http://chuaphapvu.org/hinhanh/..%5Cv...759=41&59615=4
Printable View
Chết không sợ hãi
VietnamNet 09/03/2017 08:23 GMT+7Gốc
Theo Lame Ole Nydahl, người ta sợ hãi cái chết vì chưa hiểu về nó nhưng ông tin rằng chết không chỉ là ngưỡng cửa bước vào một đời sống khác mà còn là cơ hội để phát triển các phẩm chất của mình.
Việt Nam là một trong những quốc gia mà Lame Ole Nydahl dừng chân để ông nói về một trong những điều con người sợ hãi nhất: cái chết. Mới đây, tại đường sách TP HCM, Ole đã gặp và chuyện trò cùng rất nhiều độc giả, cả người Việt lẫn du khách ngoại quốc có mặt tại đây về nghệ thuật chết.
Chết không sợ hãi - Ảnh 1
Bìa sách Chết không sợ hãi của Lame Ole Nydahl
Con người thường sợ những gì chúng ta không hiểu. Ole tin rằng điều này cũng tương tự với cái chết. Khi cái chết đến gần, hầu hết con người đều cảm thấy sợ hãi. Song một số nghiên cứu gần đây về những trải nghiệm cận tử đã chỉ ra nhiều bằng chứng hơn về sự sống tiếp tục sau cái chết. Trong Phật giáo, cái chết luôn được xem như là ngưỡng cửa bước vào một đời sống khác.
Ole đã mô tả nhiều trải nghiệm tinh tế trong tiến trình hấp hối và giải thích về những trạng thái giữa cái chết và tái sinh. Ông chỉ ra cách để mọi người có thể trải qua tiến trình này một cách tốt đẹp hơn và đạt tới một cấp độ tỉnh thức cao hơn sau khi chết và trong các đời sống tương lai thông qua thiền định. Theo Ole, nếu nhận thức đúng đắn sẽ loại bỏ hiệu quả nỗi sợ hãi, đồng thời gieo những hạt giống hạnh phúc vĩnh cửu trong tương lai.
Ông bày tỏ mong muốn mọi người hiểu biết những tiến trình kì bí này một cách kỹ lưỡng để không chỉ mang lại nhận thức rõ ràng về điểm kết thúc của sự sống mà còn làm phong phú thêm cách nhìn nhận của con người về đời sống hiện tại.
Chết không sợ hãi - Ảnh 2
Trong buổi tọa đàm ra mắt sách Chết không sợ hãi, Ole cùng các độc giả, quan khách trao đổi nồng nhiệt về các vấn đề xoay quanh cái chết từ góc độ khoa học, tôn giáo và tâm linh. Rất nhiều người yêu sách đã dừng chân lắng nghe Ole thuyết giảng dù không đủ ghế ngồi.
Ole say sưa trình bày những vấn đề như: cái chết đến với con người như thế nào, tâm thức sẽ tiếp tục ra sao khi chết đi, làm sao để đối diện với cái chết mà không sợ hãi, cách giúp đỡ những người đang hấp hối, xem cái chết như là một cơ hội để phát triển các phẩm chất của mình…
Ole Nydahl sinh tại vùng phụ cận Copenhagen, từng phục vụ trong quân đội Đan Mạch trước khi chuyển sang nghiên cứu triết học. Năm 1968, Ole và vợ là Hannah Nydahl đã gặp gỡ những bậc thầy của dòng Kim cương Thừa khi đang ở Nepal trước khi trở thành những đệ tử phương Tây đầu tiên của người đứng đầu dòng truyền thừa Karma Kagyu – H.H. đời thứ 16 Gyalwa Karmapa.
Chết không sợ hãi - Ảnh 3
Tác giả Lame Ole Nydahl
Trong khoảng gần 4 năm tu tập chuyên sâu ở Đông Himalaya, họ tiếp nhận những chỉ dẫn chân truyền quan trọng và sâu sắc nhất như: tu tập nền tảng, Đại thủ ấn, phát tâm bồ đề, truyền thừa “Vòng quay thời gian”, sáu Yogas của Naropa, phương pháp chuyển thần thức vào lúc lâm chung… cùng những bộ ‘kho báu truyền thừa’, những bộ lễ thụ pháp từ những thiền sư ở đây.
Theo yêu cầu của Đức Karmapa đời thứ 16, vợ chồng Ole trở lại châu Âu thực hiện nhiệm vụ giảng dạy và thành lập các trung tâm Phật giáo ở phương Tây. Vài năm sau đó, ông lãnh trách nhiệm chính trị của dòng tu Kagyu nên được gọi là “ChokyiMagpon” (hay “Tướng quân Phật pháp”). Sau khi thầy của mình là Đức Karmapa đời thứ 16 viên tịch vào năm 1981, Ole Nydahl vẫn tiếp tục trách nhiệm giảng dạy, truyền cảm hứng cho hàng nghìn thiền sinh phương Tây.
Gia Bảo
https://baomoi-photo-1-td.zadn.vn/w1...2/1_188032.jpg
https://baomoi-photo-1-td.zadn.vn/w7...42/3_47076.jpg
https://baomoi.com/chet-khong-so-hai/c/21719442.epi
Trường phái Phật giáo-Giới thiệu các trường phái Phật giáo Tây TạngPhật giáo Tây Tạng có 4 trường phái chính: Nyingma, Kagyu, Gelug và Sakya.
Sự truyền bá và phát triển Phật giáo ở Tây Tạng hình thành nhiều trường phái chính và phụ khác nhau. Các trường phái có cùng mục đích và nguyên lý, nhưng có một số điểm khác biệt về triết học và thực hành. Xin giới thiệu về 4 trường phái chính của Phật giáo Tây Tạng và những đặc điểm, thực hành của các trường phái này.
Nyingma (Cổ Mật) là trường phái Phật giáo Tây Tạng xưa nhất
Nyingma, có nghĩa là “Cổ xưa” và đây là trường phái Phật giáo Tây Tạng xưa nhất. Được thành lập bởi Padmasambhava, truyền thống Nyingma cũng có một số trường phai phụ.
Theo Rebecca McClen Novick, có 3 trường phái phụ: Sems-sde, kLong-sde, Man-ngag-sde. Theo Novick, Giáo lý và sự truyền thừa của trường phái Nyingma được chia ra 3 nhóm chính: khẩu truyền, thánh điển, biểu tượng. Ở phương Tây, các lãnh đạo Phật giáo Tây Tạng như Sogyal Rinpoche và Namkhai Norbu Rinpoche truyền bá trường phái này.
Trường phái Gelug (Đức Dalai Lama thuộc trường phái này)
Gelug có nghĩa là Đạo đức, truyền thống này do ngài Tsong Khapa, Je Rinpoche (1357-1419) thành lập. Theo Landaw và Bodian, trường phái này bắt nguồn từ truyền thống Kadam, do Atisha thành lập, từ Ấn Độ đến Tây Tạng năm 1042.
Truyền thống Gelug chú trọng đến hành động đạo đức, biện chứng triết học và thực hành Trantra. Theo Novick truyền thống Gelug chú trọng giới luật trong đời sống tu viện, học rộng, kinh và giáo lý Tantra.
Trường phái Sakya
Trường phái Sakya do gia đình Khon thành lập, được cho rằng có nguồn là chư thiên. Các kỷ thuật thiền định của trường phái Sakya được gọi là Lamdre, dựa vào Hevajra Tantra, theo Novick, đây là tác phẩm tổng hợp tantra của trường phái Sakya. Lamdre phân làm 4 loại:
- Hiểu đúng về tính không
- Thực hành thiền định
- Lễ nghi
- Giác ngộ
Trường phái Skya có 2 trường phái phụ, Ngorpa và Tsarpa
Trường phái Kagyu (thực hành thiền định và Đại ấn)
Một trong những trường phái Phật giáo Tây Tạng đầu tiên thiết lập dòng truyền thừa thông qua tái sinh (Karmapa). Trường phái Kagyu có 2 nguồn gốc chính. Theo Novick, từ Marpa Chokyi Lodoe (1012-1099) và Khyungpo Nyaljor (978-1079). Trường phái Kagyu nổi tiếng về hành giả nhập thất lâu dài, nhấn mạnh về thực hành thiền định và thực hành Đại ấn, “Thực hành đem lại giác ngộ tính không và bản chất tối hậu của tâm.”
Mục đích của 4 trường phái chính của Phật giáo Tây Tạng không khác nhau, giác ngộ và an lạc, nhưng dòng truyền, quan điểm triết học của các trường phái có khác. Ngày nay, tất cả 4 trường phái Phật giáo Tây Tạng truyền bá lời dạy của đức Phật khắp thế giới.
Ban dịch thuật phatgiao.vn chuyển ngữ (Theo: Buddhist Schools – Introduction to Schools of Tibetan Buddhism by Prerna Malik,)
BÌNH LUẬN
Họ tên:
Họ tên
Email:
Nội dung:
Nhập mã bảo vệ:
Nhập lại Gửi bình luận
CÁC TIN LIÊN QUAN
http://thienlamphattich.com/index.ph...-tang-102.html
http://www.phatgiao.vn/bai-viet/truo...-tang_676.html
Lời Khuyên Của Rinpoche Dành Riêng Cho Hành Giả Mật Tông
11/2/2017
Nhập Thất Mật Điển “Bán Thời”
Mặc dù những khóa nhập thất toàn thời dài lâu sẽ đem lại lợi lạc, nhưng đa số không có dịp may để thực hiện điều này. Vì vậy, Rinpoche thấy nếu ta cho rằng phải có ba tháng hay nhiều thời giờ rảnh rỗi hơn mới có thể nhập thất theo kiểu này thì quá hẹp hòi. Nhập thất không có nghĩa là xa lánh mọi người, mà là thời gian tu tập miên mật để giúp cho tâm mình uyển chuyển với một pháp tu. Thực hành một thời khóa mỗi sáng và tối trong khi vẫn giữ sinh hoạt bình thường trong ngày là điều hoàn toàn chấp nhận được. Chính Rinpoche cũng làm nhiều khóa nhập thất như thế mà không ai biết là ngài đang nhập thất.
Điều hạn chế duy nhất đối với phương pháp tu tập này là ta phải ngủ trên cùng một chiếc giường, hành thiền trên cùng một tọa cụ, ở cùng một nơi trong suốt khóa nhập thất, nếu không thì sẽ mất đà trong việc tích lũy năng lượngtâm linh. Hơn nữa, mỗi thời khóa phải có một số lượng mật chú, lễ lạy hay các hành trì lập đi lập lại tối thiểu, dựa theo số lượng mà ta đã thực hiện trong thời khóa đầu tiên của kỳ nhập thất. Vì vậy, lời khuyên của Rinpoche là chỉ hành trì pháp tu mình đã chọn lựa ba lần trong thời khóa đầu tiên thôi. Nhờ vậy, bệnh tật trầm trọng sẽ không nhất thiết làm gián đoạn kỳ nhập thất và ta khỏi phải khởi sự lại từ đầu.
Khi Sự Cấp Thiết Vượt Qua Hạn Chế Của Khóa Nhập Thất
Tuy nhiên, đối với các hình thức giới luật Phật giáo, “điều cấp thiết đôi khi vượt qua sự cấm đoán”, nhưng chỉ trong các trường hợp rất đặc biệt. Một lần nọ, giữa kỳ nhập thất ở Dharamsala, tôi nhận được lời yêu cầu đi dịch thuật cho một lễ quán đảnh và thuyết pháp của Đức Dalai Lama ở Manali, một thị trấn Hy Mã Lạp Sơn ở Ấn Độ. Tôi đã thỉnh ý với Rinpoche và ngài bảo tôi đi, không nên chần chừ hay lưỡng lự. Việc phụng sự Đức Dalai Lama là điều lợi lạc hơn hết mà tôi có thể thực hiện. Tôi sẽ không mất đà với việc hành trì, miễn là tôi vẫn có một thời khóa hành thiền mỗi ngày và trì tụng số mật chú tối thiểu theo hạn định. Tôi đã làm theo cách này, và sau mười ngày làm việc với Đức Dalai Lama, tôi đã trở về Dharamsala để hoàn tất khóa nhập thất.
Theo Đúng Quá Trình Nghi Lễ
Rinpoche luôn nhấn mạnh nghi lễ được đặt ra là có mục đích và nghiêm túc. Ta cần phải làm đúng theo nghi lễ. Thí dụ như các khóa nhập thất Mật tông đòi hỏi việc trì tụng một số lượng mật chú nhất định, rồi thực hiện một “lễ hỏa tịnh” sau đó. Lễ hỏa tịnh là một nghi thức phức tạp để cúng dường các thức đặc biệt vào trong lửa. Mục đích của nghi lễ này là để bù đắp cho bất kỳ sự thiếu sót nào trong hành trì của mình và tịnh hóa bất cứ sai lầm nào ta đã tạo ra.
Một số khóa nhập thất đặc biệt khó khăn. Thí dụ như trong một lần nhập thất, tôi phải trì tụng một mật chú một triệu lần, và trong lễ hỏa tịnh phức tạp, tôi phải cúng dường mười ngàn cặp cỏ lau sậy dài và trì tụng một mật chú với mỗi một cặp cỏ. Toàn bộ mười ngàn cặp cỏ phải được ném vào trong lửa tại chỗ, không được gián đoạn. Khi thực hiện lễ hỏa tịnh vào cuối kỳ nhập thất này, tôi không có đủ số cỏ lau sậy. Sau khi hoàn tất phần nghi lễ còn lại, tôi đã thưa chuyện với Rinpoche và ngài bắt tôi làm lại toàn bộ lễ hỏa tịnh trong một vài ngày sau đó. Lần này, tôi phải biết chắc là mình có đủ mười ngàn cặp cỏ lau sậy!
Rinpoche nhấn mạnh khả năng tự lực, bởi vì các vị chuyên môn về nghi lễ không luôn luôn có mặt để cho ta ý kiến. Vì vậy, ngài dạy các đệ tử Tây phương cách tự thực hiện lễ hỏa tịnh. Điều này bao gồmcách chuẩn bị lò lửa và vẽ mạn đà la cần thiết bằng bột màu trên nền lò. Thậm chí nếu người Tây phương cần người khác trì tụng nghi lễ khi không có bản nghi lễ bằng ngôn ngữ của họ, Rinpoche giải thích rằng họ vẫn cần phải tự cúng dường các thức vào trong lửa. Ngay cả khi nhập thất theo nhóm, họ cũng phải làm y như vậy.
Tuy nhiên, việc theo đúng quá trình nghi lễ không mâu thuẫn với cách tiếp cận thực tế. Thí dụ như các khóa nhập thất bắt đầu bằng việc trưng bày các thức cúng dường đặc biệt trên bàn thờ tại nhà và cúng dường chúng mỗi một ngày tiếp theo để tiêu trừ chướng ngại. Các chướng ngại được quán tưởng trong dạng quỷ thần gây trở ngại và họ được triệu thỉnh mỗi ngày để thọ dụng các thức cúng dường. Rinpoche khuyên ta có thể dùng những hộp bánh quy thay thế cho các torma truyền thống trang trí công phu, thường được sử dụng cho việc này.
Đừng Cố Gắng Thực Hành Những Pháp Tu Cao Cấp Khi Chưa Có Đủ Khả Năng
Rinpoche không hài lòng khi người ta cố gắng thực hành những pháp tu cao cấp, khi họ chưa có đủ khả năng. Ví dụ như một số người cố gắng hoàn tất các pháp tu theo giai đoạn khi mà họ chưa sẵn sàng hay thậm chí chưa quan tâm đến việc hành trì một nghi quỹ dài, nói gì đến việc quán triệt nó. Cấp độ cao nhất của Mật điển, Anuttarayoga (Tối Thượng Du Già), gồm có giai đoạn phát khởi trước hết, rồi đến giai đoạn viên mãn. Giai đoạn đầu luyện trí tưởng tượng và định lực qua việc hành trì nghi quỹ. Giai đoạn sau sử dụng năng lực của tâm để phối hợp hệ thống năng lượng vi tế của thân thể, nhằm chuyển hóa bản thân. Nếu không có các kỹ năng thành tựu được nhờ việc hành trì nghi quỹ thì việc tu tập với các luân xa (chakras), kinh mạch và luồng khí trong hệ thống vi tế là một trò hề.
Rinpoche cảnh cáo rằng các pháp tu Mật tông cao cấp có thể rất tai hại nếu người tu tập không có khả năng và thực hành sai lầm. Thí dụ như pháp chuyển di tâm thức (powa) bao gồm việc tưởng tượng tống khứ tâm thức của mình ra khỏi đỉnh đầu khi gần kề cái chết có thể rút ngắn thọ mạng. Pháp sử dụngthuốc tinh chất (chulen) mà hành giả phải nhịn đói hàng tuần và sống bằng các viên thuốc xá lợi đã được gia trì, đặc biệt là khi thực hành theo nhóm, có thể tạo ra nạn đói trong vùng. Hơn nữa, những ai tu tập như vậy có thể bị bệnh trầm trọng vì thiếu thức ăn và nước uống, thậm chí có thể tử vong.
Các khóa nhập thất Mật điển tự chúng là pháp tu cao cấp, và Rinpoche cảnh cáo về việc nhập thất quá sớm. Ví dụ, đôi khi người ta nhập thất để trì tụng một trăm ngàn mật chú, nhưng lại không quen thuộcvới pháp tu này. Họ tưởng rằng trong thời gian nhập thất, họ sẽ có được kinh nghiệm. Dù bỏ ra một thời gian tu học miên mật và quen thuộc với một pháp tu nào đó là việc lợi lạc, đó không phải là việc ta phải làm trong một khóa nhập thất Mật điển chính thức. Một người không biết bơi thì không thể bắt đầu tập luyện trong hồ bơi 12 tiếng mỗi ngày. Liều lĩnh một cách dại dột như vậy chỉ đưa đến sự kiệt sức và vọp bẻ chân tay mà thôi. Việc tập luyện rốt ráo chỉ dành cho những tay bơi lão luyện, để trở thành các vận động viên hàng đầu. Các khóa nhập thất Mật tông cũng giống như vậy.
Đừng Kiêu Căng Về Công Phu Tu Tập
Hơn nữa, việc tu tập các pháp tu Mật điển phải là việc kín đáo, nếu không, chướng ngại có thể xảy ra. Rinpoche thấy nhiều người Tây phương không những không giữ kín việc tu tập và thành tựu của mình, mà còn khoe khoang về những điều này. Ngài nói khoe khoang khoác lác rằng mình là đại hành giả du già về một Bổn tôn nào đó là điều lố bịch, khi ta chỉ mới hoàn tất hay đang thực hiện một kỳ nhập thấtngắn bằng cách trì tụng các mật chú liên quan đến vị Bổn tôn này vài trăm ngàn lần. Hơn nữa, việc tự phụ và kiêu căng trong khi mình không tu tập nghi quỹ dài của Bổn tôn đó hàng ngày thì lại càng tệ hơn nữa. Rinpoche luôn luôn giải thích rằng nghi quỹ dài dành cho những hành giả mới bắt đầu tu tập. Các nghi quỹ dài có hơn một trăm trang, giống như kịch bản opera quán tưởng dài dòng. Các nghi quỹ ngắn dành cho những hành giả có công phu sâu dày, đã quen thuộc với toàn bộ pháp tu đến mức họ có thể thực hành mọi pháp quán tưởng và nghi thức trong khi chỉ trì tụng một vài câu.
