, tất cả thể xác và tinh thần đều là “chân thật” (nature), là pháp (dharma); chỉ khác là phàm nhân có xác phàm hay tinh thần ô nhiểm vì vô minh và tà kiến (hiểu biết sai lầm); do đó, nguời biết nhận chân “sự thật” thì giác ngộ tánh không, chấm dứt sanh tử luân hồi. Vì thế, mật tông thường dùng kỷ thuật “thiện xảo” (phương tiện) để diễn tả các yếu tố qua hình tướng Phâ.t.
PG có công thức một người muốn thành Phật cần có 2 yếu tố “từ bi” và “trí tuệ”. Lòng từ bi tượng trưng cho “dương” vì đặc tính “động” và trí tuệ tượng trưng cho “âm” vì đặc tính “tịnh” nên mới có hình ảnh hợp nhất giữa âm và dương (union). Cùng thế đó, mật tông đã ví phương tiện đạt tới cứu cánh giải thoát là “dương” và trí tuệ tánh không là “âm” nên mới có hình tượng qua “cây tầm sét” tượng trưng cho phương tiện và “chuông” tượng trưng cho trí tuệ. Vì sự hợp nhất cứng rắn như kim cương giữa “phương tiện” và “trí tuệ”nên mật tông còn có tên là kim cương thừạ]
Giai đoạn “thân trung ấm” thường chia ra làm 3 giai đoạn “nhỏ” gồm có giai đoạn chư Phật hiện ra cùng lúc với 6 cõi sa bà, giai đoạn thứ hai là các vị thần “hiền” và “dữ” hiện ra và giai đoạn thứ ba, người mang thân trung ấm bắt buộc phải đi “tái sinh” do nghiệp lực, không còn con đường lựa chọn tái sanh như hai giai đoạn trước.
giai đoạn #1
Ngày thứ nhất, người mang thân trung ấm thấy Đại Nhật Quang Như Lai (Varocana) hiện ra với mầu xanh dương sáng chói; đồng thời lại thấy mầu trắng nhẹ của cõi trời. Nếu người này chọn con đường mầu xanh dương (blue) thì về cõi Phâ.t. Nếu sợ mầu xanh sáng chói, lại đi theo mầu trắng nhạt thì tái sanh vào cõi trời. Nếu vị này không chọn một trong hai con đường thì tiếp tục trải qua ngày thứ hai.
Ngày thứ hai, vị này sẽ thấy Đức Phật Kim Cang (Vajrasattva) mầu trắng sáng chói hiện ra; đồng thời là mầu đen của cảnh giới địa ngu.c. Nếu vị này không chọn một trong hai con đường thì sẽ trải qua ngày thứ ba.
Ngày thứ ba, vị này sẽ thấy Bảo Sinh Như Lai (Ratnasambhava) mầu vàng sáng chói hiện ra; đồng thời là mầu xanh dương (blue) của cảnh người. Nếu vị này không chọn một trong hai con đường thì sẽ trải qua ngày thứ tư.
Ngày thứ tư, vị này sẽ thấy Đức Phật A Di Đà (Amitabha) mầu đỏ sáng chói hiện ra; đồng thời là mầu vàng của cảnh giới ngạ quỷ. Nếu vị này không chọn một trong hai con đường thì sẽ trải qua ngày thứ năm.
Ngày thứ năm, vị này sẽ thấy Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiđhi) mầu xanh lá cây hiện ra; đồng thời là mầu đỏ của cảnh giới thú và thần “a tu la”. Nếu vị này không chọn một trong hai con đường thì sẽ trải qua ngày thứ sáu.
Ngày thứ sáu, tất cả Ngủ Trí Như Lai Phật gồm có Đại Nhật Quang Như Lai, Kim Cang Phật, Bảo Sinh Như Lai, Vô Lượng Quang Như Lai và Bất Không Thành Tựu Như Lai cùng hiện ra; đồng thời có tất cả 6 cảnh giới của cõi sa bà là trời, thần, người, ngạ quỷ, súc sanh và địa ngục để thần thức của người mang thân trung ấm chọn lựa con đường “thích hợp” cho đời sống kế tiếp. [Tưởng cần biết, “Ngũ Trí Như Lai Phật” tượng trưng cho 5 uẩn của Chư Phật.]
