-
Những điều xảy ra bất như ý trong cuộc sống, thậm chí là những khó khăn vô cùng to lớn. Đó là những nghiệp của chính mình đổ xuống, là những chướng ngại mà phải vượt qua, là những thử thách để vững vàng hơn, là những kinh nghiệm để nhìn thấy sai sót của chính mình để sau đó nhận ra bài học và trở nên tiến bộ hơn. Thậm chí sau khi gặp Bậc Thầy, sau khi đi Pháp hội, bao nhiêu khó khăn bất như ý có thể xảy đến. Đó chính là những gia trì, những cơ hội thực hành để chuyển hóa tâm. Còn đối với một số người tà kiến thì coi đó là "vận đen" và đổ lỗi cho ai đó hoặc cái gì đó. Thậm chí trở nên nghi ngờ Tam Bảo, nghi ngờ Bậc Thầy, họ oán trách và cảm thấy như mình "bị oan".
Các Bậc Thầy luôn cố gắng hết sức, dù chúng sinh có một chút xíu nhân duyên, tuy nhiên không phải khi nào các Ngài cũng thành công trong việc cứu độ chúng sinh, trên thực tế tỷ lệ % thất bại là lớn hơn thành công bởi vì thiện duyên chúng sinh không vượt qua nổi ác nghiệp của chính họ.
https://www.facebook.com/pg/Mandala-...5702081/posts/
-
CON XIN ĐẢNH LỄ TẤT CẢ CÁC NGÀI:
1 Karmapa Dusum Khyenpa (1110-1193)
2 Karmapa Karma Pakshi (1206-1283):
3 Karmapa Rangjung Dorje (1284-1339):
4 Karmapa Rolpe Dorje (1340-1383):
5 Karmapa Dezhin Shegpa (1384-1415)
6 Karmapa Thongwa Donden (1416-1453):
7 Karmapa Chodrag Gyaltsho (1454-1506):
8 Karmapa Mikyo Dorje (1507-1554):
9 Karmapa Wangchuk Dorje (1555-1603):
10 Karmapa Choying Dorje (1604-1674):
11 Karmapa Yeshe Dorje (1676-1702):
12 Karmapa Changchub Dorje (1703-1732):
13 Karmapa Dudul Dorje (1733-1797):
14 Karmapa Thegchog Dorje (1798-1868):
15 Karmapa Khakhyab Dorje (1871-1922):
16 Karmapa Rangjung Rigpe Dorje (1923-)
https://www.facebook.com/pg/Mandala-...5702081/posts/
-
h giả đang hành trì Ngondro Longchen Nyingtik có thể quán tưởng các đám lửa và những con bọ cạp phóng ra từ chày kim cương của Guru Rinpoche, những con bọ cạp này đớp lấy mọi chướng ngại và nuốt chửng chúng cho tới khi tất cả hoàn toàn biến mất.
● Khi cái chết đến gần, hãy quán tưởng bậc thầy trong hình thức Đức Vô Lượng Quang màu đỏ và tan biến vào tâm của ngài, làm như vậy nhiều lần.
Hãy nghĩ rằng mọi người và mọi thứ bạn gặp trong cả ngày đều chính là Guru Rinpoche.
Đây là một thực hành khá sâu xa, và những người mới ban đầu có thể thấy hơi khó, vì thế hãy bắt đầu ở mức độ mong ước.
ADVICE FOR PRACTITIONERS
Try imagining Guru Rinpoche above your head, or sitting in front of you, or in your heart.
● As you chant the mantra, imagine an uninterrupted stream of nectar flows down from the guru and dissolves into you.
● At night visualise your guru sitting on a lotus in your heart.
● As you eat, imagine your guru in your throat.
● If you are facing an obstacle, perhaps a dispute in your family, or if you are depressed, visualise your guru on your shoulder, wrathfully baring his fangs.
● Longchen Nyingtik Ngöndro practitioners can imagine sparks of fire and scorpions shooting out from Guru Rinpoche’s vajra, the scorpions snapping up each and every obstacle and swallowing them until they are all completely annihilated.
● As death approaches, visualise your guru in the form of red Amitabha and transfer yourself into Amitabha’s heart, again and again.
Imagine that everyone and everything you encounter throughout the day is none other than Guru Rinpoche.
This is quite a profound practice, and beginners may find it a little difficult at first, so start by doing it on an aspirational level.
NAMO GURU
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...42889102_n.jpg
https://www.facebook.com/pg/Mandala-...5702081/posts/
-
● Nếu bạn gặp phải một chướng ngại, chẳng hạn xung đột trong gia đình, hoặc nếu bạn nản lòng, hãy quán tưởng bậc thầy trên vai, nhe răng đầy phẫn nộ.
● Các hành giả đang hành trì Ngondro Longchen Nyingtik có thể quán tưởng các đám lửa và những con bọ cạp phóng ra từ chày kim cương của Guru Rinpoche, những con bọ cạp này đớp lấy mọi chướng ngại và nuốt chửng chúng cho tới khi tất cả hoàn toàn biến mất.
● Khi cái chết đến gần, hãy quán tưởng bậc thầy trong hình thức Đức Vô Lượng Quang màu đỏ và tan biến vào tâm của ngài, làm như vậy nhiều lần.
Hãy nghĩ rằng mọi người và mọi thứ bạn gặp trong cả ngày đều chính là Guru Rinpoche.