Hiểu Rõ Giá Trị Của Phương Pháp Giảng Dạy Tối Nghĩa Có Chủ Ý Trong Mật Tông
Rinpoche dạy rằng người Tây phương cũng cần phải kềm chế khuynh hướng đòi hỏi cách trình bày mạch lạc đối với tất cả các giáo huấn và chỉ giáo ngay từ đầu, đặc biệt là trong Mật tông. Các đạo sư Ấn Độ và Tây Tạng vĩ đại hoàn toàn có khả năng sáng tác những bản văn dễ hiểu. Tuy nhiên, các ngài cố ýviết một cách mơ hồ. Cách trình bày tài liệu Mật tông quá rõ ràng và dễ tiếp xúc có thể dễ đưa đến sự thoái hóa và chướng ngại trong việc tu tập. Ví dụ như người ta có thể xem thường các giáo pháp này và không nghiêm túc nỗ lực tu hành.
Một thành phần quan trọng trong phương pháp sư phạm của Phật giáo là khiến cho người ta đặt câu hỏi về ý nghĩa của giáo pháp. Nếu các đệ tử thật sự quan tâm đến giáo pháp thì họ sẽ tìm cách để làm cho ý nghĩa được sáng tỏ hơn. Phương pháp này sẽ tự động loại bỏ nhưng người chỉ là “khách du lịch tâm linh”, và những ai không sẵn sàng bỏ ra công phu khó nhọc cần thiết cho thành tựu giác ngộ. Tuy nhiên, nếu mục đích làm sáng tỏ giáo pháp Mật tông là để xua tan ấn tượng méo mó, tiêu cực của người ta về các giáo pháp này thì Đức Dalai Lama đã tán thành việc công bố sự giải thích rõ rệt. Tuy nhiên, việc này chỉ liên quan đến mặt lý thuyết chứ không liên hệ đến pháp tu cụ thể về mỗi một Bổn tôn. Một cẩm nang rành mạch về “cách hành trì” có thể khuyến khích người ta cố gắng hành trì các pháp tu cao cấp mà không có sự giám sát của một vị thầy, và điều này có thể rất nguy hiểm.
Không Nên Xem Thường Các Vị Hộ Pháp
Rinpoche cảnh cáo điều tối nguy hiểm là xem thường các vị Hộ Pháp. Chư Hộ Pháp là lực lượng mạnh mẽ, thường là chư thần đã được các đại sư cao cả thuần hóa. Các ngài khiến cho những chúng sanhhung bạo này thệ nguyện bảo hộ giáo pháp của Đức Phật (Pháp) và các hành giả chân thành tu tậpgiáo pháp thoát khỏi sự nguy hại và chướng ngại.
Rinpoche thường kể chuyện về một vị Hộ Pháp đã thệ nguyện gìn giữ pháp tu chuyên về biện luận của một tu viện nọ. Vị Hộ Pháp này phải gây trở ngại, chẳng hạn như tạo ra bệnh tật và tai nạn cho bất cứ người nào cố gắng hành trì Mật điển trong khuôn viên của tu viện, trong khi họ nên biện luận về giáo pháp. Chỉ các nhà sư nào đã hoàn tất lớp biện chứng và tu học thêm tại một trong hai học viện mật điểnmới được phép tu tập Mật điển, nhưng thậm chí ở thời điểm đó, họ cũng không được hành trì giữa bốn bức tường của tu viện này.
Một vị Geshe, lúc còn là tăng sinh, đã cúng dường lễ đốt lá tùng liên hệ đến pháp tu Mật điển, và ông đã liên tục gặp chướng ngại. Sau đó, ông tu học ở một trong hai học viện Mật điển và sau khi ra trường, đã tiếp tục làm lễ cúng dường này, nhưng ở ngoài tu viện, trên một sườn núi gần đó. Vài năm sau đó, khi vị Geshe này trực tiếp chứng ngộ tánh Không vô niệm, vị Hộ Pháp đã hiện ra trong một linh kiến. Vị thần hung tợn đã xin lỗi ngài và nói rằng, “Tôi xin lỗi là trước đây đã làm hại ngài, nhưng đó là một trong những điều cam kết của tôi đối với vị sáng lập tu viện của ngài. Giờ thì ngài đã chứng ngộ tánh Không, dù có muốn, tôi cũng không thể nào làm hại ngài được nữa.”.
Rinpoche nhấn mạnh tầm quan trọng của ví dụ này. Đùa giỡn với các lực lượng ngoài tầm kiểm soátcủa mình có thể dẫn đến tai họa. Ngài thường trích dẫn lời Đức Dalai Lama luôn nói rằng hãy nhớ các vị Hộ Pháp là hầu cận của các Bổn Tôn. Chỉ những hành giả nào có đẩy đủ khả năng trong giai đoạn phát khởi của Tối Thượng Du Già Mật Điển và có quyền ra lệnh như một Bổn Tôn mới nên liên hệ với các Hộ Pháp. Nếu không, việc liên hệ quá sớm sẽ giống như đứa bé gọi một con sư tử to lớn đến bảo vệ nó. Con sư tử có thể ăn tươi nuốt sống đứa bé. Đức Dalai Lama khuyên rằng nghiệp do ta tạo ra là hộ pháptốt nhất đối với mình. Hơn nữa, còn việc quy y Tam Bảo – Phật, Pháp. Tăng (tăng thân đã đạt chứng ngộ cao cả) thì sao?
CHÂN DUNG CỦA TSENZHAB SERKONG RINPOCHE
Alexander Berzin, 1998
Lozang Ngodrub chuyển Việt ngữ | Võ Thư Ngân hiệu đính
www.berzinarchives.com
Phần Bẩy: Lời Khuyên Của Rinpoche
Dành Riêng Cho Hành Giả Mật Tông
http://vajrayanapractice.com/loi-khu...-mat-tong.html
Truyền Thống Terma Của Trường Phái Nyingma
10/29/2017
Người có thiện tâm, thậm chí nếu vào thời không có Phật, sẽ nhận được Giáo Pháp từ giữa bầu trời, tường vách, và cây cối. Với những vị Bồ Tát này, tâm họ thanh tịnh, thì giáo lý và các chỉ dạy sẽ xuất hiện chỉ bằng vào mong ước trong tâm họ.
LỜI PHẬT DẠY
Trong số lớn các truyền thống tâm linh của thế gian, có nhiều trường hợp phát hiện giáo lý và đồ vật qua năng lực thần bí. Tương tự, trong nhiều truyền thống và dòng truyền Phật giáo khác nhau ở Ấn Độ cũng như Tây Tạng, rất nhiều khám phá giáo lý và pháp khí đã xảy ra.
Trong phái Nyingma của Phật giáo Tây Tạng, truyền thống chôn giấu, phát hiện giáo lý và những pháp khí tôn giáo giá trị nhờ vào năng lực thần bí của các bậc đã giác ngộ cho đến nay là rất phổ biến. Truyền thống phát hiện thần bí này được biết ở Tây Tạng là Ter (gTer, “Kho tàng”), Terma (gTer Ma, “Kho tàng của Bậc giác ngộ”), hoặc Tercho (gTer Ch’os, “Kho tàng Giáo Pháp” hay “Kho tàng Giáo lý”).
Ter không thuộc về phạm trù phát hiện qua năng lực siêu linh (rTsa Khams) hoặc qua các sinh linh của thế giới tâm linh (Mi Ma Yin). Những phát hiện siêu linh xảy ra qua năng lực của tâm, một loại năng khiếu nhưng do nhận thức dựa trên khái niệm. Hơn nữa, phần lớn tinh linh có năng lực vật lý và kiến thức hơn nhân loại bình thường, nhưng trí tuệ tâm linh và công đức thật sự của họ có giới hạn. Sự phát hiện Terma xảy ra từ bản tánh toàn giác của tâm qua năng lực trí tuệ tự hiện của chính tánh giác ngộ, trái lại các phát hiện khác là qua khái niệm nhị nguyên và hành động siêu nhiên.
Trong Phật giáo Đại thừa nói chung và đặc biệt là trong tantra, thật tánh của pháp giới được thấy như an bình tối thượng, rỗng không, rộng mở, trạng thái giác ngộ hay tỉnh thức, cực lạc, nhất như, thoát khỏi khái niệm nhị nguyên, và trí tuệ của cái biết toàn khắp cùng lúc, và điều đó được biết như trạng thái của bản tánh toàn giác hay Đức Phật. Những người theo Đại thừa, bao gồm các hành giả mật tông, tin rằng thật tánh của tâm chúng sanh thanh tịnh như Đức Phật, nhưng tâm đó bị che ám bởi quan điểm, cảm xúc, và thói quen sai lạc. Chúng ta bị xao lãng bởi những hiện tượng nhị nguyên và vì thế bị kẹt trong sự hỗn loạn bất tận của thế gian phàm tục. Trong Hevajratantra (Kinh Xuất diệu) nói:
Chúng sanh đều là Phật trong tự tánh
Nhưng tự tánh đó bị che ám bởi nhiễm ô từ bên ngoài.
Khi nhiễm ô được tẩy sạch, bản thân chúng sanh chính là Phật.
Nếu bạn đạt được sự giải thoát khỏi tâm bám chấp vào hiện tượng vô ngã như là có ngã và siêu việt nhận thức nhị nguyên qua sự tu tập tâm linh, thì toàn bộ vũ trụ trước bạn hòa nhập vào sự nhất như của đại an bình. Và đó là sự đạt được Phật quả, bản tánh tuyệt đối. Nếu bạn đạt được Phật quả, thì mọi hoạt động đều trở thành hành động Phật xuất hiện tự nhiên. Mọi sự xuất hiện và được thấy qua trí tuệ Phật toàn giác đúng thật như chúng đang hiện hữu, cũng như không phân biệt, giới hạn và nhị nguyên. Bạn thấy tất cả qua trí tuệ thấu suốt toàn khắp của Phật tánh, không qua tâm nhị nguyên dựa trên khái niệm.
Theo các tantra của đạo Phật, để một người bình thường đạt đến sự nhận biết của bản tánh giác ngộ thì điều rất quan trọng là người đó phải nhận được trao truyền của năng lực hay ban phước của sự nhận biết (rTog Pa’i Byin rLabs) từ một vị thầy đã giác ngộ. Sau đó, một dòng trao truyền như vậy đi qua nhiều giai đoạn và thời gian khác nhau như sự nối kết với sự nhận biết, bản tánh thực sự tỉnh giác và như phương tiện truyền bá giáo lý.
Tôi đang viết chủ đề này dựa căn bản trên sự giải thích của truyền thống Ter của Dodrupchen Rinpoche đệ tam, Ngài Jigme Tenpa’i Nyima (1865 – 1926).
Suối nguồn chính của truyền thống Terma thuộc trường phái Nyingma là Đức Guru Padmasambhava. Ngài là một trong các vị tổ và là vị thánh vĩ đại nhất trong lịch sử đạo Phật. Vào thế kỷ tám, với lời mời của vua Thrisong Detsen của Tây Tạng, Ngài từ Ấn Độ đến Tây Tạng và đáp ứng ba sứ mệnh chính. Thứ nhất, qua sự phô diễn quyền năng tâm linh, Ngài an định những thế lực phi nhân và con người đang cản trở việc đặt nền tảng Giáo pháp ở Tây Tạng. Thứ hai, Ngài đem Phật giáo nói chung và nhất là trao truyền giáo lý và năng lực ban phước tantra của Ngài cho nhiều đệ tử người Tây Tạng và môn đồ của họ. Thứ ba, thông qua năng lực giác ngộ Ngài đã chôn giấu nhiều giáo lý và trao truyền đa dạng cũng như các pháp khí tôn giáo, cũng như Ter vì lợi ích của những đệ tử trong tương lai.
Trong lúc trao truyền những giáo lý Mật tông cho các đệ tử đã giác ngộ của Ngài ở Tây Tạng, Guru Padmasambhava đã chôn giấu (sBas) nhiều giáo lý với sự ban phước từ dòng tâm thức giác ngộ của Ngài trong bản tánh tánh giác nội tại (Rig Pa) của tâm các đệ tử qua năng lực “tâm truyền tâm” (gTad rGya); nhờ đó vị tổ và đệ tử hợp nhất như một trong giáo lý và sự chứng ngộ. Ở đây, vị tổ đã chôn giấu giáo lý và ban phước, sự thành tựu mật truyền, như Ter trong tánh thanh tịnh của tâm các đệ tử qua năng lực giác ngộ của Ngài, và Ngài đã lập nguyện rằng Ter sẽ được phát hiện vì lợi ích của chúng sanh khi đến thời điểm thích hợp. Nhờ năng lực của phương pháp này, được gọi là tâm truyền tâm (trao truyền ủy thác bằng tâm), những phát hiện thực tế của giáo lý sẽ xảy ra. Trao truyền ủy thác qua tâm là tâm yếu thuộc truyền thống Ter của Đức Guru Padmasambhava.
Sau đó, trong những thế kỷ tiếp theo, khi đến thời điểm chúng sanh có thể được lợi ích nhờ một giáo lý đặc biệt, những vị tái sanh của các đệ tử đã giác ngộ của Đức Guru Padmasambhava phát hiện những giáo lý này vì đã được vị tổ trao truyền và cất giấu trong họ từ những kiếp trước, thông qua nguyện lực giác ngộ của vị thầy và đệ tử và thiện nghiệp của chúng sanh. Có hàng ngàn hình ảnh, chữ viết biểu tượng, đầy đủ các bản văn, dược liệu và những pháp khí nghi lễ được Đức Guru Padmasambhava chôn giấu và được phát hiện như những vật liệu Ter (gTer rDzas); nhưng Ter chủ yếu là giáo lý và sự ban phước trao truyền qua tâm các đệ tử.
SỰ TRAO TRUYỀN TER
Sự trao truyền Ter được chuyển qua sáu loại hay sáu giai đoạn của dòng truyền (brGyud Pa Drug). Trong sáu dòng truyền, có ba dòng là đồng nhất với dòng trao truyền Mật tông phổ biến trong kinh điển Nyingma. Chúng là dòng trao truyền từ “tâm giác ngộ đến tâm giác ngộ của chư Phật” (rGyas Ba dGongs brGyud), dòng trao truyền chỉ thông qua “các chỉ dạy giữa các bậc trì minh” (Rig ’Dzin brDa brGyud), và dòng trao truyền của “sự truyền khẩu trong những chúng sanh bình thường” (Gang Zag sNyan brGyud).
Ba dòng truyền kế tiếp là độc nhất của trao truyền Ter, và sự phát hiện Ter được hoàn thành dựa trên ba dòng truyền này. Dòng truyền đầu tiên là “sự trao truyền của nguyện quán đảnh” (sMon Lam dBang bsKur) hay tâm truyền tâm, nhờ đó qua năng lực giác ngộ tập trung, Guru Padmasambhava trao truyền và cất giấu những thành tựu mật truyền và giáo lý trong phạm vi tánh giác nội tại, bản tánh giác ngộ của tâm các đệ tử. Đây là khía cạnh chính của sự trao truyền.
Dòng truyền thứ hai là “trao truyền qua sự tiên tri đáng tin cậy” (Lung bsTan bKa’ Babs), trong đó vị tổ gợi cảm hứng và ban những tiên tri cho đệ tử liên quan đến việc sau này họ sẽ trở thành một Tertưn. Điều này không chỉ là một tiên đoán về tương lai, mà hơn thế, bằng năng lực giác ngộ, Ngài làm cho sự việc tiên đoán đó xảy ra.
Thứ ba là “sự giao phó đến các Ḍkinỵ” (mKha’ ‘Gro gTag rGya), trong đó vị tổ giao phó Ter, Tertưn (gTer sTon, người phát hiện Ter), những vị thầy, và những người đi theo của truyền thống cho sự bảo vệ của các Ḍkinỵ và Hộ Pháp. Trong trường hợp của một Ter Đất, vị tổ giao phó những đồ vật, như các tráp nhỏ chứa những cuộn giấy màu vàng với các chữ viết biểu tượng cho Ḍkinỵ và Hộ Pháp giữ gìn rồi trao chúng cho vị Tertưn khi thời điểm đến.
Do đó, mỗi giáo lý Ter đều được truyền qua sáu loại trao truyền.
HAI PHẠM TRÙ CHÍNH CỦA TER
Mặc dù các Ter có thể chia thành mười tám phạm trù, v.v... nhưng có hai phạm trù chính yếu của Ter [được phân loại] dựa trên cách phát hiện ra chúng. Đó là Ter Đất (Sa gTer) và Ter Tâm (dGongs gTer). Sự phát hiện Ter Đất liên quan đến các vật thể thuộc đất như các chữ viết biểu tượng (brDa Yig) viết trên một cuộn giấy được biết như là cuộn giấy màu vàng (Shog Ser) v.v... Các vật thể này là để giúp đỡ phát hiện sự cất giấu hoặc để đánh thức ký ức về nơi cất giữ Ter trong tánh giác ngộ của tâm vị Tertưn. Tuy nhiên, người ta thường quan niệm Ter Tâm được trao truyền qua tâm, còn Ter Đất là những gì mà các vị Tertưn phát hiện từ các vật thể thuộc đất như tảng đá, ao hồ, v.v...
Trong thực tế, các chữ viết biểu tượng chỉ là chiếc chìa khóa, không phải giáo lý Ter thật sự, cũng không phải sự chứng ngộ được trao truyền, điều đó chỉ xảy ra chính trong tâm của vị Tertưn.
TER ĐẤT
Có những cách chôn giấu Ter khác nhau, nhưng chủ yếu liên quan đến ba giai đoạn. Trước tiên, Guru Padmasambhava trao truyền giáo lý mật tông và thành tựu của Ngài cho các đệ tử và cất giấu chúng trong bản tánh tuyệt đối của tâm đệ tử. Tâm bình thường thì thay đổi vì những khái niệm và cảm xúc, nhưng thật tánh thì bất biến và giáo lý được bảo tồn nguyên vẹn trong chính thật tánh ấy. Đó là nơi thực sự diễn ra việc chôn giấu Ter. Ngài Drodrupchen viết:
Nơi tối thượng, kho tàng thiêng liêng ở đó trí tuệ ban phước của ngữ vajra được bảo tồn không suy hoại qua năng lực trao truyền ủy thác-tâm tạo ra bởi Guru Rinpoche (Padmasambhava), là lãnh vực của bản tánh bất biến của tâm vị Tertưn.
