NGUỒN GỐC
BẠCH-Y THẦN CHÚ
http://m.guoxuemeng.com/foxue/476710.html
Printable View
NGUỒN GỐC
BẠCH-Y THẦN CHÚ
http://m.guoxuemeng.com/foxue/476710.html
HÌNH TRẮNG ĐEN
QUÁN-ÂM BẠCH-Y ĐẠI-SĨ
https://www.photophoto.cn/tupian/baiyidashi.html
KINH DƯỢC SƯ
( HOA-VIỆT )
http://www.longbeachmonastery.org › ...PDF
藥 師 琉 璃 光 如 來 本 願 功 德 經
( 3 times / 三徧 / Tam biến ) ... Đông Phương Giáo Chủ 。 Thập nhị nguyện vương 。 四九金 燈 耀壇 場。 七七 演真 常 。 ... Nhĩ thời Mạn Thù Thất Lợi Pháp Vương Tử 。 ThừaPhật uy thần 。 ... Tam giả điền liệp hi hí 。
白衣大士神咒
南无大慈大悲救苦救难广大灵感观世 菩萨摩诃萨(三称)
南无佛 南无法 南无僧
南无 救苦救难观世音菩萨
怛垤多 唵 伽啰 伐哆 伽啰 伐哆;
tadyatha oj kara v2ta kara v2ta
即说咒曰 启礼 所作 变微风 所为 变微风
伽诃 伐哆 啰伽 伐哆 伽 伐哆 娑婆诃
kaha vata raka v2ta raka v2ta svaha
所说 变微风 如满月 微风 如满月 微风 是所祈求
天罗神 地罗神 人离难 难离身 一切灾殃化为尘
南无 摩诃般若波罗蜜
咒语若不会念古汉字、罗马字音,改 成北京音如下。
怛低阿他 唵 咖喇 瓦达 喇 瓦达;
tadyatha oj kara v2ta kara v2ta
即说咒曰 启礼 所作 变微风 所为 变微风
咖哈 瓦达 喇咖 瓦达 咖 瓦达 娑哇哈
kaha vata raka v2ta raka v2ta svaha
所说 变微风 如满月 微风 如满月 微风 是所祈求
https://www.dharmazen.org/X2GB/D33SProb/P4-306.htm
白衣觀音咒:
Tadyatha Om Karavata Karavata Kahavata Rakavata Rakavata Svaha.
http://greentarainst.blogspot.com/20...st_31.html?m=1
陀Đà 羅La 尼Ni 雜Tạp 集Tập 卷quyển 第đệ 一nhất
觀Quán 世Thế 音Âm 。 說thuyết 應Ứng 現Hiện 與Dữ 願Nguyện 陀Đà 羅La 尼Ni 。
南Nam 無mô 觀Quán 世Thế 音Âm 菩Bồ 薩Tát 。
坦thản 提đề 咃tha 。 呿khư 羅la 𠲎 多đa 。 呿khư 羅la 𠲎 多đa 。 伽già 呵ha 𠲎 多đa 。 伽già 𠲎 多đa 。 伽già 𠲎 多đa 。 莎sa 呵ha 。
=
觀Quán 世Thế 音Âm 。 說thuyết 隨Tùy 願Nguyện 陀Đà 羅La 尼Ni 。
南Nam 無mô 觀Quán 世Thế 音Âm 菩Bồ 薩Tát 。
但đãn 提đề 咃tha 。 呿khư 羅la 婆bà 多đa 。 呿khư 羅la 婆bà 多đa 。 伽già 呵ha 婆bà 多đa 。 伽già 婆bà 多đa 。 伽già 𠲎 多đa 。 莎sa 呵ha 。
此thử 陀đà 羅la 尼ni 法Pháp 。 應ưng 靜tĩnh 處xứ 。 專chuyên 精tinh 禮lễ 拜bái 遶nhiễu 塔tháp 。 誦tụng 是thị 陀đà 羅la 尼ni 。 萬vạn 二nhị 千thiên 遍biến 。 當đương 見kiến 觀Quán 世Thế 音Âm 菩Bồ 薩Tát 。 一nhất 切thiết 所sở 願nguyện 。 隨tùy 意ý 皆giai 得đắc 。
行hành 此thử 陀đà 羅la 尼ni 法Pháp 。 應ưng 靜tĩnh 處xứ 。 專chuyên 精tinh 禮lễ 拜bái 遶nhiễu 塔tháp 。 誦tụng 是thị 陀đà 羅la 尼ni 。 萬vạn 二nhị 千thiên 遍biến 。 當đương 見kiến 觀Quán 世Thế 音Âm 菩Bồ 薩Tát 。 一nhất 切thiết 所sở 願nguyện 。 隨tùy 意ý 皆giai 得đắc 。
觀世音說應現與願陀羅尼 = 觀世音菩薩說隨願陀羅尼 = 觀世音說隨願陀羅尼 = 觀世音菩薩隨願陀羅尼 / = 觀音隨求陀羅尼 = 許願咒 ///= 白衣觀世音靈感神咒 = 白衣觀音大士靈感神咒 = 白衣观音灵感神咒 = 白衣觀音神咒 = 白衣大士靈感神咒 = 白衣大士神咒 = 白衣神咒
QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT THUYẾT ỨNG-HIỆN DỮ-NGUYỆN ĐÀ-LA-NI = QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT THUYẾT TÙY-NGUYỆN ĐÀ LA NI = QUÁN-THẾ-ÂM THUYẾT TÙY-NGUYỆN ĐÀ-LA-NI = QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT TÙY-NGUYỆN ĐÀ-LA-NI / = QUÁN-ÂM TÙY-CẦU ĐÀ-LA-NI = HỨA NGUYỆN CHÚ
= BẠCH-Y QUÁN-THẾ-ÂM LINH-CẢM THẦN-CHÚ = BẠCH-Y QUÁN-ÂM ĐẠI-SỸ LINH-CẢM THẦN-CHÚ = BẠCH-Y QUÁN-ÂM LINH-CẢM THẦN-CHÚ = BẠCH-Y QUÁN-ÂM THẦN-CHÚ = BẠCH-Y ĐẠI-SỸ LINH-CẢM THẦN-CHÚ = BẠCH-Y ĐẠI-SỸ THẦN-CHÚ = BẠCH-Y THẦN-CHÚ
https://daitangkinh.net/index.php?f=T21n1336/1&m=awviet
https://daitangkinh.net/index.php?f=T21n1336/1&m=awviet
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...ng-Mã/page120
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...ng-Mã/page109
* BẠCH-Y THẦN-CHÚ:
. ĐÁT CHỈ ĐÁ, ÁN DÀ LIỆP PHẠT ĐÁ, DÀ LIỆP PHẠT ĐÁ, DÀ HA PHẠT ĐÁ, LIỆP DÀ PHẠT ĐÁ, LIỆP DÀ PHẠT ĐÁ TÁ HA.
. ĐÁC CHỈ ĐÁ, ÁN DÀ LIỆP PHẠT ĐÁ, DÀ LIỆP PHẠT ĐÁ, DÀ HA PHẠT ĐÁ, LIỆP DÀ PHẠT ĐÁ, LIỆP DÀ PHẠT ĐÁ TÁ HA.
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...ng-Mã/page152
KINH ĐẠI BI TÂM ĐÀ LA NI
( Dịch từng Chữ từ Hoa sang VIỆT )
1 DAI BI THAN CHU TUỆ QUANG 慧光FOUNDATION http://www ...
Yểm. Phạ nhật la vật. 天上天下無如佛. 十方三世亦無比. Thiên thượng Thiên hạ vô như Phật. Thập phương Thế giới diệc vô tỉ. Trên Trời dưới đất không ai như
http://www.chuadainhatnhulai.org › ...PDF
TÂY TẠNG CHIÊM BỐC PHÁP - Chùa Đại Nhật Như Lai
VĂN THÙ CHIÊM BỐC PHÁP. Om Ah Ra Pa Tsa Na Dhi. DIỆU CÁT TƯỜNG CHIÊM BỐC PHÁP. Mục Lục. Tát Ca Pháp Vương Tự. Lời Tựa Của Dịch Giả.
-
https://wisdombox.org › mant...PDF
目錄
金剛解脫真言. 湡(oṃ) 向(va) 忝(jra) 觜(mu) 朽(kṣa) 鄖( muḥ). 唵. 嚩. 日囉(二合) 謨. 乞叉(二合) 穆 ... 唵嚩日囉( 二合) 喻曬娑嚩(二合引) 賀 ... O3, vajra- mok=a muh. 唵 嚩日囉 ... Om, Amogha jala vimale sru sru sv2h2. 唵啞穆 .
=========
https://2012years.files.wordpress.com › ...PDF
ĐA LA PHÁP ĐÀ LA NI KINH - WordPress.com
Kinh Tô Ma Hô (Hạ) cũng ghi là: “Đa La là Diệu Mục Tinh”. Ngoài ra Mật Giáo còn xưng tán Đa La qua danh xưng Bạch Cứu Độ Phật Mẫu tức vị Phật Mẫu có thân
PHẬT GIÁO MẬT TÔNG THẾ GIỚI
NGHI QUỸ TU TRÌ DƯỢC SƯ
http://tuvien.com/mat_tong/index.php?id=136pgmattongtg
http://tuvien.com/mat_tong/index.php
TU TẬP THIỀN ĐỊNH Dhyāna-Samādhi bhāvanā - Trang nhà GĐPT Việt Nam ...
https://gdptvietnam.org › TU-...PDF
TU TẬP THIỀN ĐỊNH Dhyāna-Samādhi bhāvanā - Trang nhà GĐPT Việt Nam ...
để cung cấp đồ ăn thức uống cho chúng nếu không, chúng ... “Ne ́u là đa ̀u của ba tháng hạ an cư , phải ở nơi thanh ... 烏闍訶囉,伽婆訶囉,嚧地囉. 訶囉,婆娑 ...
BẠCH-Y THẦN-CHÚ
I. DANH-HIỆU ĐỨC BẠCH-Y BỒ TÁT:
7. White-robe 白衣觀音 백의관음
白衣觀音. 大慈白衣觀世音 隨緣赴感 應群機 三昧辯才善誘誨 妙德圓成證菩提 身穿白衣,左手持蓮花,右手作與願 �。 白色意指純淨,象徵菩提心,表示觀 �胸懷菩提之心, 是三十三身觀音中的比丘、比丘尼身.
6. In humble adoration, I kneel and touch my forehead to the ground before White-Robed Kuan Yin. (This statue represents the virtuous Kuan Yin, a perfect embodiment of purity. It teaches us fearlessness and helps us to see each other as Kuan Yin sees us.)
6. Bạch Y Quan Âm: Ngài khoác y áo mềm mại sắc trắng thanh tịnh, kiết già tĩnh tọa trên đám cỏ nơi tảng đá, tay kết ấn thiền định. Hình tượng này tương đương với thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni trong 32 ứng thân Quan Âm.
6. Bạch Y Quán Âm: còn gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu. Toàn thân Ngài mặc y trắng, ngồi kết già trên hoa sen trắng, đầu đội khăn, tay trái cầm hoa sen, tay phải kết dữ nguyện ấn. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái Ngài để cầu tiêu tai, trường thọ.
南無白衣觀世音菩薩 / 南无白衣观世音菩萨
NA MÔ BẠCH-Y QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
NAMO PANDARAVASINI-AVALOKITESVARA BODHISATTVA
南無白衣大士觀世音菩薩 / 南无白衣大士觀世音菩薩
NA MÔ BẠCH-Y ĐẠI-SĨ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT / NA MÔ BẠCH-Y ĐẠI-SỸ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
NAMO PANDARAVASINI-AVALOKITESVARA BODHISATTVA MAHASATTVA
南無大慈白衣觀世音菩薩 / 南无大慈白衣观世音菩萨
NA MÔ ĐẠI-TỪ BẠCH-Y QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
NAMO MAHA-MAITRI PANDARAVASINI-AVALOKITESVARA BODHISATTVA
南無白衣光世音菩薩 / 南无白衣光世音菩萨
NA MÔ BẠCH-Y QUANG THẾ ÂM BỒ TÁT
NAMO PANDARAVASINI-ABHALOKASVARA BODHISATTVA
南無白衣大士光世音菩薩 / 南无白衣大士光世音菩萨
NA MÔ BẠCH-Y ĐẠI-SĨ QUANG THẾ ÂM BỒ TÁT / NA MÔ BẠCH-Y ĐẠI-SỸ QUANG THẾ ÂM BỒ TÁT
NAMO PANDARAVASINI-ABHALOKASVARA BODHISATTVA MAHASATTVA
南無大慈白衣光世音菩薩 / 南无大慈白衣光世音菩萨
NA MÔ ĐẠI-TỪ BẠCH-Y QUANG THẾ ÂM BỒ TÁT
NAMO MAHA-MAITRI PANDARAVASINI-ABHALOKASVARA BODHISATTVA
*P/S: Quán Thế Âm mặc áo trắng (Pandaravasini), tức là dạng Bạch Y Đại Sỹ hay Bạch Đà La ( Pandara-vasini arya-tara ).
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...ng-Mã/page154
BẠCH TARA
BẠCH-Y QUÁN-ÂM TARA / BẠCH-Y QUANG-ÂM TARA
BẠCH-Y CỨU-KHỔ QUÁN-ÂM TARA / BẠCH-Y CỨU-KHỔ QUANG-ÂM TARA
26. Tara 多羅尊觀音 다f라존관음
24. 多羅觀音 救苦多羅觀世音 與樂拔苦現剎塵 甘露徧灑十方界 遍應六趣普現身 直立乘雲,合掌,手持青蓮花。 梵名「多羅」亦為救度,故又名「救 �母觀音」。 《普門品》云:「或值怨賊繞,各執 �加害, 念彼觀音力,咸即起慈心。」為此尊 �來。
24. In humble adoration, I kneel and touch my forehead to the ground before Tara Kuan Yin. (This statue is of the Mother of Salvation. It teaches us about the feminine aspect of God and how to always view others with healing compassion.)
24. Đa La Quán Âm: dùng vật báu vô giá trang nghiêm thân để trừ khổ não cho chúng sanh, tất cả chúng sanh vui ưa vào pháp giới chư Phật. Ngài hiện thân người con gái, tướng mạo từ bi, mặc y trắng, hai tay hiệp chưởng cầm hoa sen xanh; quanh thân có hào quang thanh tịnh, đầu búi tóc. Trước ngực đeo anh lạc ngồi trên bệ đá ngắm nhìn chúng sanh.
24. Đa La Tôn Quan Âm / Da Chúng Tôn Quan Âm: Còn gọi là Cứu Độ Mẫu Quan Âm, tư thế toàn thân đứng thẳng cưỡi trên mây. Có người cho rằng Tôn này tượng trưng cho đoạn văn sau trong Phẩm Phổ Môn:
Hoặc bị oán tặc vây
Cầm đao kiếm hãm hại
Do sức niệm Quan Âm
Chúng đều sinh lòng lành
南無普陀山南海觀世音菩薩摩訶薩 / 南无普陀山南海观世音菩萨摩诃萨
NA MÔ PHỔ-ĐÀ-SƠN NAM-HẢI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT MA HA TÁT
NAMO POTALAKA DAKSINA-SAMUDRA AVALOKITESVARA BODHISATTVA MAHASATTVA
南無普陀山南海光世音菩薩摩訶薩 / 南无普陀山南海光世音菩萨摩诃萨
NA MÔ PHỔ-ĐÀ-SƠN NAM-HẢI QUANG THẾ ÂM BỒ TÁT MA HA TÁT
NAMO POTALAKA DAKSINA-SAMUDRA ABHALOKASVARA BODHISATTVA MAHASATTVA
南無救苦多羅觀世音菩薩 / 南无救苦多罗观世音菩萨
NA MÔ CỨU-KHỔ ĐA LA QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
NAMO RAKSATI-DUHKHA ARYA TARA-AVALOKITESVARA BODHISATTVA
南無救苦多羅光世音菩薩 / 南无救苦多罗光世音菩萨
NA MÔ CỨU-KHỔ ĐA LA QUANG THẾ ÂM BỒ TÁT
NAMO RAKSATI-DUHKHA ARYA TARA-ABHALOKASVARA BODHISATTVA
南無多羅尊觀世音菩薩 / 南无多罗尊观世音菩萨
NA MÔ ĐA-LA TÔN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
NAMO ARYA TARANATHA-AVALOKITESVARA BODHISATTVA
南無多羅尊R="#008000"]光[/COLOR]世音菩薩 / 南无多罗尊光世音菩萨
NA MÔ ĐA-LA TÔN QUANG THẾ ÂM BỒ TÁT
NAMO ARYA TARANATHA-ABHALOKASVARA BODHISATTVA
南無白多羅觀世音菩薩 / 南无白多罗观世音菩萨
NA MÔ BẠCH ĐA LA QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
NAMO PANDARAVASINI-ARYA TARA AVALOKITESVARA BODHISATTVA
南無白多羅光世音菩薩 / 南无白多罗光世音菩萨
NA MÔ BẠCH ĐA LA QUANG THẾ ÂM BỒ TÁT
NAMO PANDARAVASINI-ARYA TARA ABHALOKASVARA BODHISATTVA
*P/S: Quán Thế Âm mặc áo trắng (Pandaravasini), tức là dạng Bạch Y Đại Sỹ hay Bạch Đà La ( Pandara-vasini arya-tara ).
============
https://ommanibatdihong.files.wordpress.com › ...PDF
QUÁN ÂM PHÁP BỘ - ommanibatdihong - WordPress.com
http://kinhmatgiao.wordpress.com ... Theo Truyền Kỳ của Trung Hoa thì Bồ Tát Quán Âm hiển linh nói Pháp tại Đạo. Trường của núi Phổ Đà ... thì bộ Kinh Pháp Hoa Tam Muội đã được Ngài Chi Cương Lương Tiếp.
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...ng-Mã/page154
白衣神咒
BẠCH-Y THẦN CHÚ
PANDARAVASINI MANTRA
白衣大士神咒
BẠCH-Y ĐẠI-SĨ THẦN CHÚ
PANDARAVASINI-MAHASATTVA MANTRA
白衣觀世音大士靈感神咒
BẠCH-Y QUÁN-THẾ-ÂM ĐẠI-SĨ LINH-CẢM THẦN CHÚ
PANDARAVASINI-AVALOKITESVARA MAHASATTVA VIKURVANA MANTRA
白衣光世音大士靈感神咒
BẠCH-Y QUANG-THẾ-ÂM ĐẠI-SĨ LINH-CẢM THẦN CHÚ
PANDARAVASINI-ABHALOKASVARA MAHASATTVA VIKURVANA MANTRA
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...ng-Mã/page154
https://ommanibatdihong.files.wordpress.com › ...PDF
DƯỢC SƯ PHÁP ĐÀ LA NI KINH - ommanibatdihong - WordPress.com
... Giáp Ngọ (2014). HUYỀN THANH (Nguyễn Vũ Tài) kính ghi ... Dược Sư Niệm Tụng Nghi Quỹ ghi là: “Đức Như Lai, tay trái cầm bình thuốc gọi là Vô Giá Thù, ...
