-
PHIM TÀI LIỆU: ĐỨC KARMAPA CỬ HÀNH NGHI LỄ VƯƠNG MIỆN ĐEN -- HH 16 Karmapa - Black Crown Ceremony New Hampshire USA
PHIM TÀI LIỆU: ĐỨC KARMAPA CỬ HÀNH NGHI LỄ VƯƠNG MIỆN ĐEN
HH 16 Karmapa - Black Crown Ceremony New Hampshire USA
Những thước phim vô cùng quý giá quay lại toàn bộ buổi lễ Vương Miện Đen do Đức Karmapa XVI cử hành tại New Hampshire, Hoa Kỳ. (Ngài cũng đi hoá duyên độ rất nhiều đệ tử tại các địa phương trong nhiều tiểu bang khác tại Hoa Kỳ trong chuyến thăm nước này lần thứ 2 không phải vài tuần mà nhiều tháng từ năm 1980 bước qua năm 1981. Đặc biệt Đức Karmapa 16 tái sanh và viên tịch nhiều lần tại Tây Tạng, nhưng lần này Ngài chọn sự hoàn trả vây mượn thân tứ đại và viện tịch tại nước Hoa Kỳ, đó là một đại sự thắng duyên phúc báu cho đất nước này).
Đức Karmapa XVI Rangjung Rigpe Dorje là một trong những đạo sư thành tựu giả vĩ đại nhất trong thế kỷ 20. Chỉ trong quãng thời gian ngắn ngủi viếng thăm các nước châu Âu và Mỹ, Ngài đã để lại vô số câu chuyện mầu nhiệm về năng lực thần thông cũng như trí tuệ, chuyển hóa mạnh mẽ tâm thức của những người may mắn được gặp Ngài.
Thời xưa ở Tây Tạng để thỉnh cầu các vị Karmapa thực hiện nghi lễ Black Crown thì người ta phải cúng dường rất nhiều vàng.
Kể từ sau khi Đức Karmapa XVI qua đời năm 1981 đến nay thì nghi lễ này chưa bao giờ được thực hiện,và chưa biết đến bao giờ mới có thể được thực hiện lại vì chiếc vương miện đen đã bị mất tích.
NGHI LỄ VƯƠNG MIỆN ĐEN
Trong một kiếp quá khứ lâu xa, có một hành giả ẩn dật đã tu tập thành tựu quả vị Bồ tát Địa thứ 8. Các Dakini đã dâng cúng lên ngài chiếc vương miện đen được bện bằng tóc của chính họ. Đức Karmapa thứ nhất chính là hóa thân của vị Bồ tát này.
Vương miện này, một cách biểu trưng, luôn luôn hiện diện trên đầu của mọi hóa thân Karmapa biểu thị sự chứng ngộ bản tánh thực tại của các ngài.
Tuy nhiên,chiếc vương miện này hoàn toàn vô hình đối với đa số những chúng sinh bình phàm.
Vào thời Đức Karmapa đời thứ 5,trong một lần hoằng pháp tại Trung Quốc, hoàng đế Trung Quốc - Minh Thành Tổ,là người đã tích lũy được đủ công đức nên ông đã nhìn thấy chiếc vương miện đen lơ lửng trên đỉnh đầu của Đức Karmapa.
Sau khi nghe đức Karmapa kể về nguồn gốc của chiếc vương miện,hoàng đế đã sai người chế tác ra một chiếc vương miện được chạm trổ bằng đá quí, mô phỏng lại hình dáng chiếc vương miện mà ông đã nhìn thấy, để tất cả mọi chúng sinh đều có thể nhận được sự gia trì của đức Karmapa, Ông đã cúng dường chiếc vương miện này lên đức Karmapa thứ 5. Sự kiện này là khởi nguồn của nghi lễ Vương Miện Đen cho đến sau này.
Để chuẩn bị cho buổi lễ, Đức Karmapa thâm nhập vào cảnh giới thiền định sâu xa để hiện thân thành Đức Quán Thế Âm, Vị Phật Từ Bi.
Một mạn đà la cúng dường được dâng lên, theo sau bởi lời cầu nguyện Bảy Dòng. Điều này là để tích lũy nền tảng tốt đẹp cho buổi lễ diễn ra. Đức Karmapa sau đó đặt vương miện lên đầu của mình trong khi trì tụng thần chú "Om Mani Peme Hùng," trao truyền ân phước gia trì cho mỗi người tham dự trong buổi lễ tùy vào khả năng tiếp nhận của họ.
Người ta nói rằng ai đó chỉ đơn thuần nhìn thấy chiếc vương miện đen trong buổi lễ, thì người đó sẽ trở thành tựu quả vị Bồ tát Địa thứ nhất (Thánh quả Bồ tát đầu tiên) trong vòng 3 kiếp. Đây là một trong những lý do chính tại sao Vương Miện Đen rất quan trọng trong truyền thống Kagyu.
Good Video clips:
Ngay cả khi xem qua video cũng sẽ nhận được năng lực gia trì, tùy theo mức độ chí thành và tín tâm
Good Video clips:
Đức Karmapa XVI cử hành tại New Hampshire, USA
https://vimeo.com/78320697
Đức Karmapa 16 came to the USA in 1974 and 1980-1981 by CBS News
https://vimeo.com/106991896
Tibetan Buddhist Resource Center
https://www.facebook.com/TBRC.org/
More: CBSnews.com/Religion-and-culture
===================================
The Black Crown of the Karmapas
http://blog.hophap.com/2016/12/phim-...hanh-nghi.html
==========================
[video Crowning Ceremony of His Holiness Gyalwang Karmapa 16th on his Anniversary by today]
Clip quý giá quay lại toàn bộ buổi lễ Vương Miện Đen do Đức Karmapa 16 cử hành tại New Hampshire, Hoa Kỳ_nhân ngày hôm nay 07/11 là ngày Kỷ niệm Đức Gyalwang Karmapa thứ 16
(re-post từ trang của FBker Tuệ Phú)
----
Đức Karmapa 16, Rangjung Rigpe Dorje (sư Tổ, Pháp vương truyền thừa Karma Kagyu, học phái Kagyu) là một trong những đạo sư, thành tựu giả vĩ đại nhất trong thế kỷ 20. Chỉ trong quãng thời gian ngắn ngủi viếng thăm các nước châu Âu và Mỹ, ngài đã để lại vô số câu chuyện màu nhiệm về năng lực thần thông cũng như trí tuệ, chuyển hóa mạnh mẽ tâm thức của những người may mắn được gặp Ngài.
Thời xưa ở Tây Tạng để thỉnh cầu các vị Karmapa thực hiện nghi lễ Black Crown thì người ta phải cúng dường rất nhiều vàng. Kể từ sau khi Đức Karmapa XVI qua đời năm 1981 đến nay thì nghi lễ này chưa bao giờ được thực hiện,và chưa biết đến bao giờ mới có thể được thực hiện lại vì chiếc vương miện đen đã bị mất tích.
NGHI LỄ VƯƠNG MIỆN ĐEN
Trong một kiếp quá khứ lâu xa,có một hành giả ẩn dật đã tu tập thành tựu quả vị Bồ tát Địa thứ 8. Các Dakini đã dâng cúng lên ngài chiếc vương miện đen được bện bằng tóc của chính họ. Đức Karmapa thứ nhất chính là hóa thân của vị Bồ tát này. Vương miện này, một cách biểu trưng, luôn luôn hiện diện trên đầu của mọi hóa thân Karmapa biểu thị sự chứng ngộ bản tánh thực tại của các ngài. Tuy nhiên,chiếc vương miện này hoàn toàn vô hình đối với đa số những chúng sinh bình phàm.