NAMO GURU
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...45582074_n.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...78677010_n.jpg
https://www.facebook.com/pg/Mandala-...5702081/posts/
-
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...69119587_n.jpg
( https://www.facebook.com/pg/Mandala-...5702081/posts/ )
HÔM NAY 05/11/2017 KỶ NIỆM 36 NĂM NGÀY THỊ TỊCH CỦA ĐỨC KARMAPA 16 - RANGJUNG RIGPE DORJE
Đức Karmapa thứ mười sáu, Rangjung Rigpe Dorje, sanh tại Denkhok vùng Dege xứ Kham gần sông Yangtse ngày trăng tròn tháng 6 năm con Chuột Mộc (1923). Ngài sanh trong một gia đình quý tộc họ Athub. Tên cha ngài là Tsewang Norbu và tên mẹ là Kakzang Choden. Sự sanh của vị đại Bồ tát trong gia đình Athub đã được tiên tri trước bởi Dzok Chen Tulku là Chokyi Dorje, trụ trì chùa Dzok Chen nổi tiếng của phái Nyingma. Theo lời khuyên của vị này, bà mẹ sanh đứa bé gần hang động của Padmasambhava, gọi là lâu đài Trời Sư Tử.
Trước khi được sanh ra, đứa bé hoàn toàn biến mất trong một ngày tròn và rồi trở lại vào ngày hôm sau. Vào đêm Ngài sanh ra, bầu không khí đầy những điềm lành, mà bất kỳ ai ở địa phương cũng cảm thấy.
Sự xuất hiện của Ngài trong thế gian này đã làm an dịu mọi nỗi thống khổ của chúng sinh. Cầu mong những hóa thân nhiều như những hạt bụi trong không gian của Ngài sẽ giải phóng mọi nỗi khổ trong tam giới. Cầu nguyện những người nghĩ tưởng đến Ngài, nghe nhắc pháp hiệu của Ngài đều được Ngài an lập trong trạng thái Phật Quả Tối thượng.
Mong mọi sự tốt lành !
Đọc thêm tiểu sử cuả Ngài tại http://www.ripavietnam.org/tieu-su-n...-16-1923-1981/
-
KỆ KẾT TƯỜNG
NANG SIT DA DI LAMA CHI NE SA
Thực tướng của vạn vật là dấu hiệu bên ngoài biểu hiện của bậc thầy
MA RAC RIT LAI LAMA NANG NE SA
Trí tuệ vô ngại minh giác là dấu hiệu bên trong của Bậc Thầy
NGO CHA CHUE KHI LA MAY RANG SAN MANG
Và khát khao tìm được bổn lai diện mục của bậc Thầy Pháp Thân
KU SUNG THUC THIC LA MAY TRA SI SO
Cầu Nguyện Thân Khẩu ý minh điểm của bậc Thầy Kết Tường
(Tung hoa gạo_lắc chuông trống)
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...18559918_n.jpg
https://www.facebook.com/pg/Mandala-...5702081/posts/
-
CÁC CẤP BẬC TRONG KIM CANG THỪA
1. CƯ SĨ tức là những người tại gia ,họ trì 5 giới có nhiệm vụ phụng sự TAM BẢO
2. SA DI(36 GIỚI) là tiểu LAMA khoảng 7 đến 8 tuổi
3.TỲ KHEO (250 GIỚI)
4.GESHE (TIẾN SĨ PẬT HỌC) muốn đạt đến học vị này TĂNG SĨ phải nắm vững 5 lĩnh vực căn bản trong 3 phạm trù (kinh , luật, luận)
(a) KINH. TĂNG SĨ phải thông thạo hệ thống bát nhã nhất là kinh kim cương
(b)LUẬT . TĂNG SĨ phải hiểu luật tạng (riêng với ATY DATMA VỀ TRUNG QUÁN VÀ NHÂN MINH đó là những bộ luật quan trọng cần thiết và thông thạo
(c) LUẬN mất khoảng 12 năm tu học và hành trì vấn đáp sát hạch và những khó khăn
5.GYUPA (TỨC QUÁN ĐẢNH) Trong PHẬT GIÁO TÂY TẠNG cấp bậc này dc xem trọng nhất ,bởi cấp này tu sĩ dc đào tạo trong các PHÁP mật tông ,trao dồi thuần thành lý thuyết cả thực hành sự chứng ngộ ..khi 1 LAMA đạt đến trạng thái siêu việt này (LATMA có thể truyền quán đảnh qua con đường ấn chứng tại tâm ,không nhất thiết phải lệ thuộc vào sách vở và kinh điển
6. Là các vị ĐẠI SƯ ,SƯ TRƯỞNG (RINGPOCHE) đứng đầu những tu viện ,bao quán tất cả các mặt đời sống và tinh thần cả tăng chúng toàn viện.
Tăng chúng muốn thọ giới quán đảnh đuề phải có sự cho phép và ấn khả.....
OM AH HUM VAJRA GURU PADME SHIDHI HUM
https://www.facebook.com/pg/Mandala-...5702081/posts/
-
Lạy Thế Nào Thì Đúng?
🙏🙏🙏
Có rất nhiều đạo hữu dù đi chùa đã lâu nhưng vẫn bối rối trong cách quỳ lạy. Vậy quỳ lạy sao cho đúng? Lạy "Ngũ thể đầu địa" giữa truyền thống Tiểu Thừa (Nam Tông), Đại Thừa (Bắc Tông) và Đại Thừa- Kim Cương Thừa (Kim Cương Thừa bắt nguồn từ Đại Thừa) có gì khác?
🌸Tại sao lại lạy 3 lần? Lạy 3 lần chính là lạy Tam Bảo (3 ngôi quý báu): Phật, Pháp, Tăng.
