Không có mắt hả Sesônglai, xem những chữ màu xanh ấy. Óc ngắn hay quên hoặc cùn gỉ hả con chiên rởm Sesônglai.
:24::24::24::24::24:
Printable View
BÀ TA CÓ NÓI, THÌ ĐẤY LÀ LỜI CỦA NGƯỜI PHÀM CHƯA TIẾP NHẬN HẾT MÀU NHIỆM THIÊN ĐÀNG. Bà ta có nói rằng bà ta chưa biết hết, mọi người nên nghiên cứu kinh sách thêm. Nếu theo nguyên văn cái câu bôi màu xanh là ĐẦU THAI CHỊU TỘI. Vậy bà ta nói thế là CHÍNH XÁC??, THỬ HỎI ĐỨA BÉ SINH RA LÀ ĐỂ "CHỊU TỘI" À? Ta đã nói bà ta theo đạo CAO ĐÀI. Thế nếu bà ta nói khác xa LỜI PHẬT, NGƯƠI CÓ CHẤP NHẬN NGAY LÀ BÀ TA ĐÚNG, PHẬT SAI? Chỉ có ĐIỀU NÀY LÀ QUAN TRỌNG NHẤT, LÀ BÀ TA SỐNG LẠI, KHẲNG ĐỊNH CÓ CÕI VÔ HÌNH VÀ THƯỢNG ĐẾ. Do thái giáo thì sao? Chẳng phải khi CHÚA GIESU CHƯA RAO GIẢNG, THÌ ĐỨC MẸ, THÁNH GIUSE, MẤY ÔNG TÔNG ĐỒ, ĐỀU THEO DO THÁI GIÁO? CÓ AI TỰ MÌNH SỐNG LẠI KO? TRƯỚC KHI CHẾT TUYÊN BỐ MÌNH SẼ SỐNG LẠI? Chỉ CÓ CHÚA GIESU LÀM ĐƯỢC, NGÀI PHÁN, "TA LÀ SỰ SỐNG LẠI, VÀ LÀ SỰ SỐNG, AI TIN TA SẼ Ko CHẾT ĐỜI ĐỜI. Vậy tóm lại ta muốn đem chuyện bà ngoại đạo nhưng VẪN CÓ NHỮNG ĐIỂM TRÙNG HỢP VỚI KINH THÁNH. NÊN NHỚ CHÚA GIESU LÀ CON MỘT THIÊN CHÚA, SAO KO LO HỌC LỜI CHÚA, MÀ LẠI CHO LÀ LỜI LINH HỒN PHÀM TỤC MỚI CHẾT LÀ CHÂN LÝ?
Theo Kito giáo, linh hồn chia làm 3 loại sẽ về 3 nơi, THIÊN ĐÀNG HẠNH PHÚC ĐÓN NHẬN LINH HỒN CÔNG CHÍNH THÁNH THIỆN, HOẢ NGỤC LÀ NƠI KHÓC LÓC NGHIẾN RĂNG MUÔN ĐỜI KO RA ĐƯỢC, DÀNH CHO LINH HỒN CHỐNG ĐỐI CỰC ĐOAN, SIÊU ĐỘC ÁC KO THÈM ĂN NĂN. Luyện ngục là nơi chịu án đền bù tội lỗi, thanh luyện cho sạch tội, dành cho những linh hồn chưa nên Thánh, còn nhiều tội nhưng đã biết nhận ra tội mà ăn năn, tùy ít hay nhiều sẽ tương ứng thời gian thanh luyện. ĐẦU THAI CHỊU TỘI Ư? Nói thế thì đâu phải là linh hồn đi chui bụng bầu đàn bà làm em bé chịu tội.?! Bà Sương cũng nói là BÀ KO BIẾT ĂN NÓI, NÊN CHƯA BIẾT NÓI SAO CHO ĐÚNG. 9 tiếng đồng hồ sao hiểu rõ MẤY CÕI ĐÓ. Nhưng có thể nói KO AI BIẾT RÕ BẰNG CON THƯỢNG ĐẾ.
Ngày nay, phép lạ, ma thuật ít xảy ra vì nó được đặt tên là "Ảo thuật". Kể từ thời khoa học phát triển, nhiều ma thuật, phép lạ đã bị bóc trần và không thực hiện được với kiểu cách bí hiểm để lừa đảo niềm tin của mọi người nữa nên nó phải đặt thành tên khác. Nhiều trò về tâm linh cũng đã có thể huấn luyện cho người thường tập được và chẳng còn bí mật nữa. Khoa học thống kê đã vào cuộc và phương pháp kiểm tra chéo các kết quả được tiến hành nên mấy trò ma thuật chỉ thực hiện được trên nhóm người cô lập thiếu hiểu biết ở những vùng xa, vùng sâu và nó có thể được truyền miệng cho người khác. Việc thực hiện nó trước đám đông bất kỳ như ngày xưa gặp rất nhiều rủi ro bị phát hiện. Sự xuất hiện của máy quay phim và những phương tiện hiện đại ngày nay khiến cho các thủ thuật chỉ có thể được biểu diễn mà khó có thể được thần thánh hóa.