Vào thời Đức Karmapa đời thứ 5,trong một lần hoằng pháp tại Trung Quốc,hoàng đế Trung Quốc - Minh Thành Tổ, là người đã tích lũy được đủ công đức nên ông đã nhìn thấy chiếc vương miện đen lơ lửng trên đỉnh đầu của Đức Karmapa. Sau khi nghe đức Karmapa kể về nguồn gốc của chiếc vương miện, hoàng đế đã sai người chế tác ra một chiếc vương miện được chạm trổ bằng đá quí, mô phỏng lại hình dáng chiếc vương miện mà ông đã nhìn thấy, để tất cả mọi chúng sinh đều có thể nhận được sự gia trì của đức Karmapa. Ông đã cúng dàng chiếc vương miện này lên đức Karmapa thứ 5. Sự kiện này là khởi nguồn của nghi lễ Vương Miện Đen.
Để chuẩn bị cho buổi lễ,Đức Karmapa thâm nhập vào cảnh giới thiền định sâu xa để hiện thân thành Đức Quán Thế Âm,Vị Phật Từ Bi. Một mạn đà la cúng dàng được dâng lên,theo sau bởi lời cầu nguyện bảy nhánh. Điều này là để tích lũy nền tảng tốt đẹp cho buổi lễ diễn ra.Đức Karmapa sau đó đặt vương miện lên đầu của mình trong khi trì tụng thần chú 'Om Mani Peme Hung, trao truyền ân phước gia trì cho mỗi người tham dự trong buổi lễ tùy vào khả năng tiếp nhận của họ.
Người ta nói rằng ai đó chỉ đơn thuần nhìn thấy chiếc vương miện đen trong buổi lễ, thì người đó sẽ trở thành tựu quả vị Bồ tát Địa thứ nhất (Thánh quả Bồ tát đầu tiên) trong vòng 3 kiếp. Đây là một trong những lý do chính tại sao Vương Miện Đen rất quan trọng trong truyền thống Kagyu.
Nguồn: FB Tuệ Phú
https://vimeo.com/78320697
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
HH 16 Karmapa - Black Crown Ceremony ( New Hampshire USA )
-
N ĐỘ: Đức Karmapa thứ 17: “Các tu viện sẽ được trao giải thưởng bảo vệ môi trường”
Himachal Pradesh, Ấn Độ - Ngày 15-1-2015 tại học viện Norbu Lingka gần thị trấn Dharamshala, vị lãnh đạo tinh thần Tây Tạng Karmapa Ogyen Trinley Dorjee thứ 17 nói rằng: một giải thưởng về môi trường sẽ được tặng cho tăng viện hoặc ni viện đang thực hiện các dự án bảo vệ môi trường.
Ngài nói rằng các tu viện đang cho thấy có nhiều công việc sáng tạo, hoặc đã làm nhiều dự án môi trường phù hợp thì sẽ được trao giải thưởng này.
Ngài nói rằng đây là một cách để công nhận tất cả công việc vất vả mà các tu viện đã làm để bảo vệ môi trường.
Đức Karmapa 17 đến học viện Norbu Lingka nhân ngày lễ bế mạc hội nghị môi trường lần thứ 6. Sự kiện này do quỹ từ thiện Tây Tạng Kun Kyong tổ chức cho các tăng ni viện trong vùng Hi Mã Lạp Sơn.
Hội nghị môi trường thường niên bắt đầu vào năm 2009 với sự hướng dẫn của vị lãnh đạo tinh thần Tây Tạng Karmapa thứ 17 về bảo vệ môi trường.
(ANI – November 15, 2015)
http://www.chanhphap.us/TintucPGTG/2...s/image020.jpg
Đức Karmapa thứ 17
Photo: Google
http://www.chanhphap.us/TintucPGTG/2...oc%20dich).htm
-
-
[english n/a]
"Đừng nói về những giáo lý thâm sâu/bí mật mà bạn có thể đã thọ nhận: Vài người dường như thấy rằng sẽ là sành điệu nếu thốt ra vài từ như “Dzogchen” hay “Mahamudra” từ miệng họ. Nếu bạn đã thọ nhận những chỉ dẫn thâm sâu, sẽ thật tốt nếu bạn làm theo những chỉ dẫn này và giữ kín chúng.
Đừng cố gắng chia sẻ cái-được-gọi-là trí tuệ của bạn: Nếu bạn nghĩ rằng thọ nhận giáo lý thâm sâu cho bạn giấy phép để tuyên bố chúng, bạn có lẽ sẽ chỉ hiển bày sự ngu dốt của bản thân. "
Dzongsar Jamyang Khyentse Rinpoche
---
Nguồn: FB Dzongsar Jamyang Khyentse Rinpoche | Việt dịch: Ngawang Jampa
Ảnh: Sư phụ Drubwang Sonam Jorphel Rinpoche
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...b2&oe=5A911EFB
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
==========
[english below]
...Điều quan trọng là giữ gìn các bí mật trong Kim Cương thừa. Kim Cương thừa được gọi là “Chân ngôn thừa bí mật” bởi nó cần phải thực hành trong bí mật. Nó không phải bí mật bởi có điều gì đó để che giấu, mà để bảo vệ hành giả khỏi những cạm bẫy và sai lầm mà [cái] Ngã có thể gây ra cho thực hành. Đặc biệt, hành giả thường có xu hướng trở thành con mồi của “chủ nghĩa vật chất tâm linh,” ở đó thực hành trở thành một tuyên bố thời trang được dùng để điểm tô cho [cái] Ngã và khiến họ cảm thấy quan trọng hơn, hoặc giúp họ thấy rằng họ là một phần của nhóm người đặc biệt, thay vì điều phục và chuyển hóa tâm. Khi được thực hành theo cách này, con đường Kim Cương thừa trở nên vô cùng tệ hại.
Các giáo lý Kim Cương thừa cũng “được che giấu” theo cách mà ý nghĩa của chúng không rõ ràng với người chưa thọ nhận giáo lý thích hợp. Nó giống như một ngoại ngữ. Bởi nhiều hình ảnh và biểu tượng có thể rất lạ lẫm, hay thậm chí là bạo lực với những người chưa quen, các đạo sư thường khuyên chúng ta giữ nó bí mật để nó không làm những hành giả sơ cơ rối trí, người có thể phát triển tà kiến về con đường Đạo Phật nói chung và con đường Kim Cương thừa nói riêng.
Khi đăng bài trên các mạng xã hội, hãy nhớ rằng bạn không chỉ đăng tải cho riêng bản thân, mà còn cho toàn bộ thế giới rộng lớn, những người phần lớn không thích thú những bức ảnh “cuồng” giống bạn, cũng không tán thưởng hay yêu mến những nhân vật đặc biệt mà bạn gọi là GURU [2].
Bởi thế, tôi xin đưa ra một số gợi ý cho các học trò Kim Cương thừa về cách thức bạn có thể bảo vệ bản thân –bằng việc tránh gây bối rối và bảo vệ thực hành Pháp của bạn – cũng như bảo vệ truyền thống Kim Cương thừa thâm sâu:
(1) Hãy giữ bí mật về Kim Cương thừa (điều này bao gồm bí mật về Đạo sư, thực hành, các bức hình Mật giáo [3], các quán đỉnh, giáo lý mà bạn đã thọ nhận …
- Đừng đăng tải các bức hình về Mật giáo: Nếu bạn nghĩ rằng việc đăng các bức hình như vậy (chẳng hạn hình chư Bổn tôn với nhiều tay, đầu động vật, hợp nhất và bổn tôn phẫn nộ) khiến bạn trở nên quan trọng, bạn có lẽ đã không hiểu ý nghĩa.
- Đừng đăng tải các thần chú và chủng tử gốc: Nếu bạn cho rằng thần chú và các chủng tự gốc này cần được đăng trên FACEBOOK để khích lệ tinh thần hay trợ giúp cải thiện bản thân, một sự thay đổi hay đổi kiểu tóc có lẽ sẽ tốt hơn.
