Ôh sao chị lắm sư phụ thế, có lần chị nói sư phụ chị là Tây Vương Mẫu cơ mà.
Printable View
Ôh sao chị lắm sư phụ thế, có lần chị nói sư phụ chị là Tây Vương Mẫu cơ mà.
Big F small ears
SHOWBIZ CLUB & PERSONAL EXHIBITION
http://wiki.d-addicts.com/static/images/f/f4/Eofw.jpg
ngừoi đâu củng giống ngừoi đa tinh
ngỡ là ai ..lại là mình với ta
mình với ta dầu hai nhưng một
ta với mình tuy 1 mà hai
................................
năm nay mình mới ra đời
mà ta ra trứoc đả ngoài đôi mưoi
cuộc nhân thế câu cừoi tiếng khóc
nói gì đây lời đã cạn lời
..................................
hu hu hu
thôi Qt xin lỗi Dthoai...tưởng xây nhà cho đẹp ai ngờ mấy bác làm muốn cháy ic của bác ấy. Qt sai rồi..hic
Đạo không có Cao Thấp,Hơn Thua ,Giỏi dở.
Đạo chỉ là Đạo vậy.
Hơn Thấp Cao Thua chỉ có ở đời
Xin mời xem Trang Thiền Love TamLinh
Bài 14 - PHƯƠNG PHÁP TỰ NGỘ CỦA THIỀN TÔNG
Thiền sư Thích Duy Lực giảng tại San Jose
Giới thiệu về Thiền sư Duy Lực
http://www.youtube.com/watch?v=FCzNxeZGm_0
Lịch sử của thiền tông
http://www.youtube.com/watch?v=miv1WCoj0vY
Tại sao phải tự ngộ?
http://www.youtube.com/watch?v=WWGGiINSQlw
Nhắm mắt và mở mắt chiêm bao
http://www.youtube.com/watch?v=BYNJgX0ldCU
Mở mắt chiêm bao có-không thật
http://www.youtube.com/watch?v=nCfWSyTgBsU
Cái gì thật? Là cái BIẾT Phật tánh
http://www.youtube.com/watch?v=Tzjo5t8XfGE
Đỉnh cao của thiền tông là phát điên.
đừng nói như vậy big foot..ko có pháp môn nào dẫn tới loạn tâm hết..chỉ có ng tu luyện bị tâm loạn dẫn đến loạn tâm thôi..vì thế pháp môn nào cũng cần tâm tịnh là căn bản.
Trước khi xem Thiền sư Duy Lực
nên tìm xem trang Thiền Love Tam Linh
Lối về cố hương
yếu quyết Tu Tập
cũa DD Tuệ Hải
xem 50 lần
sau đó mới xem phần trên
Tu Tiên hay Tu Phật
sở không ký vô
đều trãi qua
sở không ký vô
mới qua đò
sở không ký vô
Chào Quý Đạo Hữu "Không môn"
..............Đạo có Bàn mới .. Đạo................
.......Thuận Nghịch há Cần Câu không Lời .........
.................Dể tà chánh phân Minh..............
................Sáng Tối không môn nhẹ nhàn Chúc...............
Qua Tết nữa Năm thương chúc Quý Đạo Hữu luôn bước không môn nhẹ
Bài 15 - PHƯƠNG PHÁP TỰ NGỘ CỦA THIỀN TÔNG (phần 2)
Thiền sư Thích Duy Lực giảng tại San Jose
Căn bản: tự tâm và nghi tình
http://www.youtube.com/watch?v=sOnKENlieOE
Thế nào là tin tự tâm?
http://www.youtube.com/watch?v=qruMF...eature=related
Làm sao phát khởi nghi tình?
http://www.youtube.com/watch?v=cSbGE...eature=related
Cái BIẾT của bộ óc là tướng bệnh
http://www.youtube.com/watch?v=uoarR...eature=related
Giản dị, dễ thực hành, không phiền não
http://www.youtube.com/watch?v=cLp9E...eature=related
KHÔNG là hiển bày cái dụng
http://www.youtube.com/watch?v=JAfw8...eature=related
Ánh sáng đèn thí dụ cho Tự Tâm
http://www.youtube.com/watch?v=tUDrbiYO22Q
vuive có duyên với cả đạo giáo và phật giáo
thiền sư Thích Duy Lực chưa đủ làm thầy vuive đâu
ấn chứng cho vuive vậy
Trước khi xem Thiền sư Duy Lực
nên tìm xem trang Thiền Love Tam Linh
Lối về cố hương
yếu quyết Tu Tập
cũa DD Tuệ Hải
xem 50 lần
sau đó mới xem
Bài 14 - PHƯƠNG PHÁP TỰ NGỘ CỦA THIỀN TÔNG
Thiền sư Thích Duy Lực giảng tại San Jose
Giới thiệu về Thiền sư Duy Lực
http://www.youtube.com/watch?v=FCzNxeZGm_0
Lịch sử của thiền tông
http://www.youtube.com/watch?v=miv1WCoj0vY
Tại sao phải tự ngộ?