Zhu nghĩ đó cũng là giả thuyết , zhu cũng từng tin vào giả thuyết đó , và nó cũng là 1 trong những lập luận của zhu và đến sau này . Nhưng zhu nghĩ tới , nghĩ lui cũng thấy có điểm bất hợp lí ( cảm giác của zhu là vậy ) nên zhu thử nghĩ thêm 1 vài giả thuyết nữa để xem có hợp lí hơn không .:7:
Trước tiên , zhu sẽ trở về thời kì trung cổ , 500-1400 , và sau trung cổ 1 chút thì đó là thời đại phù thuỷ , pháp sư , ....thời kì của ma thuật , pháp thuật ,...đã đi vào huyền thoại . Sau đó , khoa học mới bắt đầu phát triển và sự phát triển này đã làm suy giảm số lượng các pháp sư , ma thuật biến mất ,... . Nhưng còn 1 điều nữa , lúc bấy giờ , Giáo Hội nắm rất nhiều quyền lực về chính trị , Giáo Hội ra lệnh là các pháp sư , phù thuỷ ,...đều bị thiêu sống vì Giáo Hội cho rằng : ma thuật gây ra những cái chết , là ma quỷ , những kẻ có tà tâm sẽ dùng ma thuật hại người , trục lợi , làm cho dân chúng lo sợ ,... Và với quyền lực mạnh , Giáo Hội đã tiêu diệt rất nhiều phù thuỷ , đốt hết tất cả các cuốn sách dạy ma thuật ,...dĩ nhiên , dù không hoàn toàn diệt hết nhưng vẫn còn 1 số phải trốn chạy . Vậy là thời kì pháp sư dần chìm vào quên lãng , sau đó thời kì khoa học bắt đầu phát triển , và phải đến sau này mới phát triển toàn diện , tài liệu ma thuật và pháp sư không nhiều . Chủ yếu là truyền miệng , họ chỉ giải thích những huyền thoại chứ họ chưa từng mời 1 pháp sư , phù thuỷ thật sự để họ nghiên cứu . Ví dụ : Thuật biến kim loại thành vàng , khoa học có thể mạ vàng và họ kết luận phép thuật đó đã được chứng minh , nhưng nhiều con đường dẫn tới thành roma , khoa học dùng cách đó thì chắc gì các pháp sư đã dùng cách đó . Tuy nhiên , loại pháp thuật này đã được ghi trong 1 quyển sách , để dùng thuật này cần có 1 hòn đá Triết gia , hòn đá này giúp người ta lành bệnh và bất tử . Nhưng đến nay , hòn đá vẫn là 1 trong những bí ẩn của khoa học . Hiện giờ , chỉ còn 1 số pháp thuật tồn tại mà khoa học đã chứng minh và ghi nhận nó là 1 hiện tượng tâm linh : Làm cho đồng hồ big pen ngừng quay , điều khiển 1 số vật , ngoại cảm , linh cảm , đọc suy nghĩ , .... Tuy nó không hoành tráng như phim , truyền miệng nhưng nó có thật . Bạn có thể tìm trên google các pháp sư này , có quay phim lại nữa ( chính các nhà khoa học quay lại - phim trắng đen nhé ) .
Tại sao bây giờ không thực hiện được pháp thuật ? - Không ai chỉ dạy , tài liệu thì ít phổ biến , lại hiếm , đa số cho rằng đó là ảo tưởng , phải có lòng kiên nhẫn , luyện tập khá lâu , họ không tin . Ở châu á , ít bị chi phối hơn châu âu nên 1 số loại pháp thuật vẫn còn : Bùa , Ngải ,...và khoa học chưa có câu trả lời này . Nếu cần thì chúng ta có thể sang chuyên mục bùa ngải trong diễn đàn để thỉnh giáo :63:
Vậy rõ ràng , thời đại khoa học sau thời đại ma thuật , không thể nói khoa học phát triển nên không ai tin vào ma thuật , vì ma thuật suy yếu , để rồi con người tìm đến khoa học , khoa học tiện nghi , các sáng chế dễ sử dụng , ....dần dần , khoa học thay thế ma thuật và không ai tin ma thuật nữa . Ma thuật cách đây khoảng 1000 năm , khoa học thì khoảng 300-400 năm thôi , giai đoạn khoa học phát triển nhất có lẽ vào thế kỉ 19-20 ^^
http://phunutoday.vn/chuyen-la/nu-ph...-la-14866.html
http://www.youtube.com/watch?v=L61RptUUEqU
http://news.go.vn/chuyen-dong/tin-65...ang-y-nghi.htm
Đây là lời giải , khoa học nói y như ý zhu nói : Chìa khoá là đức tin .
"Bên cạnh đó, các nhà khoa học cho biết, kết quả thí nghiệm liên quan đến các hạt nguyên tử có thể bị thay đổi bởi suy nghĩ của những người quan sát thí nghiệm. Nếu một hạt nguyên tử bị thay đổi bởi ý thức không kiểm soát được của một nhà khoa học rất có thể sẽ dẫn tới kết quả nghiên cứu bị sai lệch hoàn toàn." => Hòn đá Triết gia biến kim loại thành vàng rất có thể là sự thật .
Nếu đọc về bí ẩn các nền văn minh , các nhà khoa học thường tự hỏi : Sao họ làm được như thế ? . Từ đó hình thành 3 giả thuyết : Người xưa đã biết dùng khoa học hiện đại , Do người ngoài hành tinh , Do thần thánh .
Zhu không phải chứng minh về Chúa nhưng zhu rất thích xem phim pháp thuật . Hồi nhỏ zhu hay tưởng tượng chúng tồn tại , zhu thường hay ước có pháp thuật , khi zhu lớn , zhu nhận ra mọi thứ , được mọi người dạy là pháp thuật chỉ có trong truyện thôi , zhu muốn nó có thật , không lẽ những người thời xưa chỉ bịa chuyện lừa gạt , vì thế zhu tìm hiểu và giờ có 1 chút hy vọng rồi :105:
Sesônglai đã đưa ra việc người sắp chết thấy thần của Ngọc Hoàng và người đầu thai theo 6 ngả luân hồi. Cẩn thận ít nữa con chiên rởm Sesônglai lại đưa ra những ai thấy thần bò, thần chuột, thần khỉ ................. của Ấn Độ giáo.
http://k14.vcmedia.vn/Images/Uploade...24/karni13.JPG
Chuột tại đền thờ chuột tại Ấn Độ.
http://phatphapdhamma.brinkster.net/...ages/conbo.jpg
Tượng thần bò tại Ấn Độ.
http://www.congan.com.vn/dulieu6/Quo...2/14d-2236.jpg
Tại Ấn Độ, thần khỉ được dân nông thôn tôn thờ rất phổ biến, vì khả năng bảo vệ lãnh thổ, tượng trưng cho sức mạnh của người chiến binh. Sau bò cái và rắn, khỉ là con vật linh thiêng được tôn thờ trong Ấn giáo. Nhiều bức tượng thần khỉ Hanuman được dựng bên vệ đường để che chở khỏi bị tai nạn giao thông. Bức tượng tại thành phố Paritala ở miền nam Ấn Độ, cao đến 41m.