- Đừng nói về các quán đỉnh của bạn: Nếu bạn nghĩ rằng các hình ảnh từ lễ quán đỉnh Kim Cương thừa vào cuối tuần xứng đáng được đăng bên cạnh bức hình về những con mèo của bạn trên facebook, bạn cần gửi con mèo của bạn đến Nepal để đăng ngôi. Nếu bạn không được thầy cho phép, đừng đăng bất cứ bức hình, video hay đoạn thu âm quán đỉnh, giáo lý hay thần chú Kim Cương thừa
- Đừng nói về những giáo lý thâm sâu/bí mật mà bạn có thể đã thọ nhận: Vài người dường như thấy rằng sẽ là sành điệu nếu thốt ra vài từ như “Dzogchen” hay “Mahamudra” từ miệng họ. Nếu bạn đã thọ nhận những chỉ dẫn thâm sâu, sẽ thật tốt nếu bạn làm theo những chỉ dẫn này và giữ kín chung.
(2) Đừng để bị cuốn vào những cám dỗ của chủ nghĩa vật chất tâm linh và sử dụng Pháp để phục vụ ngã của bạn (đừng cố phô bày về vị thầy, sự hiểu hay thực hành của bạn. Giống như vậy, đừng nói xấu về những hành giả hay con đường khác.)
- Đừng chia sẻ về trải nghiệm và cái-được-gọi-là thành tựu của bạn: Nếu bạn nghĩ rằng tuyên bố điều bạn cho rằng bạn đã đạt được là xứng đáng, bạn có thể đang bận rộn với việc giúp đỡ cho vô minh của bản thân. Cố gắng làm người khác ấn tượng bằng thực hành của bạn không phải là một phần của thực hành. Hãy cố gắng trung thực và khiêm tốn. Không ai quan tâm đến những trải nghiệm thiền định của bạn, thậm chí nếu chúng là những linh kiến về Phật, kỳ lân hay cầu vồng. Nếu bạn nghĩ rằng bạn thoát khỏi sự dối gạt của [cái] Ngã, hãy suy nghĩ thật kỹ càng.
- Đừng khoe khoang về Thầy của bạn: Dù bạn nghĩ Ngài vĩ đại đến đâu, sẽ tốt hơn nếu bạn giữ kín lòng sùng mộ. Hãy nhớ rằng là một Phật tử không phải là việc thờ cúng. Nếu bạn nghĩ rằng Đạo sư của bạn tốt hơn của người khác, có lẽ bạn đã cho rằng hạnh xả và nhận thức thanh tịnh của bạn cũng tốt hơn của người khác.
- Đừng cố gắng chia sẻ cái-được-gọi-là trí tuệ của bạn: Nếu bạn nghĩ rằng thọ nhận giáo lý thâm sâu cho bạn giấy phép để tuyên bố chúng, bạn có lẽ sẽ chỉ hiển bày sự ngu dốt của bản thân. Trước khi “chia sẻ” một đoạn trích từ Phật hay bất cứ vị thầy nào của bạn, hãy nghĩ xem liệu các Ngài có thực sự nói những lời này và thính chúng mà Ngài hướng đến thực sự là ai.
- Đừng nhầm lẫn Phật giáo với ngoại đạo: Dù bạn có thể thích thú cầu vồng và hình cầu ra sao, và dù bạn tin tưởng về tận thế thế nào, cố gắng đừng trộn lẫn sự yêu thích/phong cách của bạn với Phật giáo
- Hãy kính trọng người khác: Không có Tiểu thừa và Đại thừa làm nền tảng, sẽ chẳng thể có Kim Cương thừa. Sẽ thật là ngu ngốc nếu những hành Kim Cương thừa lại xem thường hay khinh thường Tiểu thừa và Đại thừa. Nếu bạn nghĩ rằng tấn công những Phật tử khác sẽ giúp cải thiện Phật giáo, giúp đỡ Phật giáo, thì thay vào đó hãy hướng về ngã và thiên kiến của bản thân.
- Đừng tạo ra bất hòa: Hãy cố gắng là một người đem lại sự hòa hợp Tăng Đoàn với những người bạn online, thay vì gây ra rắc rối và xung đột.
- Luôn ghi nhớ động cơ: Đừng cố phô diễn “trí tuệ cuồng” trong các hành vi trực tuyến, hãy truyền cảm hứng để người khác có một trái tim tốt lành. Nếu bạn cho rằng bạn đăng tải một điều gì đó vì lòng từ bi, đầu tiên hãy chắc chắn bạn đang không gây hại. Khi bạn không thể không đăng tải một thứ gì đó, hãy chắc chắn rằng nó giúp ích bất cứ ai đọc được cũng như làm lợi lạc giáo pháp.
Nguồn: Dzongsar Jamyang Khyentse Rinpoche
Việt dịch: Ngawang Jampa
[1] Ở đây, Rinpoche dùng từ “cool” để chỉ nhóm người này. [ND]
[2] Vị thầy, hay đạo sư trong Phật giáo Tây Tạng [ND].
[3] Ví dụ, các bức thangka, hình ảnh, tượng, … của Phật giáo Kim Cương thừa [ND].\\
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
Dấu Chân Sự Tu Tập Của Một Vị Latma
Dấu chân hằn sâu năm tháng công phu tu hành của một vị lạt-ma Tây Tạng . Thích Minh Trí dịch Theo Science Editor
Trong khoảng 20 năm, lạt-ma Hua Chi đã và đang lễ bái, cầu nguyện tại cùng một vị trí trong một tu viện mà ông đang tu hành. Vì vậy, trải qua nhiều năm, lòng đôi bàn chân của vị lạt-ma này đã ăn sâu xuống mặt sàn gỗ. Hiện nay, trong vài chỗ dấu vết của lòng đôi bàn chân ấy đã lõm sâu xuống khoảng 1,2 inch. Lạt-ma Hua Chi rất thành tâm lễ lạy trung bình mỗi ngày khoảng từ 500 đến 1000 lạy ở bất cứ nơi đâu. Và lạt-ma Hua Chi tin rằng sự lễ bái và cầu nguyện này chắc chắc sẽ làm cho ông được nhẹ nhàng tái sinh sang thế giới khác mỗi khi ông viên tịch.
Tu viện Rongwo Gonchen Gompa tọa lạc tại thị trấn Tongren, tỉnh Thanh Hải, Trung Quốc, được xem là một tự viện lớn nhất Tây Tạng. Quả thật, hàng trăm tăng-ni sinh bách bộ trên các con đường của tu viện, và tất cả họ đều xác nhận lạt-ma Hua Chi rất tinh tiến trong việc tu hành của ông. Chính lạt-ma Hua Chi cũng thừa nhận rằng, khi còn trẻ, ông thực hành lễ bái còn nhiều hơn thế nữa. Lạt-ma Hua Chi năm nay 70 tuổi nói rằng, trung bình mỗi ngày, ông vừa lạy đến 3000 lạy, lại vừa quán chiếu bằng các chuẩn mực của Phật giáo.Vì lạt-ma Hua Chi luôn luôn cầu nguyện tại cùng một vị trí, nên chính lòng đôi bàn chân của ông đã ăn sâu xuống sàn gỗ, trong cái trông giống như là sự tôn kính qua nhiều năm với một đức tin liên tục. Mỗi sáng, sau khi thức dậy, lạt-ma Hua Chi giẫm trên dấu đôi bàn chân của chính bản thân ông, và bắt đầu lễ bái trong hầu hết những buổi cầu nguyện của ông. Theo giáo lý Phật giáo, con người phải sống trong trạng thái thiền định và trầm tư, nhờ vậy mà sau khi chết, con người có thể đạt đến Niết-bàn, một trạng thái hạnh phúc vĩnh hằng.