Thứ hai, cùng với vị phối ngẫu Yeshe Tsogyal, Guru Padmasambhava đặt giáo lý thành biểu tượng hay chữ mật mã trong nhiều ngôn ngữ khác nhau, phần lớn được gọi là ngôn ngữ Ḍkinỵ và viết trên giấy cuộn màu vàng hay trên những đồ vật khác nhau như hình ảnh và pháp khí nghi lễ. Vì nguyện lực trao truyền của Guru Padmasambhava, chữ viết biểu tượng sẽ có năng lực đánh thức sự trao truyền khi vị Tertưn đọc nó. Sau đó, vị Tertưn đặt những cuộn giấy màu vàng trong tráp (gTer sGom) và chôn giấu tráp trong nơi cất giấu Ter (gTer gNas), như trong tảng đá, núi, hồ, đền, hình tượng hoặc bầu trời qua năng lực thần bí của họ, và nó trở thành vô hình cho đến thời điểm được phát hiện.
Thứ ba, Guru Padmasambhava truyền cảm hứng cho đệ tử là các Tertưn và ban ân phước tiên tri liên quan đến việc khi nào và ai sẽ trở thành một Tertưn. Đây không chỉ là một sự tiên đoán tương lai, mà là một ban phước làm cho sự việc tiên đoán được xảy ra vì năng lực chân lý của lời vị tổ.
Tương truyền sẽ có một trăm vị Tertưn chính và một ngàn vị Tertưn phụ. Khởi đầu với Ngài Sangye Lama (thế kỷ mười một), rất nhiều vị Tertưn đã xuất hiện ở Tây Tạng và hàng ngàn bộ giáo lý cùng với vô số pháp khí tôn giáo đã được phát hiện như Ter. Ngay cả đến ngày nay, từ đầu những năm 1980, những phát hiện về Ter đã được tiếp nối ở Tây Tạng. Những Tertưn là những vị tái sanh của các đệ tử Ngài Guru Padmasambhava, và từ Ngài họ tiếp nhận sự trao truyền ủy thác tâm của giáo lý và đã đạt được những thành tựu cao. Trừ ra một vài ngoại lệ, hầu hết các vị Tertưn đều là những hành giả Mật tông sống cuộc sống có gia đình. Họ chuyển hóa cuộc sống hằng ngày của họ thành sự tu tập hợp nhất hỷ lạc và tánh Không không phân biệt và truyền bá những giáo lý họ đã phát hiện.
Một số vị đại Tertưn là Nyang Nyima Ưdzer (1124 – 1192), Guru Chưwang (1212 -1270), Ogyen Lingpa (1323 - ?), Rigdzin Gưdem (1337 – 1408), Sangye Lingpa (1340 – 1396), Dorje Lingpa (1346 -1405), Ratna Lingpa (1403 – 1478), Pema Lingpa (1450 - ?), Rigdzin Jatsưn Nyingpo (1585 – 1656), Mingling Terdag Lingpa (1646 – 1714), Rigdzin Jigme Lingpa (1729 – 1798) và Khyentse Wangpo (1820 – 1892).
Phần lớn các vị Tertưn đều có vẻ như người bình thường trước khi họ phát hiện bất kỳ Ter nào. Họ không cần thiết xuất hiện như những học giả, thiền giả hoặc Tulku. Tuy nhiên, nhờ vào những thành tựu tâm linh nội tại và sự trao truyền đã nhận từ những kiếp trước, họ đột nhiên bắt đầu phát hiện một cách thần bí các Ter vào thời điểm thích hợp, không cần bất cứ sự tu tập hiển nhiên nào.
Vào lúc ban đầu, những người hoài nghi thường đưa ra nghi ngờ về sự phát hiện như thế từ những người không ai ngờ được. Trong một vài trường hợp, sự trực tiếp và trung thực tự nhiên của một Tertưn có thể xuất hiện trái với thông lệ hoặc ngay cả là bất lịch sự với những người chấp giữ nguyên tắc bảo thủ. Nhưng dần dần, nếu đó thật sự là những phát hiện Ter, chúng sẽ được sự công nhận của những người có quyền năng tâm linh cao hơn và sự kính trọng của những người mà chúng mang lại lợi ích. Điều quan trọng là phải hiểu được bối cảnh văn hóa này, nếu không thì một vị đại Tertưn có thể bị nhầm lẫn như một kẻ lừa bịp. Ví dụ, thật không may khi một tác giả phương Tây gần đây đã chê bai một vị đại Tertưn của truyền thống Nyingma bằng cách trích dẫn những lời chỉ trích vị Tertưn ấy từ một số người đương thời không đủ tư cách nói xấu Ngài và miêu tả những biểu hiện khiêm tốn và tự tin trong sự nhận biết của Ngài như là mâu thuẫn nhau, mặc dù đó là những tính cách tiêu biểu trong các tác phẩm của nhiều vị thánh Phật giáo.
Sau đây là một định nghĩa về tiến trình chung của việc phát hiện Ter Đất; tuy nhiên, chắc chắn không phải là định nghĩa duy nhất, bởi vì những Ter đã được phát hiện bằng nhiều cách.
Trước tiên, vị Tertưn tiếp nhận hướng dẫn tiên tri (Kha Byang) một cách trực tiếp trong kiến thanh tịnh hoặc trong sự chỉ dạy từ Guru Padmasambhava, Ḍkinỵ, hay Bổn tôn. Sau đó họ thực hiện những thực hành chuẩn bị của Ter (gTer sGrub), thiền định, hay nghi thức được chỉ dạy trong tiên tri hướng dẫn.
Khi thời điểm đến, vị Tertưn đến nơi cất giấu, đi một mình hoặc với một số người đi theo đã tuyển chọn, như vị phối ngẫu, đệ tử chính hoặc chỉ là những người quan sát. Nhiều sự phát hiện Ter xảy ra trong bí mật (gSang gTer) và nhiều khi công khai (Khrom gTer). Ở đó, trong lúc thực hiện nghi lễ cúng dường vật thực (Tshogs), sự phát hiện xảy ra theo nhiều cách. Ter có thể rơi từ nơi cất giấu xuống tay vị Tertưn tại phần chót của tia sáng cầu vồng, hoặc vị Tertưn leo lên một tảng đá, mà thường thì quá dốc đến mức khó có thể leo lên, rồi mở ra một cánh cửa trong tảng đá, và leo xuống với một tráp nhỏ; hoặc vị Tertưn biến mất rồi sau đó xuất hiện lại với Ter; hoặc Ngài sử dụng một dụng cụ như cái đục để đục vào tảng đá, và sau khi khó nhọc đục sâu vào, Ngài lấy ra Ter; hoặc vị Tertưn nhảy xuống một cái hồ và mang Ter ra khỏi hồ. Đôi khi vị Tertưn phát hiện Ter từ những hình ảnh, đền, điện hay từ bầu trời. Đôi lúc vị Tertưn phát hiện Ter cất giấu ở nơi thật xa qua năng lực thiền quán của Ngài, không cần đi đến đó, vì có các vị hộ pháp mang Ter đến cho Ngài.
Trong việc phát hiện Ter cũng có những hình tượng, đồ vật tôn giáo, dụng cụ hành lễ, nhưng quan trọng nhất là những chữ biểu tượng được viết trên giấy cuộn màu vàng. Phần lớn giấy cuộn được niêm phong trong những tráp được làm bằng vật liệu quý, đá, gỗ, v.v...
Một lần nữa, bằng việc thực hành chuẩn bị nhiều hơn cho Ter, tráp đựng Ter tự nhiên mở ra, và trong đó vị Tertưn phát hiện cuộn giấy màu vàng. Gọi là “cuộn giấy màu vàng” vì phần lớn những cuộn giấy này có màu vàng hay vàng nhạt, nhưng trong thực tế chúng có thể có bất cứ màu sắc, độ dài hay kiểu dáng nào. Trên những cuộn giấy màu vàng này, vị Tertưn tìm thấy những chữ biểu tượng trong bất kỳ chữ viết và ngôn ngữ khác nhau của con người hay loài phi nhân, chẳng hạn như chữ viết của Ấn Độ, Tây Tạng hay xứ sở Ḍkinỵ.
Những chữ viết biểu tượng thuộc nhiều đặc tính khác nhau, và được phân loại thành ba nhóm:
Nhóm thứ nhất “chỉ để nhìn thấy” (sNang Tsam), là một hay nhiều âm tiết nhưng không cần thiết là một chữ.
Nhóm thứ hai “chỉ như một nền tảng” (rTen Tsam), là một nhóm hay một ít nhóm từ, một câu hay vài câu liên quan đến giáo lý của bản văn, như đề cương tóm tắt của bản văn, một phần của bản văn, tiêu đề của bản văn, hoặc một dữ kiện nối kết đến sự cất giấu. Đôi lúc đó là một bài viết không liên quan đến chủ đề.
Nhóm thứ ba là “bản văn đầy đủ” (mThar Ch’ag), là một phát hiện toàn bộ bản văn.
Vị Tertưn nhìn thấy, thiền định, hay hợp nhất trí tuệ không che đậy, đó là sự tự hiện từ bản tánh quang minh bẩm sinh của Ngài, với những chữ viết biểu tượng và nhờ đó đánh thức năng lực trí tuệ ngữ vajra của Đức Guru Padmasambhava được cất giấu trong Ngài. Ngài giải mã những từ ngữ trong các chữ viết biểu tượng (brDa bKrol) và phát hiện ý nghĩa, Ter, từ chúng. Sự phát hiện Ter là sự xuất hiện của kho tàng Giáo Pháp của lãnh vực tối thượng (Tạng: Ch’os dByings, Sanskrit:, dharmadhtu) như năng lực của giác tánh nội tại (Rig rTsal) hoặc sự xuất hiện của năng lực tánh giác nội tại như giáo lý. Nếu bạn không có sự nhận biết của giác tánh nội tại Dzogpa Chenpo, vốn tỏa khắp trong lãnh vực tối thượng (pháp giới), bạn không thể phát hiện một Ter nào của Đức Guru Padmasambhava, vốn được xuất phát từ sự trao truyền ủy thác tâm (tâm truyền tâm).
Do vậy những chữ viết biểu tượng trở thành chìa khóa để đánh thức ký ức về giáo lý và sự thành tựu từ sự rộng mở của bản tánh nội tại trong tâm vị Tertưn. Tiếp theo, sau khi thực hiện nhiều thực hành chuẩn bị cho Ter, khi vị Tertưn thấy những dấu hiệu của thời điểm thích hợp, Ngài sao chép lại giáo lý. Sau đó, ngài trao truyền giáo lý cho các đệ tử và giao phó chúng cho vị lĩnh hội chính về Ter, được gọi là bậc trì thủ giáo lý (Ch’os bDag). Những vị trì thủ giáo lý thường là người cũng đã tiếp nhận trao truyền giáo lý từ Guru Padmasambhava và nhận trách nhiệm truyền bá giáo lý.
TER TÂM
Những phương pháp cất giấu, trao truyền, và phát hiện Ter Tâm cũng tương tự như Ter Đất, ngoại trừ việc chúng không dựa vào bất cứ nguồn bên ngoài nào thuộc đất, chẳng hạn như những cuộn giấy màu vàng là chìa khóa để phát hiện.
Trong nhiều trường hợp của Ter Tâm, việc nhìn thấy hay nghe những chữ biểu tượng hoặc âm thanh trong các thị kiến (linh ảnh) là nguyên nhân phát hiện Ter, nhưng thường thì sự phát hiện không dựa vào bất cứ nguồn nào bên ngoài, và không liên quan đến những đối tượng thuộc đất như phương tiện để phát hiện Ter. Một vị Tertưn Tâm phát hiện Ter bằng sự đánh thức trao truyền ủy thác tâm một cách tự phát từ sự rộng mở của giác tánh nội tại tâm Ngài, khi hoàn cảnh chín muồi và thời điểm đã đến.
Có một phạm trù thứ ba của sự phát hiện giáo lý được biết như là Kiến Thanh Tịnh (Dag sNang). Giáo lý Kiến Thanh Tịnh không phải là Terma. Chúng chỉ là những giáo lý được chư Phật, Bổn tôn, và vị thầy ban dạy trong thị kiến (linh ảnh) của hành giả. Về loại phát hiện này, người phát hiện không cần thiết là một người có nhận biết cao và đây không phải là tâm truyền tâm. Tuy nhiên, có những trường hợp trong đó giáo lý Ter được phát hiện hoặc đã định rõ như giáo lý của kiến thanh tịnh. Trong trường hợp này, đây thực sự là giáo lý Ter.
Trong tài liệu của Nyingma có hàng ngàn bộ Ter được hàng trăm vị Tertưn phát hiện, khởi đầu vào thế kỷ mười một và tiếp tục đến ngày nay. Phần lớn các bản văn liên quan đến những sdhana (nghi quỹ), nghi thức hành lễ, bài nguyện, và nhiều sự thực hiện mật truyền khác nhau (Las). Có một số lớn bản văn về triết học, thiền định, và kết quả của những thực hành đạo Phật nói chung và nhất là của truyền thống mật tông. Ngoài ra, có rất nhiều bản văn về y học, thiên văn học, lịch sử và tiểu sử.
Thật ngạc nhiên khi nhận ra phạm vi và tác động của kho tàng tâm linh được Đức Guru Padmasambhava ban để cải thiện giá trị của cuộc sống tinh thần, xã hội và văn hóa người Tây Tạng và kết quả không ngưng nghỉ của truyền thống trong tiến trình của một thiên niên kỷ. Và thật là sửng sốt khi thấy rằng ngay cả nhiều người Tây Tạng vẫn chỉ có ít nhận thức về ý nghĩa của truyền thống này. Theo các sử gia Tây Tạng, Phật giáo hẳn đã không bao giờ có thể hình thành ở Tây Tạng nếu không nhờ có sự ban phước của Đức Guru Padmasambhava. Ở Tây Tạng, khó có một ngọn núi, ao hồ, hoặc thung lũng quan trọng nào mà không được Ngài đích thân ban phước bằng việc viếng thăm, thiền định, phô diễn phép mầu và chôn giấu các Ter ở những nơi đó. Thậm chí ngày nay vẫn còn nhìn thấy nhiều dấu vết cụ thể, chẳng hạn như những dấu chân, nhiều hình ảnh xuất hiện tự nhiên, hoặc các hang động [ngài đã] thiền định. Truyền thống Ter bao gồm một số chứng cứ nổi bật nhất của dấu ấn vĩ đại được lưu lại Tây Tạng vì lợi ích của thế gian thông qua các hoạt động giác ngộ của Đức Guru Padmasambhava. Vào lúc rời khỏi Tây Tạng, Ngài diễn tả lòng từ và hứa với người Tây Tạng những lời sau đây:
Khi các ngươi đối mặt thời điểm xấu của thời đại đen tối,
Mỗi ngày và đêm Ta sẽ đến Tây Tạng.
Ta sẽ cưỡi trên những tia sáng mặt trời đến với các ngươi,
Và vào mỗi ngày thứ mười của trăng tròn
Ta sẽ đích thân đến cùng các ngươi.
Hành trình giác ngộ
Đại sư Tulku Thondup,
Tuệ Pháp dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
TAG: /
Quán Đảnh - Cánh Cửa Kim Cương Thừa
10/28/2017
Cánh cửa bước vào Kim Cương thừa thường được biết đến là “quán đảnh.” Một quán đảnh thường là buổi lễ tỉ mỉ trong đó một Lạt ma vô cùng đáng kính sẽ trao truyền lực gia trì của một Bổn tôn Phật giáo đặc biệt, chẳng hạn như Chenrezig, vị Phật của lòng từ bi. Trong buổi lễ quán đảnh, vị Lạt ma sẽ gieo “hạt giống” trong tâm thức đệ tử, thứ sau đó sẽ chín muồi trong đệ tử, thông qua thực hành và lòng sùng mộ, hiển bày những phẩm tính giác ngộ của Bổn tôn đó. Một lễ quán đảnh đánh dấu việc đệ tử chính thức bước vào con đường Mật thừa.
Chúng ta có thể nghe rằng nghi lễ như vậy sắp diễn ra trong cộng đồng chúng ta và muốn đến để hiểu thêm về Phật giáo Tây Tạng. Hay chúng ta có thể muốn gặp được vị Lạt ma nổi tiếng, người sắp ban quán đảnh. Chúng ta thậm chí có thể phải đi rất xa. Một người bạn của tôi gần đây đi từ Oregon đến Australia để thọ nhận quán đảnh Kalachakra từ Đức Dalai Lama.
Khi chúng ta tiếp cận Phật giáo Tây Tạng, chúng ta sẽ biết về những buổi lễ này. Chúng có thể cho ta cơ hội đầu tiên kết nối với Phật giáo Tây Tạng nói chung hay với một Lạt ma đặc biệt, người mà chúng ta từng nghe nói đến. Khi đó, chúng ta có thể tham dự để làm sâu sắc hơn kết nối, để thọ nhận gia trì của đạo sư vĩ đại hay nổi tiếng, hoặc bởi vì chúng ta thích thú vào việc cộng tu.
Khi Phật giáo Tây Tạng lần đầu tiên đến phương Tây, các quán đảnh [empowerment] được gọi là “lễ kết nạp” [initiation], một từ mà chúng tôi mượn từ những người tiền nhiệm của thuyết thần trí. Từ này hiện nay vẫn được sử dụng và hoàn toàn có thể thay thế từ “quán đảnh”; nó đơn giản là một cách dịch khác của cùng một từ trong tiếng Tạng. Tôi sẽ sử dụng cả hai thuật ngữ, mặc dù từ “quán đảnh” [empowerment] là cách dịch sát nghĩa và tốt hơn.
Quán đảnh là gì? Trong phần này, tôi sẽ nói về buổi lễ quán đảnh. Tôi sẽ không xem xét đến sự trao truyền tự nhiên của thấu suốt từ bậc thầy đến đệ tử – điều sẽ xuất hiện trong chương sau. Trong bối cảnh của một buổi lễ, quán đảnh thường liên quan đến một Bổn tôn đặc biệt, hay yidam. Có hàng nghìn yidam trong Phật giáo Tây Tạng, và mỗi vị lại có một lễ quán đảnh riêng.
Mỗi quán đảnh cũng tương ứng với một truyền thừa đặc biệt. Bởi vậy quán đảnh Văn Thù trong dòng truyền thừa Gelug sẽ khác với dòng truyền thừa Sakya. Mỗi dòng truyền thừa trong Phật giáo Tây Tạng đều có bộ quán đảnh riêng, và mỗi dòng truyền thừa lại chuyên biệt vào những Bổn tôn mà nó thực hành nhiều nhất. Ví dụ, các vị dòng Kagyu thực hành Chakrasamvara rất nhiều. Phần lớn mọi người cảm thấy sẽ đặc biệt tốt lành nếu thọ nhận quán đảnh Chakrasamvara từ một Lạt ma Kagyu cao cấp. Các vị Gelug cũng thực hành Chakrasamvara, nhưng họ nổi tiếng đặc biệt vì thực hành Yamantaka, hình tướng phẫn nộ của Đức Văn Thù. Hiện nay, các vị Nyingma chuyên về Vajrakilaya.
