Ờ, cũng được đó. Đáng để tham khảo.
Printable View
Ờ, cũng được đó. Đáng để tham khảo.
kho hieu qua
Bài viết rất hay và có ý nghĩa - Nhưng không biết có thật như thế không nữa. Người học đạo hay những người gọi là phân tử. Vốn dĩ cũng có một câu là được thành phật hay thành tiên.
Càng tranh thì càng luận, càng luận thì càng tranh. Không tranh thì không luận mà không luận thì tất không tranh mà không tranh thì khỏi phải luận. Vô thường... Vô thường... Pháp vô thường.
các cao tăng cho em hỏi hồi hướng trong 49 ngày thế nào cho đúng pháp, bác em mới mất tuần trước, chờ tin các cao tăng lắm lắm ạ...
@Denvadi: Trích Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện:
"Phẩm Thứ Bảy: Lợi Ích Cả Kẻ Còn Người Mất
1) Khuyên Tu Thánh Ðạo - Lúc đó Ngài Ðịa-Tạng đại Bồ Tát bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Con xem xét chúng sanh trong cõi Diêm Phù sanh tâm động niệm không chi là chẳng phải tội.
Nếu gặp những việc về pháp sự lợi lành phần nhiều thối thất tâm tốt ban đầu. Còn hoặc khi gặp duyên sự bạo ác chẳng lành lại lần lần thêm lớn: Những hạng người trên đó như kẻ mang đá nặng đi trong bùn lầy càng nặng thêm lần, càng khốn đốn thêm lần, chân đạp lún lút sâu.
Những người đó hoặc gặp hàng thiện tri thức đội giùm đá bớt cho, hoặc là đội giùm hết cả, vì hàng thiện tri thức đó có sức rất khỏe mạnh lại dìu đỡ người ấy khuyên gắng làm cho người ấy mạnh chơn lên. Nếu khi ra khỏi bùn lầy đến chỗ đất bằng phẳng rồi, thời cần phải xét nghĩ đến con đường hiểm xấu ấy, đừng có đi vào đó nữa.
Bạch đức Thế-Tôn! Những chúng sanh quen theo thói ác, bắt đầu từ mảy mún rồi lần đến nhiều vô lượng. Ðến khi những chúng sanh quen theo thói chẳng lành ấy sắp sửa mạng chung, thời cha mẹ cùng thân quyến vì người đó mà tu tạo phước lành để giúp tiền đồ cho người đó. Hoặc treo phan lọng và thắp đèn dầu, hoặc chuyển đọc Tôn Kinh (tức là Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện), hoặc cúng dường tượng Phật cùng hình tượng của các vị Thánh, cho đến niệm danh hiệu của Phật và Bồ Tát cùng Bích Chi Phật, làm cho một danh một hiệu thấu vào lỗ tai của người sắp mạng chung, hoặc là nơi bổn thức nghe biết.
Cứ theo nghiệp ác của người đó đã gây tạo, suy tính đến quả báo, thời đáng lẽ người đó phải bị đọa vào ác đạo, song nhờ thân quyến vì người đó mà tu nhơn duyên Thánh-đạo, cho nên các điều tội ác của người đó thảy đều tiêu sạch.
Như sau khi người đó đã chết, lại có thể trong bốn mươi chín ngày vì người ấy mà tu tạo nhiều phước lành, thời có thể làm cho người chết đó khỏi hẳn chốn ác đạo, được sanh lên cõi trời hoặc sanh trong loài người hưởng lấy nhiều sự rất vui sướng, mà kẻ thân quyến hiện tại đó cũng được vô lượng điều lợi ích.
Vì lẽ trên đó nên nay con đối trước đức Phật Thế-Tôn cùng với hàng Trời, Rồng, tám bộ chúng, người với phi nhơn v.v... mà có lời khuyên bảo những chúng sanh trong cõi Diêm-Phù-Ðề, ngày lâm chung kẻ thân thuộc phải cẩn thận chớ có giết hại và chớ gây tạo nghiệp duyên chẳng lành, cũng đừng tế lễ Quỉ, Thần, cầu cúng ma quái. Vì sao thế? Vì việc giết hại cho đến tế lễ đó, không có một mảy mún chi lợi ích cho người chết cả, chỉ có kết thêm tội duyên của người đó làm cho càng thêm sâu nặng hơn thôi.
Giả sử người chết đó hoặc là đời trước hay đời hiện tại vừa rồi, đã chứng đặng phần Thánh quả sẽ sanh vào cõi Trời, cõi người, nhưng bị vì lúc lâm chung hàng thân thuộc gây tạo những nghiệp nhơn không lành, cũng làm cho người chết đó mắc lấy ương lụy phải đối biện, chậm sanh vào chốn lành. Huống gì là người kia chết, lúc sanh tiền chưa từng làm được chút phước lành, đều theo ác nghiệp của họ đã gây tạo mà tự phải bị sa đọa vào ác đạo.
Hàng thân thuộc nỡ nào lại làm cho tội nghiệp của người ấy nặng thêm!
Cũng ví như, có người từ xứ xa đến, tuyệt lương thực đã ba ngày, đồ vật của người đó mang vác nặng hơn trăm cân, bỗng gặp kẻ lân cận lại gởi một ít đồ vật nữa, vì vậy mà người xứ xa đó càng phải khốn khổ nặng nề thêm.
Bạch đức Thế-Tôn! Con xem xét những chúng sanh trong cõi Diêm Phù Ðề, ở nơi trong giáo pháp của Phật, nếu có thể làm việc phước lành cho đến chừng bằng sợi lông, giọt nước, bằng một hột cát, một mảy bụi nhỏ, thời tất cả chúng sanh đó đều tự mình được lợi ích cả”.
2) Trưởng Giả Bạch Hỏi - Khi Ngài Ðịa-Tạng nói lời như thế xong, trong pháp hội có một vị Trưởng Giả tên là tên là Ðại Biện.