http://www.youtube.com/watch?v=WWGGiINSQlw
Nhắm mắt và mở mắt chiêm bao
http://www.youtube.com/watch?v=BYNJgX0ldCU
Mở mắt chiêm bao có-không thật
http://www.youtube.com/watch?v=nCfWSyTgBsU
Cái gì thật? Là cái BIẾT Phật tánh
http://www.youtube.com/watch?v=Tzjo5t8XfGE
Bài 15 - PHƯƠNG PHÁP TỰ NGỘ CỦA THIỀN TÔNG (phần 2)
Thiền sư Thích Duy Lực giảng tại San Jose
Căn bản: tự tâm và nghi tình
http://www.youtube.com/watch?v=sOnKENlieOE
Thế nào là tin tự tâm?
http://youtu.be/qruMFzq6T1Y
Làm sao phát khởi nghi tình?
http://youtu.be/cSbGEJDiD0g
Cái BIẾT của bộ óc là tướng bệnh
http://youtu.be/uoarRF6lcW4
Giản dị, dễ thực hành, không phiền não
http://youtu.be/cLp9E_-YyF4
KHÔNG là hiển bày cái dụng
http://youtu.be/JAfw8goZn10
Ánh sáng đèn thí dụ cho Tự Tâm
http://www.youtube.com/watch?v=tUDrbiYO22Q
vào mục THÀNH VIÊN
sau đó click vào chử L
nhìn bên phải tìm số 17 click ngay sô 17
nhìn bên trái tìm tên LOVE_TAM LINH
Topic đạo đức kinh tự nhiên nhảy vào post thơ thẩn vớ vẩn, rồi lại post thiền vào đây. Thực ra tu đạo thì nhân cách con người cũng đàng hoàng tí chứ, chả hiểu có còn tí nào liêm sĩ lễ ko vậy?
Huynh NhapLy xin làm mod box đạo giáo đi.
loạn hết cả rồi ..............! box đạo giáo cứ lôi phật giáo với thiền vào thật chẳng hiểu làm sao nữa .
cái ko đầu không đuôi ...đả lộ ra rồi ...hic hic .....biết đến bao giờ mình mới dc như họ đây...hic hic .....toàn là nhửng cao nhân bất lộ tướng ...đúng là VĂN KỲ THINH ..nhưng BẤT KIẾN KỲ HÌNH ...hic hic
khó quá khó quá
thôi đành vậy
TA VỀ TA TẮM AO TA
DÙ TRONG DÙ ĐỤC AO NHÀ VẪN ....................................HIC HIC
KO BÍT SƯ PHỤ TXUAN LÀ AI ...MÀ KHẨU KHÍ LỚN THẬT
CHẮC MÌNH PHÃI TÌM CÁCH ĐỂ BÁI SƯ
.................................................. .....
NHƯNG NHỚ LẠI CÂU
TA HÕI NHÀ NGƯƠI NGHĨ THẾ NÀO
BỘ MÁY HUYỀN VI ĐI ĐẾN ĐÂU .....?????????
HIC HIC HIC HIC ....THÌ ....THÌ ................................
THÌ RA ....HIC HIC
à, lại qua topic này hỏi.
Có ai có tài liệu chép lại lời nói của Thường Tung không ?
đệ search trên web không thấy có tài liệu nào nói về ông này , hix
Thế Giới Đạo Và Đức Của Lão Tử
1. Đạo và Đức: Để thực hiện một cuộc sống lòng dạ nên trống vắng những tham lam, và tâm tư được hoà nhịp với lẽ thường hằng của thiên nhiên vạn vật, Lão Tử đã chủ trương trở về với Đạo và sức sống kỳ diệu của Đạo là Đức.
a. Đạo: Chữ Đạo đã có từ thời cổ đại Trung Hoa với những Kinh Điển như Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch... xuyên qua những tác phẩm cổ điển là Tứ Thư như Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử... và thường xuyên được dùng trong ngôn ngữ và cuộc sống dân gian. Chữ Đạo diễn tả rất nhiều nghĩa, từ những nghĩa vật chất, luân lý, tri thức, siêu hình cho đến tôn giáo. Ngoài ý nghĩa Đạo là đường, Đạo cũng còn có những ý nghĩa: phương tiện để đạt mục đích, con đường phải đi theo, con đường đức hạnh, cơ sở của khôn ngoan trí huệ, ý lực ngay thẳng đúng đắn, giáo lý, nguyên tắc, luật lệ, ý nghĩa của hiện hữu hay của một sự vật, tác động, ảnh hưởng, nói, giải thích, lèo lái, dẫn dắt.