:24::24::24::24::24:
Khoa học không nên nghĩ là chỉ có khoa học kỹ thuật. Từ khoa học kỹ thuật và những công cụ của nó, khoa học tâm linh, tâm lý học cũng dần phát triển, cơ chế của niềm tin dần được giải thích theo hướng ít mù mờ hơn. Ma thuật, pháp thuật cổ xưa cũng có cơ chế khoa học của nó nhưng nó được tìm ra mang tính chất kinh nghiệm, truyền thừa một cách bí mật và do đó có những sự thất truyền. Tuy nhiên cái gì cũng có cơ chế của nó. Việc tìm ra và làm sáng tỏ cơ chế đó thì được gọi là khoa học. Việc sử dụng cơ chế đó một cách bí mật để làm người khác sợ hãi nhằm điều khiển họ là công việc xấu và khuyến khích mê tín. Các thầy phù thủy, pháp sư thường sử dụng nên bị nhà thờ tiêu diệt. Trong số đó có thể có nhiều cơ chế mang tính khoa học và do bị tiêu diệt nên thất truyền và biến mất nhưng rồi cũng có thể hồi phục nay mai.
Zhu cũng ước như thế , ma thuật không đơn giản là tưởng tượng . Nó chỉ bị thất truyền , hy vọng các nhà khoa học tâm linh sớm làm rõ 2 chữ đức tin ( có thể là cơ chế vận hành tâm linh ) để khôi phục nó . Bác quangcom có nghĩ sau này xe hơi thay thế = thảm bay , chổi bay ,...1 thế giới như harry potter sẽ thành hiện thực . :43:
Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp
Phải hiền dịu.
... “Ở đâu và thời nào, người ta cũng đều tự nhiên quí mến kẻ hiền dịu. Tại sao? Có lẽ có nhiều lý do khác nhau. Nhưng chắc chắn là tại người ta thấy trong kẻ hiền dịu một người bạn thân. Ruồi tự nhiên ưa đường mật. Con người cũng thế. Thấy trong ai có sự êm dịu, có sự thân thiết thì tìm đến, trao đổi tâm tình và cho sự sống chung với kẻ ấy là hạnh phúc.
Nếu bạn dùng vũ khí hãm hại một người yếu thế hơn bạn, nếu bạn quát tháo, thịnh nộ, đe dọa một đứa con nít thì có thể hai thứ người ấy làm thinh, chịu thua bạn. Nhưng chúng tôi quyết trong thâm tâm họ không mến phục bạn gì hết.
http://static.xaluan.com/images/news...c562a3.img.jpg
Chừng nào kẻ yếu có vũ khí như bạn, chừng nào đứa con nít lớn khôn, bạn sẽ thấy họ đối xử với bạn làm sao.
http://www.ableplay.org/library/imag...g-bullied4.jpg
Lão-Tử thật tỏ ra khôn hơn chúng ta khi ông nói: “Nhu thắng cang, nhược thắng cường”. Trong xã hội, ít có thứ người tự nhiên ưa thích hung dữ, sự xẳng xốn.
http://www.personalitytutor.com/wp-c...ging-anger.jpg
http://dantri4.vcmedia.vn/gLC4WLlnU8...andu_10180.jpg
Có nhiều kẻ ác phải có biện pháp mạnh đối phó mới chịu thua. Nhưng trong thâm tâm mọi người, kể cả kẻ ác này, đều có lòng mến thích cái gì êm dịu. Ai không biết làm thỏa mãn tánh tự nhiên này của kẻ khác, thời không trông gì dẫn dụ kẻ khác theo mình. Đã không dẫn dụ được còn gây thêm ác cảm nữa. Bất kỳ ai, dù kẻ học rộng, hay kẻ quê mùa dốt nát, một khi có lập trường nào thường khư khư giữ lấy, không muốn kẻ khác cho mình là lầm. Có người dám nóng cọc, hy sinh cả tình bạn, tình cốt nhục, quyền lợi, để bảo tồn tư tưởng của mình nữa. Gặp những kẻ ấy, bạn xẳng được không? Lửa đang cháy, muốn trừ nó, bạn đem thêm lửa lại à? Dĩ nhiên bạn phải dùng nước, nghĩa là ăn nói mềm mỏng, tâm phục họ hơn là lý phục .. Sự ngọt ngào giống như nước làm cho lửa giận kẻ khác không bừng lên được, khiến đầu óc họ hết chống đối với ta và nói ý chí của ta mật thiết với của họ. Lẽ dĩ nhiên, đây là sự êm dịu của người quân tử .. Bạn êm dịu vì bạn điềm đạm, nhẫn nhịn sự hung bạo kẻ khác dễ dàng và biết đối xử với kẻ thô lỗ bằng thái độ lịch sự. Bạn êm dịu, nhưng bạn thấy trước phải dẫn dắt đối phương đến chân lý mà bạn đã nhắm. Bạn sáng suốt lái họ mà họ không hay. Cho được nên người êm dịu, trong tâm tưởng bạn nên có tinh thần bác ái, trọng nhân phẩm, muốn lấy thái độ quân tử đối lại với hành động tiểu nhân, cương quyết dùng nước thắng lửa .. Các giáo sĩ Công Giáo mỗi sáng hay có thói quen đọc nửa giờ Kinh Thánh. Chúng tôi xin bạn mỗi sáng để năm phút thôi, đọc câu Kinh Thánh này của Chúa GIÊSU: “Các con hãy học cùng Thầy vì Thầy hiền lành và khiêm nhượng thật trong lòng”. (“Rèn nhân cách”, Hoàng Xuân Việt, loại sách “Học làm người”, trang 308-311).
https://encrypted-tbn1.gstatic.com/i...cbOz9xoQ4dO3ac
Trong cuốn GƯƠNG CHÚA GIÊSU (quen gọi là SÁCH GƯƠNG PHÚC), do nhà sách ĐA-MINH Sàigòn tái bản năm 1965, nơi chương 16 có tựa đề: “Một nhịn chín lành”:
Nhịn là tinh khôn.