Bài viết dựa trên lời chỉ dạy của đại sư Bokar Rinpoche trong sách “Mort et Art de Mourir” (Chết và Nghệ Thuật Chết) nên các mầu hào quang của các vị Phật được tôn trọng theo lời dạy của ngài. Đại sư Thrangu Rinpoche lại chỉ dạy trong sách “The Five Buđha Families and the Eight Consciousness” (Ngũ Trí Như Lai và Tám Thức) về hào quang của chư Phật có phần khác. Thí dụ,
• Đại Nhật Quang Như Lai có công năng diệt trừ vô minh nên có hào quang mầu trắng,
• Bất Động Như Lai có công năng diệt trừ sân hận nên có hào quang mầu xanh dương,
• Bảo Sinh Như Lai có công năng diệt trừ tánh kiêu ngạo nên có hào quang mầu vàng,
• Bất Không Thành Tựu Như Lai có công năng diệt trừ tánh ganh tỵ nên có hào quang mầu xanh lá cây,
• Vô Lượng Quang Như Lai có công năng diệt trừ tâm tham ái nên có hào quang mầu đỏ.
Cả hai có điểm chung là hào quang của chư Phật sáng chói và ánh sáng của các cảnh giới khác có mầu nhạt nên thần thức của người mới mất thường sợ hãi trước hào quang tươi sáng và cảm thấy gần gũi thích hợp với mầu nhạt nên thường chọn con đường tái sanh vào 6 cảnh giới trong cõi sa bà. Đó là lý do tại sao lúc sống, chúng ta cần “quán tưởng” thường xuyên hình ảnh của chư Phật để khi lâm chung, tâm của chúng ta đã quen thuộc, không sợ hãi trước hào quang sáng chói của chư Phật ví như người con trở về nhà gặp lại đấng cha lành.
giai đoạn #2
Nếu không có sự quyết định tái sanh trong giai đoạn #1 thì các tuần lễ sau có sự xuất hiện của 42 vị thần có hình tướng hiền hiện ra, tiếp theo là 58 vị thần có hình tướng dữ. Tất cả sự xuất hiện của các vị thần trong vòng 3 tuần. Điều cần biết, sự xuất hiện của các vị thần chỉ là hình ảnh do tâm tạo tùy theo nghiệp lực của người mang thân trung ấm. Nếu chúng ta vững tâm, không lo sợ và chọn con đường tái sanh ngay lúc này thì không phải trãi qua giai đoạn thứ ba là giai đoạn tái sinh hoàn toàn dựa vào nghiệp lực, không còn có sự lựa chọn lúc này (vì 49 ngày của thân trung ấm sắp hết).
giai đoạn #3
Lúc bây giờ, “thần thức” rất nhạy cảm và lo sợ vì các hình ảnh dữ tợn, cộng thêm âm thanh, mầu sắc làm cho thần thức bị đảo điên. Đó là chưa kể “thần thức” không tâm sự được với thân nhân vì những người này không thấy được “thân trung ấm” của người chết nên làm cho “thần thức” của người chết trở nên bực tức, khó chịu; chính tâm bực tức đưa họ tái sanh vào khổ cảnh (vì cận tử nghiệp của thân trung ấm). [Điều cần nhớ, đời sống của thân trung ấm gồm có 7 kiếp; mỗi kiếp có đời sống 7 ngày; tổng cộng là 49 ngày (7×7).]
Nghiệp lực thúc đẩy thần thức “thân trung ấm” tái sanh vào cảnh giới khác nên các điều kiện hiện tại dần dần phai nhạt; nghĩa là sự liên hệ giữa cha con, vợ chồng của đời sống trước mất đi và các điều kiện tương lai ảnh hưởng đến; tức là “thần thức” thấy sự giao hợp của cha mẹ “tương lai” nên thần thức gá vào tinh trùng và minh châu của cha mẹ. Từ đó sanh ra bào thai mới, tức là thần thức tái sanh vào cảnh giới mới là một trong sáu cảnh giới của cõi sa bà và quên đi đời sống của kiếp trước.