Một Lạt ma, được gọi là “Kim Cương Đạo sư” trong buổi lễ, luôn ban một quán đảnh. Chính ngài đã thọ nhận nó từ một Lạt ma khác và không ngừng, ngược lại thời gian. Lạt ma cần có đầy đủ phẩm tính theo những nguyên tắc đã được trình bày trước kia, nhưng khi một vị thầy có thể sắp đi ngang qua cộng đồng chúng ta, chúng ta có thể quyết định xem liệu rằng có tham dự hay không dựa vào danh tiếng. Vị thầy của chúng tôi ở Ashland, ngài Gyatrul Rinpoche đã đưa rất nhiều Lạt ma vĩ đại đến đây để ban quán đảnh. Một vài vị tôi chưa từng nghe tôi, nhưng tôi không do dự gì trong việc tham dự bởi vì tôi tin tưởng sự chân thật và đánh giá của Gyatrul Rinpoche.
Quán đảnh là một buổi lễ. Tôi sẽ nói về những quán đảnh theo cách thức chung từ quan điểm của mục đích và cấu trúc. Tôi sẽ dựa trên cuốn Quán đảnh của ngài Tsele Natsok Rangdrol, có lẽ là tài liệu đáng tin cậy nhất bằng tiếng Anh.
Một quán đảnh là sự cho phép thực hiện các giai đoạn khác nhau của thiền định đi kèm với một Bổn tôn đặc biệt. Thọ nhận quán đảnh Vô Lượng Quang cho phép bạn thực hành thiền định và trì tụng thần chú Phật Vô Lượng Quang. Nó cũng cho phép bạn thực hiện các thực hành khác đi kèm với Bổn tôn đó. Bởi vậy cùng với thực hành chính về Phật Vô Lượng Quang, bạn có thể tiến hành thực hành trường thọ của ngài và thực hành chuyển di thần thức [phowa] đến cõi Cực Lạc [Sukhavati]. Tsele Rinpoche nói rằng:
Nếu đầu tiên các con không nhận quán đảnh chín muồi, con không thể lắng nghe dù chỉ một đoạn Mật điển, câu nói và chỉ dẫn. Những người chưa được phép, mà tham gia vào việc giải thích và lắng nghe Mật điển sẽ không thể nhận được gia trì; họ sẽ tạo ra lỗi lầm lớn lao từ việc tiết lộ bí mật của những giáo lý này.
Chúng ta cần nhận quán đảnh để thực hành Kim Cương thừa sau đó thành công. Nếu chúng ta muốn thực hành Pháp tu nào đó, chúng ta cần dành sức lực để nhận quán đảnh đó. Đôi khi chúng ta muốn thực hành nhiều Pháp tu, điều dường như không có gì để làm với các Bổn tôn, ví dụ, du già nội hỏa (tummo) hay dzogchen. Tuy nhiên, những giáo lý này sẽ nằm trong thực hành của một Bổn tôn đặc biệt, vì thế thọ nhận quán đảnh là rất cần thiết.
Các quán đảnh có tác dụng làm chín muồi hay tịnh hóa với hành giả; sự thực là, chúng thường được gọi là “các quán đảnh chín muồi.” Nếu Phật tính của chúng ta giống như hạt giống, quán đảnh làm hạt giống phát triển và tịnh hóa những che chướng ngăn cản sự phát triển của nó. Từng phần của quán đảnh tịnh hóa những che chướng khác nhau của chúng ta. Ví dụ, quán đảnh bình tịnh hóa che chướng của thân và làm trưởng thành những yếu tố vật lý tạo thành thân của Bổn tôn.
Ở cấp độ thâm sâu nhất, quán đảnh là sự trao truyền trực tiếp chân lý tuyệt đối của Đạo Phật. Như chúng ta đã thảo luận trước kia, chúng ta đều có Phật tính, nhưng nó bị che lấp. Hơn thế nữa, chúng ta không biết cách nhận ra nó. Nếu chúng ta sẵn sàng và có kết nối thanh tịnh với một Kim Cương Đạo sư, việc nhận ra sẽ được trao truyền thông qua buổi lễ. Như Tsele Rinpoche giải thích:
Thoát khỏi các nhận thức tầm thường và những lời nói suông, chính xác hòa hợp với lời dạy của đạo sư, đệ tử cần hiểu cách thức mà thế giới và chúng sinh, mọi thứ sinh động và tẻ nhạt và bao gồm những uẩn, các yếu tố và nhân tố nhận thức, từ vô thủy, không là gì khác ngoài mạn đà la của Bổn tôn. Sau đó, nhờ lòng tốt bụng và chỉ dẫn của đạo sư, che chướng về vô minh tạm thời của đệ tử được xua tan. Đệ tử có thể hiểu cách thức mà thế giới bên ngoài thực sự là cung điện linh thánh và cư dân trong đó thực sự là mạn đà la của chư Bổn tôn.
Giống như vậy, từng phần trong quán đảnh giới thiệu chúng ta với từng khía cạnh khác nhau của bản tính tự nhiên của chúng ta, lập tức tịnh hóa các tập khí khác nhau, thứ ngăn cản việc chứng ngộ. Có lẽ việc nhận ra này sẽ bám chặt và chúng ta sẽ chứng ngộ từ thời điểm này trở đi. Hay điều đó có thể chỉ là tạm thời, nhưng khi đã thấy, chúng ta sẽ có thể tiếp cận giác tính này trong thực hành sau đó. Dù là cách nào, chúng ta cũng thực sự may mắn!
Mặc dù các quán đảnh rất khác nhau, chúng đều theo một cấu trúc chung. Những quán đảnh chi tiết hơn sẽ bắt đầu trước một ngày với buổi lễ chuẩn bị, gọi là tagon, nhằm chuẩn bị cho những đệ tử. Nếu không thì, đệ tử sẽ tự chuẩn bị bằng cách tắm và mặc quần áo sạch và đẹp. Đây không phải một sự kiện hippi; tinh thần hippi quá mức không có chỗ ở đây. Đó là kiểu thái độ chúng ta đang cố gắng buông bỏ. Chuẩn bị bản thân như vậy giúp tịnh hóa thân chúng ta. Trong khi đó, vị Lạt ma sắp ban quán đảnh cũng sẽ bắt đầu sự chuẩn bị, và khi chúng ta bước vào điện thờ hay giảng đường, ngài đã ở đó khoảng hai giờ, tiến hành những nghi lễ chuẩn bị và tự quán tưởng mình là Bổn tôn.
Khi chúng ta bước vào điện thờ, chúng ta được cho một ít nước nghệ để tịnh hóa khẩu và một thần chú trì tụng để tịnh hóa tâm. Việc lễ lạy vị Lạt ma trước khi ngồi xuống là rất thích hợp; nếu bạn không thấy thoải mái với điều đó, bạn có thể chưa sẵn sàng cho Kim Cương thừa. Trong một vài quán đảnh, đạo sư sẽ nói tiếng Anh hoặc phần lớn tiến trình sẽ được chuyển dịch để đệ tử có thể theo từng bước và thực hiện (hay ít nhất là cố gắng thực hiện) quán tưởng ứng với từng giai đoạn. Trong những lễ khác, vô cùng ít giải thích được ban ra và chỉ có vài nét tổng quan hay giới thiệu ngắn gọn cho từng phần được giải thích. Hãy nhớ rằng, người ta không hề có kiểu thuyết Pháp cộng đồng nào ở Tây Tạng; trong những buổi lễ cộng đồng, người ta nhận quán đảnh thông qua sức mạnh của niềm tin và lòng sùng mộ. Tuy nhiên, là một người phương Tây phức tạp, bạn có lẽ sẽ thấy rằng bạn càng biết nhiều về buổi lễ, trải nghiệm của bạn sẽ càng phong phú. Bằng cách cố gắng hết sức làm theo những quán tưởng, bạn sẽ tiếp cận nhiều hơn với sự gia trì và trao truyền của buổi lễ. Nếu bạn không thể làm theo, tôi nghe nói rằng tốt nhất là thư giãn tâm vào trạng thái rộng mở đáng tin cậy.
Buổi lễ sẽ bắt đầu với việc cúng dường gektor. Tor là từ viết tắt của torma và liên quan đến bánh nghi lễ, có thể thấy trong tất cả các điện thờ Tây Tạng. Trong trường hợp này, torma sẽ nhỏ và có màu đỏ. Nó được dâng lên gek, đó là các thế lực xấu hay ngăn cản. Chúng có thể được xem là chúng sinh bên ngoài hoặc là những ác nghiệp và ý nghĩ nhị nguyên bên trong chính chúng ta. Đây là cơ hội tốt để buông bỏ những cuộc nói chuyện bên ngoài mà chúng ta thường làm và chúng ta trở về với buổi lễ. Về bản chất, chúng ta sẽ nói rằng, “Gek thân mến, hãy nhận vật phẩm cúng dường tuyệt vời này và rời đi. Đừng làm phiền hay ngăn cản buổi lễ.” Với những kẻ từ chối torma và vẫn ở lại, các kỹ thuật phẫn nộ được sử dụng: gugal, nhựa thông tương tự với hương trầm, được đốt trong lư hương và hạt mù tạc được rắc trong khi đạo sư trì tụng thần chú phẫn nộ. Gugal và hạt mù tạc như là vũ khí với những gek. Bởi môi trường đã được tịnh hóa, một chiếc màn bảo vệ, gọi là lều Kim Cương, được quán tưởng đang bảo vệ buổi lễ.
Vị Lạt ma có thể sẽ nói ngắn gọn về lịch sử của quán đảnh và thực hành tương ứng. Ví dụ, ngài có thể đề cập đến nguồn gốc của nó ở Ấn Độ, nó được truyền đến Tây Tạng ra sao, số lượng hành giả đã chứng ngộ nhờ thực hành này, sự dễ dàng và đơn giản của thực hành, và sức mạnh và sự thâm sâu của lựa gia trì của nó. Tất cả những điều này là để tạo ra niềm tin trong đệ tử. Đệ tử cần thấy rằng sự kiện này là điều gì đó rất đặc biệt, rằng họ thật may mắn khi đang tham dự; họ nên cảm thấy mong đợi những điều ở phía trước.
Trong từng quán đảnh, bạn sẽ được nghe điểm độc đáo và đặc biệt của nó. Đừng nghĩ rằng, “Nhưng chúng nói cùng một thứ lúc cuối cùng!” Lời tán thán này nhằm tạo ra niềm tin và sự cởi mở thích hợp; nó không thực sự là nền tảng của so sánh.
Sau đó, lời nguyện quy y và Bồ đề tâm được tụng đọc theo vị Lạt ma. Nếu bạn không biết điều này nghĩa là gì, tôi sẽ giải thích từng điều trong chương tiếp theo. Chúng tương ứng với các cấp độ Tiểu thừa và Đại thừa của thực hành và hứa nguyện. Mật giới [samaya] (được giải thích ở cuối chương này) được ban cùng với ít nước nghệ hay rượu để khóa lại hứa nguyện, cùng với lời cảnh báo nghiêm khắc về điều có thể xảy ra với những ai phá giới. Lúc này, chúng ta đạt đến điểm không thể quay lại và hứa nguyện bản thân là một hành giả Mật thừa. Phần sau đó, “sự trao truyền gia trì” khẩn cầu lựa gia trì của chư Phật, Bồ Tát và Bổn tôn khi âm nhạc cất lên và các đệ tử thiền định về một quán tưởng mà đạo sư vừa miêu tả, thường quán tưởng vô số chư Phật trong hình tướng Bổn tôn tan hòa vào họ.
Mục đích ẩn đằng sau tất cả điều này là gì? Tsele Rinpoche giải thích khá rõ ràng như sau:
Thực sự, tịnh hóa nhận thức nghiệp về mọi thứ bên ngoài và bên trong, thế giới và chúng sinh, như là những thứ thông thường và rắn chắc, là rất quan trọng. Hãy xem xét các phương pháp và sự kiện tốt lành cần thiết để điều này xảy ra. Trong bất kỳ lễ quán đảnh nào, vào thời điểm bậc trí tuệ giáng hạ, một dải băng nhỏ được buộc trên người thọ nhận để làm gián đoạn những ý nghĩ cho rằng các hình tướng có thể thấy được như là thông thường. Khói chuẩn bị từ những chất liệu như là hương hay trầm khiến trí tuệ giáng hạ, được phát tán để ngăn cản ý nghĩ cho rằng mùi hương là thông thường. Cam lồ được gia trì [nước nghệ hay chất lỏng] được ban để ngăn cản ý nghĩ cho rằng mùi vị là thông thường. Vị trí vật lý trong tư thế bảy điểm Tỳ Lô Giá Na hay tư thế Kim Cương là để ngăn cản ý nghĩ cho rằng việc xúc chạm là thông thường. Cuối cùng, các bước quán tưởng, phóng chiếu và tan biến là để ngăn cản bám chấp vô minh cho rằng tâm chúng ta là thông thường.
Bởi vậy, thông qua những nghi lễ dự bị này, đệ tử nên cảm thấy cởi mở và nhạy hơn, sẵn sàng cho phần chính của quán đảnh sau đó.
Mặc dù quán đảnh có nhiều hình tướng khác nhau, chúng thường có ba hay bốn phần, sẽ được miêu tả ngắn gọn sau đây. Việc ban quán đảnh bao gồm một vị đạo sư trì tụng bản văn, có thể được dịch để đệ tử có thể tham gia bằng việc quán tưởng các giai đoạn khác nhau đang diễn ra, chạm vào đệ tử bằng những vật biểu tượng được gia trì, và ban những chất được gia trì cho để tử để ăn hay uống. Bởi phần lớn quán đảnh đều có nhiều người tham dự và đòi hỏi nhiều thời gian cho bậc đạo sư làm điều này cho từng người, thông thường ngài ban cho một vài người gần ngài, những người sau đó sẽ đem những phần này cho toàn thể những người tham dự. Hoặc đôi khi những phần này được để trước sảnh đường và đệ tử xếp hàng đi qua và chạm vào lúc cuối.
Nếu có ba quán đảnh chính, đầu tiên là quán đảnh thân. Điều này tịnh hóa những lỗi lầm về thân, như là bệnh tật và cho phép đệ tử quán tưởng mình là bổn tôn. Quán đảnh khẩu tịnh hóa những lỗi lầm về khẩu và hơi thở, cho phép đệ tử trì tụng thần chú của Bổn tôn. Quán đảnh ý tịnh hóa tâm và cho phép đệ tử tan biến quán tưởng và an trú tâm trong Phật tính.
Quán đảnh cho các cấp độ cao hơn của Mật điển có bốn phần chính. Chúng cho phép đệ tử thực hành các hệ thống thiền định, mà người phương Tây thường rất mong mỏi, và trình tự và cấu trúc của chúng nên được nghiên cứu và hiểu thông qua việc tham gia vào Kim Cương thừa. Kiểu bốn quán đảnh này sẽ xuất hiện theo những cách khác nhau. Khi bạn hiểu nó, nó sẽ giúp bạn tiến gần hơn với các khía cạnh dường như không kết nối của Kim Cương thừa.
Quán đảnh đầu tiên trong hệ thống này là quán đảnh bình, điều đôi khi được chia nhỏ thành năm, tượng trưng cho năm Phật bộ. Quán đảnh này tịnh hóa thân chúng ta và cho phép chúng ta thực hành giai đoạn phát triển, quán tưởng Bổn tôn và trì tụng thần chú của Bổn tôn. Kết quả là, các đệ tử đạt được Hóa thân, thân thị hiện của một vị Phật.
Thứ hai là quán đảnh bí mật, tịnh hóa khẩu. Chúng ta sẽ được phép thực hành giai đoạn hoàn thiện, các thực hành sử dụng năng lượng bên trong của tsa, lung và tigle. Tsa, lungvà tigle liên quan đến kinh mạch bên trong, khí và tinh túy. Tôi sẽ nói rõ hơn về chúng trong chương về thân (xem chương 17). Chúng ta đạt được Báo thân Phật, hay thân niềm vui, như là kết quả.
Sau đó là quán đảnh trí tuệ, tịnh hóa tâm chúng ta. Chúng ta được phép thực hành thiền định của sự hợp nhất, điều đưa đến Pháp thân, hay thân chân lý.
Cuối cùng là quán đảnh thứ tư, quán đảnh ngôn từ. Điều này tịnh hóa cả thân, khẩu và ý với xu hướng xem chúng là tách biệt. Nó cho phép chúng ta thực hành các Pháp tu thâm sâu của Đại thủ ấn và Đại toàn thiện với kết quả là Tự tính thân. Quán đảnh này có thể trực tiếp giới thiệu chúng ta đến rigpa, giác tính tự thấu suốt của Phật tính. Thông thường, sự giới thiệu này xảy ra dưới dạng vị Lạt ma cầm trái pha lê trong khi nói vài lời về bản tính tuyệt đối của tâm. Đây là chỉ dẫn chỉ-ra thâm sâu, và chúng ta nên đặc biệt chú ý trong phần này. Với niềm tin và sự yêu thích, chúng ta có thể trải qua điều gì đó rất quan trọng.
Cuối lễ quán đảnh, các đệ tử đến gần đạo sư và cúng dường kata, chiếc khăn truyền thống của Tây Tạng, và một vật phẩm cúng dường, thông thường là cúng dường bằng tiền.
Những dấu hiệu của việc thực sự nhận được quán đảnh là gì? Tsele Rinpoche giải thích rằng:
Đệ tử xuất chúng nhất trải qua sự lóa rạng của giác tính tự-sinh khởi, đồng xuất hiện. Đệ tử tốt tiếp theo trải qua nhận thức thanh tịnh cùng với lòng sùng mộ tràn ngập trong khi sự hiển bày của trải nghiệm bùng cháy, và đệ tử có căn cơ thấp hơn ít nhất cũng cảm thấy hoan hỉ.
Tôi thấy sẽ an toàn nếu nói rằng chúng ta có lẽ ở kiểu sau, bởi vậy ít nhất chúng ta có thể hy vọng kiểu trải nghiệm mạnh mẽ nào đó, có lẽ một cảm xúc vô cùng hoan hỉ hay trải nghiệm mà các vị Hindu gọi là “Shaktipat.” Bởi nghi lễ thường đầy sức mạnh và gây kinh sợ, chúng ta có thể cảm thấy sùng mộ và kính trọng lớn lao. Và nếu chúng ta theo các chỉ dẫn một cách cẩn thận và với niềm tin tưởng trong quán đảnh thứ tư, chúng ta sẽ thấy được Phật tính, giác tính đồng xuất hiện.