502 trang·48 MB
BẠCH-Y THẦN-CHÚ
I. DANH-HIỆU ĐỨC BẠCH-Y ĐẠI-SỸ:
南無大士白衣觀世音菩薩 / 南无大士白衣觀世音菩薩
NA MÔ ĐẠI-SĨ BẠCH-Y QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT / NA MÔ ĐẠI-SỸ BẠCH-Y QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
NAMO PANDARAVASINI-AVALOKITESVARA BODHISATTVA MAHASATTVA
南無大士白衣光世音菩薩 / 南无大士白衣光世音菩薩
NA MÔ ĐẠI-SĨ BẠCH-Y QUANG THẾ ÂM BỒ TÁT / NA MÔ ĐẠI-SỸ BẠCH-Y QUANG THẾ ÂM BỒ TÁT
NAMO PANDARAVASINI-ABHALOKASVARA BODHISATTVA MAHASATTVA
*P/S: Quán Thế Âm mặc áo trắng (Pandaravasini), tức là dạng Bạch Y Đại Sỹ hay Bạch Đà La ( Pandara-vasini arya-tara ).
================
CẦU NGUYỆN NHƯ Ý
Tôi tên là Tống Ngọc Lê, pháp danh Thanh Nhẫn hiện ở tại San Jose. Tôi nghe lời mẹ dạy nên thường đi chùa lễ Phật, nghe quý thầy giảng đạo và biết ăn chay kỳ từ thuở còn bé. Mẹ tôi cũng bày cho tôi cách ngồi thiền, tụng kinh và niệm Phật. Mẹ tôi hay nhắc nhở, có khi rầy la, vì tôi ngồi thiền cứ ngủ gục hoài. Tụng kinh và niệm Phật. Mẹ tôi hay nhắc nhở, có khi rầy la, vì tôi ngồi thiền cứ ngủ gục hoài. Tụng kinh và niệm Phật thì tôi thích hơn. Mẹ tôi biết ý nên khuyên tôi tụng kinh Phổ Môn để làm yếu chỉ tu học. Sau một thời gian tụng kinh, tôi có đọc 108 danh hiệu Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát. Hồi còn trẻ, tôi tụng kinh niệm Phật không đều, bữa siêng, bữa nhác; nhưng bây giờ thì đã thuần thục rồi. Tôi thường tụng kinh, niệm Phật hang ngày không hề bỏ sót.
Ngược dòng thời gian, năm tôi hai mươi tuổi bị bệnh nặng, người nhà đưa tôi vào nhà thương Phúc Kiến ở chợ Lớn cấp cứu. Tôi bị bệnh thường hàn nhập lý và lên cơn sốt dữ dội. Tôi bị mê man suốt hai ngày đêm. Các bác sĩ cho người nhà tôi biết là bệnh khó chữa trị, kinh mạch xáo trộn, độc tố đã nhiễm vào tim. cả nhà tôi ai cũng khóc, song mẹ tôi rất bình tĩnh và khuyên mọi người đem tâm thành niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Tiếp niệm danh hiệu Nam mô Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát luôn trọn ngày và trọn đêm dậy cả một góc nhà thương.
Ngay đêm đó, khoảng hai giờ sáng, tôi đang trong cơn mê mà cảm nghe như có dòng suối nước chảy, có tiếng chim hót và tiếng chuông chùa. Tôi thấy mình bước chân lên từng cấp của một cảnh nguy nga, hùng vĩ trên một ngọn núi cao. Trước cổng lên núi và chùa có đề ba chữ Phổ Ðà Sơn, bên bờ biển Nam Hải, nơi mà Ðức Quán Thế Âm thường cư ngụ. Trong Chùa có khoảng vài trăm người đang ngồi thiền, xây mặt ra hướng biển Ðông. Người nào cũng có tóc và mặc áo nhiều màu rất đẹp nên tôi không nhận biết họ là đàn ông hay đàn bà. Riêng tôi thì được một người đàn bà mặc áo trắng dẫn vào trong một ngôi nhà tranh nhỏ, nằm giữa khóm trúc nên thơ. Trong cái thất ấy có đến hai cô thanh nữ mặc áo xanh; nét mặt cô nào cũng rất đoan trang và vui vẻ. hai vị này cho tôi biết người mặc áo trắng là thầy của họ mà người xưng là Bạch Y Quán Thế Âm. Tôi mừng quá liền cúi xụp lạy, nhưng Ðức Bạch Y đưa tay cản lại không cho lạy. Ngài bảo một cô Thanh y rót nước trong bình tịnh thủy cho tôi uống.
Uống xong, tôi cảm thấy khỏe khoắn vô cùng, tâm thần nhẹ nhàng và đầy sung sướng. Tôi bèn ngỏ lời Bạch Y Quán Âm đại sĩ và hai tiểu đồng rối rít. Kế đó, tôi đột nhiên mở mắt và thấy nhiều người đang đứng chung quanh giường và niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm. Hai hôm sau thì tôi xuất viện, vì bệnh tình của tôi khỏi hẳn. Ðiều này khiến cho các bác sĩ trong bệnh viện vô cùng kinh ngạc về bệnh trạng của tôi. Mẹ tôi bảo cho họ hay rằng, tôi được cứu thoát căn bệnh ngặt nghèo là nhờ sự mầu nhiệm của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Tôi cũng tin như vậy, và câu chuyện này đã gây tín tâm rất nhiều cho tôi và mọi người trong gia đình thân nhân của tôi
Tôi là con dâu trưởng sinh sống với chồng tôi nhiều năm mà không có con. Chồng tôi thì thương tôi hết mực, song những người thân phía chồng tôi nói vào nói ra làm cho tôi rất buồn tủi. Họ bảo tôi rằng: “Ðàn bà chi mà không biết sanh đẻ”.
Thay vì giận, đau buồn, khóc lóc, tủi hổ thân phận thì tôi lại vui và âm thầm trì tụng kinh Pháp Hoa, niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm và mong có được một đứa con gái ra đời cho vui nhà.
Ðiều mơ ước lại đến, sau suốt nhiều năm tu tập và cầu nguyện, một đêm tôi thấy mình trở lại núi Phổ Ðà vào viếng thăm chổ sơ sài của Đại Sĩ Bạch Y Quán Thế Âm ở. Tôi mới bước chân nửa thềm đá cao, thì thấy hai thanh nữ hầu Ðức Quán Thế Âm bước lại gần tôi và trao cho một bé gái nhỏ xinh xinh. Tôi tỉnh dậy và bắt đầu có thai từ đó.
Con tôi ra đời đã đem lại cho tôi và chồng tôi một niềm vui rất lớn. Bé Hiền năm nay đã tám tuổi. Cháu rất ngoan hiền, học giỏi và chí mực hiếu thảo. Cả nhà, các bác, các chú, bà ngoại, bà nội hai bên ai cũng thương cháu.
Trong kinh cứu khổ có bài kệ mà tôi thấy rất hợp với hoàn cảnh của tôi:
Người vô tự quạnh hiu sau trước
Sửa tất lòng tác phước khẩn cầu
Từ bi linh hiển pháp mầu
Cho trai hiển đạt gái cầu hiền lương.
Cuối năm 1979, gia đình tôi rời khỏi Việt Nam vượt biên ra nước ngoài. Khi tàu rời bến được độ hai ngày đêm thì máy bị chết. Mọi người trên tàu đều bối rối, lo âu. Nước biển, sóng gợn ì ầm át cả tiếng khóc của trẻ con, tiếng cãi vả của nhiều người với chủ tàu là “Lấy tiền người ta mà làm ăn bê bối”. Riêng tôi ngồi nhìn đứa con đang ngủ trên tay và định tâm niệm Nam mô Ðại Từ Ðại Bi Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kỳ lạ thay, vài tiếng đồng hồ sau thì con tàu chúng tôi nổ máy và chạy khoảng bốn tiếng đồng hồ thì gặp tàu tuần tiểu của hải quân Trung Hoa Quốc Gia giúp đưa chúng tôi vào địa phận Hồng Kông. Nếu không có chiếc tàu cứu khổ này thì chúng tôi đã đắm xuống biển 150 mạng vì con tàu bị chết máy, vừa bị sóng đánh mạnh nên thân tàu bị bể và nước tràn vào ầm ầm không sao tát ra kịp.
Khi được đến Mỹ, gia đình tôi ở một ngôi nhà không đủ phòng rộng rãi, nhưng tôi quyết sắp xếp để nguyên một căn phòng có nhiều ánh sáng, đẹp làm nơi tĩnh tâm và thờ phượng Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Tôi có làm bài thơ tám câu để tạ thâm ân cứu khổ của mẹ hiền Ðức Quán Thế Âm như sau:
Quán Âm Bồ Tát Ðấng Mẹ Hiền
Cứu khổ muôn loài hạnh vô biên
Ứng thân diệu dụng vô cùng tận
Ðại nguyện từ bi rải mọi miền.
Con xin sám hối những sai lầm
Tinh tấn tu học để thanh tâm
Ngày đêm thiền tịnh không lơ đễnh
Giác ngộ chân tâm đẹp sáng ngời.
(9) SỐ ÐÁT NA ÐÁT TÃ -(Sudhanatasya)-
Quán Âm hiện thân tướng
Bộ Lạc Tứ Thiên Vương
Khiến cải ác theo thiện
Học tu đạo nhất thừa.
https://www.chuabuuchau.com.vn/chuon...u-y_52272.html
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...67#post1854567
PANDARAVASINI MANTRA
BẠCH-Y THẦN CHÚ
Phục hồi Phạn Chú: Phổ Quảng
NAMO BUDDHAYA、NAMO DHARMAYA、NAMAH SAMGHAYA.
NAMO RATNATRAYAYA.
NAMAH ARYA-AVALOKITESVARAYA BODHISATTVAYA MAHASATTVAYA MAHAKARUNIKAYA. TADYATHA:
OM KARAVATA KARAVATA KAHAVATA RAKAVATA RAKAVATA SVAHA.
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...ng-Mã/page155
(3) BÀ LÔ YẾT ÐẾ THƯỚC BÁT RA DA (Avalokiteshavaraya)
Quán Âm ngời tự tại
Hiện thân tướng trì bình
Cứu người lâm bệnh khổ
Tăng phước thọ diên trường.
https://www.chuabuuchau.com.vn/chuon...tin_52278.html
(4) BỒ ÐỀ TÁT ÐỎA BÀ DA (Bodhisattvaya)
Quán Âm bậc tuệ giác
Ðạt chơn tánh rạng ngời
Lòng từ bi quảng đại
Phổ độ khắp gần xa.
https://www.chuabuuchau.com.vn/chuon...uon_52277.html
(5) MA HA TÁT ÐỎA BÀ DA -(Mahasattvaya)-
Quán Âm trì mật chú
Biến nước tịnh cam lồ
Diệt trừ tham sân hận
Mở trói buộc ưu phiền.
https://www.chuabuuchau.com.vn/chuon...loi_52276.html
(7) ÁN -(OM)-
Quán Âm hiện thân tướng
Quỷ vương độ quần tà
Thủ pháp trì mật ngữ
Án ma hàng phục ma.
https://www.chuabuuchau.com.vn/chuon...ong_52274.html
(14) TÁT BÀ A THA ÐẬU DU BẰNG (Sarvadvatashubham)
Quán Âm hiện thân tướng
Bồ Tát Cam Lộ Vương
Tay cầm bình tịnh thủy
Cành dương giải oán thù.
https://www.chuabuuchau.com.vn/chuon...-am_52267.html
(19) ÁN A BÀ LÔ HÊ -(Om I Avaloka)-
Quán Âm hiện thân tướng
Ngôi tòa sen trang nghiêm
Lòng từ bi vô lượng
Hằng cứu khổ ban vui.
https://www.chuabuuchau.com.vn/chuon...ien_52260.html
(21) CA RA ÐẾ - (Kalati)
Quán Âm hiện thân tướng
Vua Thần trong mười phương
Tùy loại tuơng cảm ứng
Cứu khổ giải ích nàn.
QUAY VỀ NƯƠNG TỰA
Con về nương tựa pháp,
Con đường của tình thương và sự hiểu biết.
Con về nương tựa Tăng,
Ðoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức.
HỒI HƯỚNG
Trì tụng kinh thâm diệu
Tạo công đức vô biên
Ðệ tử xin hồi hướng
Cho chúng sanh mọi miền
Pháp môn xin nguyện học
Ân nghĩa xin nguyện đền
Phiền não xin nguyện đoạn
Phật quả xin chứng nên. (©©)
https://www.chuabuuchau.com.vn/chuon...mon_52259.html
=====
https://www.chuabuuchau.com.vn/chuon...-am_52258.html
NGHI PHÓNG SANH
CẦU NGUYỆN
Hôm nay, đệ tử chúng con,
phụng trì di giáo Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, một dạ chí thành, thiết lễ phóng sanh, ngưỡng mong Tam Bảo chúng minh và gia hộ cho ....... (tên người mua sinh vật) đương đời phiền não dứt sạch, nghiệp chướng tiêu trừ, mạng vị bình an, tật bệnh tiêu trừ, thân tâm thường lạc, và tất cả chúng sanh, một thời đồng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nam Mô Tiêu Tai Duyên Thọ Dược Sư Phật tác đại chứng minh. (3 lần, o)
PHỤC NGUYỆN
Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật tác đại chứng minh.
Hôm nay, chúng con một dạ chí thành, trì tụng Kinh, Chú, niệm Phật công đức, cầu nguyện cho Phật tử
Tên..................., Pháp danh.................
đương đời phiền não dứt sạch, nghiệp chướng tiêu tan, tật bịnh bình an, thân tâm thường lạc, gia đình thịnh đạt, hưởng cảnh an nhàn, thiên thượng nhân gian, đều thành Phật quả. (o)
https://www.phatan.org/p238a702/nghi-thuc-phong-sanh
QUÁN-ÂM LINH-CẢM CHƠN-NGÔN + BẠCH-Y THẦN-CHÚ
ARYAVALOKITESVARA BODHISATTVA VIKURVANA DHARANI
OM. MANI PADME HUM. MARGAJNANA, CITTOTEBHATA, CITRASYANA, VIDRGA, SARVATHA, PURISTAGANAPURNA, NAPURIDUSVANNA. NAMAH AVALOKITESVARAYA. SVAHA.
MANTRA AVALOKITESVARA BERJUBAH PUTIH
NAMO NAMAS TASMAHI ABHAYAN DADHA AVALOKITESVARA BODHISATTVA MAHASATTVA, AUM MANI PADME HUM, MARGA NIANA CHITU DIPATAT SINA MI DHALIGA SATTHA VALATA PUKLI SITAGA NAPU RATNA NAPULI PANA, NAMO AVALOKITESVARA SVAHA, NAMO BUDDHAYA, NAMO DHARMAYA, NAMO SANGHAYA, NAMO MAHA MAITRI KARUNA AVALOKITESVARA BODHISATTVA MAHASATTVA, TADYATHA AUM GHARAVATTO GHARAVATTO RAGHAVATTO RAGHAVATTO SVAHA.
https://agama.forumakers.com/f7-dharani-mantra
Các Câu Thần Chú Tiếng Phạn Nổi Tiếng Trong Phật Giáo
Thần chú Dược Sư
Thần chú Dược sư là thần chú hạnh nguyện của Bồ Tát Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Ngài là bậc giác ngộ có lòng từ bi vô lượng đối với tất thảy chúng sinh. Ngài hộ trì cho chúng sinh tránh khỏi những đau đớn của bệnh tật và thoát khỏi mọi nguy hại. Những ai tụng niệm câu thần chú và tưởng nhớ đến Ngài với lòng từ bi, trắc ẩn và một lòng hướng thiện thì họ sẽ thoát khỏi hiểm nguy, chướng ngại, đau đớn về thể xác và tâm hồn, diệt trừ mọi tam độc tham-sân-si, xoa sbor toàn bộ cội nguồn của bệnh tật và nguy hại. Ngài được tôn kính như một đáng Y Vương Toàn Giác.
Khi còn đang hành đạo Bồ Tát, Ngài đã phát ra 12 nguyện lớn có công năng cứu giúp hết thảy chúng sinh bị đói rách, bệnh tật, thân hình xấu xa, chuyển nữ thành nam… khiến họ được đầy đủ các thiện căn và thành tựu sở nguyện.
thần chú Dược Sư
Câu thần chú Dược Sư phiên bản ngắn Tây Tạng : “Tayata Om Bekandze Bekandze Maha Bekandze Radza Samudgate Soha”
Tayata: Đi quá giới hạn (ngoài Vòng luân hồi và Niết bàn)Om: Một từ rất phổ biến gợi lên sức mạnh tinh thần và sự hiện diện tuyệt đối.Bekandze Bekandze: Gọi Phật Dược Sư hai lầnMaha Bekandze: Đại đức Phật Dược SưRandza Samungate: Hoàn toàn giải phóng hoặc đánh thứcSoha: Hòa tan trong tôi.
Trên đây là những câu thần chú nổi tiếng có uy lực nhất trong Đạo Phật. Hi vọng với bài viết này , chúng ta có thể hiểu biết hơn về những câu mật chú và con đường tu tập của chúng ta một lòng hướng đến Phật pháp, lòng từ bi, trắc ẩn và tình yêu với chúng sanh.
https://vienchibao.com/cac-cau-than-...ong-phat-giao/
TẨY-MAO GIẢI-GIÁC KINH
( 洗毛解角經 )
Phục hồi Hán Tự & Phục hồi Phạn Chú: Phổ Quảng
南無觀世音菩薩 / 南无观世音菩萨救脫眾生; 劫滿圓塵, 證微圓相; 菩提道度眾生。
唵! 南无招度菩萨摩诃萨 / 嗡! 南無超度菩薩摩訶薩 / 嗡! 南無超渡菩薩摩訶薩(三遍)
Na mô Quán Thế Âm Bồ Tát cứu thoát chúng sanh; kiếp mãn viên trần, chứng vi viên tướng; Bồ Đề Đạo độ chúng sanh.
. ÁN ! NA MÔ SIÊU-ĐỘ BỒ TÁT, MA HA TÁT (niệm 3 lần)
. 唵! 南无招度菩萨摩诃萨 / 嗡! 南無超度菩薩摩訶薩 / 嗡! 南無超渡菩薩摩訶薩(三遍)
. OM-NAMO UTTARAYATI BODHISATTVAYA-MAHASATTVAYA ( 3x )
南無光世音菩薩 / 南无光世音菩萨救脫眾生; 劫滿圓塵, 證微圓相; 菩提道度眾生。
唵! 南无招度菩萨摩诃萨 / 嗡! 南無超度菩薩摩訶薩 / 嗡! 南無超渡菩薩摩訶薩(三遍)
Na mô Quang Thế Âm Bồ Tát cứu thoát chúng sanh; kiếp mãn viên trần, chứng vi viên tướng; Bồ Đề Đạo độ chúng sanh.
. ÁN ! NA MÔ SIÊU-ĐỘ BỒ TÁT, MA HA TÁT (niệm 3 lần)
. 唵! 南无招度菩萨摩诃萨 / 嗡! 南無超度菩薩摩訶薩 / 嗡! 南無超渡菩薩摩訶薩(三遍)
. OM-NAMO UTTARAYATI BODHISATTVAYA-MAHASATTVAYA ( 3x )
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...ng-Mã/page155
HUYỀN THANH
https://archive.org › avalokitesvaras
Avalokiteśvara - Quán Âm Pháp Bộ : Huyền Thanh : Free Download, Borrow ...
