kệ họ đi Vitxiem, Chúa có nói là phúc cho ai không thấy mà tin đó sao ? niềm tin của con sẽ cứu chuộc con... nghiệp lực sâu dày làm sao có được niềm tin đó. Không ai đi thuyết phục kẻ không có niềm tin cả !
Printable View
người vô thần sẽ vào cõi vô thần.:D
Lời chứng của người ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa
Thư Côrintô 1 - Chương 15
III. KẺ CHẾT SỐNG LẠI
Sự kiện Phục Sinh
1 Thưa anh em, tôi xin nhắc lại cho anh em Tin Mừng tôi đã loan báo và anh em đã lãnh nhận cùng đang nắm vững.2 Nhờ Tin Mừng đó, anh em được cứu thoát, nếu anh em giữ đúng như tôi đã loan báo, bằng không thì anh em có tin cũng vô ích.
3 Trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh,4 rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh.5 Người đã hiện ra với ông Kê-pha, rồi với Nhóm Mười Hai.6 Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ.7 Tiếp đến, Người hiện ra với ông Gia-cô-bê, rồi với tất cả các Tông Đồ.8 Sau hết, Người cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non.
9 Thật vậy, tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa.10 Nhưng tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu; trái lại, tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi, mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi.
11 Tóm lại, dù tôi hay các vị khác rao giảng, thì chúng tôi đều rao giảng như thế, và anh em đã tin như vậy.
12 Nhưng nếu chúng tôi rao giảng rằng Đức Ki-tô đã từ cõi chết trỗi dậy, thì sao trong anh em có người lại nói: không có chuyện kẻ chết sống lại?13 Nếu kẻ chết không sống lại, thì Đức Ki-tô đã không trỗi dậy.14 Mà nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng.15 Thế ra chúng tôi là những chứng nhân giả của Thiên Chúa, bởi vì đã chống lại Thiên Chúa mà làm chứng rằng Người đã cho Đức Ki-tô trỗi dậy, trong khi thực sự Người đã không cho Đức Ki-tô trỗi dậy, nếu quả thật kẻ chết không trỗi dậy.16 Vì nếu kẻ chết không trỗi dậy, thì Đức Ki-tô cũng đã không trỗi dậy.17 Mà nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em.18 Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Ki-tô cũng bị tiêu vong.19 Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người.
20 Nhưng không phải thế! Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu.21 Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại.22 Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống.23 Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Ki-tô, rồi khi Đức Ki-tô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người.24 Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha.
25 Thật vậy, Đức Ki-tô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người.26 Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết,27 vì Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Ki-tô. Mà khi nói muôn loài, thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Ki-tô.28 Lúc muôn loài đã quy phục Đức Ki-tô, thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài.
29 Chẳng vậy, những người chịu phép rửa thế cho kẻ chết thì được gì? Nếu tuyệt nhiên kẻ chết không trỗi dậy, thì tại sao người ta lại chịu phép rửa thế cho kẻ chết?30 Và chính chúng tôi, tại sao hằng giờ chúng tôi liều mình đương đầu với hiểm hoạ?31 Thưa anh em, mỗi ngày tôi phải đối diện với cái chết: tôi có hãnh diện về anh em trong Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta, thì mới quả quyết như vậy.32 Nếu vì những lý do phàm trần mà tôi đã chiến đấu với thú dữ tại Ê-phê-xô, thì điều đó nào có ích gì cho tôi? Nếu kẻ chết không trỗi dậy, thì chúng ta cứ ăn cứ uống đi, vì ngày mai chúng ta sẽ chết.33 Anh em chớ có lầm: Chơi với kẻ xấu, người tốt cũng ra xấu.34 Đừng say sưa nữa mới phải phép, và chớ phạm tội: một số người quả không biết gì về Thiên Chúa. Tôi nói như vậy để anh em phải xấu hổ.
Đọc đoạn trên đúng là thiên chúa cho ai có đức tin là có. bất kể người đó là ai, mà khi đã có đức tin thì họ không sợ hy sinh mạng sống thế gian nữa. cái chết không thắng được họ.
.Thiên Đàng có cửa đấy! Ông gõ cửa muốn vào chơi. Bên trong vọng tiếng ra hỏi rằng ÔNG ĐANG MẶC ÁO CÓ CHỮ GÌ? Ông trả lời ÁO TÔI CÓ CHỮ "ĐẾCH TIN THẦN NÀO HẾT". Vậy còn PHIA cửa ấy mở cho ông vào. Ví như có đứa con đi chơi về trễ. Nó đập cửa kêu má mở cửa. Má nó phạt nó nên ko mở. Thế thì NÓ NẾM MÙI NGỦ VỚI MUỖI
Sesonglai lên cửa thiên đàng. Bên trong vọng ra tiếng hỏi "ông đang mặc áo gì ". Sesonglai trả lời. Áo con có chữ "thiên chúa toàn năng". Bên trong vọng ra "thằng nịnh hót. Cho nó xuống địa ngục". Vô thần lên cửa thiên đàng chơi. Bên trong vọng tiếng ra hỏi "ông đang mặc áo chữ gì". Vộ thần trả lời " tôi đang cởi trần". Thế là bên trong nói à được. Thế là đã trong trắng như adam thuở ban đầu. Thế là cánh cổng mở ra. Vô thần bảo. Tôi vào chơi tí thôi tí nữa còn xuống địa ngục ngao du. Bên trong bảo. Lúc nào anh đến cánh cổng này đều sẵn sàng mở.
quan trọng là linh hồn dc rỗi hay ko thôi bạn ah
.Tôi xin kể thế này. Báo chính thống đi phỏng vấn bs sinh sản hiếm muộn. Bs nói NHỮNG NGƯỜI HIẾM MUỘN THƯỜNG ĐẾN BS CHÚNG TÔI CHỮA TRỊ. Sau một thời jan chữa trị, họ sốt ruột nên đến với tâm linh và họ có bầu. Vậy thì đấy là sự trùng hợp khi sự chữa trị của bs chúng tôi có hiệu quả khi họ đang đi nguyện cầu. Họ thì cho rằng nhờ tâm linh phép màu, chứ thực ra LÀ NHỜ KHOA HỌC ĐẤY.!