Cuối quán đảnh, đạo sư có thể ban thực hành hứa nguyện. Đó là, ngài sẽ nói chúng ta phải tiến hành thiền định ra sao mỗi ngày. Nó có thể không là gì hoặc thứ gì đó chung chung, như là tiếp tục thực hành thiện hạnh hay Pháp; nó có thể là một sự trì tụng ngắn, như là một chuỗi OM MANI PADME HUM; hoặc nó có thể dài hơn, như là thực hành một hay hai giờ mỗi ngày. Một người bạn thân của tôi có năm giờ thực hành như vậy để làm mỗi ngày. Vào những ngày bận rộn, cô ấy không thể ngủ.
Khi người ta đã uống nước giới nguyện [samaya] lúc bắt đầu buổi lễ, họ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tuân theo mệnh lệnh của Lạt ma. Thờ ơ hứa nguyện sẽ có những kết quả tức khắc. Quán đảnh được ban cho những nhóm lớn trong cộng đồng, đặc biệt là ở phương Tây, thường có ít hứa nguyện; tuy nhiên, việc quyết tâm nếu anh ta đã sẵn sàng cho một hứa nguyện là trách nhiệm của đệ tử. Nếu bạn không cảm thấy bạn có thể giữ gìn hứa nguyện, đừng nhận quán đảnh. Cũng vậy, nếu bạn không cảm thấy có thể duy trì niềm tin tưởng và kính trọng Kim Cương Đạo sư và nhận thức thanh tịnh cũng như lòng từ ái với những người tham dự khác, tốt hơn là không nhận quán đảnh.
Bên cạnh đó, có những Mật nguyện khác, chi tiết hơn trong các quán đảnh mặc dù chúng sẽ không được đề cập trong buổi lễ. Tuy nhiên, trách nhiệm của bạn là tìm ra chúng và cố gắng giữ chúng như bạn có thể. Có hàng nghìn Mật nguyện như vậy, một số rõ ràng quan trọng hơn và rất nhiều gần như là không thể giữ. Tôi sẽ đề cập một vài trong số những giới quan trọng nhất, nhưng hãy cố gắng nghiên cứu chúng từ vị thầy của bạn. Hãy tìm ra điều ngài cảm thấy là quan trọng nhất, cách thức giữ gìn chúng và phải làm gì nếu chúng bị phá.
Trong Kim Cương thừa, Phật tính của chúng ta bị che chướng bởi những ý nghĩ thông thường. Để duy trì nhận thức liên tục về sự hiểu bản tính chân thực, chúng ta thề duy trì nhận thức thanh tịnh hay quan kiến linh thiêng. Chúng ta thề luôn nhìn nhận mọi thứ xung quanh là mạn đà la với tất thảy chúng sinh là chư Bổn tôn, mọi âm thanh là thần chú, và mọi ý nghĩ đều là hiển bày của giác tính giác ngộ. Không dễ như vậy! Với tôi, ít nhất tôi cố gắng cắt bỏ những tham luyến mạnh mẽ với các đánh giá tiêu cực và thấy những khía cạnh thanh tịnh và tích cực của mọi thứ. Thầy tôi nói rằng mặc dù moi người thường làm hỏng, lao một cách bất cần khi họ trải qua cuộc đời, họ đều có một trái tim tốt. Tôi cố gắng nhìn nhận trái tim tốt lành này và không rơi vào việc phản ứng lại với những lỗi nhỏ trong tính cách của họ. Tôi cố gắng áp dụng điều này vào những điểm khác nữa. Không quá bực bội bởi môi trường, mà cố gắng thấy vẻ đẹp và sự rộng lớn trong mọi địa điểm. Không quá căng thẳng bởi những tiếng ồn, mà sử dụng chúng để mở tâm tôi. Tôi không nói rằng tôi thành công, nhưng tôi đang cố gắng, và ít nhất tôi có thể sử dụng những điều này như là điểm xuất phát. Bởi vậy bạn thấy rằng, nhận thức thanh tịnh vừa là điểm xuất phát vừa là ý tưởng trung tâm trong cả thực hành Kim Cương thừa lẫn việc giữ gìn giới nguyện và hứa nguyện.
Cũng có một bộ mười bốn giới nguyện đi kèm bất kỳ quán đảnh nào. Bản miêu tả có thể được tìm thấy trong nhiều cuốn sách nhưng đặc biệt là Hành động hoàn hảo của ngài Dudjom Rinpoche. Ba trong số những điều này tôi cảm thấy là quan trọng nhất. Đầu tiên là kính trọng vị đạo sư ban quán đảnh. Người ta nên coi ngài như là Bổn tôn thực sự và chắc chắn không để những hoài nghi và ác hạnh ngăn cản quan kiến về ngài. Đặc biệt, đừng mất kiểm soát và đánh nhau với ngài! Thứ hai, duy trì tri kiến thanh tịnh với tất thảy giáo lý Phật Đà. Đừng nghĩ rằng vài giáo lý hay vị thầy thì tốt hơn số khác. Lợi lạc nào thể đến từ việc nghĩ như vậy? Hãy thấy rằng các vị thầy, giáo lý và kỹ thuật khác nhau là để phù hợp với căn cơ khác nhau của chúng sinh; vì thế không có cấp bậc nào được ám chỉ. Đó là những phương thuốc khác nhau cho các căn bệnh khác nhau. Đặc biệt hãy duy trì nhận thức thanh tịnh và sự kính trọng với Kim Cương thừa. Vài người nghĩ rằng nó là sự sai lầm của giáo lý Đức Phật, hay một sự hợp nhất của Phật giáo với Bà La Môn và đạo Bôn. Bạn nên từ bỏ thái độ này. Thứ ba, duy trì nhận thức thanh tịnh với các đệ tử khác, các huynh đệ Kim Cương của bạn. Dù họ có phiền hà hay thần kinh thế nào, họ đều sở hữu Phật tính và đang cố gắng làm điều tốt nhất. Bên cạnh đó, họ có thể cũng nghĩ như bạn! Đừng đánh nhau, đừng cãi nhau, và đừng tán chuyện về họ đằng sau lưng. Nếu có ai đó bạn không thể chịu được, đơn giản hãy tránh họ. Bên cạnh ba điều này, việc duy trì vài kiểu thực hành đều đặn là rất quan trọng.
Như bạn có thể thấy, nhận quán đảnh đưa bạn đến một thế giới mới và, khi bạn đã tập hợp tất cả những điều trên, nó khẳng định sự sẵn sàng buông bỏ điều cũ. Không nghi ngờ gì, điều gì đó đầy sức mạnh đáng sợ và rộng lớn đang diễn ra. Dù bạn có chú ý cẩn thận thế nào, buổi lễ cũng vô cùng vĩ đại. Vượt lên trên điều đó là khả năng nhìn thấy hay nhận thấy một kiểu tốt lành vượt khỏi thế giới nhỏ bé của chúng ta. Chúng ta đạt đến điểm không thể “quay lại” trên hành trình, và ở một khía cạnh nào đó, quá trình tìm kiếm đã kết thúc. Bây giờ không thể quay lại.
Lama Bruce Newman
Trích: A beginner’s Guide to Tibetan Buddhism
Việt dịch: Pema Jyana
TAG: /
http://vajrayanapractice.com/quan-da...uong-thua.html
Ý Nghĩa Cúng Dường Theo Truyền Thống Kim Cương Thừa
10/28/2017
Thông thường bạn có thể nhận thấy khi nghe giảng Phật Pháp, mỗi bậc Thầy có thể giảng theo cách riêng của các Ngài – tùy theo giáo lý thuộc Nguyên thủy, Đại thừa hay Kim Cương thừa. Chỉ riêng trong Kim Cương thừa cũng có rất nhiều truyền thừa khác nhau. Đôi khi bạn thấy lúng túng, cũng có nhiều người nói với tôi rằng họ cảm thấy băn khoăn khi trở thành Phật tử. Trong Kim Cương thừa có quá nhiều con đường, nhiều pháp thực hành… khiến họ không biết phải chọn pháp thực hành nào. Giá như mọi thứ đơn giản hơn. Xét từ một góc độ nhất định thì họ nói đúng. Thoạt đầu bạn có thể thấy hơi phức tạp. Đức Phật Thích Ca đã thuyết giảng 84000 pháp môn khác nhau, bởi vô số người trong chúng ta có những tính cách và trình độ khác nhau. Chẳng hạn như ngày hôm nay tới đây, các bạn mỗi người đều mặc một bộ trang phục khác nhau. Người mặc áo trắng, người mặc complet hoặc đồ thời trang, bởi lẽ mỗi người chúng ta đều có những quan niệm riêng, phong cách và mong muốn riêng. Thế nên nếu có ai đó đưa một cái áo ngắn tay và yêu cầu tất cả mọi người đều phải thích trang phục đó thì chưa chắc mọi người đã nghe theo. Do vậy, nếu Đức Phật chỉ ban cho một pháp môn duy nhất thì có thể sẽ khó thích ứng được với tất cả mọi người. Bởi từ bi nên Ngài đã ban truyền vô số giáo pháp, 84000 pháp môn của Ngài dành cho vô lượng chúng sinh với muôn vàn đặc tính khác nhau.
Như vậy nhìn từ một góc độ khác, chúng ta thấy chỉ riêng số pháp môn vô lượng này cũng đã chứng tỏ Đức Phật là bậc Đại từ bi, với lòng từ mênh mông vô lượng Ngài đã chỉ ra vô số con đường. Bất kể lựa chọn đi theo lối nào, bạn cũng đều cần hiểu về Giáp Pháp, cần biết chắt lọc được tinh túy cốt lõi của 84000 pháp môn. Khi hiểu được điều tinh túy của các pháp môn, chúng ta có thể hiểu được trọn vẹn giáo pháp. Và cốt yếu của giáo pháp nằm trọn trong 3 điều: (i) Không nên làm điều bất thiện gây tổn hại tới người khác hoặc chúng sinh, bởi đó chính là nhân dẫn tới đau khổ cho chính mình và chúng sinh. (ii) Hãy làm mọi thiện hạnh lợi ích cho người khác vì những nghiệp này sẽ mang lại ích lợi cho chúng ta. (iii) Điều thứ ba, vì sao chúng ta lại phạm nghiệp bất thiện ? Vì sao mình nói chuyện mềm mỏng với người này và cáu gắt với người kia. Tất cả đều do tâm. Nếu ta có tâm từ bi, tâm thấu hiểu, tâm cảm thông yêu thương – kết quả là những điều dễ chịu nảy sinh. Từ tâm sân giận, ghét bỏ - những điều bất thiện nảy sinh. Như vậy điều cốt yếu thứ ba là điều phục tâm. Làm việc thiện, từ bỏ việc bất thiện và điều phục tâm mình chính là gốc, tâm sai sử gọi là Tâm vương. Tâm là chủ, Khẩu và Ý là tớ.
Cho dù bạn có đi khắp các đền chùa, dù có thực hành 10000 khóa lễ cúng dường, thì tinh túy của việc thực hành đó cũng nằm trọn trong ba điểm cốt yếu này. Chẳng hạn hôm nay chúng ta có thể nghe rằng Đức Phật dạy khi thực hành thiện hạnh, chúng ta sẽ được đón nhận phúc báo. Những thiện hạnh có thể dưới bất cứ hình thức nào mang lại lợi ích cho người khác, có thể là cúng dường chư Phật và chư Bồ Tát, với động cơ thiện lành mong nguyện lợi ích cho chúng sinh, hoặc cũng có thể là một thiện hạnh giúp đỡ chúng sinh khác trong cơn nguy cấp. Thiện hạnh cứu trợ chúng sinh không nhất thiết phải sang tận Châu Phi mới làm được. Thí dụ ngay khi tới đây, bạn hòa đồng và tuân theo sự sắp xếp, ngồi ngay ngắn theo hàng, hoặc tiếp đón đạo hữu, tất cả những điều đó đều giúp bạn tích lũy công đức. Bất cứ sự cúng dường nào cũng đều mang lại công đức. Và trên con đường tu tập thực hành, chúng ta cũng có phương tiện tịnh hóa để tiêu trừ nghiệp báo khi mắc phải những nghiệp bất thiện. Vì sao chúng ta phải cúng dường rất nhiều – chẳng hạn như hôm nay có thể không nhiều phẩm vật cúng dường so với những dịp khác, nếu bạn biết chúng ta quán tưởng phẩm vật cúng dường như thế nào chắn hẳn bạn sẽ vô cùng ngạc nhiên.
Chúng ta quán tưởng những thiên nữ trong vũ điệu cúng dường. Vô số thiện nam tín nữ cùng phẩm vật như nhà cửa, xe cộ, vô số phẩm vật và nhã nhạc ngân vang, trong Kim Cương thừa chúng ta thường xuyên sử dụng âm nhạc. Vì sao bạn thường cầu nguyện thầm, trí tụng thầm, mọi thứ đều tiến hành trong lặng lẽ, vậy mà các nghi thức lại thường dùng rất nhiều pháp khí âm thanh. Có thể ngày nay bạn nhìn những pháp khí này và cảm thấy xa lạ, song cách đây hàng ngàn năm đây lại là những pháp khí vô cùng quen thuộc, giống như nhạc rock thời nay vậy. Có thể bạn vẫn thắc mắc, cho dù trống và linh có là những thứ quen thuộc trong thời quá khứ, vì sao chúng ta lại cúng dường âm thanh này lên chư Phật ? Có hai lý do, song cả hai đều không phải vì chư Phật thích âm nhạc từ những pháp khí này. Lý do thứ nhất là sự nhìn nhận theo nhân quả: bất cứ thứ gì chúng ta yêu thích – chẳng hạn nếu chúng ta muốn sức khỏe, bạn cần thực hành bố thí thuốc men, như vậy bạn sẽ gieo nhân mang lại sức khỏe cho chúng sinh. Nếu bạn muốn luôn được nghe những điều tốt đẹp, những âm thanh dễ chịu, những điều êm tai, mọi người không la hét cáu gắt với bạn suốt ngày, bạn muốn Sếp luôn nói nhẹ nhàng với bạn, như vậy hàng ngày chúng ta cần nói những điều dễ chịu, mềm mỏng với những người xung quanh.
Khi thực hành Phật Pháp – chúng ta cúng dường âm thanh nhã nhạc, đây là nhìn từ góc độ nhân quả. Như tôi đã nhắc ở trên, cốt yếu của Phật Pháp không nằm ngoài 3 điều – tích lũy công đức, đoạn trừ bất thiện nghiệp và điều phục tâm mình. Như vậy nếu nhìn từ góc độ điều phục tâm, chúng ta cúng dường âm nhạc lên chư Phật, giống như bất cứ khi nào cúng dường, chúng ta đều thực hành buông xả. Cho dù bố thí một đô la cho người hành khất, chúng ta cũng cần buông xả. Như vậy trong tâm chúng ta cũng buông xả âm thanh nhã nhạc để cúng dường lên chư Phật. Điều này có ý nghĩa khác biệt như thế nào ? Loài người chúng ta thường bám chấp mạnh mẽ vào âm thanh mà không chịu hiểu rằng âm thanh vốn là không. Chẳng hạn khi ai đó nói bạn là người tốt thì lập tức miệng bạn sẽ nở nụ cười rất tươi. Chỉ hai phút sau, nếu có ai đó nói bạn là người xấu, thì ngay lập tức tâm trạng bạn sẽ thay đổi. Thực chất khi có ai nói bạn tốt hay xấu, bạn sẽ không đẹp hơn, xấu hơn, gầy hay béo hơn. Tất cả chỉ là âm thanh. Xét theo khoa học, âm thanh được tạo nên từ sự rung động của các nguyên tử vô cùng nhỏ - trong đó chẳng có gì tốt, xấu, vui buồn. Chính sự bám chấp vào âm thanh khiến chúng ta thấy vui hay buồn. Do vậy khi cúng dường âm nhạc lên chư Phật, chúng ta thực hành đoạn trừ tâm bám chấp vào âm thanh của chúng ta – tức là tâm tạo tác khiến chúng ta phân biệt âm thanh thành hay dở, khen chê, trách móc hay chỉ trích. Mọi trải nghiệm vui buồn của chúng ta cũng vậy, mà chúng ta thường gọi là ngũ trần, khởi nguồn từ ngũ căn của chúng ta. Chúng ta thích những thứ mềm mại, không thích những gì thô cứng. Chúng ta thích những thứ đẹp đẽ, không thích đồ xấu xí. Tương tự như vậy, từ âm thanh, mùi vị, đều bắt nguồn từ ngũ giác của chúng ta. Chúng ta có những thứ mình yêu thích hoặc ham muốn. Vậy nên chúng ta có thể cúng dường lên chư Phật bất cứ thứ gì mà ngũ căn của chúng ta yêu thích.
700
Nói như vậy để bạn hiểu được vì sao chúng ta lại có những thiên nam, thiên nữ trong vũ điệu cúng dường – bởi sự liên hệ với sự bám chấp vào nhãn căn (mắt nhìn). Như vậy chúng ta cúng dường những thứ tốt đẹp – mỹ nam, mỹ nữ, nhà cửa – bất cứ thứ gì mắt chúng nó nhìn thấy và cho là đẹp, đều có thể cúng dường lên chư Phật. Mấu chốt ở đây không phải là chư Phật thích những thứ này, mà đây là những thứ do nghiệp lực khiến chúng ta nảy sinh tham muốn và khởi tâm bám chấp – vì vậy chúng ta cần đoạn trừ tâm bám chấp này. Do đó, chúng ta có thể cúng dường bất cứ thứ gì có thể cuốn hút ngũ căn của chúng ta, như hoa đẹp, quả ngon, quần áo, trang sức – chúng ta cúng dường tất cả những thứ này lên chư Phật bởi chúng làm tăng trưởng tâm tham muốn và bám chấp mạnh mẽ của chúng ta. Mục đích không phải làm hài lòng chư Phật hay không, cho dù bạn có cúng dường một triệu đô la hay chỉ một hòn đá bình thường, đối với Phật đều như nhau. Bạn có phỉ báng hay tán thán chư Phật cả ngày cũng chẳng khác gì nhau, các Ngài sẽ chẳng hề động tâm. Chỉ có chúng ta sẽ gánh lấy nghiệp báo hay tích lũy công đức tùy theo hành động của mình, còn đối với chư Phật sẽ không có bất cứ sự phân biệt nào. Điều quan trọng là sự tác động đối với tâm chúng ta, vì vậy trong Đại Thừa hoặc Kim Cương Thừa, khi chúng ta cúng dường, chẳng hạn hôm nay chúng ta chỉ có vài bông hoa để cúng dường, song chúng ta vẫn quán tưởng toàn vụ trụ ngập tràn những bông hoa tươi đẹp. Chúng ta có thể cúng dường lên chư Phật cả Hong Kong. Cho dù chúng ta không có toàn quyền đối với Hong Kong, song chúng ta vẫn có thể quán tưởng như vậy. Và chúng ta vẫn tích lũy nhiều công đức, bởi tất cả đều bắt nguồn từ tâm chúng ta và giúp chúng ta đoạn trừ bám chấp. Đó chính là cách mọi thứ đang diễn ra.