4 thg 7, 2014 — A collection of the Vietnamese translations of the Esoteric Buddhist Sutras, in which all the Chinese transliteration of the Mantras and Dharanis ..
BẠCH-Y THẦN-CHÚ
BẠCH-Y ĐẠI-SĨ THẦN-CHÚ
BẠCH-Y QUÁN-THẾ-ÂM ĐẠI-SĨ LINH-CẢM THẦN-CHÚ
Dịch từ Hán-Văn & Hiệu đính theo Bản Hán-Việt đang hiện hành: Phổ Quảng
* BẢN 1:
Na mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Ứng Bạch-Y Quán-Thế-Âm Bồ-Tát (đọc 3 lần)
Na mô Phật、Na mô Pháp、Na mô Tăng, Na mô Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế âm Bồ Tát
ĐÁC CHỈ ĐÁ, ÁN DÀ LIỆP PHẠT ĐÁ, DÀ LIỆP PHẠT ĐÁ, DÀ HA PHẠT ĐÁ, LIỆP DÀ PHẠT ĐÁ, LIỆP DÀ PHẠT ĐÁ TÁ HA
Thiên-La Thần, Địa-La Thần、Nhân ly-Nạn, Nạn ly-Thân、Nhất-thiết tai-ương hóa vi-trần; MA-HA BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA.
* BẢN 2:
Na mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Ứng Bạch-Y Quang-Thế-Âm Bồ-Tát (đọc 3 lần)
Na mô Phật、Na mô Pháp、Na mô Tăng, Na mô Cứu Khổ Cứu Nạn Quang Thế âm Bồ Tát
ĐÁC CHỈ ĐÁ, ÁN DÀ LIỆP PHẠT ĐÁ, DÀ LIỆP PHẠT ĐÁ, DÀ HA PHẠT ĐÁ, LIỆP DÀ PHẠT ĐÁ, LIỆP DÀ PHẠT ĐÁ TÁ HA
Thiên-La Thần, Địa-La Thần、Nhân ly-Nạn, Nạn ly-Thân、Nhất-thiết tai-ương hóa vi-trần; MA-HA BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA.
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...ng-Mã/page157
cái bình đựng đầy nước mưa sạch hứng từ một trận mưa thuốc của các nhà thấu thị, trận mưa này đến từ năng lực của những sự ban phước và đại nguyện của Đức Phật Dược Sư Bhaishajyaguru. [44]
44- Do bởi đặc tính chữa bệnh, nước mưa trong những mùa nào đó kết hợp với chòm sao của các rishi, hay các vị thấu thị, được những người Tây Tạng hứng lấy và tích trữ.
http://tuyenphap.com/delog-hanh-trin...-cai-chet-2018
HÀNH TRÌ PHẬT DƯỢC SƯ: CHỮA TRỊ NHỮNG GỐC RỄ CỦA KHỔ ẢI - LAMA SURYA DAS
Khi những cảm giác và thái độ tích cực hoặc vui tươi đi qua từng cơ quan nội tạng và lưu thông khắp thân thể, năng lượng vật lý và hóa học của chúng ta sẽ được chuyển hóa và cân bằng._Tarthung Tulku
-------🌻🌻🌻-------
Phật giáo dạy rằng mọi thứ đều có sức mạnh hàn gắn và chữa lành. Điều này có nghĩa là bất cứ thứ gì chúng ta bắt gặp trong đời cũng có thể là phương thuốc hữu dụng. Đây là một khái niệm quan trọng, vì nó nhắc nhở rằng hạnh phúc nằm ngay trong tay chúng ta. Chúng ta có thể sử dụng môi trường và thế giới xung quanh để chữa lành trái tim, phục hồi sức khỏe. Chúng ta có thể được chữa lành bởi ngôn từ, bởi những mối quan hệ, bởi bạn bè; chúng ta có thể được chữa lành bởi tự nhiên. Lời cầu nguyện giúp chúng ta chữa lành, sự quán tưởng giúp chúng ta chữa lành. Nghiên cứu đã cho thấy vật nuôi cũng giúp chữa lành và rút ngắn thời kỳ phục hồi. Chúng ta có thể được chữa lành bởi mọi thứ chúng ta chạm vào, bởi mọi thứ chạm vào chúng ta. Tất cả đều mang tác dụng chữa lành; chúng ta có thể học cách chữa lành bản thân, trợ giúp trong quá trình chữa lành người khác. Năng lượng chữa lành xảy ra thông qua một trung gian lớn lao hơn mỗi người, nhưng lại có sẵn trong mỗi người.
Chân ngôn chữa lành của Dược sư Phật:
TA – YA – TA – OM BEKANZÉ BEKANZÉ
MAHABEKANZÉ RADZA SUMUD – GATÉ SOHA
Chân ngôn cũng giống như Kinh văn gốc ở chỗ đều dùng tiếng Phạn, ngôn ngữ cổ xưa của Ấn Độ; các âm có thể hơi khác, hoặc được phát âm khác tùy vào địa phương và dòng truyền thừa. Phát âm và hình thức của chân ngôn như trên được Dujom Rinpoche dạy cho tôi. Dù trong phương ngữ nào, nó cũng là chân ngôn của đức Phật dưới hình tướng bậc thầy chữa lành. Dịch thoát, nó có nghĩa là: “Cầu nguyện Phật Dược Sư, bậc giải toả mọi đau khổ, xin hãy tiêu trừ những đau đớn và khổ ải của con. Xin hãy tiêu trừ gốc rễ của khổ ải. Hãy thành tựu!”
Tôi thường tụng chân ngôn này để chữa lành người khác cũng như chính mình. Nó đã giúp tôi rất nhiều khi tôi bị viêm gan ở Kathmandu hồi đầu thập niên 1970. Trong các tu viện ở Himalaya và trong nơi ẩn dật ở Pháp, chúng tôi thường được yêu cầu dụng chân ngôn nhiều lần để giúp chữa lành một người hoặc một nhóm người bị khổ ải nào đó. Không lâu sau khi tới Himalaya lần đầu tiên, tôi đã phát nguyện ẩn cư một tháng. Tôi ở thung lũng Kathmandu gần tu viện Kopan của thầy tôi, sống một mình trong một căn lều lợp mái rạ, sàn bằng bùn. Đôi khi, đồ ăn của tôi chỉ là những hạt ngô sống từ cánh đồng và nước từ một cái giếng làng. Tôi trở nên ốm yếu. Do đã nguyện ở một mình tại nơi ẩn cư cô độc, nên tôi không có được sự chăm sóc y tế. Tôi nhớ đã tụng chân ngôn chữa lành này kết hợp với những quán tưởng Mật tông và những thiền định đi kèm. Khi ấy cũng như bây giờ, tôi đều tin rằng thực hành này đã dẫn tới sức khỏe và sự phục hồi của tôi.
Khi tôi ẩn cư ở Pháp, cha của một người bạn tôi sắp mất vì ung thư. Các bác sĩ đã sử dụng hóa trị nhưng không lạc quan về khả năng sống. Dilgo Khyentse Rinpoche đã truyền quán đảnh Dược Sư Phật và quán đảnh Sống lâu cho ông. Ông sống thêm được 10 năm nữa. Tất cả mọi người đều cho rằng điều này là do sự can thiệp về tâm linh của Khyentse Rinpoche, dù bản thân bệnh nhân không hoàn toàn cảm thấy thuyết phục.
Phật giáo dạy rằng mọi chúng sinh bẩm sinh đều có sẵn Phật tánh. Nhiệm vụ duy nhất của chúng ta là nhận ra nó, thức tỉnh trước đều chúng ta vốn là. Bằng con đường ấy, chúng ta trở nên tự do, hoàn hảo, toàn vẹn và đầy đủ. Khái niệm chữa lành về thể xác cũng như tinh thần là một khái niệm quan trọng với Phật giáo. Một trong những ý nghĩa lịch sử của từ thường được dùng để chỉ Phật pháp, Dharma, là “thứ chữa lành”. Đức Phật thường dùng những ví von về bệnh tật và sự chữa lành để giải thích nhiều khía cạnh khác nhau trong giáo pháp của Ngài. Trong những trường phái nguyên thủy của Phật giáo, bậc đạo sư giác ngộ hay Phật Thích Ca Mâu Ni thường được gọi là Thầy thuốc tối thượng. Giáo lý hay Pháp giải thoát của Ngài được gọi là Thuốc tối thượng, và Tăng đoàn hay cộng đồng tu tập được gọi là Những người chăm sóc tối thượng. Đức phật từng có lần nói, “Ta là một thầy thuốc không ai sánh được”. Vị thầy này chữa cho chúng ta khỏi sự tàn phá của bất an, bệnh tật, tuổi già và cái chết, đưa chúng ta tới một đời sống tốt hơn. Giác ngộ là sự chữa lành cao nhất. Trí huệ là phương thuốc rốt ráo nhất.
Người tu tập Phật giáo tin rằng giống như với bệnh tật, sự chữa lành chủ yếu đến từ tinh thần, không phải thể xác. Do đó, sự chữa lành của Phật giáo bắt đầu với một khảo sát về bản chất của tâm và sự tương tác giữa thể xác, năng lượng, trí não và tâm linh. Người tu tập Phật giáo nhận ra rằng nguyên nhân của bệnh tật là sự mất cân bằng trong môi trường xung quanh và trong bản thân. Sự chữa lành rốt ráo và sự khôi phục trạng thái hoàn hảo tự nhiên (cả bên trong lẫn bên ngoài) chỉ được tìm thấy thông qua chứng nghiệm tâm linh và giác ngộ. Do vậy, mọi kiểu tập luyện lành mạnh - dù là về tâm linh, cảm xúc, thể xác hay trí não - sẽ phát huy tác dụng cùng nhau để khôi phục năng lượng và tâm hồn khỏe mạnh. Chúng ta có thể già đi và chết, nhưng câu chuyện của chúng ta không chỉ có thế. Tôi biết rằng điều này là đúng. Vị thầy Tây Tạng đầu tiên của tôi, Lạt ma Thubten Yeshe, từng nói rằng, “Bệnh tật chỉ là một tên gọi. Cái chết chỉ là một khái niệm”. Lần đầu tiên nghe điều đó khi còn là một chàng trai trẻ, tôi đã hết sức kinh ngạc. Ông nói, “Chúng ta đã chết quá nhiều lần rồi, ta không sợ cái chết”.
Nhìn từ góc độ Phật giáo, sự chữa lành về thể xác chỉ là xử lý triệu chứng thay vì những nguyên nhân cấm dễ sâu hơn. Nếu không chữa lành trí não và tâm linh của chúng ta, bệnh tật rất có thể sẽ trở lại. Những mô thức ứng xử thiếu lành mạnh và những thói quen thâm căn cố đế không đem lại sự thỏa mãn sẽ kéo dài mãi, tiếp tục tác động xấu đến chúng ta không chỉ kiếp này mà còn những kiếp khác. Trong cuốn sách của Lạt ma Tulku Thondup Rinpoche phái Nyingma, Sức Mạnh Chữa Lành Của Tâm, ông liệt kê 4 năng lực chữa lành của tâm: những hình ảnh tích cực, những lời nói tích cực, những cảm giác tích cực, những niềm tin tích cực. Các phẩm chất bên trong và sự trau dồi, phát triển chúng thông qua thiền định và rèn luyện thái độ có thể củng cố năng lực chữa lành bẩm sinh của chúng ta, giúp chữa lành những khổ ải về tâm lý, cảm xúc và thể xác.
Thiền định, tụng niệm và cầu nguyện theo nhiều dạng khác nhau là những kỹ thuật chữa lành chính của Phật giáo, bởi chúng có khả năng chuyển hóa ý thức và những tầng nhận thức sâu hơn, ẩn dưới và bao trùm toàn bộ sự tồn tại hữu hình của chúng ta. Đức tin, sự chí thành cũng như sự kiên trì thực hiện (thông qua hành trì, quyết tâm và động lực/ý định không ngừng nghỉ) được xem là quan trọng đối với sự chữa lành. Phật giáo cũng dạy rằng đức hạnh, bố thí và cầu nguyện là những yếu tố quan trọng góp phần vào sự chữa lành thể xác và tinh thần.
Hành trì Dược Sư Phật thường được dạy và trao truyền trong truyền thống Kim Cương thừa của Tây Tạng thông qua một nghi thức truyền quán đảnh. Việc tiếp nhận những hành trì như vậy chỉ qua sách vở đương nhiên là khó, nhưng ngày nay, nhiều người đã có Internet, họ có thể tìm được hình ảnh, thông tin về các thuyết giảng. Có những cuốn sách của các Lạt ma Tây Tạng uyên bác như Dr. Yeshe Dondon và Tulku Thondup. Trogawa Rinpoche có một Học viện Y khoa ở Nepal. Nhiều Lạt ma thỉnh thoảng cũng có những thuyết giảng nâng cao ở phương Tây. Hành trì Dược Sư Phật có nguồn gốc trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, trong đó nói rằng Dược Sư Phật chính là Đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni.
Hành trì Dược Sư Phật là một hành trì quán tưởng, có thể được sử dụng để khuyến khích và thúc đẩy sự chữa lành bản thân và sự chữa lành người khác ở nhiều cấp độ khác nhau. Để khởi đầu, chúng ta hãy có tư thế thoải mái, tốt nhất là tư thế ngồi với lưng thẳng, nhưng nếu cần ngồi tựa cũng không sao. Bắt đầu bằng cách hít vào và thở ra qua mũi. An bình, yên lặng và tập trung.
Nhắm mắt, quán tưởng Dược Sư Phật với hào quang rực rỡ, ngồi trong tư thế liên hoa, hình tướng giống như Phật Thích Ca Mâu Ni, Đức Phật mà tất cả chúng ta đều quen thuộc. Dược Sư Phật có màu xanh lưu ly rực rỡ. Tay phải của Ngài cầm cây thuốc chữa bách bệnh (myrobalan), giống như thể Ngài đang trao cây thuốc cho chúng ta. Các ngón tay của tay phải chạm đất đặt gần đầu gối phải. Tay trái đặt trong lòng ở khế ấn thiền định, trong tay là bình bát chứa nước cam lộ. Dược Sư Phật mặc y dài màu vàng nghệ của tu sĩ. Nếu truy cập Internet, bạn sẽ tìm được một hình ảnh của Dược sư Phật màu xanh.
Dược Sư Phật tượng trưng cho sự cân bằng hoàn hảo, sự hòa hợp bên trong và bên ngoài, sự giác ngộ tâm linh. Tôi được dạy rằng Dược Sư Phật đã nguyện giúp tất cả chúng sanh đi vào giác đạo, nguyện gia trì để chúng ta có được mọi sự chữa lành về thể xác, tinh thần và tâm lý. Hành trì này rất phổ biến những tông phái Phật giáo dựa trên Kinh Diệu Pháp Liên Hoa ở Trung Á và Đông Á.
Quán tưởng Dược Sư Phật sẽ đưa người hành trì vào Phật trường với hào quang rực rỡ từ chư Phật. Các vị Phật ở khắp nơi, hàng triệu triệu những vị Phật sáng ngời vượt mọi mô tả, tràn đầy an lạc và phúc lành. Chỉ cần quán tưởng như vậy đã chữa khỏi sự bất an của tôi.
bây giờ, hãy hít vào, thở ra qua mũi và bắt đầu tụng chân ngôn chữa lành của Dược Sư Phật. Tụng nhiều lần:
TA – YA – TA – OM BEKANZÉ BEKANZÉ
MAHABEKANZÉ RADZA SUMUD – GATÉ SOHA
Từ một không gian xanh rực rỡ, quán tưởng Dược Sư Phật hay Sangyé Menla - danh hiệu của Ngài trong tiếng Tây Tạng. Ngài xuất hiện với hình tượng như cầu vồng, ở trước mặt bạn, hơi cao hơn một chút trong không trung. Ngài ngồi trên tòa sen, biểu tượng của sự thuần khiết; tòa sen ở trên một ngai màu xanh lưu ly, tượng trưng cho sự chữa lành. Sự hiện diện tâm linh của Sangyé Menla tạo cho bạn cảm giác nhẹ nhàng, bình an, ấm lòng, truyền gia trì lực, nâng cao đức tin. Ngài tỏa hào quang từ 3 luân xa - luân xa trán, luân xa cổ họng và luân xa trái tim. Ba ánh sáng tương ứng - màu trắng, màu đỏ và màu xanh - chiếu tới ba trung tâm luân xa của bạn trong một tiến trình trộn lẫn và hòa hợp. Sangyé Menla đang truyền dạy cho bạn theo nhiều cách phi khái niệm, ở mọi cấp độ: bên ngoài và bên trong, thể xác và tinh thần, bí mật và thâm diệu. Có thể quán tưởng Ngài như một hình ảnh lớn hoặc nhỏ đi vào những phần cần chữa lành của bạn. Sử dụng hình ảnh quán tưởng về vị Phật như một tia laser mang năng lượng tập trung, được hướng một cách cẩn thận vào từng điểm cụ thể, tịnh hóa, tiếp sinh lực, đem lại sức sống cho điểm ấy.
Khi bạn đang trì chân ngôn và được hào quang chiếu tới, hãy khấn nguyện xin được tịnh hóa, chữa lành , gia trì, chuyển hóa và thực chứng giác ngộ. Trong khi ấy, cam lộ tưới đẫm bạn, tiêu trừ mọi sự ốm đau, bệnh tật và mất cân bằng. Bạn đang được tẩy rửa và tịnh hóa; mọi tiêu cực, độc hại, ảo tưởng và nghiệp lực được đốt cháy và tẩy sạch bởi hào quang lấp lánh rực rỡ tỏa ra từ Dược Sư Phật màu xanh. Cảm nhận năng lượng luân chuyển trong bạn giống như một sự trao truyền tâm linh, hòa trộn với bản chất phúc lạc được tượng trưng bởi hình ảnh vị Phật màu xanh.
Tiếp tục trì chân ngôn Dược Sư Phật, đồng thời tập trung vào ước muốn và khát vọng giác ngộ vì mọi chúng sinh; hãy để sự trắc ẩn và ước nguyện chữa lành khổ ải của mọi chúng sinh được chắp cánh và thăng hoa. Vì lợi ích của một và tất cả!
Tiếp tụng trì chân ngôn Dược Sư Phật:
TA – YA – TA – OM BEKANZÉ BEKANZÉ
MAHABEKANZÉ RADZA SUMUD – GATÉ SOHA
Quán tưởng hình tướng Dược Sư Phật đi vào bạn, xoa dịu mọi ốm đau, rắc rối, khổ ải của bạn. Để ánh sáng từ Dược Sư Phật chữa lành những mâu thuẫn bên trong, đánh thức năng lượng thuần khiết vô hạn của bạn. Cảm nhận đức tin và sự trông cậy vào sức mạnh chữa lành của Phật, vào chân lý tối cao của Pháp. Quán tưởng Dược Sư Phật an vị tại những bộ phận trên cơ thể và tại tinh thần, nơi cần sự chữa lành và phục hồi. Để Dược Sư Phật an trú trong tim, ánh sáng cầu vồng của Ngài tỏa ra, chữa lành những nơi bạn cảm thấy mệt mỏi và suy mòn.
