Phụ lục : Sự chết theo quan điểm của Phật giáo
Các bạn xem thêm để hiểu rõ về vong linh nhé
Con người từ cõi sống về cõi chết (Phật Giáo chủ trương không thực sự có cõi chết theo nghĩa là chấm dứt mọi sự sống, vì sự sống vẫn tiếp tục dưới dạng khác, cõi khác) có thể phải trải qua một giai đoạn trung gian gọi là thân trung ấm, trước khi bị cuốn hút theo nghiệp lực mà luân hồi trôi nổi trong sáu nẻo (tức lục đạo hay lục thú) là: các cõi Trời, Người, A tu La, Quỷ thần, Địa Ngục và Súc sanh.
Theo tín ngưỡng dân gian, thì đối lập với cõi người sống còn có cõi âm, ám chỉ cho cõi người chết, một thế giới vô hình mà nhục nhãn con người không thấy được. Phật giáo không có một cõi nào dành riêng cho người chết tương đương với danh từ cõi âm của tín ngưỡng dân gian, nên dưới lăng kính Phật giáo, ta có thể nhận định cõi âm của dân gian có thể gồm các giai đoạn thân trung ấm và các nẻo luân hồi về cõi Quỷ Thần và Địa ngục. Cõi Địa Ngục dành cho chúng sanh địa ngục nghiệp nặng chiêu cảm về, cũng là chánh trú sở của loài Ngạ quỷ, ngoài hai hạng nầy, chỉ có chư Bồ Tát do nguyện lực cứu độ mới vãng lai. Cõi Quỷ Thần là một cõi có chủng loại vô cùng đa dạng, từ phước báu đến trú xứ. Có thể nói, hầu như khắp các cõi khác: Thiên, A tu La, Địa Ngục, Súc Sanh (1) và dĩ nhiên là cõi nhân gian chúng ta, đều có sự hiện hữu của chúng quỷ thần. Do đó, trong phạm vi bài nầy nhân khi đề cập đến việc cứu độ vong linh qua các giai đoạn cận tử, giai đoạn thân trung ấm, và giai đoạn sau 49 ngày (tức giai đoạn đã đầu thai),
cứu độ vong linh trong giai đoạn thân trung ấm:
Việc cứu độ trong giai đoạn nầy muốn đạt hiệu quả, thiết nghĩ chúng ta cần nghiên cứu đặc điểm căn bản của thân trung ấm để có thể ứng dụng hợp tình lý:
A. Vài đặc điểm của thân trung ấm:
1. Sau khi chết người cực thiện vãng sanh ngay về cõi lành, kẻ cực ác thì nghiệp lực lôi kéo về cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh tức thời, phần đông còn lại phải trải qua giai đoạn thân trung ấm, là giai đoạn tạm thời chờ đợi để chiêu cảm thêm nghiệp lực quyết định cho nẻo tái sanh cho cuộc sống kế tiếp.
2. Thân trung ấm nầy chỉ kéo dài được bảy ngày, nếu chưa tái sinh thần thức phải trải qua một kinh nghiệm chết rồi sống trở lại với thân trung ấm mới trong bảy ngày nữa, diễn tiến sống chết tiếp nối nầy có thể kéo dài thân trung ấm trong thời gian tối đa là 7 tuần tức 49 ngày.
3. Mỗi lần thân trung ấm lập lại cái kinh nghiệm chết, nó phải tái diễn trọn vẹn tình tiết của lần chết chánh thức: người chết an lành trải nghiệm lại cái chết an lành; người chết vật vã, đau đớn kinh hoàng... trải qua kinh nghiệm đau khổ đó mãnh liệt gấp 7 lần khi chết (nguyên nhân vì thân trung ấm thuần tâm linh, không có thân xác thịt ngăn trở nên ý thức khổ đau hay an lạc đều mãnh liệt gấp bảy lần lúc sống). Điểm cần lưu ý khác là trong giai đoạn thoáng qua của Trung Ấm tái sanh, mọi nghiệp ác của các đời trước đều chiếu hiện trở lại, một cách cô đọng cường liệt, làm cho thần thức bối rối tột cùng.
Đây là lý do tại sao Phật Giáo có lệ tụng niệm cho người chết liên tiếp “bảy thất”, mỗi thất nếu sắp xếp tổ chức kịp thời vừa trước phút thân trung ấm phải trải nghiệm lập lại cái chết thì quí giá vô cùng, sự kiện đó giúp thân trung ấm cảm nhận niềm bình an, một nhân tố lợi lạc cho việc tái sinh.