Trích Khai thị của Đức Nhiếp Chính Vương Gyalwa Dokhampa về Pháp tu Lục Độ Mẫu Tara, tháng 1 năm 2013 tại Hong Kong
Nguồn: drukpavietnam.org
TAG: /
http://drukpavietnam.org/sites/defau...?itok=uDOQtpY2
http://drukpavietnam.org/sites/defau...?itok=0cdpuIhC
http://drukpavietnam.org/sites/defau...?itok=BrU8Faa2
http://drukpavietnam.org/sites/defau...?itok=JJ5a5EZz
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...32778367_n.jpg
http://vajrayanapractice.com/y-nghia...uong-thua.html
Cách Thực Hành Cúng Dàng Âm Nhạc Qua Tiếng Chuông
10/23/2017
Ý nghĩa chuông và chày kim cương
Chuông Kim Cương là Pháp khí phổ biến nhất, không thể thiếu trong nghi lễ Mật thừa Phật giáo. Trong nghi thức Mật thừa, chuông Kim Cương là một cặp với chày Kim Cương. Chày Kim Cương biểu trưng cho lòng từ bi của chư Phật và nguyên lý phụ tính; còn chuông biểu trưng cho trí tuệ, nguyên lý mẫu tính. Để có thể thành tựu đại giác ngộ, hai nguyên lý này phải được kết hợp với nhau. Chuông được quán tưởng là sắc thân Phật, chày được quán tưởng là tâm Phật, và âm thanh của chuông được quán tưởng là kim khẩu Phật khi đang thuyết pháp.
Việc sử dụng chuông và chày Kim Cương có thể khác nhau phụ thuộc vào những nghi lễ tâm linh được cử hành hoặc nghi quỹ tán tụng. Chày Kim Cương được sử dụng để quán tưởng hay triệu thỉnh các Bản tôn; lắc chuông để thỉnh cầu sự hộ trì hay những gia trì khác từ một Bản tôn, việc lắc chuông biểu trưng cho giáo pháp hay cũng có thể là cúng dàng âm thanh. Lấy một ví dụ về cách sử dụng của hai pháp khí này. Khi thiền định Bản tôn Vajrasattva Kim Cương Tát Đỏa, chày Kim Cương được đặt trước ngực của hành giả, có nghĩa là Bản tôn Vajrasattva Kim Cương Tát Đỏa sẽ dung nhập vào hành giả và trở thành bất khả phân với hành giả. Việc lắc chuông lúc này biểu trưng cho diệu âm Phật thuyết Pháp, đồng thời cũng biểu trưng cho sự chứng đạt trí tuệ và hiểu biết tính không.
Bản tôn Vajrasattva Kim Cương Tát Đỏa
Lợi ích của việc cúng dàng âm nhạc qua tiếng chuông
Nếu chí thành cúng dàng âm thanh vi diệu của tiếng chuông, hay chũm chọe (một Pháp khí trong nghi lễ Mật thừa), bạn sẽ tích lũy vô lượng công đức để có được một giọng nói ấm áp, truyền cảm, một đời sống trường thọ, không ốm đau bệnh tật, được tái sinh trong gia đình danh giá, có tướng mạo đẹp đẽ, nhiều tài bảo và tiếng nói trong xã hội. Vì công đức của việc cúng dàng âm thanh là không thể nghĩ bàn, bạn nên nỗ lực thực hành pháp cúng dàng này.
Với giọng nói ấm áp, truyền cảm, bạn sẽ có năng lực thu hút rất nhiều chúng sinh khác để giúp họ thành tựu giác ngộ. Điều này cũng giống như sự hấp dẫn của các ca sĩ nổi tiếng thế giới đối với người hâm mộ. Nếu bạn cúng dàng âm thanh của tiếng chuông lên chư Phật, đó chính là nhân duyên để bạn đạt được khẩu khác ngộ toàn hảo. Ngay cả khi bạn cúng dàng âm thanh lên chư Phật không bằng động cơ Bồ đề tâm, mà vẫn còn tâm bám chấp che chướng, do tám pháp thế gian (Bát Phong) làm mê mờ, bạn vẫn có thể gieo nhân duyên tốt lành để thành tựu giác ngộ, đạt đến hạnh phúc toàn giác và quả vị tối thượng. Bạn sẽ giải thoát khỏi mọi khổ đau trong luân hồi sinh tử, tận diệt mọi nhiễm ô và hữu lậu nghiệp. Nếu bạn vẫn còn phải tái sinh, bạn sẽ sống cuộc đời hạnh phúc trong vô lượng kiếp vị lai và tái sinh vào cảnh giới tốt lành. Vì vậy, thực hành cúng dàng âm nhạc qua tiếng chuông lên chư Phật là phúc duyên quý báu giúp chúng ta tích lũy vô lượng công đức. Cho dù chỉ là cúng dàng một tiếng chuông cũng có đầy đủ năng lực mạnh mẽ giúp bạn tích lũy vô số thiện nghiệp, sống đời sống trường thọ, thành đạt và viên mãn mọi tâm nguyện thế gian. Lợi ích cúng dàng tiếng chuông thật vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn!
Cúng dàng tiếng chuông trong Bảo tháp, ngôi chùa
Theo kinh điển, tiếng chuông chùa có năng lực trên thấu cõi trời dưới thấu địa phủ, chúng sinh nào bị đọa nơi địa ngục u ám hay đang lang thang nơi sáu nẻo luân hồi nhờ tiếng chuông này liền được giải thoát.
Nếu bạn cúng dàng tiếng chuông trong một Bảo tháp, bất kỳ ai ở gần quanh khu vực đó nghe được âm thanh của chuông Kim Cương sẽ tịnh hóa mọi bất thiện nghiệp, bao gồm cả nghiệp báo của ngũ nghịch trọng tội (giết cha, giết mẹ, giết các vị A-la-hán, làm thân Phật chảy máu, phá hòa hợp Tăng). Đồng thời, nếu bạn phạm phải mười ác nghiệp trong đời sống thường nhật, những ác nghiệp cũng sẽ được tịnh hóa. Vì vậy, năng lực của tiếng chuông vô cùng mạnh mẽ, vi diệu.
Mỗi khi quay Kinh luân, tiếng chuông phát ra từ Kinh luân cũng là một cách bạn thực hành cúng dàng âm nhạc.
Trong chùa hay ở tự viện, mục đích thỉnh chuông không chỉ để vân tập đại chúng hoặc báo hai thời công phu sớm tối. Bạn hãy quán tưởng rằng, mỗi lần gióng lên một hồi chuông là một lần bạn chí thành cúng dàng âm thanh vi diệu lên Kim Cương Thượng sư, Tam bảo, Tam Căn bản và mười phương ba đời chư Phật, cùng tất cả các biểu tượng giác ngộ linh thiêng trong hết thày mười phương. Bằng cách thực hành như vậy, mỗi âm thanh vang lên sẽ giúp bạn tích lũy vô lượng công đức và gieo nhân thiện lành hướng tới giác ngộ giải thoát, và đạt được hạnh phúc chân thật trong vô số kiếp vị lai. Ngay trong đời sống này, mọi tâm nguyện vì hạnh phúc của cá nhân và lợi ích của chúng hữu tình đều được thành tựu viên mãn.
Thực hành cúng dàng âm nhạc
Động cơ đúng đắn
Bạn hãy phát nguyện rằng:
“Mục đích của đời sống là giải thoát tất cả chúng sinh mẹ vô biên như hư không khỏi biển khổ luân hồi và dẫn dắt họ đến bờ giải thoát, con xin thành tâm cúng dàng âm thanh vi diệu này lên Bậc Kim Cương Thượng sư bất khả phân với chư Phật chư Bồ tát mười phương”.
Chuẩn bị về thân
Bạn hãy phát nguyện rằng:
“Con xin cúng dàng diệu âm của Chuông Kim cương lên Căn bản Thượng sư, tổng nhiếp của Tam bảo, Tam căn bản, chư Phật và chư Bồ tát mười phương, cùng hết thảy tôn tượng, bảo tháp, kinh điển trong khắp pháp giới là hiện thân của Căn bản Thượng sư”.
Sau đó bạn thỉnh một hồi chuông.
Khi tiếng chuông ngân vang, bạn hãy quán niệm rằng: chúng sinh hữu tình trong sáu cõi đều đang lắng nghe Pháp âm thanh tịnh thù thắng này. Âm thanh của tiếng chuông nêu biểu “tính không viên biến khắp pháp giới”. Tất cả chúng sinh nghe thấy tiếng chuông, đều thụ nhận giáo pháp tính không, chứng ngộ tính không và giải thoát hoàn toàn khỏi biển luân hồi đau khổ. Với sự trợ giúp của tâm Bồ đề, chúng sinh sẽ thành tựu con đường Bồ tát đạo, thân vật lý chuyển hóa thành Sắc thân, ý thô lậu chuyển hóa thành Pháp thân. Bạn có thể quán tưởng bất kỳ vị Phật Bản tôn nào tùy theo tâm nguyện. Bạn cũng có thể vừa thiền định vừa thỉnh chuông. Nhưng trong suốt thời khóa thực hành, hãy phát nguyện hồi hướng: “Mọi công đức cúng dàng âm thanh vi diệu của chuông Kim Cương, con xin hồi hướng cho tất cả chúng sinh đều thành Phật đạo!”.
Bạn hãy trì tụng lời kệ sau:
“Nguyện tiếng chuông này vang pháp giới,
Thiết vi tăm tối thảy đều nghe,
Nghe rồi thanh tịnh chứng viên thông
Hết thảy chúng sinh thành chính giác”.
Giai đoạn hoàn thiện: Hồi hướng
Thông qua thực hành cúng dàng tiếng chuông với động cơ Bồ đề tâm chân chính, bạn đã tích lũy vô lượng vô biên công đức. Bởi Căn bản Thượng sư là hiện thân của vô số chư Phật, công đức cúng dàng lên Căn bản Thượng sư chính là công đức cúng dàng lên mười phương ba đời chư Phật chư Bồ tát cùng hết thảy các tôn tượng, bảo tháp, Tăng chúng hiện diện khắp mười phương pháp giới.
Bạn hãy phát tâm hồi hướng công đức cúng dàng tiếng chuông từ vô số kiếp quá khứ, hiện tại, vị lai và nhân duyên thành tựu giác ngộ cho tất cả chúng sinh, viên mãn mọi tâm nguyện, tịnh trừ mọi phiền não, nhanh chóng đạt đến quả vị giác ngộ. Khi đó, công đức của bạn sẽ tăng trưởng gấp nhiều lần.
Tiếp theo, bạn hãy hồi hướng hết thảy công đức tích lũy được từ việc cúng dàng diệu Pháp âm từ chuông Kim Cương cho tất cả chúng sinh mẹ, xin phát nguyện nhận hết thảy khổ đau của chúng sinh và đem hạnh phúc ban trải khắp pháp giới hữu tình.
“Nương công đức con và tất cả chúng sinh tích lũy ba đời, nguyện cầu suối nguồn tâm Bồ đề chảy mãi trong tâm con và tất cả chúng sinh không một giây phút nào ngưng nghỉ. Nguyện cầu tâm Bồ đề ngày một tăng trưởng không chút thoái chuyển”.
“Nương công đức tu tập này, nguyện tất cả chúng sinh nhiều đời nhiều kiếp đã từng là cha mẹ con đều đạt được chân hạnh phúc, nguyện chúng sinh đang ở ba cõi thấp đều được giải thoát. Nguyện bất cứ nơi nào có sự thị hiện của chư Bồ tát, mọi tâm nguyện đều được viên mãn”.
“Nương công đức tu tập đã tích lũy ba đời, nguyện con và tất cả chúng sinh xả bỏ được bản ngã, nhanh chóng chứng đạt giác ngộ, hay nhận ra Trí Tuệ Bản Lai vốn tồn tại trong mỗi người. Nguyện con có đủ năng lực và công đức để dẫn dắt chúng sinh đến bờ giải thoát và chứng đạt tự tính Phật”.
Nghi thức thỉnh Đại Hồng Chuông
(Mỗi một O là một hồi chuông)
1. Khai chuông đỉnh lễ, kệ quý cao ngâm.
Trên thông cõi trời, dưới thấu địa phủ. O
Nam mô tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật (1 lạy).
2. Trên chúc đạo Phật tăng huy, pháp luân thường chuyển.
Mưa hòa gió thuận, nước thịnh dân an. O
(Sau mỗi tiếng chuông O đều xướng Nam mô tiếp dẫn…… như trên)
3. Ba cõi bốn loài, luân hồi đều thoát.
Sáu đạo quần mê, đồng về cõi Phật. O
4. Năm gió mười mưa, khỏi nạn đói thiếu.
Bốn phương cánh đồng hưởng ngày Nghiêu Thuấn. O
5. Chiến tranh chấm dứt thiên hạ thái bình,
Những người chết trận đều sinh Tịnh-độ. O
6. Muôn loài cầm thú không còn sa lưới.
Những người phiêu bạt quê hương sớm về. O
7. Khắp cả thế giới cùng đều trường thọ.
Tín thí gần xa phước tuệ viên tròn. O
8. Cửa thiền hưng thịnh, Phật pháp lâu dài.
Thổ địa long thần an tăng hộ pháp. O
9. Cha mẹ Thầy Tổ, thân thuộc mất còn.
Đều chung hưởng lợi lên bờ giải thoát. O
– Chuông 2 đỉnh lễ……
– Chuông 3 đỉnh lễ……
(Mỗi lần đủ 9 câu trên).
* Giờ con xin đánh chuông này
Tiếng chuông vang khắp mọi nơi xa gần.
Ai nghe thấy lòng trần nhẹ bỗng
Đạo Bồ-đề được chứng lên ngay. O
* Những loài khổ não xưa nay
Bao nhiêu nghiệp chướng từ rày sạch không.
Các địa ngục đều cùng giải thoát
Chúng sinh đều mát mẻ tiêu dao. O
* Bước lên đường chánh cùng nhau
Thẳng về An Lạc ở lầu Liên Hoa.
Ám già ra đế da sa bà ha (3 lần) O
* Bao loài đọa làm ma quỷ đói
Hết thảy đều thoát khỏi trầm luân.
Đều cùng chứng được chân thân
Tháng ngày hưởng thọ muôn phần an vui. O
* Loài súc sinh suốt đời chịu khổ
Sống đọa đày, chết đủ đắng cay.
Cầu cho qua khỏi kiếp này
Khai minh trí tuệ sen vàng nở hoa. O
* Cõi nhân gian muôn ngàn thảm họa
Đã bao lần vất vả lầm than.
Cầu cho tai ách tiêu tan,
Gây nên thế giới hoàn toàn yên vui. O
* Đạo Tu-la suốt đời mang giận
Đã gây thành bao trận chiến tranh.
Cầu cho đổi giận làm lành
Để cho thiên hạ thái bình thảnh thơi. O
* Cảnh thiên giới là nơi mê đắm
Nguyện mau mau giác tỉnh kịp thời.
Chúng sinh nào có phước duyên
Cầu về An Lạc như nguyền tới nơi. O
Bạn hãy phát nguyện rằng: “Nương ân phúc gia trì của chư Phật chư Bồ tát mười phương, nương năng lực của động cơ tu tập thanh tịnh, xin nguyện tất cả lời thỉnh cầu vì lợi ích của tất chúng sinh hữu tình đều được viên mãn”.
Nhóm ĐBT biên soạn
Nguồn: http://daibaothapmandalataythien.org
TAG: /
http://daibaothapmandalataythien.org...?itok=l6VSrkOr
http://daibaothapmandalataythien.org...?itok=4a9daZOT
http://daibaothapmandalataythien.org...?itok=QVqXGT3P
http://daibaothapmandalataythien.org...?itok=9NFLhf4j
http://daibaothapmandalataythien.org...?itok=8TJtZ3cM
http://daibaothapmandalataythien.org...?itok=3V-9dZs2
http://daibaothapmandalataythien.org...?itok=L-RFeBpv
http://vajrayanapractice.com/cach-th...ng-chuong.html
Phong Trào Bất Bộ Phái Rimé
10/17/2017
Ri tiếng Tây Tạng có nghĩa là 'biên giới' và Mé có nghĩa là 'không'... Rimé nghĩa là không có biên giới, trong tinh thần tôn trọng, hài hoà, và không chia rẽ bộ phái...
Rimé Là Gì ?
Một vài người có thể nghĩ rằng Rimé (Rimed, đọc là Rimê) là một truyền thống riêng biệt trong Phật Giáo Tây Tạng, hay đó là một truyền thống mới, tách biệt khỏi các dòng truyền thừa khác. Cả hai điều này đều không đúng. Thật ra, đây là một phong trào được các ngài Jamgon Kongtrul (Kagyu), Jamyang Khyentse Wangpo (Nyingma), Chogyur Dechen Lingpa (Sakya) khởi xướng vào cuối thế kỷ 19, nhằm đánh giá sự khác biệt giữa các tông phái Tây Tạng và thừa nhận tầm quan trọng của sự khác biệt này để mang lại lợi ích cho các hành giả với những căn cơ và nhu cầu khác nhau.
Chư Đạo Sư Phong Trào Rimé
Các bậc thầy Rimé hoặc là được dạy dỗ theo một một truyền thống riêng biệt, và qua chứng ngộ của mình, họ nhận ra điều cốt lõi của truyền thống này cũng có giá trị như các truyền thống khác, hoặc họ đã thành tựu được những hiểu biết uyên thâm từ tất cả các truyền thống khác nhau.
Các bậc thầy Rime vĩ đại như ngài Jamgon Kongtrul và Ngài Jamyang Khyentse Wangpo, Chogyur Dechen Lingpa không từng học một truyền thống đặt biệt nào gọi là Rimé. Thay vào đó, họ được thọ giáo với một dòng truyền thừa, và rồi họ nhận ra sự tương đồng giữa các tông phái Phật giáo khác nhau tại Tây Tạng. Ví dụ, ngài Jamgon Kongtrul được thọ giáo với truyền thống Kagyu, trong khi ngài Khyentse Wangpo nguyên thuỷ lại là người nắm giữ dòng Sakya.
Cũng có rất nhiều bậc thầy Rimé của dòng Nyingma như ngài Patrul Rinpoche và Jigme Tenpe Nyima. Trong truyền thống Jonang cũng có rất nhiều các bậc thầy Rimepas vĩ đại, như ngài Kunga Dolchog, người mà ngay từ rất sớm ở giữa thế kỷ 15 đã tổng hợp các phương pháp tu tập và quán đảnh của từng truyền thống Phật giáo Tây Tạng trong tài liệu Jonang Tridgyapa (mang tên này vì được soạn bởi Lạt ma Jonang). Sau này, ngài Jamgon Kongtrul Vĩ Đại đã sử dụng tài liệu này như nền tảng cho một tác phẩm chi tiết hơn, Rinchen Terzod.