Ông Trưởng Giả từ lâu đã chứng quả vô sanh hiện thân Trưởng Giả để hóa độ chúng sanh trong mười phương, ông chắp tay cung kính mà thưa hỏi Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát rằng:
“Thưa Ðại Sĩ! Trong cõi Nam Diêm Phù Ðề có chúng sanh nào sau khi mạng chung, mà hàng quyến thuộc hoặc người lớn kẻ nhỏ, vì người chết đó mà tu các công đức, cho đến thiết trai cúng dường, làm những phước lành, thời người chết đó, có đặng lợi ích lớn cùng đặng giải thoát chăng?”
3) Kẻ Còn, Người Mất Ðều Ðược Lợi - Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát đáp rằng: “Này ông Trưởng Giả! Nay tôi vì tất cả chúng sanh trong hiện tại này cùng thuở vị lai sau, nương nơi oai thần của Ðức Phật mà nói lược về việc đó.
Này ông Trưởng Giả! Những chúng sanh ở hiện tại hay vị lai, lúc sắp mạng chung mà nghe đặng danh hiệu của một Ðức Phật, danh hiệu của một Bồ Tát hay danh hiệu của một Bích Chi Phật, thời không luận là có tội cùng không tội đều được giải thoát cả. Như có người nam cùng người nữ nào lúc sanh tiền không tu tạo phước lành mà lại gây lấy những tội ác, sau khi người mạng chung, hàng thân quyến kẻ lớn người nhỏ vì người chết mà tu tạo phước lợi làm tất cà việc về Thánh đạo, thời trong bảy phần công đức người chết nhờ đặng một phần, còn sáu phần công đức thuộc về người thân quyến hiện lo tu tạo đó.
Bởi vì cớ trên đây, nên những người thiện nam cùng thiện nữ ở hiện tại và vị lai, nghe lời nói vừa rồi đó nên cố gắng mà tu hành thời đặng hưởng trọn phần công đức. Con quỉ dữ vô thường kia không hẹn mà đến, thần hồn vơ vẩn mịt mờ chưa rõ là tội hay phước, trong bốn mươi chín ngày như ngây như điếc, hoặc ở các ty sở để biện luận về nghiệp quả, khi thẩm định xong thời cứ y theo nghiệp mà thọ lấy quả báo.
Trong lúc mà chưa biết chắc ra làm sao đó thời đã nghìn muôn sầu khổ, huống là phải bị đọa vào các ác đạo. Thần hồn người chết đó khi chưa được thọ sanh, ở trong bốn mươi chín ngày, luôn luôn trông ngóng hàng cốt nhục thân quyến tu tạo phước lành để cứu vớt cho. Qua khỏi bốn mươi chín ngày thời cứ theo nghiệp mà thọ lấy quả báo. Người chết đó, nếu là kẻ có tội thời trải qua trong nghìn năm không có ngày nào được thoát khỏi.
Còn nếu là kẻ phạm năm tội vô gián thời phải đọa vào đại địa ngục chịu mãi những sự đau khổ trong nghìn kiếp muôn kiếp.
Lại vầy nữa, này ông Trưởng Giả! Sau khi những chúng sanh gây phạm tội nghiệp như thế mạng chung, hàng cốt nhục thân quyến có làm chay để giúp thêm phước lành cho người chết đó. Thời khi sắm sửa chưa rồi, cùng trong lúc đương làm chớ có đem nước gạo, lá rau v.v... đổ vãi ra nơi đất, cho đến các thứ đồ ăn chưa dưng cúng cho Phật cùng Tăng thời chẳng được ăn.
Nếu như ăn trái phép và không được tinh sạch kỹ lưỡng, thời người chết đó trọn không được mảy phước nào cả.
Nếu có thể kỹ lưỡng giữ gìn tinh sạch đem dưng cúng cho Phật cùng Tăng, thời trong bảy phần công đức người chết hưởng được một phần.
Nầy ông Trưởng Giả! Vì thế nên những chúng sanh trong cõi Diêm Phù, sau khi cha mẹ hay người thân quyến chết, nếu có thể làm chay cúng dường, chí tâm cầu khẩn thời những người như thế, kẻ còn lẫn người mất đều đặng lợi ích cả”.
Lúc Ngài Ðịa-Tạng nói lời này, tại cung trời Ðao Lợi có số nghìn muôn ức na-do-tha Quỉ Thần cõi Diêm-Phù-Ðề, đều phát tâm Bồ-Ðề vô lượng. Ông Trưởng Giả Ðại-Biện vui mừng vâng lời dạy, làm lễ mà lui ra." (Hết trích).
Tùy điều kiện, gia đình bạn có thể tạo thiện nghiệp (như bản kinh Địa Tạng đã nói rõ) để hồi hướng công đức cho người bác. Với lòng tín sâu, nguyện thiết của gia đình, chắc chắn hương linh cụ sẽ được phần an lạc. Thân ái!
Trích Giáo Trình Phật Học :
VI
CHẾT & TÁI SINH
NỘI DUNG
1. Sự Khác Nhau Giữa Tái Sinh và Đầu Thai
2. Tái Sinh Diễn Ra Như Thế nào
3. Thức Kết Nối Lại hay Thức Tái Sinh.
4. Những Kiểu Chết
5. Những Đối Tượng Hiện Diện Trong Tâm Trước Lúc Chết
6. Năm Viễn Cảnh của Một Người Sắp Chết
7. Thức Đang Chết hay Thức Khi Chết
8. Những Kiểu (Tái) Sinh
9. Bốn Cõi Hiện Hữu hay Bốn Cảnh Giới Sống.
10. Sách & Tài Liệu Tham Khảo
1. Sự Khác Nhau Giữa Tái Sinh & Đầu Thai
Mọi tôn giáo đều tin rằng có sự sống sau khi chết, tức có kiếp sau của một ‘linh hồn’ thật sự. Học thuyết Phật giáo nên được phân biệt trong ý nghĩa ‘chuyển kiếp’ hay ‘đầu thai kiếp sau’ theo ý nghĩa có ‘linh hồn’ thường hằng dịch chuyển từ đời này qua đời khác, như là do Thượng Đế sắp đặt hoặc như là một linh hồn tối thượng hay một linh hồn phổ quát - đại ngã (Param-atma).