Khà khà! Thấy chưa, bs lươn lẹo giành công trạng cho KHOA HỌC. Vậy khoa học có công lao gì khi người ta vừa mang bầu vừa có kinh nguyệt, mang bầu không phải 9 tháng 10ngày, mà rất rất rất rất lâu ngày tháng, đi đến bv siêu âm bị chửi, đuổi đi về. Vậy chúng tôi đăng hình em bé để CHO CON MẮT MÁY SIÊU ÂM biết NÓ CHỈ LÀ GÀ MỜ ĐỐI VỚI THIÊN CHÚA
chính thế ! người tin Chúa sẽ được cứu rỗi trong ánh sáng của Ngài
.................................................. .............................
có kẻ tự cho mình là người sáng nhưng khi đặt câu hỏi " bạn sáng thế thì bạn có nhìn thấy trước bạn chết thế nào không? chết bịnh hoạn vật vã, chết vì tai nạn hay chết an lành bên cạnh người thân?" câu trả lời sẽ là" ai biết đâu được , không biết! ai mà biết !" vấn đề ở chỗ họ tự cho mình là sáng mắt - đi chê bai người tin Chúa là "thằng mù chém gio'" mà ngay cái chết của họ- họ cũng chả biết họ thở hơi chót ngày tháng nào và theo kiểu cách gì, thế nói không ngoa họ chả khác nào " mù ngoan cố", họ biết rõ vận mệnh sống chết của họ nằm gọn trong lòng bàn tay Thiên Chúa nhưng họ vẫn ngoan cố, trên đời có rất nhiều tôn giáo thần linh nhưng chỉ có 1 vị duy nhất làm cho kẻ chết sống lại đó là Thiên Chúa:
Anh La-da-rô sống lại
(1) Có một người bị đau nặng, tên là Ladarô, quê ở Bêtania, làng của hai chị em cô Mácta và Maria. (2) Cô Maria là người sau này sẽ xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Anh Ladarô, người bị đau nặng, là em của cô. (3) Hai cô cho người đến nói với Ðức Giêsu: "Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng". (4) Nghe vậy, Ðức Giêsu bảo: "Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh".
(5) Ðức Giêsu quý mến cô Mácta, cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô.
(6) Tuy nhiên, sau khi được tin anh Ladarô lâm bệnh, Người còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở. (7) Rồi sau đó, Người nói với các môn đệ: "Nào chúng ta cùng trở lại miền Giuđê!" (8) Các môn đệ nói: "Thưa Thầy, mới đây người Dothái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao?" (9) Ðức Giêsu trả lời:
"Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó sao?
Ai đi ban ngày thì không vấp ngã,
vì thấy ánh sáng của thế gian này.
(10) Còn ai đi ban đêm thì vấp ngã
vì không có ánh sáng nơi mình!"
(11) Nói những lời này xong, Người bảo họ: "Ladarô, bạn của chúng ta, đang yên giấc; tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây". (12) Các môn đệ nói với Người: "Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được, anh ấy sẽ khỏe lại". (13) Ðức Giêsu nói về cái chết của anh Ladarô, còn họ tưởng Người nói về giấc ngủ thường. (14) Bấy giờ Người mới nói rõ: "Ladarô đã chết. (15) Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi, nào chúng ta đến với anh ấy". (16) Ông Tôma, gọi là Ðiđymô, nói với các bạn đồng môn: "Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!"
(17) Khi đến nơi, Ðức Giêsu thấy anh Ladarô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi. (18) Bêtania cách Giêrusalem không đầy ba cây số. (19) Nhiều người Dothái đến chia buồn với hai cô Mácta và Maria, vì em các cô mới qua đời. (20) Vừa được tin Ðức Giêsu đến, cô Mácta liền ra đón Người. Còn cô Maria thì ngồi ở nhà. (21) Cô Mácta nói với Ðức Giêsu: "Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. (22) Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy". (23) Ðức Giêsu nói: "Em chị sẽ sống lại!" (24) Cô Mácta thưa: "Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết". (25) Ðức Giêsu liền phán:
"Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống.
Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết,
cũng sẽ được sống.
(26) Ai sống và tin vào Thầy,
sẽ không bao giờ phải chết.
Chị có tin thế không?"
(27) Cô Mácta đáp: "Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa, Ðấng phải đến thế gian".
(28) Nói xong, cô đi gọi em là Maria, và nói nhỏ: "Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy!" (29) Nghe vậy, cô Maria vội vàng đứng lên và đến với Ðức Giêsu. (30) Lúc đó, Người chưa vào làng, nhưng vẫn còn ở chỗ cô Mácta đã ra đón Người. (31) Những người Dothái đang ở trong nhà với cô Maria để chia buồn, thấy cô vội vã đứng dậy đi ra, liền đi theo, tưởng rằng cô ra mộ khóc em.
(32) Khi đến gần Ðức Giêsu, cô Maria vừa thấy Người, liền phủ phục dưới chân và nói: "Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết". (33) Thấy cô khóc, và những người Dothái đi với cô cũng khóc, Ðức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến. (34) Người hỏi: "Các người để xác anh ấy ở đâu?" Họ trả lời: "Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem". (35) Ðức Giêsu liền khóc. (36) Người Dothái mới nói: "Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy!" (37) Có vài người trong nhóm họ nói: "Ông ta đã mở mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết được ư?" (38) Ðức Giêsu lại thổn thức trong lòng. Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại. (39) Ðức Giêsu nói: "Ðem phiến đá này đi". Cô Mácta là chị người chết liền nói: "Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày". (40) Ðức Giêsu bảo: "Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?" (41) Rồi người ta đem phiến đá đi. Ðức Giêsu ngước mắt lên và nói:
"Lạy Cha, con cảm tạ Cha,
vì Cha đã nhậm lời con.
(42) Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con,
nhưng vì dân chúng đứng quanh đây,
nên con đã nói
để họ tin là Cha đã sai con".
(43) Nói xong, Người kêu lớn tiếng: "Anh Ladarô, hãy ra khỏi mồ!" (44) Người chết liền bước ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn liệm. Ðức Giêsu bảo: "Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi".
Lại có những người có đạo nhưng lại đứng về phe bóng tối, ủng hộ những kẻ phỉ báng chính Thiên Chúa của mình, Đức Mẹ đã thấy trước chuyện này:
"“Trung Quốc sẽ sản sinh ra nhiều Sự Dữ, và có thể đe dọa cả một vùng rộng lớn trên thế giới !
Và CON RỒNG LỬA sẽ đứng lên nghênh chiến với Mẹ của các con, nhưng sau đó, Mẹ sẽ đạp dập đầu Nó.
Nhưng các con phải coi chừng, kẻo các con đi theo bè phái của Nó !...”.
Thánh Phao Lô tông đồ cũng nói về cách hành xử, về công việc xây dựng cho hội thánh Chúa của mỗi cá nhân, những ai bênh vực cho kẻ phản nghịch thì hãy xem lại :
(10) Theo ơn Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi đặt nền móng như một kiến trúc sư lành nghề, còn người khác thì xây trên nền móng đó. Nhưng ai nấy phải coi chừng về cách mình xây cất. (11) Vì không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Ðức Giêsu Kitô. (12) Người ta có thể dùng vàng bạc, đá quý, gỗ, cỏ, rơm mà xây trên đó. (13) Nhưng công việc của mỗi người sẽ được phơi bày ra ánh sáng. Thật thế, Ngày của Chúa sẽ cho thấy công việc đó, vì Ngày ấy tỏ rạng trong lửa; chính lửa này sẽ thử nghiệm giá trị công việc của mỗi người. (14) Công việc xây dựng của ai tồn tại trên nền, thì người ấy sẽ được lĩnh thưởng. (15) Còn công việc của ai bị thiêu hủy, thì người ấy sẽ phải thiệt. Tuy nhiên, bản thân người ấy sẽ được cứu, nhưng như thể băng qua lửa.