Cái gì trong bạn, hay trong người khác, mà bạn không sửa được, bạn hãy nhẫn nhục chịu đựng, cho đến khi Chúa ấn định cách khác. Bạn nên nghĩ, biết đâu để thế, lại có lợi hơn cho bạn, vì nó giúp bạn luyện tập thêm đức nhẫn nhục, là một đức tối cần để bạn lập nên công lớn. Nhưng bạn hãy cầu xin Chúa giúp bạn, trong những éo le ấy, để chịu cho vui lòng. Nếu bạn đã bảo ai nhiều lần mà người ấy không chịu nghe, bạn đừng cãi lẫy với họ, hãy để mặc Chúa, là Đấng có thể biến điều ác nên điều thiện, để thần ý Ngài nên trọn và, để Ngài được sáng danh, trong các tôi trung của Ngài.
Nhịn là công bằng.
http://www.binhcang.com/maria10copy.jpg
Bạn hãy cố nhẫn nhục chịu đựng những khuyết điểm và sơ suất, bất luận lớn nhỏ của người khác, vì chính bạn, cũng đầy khuyết điểm, mà người khác đang chịu đựng đấy! Chính bạn, bạn cũng không thể trở nên như mình muốn, thế sao bạn lại có thể bắt người khác phải trở nên như bạn muốn? Ta thích cho người khác nên trọn hảo; còn lỗi ta, ta vẫn không chịu sửa! Ta muốn sửa trị người khác cho nhặt; còn ta, một lời sửa bảo xoàng đã chau mặt! Ta khó chịu khi người khác được ơn rộng, còn ta, ta vẫn không muốn ai chối ta cái gì. Ta muốn ràng buộc người khác, bằng những kỷ luật nghiêm khắc, còn ta, hơi bó buộc thêm một chút, là ta đã không chịu nổi! Những cái đó đủ để chứng tỏ: rất ít khi ta xử với người khác như xử với mình!
Nhịn là sáng suốt.
Nếu ai cũng tinh toàn cả, làm gì còn khổ giá để ta vác cho Chúa. Nhưng giờ đây Chúa an bài thế, để ta tập tương trợ lẫn nhau, vì ai cũng có khuyết điểm, cũng như phải nhịn khuyết điểm của người khác. Chẳng ai tự túc tự mãn, chẳng ai sáng suốt đủ mà không phải nhờ người khác hướng dẫn. Trái lại, ta phải chịu đựng lẫn nhau, yên ủi lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau, dạy vẽ và chỉ bảo lẫn nhau. Không gì chứng tỏ trình độ nhân đức của ta bằng phản trắc. Vì những dịp đó không làm cho ta yếu thêm, trái lại, nó chỉ chứng tỏ cái chân thực của con người.
http://swallowedbygreatfish.files.wo...of20others.jpg
2. Thánh nữ BERNADETTE: mẫu gương trong sạch, hiền lành và khiêm tốn.
http://www.rcsouthwark.co.uk/media/bernadette2.jpg
Thánh nữ Bernadette Soubirous (1844-1879) được diễm phúc trông thấy Đức Mẹ hiện ra 18 lần trong vòng 5 tháng, tại Lộ Đức, miền Nam nước Pháp, từ 11-2 đến 16-7-1858.
Trước những hiện tượng lạ, người tin thì ít, nhưng những kẻ không tin thì rất nhiều. Có người nghi ngờ nói thẳng với Bernadette: “Chúng tôi không hề tin vào những cuộc hiện ra này”. Bernadette điềm nhiên trả lời: “Cháu không có nhiệm vụ làm cho quý ông bà tin. Cháu chỉ có nhiệm vụ nói cho quý ông bà biết”.
Câu trả lời biểu lộ đức tính ngay thẳng, hồn nhiên, khiêm tốn nơi một thiếu nữ đồng quê 14 tuổi. Những đức tính cao quý này đã theo sát cuộc đời thánh nữ, cho đến khi Chị nhắm mắt từ trần ngày 16.4.1879, hưởng dương 35 tuổi, trong tu phục các nữ tu Bác Ái thành Nevers, miền Trung nước Pháp.
Một thời gian ngắn sau khi chị Marie-Bernard - tên dòng của chị Bernadette - qua đời, người ta cho mở hồ sơ xin phong thánh cho chị. Một nữ tu cùng dòng, đã đặt tay làm chứng: “Chị Marie-Bernard là mẫu gương nhân đức cho hết mọi chị em trong dòng”.
Lời chứng gồm tóm mọi nhân đức của chị Bernadette: thanh sạch, khiêm nhường, nhân từ, hiền dịu, nhẫn nhục, ngay thẳng và tuân phục Bề Trên..
Trong các đức tính vừa kể, nổi bật sự thanh sạch. Hẳn là Đức MARIA, Trinh Nữ tuyệt vời trên mọi trinh nữ, đã có lý khi chọn Bernadette làm sứ giả loan báo hồng ân “Vô Nhiễm Nguyên Tội” của Mẹ. Mẹ Bề Trên Forestier của các nữ tu Bác Ái Nevers nói: “Chị Marie-Bernard là một thiên thần.. Chị trong trắng như đóa huệ. Trước khi nhận chị vào dòng, tôi nghe người ta đồn thổi: Mẹ MARIA đã Ban cho Bernadette hồng ân giữ được nét đơn sơ trong sạch của một trẻ thơ.. Sau này, khi nhận chị vào dòng, và có dịp quan sát thật gần, tôi phải công nhận: lời đồn thổi quả đúng sự thật”.
Đức cha Bertrand-Sévère Laurence, Giám Mục Lộ Đức lúc bấy giờ, khi cho gọi Bernadette đến để tra hỏi thực hư về câu chuyện “một Bà Đẹp đã xuất hiện nơi hang Massabielle”, đã tin ngay lời tường thuật của Bernadette. Sau này, đức cha thú nhận: “Chính nét đơn sơ, sự trong trắng và lòng khiêm tốn của cô bé, khiến tôi phải tin là Bernadette đã nói thật”.