🌸Lạy "Ngũ Thể Đầu Địa" hay còn gọi là Năm Vóc Sát Đất ( gối trái, gối phải, tay trái, tay phải, và đầu, đều gieo sát đất). Cách lạy này đều sử dụng trong Tam Thừa, dùng để chí tâm đảnh lễ Phật, tôn tượng Phật; Bồ Tát; Bổn Tôn; và Sư Trưởng...
Lễ lạy như vậy ngoài bày tỏ lòng thành kính tới bề trên, thì còn thể hiện sự xả bỏ ngũ độc, trừ khử ngã mạn, và giúp cho thanh tịnh ác nghiệp.
🌸Trong Tam Thừa thì Kim Cang Thừa lại chia ra làm 2 cách lạy: Ngũ Thể Đầu Địa (lạy ngắn), Ngũ Thể Nhập Địa (lạy dài).
Dưới đây là hình ảnh Phakchok Rinpoche đang sử dụng Ngũ Thể Đầu Địa để dạy Phật tử lễ lạy tranh Phật (Thangka). Hai tay chắp lại bắt đầu từ ngực thể hiện lòng thành kính từ sâu thẳm trong trái tim, tiếp đó tay hướng lên đỉnh đầu thể hiện cho Thân, xuống tới miệng là thể hiện cho Khẩu, xuống tới ngực là thể hiện cho Ý. Thanh tịnh Thân- Khẩu- Ý, rồi cúi xuống lạy, 2 bàn tay úp xuống, thể hiện cho sự nhất tâm thành kính và thanh tịnh ngũ độc ( tham, sân, si, ngả mạn, và bám chấp). Sau khi lạy 3 lạy, thì đứng lên và xá. Hoàn thành.
Trong Kim Cang Thừa khi lạy thì 2 bàn tay luôn úp xuống. Còn trong Đại Thừa (Bắc Tông) có một số nơi úp tay xuống và một số nơi khác lại ngửa tay lên, gây nên tranh cãi sai đúng. Thực ra không có sai hay đúng ở đây. Phật giáo Đại Thừa ở Việt Nam ảnh hưởng lớn từ Phật Giáo Trung Quốc. Theo giải thích của Phật Giáo Đại Thừa- Trung Quốc, cách lạy ngửa tay mang ý nghĩa cung kính nâng bàn chân Phật và đón nhận phước báu.
https://www.facebook.com/pg/Mandala-...5702081/posts/
-
TRẢI NGHIỆM TÂY TẠNG PHIÊN BẢN MỚI KHỞI HÀNH 06/11; 22/11; 06/12 VÀ 22/12 TRỌN GÓI 27,9 triệu.
- ĐƯỜNG BAY THẲNG TỪ TP HCM Khởi hành 22/11 trọn gói 32,9 triệu
- Trải nghiệm đường tàu đẹp nhất thế giới trên cao nguyên Thanh Tạng
- Ngắm nhìn sông băng núi tuyết, thảo nguyên vô tận với những đàn Yak
- Khám phá Polata cung kỳ quan của thế giới hiện đại
- Chiêm bái chùa Đại Chiêu linh thiêng nhất Tây Tạng
- Tận hưởng không gian hùng vĩ nơi thánh hồ Dương Trác Ung Thác
- Thăm tu viện Tashilhunpo, một trong 4 đại tu viện lớn nhất Tây Tạng
- Cơ hội chụp ảnh cùng Yak và Ngao Tạng thật dễ dàng
- Hướng dẫn viên Lantours am hiểu về Tây Tạng và Mật giáo Tây Tạng đi cùng Quý vị suốt hành trình
Hỗ trợ trực tuyến
093.170.8818
093.171.8828
Xem nội dung đầy đủ tại: http://lantours.vn/lob30-trai-nghiem...-phien-ban-moi
Nguồn: lantours.vn
https://www.facebook.com/pg/Mandala-...5702081/posts/
-
Khi Guru Rinpoche rời Tây Tạng đến cõi giới của loài La Sát trên tiểu lục địa Chamara và sau khi Vua Pháp Trisong Deutsen qua đời, Mune Tsenpo, trưởng nam của đức vua, đã kế vị ngôi vua. Nhưng đức vua chỉ trị vì trong ba năm sáu tháng bởi Ngài bị sát hại - bị đầu đọc - bởi Bà Tsepang Margyen, một trong những vị hoàng hậu của vua Trisong Deutsen và cũng là mẹ ruột của Mune Tsenpo! Một cách diệu kỳ, Đức Vimalamitra đã trở về Samye từ Ngũ Đài Sơn ở Trung Quốc để chủ trì tang lễ và Nyak Jnanakumara đã bắt lấy cơ hội này để đỉnh lễ Tôn giả. Trong y áo, Nyak Jnanakumara mang theo ba phần vàng và Ngài đã cúng dường tất cả lên Tôn giả Vimalamitra.
"Ồ, dịch giả", Đức Vimalamitra nói, "Con vẫn hạnh phúc chứ?"
"Có quá nhiều chướng ngại với thực hành Pháp," Nyak Jnanakumara đáp, "Quá nhiều người đang gây ra các vấn đề. Vì thế, con không hạnh phúc".
Đó là một tin rất xấu.