Trong một cuộc phỏng vấn, lạt-ma Hua Chi tiết lộ rằng: “Trong suốt những năm đầu tôi có thể lạy từ 2000 đến 3000 lạy một ngày. Nhưng nay tôi đã có tuổi, nên trong những năm gần đây, tôi chỉ có thể lạy được 1000 lạy mỗi ngày. Tôi đã trùng tu tu viện này và đã lễ bái và kinh hành xung quanh tu viện trong tất cả những lần cầu nguyện đó, nhờ thế mà sau khi tôi viên tịch, thần thức của tôi sẽ không phải tái sinh vào cảnh giới khổ đau.”
Lạt-ma Hua Chi cũng là một vị lương y, bởi vì ông thích làm điều thiện và thích làm cho mọi người cảm thấy tốt hơn mà không cần sử dụng những liệu pháp chữa trị bắt người khác phải thực hiện theo mình.
“Mỗi ngày tôi đến đây và mỗi ngày tôi chăm chú nhìn vào mảnh gỗ, và nó đã truyền cảm hứng cho tôi tiếp tục tạo nên những dấu vết đôi bàn chân của chính tôi,” lạt-ma Genden Darji 29 tuổi, hiện tu học trong tu viện này cho biết thêm và nói tiếp rằng, tấm gương của lạt-ma Hua Chi đã ảnh hưởng đến một số lượng lớn các chú sa-di trong tu viện. Qua tấm gương đó, các chú sa di có thể bắt đầu dành phần lớn thời gian cho việc lễ bái tu hành hơn là dành thời gian cho riêng bản thân họ.
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...d9&oe=5AAB0FF6
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...94&oe=5AA89E63
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...a5&oe=5AA41820
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...a9&oe=5A899402
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...59&oe=5AABA78D
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
-
Trong lễ Hoả tịnh trừ chướng, phần cuối của Khoá nhập thất Kim cương Phổ Ba (17-23/11/2016) do Đạo sư Garchen Rinpoche hộ thất tại Học viện Garchen, Chino Valley, Arizona, Hoa Kỳ, trung tâm đã ghi lại khoảnh khắc kỳ diệu khi Ngài đốt các tờ giấy trong nghi lễ thì lửa cháy bùng lên có hình tương tự đôi cánh trí tuệ của Đức Kim Cương Phổ Ba
Nguồn: Garchen Institute
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...03&oe=5AA259ED
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
[english n/a]
Câu hỏi: Trì tụng thần chú mà không thực hành theo nghi quỹ nào cả thì có được quán tưởng mình là Bổn tôn không?
Lama Sonam Jorphel Rinpoche: Các con cần phải quán tưởng. Như ta đã từng dạy, thực hành dù ngắn chỉ 15-20 phút cũng phải có đầy đủ ba phần. Nếu không đầy đủ, công phu hành trì của các con sẽ bị uổng phí. Phải thực hiện đầy đủ ba phần của một thời khóa công phu: trước tiên phải phát khởi Bồ đề tâm, tiếp theo là trì chú (có quán tưởng), cuối cùng là phần hồi hướng. Trì tụng thần chú của vị [bổn tôn] nào thì quán tưởng hình tướng của vị đó.
"Bài giảng của Thầy"
Việt dịch Hiếu Thiện & nhóm Liên Hoa Tâm
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...02&oe=5AAA2340
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
[english n/a]
Câu hỏi: Thưa thầy, con đang thực hành ngondro nhưng do điều kiện không gian và gia đình chưa cho phép nên con không thể tạo được một bàn thờ đúng cách của Kim cang thừa được. Xin thầy cho con lời khuyên.
Lama Sonam Jorphel Rinpoche: Nếu không có điều kiện lập bàn thờ thì con chỉ cần treo một bức ảnh đức Phật trong phòng riêng của mình là đủ. Nếu thậm chí không thể treo cả tranh Phật thì con quán tưởng hình ảnh các Ngài trong khi hành trì cũng được.
"Bài giảng của Thầy"
Sonam Jorphel Rinpoche
Việt dịch: Hiếu thiện & nhóm Liên Hoa Tâm
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
[english n/a]
Câu hỏi: Một người tu có được theo hai dòng truyền thừa hoặc có hai Guru không?
Sonam Jorphel Rinpoche: Đi chân nào bước chân nấy thôi, bước hai chân cùng một lúc sẽ bị té. Hành giả sơ cơ thường có một Bổn sư. Hành giả quán tưởng vị Bổn sư của mình và quán tưởng các đạo sư khác cũng hiệp hội trong đức Bổn sư của mình. Trong Guru của mình có tất cả chư Phật, chư Bồ Tát. Cái cây chỉ có một gốc. Mình phải phân biệt như thế thì phương pháp tu mới thuận. Tâm thành tín của ta phải như nhau không khác đối với tất cả các bậc đạo sư. Trong tâm thành kính của mình các đạo sư đều phải như nhau không có sự phân biệt. Nhưng về pháp tu của riêng cá nhân thì phải làm đúng theo như Bổn sư hướng dẫn.
Câu hỏi: Các thầy thường khuyên không nên “guru shopping”. Thế nhưng tuy con đã gặp nhiều Đạo sư mà chưa thấy thật sự gắn kết được với vị nào. Xin thầy cho con lời khuyên có nên tiếp tục tìm kiếm Đạo sư không?
Sonam Jorphel Rinpoche: Ở thời gian đầu, tìm đến nhiều vị thầy để nghe giảng pháp là điều rất tốt lành. Tuy nhiên, sau một thời gian thì các con phải tự quyết định chọn lựa Bổn sư cho mình. Do mối kết nối đạo sư-đệ tử là kết nối nghiệp cho nên cũng không khó lắm để nhận biết. Nối kết được với một vị thầy là điều rất quan trọng. Vì lúc đó các con mới có thể thật sự khởi tu theo lộ trình của dòng truyền thừa dưới sự dẫn dắt của Guru được.
"Bài giảng của Thầy"
Việt dịch Hiếu Thiện & nhóm Liên Hoa Tâm
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
[english n/a]
Câu chuyện về Ông Lão và Con Ruồi
Jindag Palgyey (Tu Bạt Đà La) 80 tuổi trước khi ông bắt đầu thực hành Pháp, nhưng ông vẫn có thể thể nhập con đường và trở thành một A La Hán trong một đời. Ông đã thành tựu trí tuệ chứng ngộ tánh Không và có thể giải trừ mọi ô nhiễm. Ông đã chán ngấy đời sống gia đình bởi tất cả những đứa trẻ chế nhạo ông mỗi ngày. Ông cho rằng ông sẽ rất an bình nếu trở thành một tu sĩ sống trong tu viện. Vì thế ông tới thăm Tu viện trưởng của tu viện để xin thọ giới. Vị tu viện trưởng là ngài Mục Kiền Liên, một trong những đệ tử tâm yếu và là bậc có thần thông đệ nhất trong tất cả đệ tử của Đức Phật. Ngài Mục Kiền Liên quán sát và bảo ông lão rằng ngài thấy ông lão không có nghiệp để trở thành một tu sĩ: “Ông đã già, ông không thể đọc, không thể nghiên cứu trong tu viện. Thậm chí ông không thể chấp tác trong tu viện.”