21 năm sau biến cố “Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức”, trước linh cữu của chị Bernadette, một vị giám mục khác, đức cha Lelong, giám mục Nevers, lại lên tiếng ca tụng về nét đẹp trong trắng thiên thần của chị Bernadette: “Toàn thể con người chị chiếu tỏa nét trong sạch, lóng lánh như viên kim cương vẹn tuyền. Nét trong sạch đặc biệt phản chiếu trong cái nhìn sâu thẳm và trong suốt của chị”.
Chị Marthe du Rais, nữ tu cùng dòng làm chứng về chị Bernadette: “Chị thường giữ đôi mắt nhìn xuống. Và khi nào chị ngước lên, thì đôi mắt trông thật trong suốt và tinh sạch. Tôi có cảm tưởng là ánh mắt chị vẫn còn vương tỏa các cuộc Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức”.
Một nữ tu khác, chị Eugénie kể: “Ngày tôi vào thỉnh viện thì chị Bernadette đang làm tập sinh năm thứ nhất. Tôi chưa một lần gặp mặt cũng không hề trông thấy hình của chị Bernadette. Do đó tôi tự nhủ: Nhất định không hỏi ai hết, thử xem mình có nhận ra được chị Bernadette ở giữa các tập sinh khác không. Thế rồi tôi để ý quan sát tất cả các tập sinh. Khi ánh mắt tôi chạm ánh mắt của chị Bernadette, tôi nghĩ ngay: “Chắc chắn đây là đôi mắt đã được diễm phúc trông thấy Trinh Nữ MARIA”.
Tất cả các nữ tu sống gần chị Bernadette đều đồng thanh làm chứng: “Cái nhìn, dáng điệu, lời ăn tiếng nói, ngay cả những lúc chị tinh nghịch đùa chơi, nhất nhất biểu lộ một con tim trong trắng. Sự có mặt của chị như có sức mạnh ngăn cản chúng tôi nói những lời đùa cợt vô ích”.
Sau cùng là lời chứng của một thần học gia tên tuổi, linh mục Jean-Claude Raffin. Cha nói: “Điều nổi bật nhất nơi chị chính là toàn thể nét hồn nhiên, sự thơ ngây, lòng khiêm tốn và tính dè dặt, biểu lộ trong cái nhìn, trong cử chỉ và trong dáng đi của chị. Mọi người đều nhận thấy và đồng ý rằng, chị Bernadette đã giữ được nét ngây thơ trong trắng của Bí Tích Rửa Tội và đã không phạm một tội nào nghịch với đức khiết tịnh. Chị Bernadette đã bảo tồn nguyên vẹn nét đẹp, vẽ tươi mát và hương thơm dịu dàng của cành huệ trinh khiết..”.
Sau nét đẹp thanh khiết, nổi bật nhân đức khiêm nhường của chị thánh Bernadette.
Ngày 30-10-1867, chị Bernadette được tuyên khấn lần đầu trong dòng các Nữ Tu Bác Ái thành Nevers. Năm ấy chị tròn 23 tuổi.
Theo tục lệ trong dòng, vào buổi chiều ngày tuyên khấn, các nữ tu khấn tạm tập họp lại để nhận bài sai, từ Mẹ Bề Trên và Đức Giám Mục Bản quyền. Chiều hôm ấy, chị Bernadette cũng có mặt cùng với 44 khấn sinh khác. Đến lượt mình, chị đến quỳ trước mặt Đức Cha Forcade và đợi nhận bài sai.
Đức Giám mục quay sang hỏi Mẹ Bề Trên: “Bà chỉ định cho chị này làm công việc gì?”. Thoáng điểm nụ cười trên môi, Mẹ Bề Trên Joséphine Imbert trả lời: “Thưa Đức cha, con trẻ này không biết làm một cái gì hết. Chị đi đến đâu, sẽ trở thành gánh nặng cho nơi đó!”. Mọi người im lặng như tờ. Đức cha chăm chú nhìn chị nữ tu trẻ tuổi, đang khiêm tốn quỳ dưới chân ngài. Rồi như được ơn trên linh ứng, Đức giám mục ứng khẩu Ban bài sai: “Cha chỉ định cho con nhiệm vụ cầu nguyện”.
Nói xong, đức cha bỗng sực nhớ là chị Bernadette đang ở trong một dòng hoạt động chứ không phải dòng chiêm niệm. Đức cha liền hỏi lại: “Quả thật con không biết làm một cái gì hết sao?”. Chị Bernadette khiêm tốn thưa: “Thưa đức cha, Mẹ Bề Trên thật không sai lầm. Quả đúng như vậy”. Đức Giám Mục tiếp lời: “Vậy thì, thật tội nghiệp cho con. Phải làm gì với con bây giờ? Mà tại sao con lại vào dòng?”. Chị Bernadette đơn sơ trả lời: “Hồi còn ở Lộ Đức, con đã trình bày điều đó với đức cha và đức cha bảo không sao hết!”. Vị giám mục hơi lúng túng, không biết giải quyết ra sao. Sau cùng, đức cha hỏi: “Nhưng ít ra là con cũng biết gọt khoai, lặt rau chứ?”. Chị Bernadette thưa: “Con sẽ cố gắng”.. Quay sang Mẹ Bề Trên, đức cha nói: “Chúng ta sẽ giữ chị này ở lại đây ít lâu. Sau đó, nếu thấy là chị hữu dụng trong một số việc nhỏ nhặt nào đó, thì sẽ gửi chị đi giúp xứ”.
Hẳn là chị Bernadette phải thật khiêm tốn để chấp nhận những lời nhận xét của Mẹ Bề Trên và của Đức Giám Mục! Nhưng đó là chuyện không thành vấn đề đối với chị. Người ta đọc thấy trong sổ tay tĩnh tâm của chị hàng chữ sau đây: “Ơn chính phải xin: sống thật ẩn kín, theo gương Chúa GIÊSU và Mẹ MARIA”.