Đức Vimalamitra nói, "Bất cứ ai làm hại một vị Lotsawa [dịch giả] cũng tức là đang làm tổn hại đến giáo lý nói chung." Sau đấy, Tôn giả trao cho Nyak Jnanakumara pho giáo lý Nyak Luk Phurba, ban các quán đỉnh và giải thích Mật điển cùng chỉ dẫn cốt tủy. Những giáo lý này sau đó được chôn giấu như một Terma [bảo tạng] và được phát lộ bởi chư vị Không Hành Nữ trí tuệ, những vị đã thị hiện trước Dilgo Khyentse Rinpoche và trao những cuộn kinh vàng chứa đựng các giáo lý này. Với sự giúp đỡ của Tổ Jamyang Khyentse Chokyi Lodro, Dilgo Khyentse Rinpoche đã giải mã bản kinh và viết lại kho tàng giáo lý này. Chúng giờ đây được biết đến là Phổ Ba Kim Cương của [Dịch Giả] Nyak Jnanakumara.
~ ORGYEN TOBGYAL RINPCOHE
Photo: Shechen Rabjam Rinpoche trao truyền quán đỉnh Phổ Ba Kim Cương theo truyền thừa Nyak Jnanakumara tại Tu viện Shechen, tháng 4 năm 2017.
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...09947989_n.jpg
https://www.facebook.com/pg/Mandala-...5702081/posts/
-
" Khi GURU RINPOCHE bị huyền thuật ngoại đạo đe dọa, Ngài mở tráp của Dakini Sư Tử Diện trao cho ngài và ngài tìm thấy thần chú “14 chữ”
[ AH KA SA MA RA TSA SHA TA RA SA MA RA YA PHAT ] "
Khi ta chợt nhận ra chướng ngại đang trùng trùng đổ xuống bên ngoài bên trong và bí mật , ta sẽ mãnh liệt trì tụng
[ AH- KA -SA -MA -RA -TSA -SHA -TA -RA -SA -MA -RA -YA -PHAT ]
-
Mandala tịnh thất
19 Tháng 9 ·
KIM CANG GIỚI (VAIJAYANA SAMAYA)
I. Mật giới căn bản tội:
1/ Phỉ báng khinh, chê, coi thường Kim Cang Đạo Sư của mình.
2/ Chứng tỏ mình coi thường giới luật.
3/ Chỉ trích, nói xấu Kim Cang Hữu.
4/Bỏ tâm từ với mọi chúng sinh.
5/Từ bỏ Hạnh, Nguyện Bồ Đề.
6/Kinh chê giáo pháp Kinh Thừa, Mật thừa.
7/Chỉ bày các bí mật đàn ấn chú cho người không xứng đáng.
8/Tự hành hạ thân thể.
9/Từ bỏ tánh Không.
10/Nương tựa nơi Ác tri thức.
11/Không quán niệm về tánh không.
12/Huỷ niềm tin Tam Bảo của kẻ khác.
13/Không giữ gìn kính trọng vật Tam Muội Da nếu có thể( chuông, chày, chuỗi).
14/Coi khinh người nữ.
II. Mật giới phụ:
1/Gắng bỏ ác nghiệp, nhất là giết, trộm, tà dâm, dối gạt, rượu.
2/Chân thành nương tựa nơi Đạo Sư – Coi đạo sư là Phật, kính trọng các Kim Cang Hữu, tu Guru Yoga hàng ngày, giữ 10 giới. (Không được : nói dối, nói lưỡi đôi chiều,nói thêu dệt, nói thô ác, ăn cắp, tà dâm, uống rượu, tham, sân, si.)
3/Phải nương nơi Bồ Đề Tâm, tránh khinh chê Chư Thiên, giẫm đạp lên vật thiêng liêng.
III. Đại giới – Vi phạm Nặng
1/ Chửi mắng Kim Cang Đạo Sư và bỏ ngang lệnh Ngài.
2/ Cãi cọ đánh lộn với Kim Cang Hữu.
3/Ở 7 ngày trong nhà người chống đối Kim Cang Thừa.
4/Giả vờ là một hành giả chứng ngộ.
5/Tiết lộ Thánh Pháp cho người không tin-phỉ báng.
6/Lập Đàn Tác Pháp khi chưa hoàn mãn nhập thất độc cư.
7/Vi phạm các giới khi không cần thiết.
8/Làm ngược lại cuốn “Năm mươi câu kệ về Đạo Sư”.
IV. Giới nguyện của 5 bộ:
Phật bộ: Hành hạnh bồ tát, Đoạn ác, tu Thiện, làm lợi ích chúng hữu tình.
Kim cang bộ: Không xa lìa Đạo sư, Chày Chuông, Ấn.
Bảo bộ: Bồ thí -tài vật, pháp, vô uý, tình thương.
Liên hoa bộ: Học hỏi hết các Pháp của tam thừa.
Nghiệp bộ: Giữ mọi giới và hành pháp cúng dàng thích hợp.
***
Tất cả các bộ giới ở đây là các Giới Nguyện ( samaya ) mà người tu Mật Thừa phải nhận. Đó là lời thệ nguyện không vi phạm các giới luật của Mật chú thừa. Có giới mới sinh định, có định mới sinh tuệ. Bởi vậy một hành giả Mật thừa mà không gìn giữ những samaya này như tròng con mắt thì sẽ không thể thành tựu chút gì. Khi vi phạm, hành giả phải có tâm biết hổ thẹn và tâm sám hối.
Riêng Vi Phạm Đại Giới sẽ bị đoạ vào địa ngục Kim Cang, giới thứ 1 không thể sám hối.
Giới còn lại phải phát tâm sám hối và tu trì tịnh hoá Kim Cang Tát Đoả 100.000 lần.