Bây giờ, hãy quán tượng chính bạn là Dược Sư Phật. Để sự khỏe mạnh về cảm xúc, tâm lý và thể xác của Ngài tràn khắp thân tâm bạn, khiến bạn cảm nhận sự hòa hợp phúc lạc và vui sướng. Trong quá trình quán tưởng bản thân như Dược Sư Phật, hãy nhớ rằng Phật tính bẩm sinh luôn ở trong bạn, chỉ đợi bạn chạm đến và đánh thức. Khi quán tưởng bản thân như Dược Sư Phật, bạn cũng đang quán tưởng Đức Phật giác ngộ ngụ trong sâu thẳm của bản thể bạn. Điều này không giống như sự tưởng tượng đơn thuần, bởi lẽ Dược Sư Phật thật sự luôn ở trong bạn. Hãy chạm đến hào quang bẩm sinh này, sử dụng nó để chữ lành và phục hồi mọi thứ bất ổn.
Tiếp tụng trì:
TA – YA – TA – OM BEKANZÉ BEKANZÉ
MAHABEKANZÉ RADZA SUMUD – GATÉ SOHA
Là Dược Sư Phật, hãy để sức mạnh chữa lành vô giới hạn của bạn vươn ra, chạm tới những người cần chữa lành khác. Bạn có thể thực hiện điều này bao lâu tùy thích. Hãy mở rộng. Giải phóng những câu thúc xung quanh con người thật sự cao hơn của bạn. Để sự trắc ẩn và tình yêu chữa lành vô cùng sâu sắc của bạn vươn ra, bao lấy bất kỳ người nào mà bạn biết là cần giúp đỡ; hãy để nó mở rộng, ôm trọn tất cả. An trú trong ánh sáng cao quý bên trong nhưng lại vượt mọi ý niệm về trong hay ngoài, bản thân hay người khác. Chỉ trì và cầu nguyện:
TA – YA – TA – OM BEKANZÉ BEKANZÉ
MAHABEKANZÉ RADZA SUMUD – GATÉ SOHA
Trích: “Buông Bỏ Con Người Cũ” Tác giả: Lama Surya Das
Dịch giả: Thái An NXB: Hồng Đức
http://anphat.org/hoasen/index/hanh-...079/3079/10615
25. Mãhã Mãhã / MAA-LAA MAA-LAA / Ma ra ma ra
Hai câu chú này, Hán dịch là “tăng trưởng”. Cũng có nghĩa là “như ý” hoặc “tuỳ ý”. Làm tăng trưởng phước huệ, làm cho mọi việc đều được tốt lành như ý.
“Như ý” nghĩa là tuỳ thuận với tâm nguyện mà được đáp ứng.
-
MAHA – có ý nghĩa tuyệt vời.
https://hoasenphat.com/than-chu-phat...niye-soha.html
https://thuvienhoasen.org/p17a1999/phan-giang-cu-giai
http://phanmynhan88.blogspot.com/201...arani.html?m=1
CẢI MỆNH CHỮA BỆNH
Bằng Thần Chú - Bằng Niệm Chú
+ Tụng Mật Chú: Mật Chú có nhiều quyền lực trong việc chữa trị bệnh tật khi tụng bằng tâm chân thành, tập trung sâu sắc, và ý định chính đáng. Chú Đại Bi và Chú Phật Dược là hai ví dụ như vậy. Khi tụng, mỗi Mật Chú tạo ra số lượng công đức to tát và có tác dụng chữa bệnh và biến đổi tuyệt vời (Nguồn: Phật giáo với y học)
+ Chữa Bệnh Bằng Niệm Chú/ Thần Chú: Trong Phật kinh nói đến "niệm chú", đích thực đây là phương pháp rất cao minh. Khi bị bệnh, Phật dạy bạn niệm chú, chú vừa niệm thì bệnh liền khỏi. Chúng ta cảm thấy việc này rất thần kỳ, thần kỳ không ngờ, kỳ thật phương pháp này rất là khoa học, nó là dùng âm nhạc để chấn động, làm cho bộ phận không thông này của bạn được đã thông. Trong Phật kinh có rất nhiều chú ngữ dùng để trị bệnh, hiện tại chúng ta niệm không linh, là vì âm niệm không chính xác, cho nên việc này nhất định phải có truyền thừa, phải khẩu truyền. Âm không chính xác thì không đạt được hiệu quả. Ngoài ra âm lượng cần phải có lớn nhỏ, phải là lời rất chuẩn xác, thì nó sẽ chấn động một bộ phận nào đó trong nội tạng thân thể bạn. Phương pháp này của Phật còn cao minh hơn so với châm cứu Trung Quốc. Châm cứu còn phải dùng kim, còn phải dùng tay để xoa bóp, phương pháp của Phật không cần thiết như vậy, dùng âm thanh để chấn động. Phương pháp rất cao minh, rất đáng tiếc là văn tự chú ngữ này ghi chép còn ở trong Đại Tạng Kinh, nhưng không có người biết đọc, bị thất truyền, thế nhưng nó nói với chúng ta một chân lý, chân lý này chính là phải "quán thông" mới được.(Kinh Thập thiện- Tập 31 - PS Tịnh Không giảng)
+ Kết Ấn Trì Chú - THỦY CHÚ Chữa Bệnh:
+ Ví dụ Trì Chú: 6. Dược Sư Quán Đỉnh Chân Ngôn
namo bhagavate, bhaisaijya guru, vaiturya, prabha, rajaya tathagataya, arhate, samyak sambuddhaya, tadyatha. om bhaisạijye, bhaisaijye,
bhaisaijya, samudgate svàhà.
Âm Việt:
Nam mô Bạc-già-phạt-đế, bệ sát xả lụ-rô, thích lưu-li, bát lạt bà, hắt ra xà giã, đát tha yết đa gia, a ra hát đế, tam miệu tam bột đà gia, đát điệt tha. Án bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xã, tam một yết đế tóa ha.
Dịch Nghĩa:
Quy mạng lễ Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai Ứng Cúng Chính Đẳng Chính Giác – Chân ngôn nói rằng: Xin Ngài hãy ban cho con thuốc diệt trừ bệnh Quả Báo, bệnh Nghiệp Ác, bệnh Kiến Tư, bệnh Trần Sa, bệnh Vô Minh để cho con mau chóng phát sinh được đạo quả Vô Thượng Bồ Đề.
Trich Xuất Xứ:
Kinh Dược Sư: Theo truyền thuyết, nếu ai có bịnh, chỉ chuyên nhứt tâm đọc thần chú này 108 biến để chú nguyện vào ly nước sạch rồi uống thì các bệnh đều tiêu trừ. Còn người nào chuyên tâm trì tụng trọn đời thì được không đau ốm, đến lúc mạng chung được vãng sanh về thế giới Tịnh Lưu Ly bên Đông Phương của Phật Dược Sư.(Nguồn: Kinh Dược Sư)
+ Gia Trì Chữa Bệnh Cho Người Khác:
Câu Hỏi 123: Làm thế nào để gia trì cho người bệnh?
Đáp: Nếu muốn trị bệnh cho người thì trước tiên hãy chữa bệnh cho chính mình rồi hãy nói? (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc)
+ Chữa bệnh bằng Chú Đại Bi: Chú Đại Bi tức là đại chú của tâm đại bi. Nó có thể thông thiên triệt địa. Nếu bạn có thể mọi ngày trì tụng 108 biến, liên tục trong suốt ba năm, thì sau đó bạn có thể dùng Chú Đại Bi để trị bệnh.
Lúc ấy, tay tới là bệnh trừ. Tôi biết về công hiệu của Chú Đại Bi. Hy vọng các bạn mỗi người dùng sức mạnh của Chú Đại Bi để vãng cứu hạo kiếp (tai ương, đại nạn) của thế giới, khiến cho người ta vĩnh viễn không còn tai nạn, và chánh pháp vĩnh viễn ở mãi trong thế gian. (Nguồn: Facebook Palmlien - HT Tuyên Hóa giảng)
http://thanhdo.vn/bai-viet/449-ung-d...-benh-tat.html
KINH DƯỢC SƯ
( Phạn Ngữ )
bhaiṣajyaguruvaidūryaprabharājasūtram |
oṃ namaḥ sarvajñāya | namo bhagavate bhaiṣajyaguruvaidūryaprabharājāya tathāgatāya ||
evaṃ mayā śrutam | ekasmin samaye bhagavān janapadacaryāṃ caramāṇo'nupūrveṇa yena vaiśālīṃ (lī) mahānagarīṃ (rī) tenānuprāpto'bhūt | tatra khalu bhagavān vaiśālyāṃ viharati sma vādyasvaravṛkṣamūle mahatā bhikṣusaṃghena sārdhamaṣṭabhirbikṣusahasraiḥ ṣaṭ-triṃśadbhiśca bodhisattvasahasraiḥ sārdhaṃ rājāmātyabrāhmaṇagṛhapatisaṃhatyā devanāgayakṣagandharvāsuragaruḍakinnaramahor agamanuṣyāmanuṣyaparṣadā ca parivṛtaḥ puraskṛto dharmaṃ deśayati sma | atha khalu mañjuśrīrdharmarājaputro buddhānubhāvenotthāyāsanādekaṃsamuttarāsa gaṃ kṛtvā dakṣiṇaṃ jānumaṇḍalaṃ pṛthivyāṃ pratiṣṭhāpya yena bhagavāṃstenāñjaliṃ praṇamya bhagavantametadavocat-deśayatu bhagavaṃsteṣāṃ tathāgatānāṃ nāmāni, teṣāṃ pūrvapraṇidhānavistaravibhaṅgam | vayaṃ śrutvā sarvakarmāvaraṇāni viśodhayema paścime kāle paścime samaye saddharmapratirūpake vartamāne sattvānāmanugrahamupādāya | atha bhagavān mañjuśriye kumārabhūtāya sādhukāramadāt-sādhu sādhu mañjuśrīḥ, mahākāruṇikastvaṃ mañjuśrīḥ | tvamaprameyāṃ karuṇāṃ janayitvā samādhesase (?) nānākarmāvaraṇenāvṛtānāṃ sattvānāmarthāya hitāya sukhāya devamanuṣyāṇāṃ ca hitārthāya | tena hi tvaṃ mañjuśrīḥ śṛṇu, sādhu ca suṣṭhu ca manasi kuru, bhāṣiṣye | evaṃ bhagavan, iti mañjuśrīḥ kumārabhūto bhagavataḥ pratyaśrauṣīt | bhagavāṃstasyaitadavocat -
asti mañjuśrīḥ pūrvasmin digbhāge ito buddhakṣetrād daśagaṅgānadīvālukāsamāni buddhakṣetrāṇyatikramya vaidūryanirbhāsā nāma lokadhātuḥ | tatra bhaiṣajyaguruvaidūryaprabho nāma tathāgato'rhan samyaksaṃbuddho viharati vidyācaraṇasaṃpannaḥ sugato lokavidanuttaraḥ puruṣadamyasārathiśca śāstā devānāṃ manuṣyāṇāṃ ca buddho bhagavān| tasya khaku punarmañjuśrīḥ bhagavato bhaiṣajyaguruvaidūryaprabhasya tathāgatasya pūrvaṃ bodhisattvacārikāṃ carata imāni dvādaśa mahāpraṇidhānānyabhūvan | katamāni dvādaśa mahāpraṇidhānāni ? prathamaṃ tasya mahāpraṇidhānamabhūtyadāhamanāgate'dhvani anuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam, tadā mama śarīraprabhayā aprameyāsaṃkhyeyāparimāṇā lokadhātavo bhrājeraṃstapyeran viroceran | yathā cāhaṃ dvātriṃśadbhirmahāpuruṣalakṣaṇaiḥ samanvāgataḥ, aśītibhiścānuvyañjanairalaṃkṛtadehaḥ, tathaiva sarvasattvā bhaveyuḥ || (dvitīyaṃ tasya mahāpraṇidhānamabhūt-yadāhamanāgate'dhvani anuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam, tadā bodhiprāptasya ca me kāyaḥ anarghavaidūryamaṇiriva antarbahiratyantapariśuddho vimalaprabhāsaṃpannaḥ syāt | vipulakāyastadupamena śriyā tejasā ca pratyupasthitaḥ syāt | tasyāṃśujālāni raviśaśikarānatikrameyuḥ te ca ye kecit sattvā lokadhātau jātāśca, ye cāpi puruṣāḥ, te tamisrāyāṃ ratrāvandhakāre nānādiśaṃ gaccheyuḥ | sarvadikṣu mama ābhayāṃ spṛṣṭāḥ kuśalāni ca) karmāṇi kurvīran || tṛtīyaṃ tasya mahāpraṇidhānamabhūt-yadāhamanāgate------tadā bodhiprātptasya ca me ye sattvā aprameyaprajñopāyabalādhānena aparimāṇasya sattvadhātorakṣayāyopabhogāya paribhogāya syuḥ | kasyaci(t) sattvasya kenacid vaikalyaṃ na syāt || caturthaṃ tasya mahāpraṇidhānamabhūt-yadāhamanāgate --- tadā bodhiprāpto'haṃ ye kumārgapratipannāḥ sattvāḥ śrāvakamārgapratipannāḥ pratyekabuddhamārgapratipannāśca, te sattvā anuttare bodhimārge mahāyāne niyojayeran || pañcamaṃ tasya mahāpraṇidhānamabhūt-yadāhamanāgate --- tadā bodhiprāptasya ca me ye sattvā mama śāsane brahmacaryaṃ careyuḥ, te sarve akhaṇḍaśīlāḥ syuḥ susaṃvṛtāḥ | mā ca kasyaci(t) śīlavipannasya mama nāmadheyaṃ śrutvā kvacid durgatigamanaṃ syāt || ṣaṣṭhaṃ tasya mahāpraṇidhānamabhūt-yadāhamanāgate --- tadā bodhiprāptasya ca me ye sattvā hīnakāyā vikalendriyā durvarṇā jaḍaiḍamūkā laṃgāḥ kubjāḥ śvitrāḥ kuṇḍā andhā badhirā unmattā ye cānye śarīrasthavyādhayaḥ, te mama nāmadheyaṃ śrutvā sarve sakalendriyāḥ suparipūrṇagātrā bhaveyuḥ || saptamaṃ tasya mahāpraṇidhānamabhūt-yadāhamanāgate --- tadā bodhiprāptasya ca me ye nānāvyādhiparipīḍitāḥ sattvā atrāṇā aśaraṇā bhaiṣajyopakaraṇavirahitā anāthā daridrā duḥkhitāḥ, sace(t) teṣāṃ mama nāmadheyaṃ karṇapuṭe nipatet, teṣāṃ sarvavyādhayaḥ praśameyuḥ, nīrogāśca nirupadravāśca te syuryāva bodhiparyavasānam || aṣṭamaṃ tasya mahāpraṇidhānamabhūt-yadāhamanāgate --- tadā yaḥ kaścinmātṛgrāmo nānāśtrīdoṣaśataiḥ saṃlkiṣṭaṃ strībhāvaṃ vijugupsitaṃ mātṛgrāmayoniṃ ca parimoktukāmo mama nāmadheyaṃ dhārayet, tasya mātṛgrāmasya na strībhāvo bhavet yāva bodhiparyavasānam || navamaṃ tasya mahāpraṇidhānamabhūt-yadāhamanāgate --- tadā bodhiprāpte'haṃ sarvasattvān mārapāśabandhanabaddhān nānādṛṣṭigahanasaṃkaṭaprāptān sarvamārapāśadṛṣṭigatibhyo vinivartya samyagdṛṣṭau niyojya ānupūrvyeṇa bodhisattvacārikāṃ saṃdarśayeyam || daśamaṃ tasya mahāpraṇidhānamabhūta--yadāhamanāgate--- tadā bodhiprāptasya ca me ye kecit sattvā rājādhibhayabhītāḥ, ye vā bandhanabaddhāvaruddhāḥ vadhārhā anekamāyābhirupadrutā vimānitāśca kāyikavācikacaitasikaduḥkhairabhyāhatāḥ, te mama nāmadheyasya śravaṇena madīyena puṇyānubhāvena ca sarvabhayopadravebhyaḥ parimucyeran || ekādaśamaṃ tasya mahāpraṇidhānamabhūta-yadāhamanāgate --- tadā bodhiprāptasya ca me ye sattvāḥ kṣudhāgninā prajvalitāḥ āhārapānaparyeṣṭyabhiyuktāḥ tannidānaṃ pāpaṃ kurvanti, sace(t) te mam nāmadheyaṃ dhārayeyuḥ, ahaṃ teṣāṃ varṇagandharasopetena āhāreṇa śarīraṃ saṃtarpayeyam || dvādaśamaṃ tasya mahāpraṇidhānamabhūt-yadāhamanāgate--- tadā bodhiprāptasya ca me ye kecit sattvā vasanavirahitā daridrāḥ śītoṣṇadaṃśamaśakrairupadrutā rātriṃdivaṃ duḥkhamanubhavanti, sace(t) te mama nāmadheyeṃ dhārayeyuḥ, ahaṃ teṣāṃ ca vastraparibhogamupasaṃhareyam, nānāraṅgai raktāṃśca kāmānupanāmayeyam, vividhaiśca ratnābharaṇagandhamālyavilepanavādyatūryatā lāvacaraiḥ sarvasattvānāṃ sarvābhiprāyān paripūrayeyam || imāni dvādaśa mahāpraṇidhānāni mañjuśrīḥ bhagavān bhaiṣajyaguruvaidūryaprabhastathāgato'rhan samyaksaṃbuddhaḥ pūrvaṃ bodhicārikāṃ caran kṛtavān ||
tasya khalu punarmañjuśrīḥ bhagavato bhaiṣajyaguruvaidūryaprabhasya tathāgatasya yat praṇidhānaṃ yacca buddhakṣetraguṇavyūhaṃ tanna śakyaṃ kalpena vā kalpāvaśeṣeṇa vā kṣapayitum | suviśuddhaṃ tad buddhakṣetraṃ vyapagataśilāśarkarakaṭhalyamapagatakāmado amapagatāpāyaduḥkhaśabdamapagatamātṛgrām am | vaidūryamayī ca sā mahāpṛthivī kuḍyaprākāraprāsādatoraṇagavākṣajālani ryūhasaptaratnamayī, yadṛśī sukhāvatī lokadhātustādṛśī | tatra vaidūryanirbhāsāyāṃ lokadhātau dvau bodhisattvau mahāsattvau teṣāmaprameyāṇāmasaṃkhyeyānāṃ bodhisattvānāṃ mahāsattvānāṃ pramukhau, ekakaḥ sūryavairocano nāma, dvitīyaścandravairocanaḥ, yau tasya bhagavato bhaiṣajyaguruvaidūryaprabhasya tathāgatasya saddharmakośaṃ dhārayataḥ | tasmāt tarhi mañjuśrīḥ śrāddhena kulaputreṇa vā kuladuhitrā vā tatra buddhakṣetropapattaye praṇidhānaṃ karaṇīyam ||