Tại Sao Phong Trào Rimé Quan Trọng?
Theo truyền thống, các hành giả Phật giáo Tây Tạng luôn nhấn mạnh đếnn tầm quan trọng của các quan niệm và giáo huấn của dòng truyền thừa riêng của họ. Điều này rất quan trọng để gìn giữ tính xác thực của các giáo huấn. Thêm vào đó, rất nhiều hành giả sẵn sàng dành cả đời mình trong một tu viện đồng thời dành toàn bộ thời gian và sức lực để hiểu thấu đáo những giáo huấn tinh tuý theo một truyền thống cá biệt nên họ không còn thời gian để khám phá điều gì khác. Theo phương thức tu tập này, có nguy cơ là một số hành giả không thể cởi mở đối với các quan niệm cũng như các giá trị tốt đẹp của các truyền thống khác.
Một lý do khác làm cho Rimé trở nên quan trọng là sự liên hệ giữa các tu viện có thể bị hạn chế và một vài tu viện có khuynh hướng sinh hoạt độc lập theo khuôn mẫu riêng. Và cũng không giống như ở các nước phương Tây, việc đi lại ở Tây Tạng rất hạn chế, không có điện thoại, không có truyền hình và không có báo chí. Do đó, nhiều người không có cơ hội để khám phá và phát triển lòng tôn kính đối với các truyền thống khác.
Thêm vào đó, có rất nhiều học giả uyên thâm đã phê phán quan niệm của các truyền thống khác với một dụng ý vị kỷ là giúp cho đệ tử của mình có thể đánh giá cao các giáo huấn của họ. Tuy nhiên, điều này đôi khi trở nên hơi thái quá và một vài đệ tử có thể nuôi dưỡng thái độ coi thường các truyền thống khác, và cho rằng các truyền thống khác, theo một cách nhìn hạn hẹp nào đó, là thấp kém.
Tôn Trọng Giáo Huấn Của Tất Cả Các Dòng Truyền Thừa...
Nói tóm lại, phong trào Rimé là một phong trào hợp thời có thể mang lại các kết quả vĩ đại. Điều này có được là nhờ rất nhiều vào hai vĩ nhân của thế kỷ 19, ngài Jamgon Kongtrul và Khyentse Wangpo và. Không có các nỗ lực phi thường của các ngài trong việc sưu tầm và truyền dạy các giáo huấn khác nhau, rất có thể nhiều tài liệu Phật giáo tại Tây Tạng đã bị thất truyền.
Phong trào này cũng giúp phá bỏ truyền thống tôn sùng một dòng truyền thừa duy nhất, vì điều đã cô lập một số tông phái này với các tông phái khác. Phong trào Rimé đã thiết lập nên một nền móng vững chãi mà từ đó nhiều người có thể nhìn thấy được tất cả các tông phái đều có cùng một trọng tâm. Trên thực tế, chính Đức Phật cũng đã ngăn cấm đệ tử của mình phê phán các vị thầy và những lời giáo huấn từ các truyền thống và văn hoá khác nhau. Đây cũng chính là những gì Rimé thể hiện.
Các truyền thống của Phật Giáo Tây Tạng được liên kết vào nhau xuyên qua qua sự giảng dạy trao truyền, các lễ điểm đạo và các giáo huấn tinh yếu, và tất cả các dòng truyền thừa đều có liên hệ mật thiết với nhau. Vì lý do này, chỉ biết tôn kính một truyền thống với lòng thiên vị, hay cho rằng truyền thống này có giá trị hơn một truyền thống khác, là một sai lầm. Vì tất cả các truyền thống đều cũng chỉ là một con đường giống nhau: con đường đưa hành giả đến với từ bi và trí tuệ -- mỗi truyền thống đều có lợi ích để phù hợp với căn cơ khác biệt của mỗi chúng sinh.
Con Đường Bất Bộ Phái Trong Thế Kỷ 21...
Như những vị Tổ khai sáng của phong trào Rimé đã giải thích, sự nghiên cứu và tôn trọng những gì mà tất cả các truyền thống khác nhau đem lại sẽ giúp cho chúng ta có thể tránh được định kiến, mở rộng tầm nhìn của một người Phật tử trong truyền thống Phật Giáo Tây Tạng chân chính.
Cũng như vậy, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã được dạy dỗ và giáo dục theo truyền thống Gelug. Tuy nhiên, giờ đây ngài được tôn vinh như một người không chỉ thấu hiểu mà còn chứng ngộ được các quan điểm của tất cả các truyền thống Tây Tạng mà ngài đều tôn trọng như nhau. Vì vậy chúng ta thực sự có thể nói rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma là một bậc thầy Rimé vĩ đại, chứ không chỉ là người đứng đầu tông phái Gelug. Ngài đã làm một việc đáng kinh ngạc bằng cách tu học, duy trì các giáo huấn và các luận giải của tất cả các truyền thống Phật Giáo Tây Tạng.
Tài liệu trên đây được lược dịch và hiệu đính từ trang nhà www.rimebuddhism.com.
Phong Trào Bất Bộ Phái Rimé - Khentrul Rinpoche
Phong Trào Rimé Của Ngài Jamgon Kongtrul Vĩ Đại - Ringu Tulku
TAG: /
http://vajrayanapractice.com/phong-t...phai-rime.html
Lịch sử Truyền Thừa Kagyu
10/19/2017
Kagyu là dòng Khẩu Truyền (hoặc có khi còn được gọi là Nhĩ Truyền) do chư đạo sư trực tiếp truyền lại cho đệ tử, từ miệng của Thầy qua tai của trò, chứ không qua văn tự. Dòng Kagyu gồm nhiều tông phái với các vị Tổ khác nhau gồm:
* Karma - Kagyu
* Drikung - Kagyu
* Drukpa - Kagyu
* Shangpa - Kagyu
* Taklung - Kagyu
* Barom - Kagyu
http://vajrayanapractice.com/lich-su...hua-kagyu.html
Tam Căn Bản (Lama, Yidam, Khandro)
10/22/2017
Ngoài phần quy y Tam Bảo, trong Kim Cương thừa chúng ta có thêm Tam Căn Bản hay ba đối tượng quy y căn bản nữa gồm Thượng sư (Guru), Bản tôn (Ydam), Không Hành (Dakini). Trong truyền thống Kim Cương thừa, đối tượng quy y quan trọng nhất được mọi hành giả hướng tới là Kim cương Thượng sư, được nhìn nhận bất khả phân với vị Phật Bản tôn.
2. Tam Căn bản
2.1. Căn bản Kim cương Thượng sư
a. Tầm quan trọng của Căn bản Kim cương Thượng sư:
Tầm quan trọng của Căn bản Kim cương Thượng sư
Thượng sư theo tiếng Phạn gọi là “Guru”, có nghĩa là hợp nhất của tất cả sự thành tựu, là Bậc thầy linh thiêng tôn quý, hiện thân của mọi phẩm hạnh giác ngộ.
Đối với thực hành Kim Cương thừa, tất cả mức độ tu tập từ mới nhập môn đến cao cấp như Đại Thủ Ấn (Mahamudra), Đại Toàn Thiện (Dzogchen) đều đặt Thượng sư làm trung tâm của pháp thực hành. Do đó hành giả cần trưởng dưỡng tín tâm nơi Thượng sư - bậc giác ngộ có khả năng hướng đạo, dìu dắt chúng sinh chứng đạt giác ngộ giải thoát. Bởi vậy, trong phần Quy y quan trọng nhất là bạn phải phát tâm chí thành, tha thiết nguyện cầu quy y bậc Kim Cương Thượng sư.
Căn bản Thượng sư là điều kiện tiên quyết để thành tựu giác ngộ
Do vô minh nghiệp chướng, chúng ta chưa thể đón nhận trực tiếp giáo Pháp của chư Phật, Bồ Tát, không có đủ phúc duyên để hạnh ngộ và đón nhận giáo pháp trực tiếp từ Đức Phật Thích Ca, mà chỉ có thể đón nhận giáo pháp thông qua các Bậc thầy tâm linh giác ngộ.
Theo truyền thống Kim Cương thừa, Căn bản Thượng sư chính là tổng nhiếp của Phật, Pháp, Tăng. Ngài là bậc thành tựu giả đã đạt được chứng ngộ trong hình tướng loài người. Vì đã đạt giác ngộ nên các Ngài tự chủ động hóa thân chuyển thế để trở lại thế gian trong các hình tướng khác nhau và hướng đạo cho chúng sinh theo nhiều phương pháp như Nguyên thủy, Đại thừa hay Kim Cương thừa.
Bằng cách tin Thượng sư là Phật, chúng ta có thể tiếp cận và đón nhận ân phúc gia trì, sự giáo dưỡng của Đức Như Lai, kết nối trực tiếp với tâm giác ngộ của chư Phật, chư Thượng sư và cuối cùng để có thể chứng ngộ tự tính Phật sẵn có nơi mình.
Căn bản Thượng sư là cội nguồn của ân phúc gia trì
Trong Tam Căn Bản, bậc Thượng sư được coi là cội nguồn của ân phúc gia trì bởi Ngài luôn ban trải phẩm tính từ bi và trí tuệ đồng thời trực tiếp dẫn dắt chúng ta trên con đường trưởng dưỡng từ bi trí tuệ hướng đến chứng đạt giác ngộ. Ân phúc gia trì của Thượng sư đồng nghĩa với sự trưởng dưỡng tâm chí thành hay trí tuệ giác ngộ nơi hành giả.
Thượng sư thực chất chính là Phật hay phẩm tính giác ngộ toàn hảo. Quan kiến của hành giả về bậc Căn bản Thượng sư sẽ cho thấy hành giả đang ở mức độ nào trên hành trình giác ngộ. Trong Kinh nói rằng nếu chỉ nhìn nhận Thượng sư như một bậc Thầy thế gian thông thường thì hành giả chưa trưởng dưỡng được tâm chí thành và chưa đi vào con đường Kim Cương thừa, bởi vai trò của bậc Thượng sư chưa được nhìn nhận và phát huy một cách đúng đắn. Nếu hành giả có quan kiến thanh tịnh nhìn Thượng sư như một Bồ tát, điều đó có nghĩa hành giả đã trưởng dưỡng tâm chí thành ở mức độ cao hơn và kết quả sẽ đón nhận được ân phúc gia trì của Bồ tát. Nếu hành giả nhìn nhận bậc Căn bản Thượng sư của mình như một vị Phật thì hành giả có thể tích lũy vô lượng công đức và đón nhận ân phúc gia trì của Phật. Một cách rốt ráo, nếu nhìn nhận bậc Thượng sư chính là chân lý vũ trụ và có thể hợp nhất bất khả phân với tâm giác ngộ của Ngài, hành giả trưởng dưỡng được tâm chí thành tuyệt đối, viên mãn thành tựu tâm linh. Như vậy, tâm chí thành thanh tịnh hướng đến Thượng sư là nền tảng của sự thành tựu trên con đường Kim Cương thừa. Tương ứng với quan kiến thanh tịnh là sự gia trì của Thượng sư, vì thế chúng ta nói rằng Thượng sư chính là thước đo công đức hay hiện thân phúc điền của hành giả.
b. Thượng sư là tinh túy của Quy y
b.1. Thượng sư nêu biểu Tam bảo
Thượng sư là hiện thân Tam Bảo bởi thân Ngài là Tăng Bảo, tức hiện thân của chư Tăng, khẩu Ngài là Pháp Bảo vì Ngài chuyển tải giáo pháp giác ngộ của Đức Phật tới chúng ta, và cuối cùng, năng lực tu chứng thể hiện qua tâm giác ngộ từ bi của Ngài chính là Phật Bảo.
b.2. Thượng sư nêu biểu Tam Căn bản
Thân của Căn bản Thượng sư là Thượng sư (Guru).
Khẩu của Thượng sư là Bản tôn (Yidam).
Tâm của Thượng sư là Không hành mẫu (Dakini).
Ngài là hiện thân Tam Căn Bản bởi Thân Ngài là thân Truyền thừa Thượng sư, Khẩu Ngài tượng trưng cho Bản tôn hay phương tiện và Tâm Ngài là Dakini hay trí tuệ tính không.
b.3. Thượng sư nêu biểu Tam Thế Phật
Thượng sư là hiện thân của chư Phật quá khứ.
Hóa thân của chư phật hiện tại.
Là cội nguồn của chư Phật trong tương lai.
Thượng sư cũng nêu biểu cho Tam Thế Phật, là hiện thân của ba đời mười phương chư Phật quá khứ, hiện tại và tương lai. Kinh điển dạy rằng mặc dù có vô số Bậc giác ngộ đã viên mãn công đức và thành tựu Phật quả trọn vẹn, nhưng khi còn an trụ trong cảnh giới Pháp thân, với lòng từ bi và trí tuệ vô hạn, các Ngài vẫn tiếp tục hóa thân chuyển thế, hiển hiện nơi nhân gian để không ngừng lợi ích hết thảy hữu tình. Chư Thượng sư như Ngài Tilopa, Naropa, Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa hay tất cả những bậc nắm giữ Truyền thừa đều chính là Đức Phật, các Ngài đều chứng ngộ sự hợp nhất của tâm Đại từ bi và trí tuệ tính không. Qua Pháp mạch truyền thừa giác ngộ của mình, các Ngài hóa thân chuyển thế lợi ích chúng sinh.
b.4. Thượng sư nêu biểu Tam Thân Phật
Thân của Thượng sư là Hóa thân, hiện thân của chân lí tương đối.
Khẩu của Thượng sư là Báo thân quang minh nêu biểu phương tiện.
Tâm của Thượng sư là Pháp thân, là chân tâm chu biến khắp pháp giới và trí tuệ tính không tuyệt đối.
Bậc Căn bản Thượng sư cũng đồng thời tổng nhiếp Tam Thân, thân Ngài là Hóa thân, khẩu Ngài là Báo Thân và tâm Ngài là Pháp thân Phật. Mặc dù bậc Thượng sư thị hiện nhậm vận khắp pháp giới dưới hình thức Tam thân (Pháp thân, Báo thân, Hóa thân). Tuy nhiên, chúng ta chỉ thường thấy Ngài là Hóa thân Phật bởi trong Kinh dạy rằng Bồ tát chứng đắc từ ngôi Địa thứ nhất tới ngôi Địa thứ tám mới có thể thấy được Báo thân Phật. Vì vậy, điều quan trọng là chúng ta cần phải tuyệt đối tin rằng bậc Căn bản Thượng sư chính là hiện thân của chư Phật, Bồ Tát và bất khả phân với chư Phật, Bồ Tát.
c. Phẩm chất giác ngộ nơi Căn bản Thượng sư
Thượng sư là bậc hướng đạo, dẫn dắt đệ tử, hơn nữa đạo giải thoát không phải môn khoa học thông thường mà là khoa học siêu việt về giải thoát khổ đau và luân hồi sinh tử, vậy nên một bậc Thượng sư chân chính cần hội tụ đầy đủ những phẩm hạnh đặc biệt. Thượng sư không chỉ đơn giản là người biết giảng Pháp, quan trọng hơn cả, bậc Thượng sư phải có kinh nghiệm thực chứng và là Bậc thành tựu giác ngộ, viên mãn mọi phẩm hạnh từ bi và trí tuệ.
Vì thế, khi tiếp cận với bậc Thầy, chúng ta phải rất tinh tế và cũng cần phát triển về mặt tâm linh để nhận biết những phẩm hạnh của Thượng sư một cách kín đáo chân thật. Trí tuệ Bát Nhã và tâm từ bi vô điều kiện hướng tới hết thảy chúng sinh là hai phẩm hạnh quan trọng nhất của một Thượng sư chân chính. Hai phẩm hạnh này phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau. Một Thượng sư chân chính phải là bậc đã hoàn thiện viên mãn Đại trí, Đại bi.
d. Ba cấp độ quy y Căn bản Thượng sư
Nhờ quy y bậc Thượng sư bên ngoài, hiện thân của Tam Bảo với các phẩm tính giác ngộ, chúng ta được thụ nhận giáo pháp và dìu dắt hướng đạo. Thông qua việc thực hành giáo pháp và trưởng dưỡng tâm chí thành đối với Thượng sư, chúng ta dần nhận ra bậc Thượng sư bên trong hay trí tuệ có sẵn nơi bản thân. Rốt ráo, chúng ta có thể thực chứng Thượng sư bí mật hay thành tựu giác ngộ. Như vậy, Thượng sư chính là cầu nối đưa hành giả trở về với tự tính tâm trong sáng, Phật tính luôn tiềm ẩn bên trong chính mình.
Quy y bên ngoài
Hành giả đặt trọn niềm tin, tha thiết phát nguyện nương tựa vào Tam Bảo và bậc Thượng sư bên ngoài. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là bậc toàn tri, toàn giác. Ngài đã chỉ bày, dẫn dắt chúng sinh đi trên con đường giác ngộ từ hơn 2.500 năm trước. Những giáo pháp, Kinh điển mà Ngài đã khai thị cho chúng sinh để đạt được giác ngộ chính là Pháp Bảo; còn những người thiết tha tìm cầu giác ngộ, nhất tâm đi trên con đường hướng tới giải thoát đó chính là Tăng Bảo. Trên hành trình tâm linh, bất kỳ ai che chở, nâng đỡ, hướng đạo, giúp bạn khai mở phát triển từ bi, trí tuệ và có một cuộc sống an lạc ý nghĩa, thì đó chính là bậc Thượng sư mà bạn cần hướng tâm chí thành của mình đến.
Quy y bên trong
Quy y bên trong cho bạn biết rằng, chính bản thân mình có đầy đủ cả ba ngôi báu Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo. Bạn không nên xem Phật là đối tượng tồn tại bên ngoài mà Phật tồn tại trong chính bạn, là tâm thanh tịnh từ bi và trí tuệ toàn thiện của bạn. Đây là hai phương diện của tâm mà bạn không thể tìm cầu từ bên ngoài. Vậy nên, con đường tu tập, chuyển hoá bản thân và mong nguyện thực hành để đạt giải thoát giác ngộ cũng nằm ngay trong chính bạn.
Quy y bí mật
Sự hợp nhất giữa Tự tính của vạn pháp (tính không và quang minh) với Đại hỷ lạc (sâu xa và bất biến) phát khởi một cách vô tác. Quy y bí mật thực chứng sự hợp nhất bất nhị này, đó là Trí tuệ bản lai. Vì vậy, Quy y bí mật cũng chính là sự thực chứng thể tính tự nhiên, nguyên thủy của tâm:
Tâm siêu việt thanh tịnh và thủ đắc là Phật.