4. Có thể nói Thân Trung ấm có thần thông, một trạng thái tinh tế thấy, nghe, hay biết tâm ý người sống, cũng có thể đi khắp nơi trong chớp mắt, xuyên qua tất cả chướng ngại vật, tóm lại tâm người chết ở giai đoạn này hết sức bén nhạy, nhưng cũng rất phân tán và thường bất an. (Do đó, tang quyến nên luôn luôn sanh tâm thương yêu quí kính với người chết, nên nhớ là dầu chỉ móng niệm trong lòng ý khinh bạc, bất hiếu, cũng bị người chết khám phá được mà sanh tức giận đọa vào ác đạo; nếu thân quyến cãi vã tranh chấp nhau thì tình trạng càng tệ hại)
5. Thời gian 49 ngày là giai đoạn quan trọng nhất để người sống giúp đỡ người chết, giúp họ tạo cận tử nghiệp lành, tức là giúp họ chuyển vọng về chơn, chuyển phàm thành Thánh một cách dễ dàng. Theo Dudjom Rinpoche giải thích thì trong 21 ngày đầu của thời gian Trung Ấm, người chết vẫn còn một số ấn tượng mạnh về đời sống vừa qua, vì vậy đây là giai đoạn quan trọng nhất để người sống giúp đỡ người chết. Sau đó, kiếp tái sinh dần dần tượng hình và trở thành ảnh hưởng chính, nên cơ hội chuyển nghiệp cho họ khó khăn hơn 21 ngày đầu.
6. Sau 49 ngày nếu chưa đầu thai, thì thần thức sẽ không còn dưới dạng thân trung ấm nên cũng không còn chịu tái diễn kinh nghiệm sống chết sau mỗi bảy ngày nữa, vì đã chuyển sang kiếp quỷ thần rồi. Từ thời điểm nầy thì việc cứu độ vong linh trở nên khó khăn bội phần.
Sơ lược về cõi Quỷ thần và quỷ thần biên trụ:
Trong thời hạn 49 ngày, nếu không ở vào trường hợp đặc biệt vãng sanh về cõi Phật, thì tuỳ theo nghiệp lực dẫn dắt mà thân trung ấm sẽ tái sinh vào một trong sáu cõi (cũng gọi là lục đạo hay lục thú). Chúng ta thường tìm thấy trong các tài liệu giáo lý căn bản Phật Giáo thì lục thú là Thiên, Nhân, A tu La, Địa Ngục, Ngạ Quỷ và Súc sanh. Theo nhiều vị đạo sư thì Ngạ Quỷ thú phải được gọi chính xác hơn là Quỷ Thần thú, vì loại chúng sanh nầy rất đa dạng mà Ngạ Quỷ chỉ là một dạng của Quỷ Thần thú mà thôi.
A. Vài đặc điểm của Quỷ Thần Thú:
1.Ý nghĩa các danh từ Quỷ, Thần và Ma:
- Theo kinh sách Phật giáo:
+ Quỷ Thần: Tách rời từng chữ thì "Quỷ" có nghĩa là "úy", là hay khiếp sợ; "Thần" có nghĩa linh thông biến hóa. Quỷ Thần chỉ chung cho một cõi bao gồm cả bậc thần thông biến hóa đầy uy đức (Thần) lẫn hạng chúng sanh cùng khổ kinh sợ (Quỷ).
+ Ma: là những lực xấu làm nhiễu loạn kẻ tu hành. Luận Du-già-sư-địa nêu ra bốn loại ma: Thiên ma, ma ngũ uẩn, ma phiền não, và ma chết. Thiên ma chỉ chúng sinh ở Tha Hóa Tự Tại Thiên tức cõi Trời thứ sáu của Dục giới. Chính Ma Vương La Tuần của cõi nầy cùng đám ma nữ giở mọi trò biến hóa mong phá hoại Đức Bổn sư Thích Ca khi Ngài sắp thành Phật. Còn ba thứ ma kia không phải là một loài chúng sanh mà chỉ là thứ mãnh lực tiêu cực phát xuất từ sinh lý và tâm lý của con người, cũng gây nhiễu loạn và phá hoại công đức kẻ tu hành. (3)
- Theo tín ngưỡng dân gian:
+ Thần: bậc siêu phàm khuất mặt, linh thiêng có thể gây phúc họa được người tôn thờ.