Ông lão hết sức thất vọng. Ông gục đầu trên thanh chắn thấp ở cổng tu viện và kêu khóc. Ông đi tới công viên khóc lóc và mặc dù Đức Phật ở một nơi khác tại Ấn Độ, Ngài nhìn thấy ông lão và cảm thấy lòng bi mẫn lớn lao đối với ông. Đức Phật nhìn tất cả chúng sinh bằng tâm toàn trí của Ngài. Bất kỳ ở đâu có một chúng sinh đầy đủ duyên nghiệp để được dẫn dắt, do bởi lòng bi mẫn Đức Phật tới ngay nơi đó không trì hoãn dù chỉ một giây.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện trước ông lão và hỏi có điều gì sai trái. Ông lão trình bày những khó khăn của ông ở nhà và việc ông đã xin thọ giới nhưng không được Tu viện trưởng chấp thuận. Đức Phật nói: “Ta đã thành tựu những công đức của trí tuệ và đức hạnh vì thế ta có thể thấy rằng ông có nghiệp để trở thành một tu sĩ.” Điều này có nghĩa là nhờ đã hoàn tất hai loại công đức và toàn bộ con đường, và khi đã giải trừ những ô nhiễm thô và tế, tâm Đức Phật đã trở nên toàn trí. Ông lão nói với Đức Phật rằng ngài Mục Kiền Liên đã nói là ông không có nghiệp để trở thành tu sĩ, nhưng Đức Phật giải thích rằng thật lâu xa về trước ông lão này là một con ruồi ở gần một bảo tháp (stupa). Có phân bò chung quanh tháp và là một con ruồi, ông lão đã bay theo mùi phân bò, vì thế đã đi nhiễu quanh tháp. Công đức nhỏ bé mà ông đã tạo ra đó đủ để làm ông trở thành một tu sĩ. Sau đó với tâm toàn trí, Đức Phật quán sát để khám phá xem ai là người có thể dẫn dắt ông lão này. Đức Phật thấy rằng đệ tử tâm yếu khác của Ngài là Đức Xá Lợi Phất, người có trí tuệ kiệt xuất trong tất cả các đệ tử và là Tu viện trưởng của tu viện khác, chính là người có thể dẫn dắt ông lão. Vì thế Đức Phật giao ông lão cho ngài Xá Lợi Phất.
Ông lão trở thành một tu sĩ tại tu viện của ngài Xá Lợi Phất nhưng các tu sĩ trẻ trêu chọc ông mỗi ngày. Ông lại rơi vào tâm trạng chán ngán, trốn khỏi tu viện, và nhảy xuống một con sông. Khi ấy ngài Xá Lợi Phất, tu viện trưởng của ông, bằng các năng lực tâm linh đã tìm kiếm vị tu sĩ già. Ngài đã xuất hiện ngay tại nơi đó và túm lấy ông lão kéo lên. Vị tu sĩ già hết sức bàng hoàng và bối rối bởi ông không được phép rời tu viện. Ông giải thích rằng ông chán ngán bởi tất cả những tu sĩ trẻ đã trêu chọc ông, vì thế ông đã trầm mình xuống sông. Ngài Xá Lợi Phất nói với ông: “Ông đang hành động như thế này bởi ông không từ bỏ luân hồi sinh tử.”
Ngài Xá Lợi Phất bảo ông nắm chặt chiếc y của ngài và sau đó bay qua đại dương và đáp xuống một ngọn núi đầy xương. Ngài Xá Lợi Phất giải thích: “Đây là xương của tất cả những đời quá khứ của ông.” Có những khúc xương của một con cá voi, con vật lớn nhất trong đại dương. Giây phút ông lão nghe nói: “Đây là xương của tất cả những đời quá khứ của ông,” mọi lông tóc trên thân ông dựng đứng lên và ông đã từ bỏ sinh tử. Ông đã nhận ra những lỗi lầm của sinh tử: không có gì là chắc thật, những niềm vui của sinh tử thì bất định, bạn không thể tìm được sự toại nguyện, và những lạc thú sinh tử chỉ có bản chất là đau khổ. Ông đã đi vào con đường tích tập và trở thành một bậc thánh (arya) ngay trong đời đó.
Trích NHỮNG THỰC HÀNH TRỌNG YẾU | Lạt ma Zopa Rinpoche
Một đệ tử đang ở trong tù viết thư cho Rinpoche khẩn cầu ngài ban những thực hành cho quãng đời còn lại của anh. Rinpoche đã trả lời (được trích) như trên. Bài do Michelle Bernard biên tập.
Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên
https://www.facebook.com/drikung.kag...889077538664:0
-
[english below]
Gyalwa Karmapa 16 | "Chính vì bị vây bủa bởi những nỗi âu lo quá đỗi về vật chất, nhịp độ sinh hoạt của họ [con người] cũng trở nên khẩn trương hơn. Một hoàn cảnh bận rộn này sẽ dẫn đến một hoàn cảnh bận rộn khác, và cứ thế tiếp tục mãi không ngừng. Bạn luôn luôn bận rộn. Chân lý luân hồi biểu hiện rõ ràng trong cuộc sống của bạn. Để cứu chữa tình trạng này, trước tiên một người cần an tịnh tâm mình. Đừng để cho mình bị cuốn hút hoàn toàn bởi ngoại cảnh. Hãy phát huy một vài mức độ tĩnh lặng. Hãy trau giồi việc hàng phục đơn giản đối với tâm, cũng như hãy vun bồi tâm thức an tịnh, trong sáng. Ít nhất là hãy làm cho tâm được cởi mở, rộng thoáng. Cho dù bạn là ai, mọi người trước tiên cần hướng đến thiền tập cơ bản, mà thiền tập này được sáng tạo một cách cụ thể hầu mang lại sự an tịnh trong tâm cho chúng sinh bị bận rộn này nọ liên miên. Đây là bước đầu tiên trong việc hành Pháp, mà Pháp lại vô cùng quan trọng cho chính mình và người khác."
trích LỜI KHUYÊN CHO VIỆC THỰC HÀNH TÂM LINH
Do ngài GYALWA KARMAPA thứ 16 thuyết giảng
Tài liệu được dịch từ nguồn: http://www.kagyu.org/kagyulineage/bu.../tra/tra02.php
Nguyễn Thanh Hà chuyển Việt ngữ (3/2008)
Tâm Diệu Phú hiệu đính (4/2008)
[Xin ghi rõ nguồn và người dịch khi chia sẻ bài viết trên ở một trang tin khác_xin không tự ý chỉnh sửa bản dịch gốc_admin]
[english below]
Gyalwa Karmapa thứ 16 | "Thật là cần thiết để thực tập rốt ráo và thấu hiểu nghĩa lý giáo pháp. Và để đạt được điều đó, thì yếu tố quan trọng nhất, một lần nữa, lại là sự thực hành Bồ đề tâm, tức là tâm Giác ngộ, mà theo đó bạn sẽ dần dà bước trên con đường Kim Cang thừa. Ở mọi lúc mọi nơi, Bồ đề tâm là tuyệt đối cần thiết. Trừ phi các phương thức kỹ xảo uyên thâm của Kim Cương thừa cần được hỗ trợ bởi Bồ đề tâm, một người sẽ không nhất thiết phải đạt cho được các chứng ngộ cao sâu, đầy ý nghĩa. Vì thế, bạn có thấy không, thật ra vạn sự vạn vật đều bắt nguồn từ sự thực hành Bồ đề tâm."
trích LỜI KHUYÊN CHO VIỆC THỰC HÀNH TÂM LINH
Do ngài GYALWA KARMAPA thứ 16 thuyết giảng
Tài liệu được dịch từ nguồn: http://www.kagyu.org/kagyulineage/bu.../tra/tra02.php
Nguyễn Thanh Hà chuyển Việt ngữ (3/2008)
Tâm Diệu Phú hiệu đính (4/2008)
Nguồn ảnh: wernererhardfoundation.org
[Xin ghi rõ nguồn và người dịch khi chia sẻ bài viết trên ở một trang tin khác_xin không tự ý chỉnh sửa bản dịch gốc_admin]
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
[english n/a]
"Khi các bạn tới đây và thấy tôi, thấy điện thờ, thấy lễ puja đang kết thúc bạn sẽ thốt lên trong tim: “Wow!” Điều đó chỉ trong vòng hai ba ngày là các quý vị sẽ quên ngay đi. Ngoại trừ bạn tranh luận, bàn cãi với chính bản thân mình, trong trái tim mình cái mà bạn đã nghe thấy được khi tôi nói với bạn, với tất cả mọi người. Vì vậy nếu chỉ đơn giản tới đây và nghe bài Pháp thoại thôi thì chưa thể nói là đủ được. Phải thảo luận (discussion), tranh cãi (debate) nhiều hơn, nhiều hơn nữa với chính bản thân mình để cho những gì đã nghe không chỉ lưu lại trong bộ óc mà còn cả trong con tim. Rồi sau đó mỗi ngày quý vị nghĩ một chút, nghĩ một chút, nghĩ một chút và nhờ vậy mà trái tim của quý vị sẽ lớn thêm một chút và khi đó thì bài học ngày hôm nay sẽ có một ít hiệu quả nào đó."