Ta có thể đúc kết các nghĩa của chữ Đạo trong 3 loại: siêu việt, hiện trần và con đường sống.
* Với nghĩa siêu việt, Đạo chính là thực tại tối hậu: Đạo trong nghĩa này vượt quá tầm mức hiểu biết của con người. Ngay câu đầu trong Đạo Đức Kinh đã nói: "Đạo khả đạo phi thường Đạo" (Đạo mà nói ra được thì không phải là Đạo thường hằng). Dẫu thế, Đạo "không diễn tả nên lời này" lại là cơ sở, là gốc, là ngọn nguồn và là cùng đích của mọi sự vật. Bên trên, đàng sau và phía dưới mọi sự là cung lòng Đạo, từ đây mọi sự sống được vươn lên và nơi đây mọi sự sống được trở về. Tác giả Đạo Đức Kinh đã đầy tôn kính và ngưỡng mộ, chỉ biết thốt lên lời hoan ca khi được giáp mặt với huyền bí nguyên thuỷ của sự sống, huyền bí của mọi huyền bí: Thật là cao sáng! Thật là tĩnh lặng! Phải là cái gì vô thuỷ vô chung, không có bắt đầu, không có cùng tận! Trong mọi vật lớn, Đạo phải là cái lớn nhất: Gượng cho là lớn, lớn là tràn khắp, tràn khắp là đi xa, đi xa là trở về; thật đây là cửa ra vào của mọi huyền diệu trong trời đất! (Đạo Đức Kinh, câu: 1, 14, 16, 21, 25). Sự bất khả diễn tả đã là điều quá rõ rệt, ta sẽ chỉ còn là rơi vào lời cảnh giác bao hàm chế riễu: "Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri" (Kẻ biết thì không nói, kẻ nói thì không biết) - (ĐĐK, c. 56).
* Mặc dầu siêu việt như thế, Đạo đồng thời cũng là hiện trần. Trong nghĩa này, Đạo dùng để chỉ cái Đạo Thiên Nhiên, là chuẩn mực, tiết nhịp, sinh lực của trời đất, nguyên lý của trật tự điều hành phía sau mọi sự sống. Phía sau mọi sự sống, mà cũng là bên trong mọi sự sống; trong nghĩa này, Đạo đã "thành xác thể", điều động mọi sự vật, thích nghi với sự vật, hoà đồng với sự vật: "làm nhụt bén nhọn, tháo gỡ rối răm, điều hoà ánh sáng, đồng cùng bụi bặm: "đồng kỳ trần" (ĐĐK, c. 4, 56).
* Đạo trong nghĩa con đường sống: Vì Đạo theo nguyên lý là tinh thần hơn vật chất, nên Đạo không hề vơi cạn, càng được mong cầu, càng nhiều ban cho, vì Đạo là giếng nguồn không khô cạn. Đạo cũng mang dấu ấn "tàn nhẫn bất tất", vì với mùa thu đến, không một chiếc lá nào vì lẽ nó đẹp, không một bông hoa nào vì lẽ nó thơm, mà lại được châm chước thứ tha không phải tàn lụi. Nhưng thực chất cuối cùng, Đạo là lành là tốt; thay vì bức bóc đi, nay Đạo lại ban cho, sức mạnh can trường, sự sống dẻo dai, và là đầy tràn, vì Đạo cũng là "mẹ thiên hạ" (ĐĐK, c. 25). Là năng lực của thiên nhiên, Đạo giống như khái niệm "sinh lực" (énergic vitale) của truyền thống Phi châu, như quan niệm "đà sống" (élan vital) của Bergson. Là chuẩn lực của vạn vật, Đạo giống như khái niệm "luật vĩnh hằng" (lex aeterna) của thời cổ đại kinh điển, luật trường cửu gây tạo cơ chế cho vũ trụ thiên nhiên. Đạo hiểu như thế cũng giống như là "nguyên lý dung hội chủ toàn", một nguyên lý kết hợp và chuyển hoá các thành tố nên một để phục dịch toàn thể (principe integrant pour la totalité) của George Romanes, bạn đồng nghiệp của Charles Darwin, nhà khoa học chủ trương Thuyết tiến hoá.