Phật giáo không tin vào bất kỳ dạng chuyển kiếp hay chuyển linh hồn nào. Không có gì thoát ra khỏi một thể xác và chui vào một thể xác khác. Mọi sự vật, hiện tượng đều diễn ra theo quy luật thuyết Duyên Khởi (Paticca Samuppada). Mọi sự vật xảy ra, xuất hiện hay tồn tại đều do những sự vật khác trước đó tạo điều kiện mà có, rồi đến khi chúng xuất hiện chúng lại là điều kiện để sinh ra những sự vật khác.
Trong học thuyết Duyên Khởi (Paticca Samuppada), Đức Phật đã giảng giải rằng Dục Vọng làm khởi sinh Dính Chấp, rồi do có Dính Chấp nên dẫn đến sự Trở Thành, hiện thành (hay là sự liên tục của quá trình sự sống bị tác động bởi Nghiệp) và cuối cùng dẫn đến sự Sinh ra. Dục Vọng của một người sắp chết hay đang chết cũng làm khởi sinh sự Dính Chấp và dẫn đến sự liên tục của quá trình sự sống là Trở Thành, Hiện Thành thông qua Nghiệp hay Nghiệp Hữu (Kammabhava), và cuối cùng tạo nên sự Sinh, mà ta hay gọi là Tái Sinh. Điều này tương đồng và trùng khớp với cách diễn tả của Diệu Đế Thứ Hai (Nguồn Gốc của sự Khổ) cho rằng chính Dục Vọng đã dẫn đến tạo thành một ‘thực thể’ sống hay một ‘con người’ mới được cấu tạo bằng năm Uẩn dính chấp chính là “Khổ”.
2. Sự Tái Sinh Diễn ra Như Thế nào
Bắt đầu từ khái niệm một ‘con người’, Đức Phật đã dạy rằng “mầm” móng của cuộc sống được “gieo trồng” chỉ khi nào có đủ 3 điều kiện: Mẹ và Cha hợp duyên, đây là giai đoạn có mẹ (trứng chín) và một ‘Thực Thể’ hay “một con người chuẩn bị được sinh ra” đã có mặt, đã ‘hiện thành’, đã chết ở đâu đó, hay vừa kết thúc sự sống ở đâu đó. Chứ không nên hiểu theo nghĩa là ‘một con người hay một linh hồn đang chờ trứng và tinh trùng giao phối và rồi ‘chui’ vào đó để đầu thai”. Yếu tố người Cha chỉ cung cấp cho chúng ta vật chất vệ tinh trong quá trình tái sinh. Nhưng điều này không có nghĩa mọi loài chúng sinh đều cần phải có yếu tố cha mới sinh ra được, bởi vì có nhiều loài được sinh ra một cách tự nhiên, tùy theo Nghiệp (Kamma).
“Chết”, theo đạo Phật, là một sự ngưng lại, sự chấm dứt của một đời sống “sinh-vật-lý” của một ‘cá thể’ chúng sinh. Sự chết diễn ra bằng việc chấm dứt giác quan sự sống (jivitindriya) hay còn gọi là mạng căn (HV), nhiệt và thức. Cái chết không phải là một sự hủy diệt hoàn toàn của một sự sống, mặc dù thời gian sống hay ‘mạng sống’ đã đến lúc chết, tuy nhiên nguồn lực đã “chạy” hay “duy trì” sự sống đó vẫn còn chứ không bị hủy diệt hay chấm dứt.
Khi cái “chết” đang xảy ra, một tiến trình Tâm mới được gọi là (tâm) Thức Tái Sinh (patisandhi citta, tiếng Anh: Rebirth Consciousness) được xúc tiến (duyên) bởi Nghiệp Tái Sinh (tiếng Anh: Reproductive Kamma) hay là Nghiệp Hữu (kamma-bhava), tức quá trình “Trở Thành”, cùng khởi sinh với 3 nhóm vật chất (sắc) do nghiệp tạo ra, cấu thành thân, giống và cơ sở tiếp xúc (chỗ dựa của Thức). Tất cả chúng làm điều kiện (duyên) làm khởi sinh những quá trình vật chất và tinh thần (danh và sắc) trong noãn trứng, bây giờ theo nghĩa truyền thống hay gọi là một ‘con người’ đã hiện diện trong bào thai. Thức Tái Sinh và 3 nhóm vật chất (sắc) do nghiệp tạo ra đó được gọi chung
là: “Con người sắp được sinh ra”. Danh từ này chỉ được dùng để diễn tả trong ngữ cảnh này khi không còn biết mượn danh từ khác xuất thế gian để giải thích tiến trình tâm và vật chất cấu tạo nên ‘thực thể’ sống này. Không nên hiểu lầm đó là một linh hồn thường hằng nào đó đang đợi chui vào bào thai hay tử cung để được tái sinh.
3. Thức Kết Nối Lại hay Thức Tái Sinh
Theo giáo lý về Duyên Khởi của Đức Phật, “thông qua tiến trình Trở Thành hay Nghiệp hữu (kamma-bhava), mà khởi sinh (duyên) cho Tái Sinh”. Để hiểu được vấn đề này một cách rõ ràng, chúng ta cần phải hiểu được rằng trong thực tại tuyệt đối, không có cái gọi là một ‘con người’ hay một ‘thực thể’ thường hằng nào đó, mà chỉ có tiến trình sinh lý vật lý hay danh sắc (nama-rupa). Ngay cả trong cuộc sống từ lúc khởi đầu cho đến khi chết, những quá trình danh sắc (nama-rupas) luôn khởi sinh và mất đi, sinh diệt liên tục và liên tục.