Cái lợi của việc giữ đúng Samaya là làm cho hành giả củng cố thân tâm, đem lại sức đại định và tín tâm vô hạn. Một số hành giả có thể đạt giác ngộ khi giữ trọn giới trong một đời, kế tiếp là bảy đời hay mười sáu đời sau…
(Trích từ website hoibongsen.com)
-
-
-
-
-
Mối Quan Hệ Đạo Sư và Đệ Tử - Khai Thị của Đức KARMAPA 17
Bài được dịch bởi Chú Tiểu Nhỏ, được cô Hiếu Thiện hiệu đính Đọc bản tiếng Anh
Khi đức Milarepa theo ngài Marpa tu tập thì trong lúc đầu, ngài Marpa chẳng ban cho đức Milarepa cái gì cả ngoại trừ sự khó khăn. Trong suốt một thời gian dài, ngài Marpa chẳng ban cho đức Milarepa một lễ quán đảnh hay giáo huấn nào nhưng lòng sùng mộ của đức Milarepa đối với vị đạo sư của mình tuyệt nhiên không chút nào bị suy suyển mặc dù nhiều lần, đức Milarepa đã có phần bị thối chí.
Chúng ta, những người đệ tử đang theo dấu chân những bậc tiền bối vinh quang vô địch của dòng truyền thừa Kagyu, có mặt ngày hôm nay để tu tập. Từ góc độ đó, tôi nghĩ rằng sẽ là điều tốt lành nếu trong khóa lễ này, tôi nói vắn tắt về mối quan hệ đạo sư – đệ tử trong bối cảnh của phần đầu của đại lễ Kagyu Monlam.
Nơi tổ chức đại lễ Kagyu Monlam lần thứ 26 này có những đặc điểm mới, như cách bố trí các cổng chính chẳng hạn, và vân vân. Và tôi nghĩ sẽ là điều tốt để chỉ ra một cách vắn tắt ý nghĩa tượng trưng của bánh torma [theo cách trang trí mới mẻ này]. Các bánh torma chính dùng để trang trí [trong đại lễ lần này] như sau: ở bên phải là các bánh mà trên đó có hình ảnh của các ngài Marpa, Milarepa và Gampopa, và ở bên trái là những chiếc bánh trên đó có hình ảnh của các bậc tiền bối của phái Cựu dịch tức dòng Nyingma, cũng như dòng Sakya vinh quang, và dòng Geluk.
Nguyên tắc chính yếu mà các bánh torma này minh họa là: khi chúng ta nghiên cứu giáo lý Phật giáo Tây Tạng thì chúng ta sẽ thấy rằng, về cơ bản, chẳng có dòng truyền thừa nào lại chẳng hòa trộn với các dòng truyền thừa khác. Khi ba Pháp vương Songsten Gampo, Trisong Deutsen, và Tri Ralpachen lần đầu tiên thiết lập nền móng Phật giáo tại Tây Tạng, dòng truyền thừa nổi trội lúc ấy được biết đến dưới cái tên ‘Dòng phái Mật tông Nyingma’. Do đó, Nyingma là dòng phái Phật giáo đầu tiên ở Tây Tạng. Sau đó, dưới thời vua Langdarma, giáo Pháp đã bị quét sạch khỏi Tây Tạng, rồi sau đó một thời gian giáo Pháp lại tiếp tục được truyền bá. Đó là sự khác biệt giữa các phái Cựu dịch và Tân dịch.
Sau đó, dòng truyền khẩu truyền của các bậc thầy Kadampa được trao truyền từ ngài Atisha tôn quý, và từ đó các dòng truyền thừa Sakya, Kagyu, và Geluk lần lượt xuất hiện. Các giai đoạn tu tập, cùng với những điểm khởi đầu căn bản của tất cả các dòng truyền thừa này đều giống như nhau. Các dòng truyền thừa riêng biệt khác nhau xuất hiện là do những dòng truyền riêng biệt từ các bậc đạo sư khác nhau và cách dạy của các ngài có khác nhau; tuy nhiên, về cơ bản, chẳng có một dòng truyền thừa nào mà lại không hòa trộn các dòng truyền thừa khác. Tóm lại, tất cả các dòng truyền thừa Tây Tạng được truyền xuống trong mối quan hệ hòa trộn với nhau; tất cả đều có một điểm chung đó là: những kết nối về Pháp và những kết nối về mật nguyện (samaya).
Thỉnh thoảng có một vài sự cố nho nhỏ xảy ra giữa các dòng truyền thừa, bởi vì mỗi dòng truyền thừa khác nhau có cách hành xử khác nhau và điểm nhấn khác nhau. Đôi lúc, một số người do không hiểu cách tu tập cảm thấy thất vọng trước sự khác biệt đó và, cũng bởi lý do đó, vài sự cố nho nhỏ đã xảy ra. Tuy nhiên, như ngài Marpa đã nói, khi ngài bắt đức Milarepa trải qua muôn vàn gian khó không thể tưởng tượng nổi; và mặc dù một người phàm phu có thể thoạt nghĩ lúc đầu rằng ngài tuyệt nhiên chẳng có chút lòng bi mẫn nào đối với đức Milarepa, thì thực ra ngài Marpa làm như vậy là để đức Milarepa tịnh hóa ác nghiệp và chướng ngại của mình. Rõ ràng là ngài Marpa không hành động như vậy vì sở thích riêng tư của mình hay hành động mà chẳng hề có mục đích hoặc lý do nào cả.