(16) Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Ðền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? (17) vậy ai phá hủy Ðền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ ấy. Vì Ðền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Ðền Thờ ấy chính là anh em.
vậy những ai cho là mình sáng thì lại hành xử như kẻ mù loà, những ai cho mình là con Thiên Chúa, tui không biết họ có thật là con Thiên Chúa hay không.
Đúng là những người vô thần mà muốn lên . thì lên thiên đàng trước người hữu thần thật. trong lịch sử đã có rồi, ví dụ; hai tên trộm cướp đó một tên được lên thẳng ngay hôm ấy. cùng với Chúa giê su. mặc dù anh ta trước đây nhiều tội, nhưng chỉ cần biết quay đầu là ok. nhanh hơn người bình thường, thế cho lên nhiều người còn đang bức súc chuyện này. thiên chúa toàn thích người có tội "quay về" cũng như câu chuyện chiên lạc người chủ bỏ 99 con đi tìm một con. khi tìm được, còn vác lên vai mang về . nhiều người bảo Chúa chẳng biết tính toán gì cả. hihihi
Ko phải Chúa thích người có tội, MÀ LÀ CHÚA THƯƠNG XÓT QUAN TÂM ĐẶC BIỆT NGƯỜI TỘI LỖI. Ngài sẵn sàng vào nhà ăn chung bàn với người tội lỗi, như bác sỹ đi kiếm con bệnh mà tìm cách chữa trị cho nó. THƯƠNG BỆNH NHÂN, THƯƠNG TỘI NHÂN, NHƯNG GÉT BỆNH , GÉT TỘI LỖI.
Người theo Allah thì hok gặp Jesus
Người theo Jesus hok gặp Allah
Người theo Phật không gặp Chúa
Người theo ma có gặp Phật hay ko ?
Người đọc Doraemon thì theo ai ?
Người xem thegioivohinh biết đi về đâu ^^" ?
Vô thần cũng được nhưng đừng vô đạo đức, vô lương tâm, vô liêm sỉ,vv... Tôi là người vô thần đó, nhưng tôi còn đạo đức, lương tâm, liêm sỉ, thể diện quốc gia,vv... tức là tôi còn hình ảnh của Chúa. Xin lỗi, đừng bảo tôi là vô thần.
Nhưng vấn đề nằm ở chỗ ý thức hệ vô thần mấy chục năm nay ở 1 số xã hội sản sinh ra quan điểm chết là hết, duy vật, duy lợi, ích kỷ, chạy theo các giá trị thiếu bền vững. Như thảm họa về thực phẩm, ung thư, môi trường,vv... không ngẫu nhiên mà có. Đến người Tàu còn chẳng dám ăn thực phẩm Tàu, tôi có thằng bạn người Tàu, nó ước gì lấy được cô vợ VN ở cho sạch sẽ, nó cũng chẳng muốn trở về quê, giờ không biết lang bạt nơi nào. Thằng nhiều tiền thì chạy sang châu Âu, Mỹ, thằng ít tiền thì sang VN, Thái, Cam.
Ngày xưa dân Việt, dân Tàu nghèo thật nhưng còn Đức Trị, Pháp Trị, còn Khổng Giáo, Phật giáo ăn sâu vào nền tảng luân lý hàng ngàn năm, tam cương ngũ thường, vv...
Ngày nay người ta chẳng còn gì mà phải sợ, trẻ con được học cách sống giả tạo, dối trá của bố mẹ từ lúc bé tí tẹo.
Nó như dịch bệnh, và lan truyền cả người khỏe lấn người yếu. Nhiều người mang tiếng CG, đi lễ đều như vắt chanh, nhưng trước nhiều thực trạng tội lỗi lan tràn, họ thở dài: Xã hội giờ nó thế ấy mà, biết làm thế nào. Tội lỗi được hợp thức hóa để đảm bảo các nhu cầu cơ bản, bơi ngược dòng chỉ có chết,vv... Những hành động ngay thẳng nhưng thiệt thân có khi còn bị bảo là điên, hâm.
Thời nay còn đào đâu ra các cụ Trạng Trình, Nguyễn Khuyến giũ áo về vườn để giữ tấm lòng ngay thẳng.
Thế nên đi nước ngoài nhiều mới thấy cái nhục quốc thể, như người TQ nhục vì cách giết chó ăn thịt man rợ. Người Việt còn nổi tiếng thêm về nghề 2 ngón.
Ông bạn tôi sang Đức thở dài: Con chó bên Đức có khi còn sướng hơn con người ở VN. Nó được mua bảo hiểm, ốm thì được thăm khám, chữa bệnh, chủ của nó ốm thì có nhân viên dắt nó đi dạo định kỳ theo tuần.
Ở VN mình ư, còn ai có công với nước hơn Liệt sỹ, mà ông trở về quê sau 40 năm, trên mình mang đầy vết thương, gần như bị các công bộc bỏ rơi. Đến khi báo chí nhảy vào mới xxx
Nói chung cũng là 1 kiểu Pharisieu thời hiện đại, giờ chỉ còn là cái áo bề ngoài.
Vấn đề là lúc nào cái áo đó không thể giữ được mùi thối bên trong nữa thôi.
Thể diện quốc gia được bán với giá bèo bọt:
http://vietnamnet.vn/vn/kinh-te/1284...o-san-bay.html
Người mất trí nhớ “chưa có ý kiến gì” (?):
http://dantri.com.vn/xa-hoi/liet-si-...ang-744789.htm
Minh Thai mà cũng post những bài có giọng điệu tiêu cực bế tắc thế cơ à. Có mấy quan điểm trao đổi.
Vô thần và duy vật là khác nhau. Vô thần nhưng không có quan điểm chết là hết. Vô thần nhưng có quan điểm về nhân quả. Có tất cả những cái đó nhưng vẫn vô thần đơn giản vì hiểu rõ mình chính là chủ nhân của cuộc đời mình, mình sướng, khổ, may không may đều là do chính mình. Do chính những nguyên nhân về cách suy nghĩ hành xử của mình trước đây và hiện tại.
Ngày nay nếu nhìn cho kỹ thì tốt hơn ngày xưa rất nhiều. Đơn giản là kinh tế tăng trưởng, con người bắt đầu có thể quan tâm đến những vấn đề tinh thần nhiều hơn còn khi đói khổ thì chỉ nhăm nhăm kiếm miếng ăn. Nhìn thời bao cấp và bây giờ thì rõ ngay.
Nhìn chung các tật, thói xấu là thể hiện của mức phát triển thấp. Mức phát triển thấp nhìn chung liên quan nhiều đến kinh tế. Khi giàu lên mọi người sẽ khác dần.