b. Đức: Chữ Đức thường được hiểu trong một nghĩa luân lý, như đức hạnh, đạo hạnh, kèm theo một chút ít màu sắc tôn giáo, lễ nghi, phong tục, giới tính như khiêm nhu, trinh bạch. Đức còn có nghĩa là khả năng thích ứng, giỏi giang, quả cảm, đáng giá, như khi nói về một con dao có khả năng cắt xén tốt. Đức còn là khả năng linh thiêng, là linh lực, sinh lực thần thiêng. Tiến thêm một bước nữa, Đức là toàn thể nhân cách một con người cùng với linh lực phân xuất ra từ con người đó.
Đức trong Đạo Đức Kinh lại mang một nghĩa đặc biệt: Đức là sinh lực, sinh lực cấp dưỡng, nuôi nấng, đùm bọc, bồi bổ, chở che. "Đạo sanh, Đức dục" (Đạo sinh ra, Đức nuôi dưỡng) - (ĐĐK, c.51). Đạo là nguyên lý vô hình, Đức là nguyên lý hữu hình, Đạo là không tên, Đức là có tên. Đức làm cho con người có thể trở nên như con đỏ (ĐĐK, c. 55), trở về với đơn phác, cùng với những đức tính như chính Đạo đã có (ĐĐK, c. 25); Đức cao mà như trũng thấp, Đức giầu mà như không đủ, Đức vững mạnh mà như cẩu thả (ĐĐK, c. 41). Đức là thiện, là trung thực (ĐĐK, c.49), là trung tín (ĐĐK, c. 79), là không tranh chấp (ĐĐK, c. 68, 73), sanh mà không chiếm là của mình, làm mà không cậy công, là bậc trên mà không làm chủ, đó gọi là Huyền Đức (ĐĐK, c. 51). Những ai thật theo Đạo thì tích được nhiều Đức, tích được nhiều Đức thì không gì khắc phục được, không gì khắc phục được thì năng lực mình không biết tới đâu là cùng, năng lực không biết tới đâu là cùng thì trị được nước, nắm được gốc mẹ của đạo trị nước thì có thể tồn tại được lâu dài, đó gọi là rễ sâu, gốc vững, là nắm được cái Đạo thường tồn (ĐĐK, c. 59). Đức trong Đạo Đức Kinh có thể tóm kết vào ba điểm sau đây: *như là vật thuộc về Đạo và không thể phân lìa khỏi Đạo, *bao gồm những đặc tính mà chỉ Đạo mới có, *Đạo và Đức cùng bảo trợ và nuôi dưỡng thế giới hiện tượng.
2. Nhu mềm - nước trũng - tính nữ - lòng từ:
Điều mà trong Đạo Đức Kinh có lẽ đánh động độc giả hơn cả là tính nhu mềm, tính nữ: nhu mềm và tính nữ trong Đạo, trong Đức, trong thế giới. Một điều đáng lưu ý là tính nữ ở đây có phần nào tương tự như tính âm, nhưng lại vượt hẳn âm tính. Trong thuyết âm dương, dương và âm thay đổi nhau để tác động; còn trong Đạo Đức Kinh thì tính nữ, tính nhu mềm luôn thắng tính nam, tính cường mạnh (ĐĐK, c. 36, 61, 78). Đó là điều khác biệt, và là một điều khác biệt lớn.
a. Nhu mềm: "Mềm yếu thắng cứng mạnh" (ĐĐK, c. 36, 78); "Cứng mạnh cùng loài với sự chết, mềm yếu là bạn của sự sống" (ĐĐK, c. 76), đó là câu Đạo Đức Kinh thường được trích dẫn và trích dẫn nhiều nhất, là tư tuởng phổ biến nhất của Lão Tử. Ngay những người duy vật cũng thích dùng câu này, áp dụng cho trường hợp những người yếu hèn và bị áp bức sẽ thắng những người hùng mạnh đàn áp. Đó là tư tưởng nằm trong truyền thống Trung Hoa, được ghi lại rất nhiều trong kho tàng văn học, triết lý, tôn giáo, nghệ thuật, y khoa và cả đến trong các môn võ thuật.