Chị Bernadette đã xin và đã sống ơn ẩn kín này. Trong thánh lễ an táng, trước linh cữu chị, đức cha Lelong lớn tiếng tung hô nhân đức khiêm nhường của chị như sau: “Hỡi các nữ tu, các chị là những người biết rõ rằng, không phải người ta tìm cách dấu kín chị, nhưng chính chị tự ẩn mình đi, và chị càng ẩn mình được Bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu.. Chị không thích gợi lại quá khứ, nhưng tìm cách quên đi, hay ít là, làm cho người khác quên đi”..
http://www.catholicpilgrims.com/lour...s/bernprof.jpg
Một nữ tu cùng dòng, 40 năm sau, đã nói về nhân đức khiêm nhường của chị Bernadette: “Người ta dạy tôi: khiêm nhường là quên mình đi. Nơi chị Bernadette, khiêm nhường quả là như thế đó. Chị không Bao giờ nói về mình, lo lắng chăm sóc cho mình. Khiêm nhường là một nhân đức thật cao cả nơi chị. Tôi nghĩ, chính Mẹ MARIA đã thông truyền nhân đức này cho chị khi Đức Mẹ hiện ra với chị”.
http://www.catholicdadsonline.org/wp...bernadette.jpg
Một ngày, một nữ tu hỏi chị Bernadette xem chị có cảm thấy bị hạ thấp trong cuộc sống ẩn kín nơi tu viện, sau khi được mọi người biết đến vì những cuộc hiện ra của Đức Mẹ tại Lộ Đức không, chị trả lời: “Sao thế, chị nghĩ gì về em? Chị không biết là em hiểu rõ rằng, nếu Đức Mẹ chọn em, chính vì em là người dốt nát nhất. Nếu Đức Mẹ tìm được một người nào khác dốt nát hơn, hẳn là Đức Mẹ sẽ chọn người ấy”.
Một ngày, hai thiếu nữ từ Lộ Đức đến nhập dòng. Hai cô đưa cho chị Bernadette xem tấm hình chụp hang đá Lộ Đức, với ước mơ thầm kín là sẽ được nghe chị nói về các cuộc hiện ra.
http://margefenelon.com/wp-content/u...02/lourdes.jpg
Chăm chú nhìn tấm hình chụp hang đá Lộ Đức thân yêu, chị chỉ buông câu nói bâng quơ: “Chà, mấy cây bạch dương bữa nay cao ghê!”.. Một lần khác, một nữ tu cũng đưa cho chị xem tấm hình chụp hang đá Lộ Đức, với dụng ý dò xem phản ứng của chị. Đang chăm chú nhìn tấm hình, chị Bernadette bỗng ngước mắt hỏi chị kia:
- Chổi dùng để làm gì?
- Để quét nhà
- Rồi sau đó?
- Sau đó thì người ta dựng vào xó cửa!
Chị Bernadette điềm nhiên nói: “Đó cũng là câu chuyện cuộc đời em. Đức Mẹ đã dùng em. Giờ đây xong công việc, người ta đặt em lại chỗ cũ của em. Em thật sung sướng và cứ ở nguyên trong tình trạng ẩn kín này”.
3. Anh em hãy học với Thầy vì Thầy có lòng hiền hậu và khiêm tốn.
Đó là câu nói thời danh của Chúa GIÊSU thành Nagiarét, Ông Tổ Tối Cao của KITÔ Giáo. Chỉ duy mình Chúa GIÊSU KITÔ, Vị Tôn Sư Độc Nhất, mới có thể nhẹ nhàng phán bảo như thế. “Anh em hãy học với Thầy vì Thầy có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 12,29). Trọn cuộc đời dương thế vắn vỏi 33 năm, Chúa GIÊSU đã nêu cao mẫu gương hiền hậu. Chúa GIÊSU hiền lành và khiêm tốn. Từng cử chỉ, từng lời nói, từng hành động của Chúa GIÊSU, nhất nhất đều biểu lộ một Con Người hiền lành và khiêm tốn. Khiêm tốn tột mức, hiền dịu đến độ anh hùng! Ở dưới vòm trời này, - từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế - không thể tìm ra một người nào, hiền lành và khiêm tốn hơn hoặc bằng Chúa GIÊSU! Không. Trăm triệu lần không. Chỉ duy mình Chúa GIÊSU mới là người hiền lành và khiêm tốn đích thực. Xin trưng dẫn một trường hợp điển hình.
.. Bấy giờ Giuđa dẫn một toán quân cùng đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pharisêu đến bắt Chúa GIÊSU. Họ mang theo đèn đuốc và khí giới. Đức GIÊSU biết mọi việc sắp xảy đến cho mình, nên tiến ra và hỏi: “Các anh tìm ai?”. Họ đáp: “Tìm ông GIÊSU NAGIARÉT”. Người nói: “Chính Tôi đây!”. Khi Người vừa nói: “Chính Tôi đây!” thì họ lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi một lần nữa: “Các anh tìm ai?”. Họ đáp: “Tìm ông GIÊSU NAGIARÉT”. Đức GIÊSU nói: “Tôi đã bảo các anh là chính Tôi đây!”..