TÁI SANH
Tiến trình của sự tái sanh đi ngược chiều lại với tiến trình của sự chết. Bước đầu là thần thức “thật vi tế “ (a lại da thức) hợp cùng với tinh khí và minh châu của cha mẹ tại trung tâm (ở tim) tạo thành bào thai. Thần thức thật vi tế bể ra làm hai tại tim, phân ra làm thần thức “vi tế” tượng trưng cho “giọt mầu trắng” (dương) lên não và “giọt mầu đỏ” (âm) xuống hạ bộ. Từ nơi đó, thần thức “vi tế” liên hệ với các dây thần kinh trong cơ thể mà chúng ta có 6 thức “thô” liên hệ với 6 căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Căn mắt chỉ thấy sự vật nên có “nhãn thức”, tai chỉ có nghe âm thanh nên chỉ có “nhĩ thức” v.v.
Thời gian của giai đoạn #1 có thể kể là tốt nhất cho con đường tái sanh vì có sự lựa chọn của thần thức trong tinh thần còn minh mẫn. Giai đoạn này thường kéo dài khoảng 1 tuần lễ đầu. Giai đoạn #2 có sự khủng hoảng tinh thần vì có sự xuất hiện của các vị thần dữ, nhưng vẫn còn có sự lựa chọn con đường tái sanh. Giai đoạn này kéo dài khoảng 3 tuần. Giai đoạn #3 là giai đoạn không có sự lựa chọn mà bắt buộc phải tái sanh do nghiệp lực thường kéo dài 3 tuần; tổng cộng là 7 tuần, còn gọi là bảy thất.
Tóm lại, muốn cho sự ra đi được thanh thản, người chết cần biết giáo pháp, suy niệm thường xuyên về sự chết để tâm không lo sợ; đặc biệt là biết bố thí để tâm không còn luyến tiếc của cải và hiểu được bản chất tự nhiên về sự chết. Có ba cách chuẩn bị cho sự chết:
• thứ nhất là cầu vãng sanh về cõi Tịnh Độ;
• thứ hai là suy niệm về “pháp nhận và cho” tức là nhận khổ đau của chúng sanh và hồi hướng phần tốt đẹp cho chúng sanh vì pháp này tạo ra thiện nghiệp, giúp thần thức “tái sanh” về nhàn cảnh;
• thứ ba là học và hành giáo pháp để hiểu vạn pháp đều là không. Cái ta không có thì làm gì có “cái ta” sinh hay diệt, làm gì có tái sanh luân hồi.
HÔ NIÊM
Chim chóc lẻ bạn còn kêu khóc, con người không khóc than lúc bạn lìa đời hay cha mẹ, anh em ra đi thì có quá vô tình chăng? nên đạo Khổng thường chủ trương nghi lễ ma chay rất trịnh tro.ng. Người Trung Hoa thường có tục lệ “khóc mướn” để tỏ lòng thương tiếc người ra đi. Nhưng đạo Phật lại chỉ dạy “thương khóc” chỉ làm thần thức người chết khó ra đi, càng kéo dài thời gian mang “thân trung ấm” 49 ngày nên chúng ta cần giữ tâm bình thản để thần thức của người ra đi được dễ dàng, nhất là mau được vãng sanh về cõi Tịnh Độ là nơi chỉ có tu mà không có đau khổ. Do đó, người hộ niệm hay ban hộ niệm đóng vai trò rất quan trọng trong lúc ma chay.
Người hộ niệm (phần nhiều là người thân trong gia đình) cần giữ tâm bình tỉnh, kính trọng sự ra đi của người thân; đó là cách tỏ lòng thương tiếc người thân; chứ không nhất thiết phải khóc than lớn tiếng mới gọi là người con có hiếu hay biết buồn thương sự ra đi của người thân. Theo Phật giáo, khóc than chỉ làm cho người lâm chung khó chịu, trìu mến, khó ra đi vì thương tiếc người ở lại nên gây trở ngại cho thần thức của người lâm chung để có sự quyết định sáng suốt, nhanh chóng trên con đường tìm đường tái sanh.