Như vậy, nếu chúng ta xem những câu chuyện ấy như những tấm gương thì trong suốt chiều dài lịch sử các dòng truyền thừa Tây Tạng tồn tại cho đến ngày nay - chẳng có dòng truyền thừa nào là ngoại lệ - thì luôn có những đạo sư thể hiện những hành động, những mẫu hành xử, những tấm gương cuộc đời rất khác biệt. Kẻ phàm phu không hiểu biết gì về giáo Pháp có thể nhìn vào các hành động đó rồi sinh ác cảm, mất niềm tin và phạm tà kiến. Nhưng chẳng có điều gì cho phép chúng ta nói rằng các hành động đó, các mẫu hành xử đó, về bản chất, là không nhất quán hay trái với giáo Pháp.
Do đó, sự hiện diện của các hình ảnh của các bổn sư hay đạo sư của tất cả các dòng truyền thừa Phật giáo Tây Tạng ở đây, trong ngày hôm nay, có một ý nghĩa là tất cả các dòng truyền thừa của Phật giáo Tây Tạng chẳng là gì khác hơn là giáo Pháp của đức Phật: Tất cả các dòng truyền thừa đều giống nhau. Một ví dụ là mười tám tông phái trong thời kỳ đầu của Phật giáo. Như được khẳng định trong câu chuyện kể về linh ảnh trong giấc mộng của vua Krikin: tất cả mười tám tông phái này đều giống nhau ở chỗ tất cả đều là giáo Pháp của đức Phật. Tương tự như vậy, điều rất quan trọng là mỗi chúng ta phải biết quán xét và suy ngẫm về ý nghĩa này. Tôi nghĩ rằng chỉ khi nào việc này được thực hiện thì chúng ta mới có thể trì giữ mật nguyện đối với các vị đạo sư gốc và đạo sư của dòng truyền thừa mà không hề xảy ra sự xung đột hay phạm giới. Vấn đề quan trọng là tất cả chúng ta phải trải rộng tâm thức theo hướng này.
Một điểm quan trọng khác là nếu chỉ nghĩ về ‘mối quan hệ đạo sư – đệ tử’ trong phạm vi các đạo sư mà chúng ta đã trực tiếp gặp gỡ hay có quan hệ mà không màng đến các đạo sư khác thì vẫn chưa đủ. Có nhiều loại đạo sư, như bổn sư và đạo sư của dòng truyền thừa chẳng hạn. Do đó, khi nói đến ‘đạo sư’ thì chúng ta phải mở rộng tầm nhìn đối với điều mà chúng ta hàm ý muốn nói. Chúng ta không thể chỉ xem những đạo sư mà chúng ta đã từng gặp gỡ hoặc nhìn thấy tận mắt trong kiếp sống này là những bậc thầy thực thụ và làm như mình chẳng hề quen biết bất kỳ vị thầy nào khác. Khi chúng ta đọc một bài khấn nguyện thiền định, dù rằng đó chỉ là một bài ngắn, chúng ta luôn bắt đầu với việc khẩn cầu từng vị đạo sư của dòng truyền thừa, từ đức Phật Kim Cang Trì xuống bổn sư của chúng ta. Điều rất quan trọng là phải quán chiếu để hiểu tại sao cần thiết phải trân quý các vị lạt ma của dòng truyền thừa và niệm danh hiệu của các ngài.
Trong các dòng truyền thừa của chúng ta có rất nhiều chân sư vĩ đại thuộc mọi bộ phái và chúng ta quán tưởng các ngài như một ruộng công đức hiện hữu trong hình ảnh một hàng bảo châu ở chót đỉnh của dòng truyền thừa của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta không nghĩ tưởng tới các ngài vào những lúc khác [ngoài thời khóa] trong khi lại vẫn luôn nói lời thệ nguyện làm lợi lạc cho chúng sinh và thực hành giáo Pháp, thì việc chúng ta quán tưởng cây quy y là vô nghĩa, vô ích. Cũng như vậy, khi chúng ta quán tưởng những hình ảnh sống động của các đạo sư dòng truyền thừa nơi cây quy y, khi chúng ta hành động để làm lợi lạc cho chúng sinh và giáo Pháp, chúng ta phải nhớ nghĩ tới lòng tốt của các đạo sư dòng truyền thừa và noi theo gương của các ngài. Nếu chúng ta cho rằng chỉ cần tuân thủ huấn lệnh và tri kiến của vị thầy chính trong tu viện [của chúng ta] mà thôi thì có lẽ chúng ta chẳng thực sự suy ngẫm gì về chính giáo Pháp. Có lẽ chúng ta chỉ nghĩ đến cơm ăn, áo mặc cho bản thân chúng ta mà thôi.
Vị sư trưởng trong tu viện của chúng ta là người có lòng tốt giúp đỡ chúng ta về cơm ăn, áo mặc. Nhưng nếu chúng ta chỉ lo tập trung đứng về phía vị đó và ủng hộ tất cả những gì vị đó làm hoặc nói thì chúng ta sẽ không thể suy nghĩ rộng, thoáng và hòa hợp với các nguyên lý, chủ đề chung của giáo Pháp trên phương diện tổng thể được. Cuối cùng thì sẽ như thể Phật pháp nguyên khối nguyên hình vững chắc, sống động bị vỡ ra thành nhiều mảng nhỏ và chúng ta chẳng thể chỉ vào một mảng nào đó để nói rằng: ‘Đây chính là giáo Pháp của đức Phật’. Chúng ta sẽ tìm thấy khiếm khuyết ở mọi nơi và sẽ chỉ phạm phải tà kiến. Vì lý do đó, khi chúng ta biết nói đến các cụm từ ‘các lạt ma gốc và các lạt ma dòng truyền thừa’, thì điều rất quan trọng là cần phải biết các chữ đó có ý nghĩa gì.
