https://kagyuoffice.org/wp-content/u...ya-997x665.jpg
https://kagyuoffice.org/karmapa/
Printable View
[ LINH PHÙ TRẤN TRẠCH THEO ĐỒ HÌNH VĂN THÙ CỬU CUNG ]
🔖 Dzambala store hiện đang có linh phù bằng đồng chất luợng tốt, không rỉ sét, với 3 size :
- size lớn 14,5cm x 17,5cm : 388k
- size trung 10cm : hết hàng
- size nhỏ 7,5cm x 10cm : 218k
- size mini bỏ túi 5cm x 8cm : 138k
🌈 Đem Chú Đồ này treo trên cửa lớn hoặc bên trong nhà, thì người bên trong nhà được ở yên ổn, chẳng luận: cầu tiền, hôn nhân, cầu con, danh vị,… điều mong cầu đủ hay tăng Duyên lành mà sinh sinh chẳng dứt, diệt Duyên ác mà không có tai họa, ngưng dứt bệnh tật mà thêm tuổi thọ, ngăn chận tất cả Thái Tuế, Tuế Phá, Kiếp sát, Tai Sát, Tuế Sát, Phục Binh, họa của con người… các năm, tháng, ngày, giờ, sát tinh, trở đảng lộ xung, cửa, sàn, bếp, nhà cầu… phương vị chẳng tốt, chỗ sinh hung sát…khiến cho trong nhà toàn gia lớn nhỏ bình an, gia quan tiến tước, chiêu tài tiến bảo, phước thọ lâu dài, an hòa lợi lạc, trăm việc đều thích hợp, cát tường như ý
🌈 Văn Thù Cửu Cung Bát Quái do Tổ Sư khai sơn của Mật Giáo Tây Tạng là Liên Hoa Sinh (Padma-saṃbhava) vì Từ Bi thương tất cả chúng sinh ở Thế Gian do thọ nhận Thời, Không, Phương Vị chẳng cát tường, đã sinh ra chướng nạn, nên đặc biệt gom tập ba đất Phạn, Hán, Tạng phá trừ các loại hung sát để trấn nhà cửa, an cư diệu bảo mà thành.
🌈 Phân giải đồ hình Văn Thù Cửu Cung Bát Quát :
- Phương bên trên, ở chính giữa là ba vị Đại Bồ Tát: Quán Âm (Avalokiteśvara), Văn Thù (Maṃjuśrī), Kim Cương Thủ (Vajra-pāṇi) là Tôn của ba Tộc Tính (Kulāya) chủ về nắm giữ Nhân, Trí, Dũng thuộc Từ Bi, Trí Tuệ, Lực Lượng của Mật Thừa Phật Giáo
- Thần Chú của Kim Cương Thủ là: OṂ VAJRA-PĀṆI HŪṂ
- Thần Chú của Văn Thù Bồ Tát là: OṂ A RA PA CA NA DHĪḤ
- Thần Chú của Quán Âm Bồ Tát là: OṂ MAṆI PADME HŪṂ
_Phía bên trái là Thời Luân Kim Cương Chú Luân khiến cho phương trên, phương dưới, Đông, Nam, Tây, Bắc, bốn góc cùng với nhóm năm, tháng, ngày, giờ là Thời Không Vũ Trụ, tổ hợp Thế Giới tất cả tự tại
_Phương bên phải là Hồi Già Chú Luân phòng hộ tất cả hung sát, chướng ngại, xua đuổi điều chẳng lành.
🌈 Ba vòng tròn ở ngay chính giữa:
- Vòng tròn bên ngoài là 12 Sinh Tiếu đại biểu cho 12 Địa Chi dùng 12 loại Động Vật của năm ấy phối hợp với Thiên Can diễn hóa thành 60 Giáp Tý
- Vòng tròn ở giữa là Quái gồm có Càn (☰), Đoài (☱), Ly (☲), Chấn (☳), Tốn (☴), Khảm (☵), Cấn (☶), Khôn (☷) đại biểu cho nhân chủng, sự vật của nhóm Thiên (Trời), Trạch (đầm nước, hồ nước), Hỏa (lửa), Lôi (sấm), Phong (gió), Thủy (nước), Sơn (núi), Địa (đất)
- Vòng tròn bên trong án chín cách trên lưng con rùa, chia làm 9 số
Cung thứ nhất là màu trắng, tượng trưng cho vật, thuốc
Cung thứ hai là màu đen, tượng trưng cho Ma (Ma Quỷ)
Cung thứ ba là màu xanh biếc, tượng trưng cho nước
Cung thứ tư là màu xanh lục, tượng trưng cho Rồng
Cung thứ năm là màu vàng, tượng trưng cho Chiến Thần
Cung thứ sáu là màu trắng, tượng trưng cho Quân Chủ
Cung thứ bảy là màu đỏ, tượng trưng cho Yêu (yêu quái, Quỷ)
Cung thứ tám là màu trắng, tượng trưng cho Địa Chỉ (Phúc của đất)
Cung thứ chín là màu tím, tượng trưng cho lửa
🌈 Năm Hành phối với nhau, ba màu trắng thuộc Kim, màu đen và màu xanh biếc thuộc Thủy, màu xanh lục thuộc Mộc, màu vàng thuộc Thổ, màu đỏ thuộc Hỏa _Vòng tròn này tổng quát tất cả thởi gian, phương vị, phong thủy, địa lý.
🌈 Bên ngoài vòng tròn có một con mắt giận dữ, răng nanh dài hung ác đáng sợ, cái lưỡi cuốn cong lên, lộ rõ Hung Thần bốn tay đều là trông coi mặt trời, mặt trăng, tinh tú, năm, tháng, ngày, giờ…thuộc La Hầu tục xưng là Thái Tuế Tinh Quân
- Chú Luân ở phương bên dưới, phía bên phải là mẫu nguyên âm của tất cả âm thanh với Duyên Khởi Chú tạo làm tăng trưởng Duyên lành, Phước Đức, hút lấy tinh hoa của Trời đất, mặt trời, mặt trăng
- Chú Luân ở phương bên dưới, phía bên trái là làm y theo Âm Dương Ngũ Hành Cửu Cung Già Chỉ Chú Luân hay ngăn che tất cả Duyên trái nghịch
🌈 Công Đức lợi ích:
Đem Chú Đồ này treo trên cửa lớn hoặc bên trong nhà, thì người bên trong nhà được ở yên ổn, chẳng luận: cầu tiền, hôn nhân, cầu con, danh vị,… điều mong cầu đủ hay tăng Duyên lành mà sinh sinh chẳng dứt, diệt Duyên ác mà không có tai họa, ngưng dứt bệnh tật mà thêm tuổi thọ, ngăn chận tất cả Thái Tuế, Tuế Phá, Kiếp sát, Tai Sát, Tuế Sát, Phục Binh, họa của con người… các năm, tháng, ngày, giờ, sát tinh, trở đảng lộ xung, cửa, sàn, bếp, nhà cầu… phương vị chẳng tốt, chỗ sinh hung sát…khiến cho trong nhà toàn gia lớn nhỏ bình an, gia quan tiến tước, chiêu tài tiến bảo, phước thọ lâu dài, an hòa lợi lạc, trăm việc đều thích hợp, cát tường như ý
🌈 Phương pháp sử dụng:
Có thể treo trên cửa lớn, hoặc treo bên trong nhà, hoặc treo túi mang bên thân.
(trích source: kinhmatgiao)
https://scontent.fsgn5-3.fna.fbcdn.n...43&oe=5D070F4D
https://www.facebook.com/dzambalasho...type=3&theater
https://www.youtube.com/watch?v=f8I9SEIq9Sg
Ngài Đạo tế Tế Điên Hòa thượng HT. Thích Giác Hạnh Giảng
http://www.dkn.tv/wp-content/uploads...image114-1.png
Lạt ma Tây Tạng Lobsang Rampa (8/4/1910 – 25/1/1981).
Ảnh: lobsangrampa.org
https://www.dkn.tv/khoa-hoc-cong-ngh...-long-dat.html
Cao tăng Ấn Độ trường thọ 1072 năm được ghi chép chân thực trong sách sử
https://www.dkn.tv/wp-content/uploads/2019/03/628.jpg
https://www.dkn.tv/wp-content/upload...290826a2b.jpeg
Khi nhắc đến người thọ nhất thế giới, có lẽ mọi người thường cho rằng đó là Bành tổ, là người được ghi chép trong sách sử thọ hơn 800 năm. Tuy nhiên trong lịch sử từng có một tăng nhân tu luyện đắc đạo thọ hơn 1.000 năm, đó chính là Bảo Chưởng hòa thượng.
Có câu: “Nhất tăng, nhất đạo”. Đạo ở đây cũng chính là nói tới Bành Tổ ở núi Bành Sơn, ông sống 880 năm, còn Tăng ở đây chính là Bảo Chưởng hòa thượng, ông sống tới 1072 tuổi. Có nhiều người cho đây là chuyện huyễn hoặc, nhưng trên thực tế hai người này đều là nhân vật có thật được ghi chép rõ ràng trong lịch sử.
Trong cuốn: “Hoàng Mai Lão Tổ Tự Chí” biên tập vào những năm Khang Hy triều Thanh có nhắc tới truyền kỳ về Bảo Chưởng hòa thượng. Trong đó có một mục “Thiên Tuế Bảo Chưởng hòa thượng bình sinh khất thực” do chính đại lão tổ trụ trì Mão Khê Hành Lâm quốc sư (1613-1677) biên soạn. Năm Gia Khánh thứ 20 biên sửa cuốn “Hoa Dương Huyện Chí, Ngũ Đăng Hội Nguyên” cũng có ghi chép những điều liên quan đến Bảo Chưởng hòa thượng hết sức rõ ràng.
Theo một số ghi chép lại thì Bảo Chưởng hòa thượng sinh ra tại Ấn Độ vào giờ Ngọ ngày 7/7/năm Đinh Mão 512, tức năm 414 TCN, cuối thời xuân thu đầu thời chiến quốc. Bảo Chưởng hòa thượng là con cái dòng dõi Bà La Môn giáo danh giá tại trung Ấn. Truyền thuyết kể lại, khi Bảo Chưởng hòa thượng sinh ra đã được dự báo ngài là con người khí chất bất phàm, mắt to, mũi dài, hai tai kéo trễ, lông mày cao xéo, tay trái luôn nắm chặt không buông. Cha mẹ ngài khi đó cũng đã dự liệu ngài là lớn lên sẽ khác hoàn toàn những đứa trẻ thông thường.
Khi Bảo Chưởng hòa thượng vừa lên 9 tuổi cha mẹ ngài liền đưa ngài tới tịnh xá của nơi cửa Phật xuất gia làm Sa Di. Khi sư phụ Bảo Chưởng hòa thượng giúp ngài quy y tam bảo, ngài liền mở bàn tai trái bao năm chưa từng mở ra của mình, một hạt minh châu liền lộ ra. Ngài dùng hai tay thành kính dâng viên ngọc minh châu lên đưa cho sư phụ, và đây cũng là lần đầu trong đời ngài thi lễ hai tay hợp thập. Chứng kiến mọi việc, mọi người đều cho đây là kỳ tích dân gian, sư phụ của ngài cũng vì thế mà lấy pháp hiệu cho ngài là Bảo Chưởng hòa thượng.