Người “hộ niệm” thấy người lâm chung đau đớn vì tử thần đến, người này nên suy niệm và nguyện cầu thầm trong tâm là người lâm chung cần nhận thức đời sống khổ đau của kiếp người và nguyện cầu cho người lâm chung mau vãng sanh về cõi Phật để không phải tái sanh luân hồi mãi mãi mà tiếp tục chịu khổ đau. Lời cầu nguyện giúp cho thần thức vững tin để từ bỏ cõi giả tạm đầy khổ đau trong cõi sa bà. Theo kinh tử thư, người hộ niệm nên nói nhỏ bên tai của người lâm chung (trước khi chết thật sự) là xin quy y Tam Bảo, nhắc nhở hạnh bố thí của người lâm chung lúc sinh tiền (để vị này có tâm hoan hỷ mà tái sanh vào nhàn cảnh).
Thân nhân có thể thành tâm làm việc bố thí và hồi hướng phước báu cho người chết trong giai đoạn thân trung ấm 49 ngày như xây tháp, xây chùa, in kinh hay niệm Phật vì tất cả việc này đều mang lại sự lợi lạc cho người chết trong giai đoạn 49 ngày. Khi nhờ nhà chùa hay bất cứ ai cúng “cầu siêu”, chúng ta nhớ đưa tên họ, ngày giờ chết và tấm hình vì lời cầu kinh của các sư (hay ban hộ niệm) sẽ giúp cho thần thức của thân trung ấm hiểu được sự vô thường, khổ não trên thế gian và chân lý vạn pháp của tánh không. Điều cần nhớ, người mang thân trung ấm có thể nghe, ngữi và đi đến bất cứ nơi nào có tiếng gọi đến tên của họ.
Một số người nghĩ không cần cúng thức ăn cho người mang thân trung ấm vì có cơ thể đâu mà ăn. Theo mật tông, người có thân trung ấm có thể ngữi được thức ăn và cảm thấy no nên có tục lệ cúng thức ăn nóng, có mùi vị. Điều quan trọng là cúng 3 thời sáng, trưa, chiều y như người này ăn lúc sanh tiền. Chúng ta không cần mời vị sư làm lễ cúng thực phẩm cho người chết. Chúng ta chỉ cần để thức ăn nóng trên bàn, đọc tên người chết và mời vong linh người chết về thọ thực phẩm là đủ, nếu cần, chúng ta đọc kinh Di Đà hay niệm Phật tiếp độ và nhắc nhở cho hương linh mau chóng vãng sanh về cõi Tịnh Độ.
Các vị lạt ma thuộc tông phái “áo vải” (kagyu) có pháp “chuyển thần thức” (phowa). Chư vị thực hành kỷ thuật phowa để đóng các cửa “ô uế” trên thân của người lâm chung và giúp cho thần thức của người này xuất ra khỏi xác từ đỉnh đầu vì có sự tin tưởng thần thức đi ra từ đỉnh đầu sẽ vãng sanh thẳng về cõi Tịnh Độ. Người lâm chung có thể tự mình thực hành kỷ thuật phowa nếu lúc sanh tiền có thực tập kỷ thuật này.
Ngày nay, một số cư sĩ VN ở hải ngoại tu theo tông phái “áo vải” cũng thường thực tập phowa để lập hạnh từ bi hộ niệm cho người lâm chung. Kỷ thuật này là con dao 2 lưỡi vì làm sao chúng ta biết người này sắp chết hay chỉ nằm yên rồi sống lại vì nghiệp lực chưa hết. Do đó, người xử dụng phowa có thể phạm trọng tội “giết người” là tội rất nặng trong PG. Điều cần biết, PG không chấp nhận “trợ tử” (euthanasia) vì đây là hình thức sát sanh, tạo ra nghiệp ác rất nă.ng.