HH Dalai Lama
"Bài giảng của Đức Dalai Lama tại Ladakh"
Việt dịch: Hiếu Thiện | Hiệu đính: Lama Đạt
Ảnh: Oliver Adam
[Xin ghi rõ nguồn và người dịch khi chia sẻ bài viết trên ở một trang tin khác_xin không tự ý chỉnh sửa bản dịch gốc_admin]
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
(live) Khen Rinpoche Lobsang Phanda, Viện trưởng mật viện Gyudmed cùng tăng đoàn đang làm lễ Hoả tịnh Yamantaka Hàng Phục Dạ Ma Vương tại chùa Như Thị đường Bình Long, tp HCM
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
[english n/a] HH Gyalwang Karmapa 17, Ogyen Trinley Dorje
...Đôi khi có người nói với tôi là… theo truyền thống Phật Giáo Tây Tạng, các bạn có nhiều vị Phật gia hộ cho các bạn quá, nào là đức Dược Sư gia hộ sức khỏe, chữa lành bệnh tật, đức A Di Đà (Vô Lượng Quang) tiếp dẫn cho bạn tái sinh về cõi Cực Lạc, đức Vô Lượng Thọ gia hộ cho bạn tuổi thọ, vân vân. Như vậy thì các bạn đâu có cần gì đến bác sĩ hay thầy thuốc nữa. Nhưng (trên thực tế) chúng tôi vẫn cần thầy thuốc, cần bác sĩ. Và trên con đường tu tập Đạo Pháp thì chúng ta rất cần đức Dược Sư Phật để nương tựa, để có thể chữa lành những chứng bệnh lâu đời trong ta.
Mục đích của các phương thuốc, do dù là thuốc tự nhiên đến từ dược thảo hay các loại thuốc đến từ sự kết hợp, bào chế, thì mục đích của thuốc là để chữa lành bệnh tật. Làm sao có thể biết được thuốc nào thì thích hợp cho căn bệnh nào? Trước hết, ta phải chẩn bệnh và tìm hiểu xem nguyên nhân của căn bệnh đến từ đâu.
Đối với mỗi căn bệnh, có tất cả hai nguyên nhân khác nhau: nguyên nhân dài hạn (long‐term cause) và nguyên nhân ngắn hạn (short‐term cause) {Ghi chú: Tạm gọi là nguyên nhân xa và nguyên nhân gần}. Nguyên nhân xa là nguyên nhân gốc hay là nguyên thủy. Nguyên nhân gần là nguyên nhân tạm thời hay tức thời. Ở đây, gọi là dài hạn (xa) và ngắn hạn (gần) không có ý ám chỉ thời gian. Nhưng xa vì có liên quan đến nguyên nhân căn bản (từ vô thỉ) và gần vì có liên quan đến những nguyên nhân tức thời (giúp cho nguyên nhân căn bản trổ sanh).
Đối với tất cả chúng ta thì nguyên nhân căn bản, hay nguồn gốc của tất cả mọi bệnh tật, chính là tam độc, là tham, sân và si.
Đối với bệnh tật thì tam độc là nguyên nhân gốc. Còn nói đến tứ đại, tức các yếu tố đất, nước, gió, lửa trong thân ta thì đây lại là các nhân duyên phụ, giúp cho bệnh tật trổ sanh. Một trong ba độc (tham, sân và si) là chất xúc tác để làm cho một trong các tứ đại (đất, nước, gió, lửa) nổi trội lên hay bùng lên.
Nếu ta bị tâm tham khống chế thì yếu tố nước trong ta sẽ bùng lên. Nếu ta bị tâm sân khống chế thì yếu tố lửa trong ta sẽ bùng lên. Nếu ta để cho tâm si khống chế thì hoặc yếu tố đất, hoặc yếu tố khí, hoặc cả hai yếu tố đất và khí đều bùng lên. Nếu tứ đại trong ta có được sự quân bình thì ta sẽ khỏe mạnh. Nếu tứ đại trong ta thiếu quân bình thì ta sẽ sanh ra bệnh tật. Trong tất cả mọi trường hợp, sự thiếu quân bình xảy ra là vì một trong tam độc đã nổi trội lên. Nếu tâm ta không giữ được sự quân bình thì tham sân si sẽ nổi lên.
Nói đến ‘klesa’ thì từ vựng này không phải chỉ thuần tuý nói về các cảm thọ hay cảm xúc. Không phải cảm thọ hay cảm xúc nào cũng là ‘klesa.’ ‘Klesa’ chỉ là để ám chỉ những cảm thọ hay cảm xúc tiêu cực, độc hại,.
Trong thế kỷ thứ 21 này của chúng ta, có thật nhiều loại bệnh tật gây ra bởi các cảm xúc tiêu cực và độc hại, gây ra bởi các nguyên nhân tinh thần, chứ không phải chỉ là do vi trùng, hay vi khuẩn, vân vân. Nguồn gốc chính yếu của mọi căn bệnh vẫn là các cảm xúc tiêu cực, phiền não. Và khi nguyên nhân chính yếu gây ra bệnh tật liên quan đến tinh thần thì việc ta chỉ sử dụng thuốc men, uống thuốc hay đi châm cứu chẳng hạn, sẽ không đủ giúp ta lành bệnh. Hoàn toàn không đủ.
Bất cứ lúc nào cũng vậy, chúng ta cũng có thể nương tựa vào đức Phật Thích Ca để dẫn dắt chúng ta. Tuy nhiên, nếu chúng ta đang phải đương đầu với một loại khó khăn đặc biệt như là bệnh tật gây ra bởi các cảm xúc độc hại thì chúng ta nên nương tưạ vào đức Phật Dược Sư bởi vì đức Dược Sư có một sự gắn bó đặc biệt với năng lực chữa lành bệnh tật. Đây là hạnh nguyện chính yếu của ngài. Và đây cũng là lý do tại sao có sự xuất hiện của đức Phật Dược Sư. Ngài thị hiện cũng vì lý do đó, để chữa lành bệnh tật của tất cả chúng sinh.
HH Gyalwang Karmapa 17, Ogyen Trinley Dorje
Trích buổi pháp thoại và đại lễ Dược Sư Phật tại trung tâm Karma Thegsum Choling-New Jersey vào ngày 23 tháng 5, năm 2008
Bản Việt ngữ thực hiện ngày 25 và 26 tháng 5, 2008, bởi Tâm Bảo Đàn
[Xin ghi rõ nguồn và người dịch khi chia sẻ bài viết trên ở một trang tin khác_xin không tự ý chỉnh sửa bản dịch gốc_admin]
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...52&oe=5A996B89
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...fe&oe=5A8E7AC5
https://www.facebook.com/drikung.kag...80920835402155
-
[english n/a]
Câu hỏi: Xin thầy chỉ dạy con trì tụng minh chú như thế nào là đúng? Nên trì thành tiếng hay trì thầm trong miệng? Nên trì tụng trước bàn thờ hay đi, đứng, nằm, ngồi đều trì tụng được?