b. Nước trũng và khe lạch: Nước tượng trưng cho sự ban cho mà không đòi hỏi đáp trả, làm lợi ích cho vạn vật mà không tranh dành. Nước tìm đến chỗ trũng thấp, nơi mà người ta thường xa tránh; nhưng chính vì thấp mà nước có lợi, nhờ thế mà nước trở nên mạnh, mạnh nhất, mặc dầu nước là mềm yếu nhất trong mọi vật : Dưới trời mềm yếu, không gì hơn nước / Thắng được vật cứng, không gì bằng nước / Không gì thay thế nó được, (ĐĐK, c. 8, 78).
c. Lòng Từ: Nhu mềm, nước trũng, khe lạch, tính nữ... là những tư tưởng tiên phong dự báo cho một đức tính lớn lao hơn nữa, đó là lòng từ. Lòng từ là báu vật thứ nhất trong 3 vật báu mà Lão Tử hằng ôm ấp nắm giữ và muốn trao đổi lại (hai báu vật kia là lòng kiệm và khiêm - ĐĐK, c. 67). Lòng từ của Lão Tử nhắm trở nên hữu ích cho muôn loài (ĐĐK, c. 8, 34), giúp cho chúng nhân hối cải mà trở về (ĐĐK, c. 64), lấy cái lòng của trăm họ làm lòng của mình (ĐĐK, c. 49); nếu có phải tranh đấu, thì cũng tranh đấu bằng lòng từ: như thế mới thật thắng, mới giữ vững. Lòng từ quan trọng đến nỗi, nếu Trời muốn cứu ai, thì cũng cứu bằng lòng từ (ĐĐK, c. 67). Điều ngỡ ngàng, cảm kích và đáng tôn quý nữa là, Lão Tử chủ trương một lòng từ với tất cả mọi người không chút phân biệt: cả người lành lẫn người dữ, không một ai bị loại bỏ (ĐĐK, c. 27, 49, 62). Lão Tử hỏi: Với kẻ không lành, tại sao lại bỏ chúng? (ĐĐK, c. 62). Không phải đây là chiến thuật dụ người: Với kẻ chẳng lành, cũng lấy lành mà ở, để được lành; với kẻ không thành tín, cũng lấy thành tín mà ở, để được thành tín (ĐĐK, c. 49); Lão Tử cho biết lý do: Người theo Đạo thì xem tất cả mọi người như con mình (ĐĐK, c. 49), và nhất là lấy chính Đạo làm mẫu mực; mà Đạo thì không những là chỗ ẩn náu sâu kín cho vạn vật, là của chân châu cho người lành, mà còn là nơi nương dựa cho kẻ không lành. Đến nỗi Đạo còn ban ơn cho mọi kẻ cầu xin và tha thứ cho kẻ có lỗi; cũng vì thế mà Đạo là "vật quý của thiên hạ" (ĐĐK, c. 62). Những ai không biết được điều đó, chỉ quý người lành mà không biết quý người chẳng lành, thì dẫu họ được gọi là bậc trí, thì thực ra họ cũng chỉ là kẻ mê lầm to. Đó quả thật là điều "huyền diệu" (ĐĐK, c.27).
*** Thế giới Đạo và Đức của Lão Tử không phải chỉ biết quan sát thiên nhiên vũ trụ. Mục đích của Đạo Đức Kinh là cuộc sống, cuộc sống của con người, thiên nhiên và xã hội. Đối với Lão Tử, Đạo là thực tại thâm sâu cuối cùng làm cơ sở cho mọi sự vật trong thế giới hiện tượng; sinh lực nuôi dưỡng, điều hoà và phát triển vạn vật là Đức được quan niệm như một thuộc tính của Đạo. Điều rất quan trọng và đặc sắc là, sinh lực của Đức hoạt động mãnh liệt nhưng âm thầm, từ tốn, khiêm nhu giống như nước, như con mái, như người nữ, như người mẹ. Đạo Đức Kinh đã trình bày một khái niệm rất mới, rất độc đáo và rất an nhiên về Đạo. Có thể nói, tác giả của Đạo Đức Kinh phải đã có được một cái nhìn siêu hình rất mới và rất thâm viễn về Đạo mà các văn triết nhân trước đó chưa có được. Tác giả đã đem lại cho Đạo một nội dung mới mà trước đó trong tư duy triết học chưa hề có và sau đó chưa có ai đã vượt xa hơn.