Ở TQ và VN 1 giai đoạn thì vô thần và duy vật thường được lồng vào nhau trong các sự kiện, giống như thời cách mạng văn hóa chẳng hạn.
quangcom có thể chưa phải va đập, đụng chạm nhiều tới giới công quyền nên chưa thấu hiểu. Chỉ có 1 sự lựa chọn cho những người thích sự thật, công bình, ngay thẳng đó là hãy đi con đường của riêng mình, dĩ nhiên là bơi ngược dòng, hoặc là bơi ở 1 dòng sông khác. Như tôi, tôi đã lựa chọn bơi ở 1 dòng sông khác, và lúc nào nhớ dòng sông quê hương quá, thì quay về đứng trên bờ ngắm nó 1 chút, chứ giờ thì nó cũng đã đen ngòm bởi ô nhiễm và rác thải, đến trâu bò còn chẳng dám xuống uống nước, đừng nói tới chuyện nhảy xuống bơi :)
Nói chung sự tụt hậu về kinh tế chỉ là kết quả của sự tụt hậu về văn hóa và kiến trúc thượng tầng xã hội.
Ví dụ như TS Alan Phan đã phân tích về sự tổn thất to lớn của 1 nền Kinh tế khi thiếu niềm tin chẳng hạn, như ông Big C trả lương cho 1 ông bảo vệ nữa sau quầy thu ngân chỉ để đóng 1 cái dấu vuông (mặc dù ông này cũng chẳng xem lại cái hóa đơn có khớp với hàng không).
Vấn đề là xã hội VN hiện đang phải trả lương cho 30% công chức ăn không ngồi rồi như ông bảo vệ kia chẳng hạn, nhưng mệt hơn nữa là 30% này có khả năng hành hạ các ông chủ là Nhân dân :)
Hoặc như ông chủ của vatgia.com cũng nói: Rào cản lớn nhất của thương mại điện tử chính là văn hóa. Quanh quẩn thì chính chúng ta đang làm nghèo chính mình, tự ta đang phải trả 1 cái giá quá đắt cho phần lớn các hàng hóa( đắt hơn 40% so với Thái Lan) bởi vì thiếu văn hóa, trong đó có Niềm tin. 40% này nó chui đi đâu thì ai cũng biết.
Thật khó để người Việt có thể bán 1 cái quần lót hay cái bàn chải đánh răng đi khắp thế giới, như Amazon chẳng hạn.
Giàu là sao? Giàu của cải? Ví dụ lúc này nông dân lấy từ thiên nhiên hạt lúa, trái cây đầy nhà đầy sân. Nếu họ ôm đống nông sản ấy thì chả ra j. Rao bán đổi lấy tiền thì ép giá, rớt giá, lỗ hoặc huề vốn. Cái giàu thật nằm trong tay con buôn ko có tình người, con buôn nhỏ thì ko bằng trùm buôn độc quyền, có quyền. SÔNG SUỐI CHẢY ĐỀU LAN TOẢ NÊN AI CŨNG THẤY NƯỚC MÀ MÚC UỐNG. Nhưng dòng chảy đồng tiền là vào cái túi to. Ai có QUYỀN mới biết túi đó có bao nhiêu, lấy ra thế nào mà ko bị lộ rồi ZẤU ĐI XÀI RIÊNG. Chưa vi tính hóa , mạng số hoá cho dòng chảy đồng tiền ĐỂ CÔNG KHAI TÀI SẢN thì còn phia mới làm nên CÔNG BẰNG
Sesonglai và các bạn CG nên đọc cuốn Người bán hàng vĩ đại nhất thế giới, trên internet cũng có bản ebook.
Cuốn sách này ban đầu tưởng là dạy kinh doanh, nhưng thực ra lại là 1 triết lý tìm kiếm hạnh phúc dựa vào tư tưởng Công giáo. Rất thú vị là tác giả dùng câu chuyện Giáng sinh và biến cố Saolo để làm nền.
Chúa dạy hãy bán hết của cải chia cho người nghèo khó. Tích trữ lương thực cũng chẳng mang đi về bên kia thế giới được, con chim nó chẳng gieo gặt, bông hoa nó chẳng dệt tơ. vậy mà chúng vẫn sống khỏe, đẹp.
Hãy cứ vô tư đi, đời là bể khổ, hãy đón nhận nó như chính hương vị cuộc đời mình.
Đức Phanxicô: Chúa cứu chuộc mọi người, kể cả người vô thần
Vũ Văn An5/23/2013
Một trong những đặc điểm của triều giáo hoàng non trẻ Phanxicô là việc nhấn mạnh tới chính sách không loại bỏ ai. Ngài xác tín rằng trong những điều mình nói và làm để cổ vũ Tin Mừng, Giáo Hội phải mở rộng lời kêu gọi của mình cũng như cuộc đối thoại của mình với người khác.
Trong Thánh Lễ sáng ngày 22 tháng 5 tại nhà khách của Vatican, Đức Phanxicô đã chi tiết hóa chủ đề trên. Ngài nói rằng “làm điều tốt” là một nguyên tắc có thể tạo cơ sở chung cho người Kitô hữu lẫn người không phải là Kitô hữu, kể cả người vô thần.
Ngài bảo: “Chúa cứu chuộc mọi người chúng ta bằng Máu Chúa Kitô: mọi người, chứ không riêng gì người Công Giáo. Mọi người! ‘Thưa cha, người vô thần thì sao?’ Cả người vô thần nữa. Mọi người! Và Máu này biến chúng ta thành con cái hạng nhất của Thiên Chúa!”.
Lời Đức Giáo Hoàng hẳn phải thách thức mọi người Công Giáo, nhưng nhất là những ai muốn dùng nền chính trị duy bản sắc để loại bỏ bất cứ sự hợp tác hay đối thoại nào với những người không chia sẻ các niềm tin của Giáo Hội.
Đức Phanxicô bắt đầu buổi suy niệm của ngài bằng trình thuật Tin Mừng nói tới việc các môn đệ của Chúa Kitô tìm cách ngăn chặn một người không thuộc nhóm của mình làm việc thiện. Đài Phát Thanh Vatican thuật lại lời suy niệm của Đức Thánh Cha như sau: “Họ kêu ca rằng ‘nếu anh ta không thuộc nhóm của ta, thì anh ta không được làm việc thiện’. Nhưng Chúa Giêsu bảo họ: ‘đừng ngăn cản anh ấy, cứ để anh ấy làm việc thiện’”.
Theo Đức Phanxicô, các môn đệ quả “có hơi bất khoan dung” vì đã khóa kín mình trong ý niệm chỉ mình mới có chân lý và tin rằng “những ai không có chân lý, không thể làm được việc gì tốt cả”.
“Điều ấy sai… Chúa Giêsu vốn mở rộng chân trời. Cội rễ của khả thể làm việc thiện, một khả thể ai trong chúng ta cũng có, vốn có sẵn trong tạo dựng”.
“Chúa dựng nên ta giống hình ảnh và họa ảnh của Người. Ta là hình ảnh của Chúa. Mà Người làm việc thiện thì tất cả chúng ta đều có lệnh truyền này khắc khi trong lòng: hãy làm việc thiện và đừng làm việc ác. Tất cả chúng ta, ‘Nhưng thưa cha, người này đâu phải Công Giáo! Anh ta đâu có thể làm việc thiện’. Có, anh ta có thể làm việc thiện. Anh ta phải làm việc thiện. Không những có thể, mà còn phải làm nữa! Vì anh ta cũng có lệnh truyền kia trong chính anh ta”.