punaraparaṃ bhagavān mañjuśriyaṃ kumārabhūtamāmantrayate sma-santi mañjuśrīḥ pṛthagjanāḥ sattvāḥ, ye na jānanti kuśalākuśalaṃ karma | te lobhābhibhūtā ajānanto dānaṃ dānasya ca mahāvipākam, bālāgramūrkhāḥ śraddhendriyavikalā dhanasaṃcayakṣaṇābhiyuktāḥ | na ca dānasaṃvibhāge teṣāṃ cittaṃ kramate | dānakāle upasthite svaśarīramaṃsacchedane iva vā manaso (duḥkhaṃ) bhavati | aneke ca sattvāḥ ye svayameva na paribhuñjanti, prāgeva mātāpitṛbhāryāduhitṝṇāṃ dāsyanti, prāgeva dāsadāsīkarmakarāṇām, prāgevānyeṣāṃ yācakānām, te tādṛśāḥ sattvā itaścyutvā pretaloke upapatsyante tiryagyonau vā | yaiḥ pūrvaṃ manuṣyabhūtaiḥ śrutaṃ bhaviṣyati tasya bhagavato bhaiṣajyaguruvaidūryaprabhasya tathāgatasya nāmadheyam, tatra teṣāṃ yamalokasthitānāṃ tiryagyonisthitānāṃ vā tasya tathāgatasya nāma su(saṃ?) mukhībhaviṣyati | saha smaraṇamātreṇa ataścyutvā punarapi manuṣyaloke upapatsyante, jātismarāśca bhaviṣyanti | te te durgatibhayabhītā na bhūyaḥ kāmaguṇebhirarthikā bhaviṣyanti, dānābhiratāśca bhaviṣyanti dānasya ca varṇavādinaḥ | sarvamapi parityāgenānupūrveṇa karacaraṇaśīrṣanayanaṃ ca māṃsaśoṇitaṃ (ca) yācakānāmanupradāsyanti, prāgeva anyaṃ dhanaskandham ||
punaraparaṃ mañjuśrīḥ santi sattvāḥ ye tathāgatānuddiśya śikṣāpadāni dhārayanti, te śīlavipattimāpadyante, dṛṣṭivipattimācāravipattiṃ vā kadācidāpadyante | śīlavipannā ye punaḥ śīlavanto bhavanti, śīlaṃ rakṣanti, na punarbahuśrutaṃ paryeṣyanti, na ca tathāgatabhāṣitānāṃ gambhīramarthamājānanti| ye ca punarbuhuśrutāḥ, te ādhimānikā bhaviṣyanti mānastabdhāḥ, pareṣāmīrṣyāparāyaṇāḥ saddharmamavamanyante pratikṣipanti | mārapakṣikāste tādṛśā mohapuruṣāḥ svayaṃ kumārgapratipannāḥ | anyāni cānekāni sattvakoṭiniyutaśatasahasrāṇi mahāprapāte prapātayanti | teṣāmevaṃrūpāṇāṃ sattvānāṃ bhūyiṣṭhena narakavāsagatirbhaviṣyati | tatra yaistasya bhagavato bhaiṣajyaguruvaidūryaprabhasya tathāgatasya nāmadheyaṃ śrutaṃ bhaviṣyanti, teṣāṃ tatra narake sthitānāṃ buddhānubhāvena tasya tathāgatasya nāmadheyaṃ sumukhībhaviṣyati | te tataścyutvā punarapi manuṣyaloke upapatsyante samyagdṛṣṭisaṃpannā vīryavantaḥ kalyāṇāśayāḥ | te gṛhānutsṛjya tathāgataśāsane pravrajitvā ānupūrveṇa bodhisattvacārikāṃ paripūrayiṣyanti ||
punaraparaṃ mañjuśrīḥ santi sattvāḥ ye ātmano varṇaṃ bhāṣante matsariṇaḥ, pareṣāmavarṇamuccārayanti | ātmotkarṣakaparapaṃsakāḥ sattvāḥ parasparasatkṛtvāḥ tryapāyeṣu bahūni varṣasahasrāṇi duḥkhamanubhaviṣyanti | te anekavarṣasahasrāṇāmatyayena tataścyutvā gavāśvoṣṭragardabhādiṣu tiryagyoniṣu upapadyante | kaśādaṇḍaprahāreṇa tāḍitāḥ kṣuttarṣapīḍitaśarīrā mahāntaṃ bhāraṃ vahamānā mārgaṃ gacchanti | yadi kadācit manuṣyajanmapratilābhaṃ pratilapsyante, te nityakālaṃ nīcakuleṣu upapatsyante, dāsatve ca paravaśagatā bhaviṣyanti | yaiḥ pūrvaṃ manuṣyabhūtaistasya bhagavato bhaiṣajyaguruvaidūryaprabhasya tathāgatasya nāmadheyaṃ śrutaṃ bhaviṣyati, te tena kuśalamūlena sarvaduḥkhebhyaḥ parimokṣyante, tīkṣṇendriyāśca bhaviṣyanti paṇḍitā vyaktā meghāvinaśca | kuśalaparyeṣṭyabhiyuktā nityaṃ ca kalyāṇamitrasamavadhānaṃ lapsyante, mārapāśamucchidya avidyāṇḍakośaṃ bhindanti, kleśanadīmucchoṣayanti, jātijarāvyādhimaraṇabhayaśokaparidevaduḥkh adaurmanasyopāyāsebhyaḥ parimucyanti ||
punaraparaṃ mañjuśrīḥ santi sattvāḥ ye paiśunyābhiratāḥ sattvānāṃ parasparaṃ kalahavigrahavivādān kārāpayanti | te parasparaṃ vigrahacittāḥ sattvā nānāvidhamakuśalamabhisaṃskurvanti kāyena vācā manasā, anyonyamahitakāmā nityaṃ parasparamanarthāya parākrāmanti | te ca vanadevatāmāvāhayanti vṛkṣadevatāṃ giridevatāṃ ca | śmaśāneṣu pṛthag bhūtānāvāhayanti | tiryagyonigatāṃśca prāṇino jīvitād vyavaropayanti | māṃsarudhirabhakṣān yakṣarākṣasān pūjayanti | tasya śatrornāma vā śarīrapratimāṃ vā kṛtvā tatra ghoravidyāṃ sādhayanti kākhordavetālānuprayogeṇa jīvitāntarāyaṃ vā śarīravināśaṃ vā kartukāmāḥ | yaiḥ punastasya bhagavato bhaiṣajyaguruvaidūryaprabhasya tathāgatasya nāmadheyaṃ śrutaṃ bhaviṣyati, teṣāṃ na śakyaṃ kenāntarāyaṃ kartum | sarve ca te parasparaṃ maitracittā hitacittā avyāpannacittāśca viharanti svakasvakena parigraheṇa saṃtuṣṭāḥ ||
punaraparaṃ mañjuśrīḥ etāścatasraḥ parṣado bhikṣubhikṣuṇyupāsakopāsikāḥ, ye cānye śrāddhāḥ kulaputrā vā kuladuhitaro vā āryāṣṭāṅgaiḥ samanvāgatā upavāsamupavasanti, ekavārṣikaṃ vā traimāsikaṃ vā śikṣāpadaṃ dhārayiṣyanti, yeṣāmevaṃpraṇidhānamevamabhiprāyam-anena vayaṃ kuśalamūlena paścimāyāṃ diśi sukhāvatyāṃ lokadhātau upapadyema yatrāmitāyustathāgataḥ | yaiḥ punastasya bhagavato bhaiṣajyaguruvaidūryaprabhasya tathāgatasya nāmadheyaṃ śrutaṃ bhaviṣyati, teṣāṃ maraṇakālasamaye aṣṭau bodhisattvā ṛddhyāgatā upadarśayanti, te tatra nānāraṅgeṣu padmeṣūpapādukāḥ prādurbhaviṣyanti | kecid punardevaloke upapadyante | teṣāṃ tatropapannānāṃ pūrvakaṃ kuśalamūlaṃ na kṣīyate, na ca durgatigamanaṃ bhaviṣyati | te tataścyutvā iha manuṣyaloke upapatsyante | rājāno bhaviṣyanti caturdvīpeśvarāścakravartinaḥ | te anekāni sattvakoṭīniyutaśatasahasrāṇi daśasu kuśaleṣu karmapatheṣu pratiṣṭhāpayiṣyanti | apare punaḥ kṣatriyamahāśālakuleṣu brāhmaṇamahāśālakuleṣu prabhūtadhanadhānyakośakoṣṭhāgārasamṛdd heṣu ca kuleṣu upapatsyante | te rūpasaṃpannāśca bhaviṣyanti, eśvaryasaṃpannāśca bhaviṣyanti, parivārasaṃpannāśca bhaviṣyanti | yaśca mātṛgrāmaḥ tasya bhagavato bhaiṣajyaguruvaidūryaprabhasya tathāgatasya nāmadheyaṃ śrutvā ca udgrahīṣyati, tasya sa eva paścimaḥ strībhāvaḥ pratikāṅkṣitavyaḥ ||
atha khalu mañjuśrīḥ kumārabhūto bhagavantametadavocat-ahaṃ bhagavan paścime kāle paścime samaye teṣāṃ śrāddhānāṃ kulaputrāṇāṃ kuladuhitṝṇāṃ ca tasya bhagavato bhaiṣajyaguruvaidūryaprabhasya tathāgatasya nāmadheyaṃ śrāvayiṣyāmi, antaśaḥ svapnāntaramapi buddhanāmakaṃ karṇapuṭeṣu upasaṃhārayiṣyāmi | ye idaṃ sūtraratnaṃ dhārayiṣyanti vācayiṣyanti deśayiṣyanti paryavāpsyanti, parebhyo vistareṇa saṃprakāśayiṣyanti, likhiṣyanti likhāpayiṣyanti, pustakagataṃ vā kṛtvā satkariṣyanti nānāpuṣpadhūpagandhamālyavilepanachatradhvaj apatākābhiḥ, tat pañcaraṅgikavastraiḥ pariveṣṭya śucau pradeśe sthāpayitavyam | yatraiva idaṃ sūtrāntaṃ sthāpitaṃ bhavati, tatra catvāro mahārājānaḥ saparivārāḥ, anyāni ca anekāni ca devakoṭiniyutaśatasahasrāṇi upasaṃkramiṣyanti | tatredaṃ sūtraṃ pracariṣyati | te ca bhagavan idaṃ sūtraratnaṃ prakāśayiṣyanti | tasya bhagavato bhaiṣajyaguruvaidūryaprabhasya tathāgatasya pūrvapraṇidhānaviśeṣavistaravibhāgaṃ ca tasya tathāgatasya nāmadheyaṃ dhārayiṣyanti, teṣāṃ nākālamaraṇaṃ bhaviṣyati | na teṣāṃ kenacit śakyamojo'pahartum, hṛtaṃ vā ojaḥ punarapi pratisaṃharati | bhagavānāha- etametad mañjuśrīḥ, evametat, yathā vadasi | yaśca mañjuśrīḥ śrāddhaḥ kulaputro vā kuladuhitā vā tasya tathāgatasya pūjāṃ kartukāmaḥ, tena tasya tathāgatasya pratimā kārāpayitavyā, sapta rātriṃdivamāryāṣṭāṅgamārgasamanvāgat ena upavāsamupavasitavyam | śucinā śucimāhāraṃ kṛtvā śucau pradeśe (nānāpuṣpāṇi saṃstārya nānāgandhapradhūpite nānāvastracchatradhvajapatākāsamalaṃkṛte tasmin pṛthivīpradeśe susnātagātreṇa śucivimalavasanadhāriṇā nirmalacittena akaluṣacittena avyāpādacittena sarvasattveṣu maitracittena (upekṣācittena) sarvasattvānāmantike samacittena bhavitavyam | nānātūryasaṃgītipravāditena sā tathāgatapratimā pradakṣiṇīkartavyā tasya tathāgatasya pūrṇapraṇidhānāni manasi kartavyāni | idaṃ sūtraṃ pravartayitavyam | yaṃ cetayati, yaṃ prārthayati, taṃ sarvābhiprāyaṃ paripūrayati | yadi dirghamāyuḥ kāmayate, dirghāyuṣko bhavati | yadi bhogaṃ prārthayate, bhogasamṛddho bhavati | yadi aiśvaryamabhiprārthayate, tadalpakṛcchreṇa prāpnoti | yadi putrābhilāṣī bhavati, putraṃ pratilabhate | ye iha pāpakaṃ svapnaṃ paśyanti, yatra vāyasaḥ sthito bhavati durnimittaṃ vā, yatra amaṅgalaśataṃ vā sthitaṃ bhavati, taistasya bhagavato bhaiṣajyaguruvaidūryaprabhasya tathāgatasya pūjā kartavyā | sarvaduḥsvapnadurnimittāmāṅgalyāśca bhāvāḥ praśamiṣyanti | yeṣāmagryudakaviṣaśasrapratāpacaṇḍahast isiṃhavyāghraṛkṣatarakṣudvīpikāśīvi avṛścikaśatapadadaṃśamaśakādibhayaṃ bhavati, taistasya tathāgatasya pūjā kartavyā | te sarvabhayebhyaḥ parimokṣyante | yeṣāṃ corabhayaṃ taskarabhayam, taistasya tathāgatasya pūjā kartavyā ||
punaraparaṃ mañjuśrīḥ ye śrāddhāḥ kulaputrā va kuladuhitaro vā ye yāvajjīvaṃ triśaraṇamupagṛhṇanti, ananyadevatāśca bhavanti, ye pañca śikṣāpadāni dhārayanti, ye ca bodhisattvasaṃvaraṃ caturvaraśikṣāpadaśataṃ dhārayanti, ye punarapiraṃ niṣkrāntagṛhavāsā bhikṣavaḥ, pañcādhike dve śikṣāpadaśate dhārayanti, yā bhikṣuṇyaḥ pañcaśataśikṣāpadāni dhārayanti, ye ca yathāparigṛhītācchisāsaṃvarādanyatarā cchikṣāpadāt bhraṣṭā bhavanti saced durgatibhayabhītāḥ, tasya bhagavato bhaiṣajyaguruvaidūryaprabhasya tathāgatasya nāmadheyaṃ dhārayeyuḥ, na bhūyasteṣāṃ tryapāyagamanaduḥkhaṃ pratikāṅkṣitavyam | yaśca mātṛgrāmaḥ prasavanakāle tīvrāṃ duḥkhāṃ kharāṃ kaṭukāṃ vedanāṃ vedayati, yā tasya bhagavato bhaiṣajyaguruvaidūryaprabhasya tathāgatasya nāmadheyamanusmaret, pūjāṃ ca kuryāt, sā sukhaṃ ca prasūyate, sarvāṅgaparipūrṇaṃ putraṃ (ca) janayiṣyati abhirūpaḥ prāsādiko darśanīyastīkṣṇendriyo buddhimān | sa ārogyasvalpābādho bhaviṣyati, na ca śakyate amanuṣyaistasya ojo'pahartum ||
atha khalu bhagavānāyuṣmantamānandamāmantrayate sma-śraddadhāsi tvamānanda pattīyasi yadahaṃ tasya bhagavato bhaiṣajyaguruvaidūryaprabhasya tathāgatasyārhataḥ samyaksaṃbuddhasya guṇān varṇayiṣyāmi ? athavā te kāṅkṣā vā vimatirvā vicikitsā vā atra gambhīre buddhagocare ? athāyuṣmānānando bhagavantametadavocat-na me bhadanta bhagavan atra kāṅkṣā vā vimatirvā vicikitsā vā tathāgatabhāṣiteṣu sūtrānteṣu |tat kasya hetoḥ ? nāsti tathāgatānāmapariśuddhakāyavāṅbhanaḥsamu dācāratā | imau bhagavan candrasūryau evaṃ maharddhikau evaṃ mahānubhāvau pṛthivyāṃ prapatetām, sa sumerurvā parvatarājaḥ sthānāccalet, na tu buddhānāṃ vacanamanyathā bhavet | kiṃ tu bhadanta santi sattvāḥ śraddhendriyavikalāḥ | idaṃ buddhagocaraṃ śrutvāṃ evaṃ vakṣyantikathametannāmadheyasmaraṇamātreṇa tasya tathāgatasya tāvanto guṇānuśaṃsā bhavanti ? te na śraddadhanti na pattīyanti, pratikṣipanti| teṣāṃ dīrgharātramanarthāya na hitāya na sukhāya vinipātāy bhaviṣyati | bhagavānāha-asthānamānanda anavakāśaḥ, yena tasya tathāgatasya nāmadheyaṃ śrutam, tasya sattvasya durgatyapāyagamanaṃ bhavet, nedaṃ sthānaṃ vidyate | duḥśraddhānīyaṃ ca ānanda buddhānāṃ buddhagocaram | yat tvamānanda śraddadhāsi pattīyasi, tathāgatasyaiṣonubhāvo draṣṭavyaḥ | abhūmiratra sarvaśrāvakapratyekabuddhānāṃ sthāpayitvā ekajātipratibaddhān bodhisattvān mahāsattvāniti | durlabhaḥ ānanda manuṣyapratilābhaḥ, durlabhaṃ triratne śraddhāgauravam, sudurlabhaṃ tathāgatasya nāmadheyaśravaṇam | tasya bhagavatastathāgatasya bhaiṣajyaguruvaidūryaprabhasya ānanda bodhisattvacaryāma(ryā a) pramāṇam, upāyakauśalyamapyapramāṇam, apramāṇaṃ cāsya praṇidhānaviśeṣavistaram | ākāṅkṣamāṇo'haṃ tasya tathāgatasya kalpaṃ vā kalpāvaśeṣaṃ vā bodhisattvacārikāyāṃ vistaravibhaṅgaṃ nirdiśeyam | kṣīyeta ānanda alpam, na tveva śakyaṃ tasya bhagavato bhaiṣajyaguruvaidūryaprabhasya tathāgatasya pūrvapraṇidhānaviśeṣavistarāntamadhigantum ||
tena khalu punaḥ samayena tasyāmeva parṣadi trāṇamukto nāma bodhisattvo mahāsattvaḥ saṃnipatito'bhūt saṃniṣaṇṇaḥ | utthāyāsanādekāṃsamuttarāsaṅgaṃ kṛtvā dakṣiṇaṃ jānumaṇḍalaṃ pṛthivyāṃ pratiṣṭhāpya yena bhagavāṃstenāñjaliṃ praṇamya bhagavantametadavocat-bhaviṣyanti bhadanta bhagavan sattvāḥ paścime kāle paścime samaye nānāvyādhiparipīḍitā dīrghavyādhinā (kṣīṇagātrāḥ) kṣuttarṣābhyāṃ śuṣkakaṇṭhoṣṭhā maraṇābhimukhā rorudyamānebhirmitrajñātisālohitaiḥ parivāritā andhakārāṃ diśaṃ paśyanto yamapuruṣairākarṣyamāṇāśca | tasya kalevare mañcaśayite vijñānaṃ yamasya dharmarājasyāgratāmupanīyate | yacca tasya sattvasya sahajānubaddhameva yatkiṃcit tena puruṣeṇa kuśalamakuśalaṃ vā kṛtaṃ bhavati, tat sarvaṃ sulikhitaṃ kṛtvā yamasya dharmarājasya upanāmyate | tadā yamo'pi dharmarājastaṃ pṛcchati, gaṇayati yathākṛtaṃ cāsya kuśalamakuśalaṃ vā tathājñāmājñāpayati | tatra ye te mitrajñātisālohitāstasyāturasyārthāya taṃ bhagavantaṃ bhaiṣajyaguruvaidūryaprabhaṃ tathāgataṃ śaraṇaṃ gaccheyuḥ, tasya ca tathāgatasya pūjāṃ kuryuḥ, sthānametadvidyate yat tasya tadvijñānaṃ punarapi pratinivarteta, svapnāntaragata ivātmānaṃ saṃjānīte | yadi vā saptame divase yadi vā (ekaviṃśatime) divase yadi vā pañcatriṃśatime divase yadi vā ekonapañcāśatime divase tasya vijñānaṃ punarapi nivarteta, smṛtimupalabheta | tasya kuśalamakuśalaṃ vā karmavipākaṃ svayameva pratyakṣaṃ bhavati | jñātvā sa jīvitahetau na kadāpi pāpamakuśalaṃ karma kariṣyati | tasmācchrāddhena kulaputreṇa vā kuladuhitā vā tasya bhagavato bhaiṣajyaguruvaidūryaprabhasya tathāgatasya pūjā kartavyā ||