Cũng kể từ đó ngài xuất gia tinh tấn tu hành, tuân thủ giới luật. Sau khi trưởng thành, vì để tham chiếu được nhiều Phật Pháp hơn nữa, ngài đã vân du tứ hải, trau dồi tri thức thánh nhân. Trải qua 500 năm đi khắp năm châu, cuối cùng ngài cũng tới vùng đất Trung thổ, cũng chính là Trung Quốc ngày nay.
Cuối thời Đông Hán, đầu thời Hán Hoàn đế, trong khoảng thời gian từ năm Kiến Hòa tới năm Vĩnh Hưng (CN 147-153), ngài từ vùng đất Nepal tiến nhập vào Tứ Xuyên, Vân Nam, Trung Quốc. Điểm dừng chân đầu tiên của ngài chính là núi Nga Mi, hướng lễ Bồ Tát Phổ Hiền rồi ở lại Đại Bi Tự tròn 10 năm.
(Ảnh minh họa: xuehua.us)
Thông thường 20 ngày Bảo Chưởng hòa thượng mới ăn một bữa cơm nhưng vẫn kiên định thường hằng tụng kinh. Tương truyền mỗi ngày ngày ông thông tụng trên nghìn cuốn kinh sách. Ngài thường nói với mọi người rằng: “Ta đây có một tâm nguyện, có thể sống tại nhân gian 1.000 năm, năm nay cũng đã được 626 năm rồi”, và cũng từ đó mọi người thường hay gọi ngài là “Thiên tuế hòa thượng”. Sau này Bảo Chưởng hòa thượng lại đến núi Ngũ Đài Sơn thỉnh lễ Văn Thù Bồ Tát.
Tới thời Tam Quốc, Ngụy Tấn nam bắc phân tranh, ngũ hổ nhập Trung Hoa, chiến sự rối loạn, Bảo Chưởng hòa thượng ẩn thân tại tự viện khai đàn thuyết pháp phổ độ chúng sinh. Tuy bên ngoài chiến sự liên miên nhưng bên trong lại không hề có mảy may tin tức. Đến năm 657, năm Hiển Khánh thứ 2 thời Đường Cao Tông, Bảo Chưởng hòa thượng đã được 1072 tuổi.
Theo sách sử ghi lại, vào đúng ngày 7/7 năm đó, Bảo Chưởng hòa thượng đột nhiên nói với hai đệ tử của mình là Như Quang và Huệ Vân rằng: “Vốn dĩ bất sinh bất diệt, nay lại hiện lộ sinh tử. Ta phải đi trọ tâm, kiếp sau còn tới đây”. Ý của Bảo Chưởng hòa thượng rằng vốn dĩ cho rằng bản thân đã bất sinh bất diệt nhưng không ngờ bây giờ lại hiển lộ ra sinh tử, kiếp sau còn cần phải đầu thai quay lại nơi này. Nói xong Bảo Chưởng hòa thượng liền nhắm mắt nhập định.
Tuy nhiên sau khi nhập định được 7 ngày, Bảo Chưởng hòa thượng lại tỉnh lại nói với chúng đồ đệ: “Sau khi ta chết mọi người phải ở đây tu tháp cung dưỡng, sau này sẽ có người đến đón di cốt của ta về Thiên trúc. Hy vọng mọi người đừng cự tuyệt”, dứt lời liền vĩnh biệt cõi đời.
Như vậy, Bảo Chưởng hòa thượng, vị cao tăng người Ấn Độ đã sống 1072 tuổi, từ thời Xuân Thu cho đến triều đại nhà Đường, đến nay không có người nào vượt qua. Đây cũng chính là trường hợp sống thọ mệnh nhất được lịch sử ghi chép lại.
Minh Vũ
Theo soundofhope.org
https://www.dkn.tv/van-hoa/cao-tang-...g-sach-su.html
513. Ta na yết ra
Dịch: Quỷ điên cuồng.
Kệ:
Hút độc phục dược phát điên cuồng
Hồ ngôn loạn ngữ tự xưng vương
Bát vô nhân quả phi tinh phụ
Ngũ bộ pháp chủ trấn bát phương.
Nghĩa là:
Hút độc uống thuốc phát điên cuồng
Ăn nói hồ đồ tự xưng vương
Bát vô nhân quả yêu tinh nhập
Năm bộ pháp chủ trấn tám phương.
Giảng giải: “Hút độc uống thuốc phát điên cuồng”: Câu Chú nầy là chỉ « Quỷ điên cuồng ». Tại sao có quỷ điên cuồng? Vì có người điên cuồng. Nếu không có quỷ điên cuồng, thì cũng không có người điên cuồng. Cho nên quỷ nhờ sức người, người nhờ sức quỷ, hổ tương trợ giúp. Bạn thấy người điên cuồng họ chẳng màng, chẳng lo gì hết, chẳng sợ trời, chẳng sợ đất, người Mỹ nói tiếng Tàu, gì cũng đều chẳng sợ, cho rằng mình là ông trời, là Phật, là tổ tông. Sự điên cuồng nầy, cũng có một luồng oán khí bên trong. Điên cuồng chẳng phải chỉ là một thứ, mà là có rất nhiều tới tám vạn bốn ngàn thứ.
Lúc tôi ở tại Đông Bắc Trung Quốc, đã từng thấy qua một dạng điên cuồng, nói ra đây cũng đều là do nhân quả. Có gia đình nọ, sinh ra hai người còn gái, cô con gái lớn được mười bảy tuổi, thì đi theo bạn trai, bèn có thai đã lớn. Tư tưởng của người xưa rất là bảo thủ, chẳng giống như nước Mỹ bây giờ rất cởi mở.
Cha của cô ta rất là nóng tính nói: “Việc nầy có thể nhẫn, thì gì chả nhẫn được? Làm gì chưa cưới hỏi mà có con? Đâu có lý nầy”! Bèn trừng trị cô ta. Vì ông ta say rượu, do đó ông ta với cô con gái út đào một cái hố, chôn sống cô con gái lớn. Đây là giết một người mà thành hai mạng người.
Từ đó về sau, oán khí oan hồn của cô chị nhập vào cô em, quỷ lớn và quỷ nhỏ liên hợp với nhau khiến cho cô ta điên cuồng. Điên cuồng như thế nào? Cô ta chạy ra đường, đi về trước ba bước, thì lùi về sau hai bước, đi khắp nơi nói với mọi người rằng: “Mày có biết tao là ai không? Tao là tổ tiên của nhà mày”. Hoặc là: “Tao là lão gia trong nhà của mày”. Hoặc là: “Tao là tổ tông ba đời nhà mày”. Có cha của họ chết, cô ta bèn nói: “Tao là cha của mày”. Cô ta đi khắp nơi mạo xưng.
Thật tế người khiến cho cô ta điên cuồng, là chị của cô ta và đứa con trong bụng của cô ta, cùng nhau đến đòi mạng cô ta. Ba của cô ta say rượu, thì cô ta cũng say rượu, cho nên chôn sống cô ta. Ba của cô ta chết rồi, thì báo ứng rơi vào trên thân của người em gái. Có người giới thiệu tôi đi đến độ cho cô ta, (một số người vẫn không biết cô ta đã giết người chị), lúc đó tôi tuổi còn trẻ, chẳng biết tốt xấu gì, vì cô ta mà trị, trị như thế nào? Lập tức trên trán cô ta mọc ra một cái sừng, dài khoảng hai tất, giống như sừng bò, bất quá do thịt hình thành.
Tôi có một đệ tử quy y, trên đầu cũng có một “nhục kế”, lớn cỡ quả cam. Trước kia cô ta vốn là con đà bối, giống như con ngan, nhưng cô ta thường niệm Bồ Tát Quán Thế Âm. Có một lần nọ bị ngã nhào, đáng lý ngã sấp, nhưng lại ngã ngửa, bạn nói có kỳ lạ chăng? Đầu của cô ta mọc ra một vật, do đó bèn đến hỏi tôi rằng: “Cái nầy có đáng sợ không”? Tôi nói: “Nhục kế mà sợ gì? Đây là con niệm Phật có sự cảm ứng”. Cô ta nghe rồi cũng cảm thấy rất vui. Nhưng hơn hai mươi năm qua, vật đó trên đầu cô ta càng dài ra, đầu lại thêm đầu, cảm giác chẳng dễ chịu, bèn thỉnh tôi nghĩ cách gia trì cho cô ta. Tôi bèn nói với cô ta: “Con giữ nó thì càng tốt, con so với người khác nhiều hơn một phần”! Nhưng cô ta chẳng có nhiều nơi như thế, lúc ngủ cũng rất bất tiện.
Tôi gia trì cho cô ta chẳng bao lâu, một ngày nọ khi cô ta làm việc ở nhà bếp, nhục kế bị vỡ, chảy ra khoảng một tô nước trà, sau đó cô ta đến bệnh viện kiểm tra, bác sĩ bèn nói chẳng có độc. Cô ta nói: “Đương nhiên chẳng có độc, vì đã hơn hai mươi năm, tôi cũng chẳng chết”.
Tại sao hay bị điên cuồng? Vì người đó hút độc, hút thuốc phiện, điên điên đảo đảo, cho rằng mình đã thành Phật, thành Tiên. Thời xưa rất lâu xa đã có cây gai, người hút cây gai rồi, thì cảm thấy nhìn thấy thần, gì cũng nhìn thấy được, cho rằng mình hay giỏi, cho nên bị điên cuồng.
“Ăn nói hồ đồ tự xưng vương”: Ăn nói hồ đồ, tự xưng là hoàng đế, tự xưng mình là Phật, nói mình có tam sơn ngũ nhạc gì đó, loại cửu hầu tiên sinh, kỳ thật, đây là hầu tinh, ngưu tinh, mã tinh, điểu quy tinh đang tác quái. Kẻ ngu chẳng minh bạch, bèn nói đây là Bồ Tát khai nhãn, có ngũ nhãn lục thông, đây đều là bắn đại pháo (nổ).
Tôi có một vị đệ tử, suốt ngày đến tối muốn thần thông, nên nghe trong hư không có âm thanh kêu anh ta ăn đại tiện. Người đó chuyên tin Mật Lặc Nhật Ba, ôi, đây là do tôi dạy đệ tử, vì tôi làm sư phụ mà không biết dạy người, nên Hằng Không cũng chẳng không.
“Bát vô nhân quả yêu tinh nhập”: Tại sao không sợ nhân quả? Vì họ có yêu tinh nhập. Yêu tinh tức là hồ ly tinh, xà tinh, trăn tinh, hoàng thử lang tinh, những ngưu quỷ xà thần nầy, đều là yêu tinh, khi chúng thấy người đó có tố chất điên cuồng, thì chúng bám vào thân họ, trợ giúp họ. Ví như Lư Thắng Ngạn bị ma quỷ nhập, Lâm Vân thì có chim rùa theo, người nầy chuyên môn đi lường gạt tiền tài, sắc đẹp, nếu anh ta hành dâm với người nữ, thì người nữ đó từ từ cũng sẽ làm chim rùa, trở thành quyến thuộc của anh ta. Ở nước Mỹ thì có Jinones, Rojanish. Cho nên yêu ma quỷ quái đều muốn lập mối quan hệ với người, để phan duyên, để tăng thêm thế lực của chúng.