“Cái thứ “khóa kín” từng tưởng tượng rằng những người ở bên ngoài không thể nào làm được việc thiện này thực ra là một bức tường sẽ dẫn tới chiến tranh và tới điều một số người trong dòng lịch sử đã nghĩ ra là giết chóc nhân danh Thiên Chúa. Nghĩa là ta có thể giết người nhân danh Thiên Chúa. Điều này đơn thuần chỉ là lộng ngôn phạm thượng. Nói rằng bạn có thể nhân danh Thiên Chúa mà giết người là nói lộng ngôn phạm thượng”.
“Chúa đã dựng nên ta giống hình ảnh và họa ảnh của Người, và đã khắc ghi lệnh truyền này trong thẳm sâu lòng ta: hãy làm việc thiện và đừng làm việc ác. Người cứu chuộc mọi người chúng ta, vâng mọi người, bằng Máu Chúa Kitô: mọi người chúng ta, không riêng gì người Công Giáo. Mọi người! ‘Thưa cha, người vô thần thì sao?’ Cả người vô thần nữa. Mọi người! và Máu này biến chúng ta thành con cái hạng nhất của Thiên Chúa! Ta được dựng nên làm con cái giống hình ảnh Thiên Chúa và Máu Chúa Kitô đã cứu chuộc mọi người chúng ta! Và tất cả chúng ta có bổn phận làm việc thiện. Thiển nghĩ, lệnh truyền mọi người làm việc thiện này là con đường tốt đẹp dẫn tới hòa bình. Nếu chúng ta, ai cũng làm phần mình, nếu chúng ta làm việc thiện cho người khác, nếu chúng ta gặp gỡ họ làm việc thiện, thì từ từ, một cách êm dịu, từng chút từng chút, ta sẽ tạo được một nền văn hóa gặp gỡ. Ta rất cần nền văn hóa này. Ta phải gặp nhau trong diễn trình làm việc thiện. ‘Nhưng thưa cha, tôi không tin, tôi là một người vô thần mà!’ Nhưng xin anh cứ làm việc thiện, chúng ta sẽ gặp nhau ở đấy”.
Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng “làm việc thiện” không phải là vấn đề đức tin. “Nó là một bổn phận, nó là tấm thẻ căn cước mà Cha chúng ta đã ban cho mọi người chúng ta, vì Người vốn dựng nên ta giống hình ảnh và họa ảnh của Người. Mà Người thì lúc nào cũng làm việc thiện”
Ý nghĩa cứu chuộc
Nhân dịp này, nhiều người thắc mắc đối với bài giảng trên của Đức Phanxicô. Các thắc mắc này được cha Thomas Rosica, CSB, tóm lược thành 3 chủ đề:
1) Người vô thần được cứu chuộc ra sao?
2) Phải chăng Đức Phanxicô mô tả một thứ “Kitô Giáo nặc danh” hiện đang hiện diện trong thế giới ngày nay?
3) Hệ luận bài giảng của Đức Thánh Cha ra sao?
Các câu trả lời của Cha Rosica dựa trên vốn kiến thức thần học, kinh nghiệm 5 năm sống tại Trung Đông (Do Thái, Palestine, Jordan và Egypt) cũng như các đối thoại liên tôn với người Do Thái Giáo và Hồi Giáo trong nhiều năm qua của cha. Cha cũng từng có nhiều tiếp xúc với những người vô thần và bất khả tri tại khuôn viên các đại học tại Canada.
1) Ta nên lưu ý tới thính giả và ngữ cảnh bai giảng hàng ngày của Đức Phanxicô. Trước hết, ngài là một mục tử và nhà giảng thuyết giầu kinh nghiệm trong việc vươn tới người khác. Lời lẽ của ngài vì thế không diễn ra trong ngữ cảnh thần học khoa bảng hay học thuật cũng như đối thoại hay tranh luận liên tôn. Ngài lên tiếng trong ngữ cảnh Thánh Lễ qua việc suy niệm về Lời Chúa. Ngài nói với những người Công Giáo và các nhà lãnh đạo tôn giáo. Kiến thức của ngài, vốn bén rễ sâu trong thần học và truyền thống Công Giáo, luôn được diễn tả bằng một ngôn từ khiến ai cũng có thể hiểu được. Đây là một thiên bẩm không phải vị mục tử và và thần học gia nào cũng có được. Thành thử đâu có lạ khi nhiều người bị lời lẽ của ngài lôi cuốn.
2) Đức Phanxicô không có ý tạo ra một cuộc tranh luận thần học về bản chất của cứu chuộc qua bài giảng của mình hay qua suy tư Thánh Kinh khi tuyên bố rằng “Thiên Chúa cứu chuộc mọi người chúng ta, mọi người, bằng Máu Chúa Kitô: mọi người chúng ta, chứ không riêng gì người Công Giáo. Mọi người!”
Về bản chất này, Cha Rosica lưu ý bạn đọc một số đoạn trong cuốn Toát Lược Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo:
Số 135: Ðức Kitô sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết như thế nào?
Ðức Kitô sẽ phán xét với quyền năng mà Người đã thu nhận được như Ðấng Cứu Chuộc trần gian, đến để cứu độ loài người. Những điều kín nhiệm trong tâm hồn cũng như thái độ của mỗi người đối với Thiên Chúa và tha nhân sẽ được tỏ ra. Mỗi người sẽ đón nhận sự sống hay bị kết án đời đời tùy theo các công việc họ đã làm. Như thế "sự viên mãn của Ðức Kitô" (Ep 4,13) được thành tựu, trong đó "Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài" (1 Cr 15,28).
Số 152: "Hội thánh là bí tích phổ quát của ơn cứu độ" có nghĩa là gì?
Câu này muốn nói Hội thánh là dấu chỉ và khí cụ cho việc giao hòa và hiệp thông toàn thể nhân loại với Thiên Chúa cũng như cho sự hợp nhất nhân loại.
Số 162. Hội thánh duy nhất của Ðức Kitô tồn tại ở đâu?
Với tính cách là một cộng đoàn được thiết lập và tổ chức ở trần gian, Hội thánh duy nhất của Ðức Kitô tồn tại (subsistit in) trong Hội thánh Công Giáo, được điều hành do vị kế nhiệm thánh Phêrô và do các Giám mục hiệp thông với ngài. Chỉ nhờ Hội thánh này người ta mới có thể đạt được cách đầy đủ các phương tiện cứu độ, vì Chúa đã trao phó tất cả những gì thiện hảo của Giao ước Mới cho tập thể tông đồ duy nhất, có thánh Phêrô đứng đầu.
Số 166. Tại sao Hội thánh được gọi là Công Giáo?
Hội thánh có đặc tính là Công Giáo, nghĩa là phổ quát, vì Ðức Kitô hiện diện trong Hội thánh. "Ở đâu có Ðức Kitô Giêsu, ở đó có Hội thánh Công Giáo" (Thánh Inhaxiô Antiôkia). Hội thánh loan báo sự toàn diện và toàn vẹn của đức tin. Hội thánh gìn giữ và quản lý tất cả các phương tiện cứu độ. Hội thánh được sai đến với mọi dân tộc ở mọi thời đại và mọi nền văn hóa của họ.