.. Toán quân và viên chỉ huy cùng đám thuộc hạ của người Do thái liền bắt và trói Người lại. Trước tiên, họ điệu Chúa GIÊSU đến ông Khan-na.. Vị thượng tế tra hỏi Chúa GIÊSU về các môn đệ và giáo huấn của Người. Đức GIÊSU trả lời: “Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ. Tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại đền thờ, nơi mọi người Do thái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. Sao ông lại hỏi Tôi? Điều Tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe Tôi. Chính họ biết Tôi đã nói gì”. Chúa GIÊSU vừa dứt lời, thì một tên trong nhóm thuộc hạ đứng đó vả vào mặt Người và nói: “Anh trả lời vị thượng tế như thế ư?” Chúa GIÊSU đáp:
- Nếu Tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu Tôi nói đúng, sao anh lại đánh Tôi? (Gioan 18, 2-21).
http://lostonplanetchina.files.wordp...the-garden.jpg
Câu trả lời biểu lộ thái độ bình tĩnh và trang nghiêm tột cùng của Đức GIÊSU KITÔ. Trong một hoàn cảnh đau thương và ô nhục như thế, Chúa GIÊSU vẫn giữ nguyên tư cách của một vị Tôn Sư Tối Cao, của một Đấng Cứu nhân độ thế. Như vậy, Ngài mới có đủ uy tín nhắn nhủ các môn đệ của Ngài: “Anh em hãy học với Thầy vì Thầy có lòng hiền lành và khiêm tốn”. Từ đó, các tín hữu KITÔ thường khẩn khoản van nài: Lạy Chúa GIÊSU hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, xin uốn lòng chúng con nên giống như Rất Thánh Trái Tim Chúa.
Trong khi đó, cái dại dột nhất, cái sa chước cám dỗ nặng nề nhất của con người - bắt đầu từ hai nguyên tổ Adong và Evà - chính là: “muốn bằng Thiên Chúa, muốn trở nên như các thần linh” (Sáng Thế 3,5).
Con người thèm muốn nâng cao để được giống như Thiên Chúa. Chúa GIÊSU trái lại, chỉ ước ao hạ mình xuống, để yêu thương và phục vụ con người.
http://giaophanvinh.net/modules/Phot...04_CGS_195.JPG
Thánh Phaolô Tông đồ viết cho tín hữu Philipphê: Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Chúa GIÊSU KITÔ. Chúa GIÊSU KITÔ vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với THIÊN CHÚA, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng Ban danh hiệu, trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh GIÊSU, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh THIÊN CHÚA CHA, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “ĐỨC GIÊSU KITÔ LÀ CHÚA” (2, 5-11).
http://shop.jesusartusa.com/product_...61862_zoom.jpg
4. Hiền lành là hoa quả của yêu thương và khiêm tốn.
Hiền lành đối nghịch với thù hận và kiêu căng. Nếu thù hận gieo tang tóc và kiêu căng hủy hoại tinh thần con người thì tình yêu và khiêm tốn là hai phương thuốc thần diệu mang lại sự sống đích thực cho con người.
Từ năm 1964, nơi Vương quốc Bỉ, qua trung gian của một nữ giáo dân mang biệt hiệu Margarita, Chúa GIÊSU trao Ban sứ điệp tình yêu cho nhân loại và thành lập một Đạo Binh các Hồn Nhỏ. Chính Chúa GIÊSU giải thích:
http://www.binhcang.com/jesuscopy.jpg
Cha gởi đến các con “Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu” của Cha. Thông điệp này truyền bá ra sẽ làm cho linh hồn những người khao khát Tình Yêu Thiên Chúa được tràn ngập ơn phúc và được soi sáng, đồng thời làm cho những người khác cũng phải suy nghĩ lại, và thúc giục họ hồi tâm tỉnh ngộ. Những lời bình phẩm sẽ chẳng che lấp được tiếng Cha. Như nước thủy triều dâng, tiếng Cha sẽ tràn lên, thức tỉnh các tâm hồn, tiêu diệt sự lầm lạc và đồi trụy. Khoái lạc cuồng loạn và các tệ đoan của nó, kiêu ngạo và tiên tri giả: đó là những điều Cha đến để tiêu diệt bằng TÌNH YÊU, để cho tất cả các con được sống (6-5-1967).
Cha kêu gọi các hồn nhỏ sống khiêm tốn để chống lại tính kiêu căng. Yêu thương để phủ lấp thù hận. Quảng đại để xóa bỏ ích kỷ. Trong sạch để chống lại sự nhơ nhớp .. Hỡi các hồn nhỏ, hãy liên kết để cứu thế giới. Triều thần của cha là các người bé nhỏ, rất có thế lực đối với Trái Tim Cha..
Đây là một ngày sống của hồn nhỏ: Dâng ngày cầu cho Đức Giáo Hoàng, theo các ý chỉ của ngài; cầu cho Hội Thánh, cho toàn thể các linh mục; cho hòa bình thế giới, cho tội nhân hối cải, cho người đau khổ, và để đền tạ những điều nhục mạ xúc phạm nặng nề đến Trái Tim Cực Thánh Cha và Trái Tim Tân Khổ và Vô Nhiễm Nguyên Tội ĐỨC MẸ. Cha mời gọi mỗi linh hồn lấy lòng quảng đại và tận tụy cố gắng chống lại tính ích kỷ nằm trong tất cả mọi người và nơi mỗi người. Cha kêu gọi mỗi linh hồn phải có lòng bác ái lớn lao đối với tha nhân. Truyền bá việc lần chuỗi Mân Côi: điều này sẽ đem lại rất nhiều ơn phúc cho Hội Thánh và cho các linh mục. Việc cầu nguyện thì để mỗi linh hồn chọn lựa theo phương thức thuận hợp cho mình. Đừng sao lãng việc ấy khi không có lý do can hệ, vì đó là phương thế thánh hóa và hiểu biết, do mãnh lực nó đem đến phấn khích linh hồn các con. Các linh hồn nhỏ hãy kết hiệp vào những ý chỉ trên đây, với lòng yêu mến và nhiệt thành. Các con hãy năng nhớ đến Thiên Chúa các con bằng những khát vọng nồng nàn hầu duy trì sự tiếp xúc thường xuyên giữa Thiên Chúa và các con. Các con hãy phó thác trọn vẹn theo ý Cha. Hãy trông cậy nơi Cha. Điều này chính là qui luật mà mỗi hồn nhỏ phải tôn trọng và thi hành; mỗi hồn nhỏ cũng phải nhận lấy cái ách của mình; các con hãy tin chắc, ách ấy sẽ êm dịu đối với những tâm hồn quảng đại. Nếu các con làm như thế, điều ác sẽ bị ngăn chặn, không lan tràn. Nhiều người sẽ hồi tỉnh và trở về với Nguồn Thiện Hảo. Cha đã nói và Cha lập lại: Những hồn nhỏ của Cha có thể cứu thế giới. Các con hãy thành lập những đảo nhỏ thánh thiện ở khắp nơi. Một số ít linh hồn thánh thiện trong một giáo xứ có thể cứu giáo xứ đó. Nhiều giáo xứ có một số linh hồn thánh thiện, có thể cứu một quốc gia. Phải sống và chiếu giãi tình thương. Nhưng không có điều gì thực hiện được nếu không có những hy sinh. (5-12-1967)