Cái chết là sự diệt Thức cuối cùng cùng lúc với sự tàn hoại của danh sắc (nama-rupa). Tái sinh lập tức xảy ra, khởi sinh một Thức mới, được gọi là Thức Kết Nối hay Thức Tái Sinh, cùng với (chỗ dựa) danh sắc (nama-rupa) mới. Nó được gọi là Thức kết nối lại bởi vì nó nối liền sự sống mới và cũ. Sự khởi sinh Thức Tái Sinh do duyên hay sự xúc tiến của Nghiệp cuối cùng trước khi chết. Nói cách khác, chính Nghiệp cuối cùng trước khi chết là nhân duyên làm khởi sinh Thức tái sinh.
Nếu Nghiệp (kamma) là nghiệp lành, thiện, thì sự tái sinh sẽ diễn ra ở cuộc sống hạnh phúc. Nếu Nghiệp là dữ, bất thiện, thì sự tái sinh sẽ diễn ra ở một cuộc sống đau khổ. Điều này chính là ý nghĩa khi Đức Phật nói: “Tất cả chúng sinh được sinh ra từ chính nghiệp của mình (Kammayoni)”.
▪ Một điều rất quan trọng để chúng ta lưu tâm rằng:
Không có một linh hồn nào rời khỏi thể xác và chui vào thể (a) xác mới.
─ Nếu không hiểu được điều này thì rất khó chấp nhận nó và thường bị dẫn đến một kiểu tin là có sự di chuyển linh hồn hay hồn đi đầu thai vào thân xác khác, mà trong nhiều phần khác chúng ta gọi là: Quan điểm sai lầm về một linh hồn bất tử.
Khi những Hành Động Tạo Nghiệp hay Nghiệp ((b) Kamma), (Xin nhắc lại, trong khái niệm này, hành động cố ý, hành động ý chí, hành động tạo nghiệp, Hành hay Nghiệp… đều diễn tả một nghĩa như nhau –ND), thì tùy thuộc vào & do Vô Minh và Dục vọng, chúng sinh chưa diệt sạch những ô nhiễm này sẽ tiếp tục tích lũy Nghiệp (Kamma) hay mang nghiệp (nghiệp hữu) và tiếp tục chịu tái sinh sau khi chết.
─ Nếu không hiểu điều này, thì khó mà tin nó và thường bị dẫn đến kiểu tin là sự sống bị hủy diệt hoàn toàn sau khi chết. Đó là quan điểm sai lạc về sự tự hủy diệt, không còn/là gì sau khi chết, mà những nhà duy vật hiện đại còn đang chấp thủ.
4. Những Kiểu Chết
Sự chết có thể xảy ra vì một trong 4 nguyên nhân sau đây:
Sự kiệt quệ hay hết cạn nguồn lực của (1) Nghiệp Tái Sinh ban đầu của kiếp sống hiện tại. (Nghiệp Tái Sinh này có từ lúc sinh, làm
khởi sinh sự sống hay tái sinh ra kiếp sống hiện tại. Không phải Nghiệp Tái Sinh cho sự sống tiếp theo sau khi cái chết của kiếp này -ND).
Sự (2) chấm hết chu kỳ sự sống, sự chấm dứt ‘mạng sống’, mạng chung.
Sự xảy ra đồng thời của 2 nguyên nhân trên, vừa hết nguồn lực (3) Nghiệp Tái Sinh và cũng vừa đến lúc kết thúc chu kỳ hay ‘vòng đời’ sự sống.
Tác động của một Nghiệp ((4) Kamma) mạnh hơn, bất ngờ cắt đứt nguồn lực của Thức Tái Sinh trước khi đến thời hạn kết thúc chu kỳ vay ‘vòng đời’ sự sống. Dân gian hay gọi là chết “bất đắc kỳ tử”, tức chưa đến chu kỳ hay mạng chung đã chết, thường là do nghiệp nặng hội đủ duyên.
Ba kiểu chết đầu tiên gọi là Chết đúng lúc hay Chết đúng mạng. Kiểu chết cuối cùng là Chết không đúng lúc, không đúng thời mạng.
Ví dụ như có một ngọn đèn, ngọn lửa bị tắt là do một trong 4 trường hợp sau đây:
Tim hết, (1)
Dầu cạn hết, (2)
Vừa dầu cạn vừa tim hết, và (3)
Lý do hay tác nhân khác hay không liên quan, như một ngọn gió (4) mạnh thổi tắt.
Tương tự vậy, cái chết của chúng sinh cũng có thể do một trong những lý do miêu tả ở trên.
5. Những Đối Tượng Hiện Diện Trong Tâm trước lúc Chết
Một người sắp chết thì sẽ đối diện với một Nghiệp (Kamma), một Biểu hiện Nghiệp hay Nghiệp tướng (Kamma Nimitta) hoặc Biểu hiện cảnh giới tái sinh (Gati Nimitta).
Nghiệp ở đây là hành động, nghiệp của người chết, dù nghiệp tốt hay xấu.
─ Nghiệp mạnh nhất như định nghĩa trước đây chính là Nghiệp Nặng. Nếu Nghiệp Nặng này không có, thì người sắp chết có thể hồi tưởng hay khởi ‘niệm’ hành động ngay trước ‘cổng’ chết, đó được gọi là Nghiệp Cận Tử hay Cận Tử Nghiệp.