Chúng ta phải có lòng sùng tín, mối quan tâm khao khát và niềm tin đối với các bổn sư và các đạo sư của dòng truyền thừa, tự xác định mình là đệ tử của mỗi một đạo sư [trong số các đạo sư đó]. Với lòng sùng tín có cơ sở vững chắc và được ý thức một cách sâu sắc như vậy thì bất kỳ hoạt động tu tập và tu học nào mà chúng ta tham gia cũng sẽ hài hòa với giáo Pháp; và chúng ta sẽ hội đủ các tiêu chuẩn của một đệ tử đích thực của các đạo sư. Còn nếu không có được lòng sùng tín mạnh mẽ như vậy thì mọi thứ sẽ trở nên rất khó khăn đối với chúng ta. Đó là lý do tại sao hình ảnh đạo sư các dòng truyền thừa lại được thể hiện trên các bánh torma mà chúng ta đang có ở đây. Hình ảnh của các ngài không chỉ ở đây vì mục đích trang trí hay trưng bày cho người khác được thấy; những chiếc bánh torma này được làm ra để giúp chúng ta nhớ đến lòng tốt của các vị bổn sư và đạo sư của dòng truyền thừa đích thực của mình. Khi chúng ta nhìn thấy các bánh torma, chúng ta phải nhớ đến lòng tốt của các ngài và quán chiếu rằng nếu không có các ngài thì sẽ khó khăn cho chúng ta biết bao để bước qua được cánh cửa Phật pháp trân quý và để có cơ hội làm lợi lạc cho chúng sinh với tâm không phân biệt. Thật rất quan trọng để chúng ta suy ngẫm về điều này.
Chúng ta cần phải nghiên cứu về tiểu sử của các ngài Marpa và Milarepa mà tôi vừa tuyên đọc nhưng nếu chỉ đọc sách không mà thôi thì vẫn chưa đủ: chúng ta phải suy ngẫm, quán chiếu ý nghĩa và dấn thân vào việc thực hành tu tập theo gương các đạo sư này, và tìm phương cách để ứng dụng ngay giáo Pháp vào cuộc sống của chúng ta. Nếu không thì việc đọc tiểu sử của ngài Milarepa ở đây chẳng có mục đích gì cả. Thay vào đó thì nghiên cứu sách triết học hoặc tu học thêm về giáo pháp luyện tâm có thể còn hay hơn.
Lý do khiến tôi cảm thấy nhất thiết phải tuyên đọc tiểu sử của đức Milarepa là để chúng ta có thể cảm nhận được cách tu tập mà một con người có thật đã thực sự hành trì [như thế nào] trong chính cuộc đời mình. Chúng ta có thể cảm thấy rằng mình tạo được một mối giao tiếp thân tình với một con người, như thể chúng ta có thể cầm lấy bàn tay của người ấy vậy. Dĩ nhiên là còn có nhiều câu chuyện cuộc đời của các vị đạo sư phi thường, như chư Phật và chư Bồ tát. Nhưng kẻ phàm phu không thể đặt tâm chăm chú vào các câu chuyện cuộc đời này, huống chi là nương theo để tu tập. Tuy nhiên, với ngài Milarepa, chúng ta có câu chuyện về một người hoàn toàn bình thường, lúc đầu phạm nhiều ác hạnh nhưng cuối cùng đã thực sự viên thành đạo quả với sự toàn tâm kiên định. Tôi nghĩ rằng chính câu chuyện có thật như vậy về một đạo sư chân thực sẽ là cái đọng lại trong tâm chúng ta và thấu tới trái tim của mỗi chúng ta.
http://3.bp.blogspot.com/-1_k1kXH40t...K+Feb+2010.jpg
http://minhtamkientanh.blogspot.com/...i-thi-cua.html
-
Hướng dẫn thực hành Thiền trong Phật giáo do Khenpo Tsultrim Tenzin phụ trách
Lúc 17h30 ngày 31/08/2017 tại chùa Như Thị Thất, 29 Bình Long, Bình Hưng Hòa A, Bình Tân, TP HCM
BTC kính thông báo quý Phật tử đến tham dự
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...b4&oe=5AA14DD6
-
-
Dharamsala - miền đất của đức tin
Thanh Niên 03/07/2015 07:00 GMT+7Gốc
Được xem là một trong những chiếc nôi của nền văn minh nhân loại, nơi khởi nguồn cho kỷ nguyên Phật giáo từ bi và trí tuệ, Ấn Độ luôn ẩn chứa một sức quyến rũ lạ kỳ đối với du khách, nhất là các tín đồ hành hương trên khắp thế giới.
Các nhà sư Tây Tạng ở Dharamsala (Ấn Độ) - Ảnh: Shutterstock
Dharamsala có rất nhiều tu viện, đền đài mang đậm dấu ấn văn hóa, kiến trúc và đời sống của người Tây Tạng. Đây cũng là nơi Đức Dalai Lama 14 đang tạm cư và hướng dẫn tu học. Theo truyền thống của người Tây Tạng, Đức Dalai Lama là vị thần bảo hộ có năng lực nhất của Tây Tạng. Vị Dalai Lama hiện nay - Tenzin Gyatso là vị thứ 14, được xem như là sự tái sanh tiếp theo của Đức thánh sư. Với tuyên ngôn bất hủ “Tôn giáo của tôi chính là lòng từ bi”, như những cánh chim chao lượn giữa bầu trời bao la không quản ngại nhọc nhằn, Đức Dalai Lama cùng các đệ tử của ngài đã đến hơn 40 quốc gia để truyền bá tinh thần Phật pháp trí tuệ và sự thật bằng tất cả niềm tin về một xã hội công bằng, một cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mọi người. Chính vì vậy, ngài đã được trao tặng giải thưởng Nobel Hòa bình năm 1989.