athāyuṣmānānandastrāṇamuktaṃ nāma bodhisattvametadavocat-kathaṃ kulaputra tasya bhagavato bhaiṣajyaguruvaidūryaprabhasya pūjā kartavyā ? trāṇamukto bodhisattva āha-ye bhadanta ānanda mahato vyādhitaḥ parimocitukāmāḥ, taistasyāturasyārthāya sapta divasāni āryāṣṭāṅgasamanvāgatamupavāsamupavasita vyam, bhikṣusaṃghasya ca āhārapānaiḥ sarvopakaraṇairyathāśakti pūjopasthānaṃ kartavyam | bhagavato bhaiṣajyaguruvaidūryaprabhasya nāmadheyaṃ triṣkṛtvā rātryāṃ triṣkṛtvā divase manasi kartavyam | navacatvāriṃśadvāre idaṃ sūtramuccārayitavyam | ekonapañcāśad dīpāḥ prajvālayitavyāḥ | sapta pratimāḥ kartavyā | ekaikayā pratimayā sapta sapta dīpāḥ prajvālayitavyāḥ | ekaiko dīpaḥ śakaṭacakrapramāṇaḥ kartavyaḥ | yadi ekonacatvāriṃśatime divase āloko na kṣīyate, veditavyaṃ sarvasaṃpaditi | pañcaraṅgikāḥ patākāḥ ekonapañcāśadadhikāḥ kartavyāḥ ||
punaraparaṃ bhadanta ānanda yeṣāṃ rājñāṃ kṣatriyāṇāṃ mūrdhābhiṣiktānāmupadravā vā upasargā vā pratyupasthitā bhaveyuḥ, vyādhipīḍā vā svacakrapīḍā vā paracakrapīḍā vā nakṣatrapīḍā vā candragrahasūryagrahapīḍā vā akālavātavṛṣṭipīḍā vā avagrahapīḍā vā samutthitā, amāṅgalyā vā saṃkrāmakavyādhirvā vipad vā samupasthitā, tena rājñā kṣatriyeṇa mūrdhābhiṣiktena sarvasattveṣu maitracittena bhavitavyam, bandhanagatāśca sattvā mocayitavyāḥ | tasya ca bhagavato bhaiṣajyaguruvaidūryaprabhasya tathāgatasya yathāpūrvoktapūjā karaṇīyā | tadā tasya rājñaḥ kṣatriyasya mūrdhābhiṣiktasya etena kuśalamūlena ca tasya bhagavato bhaiṣajyaguruvaidūryaprabhasya tathāgatasya pūrvapraṇidhānaviśeṣavistareṇa tatra viṣaye kṣemaṃ bhaviṣyati subhikṣam | kālena vātavṛṣṭiśasyasaṃpado bhaviṣyanti, sarve ca viṣayanivāsinaḥ sattvā ārogāḥ sukhitāḥ pramodyabahulāḥ | na ca tatra viṣaye duṣṭayakṣarākṣasabhūtapiśācāḥ sattvānāṃ viheṭhayanti | sarvadurnimittāni ca na paśyanti | tasya ca rājñaḥ kṣatriyasya mūrdhābhiṣiktasya āyurvarṇabalārogyaiśvaryābhivṛddhirbhavi yati |
athāyuṣmānānandastrāṇamuktaṃ bodhisattvamevamavocat-kathaṃ kulaputra parikṣīṇāyuḥ punarevābhivivardhate ? trāṇamukto bodhisattva āha-nanu tvayā bhadanta ānanda tathāgatasyāntikācchrutam-santi akālamaraṇāni | teṣāṃ pratikṣepeṇa mantrauṣadhiprayogā upadiṣṭāḥ | santi sattvā vyādhitāḥ | na ca guruko vyādhiḥ bhaiṣajyopasthāpakavirahitaḥ | yadi vā vaidyā (bhaiṣajyaṃ) kurvanti | idaṃ prathāmamakālamaraṇam | dvitīyamakālamaraṇaṃ yasya rājadaṇḍena kālakriyā | tṛtīyamakālamaraṇaṃ ye'tīva pramattāḥ pramādavihāriṇaḥ, teṣāṃ manuṣyā ojo'paharanti | caturthamakālamaraṇaṃ ye agnidāhena kālaṃ kurvanti | pañcamaṃ cākālamaraṇaṃ ye ca udakena mriyante | ṣaṣṭhakālamaraṇaṃ ye (siṃha) vyāghravyālacaṇḍamṛgamadhyagatā vāsaṃ kalpayanti mriyante ca | saptamamakālamaraṇaṃ ye giritaṭāt prapatanti | aṣṭamamakālamaraṇaṃ ye viṣakākhordavetālānuprayogeṇa mriyante | navamamakālamaraṇaṃ ye kṣuttṛṣopahatā āhārapānamalabhamānā ārtāḥ kālaṃ kurvanti | etāni saṃkṣepato'kālamaraṇāni tathāgateṇa nirdiṣṭāni | anyāni ca aprameyāṇyakālamaraṇāni ||
atha khalu tatra parṣadi dvādaśa mahāyakṣasenāpatayaḥ saṃnipatitā abhūvan yaduta kiṃbhīro nāma mahāyakṣasenāpatiḥ, vajraśca nāma mahāyakṣasenāpatiḥ, mekhilo nāma mahāyakṣasenāpatiḥ, antilo nāma mahāyakṣasenāpatiḥ, anilo nāma mahāyakṣasenāpatiḥ, saṇṭhilo nāma mahāyakṣasenāpatiḥ, indalo nāma mahāyakṣasenāpatiḥ, pāyilo nāma mahāyakṣasenāpatiḥ, mahālo nāma mahāyakṣasenāpatiḥ, cidālo nāma mahāyakṣasenāpatiḥ, caundhulo nāma mahāyakṣasenāpatiḥ, vikalo nāma mahāyakṣasenāpatiḥ | ete dvādaśa mahāyakṣasenāpatayaḥ ekaikānucaraparivāritā ekakaṇṭhena bhagavantamevamāhuḥ-śrutamasmābhiśra bhagavatā buddhānubhāvena tasya bhagavato bhaiṣajyaguruvaidūryaprabhasya tathāgatasya nāmadheyam | na bhūyo'smākaṃ durgatibhayam | te vayaṃ sahitāḥ samagrā yāvajjīvaṃ buddhaṃ śaraṇaṃ gacchāmaḥ , dharmaṃ śaraṇaṃ gacchāmaḥ, saṃghaṃ śaraṇaṃ gacchāmaḥ | sarvasattvānāmarthāya hitāya sukhāya autsukyaṃ kariṣyāmaḥ | yo viśeṣeṇa grāme vā nagare vā janapade vā araṇyāyatene vā edaṃ sūtraṃ pracārayiṣyati, yo vā tasya bhagavato bhaiṣajyaguruvaidūryaprabhasya nāmadheyaṃ dhārayiṣyati, pūjopasthānaṃ kariṣyati, tāvat taṃ sattvaṃ rakṣiṣyāmaḥ, paripālayiṣyamaḥ, sarvāmāṅgalyācca parimocayiṣyāmaḥ, sarvaeṣāmāśāṃ paripūrayiṣyāmaḥ | atha khalu bhagavāṃsteṣāṃ yakṣasenāpatīnāṃ sādhukāramadāt-sādhu sādhu mahāyakṣasenāpatayaḥ, yad yūyaṃ tasya bhagavato bhaiṣajyaguruvaidūryaprabhasya tathāgatasya kṛtajñatāmanusmaramāṇānāṃ sarvasattvānāṃ hitāya pratipannāḥ ||
athāyuṣmānānando bhagavantametadavocat-ko nāmāyaṃ bhagavan dharmaparyāyaḥ ? kathaṃ cainaṃ dhārayāmi ? bhagavānāha-tena hi ānanda dharmaparyāyamidaṃ bhaiṣajyaguruvaidūryaprabhasya tathāgatasya pūrvapraṇidhānaviśeṣavistaramiti dhāraya, dvādaśānāṃ mahāyakṣasenāpatīnāṃ praṇidhānamiti dhāraya ||
idamavocadbhagavāna | āttamanā mañjuśrīḥ kumārabhūtaḥ, āyuṣmāṃśca ānandaḥ, trāṇamukto bodhisattvaḥ, te ca bodhisattvāḥ, te ca mahāśrāvakāḥ, te ca rājāmātyabrāhmaṇagṛhapatayaḥ, sarvāvatī parṣat, sadevamānuṣāsuragandharvaśca loko bhagavato bhāṣitamabhyanandan ||
āryabhaiṣajyaguruvaidūryaprabharājaṃ nāma mahāyānasūtram ||
http://www.dsbcproject.org/canon-text/content/36/283
PHƯƠNG PHÁP SÁM HỒI LỖI LẦM
* * *
Dưới đây là NGHI THỨC SÁM HỐI ĐƠN GIẢN được biên soạn nhằm giúp mọi người trong nhà dễ nhớ, dễ thực tập, bất cứ ai có mang thân bệnh tật, có nhiều thói hư tật xấu, thân tâm đang vương mang những hậu quả nghiêm trọng do ác nghiệp gây nên từ kiếp này với nhiều đời trước đã tạo ra như:
Thân đau bệnh nặng, bác sĩ cũng phải đành buông tay không chữa trị, thuốc thang không cứu được. Bệnh giết hại phục vụ khoái khẩu mà chẳng tiếc thân mạng sinh vật. Bệnh uống rượu, nghiện ngập, phóng đảng. Bệnh tham lam, bỏn sẻn, không làm việc chỉ biết cờ bạc, cho vay nặng lãi tạo nhiều ác nghiệp, mưu cầu lợi dưỡng công danh làm lợi mình hại người. Bệnh tham sắc tướng, trêu hoa ghẹo nguyệt, trai gái say đắm dục lạc, ngoại tình. Bệnh nóng giận, ác khẩu ưa gây gỗ, mắng rủa nặng lời với mọi người. Bệnh điêu ngoa gian dối, lừa gạt, dùng nói hãm hại người, lưỡi đôi chiều…
Tất cả đều có thể thực tập và hành trì pháp sám hối để từ bỏ và diệt trừ mọi tật xấu này đã từng gây khổ đau người, chỉ làm tổn hại cho mình và gia đình thân tộc.
Vì vậy, mỗi người chúng ta hãy nên thường xuyên lễ lạy Phật và lập nguyện sám hối hàng ngày để chuyển hóa nghiệp chướng các việc làm xấu ác, tội nặng chuyển thành nhẹ, tôi nhẹ sẽ được tiêu trừ trong nhiều đời nhiều kiếp cho đến đời này.
PHƯƠNG PHÁP SÁM HỒI LỖI LẦM
Nên chọn giờ yên tĩnh trong ngày để thực hành pháp sám hối: Giờ tốt nhất là từ 4 giờ đến 7 giờ mỗi buổi sáng. Trước khi làm lễ sám hối nên tắm rửa thân thể sạch sẽ thay y phục mặc áo tràng, thắp ba cây hương thỉnh ba tiếng chuông quỳ gối nói lời phát nguyện.
Nam mô bổn sư thích ca mâu ni phật. (3 lần)
Đệ tử con tên….. pháp danh….. tuổi. sanh….. Ngày….. Tháng….. Năm….
Hôm nay trước bàn thờ trang nghiêm Phật và Ông bà Tổ tiên con xin thành tâm cử hành pháp sám hối. Cầu nguyện các nghiệp xấu ác của con nhiều nhiều đời nhiều kiếp cho đến đời nay, biết và không biết mà con đã tạo đều được tiêu trừ, tâm lành mỗi ngày thêm lớn và xin Tam Bảo chứng minh cho con có đầy đủ nghị lực, trí huệ sáng suốt. Con nguyện sẽ sám hối cả ngày lẫn đêm, niệm nịêm nối liền không dứt. Sám hối cho đến khi nào tâm trí được vắng lặng tịch tĩnh, không còn gì để sám hối. Vì những tội lỗi của con làm gây ra ác nghiệp không sao nhớ hết, cho nên con sẽ còn tiếp tục sám hối ở đời này, đời sau và nhiếu kiếp sau nữa, không bao giờ ngưng nghỉ. Con nguyện nương vào oai đức đại từ đại bi của chư Phật, chư Bồ Tát và tất cả hiền thánh chúng mà con có thể làm điều có lợi lạc cho con và cho hết thảy mọi người, mọi loài và cho những ai đau khổ. Cúi xin mười phương chư Phật, chư Bồ Tát chứng minh cho con.
Nam Mô Pháp Giới Tạng Thân A Di Đà Phật (xướng 3 lần)
Nguyện xong cấm hương lên lư và bắt đầu lạy sám hối, đứng thẳng chấp tay đọc lên những danh hiệu sau đây: Mỗi lần đọc lên 1 hồng danh Phật hoặc Bồ Tát, thì lạy xuống10 lạy thông thả với quán hơi thở đều đặn.
Đệ tử con tên là….. pháp danh…… từ trước đến nay do vì ba nghiệp tham sân si từ thân khẩu ý gây ra hôm nay đệ tử chí thành xin sám hối.
Xướng lên từng danh hiệu.
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Dá Ra Phật (10 lạy).
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Viên Mãn Báo Thân Lô Sá Ra Phật (10 lạy).
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Thiên Bách Ức Hóa Thân Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (10 lạy)
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật (10 lạy)
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô A Di Đà Phật (10 lạy)
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật (10 lạy)
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. (10 lạy)
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát (10 lạy)
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (10 lạy)
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma Ha Tát (10 lạy)
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đạo Tràng Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát Ma Ha Tát (8 lạy)
Lạy đủ 108 lạy
* Quỳ xuống đọc lời hồi hướng và phát nguyện:
Sám hối phát thanh dịu,
Tạo công đức vô biên,
Đệ tử xin hồi hướng,
Cho chúng sanh mọi miền,
Pháp môn xin nguyện học,
Ân nghĩa xin nguyện đền,
Phiền não xin nguyện đoạn,
Quả phật xin chứng nên.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT (xướng 3 lần, lạy 3 lạy)
Đứng lên xá 3 xá bốn hướng rồi lui ra.
Mỗi ngày sám hối một lần, trong vòng ba tháng nhất tâm và liên tục ta sẽ cảm nhận được sự mầu nhiệm của Phật pháp, thân tâm ta được an lành, lợi lạc.
Nếu sức khỏe yếu kém không đủ thì giờ để lạy dủ 108 lạy một lần thì mỗi ngày có thể thực tập 2 lần, mỗi lần có thể lạy 54 lạy thay vì 108 lạy nghĩa là khi niệm một danh hiệu Phật hoặc Bồ Tát ta có thể lạy 5 lạy thay vì lạy 10 lạy nếu tuổi lớn thân thể kiệt sức không đủ sức khỏe để lạy thì ngồi trên ghế chấp tay mà thành tâm mà đọc lời sám hối cũng có tác dụng, pháp sám hối quan trọng là thành tâm ăn năn sửa đổi mọi lỗi lầm, tội từ tâm tạo phải tha thiết đem tâm sám hối, tâm này trong sạch không còn phạm các lỗi lầm trước nữa. Tâm chí thành ăn năn tội cũng sẽ từ đó mà tiêu tan, tội tiêu tan rồi thì tâm thần an lạc, nhẹ nhõm, đó là công năng và lợi ích thiết thực của việc sám hối.
Tội tạo ra vô số từ các kiếp trước,
Một kiếp này nhất quyết trả quả cho xong,
Nếu không tội sẽ sinh lời
Chìm trong biển khổ đời đời khó ra,
Sám hối lòng phải thiết tha,
Sửa tâm bồi đức mới là hiền nhân.
KIM SƠN CÕI TỊNH
Kim sơn cõi tịnh trãi ngồn thân
Núi ngũ chân mây biển đợi chờ
Cổ thụ lên ngôi cung quế nguyệt
Đá kình đạp gió quét trời mơ
Bình minh lộ hiện chim hát ca
Không gian nắng ấm rọi Ta Bà
Thời gian hẹn ước về Vô Trụ
Tĩnh tọa bồ đoàn ta với ta
Cõi tịnh ai đào bảo tịch kiêu
Trăng thanh nhã ngọc dáng yêu kiều
Chuông ngân tĩnh mộng dài muôn kiếp
Đạo vàng gói trọn giọt thương yêu
Gác bỏ trần tâm nhẹ cõi lòng
Nợ đời vay trả trả cho xong
Kim Sơn cõi tịnh vui ngày tháng
Tự tại an nhiên bước ngược dòng.
(Sơn Cư)
* * *
http://www.daibi.vn/2012/05/phuong-p...m-hoi-loi-lam/
Kinh Sám Hối Lỗi Lầm
Một thuở nọ, Đức Phật ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá, cùng với 1.250 vị Bhikṣu [bíc su] và 1.000 vị Bồ-tát.
Lúc bấy giờ vị đệ tử trí tuệ đệ nhất là ngài Thu Lộ Tử, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến ở trước Phật, hai gối quỳ, chắp tay và thưa hỏi Đức Phật rằng:
"Thưa Thế Tôn! Nếu có thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào khởi tâm cầu Phật Đạo, nhưng ở đời trước đã làm ác thì họ phải nên sám hối như thế nào?"
Đức Phật bảo:
"Lành thay, lành thay, Thu Lộ Tử! Ông vì lo lắng cho hàng trời người nên mới khéo thưa hỏi như vậy."
❖
Đức Phật bảo:
"Nếu có thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào muốn cầu Đạo Ứng Chân, muốn cầu Đạo Độc Giác, hay muốn cầu Phật Đạo, hoặc muốn biết những việc quá khứ cùng vị lai, thì ngày đêm sáu thời, họ hãy thường xuyên tắm gội, súc miệng sạch sẽ, mặc y phục chỉnh tề, chắp tay lễ bái mười phương chư Phật, và thành khẩn sám hối như vầy:
'Từ vô số kiếp cho đến nay, do bởi tham sân si, chẳng biết Phật Pháp Tăng, và chẳng biết thiện ác, nên con đã trót tạo bao nghiệp ác.
Hoặc thân phạm nghiệp ác, ngữ phạm nghiệp ác, hay ý phạm nghiệp ác.
Hoặc khởi tâm muốn hại Phật, hủy báng Kinh Pháp, hay đánh đập chư Tăng.
Hoặc giết bậc Ứng Chân hay giết hại cha mẹ.
Hoặc thân phạm ba nghiệp ác, ngữ phạm bốn nghiệp ác, hay ý phạm ba nghiệp ác.
Hoặc tự mình sát sanh, bảo người sát sanh, hay thấy kẻ khác sát sanh mà vui theo.