Tâm bất biến và tinh khiết không tỳ vết là Pháp.
Tâm viên mãn tất cả các phẩm chất giác ngộ là Tăng.
2.2. Bản tôn
Định nghĩa Bản tôn
Một cách tuyệt đối, Bản tôn chính là Phật tính, là tự tính tâm có sẵn trong mỗi chúng sinh. Chư Phật luôn thị hiện quanh chúng ta, nhưng bởi vì nghiệp lực vô minh che lấp, chúng sinh phàm không thể kết nối trực tiếp với sự gia trì. Với lòng từ bi của mình, chư Phật đã thị hiện qua các hình tướng (sắc thân Phật, Kim Cương Hộ Pháp…), âm thanh (chân ngôn)…, để chúng sinh sơ cơ cũng có thể kết nối và thực hành. Vậy một cách tương đối, Bản tôn có thể được hiểu là khía cạnh phương tiện của Phật tính, là cách thức, thứ lớp thực hành.
Trong Phật giáo Kim Cương thừa, các hành giả thực hành quán tưởng về Bản tôn dựa trên nền tảng tâm chí thành. Pháp thực hành Bản tôn bắt nguồn từ những giáo lý thâm sâu của Đạo Phật và sử dụng kỹ thuật vô cùng thiện xảo để đánh thức sự chứng ngộ ở cấp độ sâu sắc nhất.
Chư Phật Bản tôn được quán tưởng là những mẫu hình toàn hảo về năng lượng giác ngộ và công hạnh lợi tha. Các Ngài hoàn toàn không tách rời với cuộc sống và những kinh nghiệm hàng ngày của con người mà chính là sự phản ánh các trạng thái ý thức khác nhau. Đức Phật, Đức Lục Độ Phật Mẫu Tara và chư Bản tôn An bình tượng trưng cho các khía cạnh tâm siêu việt, trong khi đó chư Bản tôn Uy mãnh biểu trưng cho những khuynh hướng bên trong chưa được chuyển hóa như thù hằn, đố kị, tham lam và tội lỗi. Khi chúng ta chưa hiểu bản chất của những năng lượng tiềm ẩn này, chúng sẽ bộc lộ ra ngoài theo hướng tiêu cực. Nhưng khi chủ động nhìn nhận chúng một cách có ý thức, chúng ta sẽ dễ dàng chấp nhận và bao dung hơn với chính bản thân cũng như với mọi người. Về mặt sự tướng, chư Bản tôn hiện diện bên ngoài là đối tượng thiền định hoàn hảo, song về mặt lý, các Ngài nêu biểu cho những năng lượng tích cực và tiêu cực bên trong mỗi người. Vì thế, việc thiền định Bản tôn giúp chúng ta chuyển hóa những năng lượng tiềm ẩn bên trong mình thành năng lực sáng tạo tốt đẹp.
Tầm quan trọng của Bản tôn
Trong Tam Căn Bản, chư Phật Bản tôn là cội nguồn của thành tựu bởi thông qua phương tiện thiện xảo của việc thực hành Bản tôn, chúng ta có thể thực chứng tự tính tâm. Một hành giả tu tập theo Kim Cương thừa coi Phật Bản tôn là một đối tượng cụ thể của thiền định và tìm cách trưởng dưỡng qua trải nghiệm của bản thân về sự hợp nhất với các phẩm hạnh của Thân, Khẩu và Ý Phật hay hiện thân của ba Kim cương giác ngộ: Thân bất biến, Khẩu bất hoại và Tâm bất động. Ba Kim cương Thân, Khẩu, Ý giác ngộ này hoàn toàn siêu việt thân, khẩu, ý thông thường đầy ám chướng và bản năng tập khí. Bằng cách quán tưởng thân khẩu ý là Bản tôn - Chân ngôn - Trí tuệ, chúng ta trở nên cởi mở để đón nhận sự gia trì tuyệt hảo, chuyển hóa thân khẩu ý phàm tình của mình thành ba tự tính Kim cương bất hoại.
2.3. Không hành mẫu
Định nghĩa Không hành mẫu
Nếu Bản tôn là khía cạnh phương tiện của Phật tính, thì Không hành mẫu - Dakini là khía cạnh trí tuệ. Bởi trí tuệ là năng lượng Mẫu tính nên Dakini thường được diễn tả trong hình tướng Phật Mẫu.
Thuật ngữ ‘Dakini’ xuất phát từ tiếng Phạn, từ tiếng Tạng tương đương là Khandro có nghĩa là “Không hành mẫu”. Dakini xuất hiện trong hình tướng nữ giới và thường được chia ra Dakini thế gian và Dakini trí tuệ. Dakini thế gian là những chúng sinh vẫn bị trôi lăn trong các cõi Trời - Người, có thể mang hình tướng đẹp đẽ hay dạ xoa. Các nữ hành giả đã đạt một vài thứ lớp chứng ngộ nhưng vẫn chưa thoát khỏi luân hồi sinh tử cũng được gọi là Dakini thế gian. Dakini trí tuệ là những bậc đã giác ngộ như Đức Kim Cương Thánh Mẫu Vajra Yogini. Theo nghĩa này, Dakini là một trong những đối tượng Quy y của Tam Căn Bản. Mặc dù hiện tướng bên ngoài là nữ giới (tượng trưng cho trí tuệ, năng lượng Mẫu tính) nhưng hiện tướng bên trong của Dakini chính là Trí tuệ Căn Bản hay Tâm giác ngộ của Thượng sư.
Tầm quan trọng của Không hành mẫu
Dakini nêu biểu cảnh giới của sự tỉnh thức được kiểm soát, vững chắc và hoàn toàn tự do. Dakini như thế có khả năng du hí tự tại trong Pháp giới tính không và là cội nguồn của các công hạnh giác ngộ: Tức tai, Tăng ích, Kính ái, Hàng phục vì lợi ích chúng sinh. Thiết yếu của Dakini là trợ giúp và nương sự trợ giúp của Dakini, hành giả thành tựu được sự nghiệp từ giai đoạn sơ phát tâm đến giai đoạn cuối cùng của thành tựu tối thượng. Như vậy, quy y Không hành mẫu Dakini là quy y cội nguồn công hạnh giác ngộ.
Nói chung Dakini tượng trưng cho dòng năng lực Mẫu tính mạnh mẽ năng động mà hành giả Mật thừa phải thực hành để đạt được sự chứng ngộ. Dakini là trí tuệ tính không, được biểu trưng bằng năng lượng Mẫu tính. Khía cạnh còn lại là từ bi hay phương tiện thiện xảo được biểu trưng bằng năng lượng Phụ tính. Tất cả chúng sinh, bất kể nam hay nữ, đều có tiềm năng chứng ngộ tự tính Dakini trí tuệ nơi tự thân. Khi lòng bi mẫn (hay năng lượng Phụ tính) và trí tuệ (năng lượng Mẫu tính) được hợp nhất hoàn hảo, chúng ta sẽ chứng đạt giác ngộ và trở thành Phật.
Nguồn: daibaothaptaythien.org
http://vajrayanapractice.com/tam-can...m-khandro.html
Tiểu Sử Nữ Đạo Sư Jetsunma Ahkon Lhamo
10/22/2017
Jetsunma Ahkon Lhamo là phụ nữ Tây phương đầu tiên được công nhận là Đạo sư Hoá Thân hay Tulku của Phật Giáo Tây Tạng. Sinh tại Brooklyn, New York, được kế thừa truyền thống Ý và Do Thái, lòng bi mẫn và khát khao chấm dứt nỗi khổ của thế giới đã được biểu lộ thật rõ ràng trong con người bà từ thủa thiếu thời.
Jetsunma bắt đầu giảng dạy năm 1981, quy tụ những đệ tử ước muốn tìm ra một con đường thoát khỏi đau khổ và vô minh. Năm 1985, His Holiness Pedma Norbu (Penor) Rinpoche – hiện là Vị Lãnh đạo Tối cao của phái Nyingma, dòng truyền thừa cổ xưa nhất của Phật Giáo Tây Tạng, cũng là vị trì giữ ngai tòa của hệ thống tu viện Palyul rộng lớn – viếng thăm trung tâm của bà trong lần đầu tiên Ngài du hành tới Châu Mỹ. His Holiness đã tỉ mỉ hỏi bà về căn bản và những phương pháp giảng dạy của bà. Cuối cùng, His Holiness đã tuyên bố rằng bà đang giảng dạy những giáo huấn Đại thừa thuần túy. Ngài ban cho những đệ tử của Jetsunma sự quy y và những giới nguyện Bồ Tát theo truyền thống Phật Giáo và tiên đoán rằng trung tâm của bà sẽ phát triển mạnh mẽ.
Cũng trong năm này trung tâm của Jetsunma bắt đầu khóa tỉnh thức cầu nguyện 24 giờ một ngày không ngừng nghỉ được tiếp tục cho tới ngày nay (tháng 4 năm 1999 đánh dấu kỷ niệm 14 năm).
http://kimcuongthua.org/wp-content/u.../images-13.jpg
His Holiness Penor Rinpoche và Jetsunma Ahkon Lhamo
Năm 1987, Jetsunma du hành tới tu viện của His Holiness Penor Rinpoche ở Bylakuppe, Ấn Độ, ở đó Ngài và His Holiness Dilgo Khyentse quá cố chính thức công nhận bà là Hóa Thân của Genyenma Ahkon Lhamo, một vị thánh Tây Tạng vào thế kỷ 17. Genyenma Ahkon Lhamo đã có công xây dựng tu viện Palyul nguyên thủy ở đó anh ngài, Vidyadhara Kunzang Sherab là vị trì giữ ngai tòa đầu tiên. Trong hầu hết đời mình, Genyenma Ahkon Lhamo đã sống và thực hành trong một hang động phía trên Palyul, là nơi đã trở thành một địa điểm cho những cuộc hành hương. Những dấu hiệu kỳ diệu xuất hiện vào lúc ngài mất, kể cả sự phát sinh xá lợi linh thiêng nhất tại Palyul. Trong đời này, Penor Rinpoche đã cầu nguyện xá lợi này để Ngài có thể tìm thấy Hóa Thân của Genyenma Ahkon Lhamo. Một phần của xá lợi còn tồn tại sau cuộc Cách Mạng Văn Hóa của Cộng Sản Trung Hoa, và His Holiness đã tặng nó cho Jetsunma năm 1988 vào lễ đăng quang chính thức của bà. Hiện nay nó được cất giữ tại chùa Poolesville. Trong dịp đăng quang của Jetsunma, His Holiness cũng tuyên bố trung tâm Poolesville là trụ xứ của dòng Palyul ở Tây phương và đặt tên cho nó là Kunzang Odsal Palyul Changchub Choling (Lục địa Pháp Toàn Giác của Tịnh Quang Tuyệt đối).
http://www.bing.com/cr?IG=0BC4E8CEC1...p=DevEx,5104.1
Đức Orgyen Kusum Lingpa và Jetsunma Ahkon Lhamo
Năm 1994, Jetsunma được công nhận thêm là Hóa Thân của Lhacham Mandarawa (một Hóa Thân của Đức Tara Trắng). Mandarawa là phối ngẫu tâm linh Ấn Độ của Đức Padmasambhava (Liên Hoa Sanh), Đạo Sư Kim Cương thừa thành lập Phật Giáo ở Tây Tạng. Một quyển tiểu sử 38 chương của Mandarawa do các đệ tử của bà dịch thuật chẳng bao lâu nữa sẽ được xuất bản. Sự công nhận này cũng đưa tới một chuyến hành hương quan trọng tới Ấn Độ và Nepal được thực hiện vào tháng Ba năm 1996. Trong chuyến đi này, Jetsunma và 25 đệ tử của bà viếng thăm những thánh địa được gắn liền với Mandarawa và Đức Padmasambhava. Một đoàn làm phim tài liệu chuyên nghiệp làm việc trong một chương trình về Phật Giáo tại Tây phương đã ghi lại chuyến hành hương này. Cũng theo cách đó, Jetsunma cũng nổi bật trong quyển “Tái sinh ở Tây phương,” của Vickie MacKenzie, một công trình nghiên cứu về những Tulku ở Châu Mỹ và Châu Âu.
Tại trung tâm KPC (Kunzang Palyul Choling), Jetsunma đã duy trì một thời khóa biểu nghiêm nhặt trong việc giảng dạy và hướng dẫn những cuộc nhập thất, luôn luôn nhấn mạnh rằng cần phải phát triển lòng bi mẫn và nội quán phi thường vào chân tánh của các hiện tượng. Các đệ tử của bàhiện lên tới vài trăm người, bao gồm 34 vị thọ giới xuất gia (tăng và ni) theo truyền thống, một trong những nhóm lớn nhất ở Bắc Mỹ. Bà đã đứng ra tổ chức những buổi giảng dạy rộng rãi của các Lạt Ma Nyingma vĩ đại nhất còn sống, bao gồm việc Penor Rinpoche ban giảng toàn bộ các khóa Rinchen Terdzod và Nam Cho. Jetsunma cũng đã thiết lập một khóa nghiên cứu kinh viện và nhập thất bảy năm được gọi là Shedra, cũng như giám sát việc xây dựng 28 stupa (tháp) mà 10 cái trong số đó có thể được nhìn thấy trong nơi trú ngụ của muông thú hoang dã rộng 65 mẫu Anh. Và nổi tiếng do việc cúng dường bài ca sùng mộ cho những vị Thầy, giọng hát của Jetsunma có thể được nghe qua một đĩa CD mới có tên là “Sự Khẩn cầu,” hát lên lời cầu nguyện mãnh liệt của bà tới Đức Padmasambhava.
Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên
TAG: /
http://vajrayanapractice.com/tieu-su...kon-lhamo.html
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...73700_n.md.jpg
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...24549065_o.jpg
THÔNG TIN về chương trình hoằng pháp của Ngài DRUBWANG SONAM JORPHEL RINPOCHE, dòng truyền thừa Drikung Kagyud tại Việt Nam, 2017
& đàn lễ ĐẠI NHẬT NHƯ LAI tại Hà Nội
------------------------
- 29/11/2017: Tăng đoàn đến HCM
* Tại thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa:
- 01/12/2017: Pháp thoại về Bồ đề tâm tại chùa Nghĩa Sơn, thôn Phước Sơn, xã Phước Đồng
- 02/12/2017: quán đảnh QUAN ÂM THẬP NHẤT DIỆN, quán đảnh PHẬT VÔ LƯỢNG THỌ tại chùa Nghĩa Sơn
* Tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng:
- 04/12/2017: Pháp thoại về giáo lý Thân trung ấm (Bardo), quán đảnh PHẬT A DI ĐÀ tại chùa Vạn Đức, xã Tà Nung
- 05/12/2017: Pháp thoại về Bồ đề tâm, quán đảnh HOÀNG TÀI BẢO THIÊN tại chùa Vạn Đức
* Tại thành phố Hà Nội:
- 08/12/2017: quán đảnh PHẬT DƯỢC SƯ tại chùa Diên Phúc, thôn Thượng Thụy, xã Đức Thượng, huyện Hoài Đức
- 09/12/2017: quán đảnh PHẬT VÔ LƯỢNG THỌ tại chùa Diên Phúc
- từ 10/12 đến 13/12/2017: đàn lễ ĐẠI NHẬT NHƯ LAI tại chùa Diên Phúc
- 16/12/2017: Tăng đoàn rời Việt Nam về Ấn Độ
ThíchBình luận
TORMA VÀ THỰC HÀNH KIM CANG THỪA.
Rất nhiều nghi lễ thực hành trong Phật giáo Tây Tạng yêu cầu cần có những vật phẩm cúng dường quý báu, gọi là TORMA.
Từ 'torma' trong tiếng Tây Tạng, thì 'tor' có nghĩa gốc là "làm tan ra", hay ném ra một số lượng nhỏ những món đồ gì đó. Hậu tố 'ma' thể hiện cho tình yêu thương. Nên ta có thể nói rằng từ 'torma' có nghĩa là ta dâng tặng ai đó món đồ gì đó với tất cả tình yêu thương. Theo truyền thống, bánh Torma thường được để bên ngoài sau khi được sử dụng trong một nghi lễ, và khi đó sẽ thành thức ăn cho côn trùng hay thú hoang.
Để có thể thực sự đạt được sự tỉnh giác hoàn toàn, mỗi người tu cần phải có sự tích lũy đủ cả công đức và trí tuệ. Trí tuệ được phát triển qua sự tu học và thiền quán, suy ngẫm. Công đức được đạt qua sự cúng dường và hoàn thiện hạnh bố thí. Vì thế, Bánh Torma giúp ta trong sự thực hành hạnh bố thí, và được sử dụng trong các nghi lễ thực hành của Phật Giáo Kim Cương Thừa như một phương tiện thiện xảo để tích lũy công đức. Chúng cũng là phương tiện thiện xảo trong sự thực hành hạnh xả bỏ. Torma không chỉ có nghĩa là đưa ra một món cúng dường, chúng còn có nghĩa là từ bỏ sự bám chấp.
Trong sự thực hành Bổn tôn của Phật giáo Tây Tạng, Torma trở thành nền tảng cơ bản cho sự quán tưởng những vật phẩm cúng dường rộng lớn và vô lượng. Nhưng Torma không chỉ có ý nghĩa là cúng dường cho bản tôn trí tuệ. Torma cũng có thể cúng cho vô lượng vong hồn, chúng sinh vô hình chưa đạt được sự giác ngộ, là những chúng sinh đang lang thang đói khát, vô minh trong cõi Thân trung ấm, trạng thái lơ lửng giữa cái chết và sự tái sinh. Có những bánh torma làm để cúng cho những ma ác để chúng để yên cho chúng ta, và không cản trở sự tiến bộ tâm linh của ta. Và có cả những món cúng dường Torma gọi là 'tsok' ta cùng chia sẻ với các đạo hữu, huynh đệ tỉ muội kim cương trong bối cảnh một bữa tiệc tâm linh.
Có một số torma được tạo thành, không phải với ý nghĩa cúng dường, mà có ý nghĩa như sự đại diện của bổn tôn cùng đoàn tùy tùng. Mặc dù hình dáng của torma trông chẳng hề giống với những hình ảnh bổn tôn ta vẫn thường thấy trong tranh ảnh Phật giáo Tây Tạng, nhưng hình ảnh biểu tượng và màu sắc cũng thâu nhiếp tinh yếu của những phẩm chất giác ngộ của một vị bổn tôn nào đó, vì thế, là đại diện của tôn đó.
Có những Torma đại diện hoàng cung Mandala của một vị bản tôn nào đó. Và còn rất nhiều loại vật phẩm Torma khác, tùy thuộc vào sự thực hành riêng của bạn. Ngoài ra còn có tầng ý nghĩa bên ngoài, bên trong và bí mật của Torma nữa.
https://www.facebook.com/pg/Mandala-...5702081/posts/