Tiếp nối những buổi thuyết pháp thành công, năm nay nhân dịp sinh nhật thứ 80 của Đức Dalai Lama, chương trình “Đảnh lễ Đức Dalai Lama” dự kiến sẽ diễn ra từ 7 - 10.9 dương lịch tại Dharamsala. Một lần nữa, đây là cơ hội quý giá dành cho các phật tử VN cũng như cộng đồng phật tử trên thế giới được tiếp xúc và lắng nghe những pháp thoại đầy ý nghĩa của Đức Dalai Lama.
Trong dịp này, với mong muốn được đồng hành cùng du khách trong chuyến đi đảnh lễ, đặc biệt là các phật tử có ý nguyện từ tâm, TST Tourist đã thiết kế chương trình hành hương vô cùng đặc sắc “Pháp hội của Đức Dalai Lama 14”. Theo đó, du khách sẽ có 4 ngày trọn vẹn tham dự buổi thuyết giảng đặc biệt của ngài với nội dung “Dẫn nhập Bồ tát đạo” của Shantideva (Bồ tát Tịch Thiên). Bên cạnh việc lắng nghe thuyết giảng được phiên dịch rõ ràng và kỹ lưỡng từ sư cô Nhất Hạnh, du khách còn có cơ hội ngắm nhìn tổng thể bức tranh thanh bình, trong xanh của vùng đất thiêng ẩn mình dưới những cánh rừng thông tuyết tùng cao vút. Từ Viện Bảo tồn nghệ thuật Tây Tạng Norbulingka cho đến các tu viện Mật pháp Gyuto, Namgyal, chùa Tsulakhang... du khách sẽ được tận mắt chiêm ngưỡng các bức vẽ có hồn, sống động đến chân thực của các vị Phật, bồ tát và hộ pháp trong truyền thống Kim cương thừa. Qua đó hiểu thêm về nghệ thuật tranh thangka - vẽ trong trạng thái thiền định. Đây cũng là dịp để du khách chiêm bái nơi tạm trú giản dị, thanh tao của Đức Dalai Lama 14 và Đức đại bảo pháp vương Karmapa Chenno thứ 17 cùng nhiều vị hóa thân khác... Tour Ấn Độ: Pháp hội của Đức Dalai Lama 14 (10 ngày), KH 3, 4.9, giá 43,88 triệu đồng.
Mùa hè 2015, khi mua tour tại TST Tourist du khách có cơ hội hưởng nhiều ưu đãi: Giảm giá trực tiếp từ 5 - 10%; Mua tour trả góp lãi suất 0%... Đặc biệt, khi mua tour vào khung giờ 10 - 11 giờ thứ bảy hằng tuần, du khách có cơ hội nhận giải thưởng là chuyến đi Thái Lan, Đà Nẵng với giá “0 đồng”; đến Nhật Bản, Singapore với mức giảm giá 50% và những giải thưởng giá trị khác để tăng thêm niềm vui.
Tour tham khảo: Đông Nam Á: Bangkok - Pattaya (5 ngày), KH 15, 16, 29.7; 12, 19, 25.8, giá 7,78 triệu đồng; Bangkok - Pattaya - Kanchanaburi (6 ngày), KH 21.7; 25.8, giá 8,98 triệu đồng; Singapore - Malaysia (6 ngày), KH 14, 21.7; 4, 11, 28.8, giá từ 12,98 triệu đồng; Bali (4 ngày), KH 23.7, giá 17,98 triệu đồng. Đông Bắc Á: Hồng Kông - Disneyland - Bảo tàng sáp (4 ngày), KH 6, 27.8, giá từ 15,98 triệu đồng; Osaka - Universal Studios - Kobe - Kyoto - Nagoya - núi Phú Sĩ - Tokyo (6 ngày), KH 20.8, giá 38,88 triệu đồng. Châu Âu: Đức - Hà Lan - Bỉ - Luxembourg - Pháp (10 ngày), KH 14, 28.8, giá từ 58,98 triệu đồng; Pháp - Thụy Sĩ - Ý (11 ngày), KH 25.8; 26.9, giá từ 75,98 triệu đồng; Pháp - Bỉ - Hà Lan (8 ngày), KH 18.8, giá từ 49,98 triệu đồng. Úc và New Zealand: Melbourne - Canberra - Sydney (7 ngày), KH 24.7; 29.8, giá 54,98 triệu đồng; Auckland - Tepuke - Rotorua - Waitomo (7 ngày), KH 21.8, giá 54,98 triệu đồng; Sri Lanka - Maldives (7 ngày), KH 30.7; 21.8, giá 39,98 triệu đồng...
Liên hệ: TST Tourist - 10 Tú Xương, P.7, Q.3, TP.HCM, ĐT: (08) 39328328. Hotline: 0909 026116/118. Fax: (08) 39321321. Chi nhánh Tây Đô: 17 Cách Mạng Tháng Tám, P.Thới Bình, Q.Ninh Kiều, TP.Cần Thơ, ĐT: (0710) 3769681, fax: (0710) 3769682, website: www.tsttourist.com
Hoa Mai
https://baomoi.com/dharamsala-mien-d...c/16969434.epi