“Năm bộ pháp chủ trấn tám phương”: Như vậy phải làm thế nào? Bạn tụng trì Chú Lăng Nghiêm, thì năm bộ pháp chủ và năm bộ diệu pháp trấn tám phương, tất cả yêu ma quỷ quái đều lão thật.
http://langnghiem.com/de-ngu/
Ở Los Angeles, tôi đã từng gặp không ít các đồng tu học Phật rất
kiền thành, từng có một vị Thượng Sư Mật Tông đến đó mở đỉnh đầu
(khai đảnh) cho họ, cắm cọng cỏ vào đó
16
. Những đồng tu học Phật như
ong vỡ tổ kéo đến, đến cắm cọng cỏ [vào đỉnh đầu] vẫn phải nộp lệ phí,
thâu mỗi người hai mươi Mỹ kim. Đã thế, vị Thượng Sư bảo họ: “Đỉnh
đầu đã mở, tương lai chắc chắn sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới”.
Tôi đến Los Angeles, các đồng tu đem chuyện này kể với tôi, tôi nói:
“Nếu có pháp môn ấy trong thời Thích Ca Mâu Ni Phật, mà đức Phật
chẳng truyền lại, Phật chẳng từ bi! Cớ sao chúng ta phải khổ sở niệm
Phật nhiều năm như thế, cắm cọng cỏ vào đỉnh đầu là sang Tây Phương
được rồi, đơn giản ngần đó! Pháp này chưa hề được truyền rộng khắp
trong thiên hạ, đức Phật chẳng từ bi! Cắm cọng cỏ [vào một huyệt trên
đỉnh đầu] bèn có thể vãng sanh, tôi chẳng tin tưởng!”
Sau đó, tôi đến Nữu Ước, ở Nữu Ước có một vị pháp sư tuổi còn
rất trẻ, lại còn có một tỳ-kheo-ni rất trẻ, đại khái chưa đến ba mươi tuổi,
chúng tôi nhắc đến chuyện ở Los Angeles, bọn họ nói: “Chuyện này rất
đơn giản, chúng tôi đều có thể cắm”. Tôi hỏi: “Chuyện này là như thế
nào?” Bọn họ đã học châm cứu, họ nói: “Trên thân người có các huyệt
đạo. Huyệt đạo trên đỉnh đầu lớn nhất, chỉ cần tìm đúng huyệt đạo thì sẽ
có thể cắm được, cũng chẳng cần phải tác pháp
17
, cũng chẳng cần phải
niệm chú”. Tôi nói: “Công phu của các vị còn cao hơn công phu của vị
Thượng Sư đó!” Đủ thấy tánh con người ưa chuộng kỳ quái, tà sư bên
ngoài dùng cách mầu mè để lừa gạt. Hắn cắm cọng cỏ kiếm được không
ít tiền mang về; quý vị chẳng thể vãng sanh, hắn đâu có chịu trách
nhiệm! Do vậy, hễ thiếu tri kiến bèn bị lừa, bị người khác gạt gẫm. Tôi
thấy quá nhiều người bị gạt, bị lừa. Quý vị giảng chánh pháp, bảo họ bỏ
ra một ít tiền để làm công đức họ chẳng làm, tiếc tiền! Lừa gạt họ, họ
ngoan ngoãn mắc lừa, hết sức ngu si! Tri kiến chẳng chánh, “hãm nhập
quần tà” (bị vây hãm trong các thứ tà kiến). “Quần tà” là như kinh
Lăng Nghiêm đã nói: “Tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng”, bị
kẻ khác gạt gẫm!
(Huyền Nghĩa) Bỉ Phật nguyện lực oai thần gia bị hành nhân,
đại quang minh trung, bất tao ma sự, năng vị hộ niệm, trực chí đạo
tràng.
(玄義) 彼佛願力威神加被行人 , 大光明中 , 不遭魔
事,能為護念,直至道場。
===================
16 Đây là một phép tu của Mật Tông có tên gọi là Ph’owa (thuật ngữ Tây Tạng dịch
từ tiếng Phạn Samkrānti, thường được gọi là Sáu Phép Yoga của đại hành giả
Naropa, tức là những pháp tu thường được coi là do đại thành tựu sư Tilopa của Ấn
Độ truyền lại) nhằm chuyển hóa thần thức khi lâm chung. Phép tu này đòi hỏi hành
giả phải tập luyện bằng những cách quán tưởng nhằm hướng dẫn thần thức quen với
diễn biến của sự chết, để có thể điều khiển thần thức trong lúc lâm chung. Họ tin
rằng khi đạt đến thành tựu nhất định, dưới sự hướng dẫn của một vị A-xà-lê, sẽ mở
được một huyệt ở đỉnh đầu, và để dễ quán niệm, người ta cắm vào đó một cọng cỏ
Kusha (Cát Tường Thảo). Khi lâm chung, thần thức sẽ theo huyệt ấy thoát ra khỏi
thân xác. Tuy thế, khi truyền sang các nước khác, nhất là tại Mỹ và các nước phương
Tây, có những Thượng Sư ham lợi, đã giở trò làm lễ mở đỉnh đầu cho bất cứ ai đóng
đủ lệ phí, cắm vào đó một cọng cỏ, bảo họ đã có thể liễu sanh thoát tử, chẳng hề
truyền dạy giáo nghĩa và cách hành trì của phép tu Ph’owa! Có những người như
Liên Sanh Hoạt Phật (tên thật là Lư Thắng Ngạn) của Chân Phật Tông (một tà phái
đội danh Mật Tông Tây Tạng ở Đài Loan, pha trộn lung tung Mật Tông và các tín
ngưỡng dân gian lẫn Đạo Giáo, có rất nhiều tín đồ người Hoa tại hai tiểu bang
California và Washington) đi đâu cũng khoe vết thủng trên đỉnh đầu để chứng tỏ
mình là Hoạt Phật (Phật sống) thứ thiệt đã khai đảnh!
17 “Tác pháp” là một thuật ngữ thường dùng trong Mật Tông với ý nghĩa cử hành các
nghi lễ như sái tịnh đàn tràng, hộ thân, triệu thỉnh Bổn Tôn, gia trì, quán đỉnh, tiêu
tai, cung tống Bổn Tôn v.v..
http://ftp.budaedu.org/ebooks/pdf/VI303.pdf
Trong một pháp hội được ghi hình, khi nhận được câu hỏi từ mảnh giấy:” Hòa Thượng có biết Lư Thắng Ngạn không?”, Hòa Thượng Tuyên Hóa trả lời :”Tôi không biết Lư Thắng Ngạn là ai … nhưng đối với tôi hắn chỉ là một con tiểu quỷ. Hắn ta ăn thịt uống rượu và suốt ngày vui đùa với đàn bà”.[4]
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%...1p#cite_note-4
阿彌陀經疏鈔演義 Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
337 Lô Thắng Ngạn là giáo chủ tà phái Chân Phật Tông của Đài Loan. Ông ta sanh năm 1945, quê ở Gia Nghĩa (Đài Loan), thuở nhỏ theo đạo Tin Lành, từng tốt nghiệp kỹ sư khảo sát từ đại học Trung Chánh, chuyên dạy Kinh Thánh vào Chủ Nhật mỗi tuần. Đột nhiên, năm 1969, ông ta tuyên bố được Diêu Trì Kim Mẫu khai Thiên Nhãn Thông và hai mươi vị đạo sư của Đạo Giáo, Hiển Giáo và Mật Giáo Tây Tạng thị hiện, khải thị nên theo Phật giáo, học Phong Thủy với Liễu Minh Hòa Thượng, quy y với ngài Ấn Thuận để học Thiền, và bắt đầu khai đạo, thành lập tông phái Linh Tiên Tông. Giáo nghĩa của ông ta pha trộn lung tung những niềm tin dân gian, tín ngưỡng Đạo Giáo, vay mượn và xuyên tạc Mật Tông Phật giáo, nhất là Mật Tông Tây Tạng. Ông ta tuyên bố từng được “điểm đạo” bởi các vị lạt-ma nổi tiếng của Tây Tạng như Karmapa đời thứ mười sáu, Rangjung Rigpe Rinpoche, Tai Situ Rinpoche, nhưng các lạt-ma Tây Tạng không công nhận điều này! Ông ta tự tuyên bố mình là hóa thân của một vị Bồ Tát tên Padmakumara (Liên Hoa Đồng Tử), vị này chính là hóa thân của A Di Đà Phật (sic!), nên thường tự xưng là Liên Hoa Hoạt Phật. Năm 1982, ông ta dẫn vợ con sang Mỹ, định cư tại Seattle và đổi tên đạo của mình thành Linh Tiên Chân Phật Tông; về sau chỉ còn gọi là Chân Phật Tông. Ông ta lại xin quy y với thượng sư Thổ Đăng Đạt Cát của Hoàng Giáo Tây Tạng (chi phái Mông Cổ) tại Hương Cảng để tăng uy thế. Năm 1986, ông ta chính thức xuống tóc xuất gia tại chùa Lôi Tạng do chính ông ta sáng lập tại Seattle, nhưng vẫn sống với vợ con, hưởng thụ mọi lạc thú trần tục, thậm chí tín đồ không cần kiêng rượu thịt. Vợ ông ta là Liêu Lệ Hương tự xưng là Liên Hương Thượng Sư và nắm quyền chỉ đạo pháp vụ trong Chân Phật Tông. Năm 1996, sau khi xin được tiếp kiến Đạt Lai Lạt Ma và sư trưởng Ganden Tri Rinpoche (trưởng dòng tu Gelugpa, tức dòng tu của Đạt Lai Lạt Ma), Lô Thắng Ngạn tuyên bố ông ta được hai vị này công nhận ông ta là lạt-ma cao cấp của Tây Tạng và có toàn quyền xử lý sự vụ của tín đồ Phật giáo Tây Tạng tại Đài Loan, nhưng văn phòng chính phủ Tây Tạng phản bác tuyên bố này. Ngày 24 tháng Mười năm 2007, bảy đại đoàn thể Phật giáo Trung Hoa tại Mã Lai (Tổng hội Phật giáo Mã Lai, Hội Thanh Niên Phật Giáo Mã Lai, Hội Phật giáo Hoằng Pháp Mã Lai, Tích Lan Phật Giáo Tinh Tấn Hội, Phật Quang Sơn, Phật Giáo Từ Tế Công Đức Hội, Tổng Hội Kim Cang Thừa Mã Lai) cùng một số tổ chức Phật giáo tại Đài Loan và Hương Cảng đã cùng tuyên cáo Chân Phật Tông là ngoại đạo dựa hơi Phật giáo. Hai vị Ấn Thuận và lạt-ma Thổ Đăng Đạt Cát đều tuyên bố minh bạch họ không có quan hệ sư thừa với họ Lô.