Hoặc tự mình trộm cắp, bảo người trộm cắp, hay thấy kẻ khác trộm cắp mà vui theo.
Hoặc tự mình lừa gạt, bảo người lừa gạt, hay thấy kẻ khác lừa gạt mà vui theo.
Hoặc tự mình nói đâm thọc, bảo người nói đâm thọc, hay thấy kẻ khác nói đâm thọc mà vui theo.
Hoặc tự mình mắng chửi, bảo người mắng chửi, hay thấy kẻ khác mắng chửi mà vui theo.
Hoặc tự mình nói dối, bảo người nói dối, hay thấy kẻ khác nói dối mà vui theo.
Hoặc tự mình ganh ghét, bảo người ganh ghét, hay thấy kẻ khác ganh ghét mà vui theo.
Hoặc tự mình tham lam, bảo người tham lam, hay thấy kẻ khác tham lam mà vui theo.
Hoặc tự mình chẳng tin sự thật, bảo người chẳng tin sự thật, hay thấy kẻ khác chẳng tin sự thật mà vui theo.
Hoặc tự mình chẳng tin rằng làm thiện gặp lành, làm ác gặp dữ, hay thấy kẻ khác làm ác mà vui theo.
Hoặc tự mình ăn cắp đồ vật từ chùa tháp hay tài vật của chư Tăng, bảo người ăn cắp, hay thấy kẻ khác ăn cắp mà vui theo.
Hoặc tự mình chiếm lời người khác, bằng cách dùng thùng chứa nhỏ hay thước đo ngắn, hoặc với thùng chứa lớn hay thước đo dài, hoặc thấy kẻ khác chiếm lời mà vui theo.
Hoặc tự mình cố ý trộm cắp, bảo người cố ý trộm cắp, hay thấy kẻ khác cố ý trộm cắp mà vui theo.
Hoặc tự mình tạo tội ác ngỗ nghịch, bảo người tạo tội ác ngỗ nghịch, hay thấy kẻ khác tạo tội ác ngỗ nghịch mà vui theo.
Những nghiệp như vậy, khiến con đã luân hồi trong năm đường. Có lúc đọa địa ngục, có lúc làm ngạ quỷ, có lúc sanh vào chốn bàng sanh, có lúc sanh trong cõi trời hay nhân gian.
Những nghiệp ác đã tạo ở trong năm đường, như là bất hiếu cha mẹ, bất hiếu sư phụ, bất kính bạn tốt, bất kính Đạo Nhân, hay bất kính người lớn tuổi.
Khinh miệt cha mẹ, khinh miệt sư phụ, khinh miệt người cầu Đạo Ứng Chân, hay khinh miệt người cầu Đạo Độc Giác.
Hoặc phỉ báng ganh ghét họ, thấy Phật Đạo nói là sai, thấy đường ác nói là đúng, thấy chánh nói là tà, hay thấy tà nói là chánh.
Con nay xin sám hối tất cả nghiệp ác đã tạo và cầu mong mười phương chư Phật hãy thương xót, khiến con ở đời này và những đời sau sẽ không bao giờ tái phạm các nghiệp tội như thế.
Vì sao con cầu mong mười phương chư Phật hãy thương xót? Bởi chư Phật có thể nhìn xuyên và nghe thấu tâm con. Con không dám ở trước Phật mà dối gạt hay che giấu. Từ nay về sau, con sẽ không bao giờ tái phạm.'"
❖
Phật bảo ngài Thu Lộ Tử:
"Nếu có thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào không muốn đọa địa ngục, ngạ quỷ, hay bàng sanh, thì họ cần phải sám hối lỗi lầm và không nên che giấu. Sau khi đã thọ giới, họ không được làm ác nữa.
Nếu không muốn sanh vào chốn biên địa--nơi chẳng có Phật Pháp Tăng, nơi chẳng có lý lẽ, và nơi chẳng có phân biệt thiện ác--thì họ cần phải sám hối lỗi lầm và không nên che giấu.
Nếu không muốn ngu si hay mù điếc câm ngọng, hoặc không muốn sanh vào nhà làm nghề mổ giết, đánh cá, săn bắn, gác ngục, hay gia đình bần cùng, thì họ cần phải sám hối lỗi lầm và không nên che giấu.
Nếu người nữ nào muốn chuyển sanh làm thân nam, thì họ cần phải sám hối lỗi lầm.
Nếu ai muốn đắc Quả Nhập Lưu và không bao giờ còn đọa địa ngục, ngạ quỷ, hay bàng sanh, thì họ cần phải sám hối lỗi lầm.
Nếu ai muốn đắc Quả Nhất Lai và sanh lên trời, hoặc muốn đắc Quả Bất Hoàn và sanh lên 24 cõi trời, hoặc muốn đắc Đạo Ứng Chân và vào tịch diệt, hoặc muốn đắc Đạo Ứng Chân và trụ ở thế gian, hoặc muốn đắc Đạo Độc Giác, hay muốn biết những việc quá khứ cùng vị lai, thì họ cần phải sám hối lỗi lầm và không nên che giấu."
❖
Phật bảo ngài Thu Lộ Tử:
"Ở ba thời mỗi ngày, các thiện nam tử và thiện nữ nhân hãy đảnh lễ chư Phật hiện tại trong mười phương. Đó là bởi mười phương chư Phật đều dùng Chánh Pháp để giáo hóa hết thảy chúng sanh làm thiện, ví như ánh sáng của mặt trời và mặt trăng chiếu soi đến tất cả.
Phật thuyết Kinh giảng Đạo thấm nhuần chúng sanh, ví như trời mưa làm trăm loại hạt và cỏ cây đều tươi tốt.
Phật thuyết Kinh giảng Đạo thấm nhuần chúng sanh, để khiến họ sanh làm vua chúa, sanh lên trời Tứ Thiên Vương và cho đến trời Tam Thập Tam để thọ hưởng vui sướng giàu sang.
Phật cũng khiến cho họ đắc Quả Nhập Lưu, Nhất Lai, Bất Hoàn, hay Đạo Ứng Chân.
Các thiện nam tử và thiện nữ nhân nên thỉnh cầu mười phương chư Phật lắng nghe lời nguyện của họ rằng:
'Hết thảy mọi việc thiện của tất cả hàng trời người và cho đến các loài sâu bọ, như là bố thí, tinh tấn tu Đạo, đọc Kinh trì giới, từ tâm tưởng niệm chúng sanh, làm vô lượng việc lành, cúng dường Bồ-tát và chư Tăng, hay bố thí cho kẻ khốn cùng, và thậm chí khởi lòng thương xót động vật, con đều khuyên họ làm thiện và con cũng xin tùy hỷ.
Những ai đã được chư Phật quá khứ giáo hóa để đạt đến tịch diệt, con đều xin tùy hỷ.
Những ai sẽ được chư Phật vị lai giáo hóa làm thiện, rời xa năm đường ác của sanh tử, cho đến khiến họ đắc Đạo Ứng Chân và Độc Giác, con đều khuyên họ làm thiện và con cũng xin tùy hỷ.
Những ai đang được chư Phật hiện tại ở mười phương giáo hóa làm bố thí, đọc Kinh trì giới, từ mẫn chúng sanh và cho đến các loài sâu bọ, làm cho họ đều thoát khỏi địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, ngu si bần cùng, và thậm chí khiến họ đắc Quả Nhập Lưu, Nhất Lai, Bất Hoàn, Đạo Ứng Chân, Đạo Độc Giác, hoặc Đạo tịch diệt, con đều khuyên họ làm thiện và con cũng xin tùy hỷ.
Chư Bồ-tát ở quá khứ đã phụng trì và tu hành Bố Thí Độ, Trì Giới Độ, Nhẫn Nhục Độ, Tinh Tấn Độ, Thiền Định Độ, và Diệu Tuệ Độ, con khuyên họ tùy hỷ về sự hành trì Sáu Độ, và con cũng xin tùy hỷ.
Chư Bồ-tát ở vị lai sẽ phụng trì và tu hành Sáu Độ, con khuyên họ tùy hỷ, và con cũng xin tùy hỷ.
Chư Bồ-tát ở hiện tại đang phụng trì và tu hành Sáu Độ, con khuyên họ tùy hỷ, và con cũng xin tùy hỷ.
Hết thảy bao phước đức có được, con xin bố thí đến chúng sanh khắp mười phương--hàng trời người, cha mẹ trong nhiều đời nhiều kiếp, và cho đến các loài sâu bọ với hai chân, bốn chân, hay nhiều chân--khiến họ sẽ thành Phật hoặc đắc Đạo Độc Giác. Sự hồi hướng của con gấp hơn trăm lần, ngàn lần, vạn lần, và ức lần so với việc lấy vàng bạc và vật báu đầy khắp bốn đại thành để làm bố thí.'"
❖
Phật bảo ngài Thu Lộ Tử:
"Ngày đêm sáu thời, nếu có thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào lễ bái mười phương chư Phật và nguyện rằng:
'Ngưỡng mong chư Phật hãy lắng nghe lời nguyện của con.
Sau khi thành Phật, giả sử mười phương chư Phật không muốn tuyên giảng Kinh Pháp, con đều thỉnh chư Phật thuyết Pháp cho hàng trời người và cho đến các loài sâu bọ, làm cho họ đều thoát khỏi địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, ngu si bần cùng, và thậm chí khiến họ đắc Đạo tịch diệt.
Giả sử mười phương chư Phật muốn vào Cứu Cánh Tịch Diệt, con tha thiết thỉnh cầu chư Phật chớ vào Cứu Cánh Tịch Diệt, mà hãy trụ thế để hàng trời người và cho đến các loài sâu bọ được phước lợi, khiến họ đều thoát khỏi địa ngục, ngạ quỷ, và bàng sanh.'"
Phật bảo ngài Thu Lộ Tử:
"Vào thuở xưa lúc vẫn còn là một vị Bồ-tát, ta luôn tha thiết thỉnh cầu chư Phật thuyết Pháp và chớ vào Cứu Cánh Tịch Diệt. Cho nên khi thành Phật, Trì Quốc Thiên Vương và Năng Thiên Đế từ cõi trời hạ xuống, chắp tay đảnh lễ, và tha thiết thỉnh cầu Ta thuyết Pháp cho vô số hàng trời người và chớ vào Cứu Cánh Tịch Diệt."
❖
Phật bảo ngài Thu Lộ Tử:
"Muôn loại chúng sanh như thế, hễ ai làm thiện tất được phước lành, ai làm ác tất gặp tai ương."
Ngài Thu Lộ Tử bạch Phật rằng:
"Bạch Thế Tôn! Nếu có thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào muốn cầu Phật Đạo, thì họ phải lập nguyện như thế nào để chứng đắc?"
Đức Phật bảo:
"Ngày đêm sáu thời, nếu có thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào lễ bái mười phương chư Phật và nguyện rằng:
'Ngưỡng mong mười phương chư Phật hãy lắng nghe lời nguyện của con.
Hết thảy bao phước đức có được từ vô số kiếp cho đến nay, như là bố thí, thọ trì Kinh Pháp, giữ gìn niệm thiện, hoặc làm lợi ích lành cho Phật Pháp Tăng, người thế gian, hay làm lợi ích lành cho động vật. Hễ ai làm thiện tất được phước lành, ai làm ác tất gặp tai ương. Con nay xin sám hối nghiệp ác đã tạo. Con nguyện đọc Kinh trì giới và chẳng dám hủy phạm, hoặc là thọ giới không gần gũi phụ nữ, thỉnh chư Phật và Bồ-tát làm lợi ích cho chúng sanh, hay tha thiết thỉnh cầu chư Phật chớ vào Cứu Cánh Tịch Diệt.
Hết thảy bao phước đức có được từ khi học Đạo cho đến nay, tất cả đều tụ hội lại và với lòng từ mẫn, con xin bố thí đến chúng sanh khắp mười phương--hàng trời người, cha mẹ trong nhiều đời nhiều kiếp, và cho đến các loài sâu bọ--khiến họ đều được phước đức này. Riêng con chỉ giữ một phần dư nhỏ để giúp con tuyên dương Phật Pháp. Những ai chưa hóa độ, con sẽ hóa độ. Những ai chưa giải thoát, con sẽ khiến giải thoát. Những ai chưa đắc tịch diệt, con sẽ khiến đắc tịch diệt.'"
❖
Phật bảo ngài Thu Lộ Tử:
"Giả sử tất cả nam nữ trong thế gian đều thành bậc Ứng Chân hay Độc Giác, và nếu lại có người cúng dường hết thảy các vị Ứng Chân và Độc Giác kia suốt 1.000 năm, thì phước của họ có nhiều chăng?"
Ngài Thu Lộ Tử thưa rằng:
"Cúng dường cho một vị Ứng Chân hay Độc Giác chỉ một ngày thôi, thì phước đó là vô lượng rồi. Hà huống là cúng dường cho tất cả các vị Ứng Chân và Độc Giác ở thế gian suốt 1.000 năm."
http://ilearnbudha.blogspot.com/2014/04/?m=0
https://daitangkinh.net/?f=Kinh-Sam-Hoi-Loi-Lam
Phật thuyết kinh diệt trừ tối tăm trong mười phương
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật du hóa tại Ca Duy La Vệ cùng với đông đủ chúng đại Tỳ kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị và vô số các Bồ tát, trú dưới gốc cây Ni-câu-loại, nơi tinh xá Thích Thị.
Vào buổi sáng sớm, đức Phật đắp y, ôm bình bát cùng với các quyến thuộc Tỳ-kheo vây quanh, vào thành khất thực.
Bấy giờ có đồng tử thơ ấu dòng họ Thích, tên là Diện Thiện Duyệt, thắng xe tốt đẹp, sáng sớm ra khỏi thành, từ xa trông thấy đức Thế Tôn cùng các Thánh chúng, liền đi thẳng đến chỗ Phật, xuống xe, đi bộ đến, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, đi quanh Phật ba vòng rồi lui đứng một bên.
Bấy giờ Diện Thiện Duyệt cúi đầu buồn rầu. Phật biết nhưng cố hỏi:
- Đồng tử chắc có việc thưa hỏi nên sáng sớm ra khỏi thành, trong lòng lo buồn, sắc diện rầu rỉ?
Diện Thiện Duyệt bạch Phật:
- Kính bạch Thiên Trung Thiên! Hiện nay song thân của con thân thể không được an hòa, luôn bị phi nhơn ngày đêm quấy nhiễu, ngủ nghỉ không được yên giấc ; vào ra lui tới đều bị bức bách khó chịu. Lại còn bản thân con tuy ngự trị một đất nước to lớn, nhưng gặp sự nguy khốn cùng khổ này, không giúp được gì, tự nghĩ mãi nhưng không biết phải dùng phương kế gì, không biết phải thiết lập những phương tiện gì. Giả sử gặp phải giặc giả oán thù hoặc phi nhơn, yêu quái, gian tà... thì không biết lấy gì để phòng hộ. Cúi xin đức Thế Tôn chỉ dạy cho con dùng phương pháp gì để tùy thời cứu giúp, để cho không còn bị nhiễu hại.
Phật bảo Diện Thiện Duyệt:
- Hãy lắng nghe kỹ, lãnh thọ kỹ, khéo ghi nhớ và hành trì, Ta sẽ vì ông thuyết pháp ủng hộ.
Khi ấy đồng tử thơ ấu họ Thích vâng theo lời dạy và lắng nghe. Phật bảo:
- Phương Đông, cách đây hơn tám ngàn vạn ức na-thuật cõi Phật, có thế giới tên là Bạt Chúng Trần Lao, đức Phật cõi đó hiệu là Đẳng Hành Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Người nào muốn đi đến phương Đông, trước tiên nên cúi đầu quy y cúng dường Phật ở phương Đông, thì sẽ không còn sợ hãi và chẳng ai còn dám xâm phạm, nhiễu hại. Có ưa thích đi và có sự khởi hành thì chắc chắn sẽ được như nguyện, tâm chí chưa từng rối loạn và như tâm chí đã nghĩ liền được thành tựu.
Khi ấy, Phật thuyết kệ:
- Trước thờ Tối Chánh Giác
Bậc Đại Thánh đẳng hành
Sau đi về phương Đông
Mới được không khiếp sợ.
Phật bảo đồng tử:
- Phương Nam, cách đây hơn mười ức trăm ngàn cõi Phật có thế giới tên là Tiêu Minh Đẳng Yếu Thoát, đức Phật cõi đó hiệu là Sơ Phát Tâm Niệm Ly Khủng Úy Quy Siêu Thủ Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác, hiện đang thuyết pháp. Người nào muốn đi đến phương Nam, nên từ xa cúi đầu quy mạng đức Phật kia rồi mới khởi sự ra đi, một lòng nhớ nghĩ, ý không lìa Phật thì không còn sợ hãi, không gặp hoạn nạn.
Khi ấy, Phật thuyết kệ:
- Lìa xa các tưởng rồi
Đồng tử tu như vậy
Nếu đi đến phương Nam
Không còn gặp sợ hãi.
Phật bảo đồng tử:
- Phương Tây, cách đây hằng hà sa cõi Phật, có thế giới tên là Thiện Tuyển Trạch, đức Phật đó hiệu là Kim Cang Bộ Tích Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Người nào muốn đi đến phương Tây, trước tiên nên giảng thuyết và tư duy về pháp Bổn tịnh, hoàn toàn không còn sở kiến, không khởi, không diệt, thanh tịnh, vắng lặng và trước hết nên cúi đầu đảnh lễ đức Phật cõi đó, nhất tâm quy y rồi mới khởi sự ra đi, thì chắc chắn không còn sợ hãi, không gặp hoạn nạn.
Khi ấy Phật thuyết kệ:
- Các pháp chẳng sanh ra
Và cũng không diệt mất
Người hiểu rõ như thế
Thì không còn sợ hãi.
Phật bảo đồng tử:
- Phương Bắc, cách đây hơn hai vạn cõi Phật có thế giới tên là Giác Biện, Phật hiệu là Bảo Trí Thủ, Như Lai, Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Người nào muốn đi đến phương Bắc, bắt đầu ngay nơi nhà, cúi đầu đảnh lễ quy y đức Phật kia rồi mới khởi sự ra đi thì chắc chắn không còn sợ hãi và không gặp hoạn nạn.
Khi ấy Phật thuyết kệ:
- Nếu ngay trong nhà ở
Hay mọi nơi cư trú
Muốn đi về phương Bắc
Đều không còn sợ hãi.
Phật bảo đồng tử:
- Phương Đông-bắc, cách đây hơn trăm vạn ức cõi Phật có thế giới tên Trì Sở Niệm, đức Phật cõi đó hiệu là Hoại Ma Mạn Độc Bộ Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Lại Như Lai kia đi đến dưới gốc cây Bồ-đề, vừa mới ngồi, nhất tâm, liền khuyến hóa các ma quyến thuộc và các thiên ma ở thế giới tam thiên đại thiên, đều an lập họ nơi Bất thối chuyển, sẽ thành đạo Chánh chơn Vô thượng. Đây là khi Như Lai đến dưới gốc cây Bồ-đề cảm hóa được. Người nào đi đến phương Đông-bắc, nên từ xa cúi đầu quy y đức Phật kia rồi sau mới đi, thì ngay nơi chỗ ở đạt được an ổn, chắc chắn không còn sự sợ hãi.