Số 171. Câu khẳng định "Ngoài Hội thánh không có ơn cứu độ" có nghĩa gì?
Câu này muốn nói rằng ơn cứu độ xuất phát từ Ðức Kitô-là-Ðầu thông qua trung gian là Hội thánh, thân thể Người. Những ai biết rằng Hội thánh được Ðức Kitô thiết lập và cần thiết cho ơn cứu độ mà không muốn bước vào hay không muốn gắn bó với Hội thánh, thì sẽ không được cứu độ. Ngoài ra, nhờ Ðức Kitô và Hội thánh Người, những người, không vì lỗi mình mà không biết Tin Mừng của Ðức Kitô và Hội thánh Người, nhưng chân thành đi tìm Thiên Chúa và dưới ảnh hưởng của ân sủng, cố gắng thực hiện ý Thiên Chúa qua sự hướng dẫn của lương tâm, vẫn có thể đạt được ơn cứu độ muôn đời.
3) Thánh Kinh minh nhiên cho ta hay: Thiên Chúa muốn mọi người được cứu rỗi (1 Timothy 2:4); giao ước hòa bình mà Thiên Chúa ký với Nôê sau Đại Hồng Thủy chưa bao giờ bị thu hồi: trái lại, chính Con Thiên Chúa đã đóng ấn nó bằng thẩm quyền tình yêu hiến sinh bao gồm mọi người của mình. Đức Phanxicô cảnh cáo người Công Giáo không được ma qủy hóa những ai không phải là chi thể của Giáo Hội, và ngài đặc biệt bênh vực người vô thần, vì cho rằng dựng lên những bức tường chống những người không phải là Công Giáo sẽ dẫn tới việc “giết người nhân danh Thiên Chúa”.
4) Nhà thần học Đức trứ danh là Karl Rahner đã dẫn nhập ý niệm “Kitô hữu nặc danh” vào suy tư thần học. Qua ý niệm này, đưa ra cho người Kitô hữu, Rahner cho rằng Thiên Chúa muốn mọi người được cứu rỗi, chứ không hề trừng phạt tất cả những ai không là Kitô hữu phải sa hỏa ngục. Thứ hai, Chúa Giêsu Kitô là phương thế cứu rỗi duy nhất của Thiên Chúa. Điều này phải được hiểu là: những người không phải là Kitô hữu muốn hưởng thiên đàng phải tiếp nhận ơn thánh của Chúa Kitô dù không thể hiện nó. Bởi thế mà có thuật ngữ “Kitô hữu nặc danh”.
Ý niệm trên thực ra cũng được Hiến Chế “Lumen Gentium” (số 16) giảng dạy. Theo Hiến Chế này, những ai chưa tiếp nhận Tin Mừng và việc này không do lỗi của chính họ đều có khả thể được cứu rỗi đời đời… Thiên Chúa ‘qua những cách ta không biết’ có thể ban đức tin, vì không có đức tin thì không thể có cứu rỗi dù đó là trường hợp những người chưa được nghe rao giảng về Tin Mừng.
Người Công Giáo không chấp nhận thái độ của chủ nghĩa duy tương đối về tôn giáo, là chủ nghĩa cho rằng mọi tôn giáo đều công chính như nhau, các dị biệt đều không quan trọng. Thiên Chúa thực sự muốn mọi người được cứu rỗi. Nhưng người Công Giáo tin rằng ơn cứu rỗi này chỉ được trao ban nơi Chúa Giêsu Kitô, và Kitô Giáo và Giáo Hội duy nhất là người trung gian chuyển giao ơn đó cho mọi người.
5) Trong cuộc đối thoại liên tôn hay với người vô thần và người bất khả tri, luôn có nguy cơ biến mọi cuộc thảo luận thành chuyện lịch thiệp hay bất liên hệ. Nhưng đối thoại không có nghĩa là thỏa hiệp. Ngày nay, ta luôn có thể và phải đối thoại: đối thoại trong tự do chân chính chứ không phải trong cái thứ ‘khoan dung’ và sống chung chỉ vì mình không có đủ sức mạnh để tiêu diệt người kia. Nghĩa là cuộc đối thoại này phải diễn tiến trong một thái độ yêu thương. Kitô hữu biết rõ: chỉ có tình yêu mới là đuốc sáng nhất của kiến thức và những điều Thánh Phaolô nói về tình yêu phải có giá trị đối với mọi cuộc đối thoại.
6) Một người không phải là Kitô hữu có thể bác bỏ một trình bày nào đó của Kitô hữu đối với Tin Mừng của Chúa Kitô. Tuy nhiên, điều này không nhất thiết có nghĩa là họ thực sự bác bỏ Chúa Kitô và Thiên Chúa. Bác bỏ Kitô Giáo có thể không có nghĩa là bác bỏ Chúa Kitô. Vì cho dù một cá nhân cụ thể nào đó bác bỏ Kitô Giáo từng được mang tới cho họ qua lời giảng của Giáo Hội, thì dù là như thế, ta vẫn không bao giờ ở vào vị trí có thể quyết định được là liệu sự bác bỏ đó trong trường hợp cụ thể ấy là một lỗi phạm trầm trọng hay là một hành vi trung thành với chính lương tâm họ. Ta không bao giờ có thể nói một cách hoàn toàn chắc chắn liệu một người bác bỏ Kitô Giáo và dù từng gặp gỡ Kitô Giáo, nhưng vẫn không trở thành Kitô hữu, có đang đi theo con đường được vẽ ra để họ được cứu rỗi, tức con đường sẽ dẫn họ tới gặp gỡ Thiên Chúa, hay họ đang trên con đường dẫn tới trầm luân đời đời.
7) Thánh Kinh dạy rằng Thiên Chúa coi tấm tình ta ngỏ với người lân cận là tấm tình ta ngỏ với chính Người. Do đó, mối liên hệ yêu thương giữa một người với người lân cận của họ là định mức của mối liên hệ yêu thương giữa họ và Thiên Chúa. Điều này không có nghĩa: người không phải là Kitô hữu có khả năng thực hiện các hành vi yêu thương người lân cận mà không cần sự trợ giúp của Thiên Chúa. Đúng hơn, các hành vi yêu thương này quả là bằng chứng cho thấy Thiên Chúa thực sự hành động nơi họ.
8) Là Kitô hữu, ta tin rằng Thiên Chúa luôn vươn tới nhân loại trong yêu thương. Điều này có nghĩa: mọi người nam nữ, bất kể hoàn cảnh, đều có thể được cứu rỗi. Ngay những người không phải là Kitô hữu cũng có thể đáp ứng hành động cứu rỗi của Chúa Thánh Thần. Không người nào bị loại khỏi ơn cứu rỗi chỉ vì cái tội mà ta vốn gọi là tội nguyên tổ; người ta chỉ mất sự cứu rỗi qua tội bản thân mà thôi.