(Trích từ Thư mục HỘI NHẬP VĂN HÓA của NTT)
http://www.swotti.com/tmp/swotti/cac.../imgLaozi2.jpg
Box đạo gia này không có mod, mà tình hình là xưa giờ có rất nhiều yêu quái giả hình đạo sỹ lừa gạt dân lành, khuyến cáo mọi người đề cao cảnh giác, không là bị chúng lôi kéo, dụ dỗ đấy, tu luyện bọn này không thấp đâu, nhưng huyền môn đạo gia chánh tông thì chẳng biết gì đâu, dạng như Mai Siêu Phong hỏi trộm khẩu quyết đạo gia từ Mã Ngọc trong truyện Kim Dung ấy. Nhìn thực tế mật tông thì thấy, trộm pháp đầy, lu bu là chánh tông cũng bị chúng gạt lấy trộm khẩu quyết rồi dùng khẩu quyết đó dụ dỗ, lôi kéo nên. Nói chung là ai có khẩu quyết đạo gia chánh tông thì phải hết sức giữ gìn, chớ nói ra cho bọn trộm pháp biết, chúng mà lấy được chúng đi dụ người khác đến chừng đó thu dẹp tàn cuộc mệt lắm. Tôi không muốn phiền tới Chưởng giáo đâu.
Cha chả, cái bọn trộm pháp.
Tôi buộc phải khuyến cáo mọi người như vậy vì không phải lúc nào tôi cũng có thể lên mạng mà chỉ mặt điểm danh chúng.
LÃO TỬ BIẾN HÓA KINH 老 子 變 化 經
1. Những từ có trước đất trời,
Vui trong thái thủy tuyệt vời ngao du.
2. Thung dung từ thủa thái sơ,
Khi còn chưa có bến bờ đục trong.
4. Tịch nhiên tiêu sái, (5.) vô song,
Trước trời, trước đất thung dung vui hòa.
Hai bề ẩn, hiện lại qua,
6. Ẩn là Thái nhất, hiện ra là người.
Đục trong biến chuyển dòng đời,
Thần ngài mới mượn hình hài thế nhân.
7. Mượn lòng Lý mẫu giáng trần,
Bảy hai năm chẵn gửi thân mẹ lành.
8. Mượn nơi đất Sở giáng sinh,
Môi dày, miệng rộng, thiên đình nở nang.
Có văn tam ngũ rõ ràng,
Hai vừng nhật nguyệt ẩn tàng quang hoa;
9. Mũi hai sống, lỗ tai ba,
10. Chân hai chữ ngũ, tay hoa số mười.
Thiên nhiên vô dục tính trời,
Vô vi ấy chính nết người ở ăn.
Giúp trời lại giúp thánh quân.
11. Tam hoàng âu cũng nhờ ân hộ trì.
Đời người ẩn ước ly kỳ,
Biến thiên ảo hóa huyền vi khôn lường.
12. Gặp khi vận nước nhiễu nhương,
Hôn quân vô đạo tìm đường ẩn thân,
Giã từ nước Sở, lánh trần,
Cưỡi con bạch lộc băng chừng Côn Lôn,
Dặm Tần mù mịt nguồn cơn,
13. Người xưa vết cũ, nay còn thấy đâu.
Tinh hoa trời đất gồm thâu.
14. Đạo trời đạo đất gót đầu chốt then.
Sinh cơ chủ chốt diệu huyền,
15. Muôn thần, vạn thánh mọi miền, quản cai.
Âm dương mặc sức phân phôi,
Là hồn, là phách muôn loài thụ sinh.
16. Hư vô chưởng quản mặc tình,
Biến thiên huyền hóa siêu linh tuyệt vời.
Bao trùm khắp tám phương trời,
Đất thời lo chở, trời thời lo treo.
17. Ruổi rong nhật nguyệt khinh phiêu,
Tinh huy vận chuyển muôn chiều chẳng ngơi.
Chư thần Lục Giáp nương hơi,
Càn khôn cũng mặc ý người ruổi rong.
18. Tứ thời chuyển biến thong dong,
Hai chiều nóng lạnh mặc lòng xở xoay.
Tiêu phù cầm gọn nơi tay,
Chữ vàng, thẻ ngọc sẵn bày từ khi.
20. Lão quân sáng tối tùy nghi
Tồn vong, đại tiểu, cao đê tung hoành.
21. Khuất thân, tiến thoái mặc tình,
22. Không gì thoát khỏi uy linh của người.
Đi vào nước lửa như chơi,
Dầu lâm họa hoạn, pha phôi nhẽ nào.
23. Gặp cơn bức bách chẳng sao,
Vương thương, vết tích tơ hào chẳng khi.