http://hocday.com/-ch-ging-lo-php-s-....html?page=101
A-na-luật (pi. anuruddha)
(Aniruddha - Anurauddha) (Mắt trời thấy suốt, không gì chướng ngại)
A-na-luật (Hán tự: 阿那律, tiếng Nam Phạn: Anuruddha, tiếng Phạn: aniruddha, tiếng Tạng chuẩn: མ་འགགས་པ་): Thiên nhãn đệ nhất;
THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT
Thích Minh Tuệ
Sàigòn 1991- Pl 2535
Tôn Gỉả A Na Luật
ANIRUDHA Thiên Nhãn Đệ Nhất
A Nậu Lâu Ðà, dịch là Vô Bần : không nghèo. Nhơn vì kiếp trước, đem cơm bằng gạo lúa tắc cúng cho vị Bích Chi Phật, nên về sau suốt chín mươi mốt kiếp được cái phước báu muốn chi...được nấy nên gọi là không nghèo. Nay tu pháp Tam muội chứng được thiên nhãn thông thấy biết sáng suốt nên gọi là thiên nhãn đệ nhứt.
https://hoavouu.com/p16a1401/chuong-bay-kinh-a-di-da
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%...%87_t%E1%BB%AD
===================
A Nậu Lâu Đà
(s: Aniruddha, p: Anuruddha, 阿冕樓馱): còn gọi là A Na Luật (阿那律), A Nan Luật (阿難律), A Lâu Đà (阿樓陀), hay A Ni Luật Đà (阿尼律陀), A Nê Lô Đậu (阿泥盧豆); ý dịch là Vô Diệt (無滅), Vô Tham (無貪), Vô Chướng (無障), Như Ý (如意), Thiện Ý (善意), Bất Tranh Hữu Vô (不爭有無); là người em họ của Đức Phật, một trong các vị đại đệ tử của Phật. Về xuất xứ tên Vô Tham của Tôn Giả, do đời trước xa xưa đói khát, ông thường lấy thức ăn của mình cúng dường cho một vị Bích Chi Phật (辟支佛), do đó, 7 đời sanh lên cõi trời đều làm Thiên Vương; 7 đời sanh vào cõi người đều làm vua, đời đời về sau mọi cầu mong đều được như ý, và trong 91 kiếp không chịu nỗi khổ nghèo cùng, khốn khổ. Về thân thế của Tôn Giả, Khởi Thế Kinh (起世經) quyển 10, Ngũ Phần Luật (五分律) quyển 15, Chúng Hứa Ma Ha Đế Kinh (眾許摩訶帝經) quyển 2, v.v., cho biết rằng Tôn Giả là con của Hộc Phạn Vương (斛飯王). Tuy nhiên, Phật Bản Hạnh Tập Kinh (佛本行集經) quyển 11, Đại Trí Độ Luận (大智度論) quyển 3 lại cho rằng Tôn Giả là con Cam Lồ Phạn Vương (甘露飯王). Sau khi thành đạo, đức Phật trở về thăm cố hương, lúc đó A Na Luật cùng với A Nan (阿難), Nan Đà (難陀), Ưu Ba Ly (優波離), v.v., xuất gia làm đệ tử đức Phật. Tôn Giả cũng giống như A Nan và rất nhiều người trong giòng họ xuất gia theo Phật. Tôn Giả có tật vừa nghe thuyết pháp vừa ngủ gục nên một lần kia bị Đức Phật quở mắng, Ngài phát thệ nguyện từ đó trở đi, tuyệt đối không ngủ nghỉ, đến nỗi, về sau Tôn Giả bị mù cả hai mắt. Tuy nhiên, do kết quả của sự tinh tấn tu hành như vậy, Tôn Giả đã chứng được Thiên Nhãn. Tôn Giả thông cả Bát Đại Niệm (八大念, tức tám điều giác ngộ của bậc đại nhân) và Tứ Niệm Xứ (四念處, bốn phép Thiền Quán). Tôn Giả được liệt vào 10 vị đại đệ tử và được xem là người có Thiên Nhãn Đệ Nhất. Khi Đức Phật nhập diệt thì Tôn Giả đã cùng với A Nan và các đệ tử khác hầu cận một bên.
http://phatam.org/dictionary/detail/...a-nau-lau-da/1
Sivali (Si Oa Li) - đệ nhất ứng cúng lợi dưỡng, bậc thánh Thinh văn đại đệ tử có tài lộc bậc nhất trong các hàng đệ tử của Đức Phật Gotama.
https://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuo...7012722116.htm
https://lotusleanh.blogspot.com/2016...ieng-pali.html
Các Vị Ðại Ðệ Tử Của Ðức Phật
Bình Anson
Trong Tăng Chi Bộ Kinh, phẩm Những Người Tối Thắng (quyển 1, chương 14), có đề cập đến 75 vị đại đệ tử của Ðức Phật, trong đó có 41 vị tỳ kheo, 13 vị tỳ kheo ni, 11 vị nam cư sĩ và 10 vị nữ cư sĩ. Cũng xin ghi nhận ở đây là trong Hán tạng, Kinh Tăng Nhất A Hàm (quyển 1, các chương 4, 5, 6, và 7) liệt kê nhiều vị đại đệ tử hơn: 100 vị tỳ kheo, 50 vị tỳ kheo ni, 40 vị cư sĩ nam, và 30 vị cư sĩ nữ.
Ở đây chỉ xin liệt kê 75 vị đệ tử như đã ghi lại trong Tăng Chi Bộ như sau:
Tỳ Kheo:
Annakondanna (A-nhã Kiều-trần-như) là đệ nhất tổ của tăng đoàn.
Sariputta (Xá-lợi-phất) là đệ nhất trí tuệ.
Mahamoggalana (Ðại Mục-kiền-liên) là đệ nhất thần thông.
Mahakassapa (Ðại Ca-diếp) là đệ nhất đầu đà.
Anuruddha (A-nậu-lâu-đà, A-na-luật) là đệ nhất thiên nhãn.
Bhaddiya Kaligodhaputta (Phát-ti-da Ca-lị-gô-da-pút-ta) là đệ nhất quý tộc.
Lakuntaka Bhaddiya (La-kun-ta-ka Phát-ti-da) là đệ nhất âm thanh.
Pindola Bharadvaja (Bin-đô-la Phá-rát-oa-cha) là đệ nhất âm sư tử hống.
Punna Mantaniputta (Pun-nha Manh-ta-ni-pút-ta, Phú-lâu-na) là đệ nhất pháp sư.
Mahakaccana (Ðại Ca-chiên-diên) là đệ nhất biệt giải Phật ngôn.
Cullapanthaka (Chu-la-banh-tha-ca) là đệ nhất thần thông dụng ý hóa thân và định vô lậu pháp.
Mahapanthaka (Ma-ha Banh-tha-ca) là dệ nhất tưởng vô lậu pháp.
Subhuti (Tu-bồ-đề) là đệ nhất vô tranh lạc trú và ứng cúng.
Revata Khadiravaniya (Rê-oa-ta Kha-đi-ra-oa-ní-da) là đệ nhất tu ẩn cư.
Kankha Revata (Căn-kha Rê-oa-ta) là đệ nhất nhập thiền.
Sona Kolivisa (Sô-na Kô-li-qui-sa) là đệ nhất tinh tấn.
Sona Kutikanna (Sô-na Ku-ti-canh-na) là đệ nhất thuyết pháp tinh xảo.
Sivali (Si-oa-li) là đệ nhất ứng cúng lợi dưỡng.
Vakkali (Oắc-ka-li) là đệ nhất thuần tín.
Rahula (La-hầu-la) là đệ nhất hiếu học.
Ratthapala (Rát-tha-pha-la) là đệ nhất thuần tín xuất gia.
Kundadhana (Kun-đa-tha-na) là đệ nhất lộc hưởng.
Vangisa (Oan-ki-sa) là đệ nhất biện tài.
Upasena Vangantaputta (U-ba-sê-na Oăn-ganh-ta-pút-ta) là đệ nhất đối tượng khả ái.
Dabba Mallaputta (Ðắp-ba Ma-la-pút-ta) là đệ nhất tổ chức cư trú cho tăng đoàn.
Pilindavaccha (Pi-lin-đa-oắc-cha) là đệ nhất đối tượng khả ái của chư thiên.
Bahiva Daruciriya (Ba-hi-da Ða-ru-chi-rí-da) là đệ nhất tốc chứng thánh đạo.
Kumara Kassapa (Ku-ma-ra Ca-diếp) là đệ nhất vi diệu giảng sư.
Mahakotthita (Ma-ha Kốt-thi-ta, Ma-ha Câu-hy) là đệ nhất tuệ phân giải.
Ananda (A-nan-đà) là đệ nhất thinh văn, ức niệm, tế nhị, kiên trì, thị giả.
Uruvela Kassapa (U-ru-uê-la Ca-diếp) là đệ nhất đa tín đồ.
Kaludayi (Ka-lu-đà-di) là đệ nhất tạo lạc cho mọi gia đình.
Bakkula (Bắc-ku-la) là đệ nhất thiểu bệnh.
Sobhita (Sô-phi-ta) là đệ nhất túc mạng tri.
Upali (Ưu-ba-li) là đệ nhất giới luật.
Nandaka (Nan-đà-ka) là đệ nhất huấn ni.
Nanda (Nan-đà) là đệ nhất thu thúc căn môn.
Mahakappina (Ma-ha Káp-pi-na) là đệ nhất huấn tăng.
Sagata (Sa-ga-ta) là đệ nhất tam muội hỏa.
Radha (Ra-tha) là đệ nhất năng khởi biện tài.
Mogharaja (Mô-kha-ra-cha) là đệ nhất hạnh phấn tảo y.
Tỳ Kheo Ni:
Mahapajapati Gotami (Ma-ha-pa-cha-pa-ti Gô-ta-mi) là đệ nhất tổ của ni đoàn.
Khema (Khê-ma) là đệ nhất trí tuệ.
Uppalavanna (Úp-pa-la-oanh-na) là đệ nhất thần thông.
Patacara (Pa-ta-cha-ra) là đệ nhất giới luật.
Dhammadinna (Thăm-ma-đin-na) là đệ nhất pháp sư.
Rupananda (Ru-pa-nan-đà) là đệ nhất nhập thiền.
Sona (Sô-nha) là đệ nhất tinh tấn.
Sakula (Sa-ku-la) là đệ nhất thiên nhãn.
Kundalakesa (Kun-đà-la-kê-sa) là đệ nhất tốc chứng thánh đạo.
Bhaddakapilani (Phát-đa-ka-pi-la-ni) là đệ nhất túc mạng trí.
Yasodhara (Da-du-đà-la) là đệ nhất đại thắng trí.
Kisagotami (Ki-sa-gô-ta-mi) là đệ nhất hạnh phấn tảo y.
Sigalamata (Si-ga-la-ma-ta) là đệ nhất thuần tín.
Nam Cư Sĩ:
Tapussa (Ta-phút-sa) là đệ nhất tổ của cư sĩ nam (giới U bà tắc).