Trong tâm trí Đức Phanxicô, nhất là lúc ngài giảng lễ vào ngày 22 tháng 5, “làm việc thiện” là một nguyên tắc kết hợp toàn thể nhân loại, vượt trên các dị biệt trong ý thức hệ và tôn giáo, và tạo nên “nền văn hóa gặp gỡ” vốn là nền tảng của hòa bình.
Cuối cùng, thiển nghĩ nên đọc phần cuối bài diễn văn nổi tiếng của Đức Gioan Phaolô II trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc lần thứ 50 tại New York, ngày 5 tháng 10, năm 1995: “Là một Kitô hữu, tâm điểm niềm hy vọng và lòng tin tưởng của tôi là nơi Chúa Giêsu Kitô, mà kỷ niệm năm sinh lần thứ hai nghìn của Người sẽ được cử hành vào đầu thiên niên kỷ mới. Kitô hữu chúng tôi tin rằng tình yêu và lòng chăm sóc của Thiên Chúa đối với toàn bộ sáng thế đã được tỏ hiện trọn vẹn nơi cái chết và sự sống lại của Chúa Kitô. Đối với chúng tôi, Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa làm người, trở thành một phần của lịch sử nhân loại. Chính vì lý do này, niềm hy vọng Kitô Giáo dành cho thế giới và tương lai của nó trải dài tới mọi con người nhân bản. Vì nhân tính chói sáng của Chúa Kitô, không gì thực sự nhân bản lại không đánh động trái tim Kitô hữu. Đức tin vào Chúa Kitô không buộc chúng tôi phải bất khoan dung. Trái lại, nó buộc chúng tôi phải mời gọi người khác vào một cuộc đối thoại tôn kính. Tình yêu Chúa Kitô không làm chúng tôi sao lãng việc quan tâm tới người khác, nhưng đúng hơn, nó mời gọi chúng tôi nhận trách nhiệm đối với họ, không loại trừ bất cứ ai, và quả thực đặc biệt quan tâm tới người yếu đuối nhất và người đau khổ. Do đó, gần tới dịp kỷ niệm năm thứ hai nghìn ngày sinh của Chúa Kitô, Giáo Hội chỉ xin được kính cẩn đề xuất sứ điệp cứu rỗi này, và được cổ vũ tình liên đới của toàn thể gia đình nhân loại, trong bác ái và phục vụ.
Kính thưa quí vị! Tôi đến trước quí vị, như vị tiền nhiệm của tôi là Đức Giáo Hoàng Phaolô đúng 30 năm trước đây, không phải như một người thi hành quyền bính trần gian, cũng không phải như một lãnh tụ tôn giáo đi tìm đặc ân cho cộng đồng của mình. Tôi đến trước quí vị như một nhân chứng: nhân chứng cho phẩm giá con người, nhân chứng cho hy vọng, nhân chứng cho niềm xác tín rằng định mệnh mọi quốc gia nằm trong tay Đấng Quan Phòng đầy nhân ái.
Chúng ta phải thắng vượt nỗi lo sợ tương lai của chúng ta. Nhưng chúng ta sẽ không có khả năng thắng vượt được nó cách hoàn toàn nếu không cùng thắng vượt với nhau. “Trả lời” cho nỗi lo sợ ấy không hề là một cưỡng ép hay đàn áp, cũng không phải là áp đặt một “kiểu mẫu” xã hội lên toàn thế giới. Trả lời nỗi lo sợ đang làm tối đen cuộc nhân sinh ở cuối thế kỷ 20 là cố gắng chung để xây dựng nền văn minh tình thương, đặt nền trên các giá trị phổ quát là hòa bình, liên đới, công lý và tự do. Và “linh hồn” của nền văn minh tình thương là nền văn hóa tự do: tự do của các cá nhân và tự do của các dân tộc, sống trong tình liên đới và trách nhiệm hiến sinh.
Chúng ta không nên sợ tương lai. Chúng ta không nên sợ con người. Chúng ta có mặt ở đây không phải là chuyện tình cờ. Mỗi một và mọi con người nhân bản đều đã được dựng nên giống “hình ảnh và họa ảnh” của Đấng là nguồn gốc mọi sự hiện hữu. Ta sở hữu trong mình các khả năng khôn ngoan và nhân đức. Với những thiên phú này, và với sự trợ giúp của ơn thánh Thiên Chúa, trong thế kỷ và thiên niên kỷ kế tiếp, chúng ta sẽ xây dựng được một nền văn minh xứng đáng với con người nhân bản, một nền văn hóa tự do đích thực. Chúng ta có thể và phải làm như thế! Và nhờ làm thế, ta sẽ thấy nước mắt của thế kỷ này đã dọn chỗ cho một mùa xuân mới của tinh thần con người”.
http://www.vietcatholic.net/News/Html/108938.htm
Đã đến lúc Công giáo không còn tồn tại nữa, vì nó hòa vào tất cả mọi tư tưởng để xây dựng 1 tôn giáo duy nhất: Yêu thương (từ bi) + Phục vụ.
Tôi xem rất nhiều lá số tử vi, nhiều người tôi đã khuyên nên từ bỏ công việc hiện tại để làm các nghề nghiệp mang tính phục vụ cao như: giáo viên, bác sỹ, các tổ chức từ thiện, phi chính phủ. Bởi vì trong hạt giống tâm hồn họ có hạt giống ơn gọi của che chở, ân sủng, vị tha, cứu giải. TCG gọi là Thần khí và Thiên thần, còn bên Phật giáo có lẽ là 1 loại nhân duyên đặc biệt nào đó của Phật tính.
Có trường hợp đặc biệt nhờ tôi xem tử vi thì tháng sau đó bạn này như có người thúc giục bỏ việc cũ sang làm cho tổ chức CARE ( 1 tổ chức phi chính phủ phục vụ cộng đồng).
ĐÃ GỌI CÔNG GIÁO, NGHĨA LÀ XÁC ĐỊNH LÀ ĐẠO CHO MỌI NGƯỜI. Có Cái vấn đề là như Chúa phán AI CÓ TAI THÌ NGHE. Cái giác ngộ là cái biết hơn nữa, hiểu thấu nữa. PHẬT NGHĨA LÀ GIÁC NGỘ (TRIỆT ĐỂ). Ấy nhưng nếu CHÚA KO TỎ MÌNH, THÌ THIỀN CỠ MẤY GIÁC BIẾT ĐƯỢC. Vậy Phật Thích Ca có biết CHÚA GIÊSU LÀ AI CHĂNG? Cái chuyện ngồi thiền là lâu đời lắm rồi, có lẽ các tiên tri Do Thái, hay như Gioan Tiền hô, cũng ngồi suy thì phải. Đơn giản cứ như ABRAHAM, MOISEN, CHẲNG THIỀN LÀM GÌ, VÌ CHÍNH CHÚA ĐANG NÓI, TA HÃY CÓ TAI THÌ NGHE
Vấn đề là tư tưởng bảo thủ của nhiều quan điểm công giáo lại là rào cản ngăn cách CG và các tư tưởng tốt đẹp khác và là nguyên cớ để con người vấp ngã về lỗi yêu thương.
Vì vậy mà chữ "Công" khó mà lan tỏa.