Trường sinh chẳng có hạn kỳ,
24. Tiêu thân, diệt thể, quyền uy vô ngần.
Sánh đôi mà vẫn đơn thân,
Cô đơn mà vẫn chẳng phần lẻ loi.
Ngài luôn gần gũi con người.
25. Không ai có thể sánh tài vô vi,
Chẳng ai mà chẳng phải tùy,
Người người đều dõi bước đi của ngài.
Hành vi Lão tử để đời,
26. Lời ngài giảng dạy, mấy người tinh thông.
27. Ngài sinh ngoài cõi cửu trùng,
Những điều biến hóa mung lung khôn lường.
Biết ta chín kiếp nhân lương,
28. Đời ta mà biết lối đường ta hay.
29. [Không dịch] [52]
Ta là chín vị sau đây.
30-38
Họ 姓 Tên 名 Tự 字
1. Lý 李 Lão Đam 老聃 Nguyên Dương 元陽
2. Lý 李 Trung 中 Bá Dương 伯 陽
3. Lý 李 Thạch 石 Bá Quang 伯 光
4. Lý 李 Thạch 石 Tử Quang 子 光
5. Lý 李 Trạch 宅 Tử Văn 子 文
6. Lý 李 Nguyên 元 Tử Trường 子 長
7. Lý 李 Nguyện 願 Tử Thủy 子 始
8. Lý 李 Đức 德 Tử Sinh 子 生
9. Lý 李 Bá Văn 伯 文
39. Ngài sinh cùng với Hư vô,
Tùy thời ly hợp trầm phù tiến lui.
Khi lui, nguyên thể tài bồi,
40. Đến khi tiến bước, dạy đời, dạy vua.
41. Thời Phục Hi, tên Ôn Sủng tử,[53]
42. Thời Thần Nông, lấy chữ Xuân Thành;[54]
43. Thời Chúc Dung, gọi Quảng Thành,[55]
44. Đến đời Chuyên Húc, Xích Tinh là người. [56]
45. Thời Đế Cốc, tên ngài Chân tử,[57]
46. Thiên Lão khi cộng sự Hiên Viên;[58]
47. Thời Nghiêu, tên gọi Mạo Thiềng,[59]
48. Thời Thuấn, Quách Thúc là tên của ngài. [60]
50. Thời Hạ Võ, tên thời Lý Nhĩ,[61]
51. Thời Ân Thang, đích thị Tư Cung. [62]
52. Đời Văn, ngài thủ thư tàng,[63]
53. Đến đời vua Võ, tên mang Vệ Thành. [64]
54. Đời Thành vương, tên Thành gọi lại,[65]
55. Nguyên Khang 5, lại tái giáng trần;[66]
Trong lòng mẹ bảy hai năm,
56. Ra đời mới gọi tên bằng Lý Đam.
Ngài cũng có Bá Dương là tự.
Và từng là quản thủ thư tàng;
Bảy trăm tuế nguyệt chứa chan,
57. Băng chừng Sở quốc, lai hoàn cố hương.
Lại gặp khi Bình vương ngoan cố.
Đạo đức trời tới độ suy vi.
58. Ngài liền bỏ Sở ra đi,
Băng chừng tây tiến lâm ly dặm trường.
59. Đến Hàm Cốc, gặp quan Doãn Hỉ,
Đạo đức kinh ngài ký thác cho;
60. Thời Tần, Kiển Thúc cũng là,[67]
61. Tên ngài Phù Khánh [68] thời Hồ nhiễu nhương.
62. Thời nhà Hán, Vương Phương Bình gọi,[69]
(Mỗi khi cần, ngài mỗi hiện ra;)
63. Năm đầu niên hiệu Dương Gia,[70]
Thành đô núi Tước hiện ra đường hoàng.
64. Năm đầu niên hiệu Kiến Khang,
Đỉnh non Bạch Lộc, rỡ ràng quang hoa. [71]
65. Năm đầu niên hiệu Thái Sơ,
Nơi đền Bạch Lộc hiện ra với đời. [72]
66. Kiến Hòa vào khoảng năm 2,
Lão quân lại hiện cửa ngoài Thành đô. [73]
69. Năm đầu Vĩnh Thọ hiện ra,
Đầu non Bạch Lộc xưng là Bộc Nhân. [74]
Những là lẳng lặng trầm ngâm,
Dẫu ai gạn hỏi cũng không trả lời.