Sonam Jorphel Rinpoche: Cần phải trì tụng minh chú bằng cả thân và tâm. Trước hết về thân, thân phải trang nghiêm. Đó là tư thế bảy điểm mà ta đã dạy các con. Về phương diện tâm, các con phải có động cơ đúng đắn. Khi thực hành ngondro thì quán chiếu bốn niệm chuyển tâm và phát Bồ đề tâm mà tâm sẽ thanh tịnh và trì tụng thần chú sẽ đạt được hiệu quả tốt hơn. Thứ hai, trong khi tụng không được ngừng quán tưởng. Phải liên tục quán tưởng để giữ cho hình ảnh Phật, bổn tôn, bổn sư luôn ở trong tâm mình.
Nói về trì tụng thần chú, có sáu cái KHÔNG mà hành giả Mật thừa cần lưu ý:
1) Không to
2) Không nhỏ
3) Không nhanh
4) Không chậm
5) Không thêm
6) Không bớt
Và các con cần phải lưu ý thêm một điều đó là tuyệt đối không được nói chuyện khi trì chú, nếu không thì sẽ tạo ra những chướng duyên rất lớn.
Vừa đi nhiễu Phật vừa tụng thần chú, đó là một hệ thống khác. Khi đi nhiễu thì thân tạo công đức. Miệng trì thần chú là khẩu tạo công đức. Tâm không ngừng quán tưởng là ý tạo công đức. Cả thân, khẩu, ý đều tạo được công đức.
Sonam Jorphel Rinpoche
"Bài giảng của Thầy"
Việt dịch: Hiếu Thiện & nhóm Liên hoa tâm
[Xin ghi rõ nguồn và người dịch nếu bạn muốn chia sẻ bài viết này ở một trang tin khác_Trong dịch thuật về Pháp xin không tự ý chỉnh sửa bản dịch gốc_admin]
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
[english below]
(truc tiep) Dâng y và mão cúng dường. Đây là một nghi thức hết sức tốt lành để hành giả kết nối nghiệp dài lâu với dòng truyền thừa. Pháp chủ Jigten Sumgon đã từng tuyên nhận rằng, những ai từng một lần có duyên lành đội chiếc mão này sẽ không bao giờ bị đoạ sinh vào các cõi thấp
-
[english n/a]
THIỀN ĐỊNH | Meditation | Shantideva
1- Sau khi phát khởi tinh tấn, hãy để tâm an trú trong thiền định. Người mà tâm tán loạn thì sẽ bị rơi vào nanh vuốt của phiền não mê muội.
2- Nếu cả thân và tâm đều viễn ly (thân viễn ly là ở nơi vắng vẻ - tâm viễn ly là không tham đắm thế tục_ND) thì kể tán loạn không sinh. Bởi thế, cần phải xa lìa trói buộc của đời sống thế tục (gia đình, bè bạn) và từ bỏ những tư tưởng thế tục (liên hệ tài sắc, danh, ăn, ngủ).
3- Vì ái luyến thân bằng quyến thuộc, yêu mến danh lợi nên khó bỏ thế tục. Bậc trí hoàn toàn từ bỏ những thứ ấy đẻ tuần tự thực hành thiền quán theo những nguyên tắc sau đây :
4- Vì biết rõ chỉ có tuệ quán thù thắng (gọi tắt là tuệ, hay chiếu, sáng suốt) nghĩa là có kèm theo tịnh chỉ (định, hay tịch, vắng lặng) mới diệt được mê lầm phiền não, trước tiên nên tu tịnh chỉ. Tịnh chỉ thành tựu là do lìa tham ái.
5- Tự bản thân đã vô thường (nay còn mai mất, chóng thay đổi), lại còn đi tham luyến những kẻ khác cũng vô thường, thì dù có tái sinh trở lại cả ngàn lần cũng không gặp được những người mình yêu mến.
6- Khi chưa tìm thấy họ, đương nhiên ta sẽ sầu khổ không vui, vì không vui nên không thể đi vào chánh định (còn gọi tam ma địa, đẳng chí… là (Thiền ChỈ). Dù có gặp được cũng không biết đủ (muốn gặp hoài), nên cũng lại sầu khổ vì ái luyến như trước.
7- Tham đắm những người, vật hữu tình là hoàn toàn ngược với thực chất của các pháp (hay hiện tượng, vì thực chất chúng là vô thường, như huyễn). Sự tham đắm ấy cũng huỷ hoại cái tâm cầu đạo hướng đến giải thoát, chán lìa sinh tử, và rốt cuộc phải rước lấy sầu khổ khóc than.
8- Nếu ta cứ nhớ thương những người thân, thì cuộc đời này trôi qua một cách vô nghĩa. Và như vậy là ta để cho những thân bằng quyến thuộc vô thường phá hỏng cơ hội tu chứng đạo lý chân thường.
9- Hành vi đã giống với phàm phu ngu si như vậy, thì chắc chắn ta phải đọa lạc vào ba ác đạo (ba cõi xấu : địa ngục, quỷ đói, súc sanh). Nếu mục đích của ta là hướng đến cảnh giới giải thoát thì cần gì phải thân gần những người phàm phu ngu độn ?
10- Mới phút trước bạn bè thân thiết, phút sau đã thành thù địch. Vào dịp vui cũng có thể chuốc oán cừu, ôi, kẻ phàm phu thật khó mà làm cho họ vừa lòng.
11- Khi ta lấy lời thành thật bảo họ, họ nổi giận và lại còn xúi ta từ bỏ việc lành. Nếu ta không nghe lời, họ sẽ nổi sân nà rơi vào đường ác.
12- Ganh ghét với kẻ hơn mình, cạnh tranh với kẻ bằng mình, ngạo nghễ với kẻ thua mình, được khen thì kiêu căng, nói lời trái tai thì nổi giận. Làm bạn với những người ngu như thế đâu có ích gì ?
13- Làm bạn với kẻ ngu chắc chắn sẽ sinh cái lỗi khen mình chê người, ưa bàn chuyện thế tục và những điều không tốt.
14- Bởi thế, gần thân tộc bạn bè chỉ rước lấy tổn hại. Họ không có lợi gì cho ta, ta cũng không ích gì cho họ.
15- Vậy cần phải xa lìa phàm phu ngu si. Khi gặp họ hãy vui vẻ chào đón, nhưng đừng quá thân mật, hãy theo cách giao tiếp của chính nhân quân tử (nghĩa là không vồn vã lắm).
"Nhập Bồ tát hạnh" | Bồ tát Tịch Thiên
Việt dịch" Thích Nữ Trí Hải
nguồn: thuvienhoasen.org
[Xin ghi rõ nguồn và người dịch nếu bạn muốn chia sẻ bài viết này ở một trang tin khác_Trong dịch thuật về Pháp xin không tự ý chỉnh sửa bản dịch gốc_admin]
https://www.facebook.com/drikung.kag...922124968693:0
-
[English n.a]
Câu hỏi: con muốn thực hành Tonglen nhưng đôi khi cảm thấy khó thực hành trọng hoạt động hàng ngày. Xin Rinpoche chỉ dẫn.