Người hộ niệm cũng có thể để cát mạn đà la, lá chú (có ghi kinh Phật), tấm vải có viết lời kinh đắp trên cơ thể người lâm chung hay để trong hòm của người chết (còn trong vòng 49 ngày). Mật tông có tục lệ đốt lá chú và dùng tro của lá chú để trên ngực của người chết. Đó là cách trợ duyên qua thân (contact). Còn trợ duyên qua âm thanh là người hộ niệm đọc kinh hay chỉ dẫn cho người lâm chung trãi qua các giai đoạn trong thân trung ấm 49 ngày. Đây là hình thức được chỉ dẫn đầy đủ trong “kinh tử thư” (Bardo Thodol) của phái cổ mâ.t.
KẾT LUẬN
Tất cả ba tông phái PG (nam tông, bắc tông và mật tông) đều chỉ dạy “cận tử nghiệp” là chập tư tưởng cuối cùng ảnh hưởng đến “tâm quả” kế tiếp (tức là tái sanh vào kiếp kế) nên “cận tử nghiệp” rất quan trọng trong lúc lâm chung. Vì thế, người hộ niệm cũng như người lâm chung cần có tâm “bình tỉnh”, không sợ hãi, không luyến tiếc lúc tử thần đến vì “cận tử nghiệp” không tốt sẽ đưa thần thức của người chết về cõi không an lành dù vị này có làm nhiều việc thiện trong lúc sống.
Ngược lại, một người làm ác trong lúc sống, nhưng khi chết, họ có “cận tử nghiệp” tốt thì họ vẫn có thể tái sanh vào nhàn cảnh. Do đó, chúng ta không lấy làm lạ có người chết yểu khi tái sanh vào kiếp người vì kiếp này được coi là cõi tốt, nhưng vì nghiệp ác đã tạo quá nhiều trong quá khứ nên đời sống hiện tại không lâu dài. Cách hay nhất là chúng ta thường xuyên suy niệm về vấn đề sinh tử (mà chúng ta có thể nghiệm trong đời sống hiện tại) và quy y tam bảo, cũng như lạy các hình tượng Phật để khi lâm chung, tâm đã không sợ hãi lại còn luôn tưởng nghĩ đến Phật thì chắc chắn, vị này sẽ có “cận tử nghiệp” tốt đe.p.
PG đại thừa thường nói đến “thân trung ấm” và chỉ dạy hình thức cầu siêu cho người chết mau được vãng sanh về cõi Tịnh Độ nên có tục lệ cúng thức ăn nóng và nhắc nhở vong linh người chết sớm vãng sanh về cõi Tịnh Độ. Ngược lại, phật tử đại chúng có hình thức cầu siêu cúng ngọ cho vong linh người thân với bát cơm đôi đủa, còn các bát khác chỉ có 1 chiếc đủa với lập luận sợ vong linh của người chết khác dành lấy thức ăn của người thân của mình (vì họ chỉ có 1 chiếc đủa thì làm sao gấp thức ăn cho kịp). Tôi thiết tưởng hành động này quá ích kỷ, không vị tha; trái với giáo lý “cho và nhận” trong tinh thần “từ bi” của PG đại thừa. Chúng ta nên bỏ tập tục này.
PG mật tông giải thích chi tiết về sự sống và sự chết nên chúng ta có thể áp dụng vào chính đời sống của mình trong khi sống. Thí dụ, suy niệm về “thuyết tái sanh” trong khi sống để có đức tin vững chắc về thuyết tái sanh luân hồi hay thiền định về tiến trình của sự tử để chuẩn bị đối đầu với thần chết hoặc theo dõi tiến trình của danh-sắc trong khi ngủ vì đây là dịp chúng ta có thể có kinh nghiệm về lục thức, mạt na thức và a lại da thức, cũng như trãi qua kinh nghiệm về ảo giác mà nhận chân được “tánh không”, vô ngã trong lúc ngủ và trong khi thiền đi.nh. Lẽ tất nhiên, đây là kỷ thuật “thiền” mà chúng ta cần có vị thầy có kinh nghiệm chỉ dẫn tu tâ.p.
Nguyện cầu tất cả chúng sanh đều được an vui và hạnh phúc!
ĐTH (1.8.2014)
http://tiengnoiluongtri.com/2014/09/...em-ve-su-chet/
https://www.youtube.com/watch?v=1heqibIFrR0
Pháp Vương Drukpa an vị xá lợi và tượng phật cổ nghìn năm