Phallika (Pha-li-ka) cùng với Tapussa là nhị vị đệ nhất tổ của cư sĩ nam.
Anathapindika (A-ná-tha-pin-đi-ka, Cấp cô độc) là đệ nhất bố thí.
Citta Macchikasandika (Chít-ta Mắc-chi-ka-săng-đi-ka) là đệ nhất giảng sư.
Hatthaka Alavaka (Hách-tha-ka A-la-oa-ka) là đệ nhất hành trì tứ nhiếp pháp.
Mahanama Sakka (Ma-ha-na-ma Sắc-ka) là đệ nhất bố thí vật thực thượng vị.
Ugga Vesalika (Úc-ga Uê-sa-li-ka) là đệ nhất bố thí vật diệu dụng.
Hatthigamaka Uggata (Hách-thi-ga-ma-ka Úc-ga-ta) là đệ nhất hộ tăng.
Sura Ambattha (Su-ra Ăm-bách-tha) là đệ nhất chánh tín bất thối.
Jivaka Komarabhacca (Chi-oa-ka Kô-ma-ra-bắc-cha) là đệ nhất hội chúng khả kính.
Nakulapita (Na-ku-la-pi-ta) là đệ nhất thân thiện với Ðức Phật.
Nữ Cư Sĩ:
Sujata Senanidhita (Su-cha-ta Sê-na-ni-thi-ta) là đệ nhất tổ của nữ cư sĩ (giới U bà di).
Visakha Migaramata (Quí-sa-kha Mi-ga-ra-ma-ta) là đệ nhất bố thí.
Khujuttara (Khút-chu-ta-ra) là đệ nhất thinh văn.
Samavati (Sa-ma-oa-ti) là đệ nhất từ tâm.
Uttara Nandamata (Út-ta-ra Nan-đa-ma-ta) là đệ nhất nhập thiền.
Suppavasa Koliyadhita (Súp-pa-oa-sa Kô-li-da-thi-ta) là đệ nhất cúng dường thực phẩm.
Suppiya (Súp-pi-da) là đệ nhất phụng dưỡng bệnh nhân.
Katiyani (Ka-ti-da-ni) là đệ nhất chánh tín bất thối.
Nakulamata (Na-ku-la-ma-ta) là đệ nhất thân thiện với Ðức Phật.
Kali Kulagharika (Ka-li Ku-la-kha-ri-ka) là đệ nhất văn thuyết tịnh tín.
Bình Anson ghi chép
Perth, Western Australia
tháng 3-1998
Tham khảo
1. Kinh Tăng Chi Bộ, HT Minh Châu dịch, Sài Gòn, 1996
2. Tình Bạn, HT Hộ Giác, Texas, 1985
3. Kinh Tăng Nhất A Hàm, HT Thanh Từ dịch và HT Thiện Siêu hiệu đính, Sài Gòn, 1997
https://www.budsas.org/uni/u-vbud/vbkin049.htm
Ngài có bốn vị tôn đệ tử là: MA HA CA DIẾP, MỤC KIỀN LIÊN, XÁ LỢI PHẬT, A NA LUẬT. Bốn vị Hiền Sĩ này, hay thương những người nghèo đói, và tác phúc cho những chúng sinh đau khổ.
Nếu ai chí tâm tin kính cúng dàng những vị ấy, thì đời hiện tại này, muốn cầu gì cũng được toại nguyện.
http://tuvientuongvan.com.vn/phap-bao/pham-thu-ba-muoi-bay-sai-ma-p515.html
https://www.youtube.com/watch?v=IG5V-Tn36Xw
LAMA SANG 2001 VN 1
https://www.youtube.com/watch?v=LJdo3aIL3EY
Shamar Rinpoche, Situ Rinpoche, Gyaltsab Rinpoche and Jamgon Rinpoche - Vajradhara Lineage Teaching.
https://www.youtube.com/watch?v=vvMgQFNdY10
國師 嘉察仁波切 His Eminence Goshir Gyaltsab Rinpoche _大寶法王之法子與攝政(英文字幕)
TỬ THƯ TÂY TẠNG
13
Karmapa Dudul Dorje
(1733-1797)
Vị Karmapa thứ mười ba, DUDUL DORJE, sanh ở Chaba Drony, một ngôi làng cách Lhasa bốn ngày đường, vào tháng 8 năm con Bò Thủy (1733). Ngay sau việc này, Lạt ma Katok Tsewang Norbu có một linh kiến, trong đó ngài thấy chính xác nơi sanh của Karmapa.
Đứa bé có một dấu hiệu chữ A trên lưỡi, và khi lớn lên, em biểu lộ tính chất tâm linh bẩm sinh. Người ta nói vị Karmapa nhỏ tuổi có thể nhớ lại các biến cố từ những đời trước. Còn rất nhỏ, trong một lần, Dudul Dorje có một thị kiến đầy ý nghĩa về hộ pháp Kim Cương áo-choàng-đen, trong vóc dáng một đứa trẻ mặc áo lụa trắng và bưng một cái khay pha lê đầy hoa. Dudul Dorje hỏi : “Ngươi là ai ?” Tức thời, vị hộ pháp hiện nguyên hình hung nộ đáng sợ và nói : “Tôi là Kim-Cương-mặc-áo-choàng-đen vinh quang và sư tử hống. Tôi hiện hình dáng hung nộ từ không gian của trí huệ ba la mật. Tôi thi hành bốn hoạt động là làm bình an, làm cho giàu có, làm cho viên mãn và hủy diệt.(1) Đây là cái nhìn rốt ráo.” Theo cách ấy, vị hộ pháp chỉ ra Giáo huấn Đại Ấn rằng không có gì lìa khỏi tâm. Thế rồi thị kiến ấy tan mất trong không gian. Sức mạnh của kinh nghiệm này mạnh đến nỗi nó truyền thông cho mọi người xung quanh Dudul Dorje.
Năm lên bốn tuổi, danh tiếng của em bé đã lan rộng và xa. Gyaltshap Rinpoche gởi một đoàn tìm kiếm đến chỗ đứa bé và đem em về Tsurphu. Ở đây Gyaltshapa chính thức công nhận và làm lễ đăng quang như là Karmapa thứ mười ba. Trong buổi lễ tổ chức tỉ mỉ này, Dudul Dorje nhận chiếc vương miện đen. Đạt Lai Lạt Ma thứ bảy, Kalzang Gyaltsho và thủ tướng của ngài, Pholha Sonam Thobjay, gởi sự chào mừng đến vị Karmapa mới.
Sau khi lên ngôi không lâu, Dudul Dorje được vị Situ thứ tám rất uyên bác, là Chokyi Jungnay viếng thăm ở Tsurphu. Situpa vui mừng được thấy hậu thân của Changchub Dorje, người cha tinh thần của ngài, và trao truyền cho đứa trẻ một loạt giáo huấn của phái Karma Kagyu. Năm mười bốn tuổi, Dudul Dorje thọ giới Sa di với Situ Rinpoche ở Tsurphu. Buổi lễ diễn ra trước bức tượng Phật nổi tiếng do Karma Pakshi tạo ra.
Sự học tập của vị Karmapa thứ mười ba tiếp tục sau khi thọ giới và chủ yếu là theo truyền thống Kagyu và Nyingma. Ngài nhận các sự truyền pháp về Kalacakra Tantra cùng với các giáo huấn về Tantra này. Sự nghiên cứu và thực hành của ngài cũng gồm các giáo huấn của Dusum Khyenpa và giáo huấn sáu bộ sách được Rigdzin Jatson Nyingpo soạn ra. Vị này là Terton nổi tiếng của phái Nyingma và là học trò của Karmapa thứ mười, người đưa vào giáo pháp giáo trình Konchog Chidu.(2) Thêm vào đó, Dudul Dorje thông thạo Hevajra Tantra, Đại dương của Dakini, triết lý Trung Quán, A Tỳ Đạt Ma, Luật và Kinh. Bằng cách ấy, ngài đã lãnh thọ các dòng quan trọng nhất về tu tập thịnh hành trong thời ngài.
Năm ba mươi mốt tuổi Karmapa thứ mười ba thọ Tỳ Kheo giới với Situ Rinpoche. Sau đó, ngài hoàn thiện việc tu hành Sáu Yoga của Naropa và Đại Ấn và nhận sự trao truyền toàn bộ dòng phái từ Situ Rinpoche. Dudul Dorje hòa hợp cả hai lối sống học giả và thiền giả “vừa trí huệ-vừa điên rồ,” và ngài hiện thân cho tính tự nhiên bi mẫn của sức mạnh giác ngộ. Tình thương đối với loài vật của ngài trở thành huyền thoại. Người ta nói rằng ngài truyền thông pháp yếu cho chim chóc, chuột, mèo, thỏ và ong. Mỗi ngày ngài để nhiều thì giờ với tạo vật, chúng tụ tập bên ngài, cũng như với các đệ tử người của ngài.
Dudul Dorje là chủ đề của một trong những lời tiên tri của Padmasambhava. Một lần, Lhasa bị đe doạ bởi nước lũ của con sông Tsangpo hay Chichu, sông Hạnh Phúc, được biết ở Ấn Độ là sông Brahmaputra. Trong sách tiên tri của Padma-sambhava có nói rằng nếu Lhasa bị lũ lụt đe dọa, thì nên yêu cầu sự ban phước của Karmapa. Theo điều ấy, nhà cầm quyền thủ đô yêu cầu ngài đến càng sớm càng tốt. Dudul Dorje đến Lhasa và làm khỏi hiểm nguy bằng cách cầu Quán Thế Âm và đức Thích Ca.
Năm 1772, Karmapa du hành đến Dege để gặp Situ Rinpoche nay đã già. Ngài du hành qua xứ Kham, chỉ dạy và ban phước. Ngài gặp Shamar Rinpoche thứ mười là Mipham Chodrup Gyaltsho. Ở Danang xứ Kham, Karmapa cử hành một buổi lễ đặc biệt cho chùa Karma. Buổi lễ được đỡ đầu bởi gia đình quý tộc Danang, họ cúng dường Dudul Dorje một bình bằng vàng và bạc. Khi ở lại đây, Karmapa nói với gia đình rằng ngài sẽ trở lại với họ trong tương lai : “Chúng ta sẽ gặp lại rất sớm. Khi điều đó xảy ra các bạn sẽ hiểu nó trong mọi chi tiết. Hãy nhớ điều đó.”
Dudul Dorje sống một lối sống giản dị và đóng góp tài sản mình cho những dự án tôn giáo và những người nghèo. Ngài trợ cấp cho sự xây dựng nhiều trung tâm giáo pháp cũng như in ấn kinh điển.
Trong những năm về sau, một sự hiển thị nổi tiếng về năng lực mầu nhiệm của Karmapa xảy ra. Các sứ giả từ Powo Gyaldzong ở đông nam Tây Tạng đến Tsurphu và mời ngài ban phước cho tu viện của họ. Ngài không thể đi, nhưng vào ngày đã định ngài ban phước trong khi vẫn ở Tsurphu. Đồng lúc ấy, đám đông tụ hội ở Powo Gyaldzong chứng kiến một trận mưa lúa mạch từ trên trời.