+ Ma: người đã chết nói chung (nên thây người chết gọi là thây ma) và cũng chỉ riêng cho hình bóng người chết hiện hình.
+ Quỷ: là loại ma hung dữ gây tác hại và nguy hiểm cho người sống.
- Tóm lược: Chữ Quỷ trong Phật giáo bao gồm cả hai loại Ma và Quỷ theo dân gian, riêng chữ Ma theo Phật giáo có ý nghĩa khác biệt như đã ghi trên.
2. Chủng loại Quỷ Thần:
Quỷ thần có vô số chủng loại và hiện hữu ở khắp cõi khác, từ cõi thiên cho đến địa ngục, súc sanh. Ta chỉ có thể tạm chia thành hai loại là: quỷ có uy đức (hay uy phước) và quỷ không có uy đức.
a. loại uy đức có cung điện, thân tướng trang nghiêm, có nhiều kẻ thuộc hạ tùy tùng, được thọ dụng những trân vị cam lồ, hoặc được người thờ cúng.
- Thiện quỷ thần đại uy đức như chư vị: Đại Phạm Thiên Vương, Tam thập thiên vương, Tứ thiên vương, Diêm Ma vương, Nan đà long vương, Bạt đà long vương...
- Uy đức bậc trung như quỷ Dạ Xoa, quỷ La Sát, quỷ Cưu bàn Trà (Quỷ nầy có thể biến làm cảnh giới ngũ trần vui sướng để hưởng thọ), quỷ Địa hành dạ-xoa (địa hành: đi đất) luôn luôn được nghe những âm nhạc vui vẻ và được ăn uống (theo kinh Chánh Pháp niệm xứ), quỷ Đa tài Đại phúc hưởng phước đức như cõi Trời(theo P.G. Chánh Tín, HT Thánh Nghiêm)
(Ngài Hư Vân cũng lời dạy tương tợ với vài hàng vắn tắt như sau: Các quỷ vương như Diêm Vương và Thành Hoàng đều hưởng lạc nhiều mà thọ khổ ít hơn những loài quỷ cô hồn vô chủ. Khổ nhất là loài ngạ quỷ, là loại chúng sanh trong địa ngục thường thọ vô biên khổ cực, chẳng hề được sung sướng)
Trong loại quỷ thần uy đức cũng có thể tùy theo tâm địa mà phân thành:
- thiện quỷ thần (tức chánh thần) là bậc chân chánh hộ trì chánh pháp, hộ trì nhân gian như các bậc Thiên vương đã ghi trên.
- ác quỷ thần như Quỷ La Sát
- vừa thiện vừa ác: như Quỷ Dạ Xoa.
b. loại không uy đức lâm cảnh vất vả, sống âm u tăm tối, thường đói khát hoặc ăn uống bất tịnh:
- Loại ít đói như quỷ hy vọng (mong cầu người ta thờ cúng tế mới ấm no), quỷ hy khí (mong cầu đồ vật người ta vất bỏ để mà ăn).
- Loại đói nhiều, như quỷ châm mao (lông như kim), quỷ xú mao (lông hôi thối), quỷ đại anh (thân đầy lở lói).
- Loại đói thường trực kinh khủng như các loài ngạ quỷ: quỷ cự khẩu, quỷ châm yết, quỷ xú khẩu (cự khẩu: miệng như lửa; châm yết: cổ như kim; xú khẩu: miệng rất hôi thối).