Bàn thêm chút về tử vi. những người quyết lòng đi tu có phải trong lá số anh ta đã là phải đi tu không, nếu vậy thì có vẻ súc phạm tới những người đó quá nhể. vì tôi thấy nhiều người công giáo đi tu mà tôi cũng tò mò tìm hiểu thì lá số đó hoàn toàn bình thường. vậy ta cho đó là số phận có oan cho họ không. các tôn giáo khác tôi không giám nói vì không tìm hiểu được, những người đi tu ví dụ bên phật chẳng hạn. nghiệp này nghiệp nọ có đúng sai tôi không biết,nhưng người công giáo thì có vẻ oan quá. bạn minhthai nghĩ sao về vấn đề này.?
Đó chỉ là số thôi . Ví dụ : Có số làm quan , thấy vậy mà không chịu học thì lấy gì làm quan ! Nên nó chỉ mang tính tham khảo thôi , tương lai vô định , hôm nay đi bói và mai đi bói thì kết quả khác nhau
Nếu bác vohinh69 muốn tìm hiểu thì zhu giới thiệu thuyết : chaos theory . Sơ lược ( theo zhu copy ) :
Đây là vấn đề của những hệ được gọi là "hệ siêu nhạy", nghĩa là những hệ mà nếu điều kiện ban đầu thay đổi 1 chút xíu thôi thì toàn bộ kết quả ngoại suy về sau sẽ sai toàn bộ.
Có những hệ rất ổn định, ví dụ như 1 cú đập của vợt tennis vào quả bóng. Nếu bạn biết được điều kiện ban đầu là lực tác dụng lên quả bóng ( phương, hướng, giá trị ), vị trí và vận tốc ban đầu của quả bóng ( bỏ qua lực cản không khí ) thì bạn hoàn toàn có thể dùng những định luật cơ học Newton để ngoại suy ra là sau 3s nữa quả bòng sẽ nằm ở vị trí nào, vận tốc bao nhiêu. Giả sử như bạn có đo sai các giá trị của lực đập bóng, vận tốc ban đầu, vị trí ban đầu quả bóng 1 vài phần ngàn thì kết quả cũng sẽ sai khác không đáng kể, cùng lắm là lệch vài cm thôi.
Nhưng có những hệ cực kỳ nhạy với các điều kiện ban đầu. Có lẽ Henri Poincaré là người đầu tiên đề cập tới hiện tượng này qua tác phẩm Khoa Học và Phương Pháp ( 1908 ), ông viết là: " ...Một cái "nhân" cực nhỏ mà ta dễ dãi bỏ qua có thể quyết đĩnh tới 1 cái "quả" rất lớn mà chúng ta, vì không hiểu được, đã cho là do ngẫu nhiên..."
Vào đầu những năm 1960, khi Edward Lorenz còn ở Học viện công nghệ Massachusetts ( MIT ), ông đã dùng những phương trình khí động và cái máy tính to đùng như 1 căn phòng để dự báo thời tiết ở Bắc Mỹ. Kết quả sẽ được biểu diễn ở dạng 1 đường gấp khúc trên đồ thị.
Một ngày đầu năm 1961, Lorenz muốn tiếp tục thực hiện 1 bản tin thời tiết bị ngắt quãng giữa chừng. Song, để tranh thủ thời gian , ông không làm lại từ đầu mà bắt đầu từ trước chỗ bị ngắt 1 quãng vài ngày. Sau đó ông bỏ đi uống cà-phê, tin chắc kết quả của vài ngày tới phải trùng hệt với kết quả của lần tính trước, tức 2 đồ thị sẽ trùng nhau ở đoạn đầu. Khi quay lại, kết quả đã làm ông kinh ngạc, đường đồ thị mới chỉ trùng đường cũ 1 quãng tương ứng thời gian chỉ vài phút, toàn bộ mấy ngày sau đó thì có thể gọi là "1 trời 1 vực", có những giai đoạn giá trị giữa đường cũ và đường mới chênh nhau tới 300 - 500%.
Kiểm tra lại cẩn thận ông thấy là trong số các thông số ban đầu đưa vào tính toán ông đã làm tròn 1 con số. Lần đầu ông nhập 0.145237, lần sau ông làm tròn thành 0.145 vì nghĩ là 0.000237 là không đáng kể. Cái lầm của ông lại mở ra 1 ngành khoa học mới, khoa học hỗn độn. Ứng dụng của ngành này bao gồm dự báo khí tượng, dự báo tài chính, dự báo quỹ đạo các vật thể trong vũ trụ.....
Ví dụ như trong ngành tài chính, bạn không thể nào liệt kê cho 1 chuyên gia kinh tế tất cả các thông số có thể tác động tới giá vàng sau 7 ngày nữa, mà nếu có liệt kê ra hết thì những con số khảo sát, ước lượng đó vẫn có độ chính xác rất tương đối mà thôi. Kết quả là, sau khi tính toán, ông chuyên gia kinh tế sẽ cho biết ngày mai vàng lên 200 ngàn/ lượng, ngày mốt giảm 30 ngàn/ lượng, 7 ngày sau giá vàng sẽ tăng 100 ngàn/ lượng so với hôm nay. Nếu bạn là nhà đầu tư, ông ta là 1 chuyên viên giỏi, số liệu bạn đưa cho ông ta là cực kỳ tỉ mỉ và đáng tin cậy thì chỉ nên tin kết quả của 1, 2 ngày đầu thôi, kết quả mấy ngày sau đừng quan tâm tới nữa. Chỉ cần 1 người đi chợ làm rơi 1 chiếc nhẫn xuống cống thôi thì cũng đủ làm kết quả dự đoán trở thành tầm phào.
Dự báo thời tiết cũng vậy, dù tạm gọi là người ta có thể liệt kê hết các yếu tố tác động đến thời tiết nhưng việc đo chính xác các thông số này là không thể. Bởi vậy, dự báo thời tiết thường chỉ cho biết tới 3 ngày sau ( nếu có vệ tinh hỗ trợ ), mọi chuyện sau đó không đáng tin nữa. Hiểu điều này ta sẽ thông cảm hơn với Đài Khí Tượng Thủy Văn về việc những dự báo về đường đi của bão ở nước ta thường sai bét. Một con cá chết cũng có thể làm giảm nhiệt độ nước biển xuống vài phần tỷ tỷ độ C nào đó, năng lượng của bão cũng sẽ thay đổi, đường đi sẽ trở thành bất định.
Trong vũ trụ, người ta ứng dụng rất nhiều trong việc tính toán quỹ đạo các hành tinh, các sao chổi... Công việc này cực kỳ phức tạp và nặng nề. Muốn hiểu thêm về những điều này bạn nên tìm hiểu thêm các chủ đề như: không gian pha, mặt phẳng Poincaré, hình học fractal....
Tóm lại, "một con bướm đập cánh ở Trung Quốc có thể dẫn đến cơn bão ở Bắc Mỹ" không phải là dự đóan trong 1 thời gian ngắn mà nếu có đủ thời gian thì cũng có thể xảy ra lắm đó..