5. Trinh Nữ MARIA: mẫu gương hiền lành, khiêm tốn và trầm lặng.
http://jessicahof.files.wordpress.co...pg?w=300&h=236
Sau Chúa GIÊSU KITÔ, mẫu gương tuyệt hảo nhất của lòng khiêm tốn và sự trầm lặng, chính là Trinh Nữ MARIA. Thánh sử Luca viết: ”Riêng Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (2,51b). Tâm hồn trinh khiết và khiêm hạ của Đức MARIA hẳn chỉ yêu thích và tìm kiếm nơi vắng vẻ cô tịch.
Đức MARIA được các tín hữu Công Giáo kêu cầu dưới danh hiệu “Trinh Nữ Thầm Lặng”, như bài kinh dưới đây:
Mẹ là thầm lặng: thầm lặng của người canh thức, thầm lặng của kẻ đợi chờ, thầm lặng của người khám phá ra sự hiện diện. Mẹ là thầm lặng: thầm lặng của kẻ lắng nghe, thầm lặng của người tiếp đón, thầm lặng của kẻ sống hiệp thông. Mẹ là thầm lặng: thầm lặng của người yêu thương, thầm lặng của kẻ phục vụ, thầm lặng của người đứng bên Thánh Giá. Mẹ là thầm lặng: thầm lặng của người khóc lóc, thầm lặng của kẻ đau khổ, thầm lặng của người mang thánh giá. Mẹ là thầm lặng: thầm lặng của người nghèo nàn, thầm lặng của kẻ đơn sơ, thầm lặng của người chân thật trong trái tim. Mẹ là thầm lặng: thầm lặng của người cầu nguyện, thầm lặng của kẻ sống an bình, thầm lặng của người bước đi trước mặt Chúa. Mẹ là thầm lặng: thầm lặng của GIÁO HỘI, thầm lặng của HIỀN THÊ và của HÔN PHU, thầm lặng của sự HIỆP THÔNG VĨ ĐẠI, CAO CẢ..
Lạy Mẹ là Trinh Nữ Thầm Lặng, xin Mẹ cầu bầu cho chúng con biết luôn luôn yêu chuộng sự Thầm Lặng, lòng khiêm tốn và sự hiền lành, như lời Chúa GIÊSU phán: “Phúc cho người hiền dịu vì họ sẽ được đất hứa làm gia nghiệp” (Mt 5,4).
http://www.turnbacktogod.com/wp-cont...apers-1402.jpg
Trẻ em Đọc Truyện Cậu Bé Phù Thủy Harry Potter Có Thể Sa Vào Nạn Thờ “ma Qủy”
Thứ Hai, Ngày 6 tháng 2-2012
Trẻ em đọc truyện cậu bé phù thủy Harry Potter có thể sa vào nạn thờ “ma qủy”
VATICAN – Vị linh mục trừ qủi chính của Vatican hôm qua phát biểu cho rằng những tập sách tiểu thuyết về Harry Potter có thể dẫn trẻ em tới chủ thuyết “qủi ma”.
LM Gabriele Amorth, năm nay 80 tuổi, là người đã thực hiện chứng hơn 3000 vụ trừ qủi từ năm 1986 cho đến nay, tuyên bố rằng: "Đọc truyện Potter, trẻ em sẽ bị lôi cuốn vào ảo thuật và từ đó đi đến nạn thờ qủi là một bước ngắn mà thôi. Rõ ràng là trong những cuốn sách này có bàn tay của Qủi Bóng Tối.
Chuyên gia trừ qủy của Tòa Thánh cảnh báo về Yoga và chuyện Harry Potter. Rome 29/11/2011-.Tờ New York Daily News loan tin nguyên trưởng ban chuyên gia trừ quỷ của Tòa Thánh Vatican, Linh Mục Gabriele Amorth, dòng Tên, nói rằng yoga và và câu chuyện Harry Potter là những công cụ của ma quỷ. Cha Amorth đưa ra nhận xét trên đây với tờ Telegraph phát hành tại London trong một buổi liên hoan phim tại thành phố Umbria của Ý.
Cha được mời để giới thiệu một bộ phim về trừ tà có tựa đề là "The Rite", do tài tử Anthony Hopkins đóng vai chính. Cha Gabriel Amorth nói “ Thực hành yoga là hành động ma qủy, dẫn đến điều ác giống như đọc Harry Potter.
Với Harry Potter, Ngài nói, tưởng chừng như là"vô thưởng vô phạt", nhưng thực ra Harry Potter thuyết phục trẻ em tin vào ma thuật đen. Trong Harry Potter quỷ ma hành xử một cách xảo quyệt và bí mật, dưới chiêu bài quyền lực phi thường, dùng thần chú và tai ương
Yoga dẫn đến Ấn giáo và các tôn giáo đông phương dựa trên niềm tin sai lầm về vấn đề tái sinh.
Cha Amorth năm nay 86 tuổi cho biết thêm "Sa-tan luôn luôn giấu mình và điều nó thực sự muốn, là làm cho chúng ta tin vào sự hiện diện của chúng.
Cha nói. "Ma quỷ tìm hiểu các khuynh hướng tốt cũng như xấu của mọi người chúng ta, rồi sau đó đưa ra những cám dỗ."
Cha Amorth đã thực hiện 50.000 vụ trừ quỷ trước khi nghỉ hưu vào năm 2000. Cha là người sáng lập và là chủ tịch danh dự của Hiệp hội quốc tế Trừ Qủy.
https://encrypted-tbn0.gstatic.com/i...hlBShUls1ek0dP