Năm 1774, Karmapa có một thị kiến chỉ nơi chốn của hậu thân vị Situ mới sanh ra. Ngài gởi một phái đoàn đến nơi ấy và tìm ra đứa bé. Sau đó, ngài chính thức công nhận và làm lễ lên ngôi cho vị Situ mới, Padma Nyingche Wangpo.
Năm 1797, lúc sáu mươi tư tuổi, trao lá thư tái sanh cho Situ Rinpoche, ngài ra đi. Xá lợi ngài được thờ trong một lầu tháp bằng bạc tại Tsurphu. Chư tăng cũng tạc một tượng bạc của ngài.
Những đệ tử chính của ngài là Situ Padma Nyingche Wangpo, Drukchen Kunzig Chokyi Nangwa, Pawo Tsuglak Chogyal, hoàng tử Ladakhi, Hemi Gyalsay, Khamtrul Jigme Senge và Sangye Nyenpa Tulku.
https://thuvienhoasen.org/a5618/13-k...orje-1733-1797
==============
CUỘC ĐỜI SIÊU VIỆT CỦA 16 VỊ TỔ KARMAPA TÂY TẠNG
Nguyên tác: The History of Sixteen Karmapas of Tibet
Karma Thinley Rinpoche - Việt dịch: Nguyễn An Cư
Thiện Tri Thức 2543-1999
13
Karmapa Dudul Dorje
(1733-1797)
Vị Karmapa thứ mười ba, DUDUL DORJE, sanh ở Chaba Drony, một ngôi làng cách Lhasa bốn ngày đường, vào tháng 8 năm con Bò Thủy (1733). Ngay sau việc này, Lạt ma Katok Tsewang Norbu có một linh kiến, trong đó ngài thấy chính xác nơi sanh của Karmapa.
Đứa bé có một dấu hiệu chữ A trên lưỡi, và khi lớn lên, em biểu lộ tính chất tâm linh bẩm sinh. Người ta nói vị Karmapa nhỏ tuổi có thể nhớ lại các biến cố từ những đời trước. Còn rất nhỏ, trong một lần, Dudul Dorje có một thị kiến đầy ý nghĩa về hộ pháp Kim Cương áo-choàng-đen, trong vóc dáng một đứa trẻ mặc áo lụa trắng và bưng một cái khay pha lê đầy hoa. Dudul Dorje hỏi: “Ngươi là ai?” Tức thời, vị hộ pháp hiện nguyên hình hung nộ đáng sợ và nói: “Tôi là Kim-Cương-mặc-áo-choàng-đen vinh quang và sư tử hống. Tôi hiện hình dáng hung nộ từ không gian của trí huệ ba la mật. Tôi thi hành bốn hoạt động là làm bình an, làm cho giàu có, làm cho viên mãn và hủy diệt.(1) Đây là cái nhìn rốt ráo.” Theo cách ấy, vị hộ pháp chỉ ra Giáo huấn Đại Ấn rằng không có gì lìa khỏi tâm. Thế rồi thị kiến ấy tan mất trong không gian. Sức mạnh của kinh nghiệm này mạnh đến nỗi nó truyền thông cho mọi người xung quanh Dudul Dorje.
Năm lên bốn tuổi, danh tiếng của em bé đã lan rộng và xa. Gyaltshap Rinpoche gởi một đoàn tìm kiếm đến chỗ đứa bé và đem em về Tsurphu. Ở đây Gyaltshapa chính thức công nhận và làm lễ đăng quang như là Karmapa thứ mười ba. Trong buổi lễ tổ chức tỉ mỉ này, Dudul Dorje nhận chiếc vương miện đen. Đạt Lai Lạt Ma thứ bảy, Kalzang Gyaltsho và thủ tướng của ngài, Pholha Sonam Thobjay, gởi sự chào mừng đến vị Karmapa mới.
Sau khi lên ngôi không lâu, Dudul Dorje được vị Situ thứ tám rất uyên bác, là Chokyi Jungnay viếng thăm ở Tsurphu. Situpa vui mừng được thấy hậu thân của Changchub Dorje, người cha tinh thần của ngài, và trao truyền cho đứa trẻ một loạt giáo huấn của phái Karma Kagyu. Năm mười bốn tuổi, Dudul Dorje thọ giới Sa di với Situ Rinpoche ở Tsurphu. Buổi lễ diễn ra trước bức tượng Phật nổi tiếng do Karma Pakshi tạo ra.
Sự học tập của vị Karmapa thứ mười ba tiếp tục sau khi thọ giới và chủ yếu là theo truyền thống Kagyu và Nyingma. Ngài nhận các sự truyền pháp về Kalacakra Tantra cùng với các giáo huấn về Tantra này. Sự nghiên cứu và thực hành của ngài cũng gồm các giáo huấn của Dusum Khyenpa và giáo huấn sáu bộ sách được Rigdzin Jatson Nyingpo soạn ra. Vị này là Terton nổi tiếng của phái Nyingma và là học trò của Karmapa thứ mười, người đưa vào giáo pháp giáo trình Konchog Chidu.(2) Thêm vào đó, Dudul Dorje thông thạo Hevajra Tantra, Đại dương của Dakini, triết lý Trung Quán, A Tỳ Đạt Ma, Luật và Kinh. Bằng cách ấy, ngài đã lãnh thọ các dòng quan trọng nhất về tu tập thịnh hành trong thời ngài.
Năm ba mươi mốt tuổi Karmapa thứ mười ba thọ Tỳ Kheo giới với Situ Rinpoche. Sau đó, ngài hoàn thiện việc tu hành Sáu Yoga của Naropa và Đại Ấn và nhận sự trao truyền toàn bộ dòng phái từ Situ Rinpoche. Dudul Dorje hòa hợp cả hai lối sống học giả và thiền giả “vừa trí huệ-vừa điên rồ,” và ngài hiện thân cho tính tự nhiên bi mẫn của sức mạnh giác ngộ. Tình thương đối với loài vật của ngài trở thành huyền thoại. Người ta nói rằng ngài truyền thông pháp yếu cho chim chóc, chuột, mèo, thỏ và ong. Mỗi ngày ngài để nhiều thì giờ với tạo vật, chúng tụ tập bên ngài, cũng như với các đệ tử người của ngài.
Dudul Dorje là chủ đề của một trong những lời tiên tri của Padmasambhava. Một lần, Lhasa bị đe doạ bởi nước lũ của con sông Tsangpo hay Chichu, sông Hạnh Phúc, được biết ở Ấn Độ là sông Brahmaputra. Trong sách tiên tri của Padma-sambhava có nói rằng nếu Lhasa bị lũ lụt đe dọa, thì nên yêu cầu sự ban phước của Karmapa. Theo điều ấy, nhà cầm quyền thủ đô yêu cầu ngài đến càng sớm càng tốt. Dudul Dorje đến Lhasa và làm khỏi hiểm nguy bằng cách cầu Quán Thế Âm và đức Thích Ca.
Năm 1772, Karmapa du hành đến Dege để gặp Situ Rinpoche nay đã già. Ngài du hành qua xứ Kham, chỉ dạy và ban phước. Ngài gặp Shamar Rinpoche thứ mười là Mipham Chodrup Gyaltsho. Ở Danang xứ Kham, Karmapa cử hành một buổi lễ đặc biệt cho chùa Karma. Buổi lễ được đỡ đầu bởi gia đình quý tộc Danang, họ cúng dường Dudul Dorje một bình bằng vàng và bạc. Khi ở lại đây, Karmapa nói với gia đình rằng ngài sẽ trở lại với họ trong tương lai : “Chúng ta sẽ gặp lại rất sớm. Khi điều đó xảy ra các bạn sẽ hiểu nó trong mọi chi tiết. Hãy nhớ điều đó.”
Dudul Dorje sống một lối sống giản dị và đóng góp tài sản mình cho những dự án tôn giáo và những người nghèo. Ngài trợ cấp cho sự xây dựng nhiều trung tâm giáo pháp cũng như in ấn kinh điển.
Trong những năm về sau, một sự hiển thị nổi tiếng về năng lực mầu nhiệm của Karmapa xảy ra. Các sứ giả từ Powo Gyaldzong ở đông nam Tây Tạng đến Tsurphu và mời ngài ban phước cho tu viện của họ. Ngài không thể đi, nhưng vào ngày đã định ngài ban phước trong khi vẫn ở Tsurphu. Đồng lúc ấy, đám đông tụ hội ở Powo Gyaldzong chứng kiến một trận mưa lúa mạch từ trên trời.
Năm 1774, Karmapa có một thị kiến chỉ nơi chốn của hậu thân vị Situ mới sanh ra. Ngài gởi một phái đoàn đến nơi ấy và tìm ra đứa bé. Sau đó, ngài chính thức công nhận và làm lễ lên ngôi cho vị Situ mới, Padma Nyingche Wangpo.
Năm 1797, lúc sáu mươi tư tuổi, trao lá thư tái sanh cho Situ Rinpoche, ngài ra đi. Xá lợi ngài được thờ trong một lầu tháp bằng bạc tại Tsurphu. Chư tăng cũng tạc một tượng bạc của ngài.
Những đệ tử chính của ngài là Situ Padma Nyingche Wangpo, Drukchen Kunzig Chokyi Nangwa, Pawo Tsuglak Chogyal, hoàng tử Ladakhi, Hemi Gyalsay, Khamtrul Jigme Senge và Sangye Nyenpa Tulku.
https://hoavouu.com/p35a11542/13-karmapa-dudul-dorje
Padme Dorje (có nghĩa là hoa sen sấm sét)
https://phatgiao.org.vn/cau-chuyen-l...ce=Explus-News
=======
Gendun Drup hay Gendun Truppa (có nghĩa là sự hoàn hảo của đức hạnh)
Rinpoche (đạo sư quý báu)
======================
https://phatgiao.org.vn/cau-chuyen-m...ra-d35252.html
“Kính lạy Tăng – người thừa chí cả,
Thay Thế Tôn truyền bá đạo mầu
Tùy duyên hóa độ vô cầu
Làm Thầy hướng dẫn nhơn thiên thoát nàn.”
https://daotrangdaibi.wordpress.com/...daotrangdaibi/
Hành trạng Hòa thượng Thích Liễu Minh
Bởi Đạo tràng Tu Phật - 04/05/2017
https://www.youtube.com/watch?v=nS-4RuL-2QQ
1. THÂN THẾ
Hòa thượng Thích Liễu Minh, tên thật là Lê Văn Hiến, Pháp danh Thị Huyền, Pháp tự Liễu Minh, hiệu Trí Hải, sinh ngày 7/3/1934 (nhằm ngày 3/2 năm Giáp Tuất), tại thôn An Hòa, xã Nhơn Khánh, huyện An Nhơn, tỉnh Nghĩa Bình (tức tỉnh Bình Định ngày nay).