c. loại tạm gọi uy đức trung bình: là loại có uy phước chút ít, khó xếp hẳn vào một trong hai loại trên, như:
- quỷ Hy Tự, hành động được tự do, có thể đi hết các phương dễ dàng cũng như chim bay giữa trời, qua lại không ngăn ngại (luật Thuận Chánh Lý, quyển ba)
- quỷ Tự do: những kẻ trong lúc bình sanh không làm lành, cũng không làm dữ; thì sau khi chết rồi không có quả báo gì xuất hiện, cho nên sẽ làm loài quỷ và được tự do. Loài quỷ này thường hay nương náu nơi mồ mả của mình hoặc mồ mả của kẻ khác; dựa theo cái dư khí của cốt tủy mà được hiển linh. Cho nên nếu ai có cúng tế, thì cũng được hưởng thụ. Đến khi xương tủy đã mục nát, thì mất chỗ nương tựa, liền tìm đến chỗ nào xương tủy chưa mục nát và vô chủ để nương tựa (theo Kinh Quán Đảnh)
3. Xứ sở của Quỷ Thần:
Quỷ Thần có nhiều chủng loại, vì vậy trụ xứ của Quỷ Thần cũng hoàn toàn khác biệt, như chư Thiên Vương thỉ dĩ nhiên xứ sở phải là cõi Thiên. Tuy nhiên, riêng đối với chư Quỷ thần thiếu uy đức thì xứ sở của quỷ thần có hai nơi gọi là chánh trụ và biên trụ: Theo kinh Chánh Pháp Niệm thì:
- Chánh trụ là xứ sở riêng của loài quỷ nghiệp nặng, thuộc về thế giới ngạ quỷ, nằm trong thành Diêm La, nơi ở chánh thức của vô số ngạ quỷ do Diêm La Vương thống lãnh.
- Biên trụ là xứ sở của các quỷ thần nghiệp nhẹ hoặc có phước nghiệp, thuộc về hạng ở lẫn lộn trong loài người. Biên trụ là những chỗ như mé biển, triền núi, rừng bụi, đình miếu, hang hố, đồng trống, mồ mả, cho đến vườn nhà cùng các nơi thanh tịnh lẫn bất tịnh.
4. Hình thức tái sanh vào Quỷ Thần thú:
- loại thai sanh rất hiếm như Quỷ La Sát, Quỷ Tử Mẫu...
- loại hóa sanh gần như hầu hết (có thể coi như 99.99%)
B. Vài nhận định về các loại Quỷ Thần Biên Trụ tức loại sống lẫn lộn trong loài người:
1. Nguyên do hóa sanh của Quỷ Thần Biên Trụ:
Chư Quỷ thần nầy vốn đã có nhiều duyên nghiệp với loài người, nên bằng nguyện lực hay nghiệp lực đã hóa sanh về biên trụ sống lẫn lộn với người:
- chư Bồ Tát do nguyện lực hóa hiện về cõi Ta Bà để hộ trì Phật Pháp, phổ độ chúng sanh. Thí dụ như nhị vị Dạ Thần: Bà San Bà Diễn và Phổ Đức Tịnh Quang mà Ngài Thiện Tài đồng tử đã tầm cầu học đạo. (kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới)
- những người thương dân yêu nước, thậm chí quyến luyến một địa phương, một giòng sông, một ngọn núi... cái thâm tình đó đã thúc đẩy họ ở lại thế gian mà phò trợ. Đó là những vị thần bản địa, thần hoàng, thần núi, thần sông... (Kinh Địa Tạng Bồ Tát bản nguyên có nhắc đến danh sách rất dài danh tính các vị thần nầy. Ngài Hư Vân cũng kể có vị thần núi, thần cây đã thọ giới quy y với Ngài)
- những người có nghiệp thiện ác trung hòa không có cõi nào thu hút mãnh liệt, trong thời gian 49 ngày của thân trung ấm lập lờ chờ đợi quyết định cõi đầu thai bỗng bị tình quyến thuộc, lòng tham luyến mồ mả, mong cầu giỗ cúng... mà kẹt lại.
- trong số người chết thảm khốc như: bị ám sát, tự sát, tai nạn, chiến tranh, có người bị rơi vào trạng thái đau đớn, sợ hãi khủng khiếp dày đặc, khiến thần thức bị kẹt cứng vào thảm trạng đó không tạo cơ hội cho các chủng tử khác đang lưu trữ sâu trong tàng thức hiện hành được, và cứ thế mà họ chìm đắm trong trạng thái u mê đó mãi mãi. Có thể hiểu là họ đã hóa sanh thành Quỷ thần ngay lúc thảm tử, không trải qua giai đoạn thân trung ấm, nên không có giây phút thấy lại quãng thời quá khứ để chiêu cảm nghiệp lực nào khác.