─ Nếu những Cận Tử Nghiệp này cũng không có, thì Nghiệp Thói Quen hay nghiệp quán tính sẽ hiện diện đến người sắp chết, đó là những hành động hay làm, thường xuyên làm trong cuộc sống của người đó, chẳng hạn như nghiệp (thói quen) ăn cắp, đối với người sắp chết là một kẻ trộm, hay nghiệp (thói quen) chăm sóc người bệnh yếu trong trường hợp người sắp chết là một người nghành y tế…
Nhưng nếu cũng không có những loại Nghiệp Thói Quen cũng như các Nghiệp nặng, nhẹ khác kia, thì những Nghiệp dự trữ, còn mang từ nhiều (hay vô số) kiếp sống trước, được gọi là Nghiệp Tích Lũy sẽ trở thành đối tượng của suy nghĩ hay tâm Thức ngay lúc chết. Trong số những hành động (Hành) cần làm, thì những Phật tử tại gia thường được dạy phải nên làm trước lúc chết, đó là: Thực Hiện 10 Việc Làm (Hành) Công Đức, bao gồm:
─ Tụng niệm về Tam Bảo và về Ngũ Giới một cách thành tâm;
─ Hồi tưởng lại một chuyến hành hương về xứ Phật, đã đến những Phật tích, thánh tích để tăng trưởng lòng tin và lòng thành kính đối với Đức Phật, Pháp, Tăng;
─ Mở băng đĩa lắng nghe lại những bài giáo Pháp hoặc nghe Tăng Ni tụng niệm;
─ Hồi tưởng, niệm Công Đức của Tam Bảo, hồi tưởng, niệm lại những Công Đức hay lòng Độ Lượng, thiền quán về lòng Từ Bi hay Tứ Niệm Xứ (Satipatthana)…
Những hành động tốt lành như vậy sẽ tạo điều kiện làm khởi sinh những trạng thái Tâm lành, thiện để quyết định cái (tiến trình) Nghiệp cuối cùng trước khi chết và dẫn dắt tái sinh đến cảnh giới nhiều phúc lành, hiền nhiều, dữ ít.
Cái chết đến bất kỳ lúc nào, mỗi người nên làm những nghiệp tốt, chuẩn bị tinh thần lành, thiện, để lúc đi xa, hành trang vẫn gồm nhiều Thức tốt đẹp để vượt qua những cuộc hành trình dài, vô định trong những kiếp tương lai.
▪ Kamma Nimitta, Biểu Hiện Nghiệp, là tâm cảnh, âm thanh, mùi hương, mùi vị, xúc chạm hay ý tưởng một người thu nhận được vào lúc “kết” nghiệp (Kamma). Chẳng hạn đó là những con dao trong trường hợp người sắp chết là một người hàng thịt; là những bệnh nhân trong trường hợp người sắp chết là bác sĩ; là một biểu hiện hay biểu tượng để thành kính như hình, tượng Phật, Cây Bồ-Đề, hay là một ký ức hạnh phúc trong một chuyến đi hành hương ở Ấn Độ của người sắp chết…trong những trường hợp người sắp chết là một Phật tử kính đạo; ….
▪ Gati Nimitta, Biểu Hiện Cảnh giới Tái sinh, là những dấu hiệu, biểu hiện về một nơi nào đó mà sự tái sinh đang có khuynh hướng xảy ra ở đó; hoặc là biểu hiện một sự kiện xảy ra có một không hai,
chấn động, không bao giờ quên được trong đời của một người sắp chết điều đó sẽ chi phối và dẫn đến cõi tái sinh nào đó.
Nếu những dấu hiệu chỉ dẫn về sự tái sinh, như nói trên, là xấu, là dữ, nhưng người sắp chết có thể chuyển thành lành, tốt bằng (cách thay thế) những suy nghĩ trước lúc chết, như vậy những suy nghĩ lành, tốt bây giờ sẽ đóng vai trò như nghiệp Cận Tử Nghiệp và ảnh hưởng, tác động ra loại Nghiệp Tái Sinh để làm duyên lành (điều kiện tốt) cho Tái Sinh.
Những biểu hiện, biểu tượng về nơi đến hay ‘vận mệnh’ của một người lúc sắp chết có thể là những ngọn lửa địa ngục, những vùng núi non, dạ con trong bụng mẹ, thiên cung trên cõi trời…
6. Năm Viễn Cảnh Của Một Người Sắp Chết
Theo Đại trưởng lão tiến Sĩ Rastrapal Mahathera, 5 viễn cảnh của một người đang chết thường là:
1) Lửa địa ngục, thường đối với những người thường bị sinh về cảnh giới địa ngục.
2) Thú vật và rừng núi, thường đối với những người bị tái sinh thành súc sanh.
3) Màn tối, thường đối với những người tái sinh thành ngạ quỷ (hay ‘hồn’ ma).
4) Những cha, mẹ và người thân quyến thuộc đã qua đời, thường đối với những người được tái sinh làm người.
5) Thiên cung, nhà cửa hay xe ngựa trên cõi trời, thường đối với những người được sinh về cõi trời để hưởng phúc.
Chuyện kể bên Tàu về người sắp chết nói rằng người nghe được tiếng dây xích hoặc thấy viễn cảnh những hộ vệ của Vua Yama (Diêm Ma Vương) với đầu trâu mặt ngựa gớm ghiếc mang xiềng xích đến để lôi người ấy về địa ngục để phân xử.
Gati-nimitta (Biểu hiện về nơi tái sinh) luôn luôn là những biểu hiện, dấu hiệu vật lý được hiện lên ở “cửa-Tâm” như là một giấc mơ vậy.
Về mặt tâm lý học, những giai đoạn hay viễn cảnh này của Tâm có thể được gọi là ảo ảnh (illusion), ảo tưởng (hallucination) hay ảo giác đánh lừa (delusion). Vì vậy, những người có Tâm minh mẫn và không bị hoang mang vào lúc sắp chết có thể không hiện trong tâm hay thấy gì về một viễn cảnh của nơi sắp tái sinh về.