Thân phụ là cụ ông Lê Cấm (tự Chấn), thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Nhĩ (tự Sĩ), Hòa thượng là con trai một trong gia đình có hai chị em, được sinh ra trong một gia đình nho phong lễ giáo, tin sâu nhân quả, kính thờ Tam Bảo. Từ thuở nhỏ, cậu bé Hiến thường được cha mẹ hướng dẫn đi chùa. Trong những lần đi chùa, cậu bé Hiến được diện kiến Hòa thượng chùa Linh Sơn. Hòa thượng thấy cậu bé có Tuệ căn thông minh hơn những đứa trẻ khác nên gởi cho Hòa thượng Thích Như Từ chùa Thiên Bình xoa đảnh thọ ký xuất gia khi tuổi đời vừa lên 10. Tuy tuổi còn khá nhỏ nhưng với Tuệ căn sẵn có và được Hòa thượng un đúc ý chí xuất gia, sau 5 năm công quả tập sự tại chùa Thiên Bình, chú Liễu Minh được Hòa thượng Bổn sư cho phép thọ giới Sa Di tại chùa Thiên Bình, do Hòa thượng Thích Tâm Đạt làm Hòa thượng đàn đầu truyền giới vào ngày 8/4/1950 (năm Canh Dần).
https://daotrangtuphat.com/wp-conten...ieu-Minh-1.jpg
Cố Hòa thượng Mật giả Thích Liễu Minh tôn kính
Từ đây, thầy Sa-di Liễu Minh lại thêm tinh tấn vượt trội, Thầy thuộc nằm lòng hai thời công phu sớm chiều, Thầy còn nhuần nhuyễn 4 bộ Luật Trường hàng, ngày đêm siêng năng chẳng sao lãng việc chấp tác tại bổn Tự được giao phó. Xét thấy đệ tử mình là một học trò giỏi và đủ giới hạnh, có thể dự vào hàng Tăng chúng Thích tử của Như Lai nên Hòa thượng bổn sư đã hoan hỷ gởi Thầy Liễu Minh vào miền Nam đăng đàn cụ túc thọ giới Tỳ Kheo do Đại lão Hòa thượng Thích Khánh Anh làm Hòa thượng đàn đầu truyền giới Tỳ Kheo tại chùa Ấn Quang – Sài Gòn ngày 8/4/1956 (năm Ất Mùi), ban cho Pháp danh Thị Huyền, tự Liễu Minh, hiệu Trí Hải, thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42. Ôi:
Hoa nở giữa trời không vướng bận,
Lòng vui chào đón bậc Trung Tôn!
2. THỜI GIAN TU HỌC VÀ HÀNH ĐẠO
Khi còn ở quê nhà Bình Định, Hòa thượng Thích Liễu Minh đã được theo học tốt nghiệp các lớp Phật học, và lại tiếp tục theo đuổi con đường học vấn tại Phật học viện Nha Trang. Với chí học không mệt mỏi, thành tích học lực vượt trội nên Ban Giám Hiệu tại Phật học viện Nha Trang đã giới thiệu Hòa thượng vào trường cao học Phật học đường Nam Việt tại chùa Ấn Quang – Sài Gòn năm 1965.
Khi tốt nghiệp ra trường, Hòa thượng đạt thành tích tương đương Tiến sĩ Đông Phương học ngày nay, không chỉ giỏi về Phật học mà Ngài còn thông suốt cả thế học. Với sự tinh thông nhạy bén Đạo – Đời, ai hỏi gì Ngài liền trả lời ngay nên mọi người lúc ấy rất nể trọng, xem Ngài như một quyển Tự điển sống. Với sự tin tưởng của các bậc Trưởng lão Hòa thượng, Ngài được mời về Viện hóa đạo phục vụ làm việc ở thập niên 70, đem Giáo Pháp của Phật phổ hóa đến khắp nơi, hàng Tăng Ni và Phật tử được thấm nhuần giáo lý mà Ngài đã ban bố. Ai đã từng tiếp xúc với Ngài đều hoan hỷ với nụ cười luôn nở trên môi, luôn sống hạnh giản dị, xả kỷ vị tha của Ngài.
Khi đất nước hòa bình, Ngài xuôi về miền Tây tiếp tục con đường hoằng Pháp lợi Sanh, Ngài đến chùa Thanh Quang tại Thành phố Mỹ Tho lưu trú một thời gian trên bước đường du phương hoằng hóa của người con Phật.
Nhất bát thiên gia phạn
Cô thân vạn lý du
Chỉ vi sanh tử sự
Giáo hóa độ xuân thu.
Vào thập niên 80, trong một vùng xa xôi hẻo lánh của chợ Bưng, một ngôi tự viện rêu phong đổ nát, không có thầy hương khói tụng niệm và hoạt động Phật sự, môn đồ tứ chúng đã bày tỏ ý nguyện và cung thỉnh Ngài về Trụ trì chùa Nhơn Phước, ấp 1, xã Tam Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang vào năm 1988. Quán xét nhân duyên hóa độ chúng sanh đã đến nên Ngài đã nhận lời về chùa Nhơn Phước làm Trụ trì cho đến ngày viên tịch.
Trải qua 27 năm ở tại chùa, Ngài đã trùng tu hoàn toàn lại ngôi chùa và ngôi đình Nhơn Hội được xây dựng khang trang tốt đẹp, có nơi trang nghiêm cho hàng Phật tử về chiêm bái và tu học. Về mặt công tác từ thiện cứu đời, Ngài luôn tiên phong và ủng hộ hết lòng qua những việc xây dựng cầu đường, tặng nhà tình thương, nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết, tặng quà cho bà con nghèo và trẻ em nghèo hiếu học tại địa phương. Với Bi tâm rộng lớn, Ngài dùng Y Phương Minh (Vô Vi Ấn Pháp) để trị bệnh cứu đời. Ai cần gì đến Ngài, Ngài liền hoan hỷ ban bố từ vật chất đến giáo lý Phật đà.
https://daotrangtuphat.com/wp-conten...ieu-Minh-2.jpg
Cố Hòa thượng Mật giả Thích Liễu Minh bên mái chùa Nhơn Phước từng là nơi Ngài mật hạnh hóa độ biết bao chúng sanh quy Phật tu hành…
Trong những năm hành đạo, Ngài đã tế độ hàng nghìn Phật tử quy y Tam Bảo, độ chúng xuất gia nương theo đức hạnh của Ngài trên bước đường tu học, trong đó có những vị đệ tử xuất gia đã được tiếp nối theo ý nguyện của Ngài, “tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự” như:
Thượng tọa Thích Đức Thành
Đại đức Thích Nhuận Đức
Đại đức Thích Trung Chánh
Đại đức Thích Minh Phước
Đại đức Thích Viên Trí
3. THỜI KỲ THỊ TỊCH
Khi mãn mùa An cư kiết Hạ PL.2559 – DL.2015 (Ất Mùi), Ngài cảm thấy thân tứ đại giả hợp đến hồi tan hoại, Ngài sắp xếp và dặn dò mọi chuyện với hàng đệ tử những việc làm sau này khi Ngài viên tịch.
Ngày 15/10/2015 (tức ngày 3/9 năm Ất Mùi), Ngài thấy thân tứ đại bất hòa, hàng đệ tử muốn đưa Ngài đến bệnh viện để tịnh dưỡng nhưng Ngài nhất định không đồng ý.
Tuy thân tứ đại sắp hoại diệt nhưng Ngài vẫn hoan hỷ dạy bảo các đệ tử những lời Pháp nhũ sau cùng, và Ngài đã xả báo an tường, an nhiênthị tịch vào lúc 17:30 ngày 20/10/2015 (nhằm ngày 8/9 năm Ất Mùi).
Kính bạch chư Tôn Đức!
Kính thưa Quý liệt vị!
Cuộc đời của Hòa thượng Thích Liễu Minh là một tấm gương sáng cho hậu thế noi theo, là ánh đuốc trong đêm đen cho người lạc lối tìm về. Nay tuy Ngài đã về cõi Niết Bàn Vô Sanh nhưng chúng con luôn khắc ghi hình bóng và lời dạy của Ngài trong tâm khảm của hàng đệ tử chúng con.
Chúng con nguyện sẽ mãi mãi tinh tấn tu học để không phụ công ơn giáo dưỡng của Ngài.
Nam mô Việt Nam Phật Giáo
Phụng vì từ Lâm Tế Chánh Tông
Tứ thập nhị thế
Húy Thị Huyền
Hiệu Trí Hải
Thượng Liễu Hạ Minh Hòa thượng Ân Sư
Giác Linh Đài Tiền chứng giám!
——————————————
Đôi dòng tiểu sử trên không thể nói hết công hạnh tu hành và hóa độ chúng sanh của Ngài, vị hành giả Mật tông có mật hạnh thâm sâu, vô ngã vô tướng độ tử – độ sanh biết bao người và chúng sanh khắp mọi cảnh giới quy Phật tu hành. Được tận mắt chứng kiến những mật hạnh của Ngài như:
Ăn uống chỉ tự mình lo mà không phiền đến bất cứ ai dù tuổi rất cao, lại cách 3 – 4 ngày mới dùng 1 bát cháo lỏng hay nước của các loại rau củ nấu cùng để uống dần.
Mặc áo thun rách, quần vải ú, đi chân trần. Nhiều năm không tắm mà người chẳng hôi.
Chỗ ngủ nghĩ chỉ giản đơn 1 tấm chiếu bạc, cái gối và mùng.
Mỗi sáng hay chiều thường hay tự đi kiếm củi về dùng. Chiều đến chỉ trụ tại chùa 1 mình để tọa thiền độ chúng sanh trong Thập phương Tam cõi, không cho ai ở lại.
Với bao người bệnh do nghiệp duyên, oán trái, bùa ngãi, thư ếm… đến nhờ thì Ngài trì mật chú chư Phật để hóa độ mọi thành phần nương vào, cho âm siêu dương thới chỉ bằng 2 bàn tay với Vô Vi Ấn Pháp của nhà Phật.
Trọn đời Ngài không thủ giữ tiền bạc cúng dường của Thập phương Thiện – Tín. Ngài chỉ chuyên tâm lo trị bệnh độ chúng như tâm nguyện mà thôi.