2. Tương quan giữa Phật tử và quỷ thần:
- Phật tử chân chính đã quy y Phật thì tuyệt đối không quy y Thiên Thần Quỷ Vật, dù là bậc Thiên Thần đầy phước báu. (Lời phát nguyện khi thọ Tam quy)
- Nếu chưa là Phật tử cũng nên ý thức rằng Thiên Thần cũng là chúng sanh trong lục đạo, khi hưởng hết phước báu lại tiếp tục quay cuồng trong sáu nẻo luân hồi. Vua Trời Phạm Thiên, Tứ Đại Thiên Vương... cũng quy y Phật và trở thành những bậc hộ pháp đắc lực, thường gia hộ những Phật tử tu hành chân chính. Do đó, chẳng những ta phải từ bỏ tệ trạng sùng bái quỷ thần, mà dứt khoát không bao giờ cầu cạnh họ ban cho ân huệ hay quyền lợi gì cả. Khi đã nhận được quyền lợi của ai thì phải thiếu nợ, để rồi cuối cùng phải trả nợ cả vốn lẫn lời, mà không phải trong một kiếp. Đã dây dưa với họ thì khó mà vuột thoát. (H.T. Thiện Tâm có kể đến trường hợp một tín nữ cha ông theo phái Ngũ Hành của Quỷ thần, riêng cô hết lòng muốn tu theo Phật giáo nhưng cuối cùng cũng bị lôi trở lại với họ. Xem NPTY, chương 7)
3. Thái độ nên có của người Phật tử đối với Quỷ Thần:
- Kính trọng: Là Phật tử ta nên tỏ lòng kính trọng chư Thiện Thần uy đức thường ủng hộ thế gian, ngay như hạng Quỷ thần thấp kém đói khổ cũng nên tỏ lòng từ bi lân mẫn thương yêu họ.
- nhưng thận trọng: Ta cũng nên thận trọng đối với chư Quỷ thần, nếu tự hào là Phật tử mà có thái độ khinh bạc, không may gặp loại Quỷ thần có uy lực nóng tánh cố chấp thì có thể bị trừng phạt.
- và không nể sợ: Chư cổ đức thường dạy “đức trọng quỷ thần kinh”, người Phật tử đức độ luôn luôn được chư Quỷ thần nể trọng. Ta không gây sự với Quỷ thần thì Quỷ thần chẳng đụng chạm đến ta.
4. Những điều cần lưu ý trong việc cứu độ thân nhân bạc phước lạc vào cõi Quỷ thần:
- Quỷ thần từ cõi người hóa sanh nên vẫn giữ nguyên ký ức kiếp người cũ, tình cảm hay thù hận vẫn còn ấp ủ trong tâm(4), do đó họ rất mong mỏi được thân nhân nhớ tưởng và cứu giúp họ. Nói chung là phần lớn quen cách sống của kiếp người, luôn luôn tưởng mình còn thân xác thịt nên thường bị ám ảnh bởi cái khổ đói lạnh. Do đó, nếu được khai thị nhắc nhở cho họ ý thức rằng đói lạnh là do tâm tưởng không thực có thì nỗi khổ bức bách nầy sẽ biến mất, họ có thể nhận được phần nào an lạc. (5)
- Quỷ thần hạng kém uy phước hóa sanh về biên địa, nói chung, dù sao cũng xếp vào hạng nghiệp lưng chừng hay nghiệp nhẹ. Do đó, ngay như những cô hồn đói khổ vất vưởng nếu được khai thị, được quy y, thậm chí chỉ cần nghe tụng nửa câu kệ trong kinh Hoa Nghiêm(5) thì vẫn có thể phát tâm lành tu tập mà chuyển nghiệp.
- Chư quỷ thần có uy phước trung bình hộ trì dân gian như thần bản địa, thần núi, thần sông... khi nghe Phật Pháp rất hoan hỷ nên thường hay phù hộ kẻ tu hành chân chính, có vị còn hiện hình xin thọ giới quy y hoặc thọ pháp với chư đạo đức tăng. Trong “Cảnh đức truyền đăng lục” có kể chuyện thiền sư Nguyên Khuê truyền giới cho thần núi Ngũ Nhạc, trong “Bá Trượng ngữ lục” cũng ghi lại câu chuyện của một ông lão, vốn là tỳ kheo thời Phật quá khứ, vì dạy pháp sai lầm nên bị đọa thành chồn tinh (súc thần) đã 500 kiếp, nhờ được thiền sư Bá Trượng thuyết pháp giải đáp khối nghi mà đại ngộ và được giải thoát kiếp chồn