Những bạn đọc muốn tìm hiểu thêm về những viễn cảnh trên giường chết, nên tìm đọc quyển sách của Đại trưởng lão Tiến Sĩ Rastrapal Mahathera (Sách &Tài Liệu Tham Khảo, Số 3.) trong đó tác giả đã kể lại kinh nghiệm cá nhân của một cư sĩ trong lúc hấp hối thấy được nhiều viễn cảnh trên và những cách thức trưởng lão đã giúp làm dịu những nỗi sợ của người hấp hối để dẫn đến trạng thái tâm có thể dẫn đến tái sinh vào một cõi tốt lành.
7. Thức Hấp Hối, Thức Lúc Đang Chết
Thử lấy đối tượng là một hành động, một nghiệp (kamma) hoặc là một Biểu Hiện của Nghiệp (kamma nimitta) hoặc là Biểu Hiện, dấu hiệu của Nơi sẽ Tái Sinh đến (gati nimitta), thì Thức chạy dọc theo một tiến trình (course) của nó, thậm chí ngay cả khi cái chết xảy ra trong một tức thì, trong một cái ‘tích’-chưa-đến-‘tắc’.
Theo “Vi Diệu Pháp” (Abhidhamma), một tiến trình tư duy, ý nghĩ bình thường chạy trong 17 khoảng-khắc-nghĩ hay còn gọi là 17 sát-na Tâm (citta), trong đó tiến trình Javana3 kéo dài 7 sát-na tâm. Giai đoạn Javana này là quan trọng nhất, đứng về mặt đạo đức, cho việc tái sinh của một người. Đến giai đoạn tâm lý này những gì xấu hay tốt, lành hay dữ, thì thật sự đã làm xong rồi: Nghiệp (kamma) đã được thi hành!.
Những luận sư nói rằng trong một giai đoạn, khoảng khắc ngắn ngủi này, giống như ánh chớp của một tia chớp bằng tốc độ ánh sáng, vẫn có hàng tỷ sát-na Tâm (cittas). Trong tiến trình tư duy trước khi chết, thì tiến trình Javana là rất yếu ớt và chỉ chạy trong vòng 5 sát-na Tâm. Nhưng tiến trình Javana này lại là quan trọng nhất vì nó quyết định Nghiệp Tái Sinh (reproductive kamma) cho kiếp sống tiếp theo. Sau đó thì Thức đăng nhập hay đăng ký (registering consciousness) nhận diện đối tượng có thể theo hoặc không theo. Cuối cùng, Thức Lâm Chung hay Thức Tử Mạng (cuti-citta), là tâm thức cuối cùng được biết đến của kiếp sống hiện tại (trước khi tái sinh qua kiếp sống tiếp theo).
“Ngay khi chết, Thức cuối cùng (Thức tử mạng) biến mất, làm điều kiện, làm khởi sinh cho một Thức mới xuất hiện, đó là Thức Tái Sinh (Patisandhi) trong một thể xác hay một dạng sinh hài mới. Rồi
3 Từ này đã từng được dịch là “khoảnh khắc thúc đẩy” hoặc “khoảnh khắc tốc hành” (theo dịch giả Nguyễn Văn Ngân dịch “Đạo Vô Ngại Giải” từ tiếng Anh sang tiếng Việt).
Cũng như C. A. F. Rhys Davids, Bhikkhu Bodhi đề nghị để nguyên chữ javana không dịch. Đây là một thuật ngữ thuộc “Vi Diệu Pháp” cao học. Xin bạn đọc tìm đọc về đề tài này theo bản dịch từ tiếng Pali qua tiếng Anh của Ngài Bhikkhu Bodhi (“A Comprehensive Manual of Abhidhamma”, BPS, [Kandy 1993] đoạn (12) trang 124, chú thích 8, 9 trang 372, trang 389. Chữ ‘tiến trình’ (vīthi: nđ ‘lộ trình’) được dịch theo Bhikkhu Bodhi, sđd, đ. 4 trang 151). Dịch giả Nguyễn Văn Ngân dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt “Đạo Vô Ngại Giải”).
đến lượt Thức mới (Thức Tái Sinh) cũng lập tức biến mất, liên tục, liên tục, như một dòng chảy không gián đoạn, như dòng sông vậy, (liên tục chảy, nhưng đó là những giọt nước mới (Thức mới) liên tục đến rồi chảy qua, chứ không có một giọt nước nào đến rồi đứng yên không chảy đi –ND). Dòng chảy mới của sự sống này mang theo tất cả kinh nghiệm của quá khứ. Dòng chảy mới hay sự sống mới này không phải tuyệt đối giống hệt trong quá khứ, vì sự sống trong quá khứ bao gồm những thành phần cấu tạo khác, mà cũng không hoàn toàn khác nhau, mà chỉ có chung một dòng Nghiệp lực.
Sự biến điệu, sự gián đoạn hay chuyển đổi giữa các Thức trong dòng chảy này là cực kỳ ‘chớp nhoáng’ nhanh hơn điện chớp mà ta thường gọi là một sát-na Tâm hay sát-na Thức, một khoảng khắc thời gian cực nhỏ, không có chỗ cho bất cứ cái gì xen vào giữa.
(Bạn có thể hình dung thời gian giữa khi 2 điểm sát nhau trên một bánh xe đang quay nhanh tiếp xúc mặt đất vậy, theo lý thuyết vật lý học. Mặc dù điều đó là cực kỳ ‘dài’ hơn cái khoảng cách của tiến trình tâm của 2 Thức sinh diệt, nhưng chúng ta còn không hình dung ra được có bất cứ đơn vị thời gian hay hiện tượng nào có thể xảy ra giữa 2 điểm tiếp xúc đó – ND).