Người bệnh đến chùa nhờ Ngài hóa độ gồm đủ mọi tầng lớp trong xã hội, từ bình dân đến trí thức, cư sĩ đến cả tu sĩ trong và ngoài nước. Có người bệnh ung thư do nghiệp sát nhiều đời; có người trí thức đang làm việc bỗng bị tâm thần mà không rõ lý do; có người làm kinh doanh bị thư ếm vì cạnh tranh trên thương trường; có người vì oan gia trái chủ đời nào mà bị đòi mạng, nương gá vào thân sanh đủ chứng bệnh nan y, tâm loạn điên đảo; có vị cán bộ xã mang người thân bệnh đến nhờ Ngài giúp… Điển hình cho tầng lớp trí thức là vị Giám đốc Bệnh viện Phú Thọ (vừa là bác sĩ vừa là võ sư, theo đạo Chúa) bị bệnh nan y ra nước ngoài chữa trị nhưng vô phương cứu chữa, đành trở về sống trong tuyệt vọng. May thay, vợ ông có người bạn là Phật tử (đã từng nhờ Ngài độ cho dứt bệnh) khuyên bảo tận tình: “hãy tới nhờ Ngài giúp cho, y học phương Tây đã bó tay, mạng xem như không còn thì có gì phải chấp nhất (đạo) nữa” nên vợ chồng ông thu xếp xuống chùa, nhờ Ngài hóa độ. Kiên trì một thời gian nhờ Ngài độ cho mà ông đã hết bệnh, từ đó cải đạo chuyển sang kính tín Tam Bảo, quy y Phật đà, hỗ trợ tịnh tài tu sửa chùa nghèo cho thập phương Thiện Tín có ngôi Tam Bảo trang nghiêm đảnh lễ, có nơi nghĩ trưa trong thời gian chờ trị. Về phía tu sĩ, có không ít vị là trụ trì Chùa, Tịnh xá, điển hình như Hòa thượng Thích Giác Thới (trụ trì Tịnh xá Ngọc Thuận), Hòa thượng Thích Giác Giới (trụ trì Tịnh xá Ngọc Viên), Hòa thượng Thích Nhất Hạnh (Làng Mai – Pháp)… đều đã từng đến nhờ Ngài trị bệnh, hóa giải oan khiên chướng duyên nhiều đời, trợ lực cho đạo tâm được vững vàng, tinh tiến.
Để trị bệnh, Ngài dùng Vô Vi Ấn Pháp Tam Muội để gia trì, Từ tâm để hóa độ giúp chúng sanh cõi vô hình đang nương gá nơi thân người bệnh được khai tâm mở trí, thấu rõ nghiệp duyên oán báo tuần hoàn vay trả – trả vay biết bao giờ dứt mà “tự tâm” hoan hỷ buông xả, tỏ lòng sám hối, quy Phật tu hành, gọi là “âm siêu”. Còn người bệnh do nhờ nghiệp duyên oán trái được Ngài hóa giải, “chủ nợ” nhẹ “siêu” nên hết bệnh, thân tâm an hòa, từ đó thấu rõ vô thường, nhân quả nghiệp báo mà càng tín tâm nơi Tam Bảo, dốc lòng sám hối tu hành, làm lành lánh dữ…, gọi là “dương thới”. Đó chính là nghĩa “âm siêu – dương thới” nhà Phật, và chỉ có bậc chơn tu đạo hạnh xuất thế, hạnh nguyện tương ưng với Chư Phật mới có thể làm được như vậy mà thôi!
Những mật chú Ngài thường trì để trị bệnh độ chúng là Tịnh Pháp Giới Chơn Ngôn, Vãng Sanh Chơn Ngôn, Lục Tự Đại Minh Chơn Ngôn…, hay câu niệm Nam mô A Di Đà Phật. Rõ thấy, bậc chơn tu chỉ với Tâm trì chú (hay niệm Phật) cùng hai tay với Vô Vi Ấn Pháp nhà Phật (Tam mật) mà đã hóa độ “âm siêu dương thới” cho tỉnh giác, hướng Phật tu hành, thật là bất khả tư nghì. Nhớ lời Ngài năm xưa đã từng bảo ban: “Khi trị bệnh, Sen từ người Thầy bay qua người bệnh đó con. Sen này đâu phải dễ có, nếu không công phu Giới – Định – Huệ, tâm lượng hải hà vô lượng. Sen từ Thầy bay qua, đó gọi là gieo chủng tử Phật cho người sống cũng như đã khuất”, nào phải câu nệ nơi sắc tướng lễ nghi rình rang, đàn tràng gấm hoa lòe loẹt… trong mê sự. Thế mới biết hạnh nguyện và tâm hành hóa độ chúng sanh rốt ráo của bậc chơn tu đại sĩ là bất khả tư nghì! Thế mới biết Đạo Phật mầu nhiệm, cao quý vô cùng; và chỉ có Phật đạo mới giải nghiệp rốt ráo, độ tận chúng sanh mà thôi!
Nhớ có lần Ngài chia sẻ: Tại những nơi thường xảy ra tai nạn xe cộ, thường rất dễ bị tai nạn xảy ra do các vong người chết tại đó gây ra. Có lần, vong nương gá nơi người bệnh kể rằng tại ngã 4 Đồng Tâm, Tiền Giang, hôm đó do nghiệp oan trái nhiều đời với vài người trên xe (16 chỗ) mà vong muốn hất tung cho xe ngã để họ chết, nhưng trên xe có vị Phật tử cứ niệm Phật hoài, khiến cho vong dù cố hết sức đòi mạng cũng không sao làm được. Đó cũng là lý do vì sao tại những nơi ấy, người dân thường đặt Miễu thờ. Vì vậy, Ngài dạy rằng hãy nhớ niệm Phật khi đi trên đường đến bất cứ đâu, và tại những nơi xảy ra tai nạn, đừng bao giờ khởi tâm tội nghiệp vì họ (người mới mất) sẽ lập tức đeo bám theo ngay. Thay vào đó, hãy miên mật tâm niệm Phật chứ đừng nghĩ tưởng gì thì tất cả, người sống cũng như kẻ khuất, tự nhiên được Pháp lạc mà thôi!
Chùa xưa cảnh cũ còn đây, nhưng Thầy đã vắng bóng. Đệ tử Cổ Thiên viết những dòng này, tâm thư tưởng niệm ân đức Thầy trọn đời vì Phật Pháp và chúng sanh. Một ngày gần đây, khi Phật sự in Kinh hoàn thành, con sẽ về thăm và kính dâng quyển “Đường lối tu Phật” để đảnh lễ Giác linh Thầy thùy từ chứng giám. Thầy trò ta, dẫu không theo lễ nghi “nhận Thầy – chọn Trò” như thường tình tại thế gian, nhưng tâm mật tương ưng, cảm ứng đạo giao, hỏi còn gì bằng. Con sẽ tiếp bước Thầy và Chư Phật vì Đạo Pháp và tất cả Chúng sanh!
Đệ tử Cổ Thiên kính đảnh lễ Giác linh Thầy!
Diệu Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật _()_
Diệu A Di Đà Phật _()_
Cổ Thiên
———————————————— � �——-
LƯU Ý
Như đã giảng trong bài VÔ NIỆM – SỰ QUY NHẤT CỦA THIỀN TỊNH MẬT, chỉ khi niệm Phật đến Vô Niệm, tức Niệm Phật Tam Muội, mới có thể ĐỘ SANH – ĐỘ TỬ (âm siêu dương thới) như Ngài. Nếu đạo hạnh chưa đến, đừng tự làm theo mà trị bệnh cho ai, sẽ tự chướng ngại mình, lợi bất cập hại.
https://daotrangtuphat.com/wp-conten...ieu-Minh-1.jpg
Thành Tâm Kính Lễ
NAMÔ LIỄU MINH HÒA THƯỢNG ÂN SƯ
============
P/S: Hôm nay, tự nhiên mình nhớ đến Ngài quá....Những giai thoại về cuộc đời và sự hoằng hóa đạo mầu phi phàm của Ngài đã không được đề cập hết về những ẩn mật sâu xa. Nhưng dẫu sao cũng tri ân tác giả đã cho mọi người hiểu 1 phần về cuộc đời củaNgài.
Được sự chấp thuận của Ban Tôn Giáo Chính Phủ, Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và các cơ quan chức năng, Tăng đoàn Phật Giáo Ấn Độ do H.E Khamtrul Shedrub Nyima Rinpoche cùng Tăng chúng đến thăm và trao đổi Phật pháp tại Việt Nam từ ngày 14/9/2019 đến ngày 28/9/2019. Ban tổ chức hoan hỷ thông báo lịch trình và kính thỉnh Chư Tôn Đức Tăng Ni, quý vị Phật tử xa gần về tham dự Pháp hội trân quý cát tường này.
Nguyện mọi sự cát tường!
https://mattong.net/thong-bach-chuon...2019-p980.html
~ Kyabje Garchen Rinpoche
上師三寶護念咒
南無咕如別 南無佛陀耶 南無達摩
南無僧伽耶 嘛嘛 薩哇 阿踏 悉 耶 梭哈
可消除早上出門之一切不順事物,且 觸怒鬼神。
https://blog.xuite.net/pp369tw/twblo...BF%B5%E5%92%92
上师三宝护念咒
阿踏
ata
https://blog.xuite.net/mahacintamani...A8%80%EF%BC%81
SARVA-ATA
SARVA-ARTA
ཨོཾཏཱརེཏུཏྟཱརེཏུ ེསརྦཨརྠསིདྡྷིསིད ྷིཀུརུསྭཱཧཱ༔ OM TARE TUTTARE TURE SARVA ARTA SIDDHI SIDDHI KURU SOHA
http://rywiki.tsadra.org/index.php/The_Twenty-one_Taras / https://www.lotsawahouse.org/tibetan...fulness-gained
OM TARE TUTTARE SARVA ARTHA SIDDHI SIDDHI KURU SVAHA :
https://taraverde0.wordpress.com/201...ne-del-mantra/ / https://buddhismoitalia.forumcommunity.net/?t=36457958 / https://forum.dhammacitta.org/index....c=6757.100;wap / http://www.spiritwiki.de/w/Paripūraṇatārā
( 七 ) 觀音靈感真言 lokeśvara dhāraṇī
oṃ maṇi padme hūṃ mahā-jñāna citta-utpāda cittasya na-vitarka sarva-artha bhūri siddhaka na-purāṇa na-pratyutpanna namo lokeśvarāya svāhā
https://daitangkinh.net/?f=Collection/dasa-mantra&m=aw
嗡 達日耶 度達日耶 度日耶 薩哇 阿塔 悉地 悉地 咕汝 梭哈
OM TARE TUTTARE TURE SARVA ARTHA SIDDHI SIDDHI KURU SVAHA
http://www.siddharthasintent.org/ass...s/20140127.pdf
============
T21n1239_p0189a17║ya pha ṭ va jra su si ddhi ya pha ṭ bha
T21n1239_p0189a18║耶 [口*半] 跋 折羅 蘇 悉 地 耶 [口*半] 婆
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...ge33&styleid=4
Buddhist Chanting - Fixation of Protections (Dukkhappatta ca ...
zen4859.blogspot.com › 2008/05 › buddhist-chanting-fixation-of
Dịch trang này
8 thg 5, 2008 - Sambhatam puñña-sampadam. Sabbe devanumodantu. Sabba-sampatti-siddhiya. For the sake of all attainment and success. May all deities ...
https://books.google.com.vn/books?id...ddhiya&f=false
Bel-Frucht und Lendentuch: Mädchen und Jungen in Bhaktapur, ...
https://books.google.com.vn › books
Niels Gutschow, Axel Michaels - 2008 - Religion
... boy a, bud-dhayd, om bairocanaye svaha. om aksobhyaya I svaha. om ratna sam-bhavaya svaha. om amrtam bhavaya svaha. om amogha siddhiya svaha.
https://books.google.com.vn/books?id...ddhiya&f=false
Barom-Kagyu-Guru-Yoga
https://baromkagyu.co/wp-content/upl...-Guru-Yoga.pdf