Garchen Rinpoche: Thật sự thì những cái chúng ta làm và phục vụ người khác chính là Tonglen trong hoạt động thực tế. Đó chính là Tonglen trao trực tiếp - những thứ chúng ta mang lại lợi ích cho người khác trong hoạt động thường ngày. Ví dụ khi chúng ta làm việc vất vả, chúng ta nghĩ “để cho mọi người được nghỉ ngơi, tôi sẽ làm giúp cho họ, tôi chịu khổ đỡ cho họ…” và chúng ta cầu nguyện “cầu cho mọi chúng sinh không phải làm việc vất vả nhưng vẫn được trả lương cao, để họ có thời gian nghỉ ngơi..” . Ví dụ khi ta đói, ta có thể nghĩ “Cái đói con đang chịu cũng giống như cái đói mà chúng sinh chịu. Thông qua cái đói này mà con đang chịu đựng, cầu cho mọi chúng sinh được giải thoát khỏi bị đói”. Hoặc khi chúng ta bị ốm đau, chúng ta nghĩ “Con xin nguyện chịu việc đau ốm này thay cho chúng sinh, cầu cho thông qua việc con phải chịu đựng ốm đau mà những đau bệnh của chúng sinh được giải phóng”. Chúng ta có thể áp dụng điều này với mọi khó khăn mà ta gặp phải. Và đôi khi chúng ta thiền định và tâm trở nên rất hạnh phúc, hoặc khi chúng ta có công việc tốt, có lương cao và ta hạnh phúc, thì những lúc đó chúng ta nghĩ rằng: “cầu cho mọi chúng sinh cũng có được những thứ thuận duyên như vậy, cũng được hạnh phúc, con chia sẻ hạnh phúc này cho tất cả mọi chúng sinh”.
Tong-len chính là cho đi hạnh phúc và nhận lại khổ đau. Hoặc khi chúng ta cảm thấy vui vẻ và an lạc khi uống một cốc trà, thì cũng nghĩ: “xin cho mọi chúng sinh cũng được thưởng thức trà vui vẻ và an lạc”. Và đây cũng là cúng dường lên tất cả chư Phật. Và thực sự thì thông qua tâm, chúng sinh sẽ cảm nhận được điều đó. Làm sao họ nhận được, đó là thông qua tình yêu thương ta giành cho họ. Tình yêu của người mẹ cho đứa con đã giúp bà sản sinh sữa cho con mình. Người mẹ không biết sản xuất sữa nhưng sữa đó đến một cách tự nhiên nhờ tình yêu thương. Ngay cả những con bò hay các con vật khác cũng không biết cách làm ra sữa, nhưng vì chúng cũng có tình yêu thương cho con của chúng nên sữa đã chảy ra một cách tự nhiên.
Vì vậy nếu chúng ta có tình yêu thương thì chúng ta sẽ làm lợi lạc cho chúng sinh một cách tự nhiên. Và tình yêu thương cũng giúp chính bản thân mình vì nó làm cho chấp ngã biến mất đi. Tình yêu thương giống như mặt trời và chấp ngã thì giống như là tảng băng. Khi tình yêu thương càng nhiều thì tảng băng chấp ngã càng tan chảy dần đi. Tình yêu thương càng nhiều thì chấp ngã càng giảm thiểu.
Trích nội dung Garchen Rinpoche gặp gỡ và trả lời câu hỏi của nhóm Phật tử Hà nội, sáng 13/8/2014 tại Singapore | Trần Lan Anh ghi chép và dịch
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
BẢN CẦU NGUYỆN XÍCH LÔI CÂU hay KURUKULLA
(Log Mar Chag Kyu chuyển dich)
E Ma Hô. Đây là căn bản chí chính là thân kim cang siêu việt mọi biến kiến,
Tự bổn nguyên đã đoạn đứt lưới khổ đau.
Hỡi Phật Mẫu Kurukulla, nguyện tiếng cười của Ngài là sự hiệp nhất của lạc và không ,
đẩy lùi sự bám chấp nơi các pháp bởi vô minh .
Hỡi đức Di Đà, Quán Âm, Liên Hoa, Mã Đầu,
Orgyen Dzambhala, Tara, Varahi Đỏ,
Kamaraja cùng phối thân, các Ngài chính là kho năng lực phẫn nộ và đại lạc,
Xin hãy ban cho những thành tựu(tất địa) tối thắng và tương đối, đó là sự hiệp nhất nhiệm mầu của hữu và không.
Bức màn hư ảo hữu kì diệu
Của kim cang thân, khẩu, ý và đức hạnh của chư Phật.
Chính là diện mục của thần lực là đại tạng mầu nhiệm của trí tuệ,
hỡi Phật Mẫu Kurukulla, con xin nguyện với Ngài.
Nguyện cho những con sóng của biển vọng tưởng được an định,
nó khiến chúng con bất lực trước những cảm thọ sướng hay khổ,
bởi tập khí xấu chấp thiện ác là thật,
Chú tâm vào đầu liền khởi ngay vọng tưởng,
Bởi tập khí hay chấp tướng như thực.
nên chúng con bị quăng vào ngục tù của vọng tưởng sướng khổ.
Là những chúng sinh bất lực chẳng được đoái giúp.
nên chúng con kêu lên xin quy y nơi Phật Mẫu, vì Ngài chính là kho thần lực.
Bởi thân ham muốn trói chặt, nên khí mạch loan động
Làm năng lực thô tháo của giọt nguyệt tinh(giọt tinh trắng) trồi sụt,
Nguyện cho những hạt nhân của vòng luân hồi này
Hòa tan vào những vi tử hư huyễn của thân Phật Mẫu Kurukulla.
Thể nghiệm tối thượng của giọt bồ đề tinh trắng và đỏ tụa những vầng mây kim cang rực rỡ,
Trong nhị hoa của điệu vũ hỉ lạc bởi Hư Không Chủ Mẫu( Yingchukma) vô sinh,
Luân hồi và niết bàn được bao bọc bởi mật ấn đại lạc.
Nguyện cho vòng luân chuyển của mọi hiện tượng huyễn hóa nay được hiển lộ.
Chiếu không hiệp nhất là những vẻ đẹp và tướng tốt, cũng là sinh lực rực rỡ của luân hồi và niết bàn.
Thành không hiệp nhất. Là những lời du dương, là thị hiện của những kí tự và vũ điệu nhân duyên tương sinh,
Trí không hiệp nhất. Là đại bi vô biên phổ nhập nhất thiết pháp,
Nguyện tất cả các pháp khắp hư không thị hiên như Phật Mẫu Kurukulla.
Nguyện tất cả chúng con, cho đến khi thành chánh giác,
Chăng bao giờ bị năng lực của ác nghiệp và thói sấu trói buộc,
Và đạt được kho báu của Liên Hoa Bộ của thần lực nhiệm mầu,
Rồi tự thành tựu công hạnh vô tắc làm lợi lạc chúng sinh.
Nguyện những ai thấy, nghe, mong, nghĩ đến con đều được phúc lạc diệu kì,
Và được nhân duyên bất khả kháng do oai lực thần kỳ của lưỡi câu bén không gi thoát được,
Và sư thị hiện từ năng lực của vũ điệu lạc_không.
Đó chính là sinh lực của luân hồi và niết bàn,
Nguyện cho trí tuệ và từ bi vô trụ là yếu tố của viên ngọc báu tự hữu,
Được như búp sen bừng nở do năng lực của ánh sáng mặt trời,
Và mãi trụ như hư không thường trụ,
Như kho phúc lạc của biển quốc độ chúng sinh.
Nguyện tất cả nạn như ma, chướng, yểm đều đứt tuyệt,
Nguyện cho tho mạng, năng lực, tài khí, oai lực, phúc lạc đều sung mãn,
Bởi tâm nguyện này, mà làm lợi lạc cho quyến thuộc của con và tất cả chúng sinh.
Và nguyện cho con được như Ngài là người mẹ duy nhất.
Khi tấm thân này, là nơi thành quách của lý nhân duyên tương sinh, đến lúc hoại diệt,
Nguyện rằng trong vầng hào quang đỏ của Phật Mẫu Đại lạc Kurukulla Đỏ.
Và trong cảnh giới đầy hơi ấm của niềm hoan hỷ thuần nhất,
Có được sự thể nghiệm nhất vị giọt đại bồ đề tinh bình đẳng.
(24/10/2008 Ngài Hungkar viết tại Việt Nam trong chuyến hoành pháp của Ngài . Nguyện nhưng ai xem tụng bản Nguyện này được thành tựu viên mãn kết tường)
https://www.facebook.com/permalink.p...76977395702081