Đó được gọi là trạng thái chuyển tiếp hay trung gian hay còn gọi là trung hữu (antara-bhava). Theo bộ “Những Điểm Dị Biệt” (Kathavatthu) của Vi Diệu Pháp Tạng, có một số trường phái Phật giáo, như Pubbaseliya (Đông Sơn Trụ Bộ) và Sammatiya (Chánh Lượng Bộ) cho rằng có một giai đoạn tạm thời để chờ thọ thai (đầu thai lại, re-conception) mất một tuần hay nhiều hơn. Lập luận ngược lại dựa vào lời tuyên thuyết của Đức Phật là chỉ có 3 giai đoạn “Trở Thành” (tức là giai đoạn Trở thành, hiện thành hay còn gọi là Hữu (bhava) trong vòng duyên khởi) – đó là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Cho nên, những người theo Phật giáo không tin rằng có ‘linh hồn’ của một người chết chiếm chỗ
trong giai đoạn chuyển tiếp nào đó đến khi tìm thấy được một nơi thích hợp hay tử cung để đầu thai vào. Sự Tái Sinh diễn ra ngay lập tức và không có sự khác biệt nhau về mặt thời gian dù ‘người đó’ tái sinh về cảnh giới phúc lành trên trời hay người. Cái thật sự thúc đẩy, duyên sinh cho sự Tái Sinh không phải là Thức Tử Mạng (cuti-citta), nhưng chính là tiến trình tâm thức Javana như đã diễn tả ở trên. Nếu tiến trình Javana là tốt lành, thì tái sinh sẽ diễn ra ở một cảnh giới phúc lành; nếu nó không tốt không lành, thì tái sinh sẽ diễn ra ở một cảnh giới đau khổ, đày đọa.
Sau khi hiểu được điều này và hiểu được sự thật là cái chết có thể đến bất cứ lúc nào trong đời, thì chúng ta luôn luôn chú tâm và thực hành nhiều điều tốt lành và khéo léo để có thể đối diện với lúc lâm chung trước khi quá muộn màng
8. Những Kiểu Sinh
Có 4 kiểu sinh (tái sinh), đó là:
Sinh từ trứng (a) (noãn sinh), như loài chim, bò sát và cá.
Sinh từ dạ con (b) (thai sinh), như người, động vật có vú và một số địa thân trên trái đất.
Sinh từ độ ẩm, nơi ẩm ướt (c) (thấp sinh), như một số loài côn trùng lấy độ ẩm, nơi ẩm ướt làm sinh sôi.
Sinh do tự phát (d) (tự nhiên sinh), đó là những chúng sinh ‘khuất mắt’, mắt thường của người không thể nhìn thấy được. Do duyên từ nghiệp trong quá khứ, họ xuất hiện bất ngờ, không tùy thuộc vào cha, mẹ gì cả. Trời Phạm Thiên (Brahmas), thiên thần (devas), ngạ quỷ (petas), quỷ thần hay A-tu-la (asuras) và những chúng sinh trong địa ngục đều thuộc nhóm này
Có 9 nhóm vật chất (sắc) được tạo ra bởi Nghiệp (Kamma), đó là: Căn hay chỗ dựa của Thức, nguồn gốc căn bản của sự sống, giống đực, giống cái và 5 cơ sở vật chất là mắt, tai, mũi, lưỡi và thân. 9 nhóm vật chất này phát triển đầy đủ trong những loài chúng sinh thuộc nhóm tự nhiên sinh. Vì thế, loài chúng sinh tự nhiên hay sinh tự phát không cần có cha mẹ để dễ cung cấp nhanh lớp vật chất hay những tế bào cho sự tái sinh của chúng sinh đó.
9. Bốn Cảnh Giới
Có 4 cảnh giới hay 4 cõi sống:
a) Cảnh Dục Giới nhiều Đau Khổ (apaya/ kamaduggati bhumi)
b) Cảnh Dục Giới nhiều Phúc Lành (kamasugati bhumi).
c) Cảnh Sắc Giới (rupa bhumi).
d) Cảnh Vô Sắc Giới (arupa bhumi).
a) Trong Cảnh Dục Giới nhiều đau khổ, có 4 cảnh giới, đó là:
Địa ngục (niraya),
Súc sinh hay thú giới,
Ngạ quỷ hay ‘ma’ giới (peta), và
Quỷ thần hay A-tu-la (asuras).
Sự tái sinh vào những cảnh giới này là do nghiệp tái sinh không lành, dữ, bất thiện, đóng vai trò quyết định ngay lúc chết.
b) Trong 7 cảnh giới nhiều phúc lành bao gồm cõi người và 6 cõi trời, thì sự tái sinh vào cõi người hay thiên thần là do tác động của nghiệp tái sinh thiện (cao hơn). Tuy nhiên nếu cùng tái sinh làm
người mà bị câm, điếc, đui, què, tật nguyền, hoặc tái sinh thành quỷ thần A-tu-la thuộc cõi hạ giới của Tứ Đại Thiên Vương, thì những sự tái sinh đó là do tác động thúc đẩy của Nghiệp tái sinh tiểu thiện (thấp hơn).
(Xem thêm Chương XI, Những loại Nghiệp Thiện).
c) Trong cảnh Sắc Giới (rupa bhumi), sự tái sinh vào 1 trong 16 cảnh giới của những vị trời Phạm Thiên (Brahma) là nhờ vào sự chứng đạt Tầng Thiền Sắc Giới (rupa jhana) của một người.
d) Trong cảnh Vô Sắc Giới (arupa bhumi), sự tái sinh vào trong 4 cảnh Vô Sắc Giới của những vị trời Phạm Thiên là nhờ vào sự chứng đạt Tầng Thiền Vô Sắc Giới (arupa jhana) của một người.
Tóm lại, 4 Cảnh Giới Tái Sinh • chính bao gồm tất cả 31 cảnh giới hiện hữu hay cõi sống. Toàn bộ các cảnh giới này được trình bày một cách chi tiết ở trong Chương tiếp theo.
10. Sách & Tài Liệu Tham Khảo
1) “The Buddhist Doctrine of Kamma and Rebirth” (Học Thuyết Phật giáo về Nghiệp và Tái Sinh), tác giả Đại trưởng lão Narada Maha Thera.