70. Đời sau lập miếu thờ ngài,
Xưng ngài Thiên Phó, tên ngài hiển linh. [75]
71. Ngài rằng:
Ta vui trong cảnh Thái thanh,
Quang hoa xử sự, tinh thành trị dân.
72. Nhiệm huyền biến hóa tấm thân,
Lấy tuần lâm tử, làm tuần phục sinh.
Chu du bốn biển phiêu khinh,
Tứ thời bát tiết Huỳnh đình vào ra.
Dòng đời khinh khoát vượt qua,
73. Tam hoàng mỗi bước ta đà theo chân.
Tam thai ta đội làm khăn,
Áo ta đã được dệt bằng Hư vô.
Phàm phu sao biết được ta,
74. Tử sinh, phản phục, biết là bao phen.
Dân ta đông đảo muôn miền,
Phàm phu ngoài mặt, mà tiên đáy lòng.
75. Quang huy thu liễm vào trong,
Tinh thần sung mãn bởi không hao gầy.
Ai về ta tưởng đêm ngày,
76. Ta luôn phù trợ phút giây chẳng rời.
Ai mà mơ đến ta hoài,
Hiển linh, ta sẽ vì người hiện ra.
Cơ đồ nhà Hán phôi pha,
77. Xót vì, ta lại sinh ra ở đời.
Phàm phu nhảy nhót dể duôi,
Nhưng mà trí giả nghe lời bảo ban.
Đất trời nghiêng ngửa nguy nàn,
78. Ta bèn chuyển hóa mà toan cứu đời.
Nay ta lựa chọn hiền tài,
79. Người hay người phải, ta thời nhận ra.
Những ai mà muốn tìm ta,
80. Sách ta hãy đọc cho qua vạn lần,
Tội khiên phải biết tự tân,
Làm người tri kỷ, tri thân mới là.
Ta đây chẳng ở đâu xa,
Thần người cùng với Thần ta khác nào.
81. Cha con tưởng nhớ gần sao,
Bằng không nhớ tưởng, xa bao dặm đường.
Chớ nên biếng nhác buông tuồng,
82. Biếng lười, thần có cũng nhường như không.
Theo ta mau mắn mới mong,
Mới mong ta tháo gỡ tung buộc ràng.
Trắng, xanh ngoài mặt ngỡ ngàng,
83. Vàng, đen ẩn áo tiềm tàng bên trong.
Sinh ta, màu đỏ ấy công,
Ta sinh từ Nhất, từ trong điểm vàng.
84. Rượu nồng người chớ có ham,
Để ta đem đạo, chỉ đàng nẻo cho.
Tu thân người phải nên lo,
Tâm thần an tĩnh, lòng hồ như vơi!
85. Vô vi, vô dục thảnh thơi,
Lầm than, hoạn nạn có đời nào đâu !
Cốc thần khăng khít trước sau,
Con đường giải thoát cơ mầu là đây.
86. Lìa ta, suy tưởng dông dài,
Tâm thần lạc lõng, càng ngày càng mê.
Cương nhu cân nhắc mọi bề,
Hai chiều thành bại, đi về do ta.
Tả biên sinh khí mới là,
87. Hữu biên tử khí, giữa là Hoàng trung.
Giữa là Hoàng khí mung lung,
Nguyên dương nghi ngút muôn trùng cửu tiêu.
88. Khuyên chư đồng tử sớm chiều,
Tiềm tâm tu luyện, để theo Đạo mầu.
89. Ta đà căn dặn từ lâu,
Kim tinh lệch lạc thì cầu tới ta.
Mau mau rong ruổi mới là,
90. Gặp ta Nam Nhạc, sẽ qua nguy nàn.
Chớ đừng bịn rịn tơ vương,
Xuân ngày Quí tỵ nên thương thả tù.
91. Đâu đâu dân cũng âu lo,
Bệnh tình chất ngất, ngã cơ đầy đường.
Ta nay hoán cải mối giường,
92. Cơ đồ nhà Hán tan hoang từ rày.
Dân ta đã biết, đã hay,
Tránh điều vạ gió, tai bay sá nào.
93. Những người thành khẩn thanh cao,
Việc ta thông tỏ tơ hào khó chi.
94. Ý ta hiền thánh minh tri,
Phàm phu nào biết vân vi gót đầu.
95. Bao lần giáng thế trước sau,
Theo dòng lịch sử cơ mầu biến thiên.
Hiểu ta hỏi mấy thánh hiền,
Chê ta, vô số phàm hèn bấy nay.
(Trích ĐẠO ĐỨC KINH
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ khảo luận & bình dịch)