Khi ấy Phật thuyết kệ:
- Từ đầu mới phát tâm
Hàng phục được binh ma
Tâm luôn nghĩ đến Phật
Lập tức không khiếp sợ.
Phật bảo đồng tử:
- Phương Đông-nam, cách đây hơn hai hằng hà sa các cõi Phật, có thế giới tên là Thường Chiếu Diệu, đức Phật đó hiệu là Sơ Phát Tâm Bất Thối chuyển Luân Thành Thủ Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Như Lai đó khi còn làm Bồ-tát thường chỉ dạy mọi người thực hành nghĩa "Bất thối chuyển luân” là: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định bất lọan, thành tựu trí tuệ. Đây là do Như Lai khi còn làm Bồ-tát cảm hóa được. Người nào đi về phương Đông-nam, trước hết nên cúi đầu, năm vóc gieo sát đất, nhất tâm quy mạng rồi sau mới đi thì không còn sợ hãi .
Khi ấy, Phật thuyết kệ:
- Trước năm vóc đảnh lễ
Rồi sau mới ra đi
Ở nơi muốn đi đến
Không gặp giặc làm hại.
Phật bảo đồng tử:
- Phương Tây-nam, cách đây hơn tám vạn cõi Phật có thế giới tên là Phú Bạch Giao Lộ, đức Phật đó hiệu là Bảo Cái Chiếu Không Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Người nào đi về phương Tây-nam, trước hết nên cúi đầu đảnh lễ đức Như Lai kia, từ xa đem hoa rải dâng, niệm nơi tướng không, rồi sau mới đi thì không còn sợ hãi .
Khi ấy Phật thuyết kệ:
- Cúng dường Đẳng Chánh Giác
Dùng hoa để dâng cúng
Sử dụng tâm vô tướng
Thì không còn sợ hãi.
Phật bảo Đồng tử:
- Phương Tây-bắc, cách đây hơn sáu hằng hà sa cõi Phật, có thế giới tên là Trụ Thanh Tịnh, đức Phật đó hiệu là Khai Hóa Bồ-tát Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Quốc độ của đức Phật đó thanh tịnh trong sạch, cũng không có ái dục, không có người nữ, xa lìa năm món dục. Người nào đi đến phương Tây-bắc, trước hết nên đảnh lễ đức Phật kia, tự quay về sám hối lỗi lầm, tịnh tu phạm hạnh rồi sau mới ra đi thì không còn sợ hãi.
Khi ấy Phật thuyết kệ:
- Trước phải tu phạm hạnh
Sau mới ra khỏi nhà
An ổn không gặp giặc
Chỗ ở không tai nạn.
Phật bảo đồng tử:
- Phương dưới, cách đây hơn chín mươi hai cai cõi Phật, có thế giới tên là Niệm Vô Đảo, đức Phật đó hiệu là Niệm Sơ Phát Ý Đoạn Nghi Bạt Dục, Như Lai, Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Người nào khi muốn ngồi, hoặc ban đêm khi nằm, niệm Như Lai kia, cúi đầu quy y, thường dùng niệm từ khắp cứu giúp chúng sanh rồi sau mới ngồi hay nằm thì không còn sợ hãi, nguyện cầu điều gì chắc chắn được kết quả.
Khi ấy Phật thuyết kệ:
- Thường nghĩ khắp chúng sanh
Ngồi thiền hay nằm ngủ
Trong mộng hay thức giấc
Chắc chắn không sợ hãi.
Phật bảo đồng tử:
- Phương trên, cách đây hơn sáu mươi hằng hà sa các cõi Phật, có thế giới tên Ly Chư Khủng Cụ Vô Hữu Xứ Sở, đức Phật đó hiệu là Tịnh Minh Đẳng Siêu Vương, Như Lai, Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Người nào từ chỗ ngồi đứng dậy thường hay đảnh lễ đức Phật kia, quy y cúng dường, thường ôm ấp lòng từ, thương xót chúng sanh rồi sau mới đứng dậy đi thì không còn sợ hãi, tại chỗ đi đến được an lành vui vẻ. Do niệm như vậy nên thường được ủng hộ.
Khi ấy Phật thuyết kệ:
- Thường ôm lòng từ bi
Thương các loài chúng sanh
Do thương xót quần sanh
Nên không còn sợ hãi.
Phật bảo đồng tử:
- Ông nên lãnh thọ kỹ danh hiệu chư Phật này và phụng trì, tư duy, nhớ mãi trong lòng thì chỗ muốn đi đến chắc chắn không gặp nguy khó.
Diện Thiện Duyệt đồng tử họ Thích tiến tới trước Phật, bạch:
- Con đã lãnh thọ, phụng trì danh hiệu của chư Phật này và ôm ấp trong lòng, tư duy, phụng hành. Việc này con luôn luôn ghi nhớ trong lòng. Con thấy khắp mười phương không hề chướng ngại, như vừa rồi Thế Tôn giảng thuyết, truyền dạy kinh điển và danh hiệu chư Phật đều giống như con đã từng được nghe, xét kỹ không khác.
Khi ấy, chúng hội kia đầy đủ trăm ngàn người, nghe Phật giảng thuyết đều từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục, quỳ thẳng bạch Phật:
- Lòng từ rộng lớn của Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác che khắp mới vì chúng con giảng thuyết kinh điển này. Con và tất cả đều được thấy chư Phật trong ngoài thông suốt, không còn tăm tối, giống như Phật đã giảng thuyết không sai khác.
Lúc ấy, tôn giả Xá Lợi Phất tiến tới trước Phật, bạch:
- Các tộc tánh tử này được mắt thanh tịnh, vì lẽ gì họ lại được nhanh chóng nhìn thấy chư Phật không bị trở ngại? Nhờ năng lực công đức mà được như vậy chăng? Hay do oai thần của chư Phật tiếp sức? Hay là do công đức tự huân tập ở kiếp trước đưa đến?
Phật bảo Xá Lợi Tử:
- Đây là do oai thần của Phật và cũng là do công đức từ trước vậy.
Bấy giờ, Phật phóng một luồng ánh sáng lớn chiếu khắp mười phương, đất liền chấn động mạnh, trời rưới hoa thơm, nhạc khí không hầu không đánh tự kêu. Hiền giả A-Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục, quỳ thẳng, chấp tay tiến tới trước Phật bạch:
- Kính bạch Thế Tôn! Hôm nay vì lẽ gì Thế Tôn hiện ánh sáng lớn chiếu khắp mọi nơi, đất lại chấn động mạnh và trời rưới hoa thơm?
Phật bảo A-Nan:
- Thầy có thấy đầy cả trăm ngàn người đang chấp tay hướng về trước Phật không?
A-Nan bạch:
- Kính bạch Thế Tôn! Con có thấy.
Phật dạy:
- Trăm ngàn người này là do phước đức đời trước đã từng tạo nên trong vô số kiếp không còn trở lại nẻo ác. Mỗi người lại trải qua hằng hà sa các thế giới làm Chuyển luân Thánh vương, làm chủ bốn thiên hạ. Mỗi một phen làm Thánh vương thường được thấy chư Phật. Do được như vậy nên chí nguyện như ý và sau này ở trong đời sẽ được thành Phật hiệu là Lập Nhãn Thanh Tịnh Như lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác, Minh hạnh thành, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Đạo pháp ngự, Thiên nhơn sư, Phật, Thế Tôn, đều đồng một tên, ở mỗi mỗi cõi khác nhau và đều thành Phật đạo.
Phật vừa thọ ký cho các tộc tánh tử này xong, ngay khi ấy thần đất và thần hư không bỗng nhiên cất tiếng khen ngợi rằng: "Các tộc tánh này công đức vô lượng” . Âm thanh đó thấu suốt đến cõi trời Tứ thiên vương, Đao Lợi thiên, Diệm Ma thiên, Đâu Thuật thiên, Bất Kiêu Nhạo (Lạc?) thiên, Hóa Tự Tại thiên, cho đến ma giới, trên thấu Phạm thiên và A Ca Nị Tra thiên thứ hai mươi bốn đều cùng ca ngợi, tán thán: "Thật khó bì kịp, khó bì kịp! Thật chưa từng có! Nhờ oai đức từ ân của chư Phật Thế Tôn cao vời rực rỡ, đường đường cứu giúp nên mới như vậy. (Các Ngài) mở bày, chỉ dạy, giáo hóa các tộc tánh tử và thọ ký sẽ thành đạo Chánh chơn Vô thượng, được trí tuệ không ngăn ngại, thấy khắp mọi nơi đều thông suốt” .
Diện Thiện Duyệt dòng họ Thích ở trước Phật, bạch:
- Kinh điển này gọi tên là gì và phụng trì như thế nào?
Phật bảo đồng tử:
- Kinh này tên là "Diệt trừ tối tăm trong mười phương” . Vì sao? - Vì người nào nghĩ đến chư Phật trong mười phương và nhất tâm quy y thì trong tâm sáng suốt, như tối thấy được ánh sáng, không còn sợ hãi, cho nên gọi là "Diệt trừ tối tăm trong mười phương” . Nên phụng trì kinh này! Lại còn có tên là "Như Lai khen ngợi” , nên phụng trì! Lại còn tên là "Rõ pháp không tướng” . Lại còn có tên "Không Vô Sở Hữu” . Hãy siêng năng phụng trì!
Phật bảo đồng tử:
- Giả sử có người lãnh thọ kinh điển này rồi, hành trì đọc tụng và giảng thuyết cho người khác đầy đủ hoàn toàn không thiếu sót thì sẽ mau được thành tựu sở nguyện. Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di thọ trì kinh này và đọc tụng thì hoàn toàn không còn sợ hãi. Nếu đến chỗ quan huyện không bị xâm tổn. Nếu đi giữa giặc giã oán thù không bị nguy hại. Nếu đi trong lửa dữ, lửa dữ liền diệt. Nếu đi trong nước, hoàn toàn không bị chết chìm. Trời, rồng, quỷ thần, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chơn-đà-la, Ma-hưu-lặc, ác thần, ác ma và các chúng quỷ thần, nhơn, phi nhơn khác không dám xúc phạm. Các loài sư tử, hổ lang, mãnh thú, hùng bi không dám đến gần. Ngạ quỷ Võng lượng và quỷ Phản túc, các quỷ Hổn biên không thể nhiễu hại, cũng không có sự sợ hãi. Nếu một mình ở chỗ vắng vẻ, đồng trống, dưới gốc cây, chỗ đất trống, tức là nơi Như Lai tạo lập và đang ủng hộ. Nếu tộc tánh tử, tộc tánh nữ nào lãnh thọ kinh điển này rồi thọ trì đọc tụng, biên chép quyển kinh thì đã từng cúng dường chư Phật quá khứ, trồng các cội công đức và các công đức đã làm sắp hoàn thành.
Bấy giờ Phật bảo hiền giả A-Nan:
- Giả sử có người hiện đang đối diện trước Phật, chí tâm cúng dường các thứ đồ dùng như: y phục, thức ăn, giường nằm và thuốc thang chữa bệnh thì không bằng như có người thọ trì kinh này, biên chép, đọc tụng, chép lên thẻ tre, lên lụa và vì người khác giảng thuyết thì đó là người cúng dường Phật đầy đủ .
Khi ấy, Thiên Đế Thích cùng với vô số các chư thiên đồng đến, mỗi vị mang hoa trời rải cúng dường Phật và bạch Phật:
- Kính bạch Thế Tôn! Chúng con sẽ hộ trì kinh này.
Tứ thiên vương và chư thiên ở cõi trên đều mang hoa hương để cúng dường Phật và đều bạch Phật:
- Kính bạch Thế Tôn! Chúng con sẽ ủng hộ tộc tánh tử, tộc tánh nữ lãnh thọ kinh điển này thọ trì đọc tụng, vì người khác giảng thuyết hoặc biên chép lên thẻ tre, lên lụa. Người thọ trì kinh này thì ngay tại chỗ ở hay đi đến đâu, chúng con cũng đều vây quanh để ủng hộ, khiến cho không có ai có thể rình tìm được lỗi lầm của người đó một cách dễ dàng.
Phật thuyết như vậy xong, trời Đế Thích, Diện Thiện Duyệt đồng tử dòng họ Thích và trời Tứ Thiên vương, quỷ thần, A-tu-luân, nhơn dân thế gian nghe kinh hoan hỷ đảnh lễ và lui ra.
KINH PHẬT THUYẾT
DIỆT TỐI TĂM TRONG MƯỜI PHƯƠNG
Hết
https://www.chuabaidinhninhbinh.vn/p...oi-phuong.html
BẠCH-Y THẦN-CHÚ
ĐÁC CHỈ ĐÁ, ÁN DÀ LIỆP PHẠT ĐÁ, DÀ LIỆP PHẠT ĐÁ, DÀ HA PHẠT ĐÁ, LIỆP DÀ PHẠT ĐÁ, LIỆP DÀ PHẠT ĐÁ TÁ HA. Thiên-La Thần, Địa-La Thần、Nhân ly-Nạn, Nạn ly-Thân、Nhất-thiết tai-ương hóa vi-trần; MA-HA BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA.
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...-kiến/page8
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...Mẫu-Bản-01
TỊNH XÁ LIÊN HOA
Thiền Sư An Lạc Hạnh| Thần Chú ngừa"dịch bệnh"-Phật chú ngừa gió độc
https://youtu.be/R2c_a10LRHo
A. Duyên Sinh Chú / Thần Chú Duyên Sinh hay Tâm yếu duyên khởi (The Heart of Dependent Arising):
OM YÊ DHARMA HÊTU-PRABHAWA HÊTUN TESHAN
TATHAGATÔ HYA VAĐAT / TESHAN TSA YÔ NIRÔĐHA /
EHWAM-VADI / MAHA-SRAMANAH YÊ SVAHA (x7)
ÔM DÊ ĐẠT-MA HÊ-TU PỜ-RA-BA-VA
HÊ-TUM TÊ-SĂM TA-THA-GA-TÔ HI-DA-VA-ĐẮT
TÊ-SĂM CHA DÔ NI-RÔ-ĐA
Ê-VĂM VA-ĐI MA-HA-SỜ-RA-MA-NẮC SOA-HA ( 7 lần )
ÔM DÊ ĐẠT-MA HÊ-TU, PỜ-RA-BA-VA, HÊ-TUM TÊ-SĂM, TA-THA-GA-TÔ HI-DA-VA-ĐẮT, TÊ-SĂM CHA DÔ NI-RÔ-ĐA, Ê-VĂM VA-ĐI, MA-HA-SỜ-RA-MA-NẮC SOA-HA ( 7 lần )
B. Kim Cang Tự Quyết:
1. Các Nguyên Âm tiếng Phạn (Sanskrit vowels) = ALI:
OM A AA I II U UU RI RII LI LII E AI O AU ANG AH SVAHA (x3)
ÔM, AÀ, IÌ, UÙ, RIRÌ, LILÌ, ÊỀ, ÔỒ, ĂM À, SOAHA ( 3 lần )
2. Các Phụ Âm tiếng Phạn (Sanskrit consonants) = KALI:
OM KA KHA GA GHA NGA / TSA TSHA DZA DZAHA NYA / TrA
ThrA DrA DraHA NrA / TA THA DA DAHA NA / PA PHA BA
BAHA MA / YA RA LA WA / SA SHA KA HA KSHA SVAHA (x3)
ÔM, CAKHA GAGÀ NGA, CHACHÁ GIAGIÀ NHA, TRATRÁ ĐAĐÀNA, TATHÁ ĐAĐÀNA, PAPHÁ BABÀMA, GIARALAVA, SACA SAHA CHA SOAHA ( 3 lần )
=) GIA TRÌ LƯỠI KIM CANG - TỊNH HÓA KHẨU / KIM CANG KHẨU:
ÔM, AÀ, IÌ, UÙ, RIRÌ, LILÌ, ÊỀ, ÔỒ, ĂM À; CAKHA GAGÀ NGA, CHACHÁ GIAGIÀ NHA, TRATRÁ ĐAĐÀNA, TATHÁ ĐAĐÀNA, PAPHÁ BABÀMA, GIARALAVA, SACA SAHA CHA SOAHA ( 3 lần )
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...ng-Mã/page161
BUDDHARATANAPAṆĀMA
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa.
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambudhassa.
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa.
Námô tátsá Phágáquátô Áráhátô Sămmasămbútthátsá.
Námô tátsá Phágáquátô Áráhátô Sămmasămbútthátsá.
Námô tátsá Phágáquátô Áráhátô Sămmasămbútthátsá.
LỄ BÁI PHẬT BẢO
Con đem hết lòng thành kính làm lễ Ðức Bhagavā đó.Ngài là bậc Arahăng cao thượng, được chứng quả Chánh Biến Tri, do Ngài tự ngộ, không thầy chỉ dạy. (đọc 3 lần, lạy 1 lạy)
https://chuabuuthang.wordpress.com/2...g-pali-việt/
VĂN KHỞI THỈNH ĐỨC DƯỢC SƯ PHẬT
( Trích từ " NHỮNG BÀI KỆ KÍNH LỄ CHƯ PHẬT VÀ BỒ TÁT " của Thánh Tăng Kyabjé Trulshik Rinpoche )
Ngày Cát Tường và Ngày Cúng Tu: Ngày mùng 8 và Ngày 29 âm lịch hàng tháng ( theo Lịch Tây Tạng )
Thukjé künla nyompai chomdendé
Tsentsam thöpé ngen dro dug ngel sel
Dugsum nésel sangyé menkyi la
Baidurya yi ö la chaktsal lo
Chomdendé dézhin shekpa drachompa yang dakpar dzokpai sangyé menkyi la baidurya ö kyi gyalpo la chaktsal lo Chöto kyapsuchio
* Đại Đức THÍCH MINH TÔNG dịch:
Bậc Bạc già phạn ( Bhagavad ) có lòng từ bi coi tất cả như nhau,
Chỉ cần nghe Tôn Hiệu, nỗi khổ ách của cõi ác diệt trừ,
Bệnh khổ tam độc được trừng bỏ, chính giác Dược Sư Phật,
Phệ Lưu Ly Quang giả kính đỉnh lễ!
* Đại Đức THÍCH TRÍ KHÔNG cũng là Dịch Giả GIỚI ĐỊNH TUỆ ( tức Ngawang Lhabsum ) dịch:
Thế Tôn mắt từ nhìn tất cả chúng sinh,
Nghe Thánh danh Ngài tiêu tan khổ ác đạo,
Trừ ba bệnh độc Phật Đà Dược Sư Tôn,
Lưu Ly Quang Vương Như Lai, con đảnh lễ.
Na mô Thế Tôn, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác Viên Mãn, Thiên Nhân Sư, Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Con xin đảnh lễ, con xin cúng dường.
* Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên:
Đấng Thế Tôn có lòng bi mẫn bình đẳng với tất cả chúng sinh,
Chỉ nghe danh hiệu ngài cũng đủ xua tan khổ đau của những cõi thấp,
Đức Phật Dược Sư, Đấng chữa lành bệnh tật của ba độc,
Ánh sáng Xanh Da Trời, con kính lễ ngài!
Thế Tôn, Như Lai, A La Hán, Đức Phật toàn giác, Đấng Chiến Thắng Vinh quang, Đức Phật Dược Sư, Vương quyền của Ánh sáng Xanh Da Trời, con kính lễ và quy y ngài.
http://www.daibi.vn/2012/09/nhung-ba...hat-va-bo-tat/