2) “A discourse on Paticca Samuppada” (Bài Thuyết Giảng về Lý Duyên Khởi), tác giả Thiền Sư Mahasi Sayadaw, Miến Điện.
3) “Five Visions of a Dying Man” (Năm Viễn Cảnh của Người Sắp Chết), tác giả Đại trưởng lão Rastrapal Mahathera, Nxb. Bodhi Leaves, No. 150, ấn bản năm 2000 của Hội Ấn Hành Phật Giáo (Buddhist Publication Society), Kandy, Sri Lanka.
4) “Points of Controversy”– (Bản Dịch “Những Điểm Dị Biệt” – “Katha-Vatthu”) của Shwe Zan Aung và bà Rhys Davids. Xuất bản bởi Hội Kinh Điển Pali (PTS), London, 1979.
Giáo Trình Phật Học:
http://www.mediafire.com/?zthabk8p1ab2887
theo mình được biết thì thầy thích minh châu đã chứng minh được là khi đức Phật còn tại thế chỉ thuyết ra 5 cõi...khi còn ở Ấn Độ...thầy đã bảo vệ thành công đề tài này...đó là : ngạ quỷ, súc sanh, người, atula, trời...không có cõi địa ngục...sau khi đức phật nhập diệt vài trăm năm thì đạo Phật đã vay mượn hình ảnh của địa ngục và các hình phạt để răn đe con người...theo mình biết là như vậy...mong các huynh đóng góp thêm...
caca California quay trở lại gòi ^_^
Cõi quỷ thần tức là cái cõi mà ng ta thường gọi nôm na là cõi Âm.
Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát
. . . . . . . . . . . . .
Tiểu muội xin được mạn phép có đôi lời. Muội từng đọc trong một quyển sách kinh mà đức Phật Thích Ca khuyên nên tụng bộ kinh Địa Tạng có nói thế này " Biển Địa Ngục không ở đâu xa, mà ở ngay chính trong tâm tưởng chúng ta... "
Khi ta tỉnh giấc khỏi cơn đại mộng ( nghĩa là đã lìa bỏ cõi trần ) thì lúc đó trước mặt chúng ta sẽ xuất hiện một Biển lớn, Biển này do nghiệp của chúng ta chiêu cảm mà đến. Người luôn làm điều phước thiện thì sẽ thấy được những cảnh tươi đẹp như núi Côn Luân hay cảnh tiên giới. Còn người tạo nghiệp ác nhiều thì sẽ chiêu cảm đến những cảnh ghê rợn như Địa Ngục và tùy theo nghiệp nặng nhẹ mà ta sẽ đến những biển địa ngục khác nhau. . .
Thật sự thì nguyên văn lời Đức Phật đã thuyết pháp muội không nhớ lắm, chỉ có thể nói đại ý trong lời dạy của Người cho các sư huynh, sư tỷ, sư muội cũng như sư đệ đồng đạo nghe. Hy vọng có thể giải đáp được ít nhiều thắc mắc của mọi người. và muội cũng cảm ơn Topic rất có ý nghĩa, đã lý giải được nhiều khúc mắc của muội. . . .
Kính chư đồng đạo!
hình như người chết bên trung hoa, khi xuống địa ngục trước khi đi đầu thai sẽ được húp canh mệnh bà.
còn người việt nam ta, khi chết xuống địa ngục trước khi đi đầu thai sẽ được ăn tô cháo lú.
cháo với canh dù muốn dù không trước khi đi đầu thai cũng phải dùng một trong 2 món đặc sản địa ngục này. miễn bàn luận:whew:
- Nam mô Phật Tổ bốn phương. Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát, Phật Tổ Như Lai.
Thời Đức Phật còn tại thế thì làm gì có Nam với Bắc. Mọi người cứ nương theo Pháp Tứ Y của Đức Phật mà đi theo trí tuệ của mình.
Chúc mọi người luôn tinh tấn theo Chánh Pháp
Namo Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Namo Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Namo Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
thật ý nghĩ làm sao , Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật !!!!
chào các thiện hửu,xin các bạn đừng nhận xét chạy lòng vòng các bạn cứ nhìn ở trần gian nầy thì rỏ địa ngục ngay trước mắt mình đó,đánh người trộm cướp giết người phản tổ quốc làm hại nhân loại,đủ các tội điều phải trả quả, là vào tù, chung thân, tử hình ,gông cùm, xích ,trói ,khảo tra ,dí điện, nhốt không thấy mặt trời,khổ sai,vv.ở trần gian lắm cảnh ngục như hiện hửu chúng ta đang chứng kiến ,có người bảo dịa ngục ở dưới lòng đất ,hoặc ở dưới lòng biển,không có đâu các bạn,ta sẻ nói cho các bạn rỏ một điều quả địa cầu của chúng ta đang sống nó có lực hút rất mạnh vì nó có hình tròn và nó chịu một lực hút có liên quan trực tiếp với các hành tinh lân cận cho nên nó chịu một lực xoay cho nên quả địa cầu ta đang sống nó đang quay với một tốc độ nhứt định,nói ví dụ ta xoay một trái banh to,mà trên trái banh đó ta thả một đàng kiến trên đó thì có phải lúc nào nó thấy trái banh là ở dưới,còn ngoài không gian là ở trên,có phải không à,?trái banh đó là quả địa cầu mà chúng ta đang sống,chúng ta thì ví dụ như đàng kiến trên quả banh,như vậy ta thường nói trên mây xanh là trời trong lòng đất thì dưới,như vậy khi quả dịa cầu nó xoay nhiều lúc ta đi chổng ngược đầu xuống thì ta củng đâu có biết lúc nào là trên mà lúc nào là dưới đó thấy không,ở bầu khí quyển bao la kia mà ta cho là ở trên trời đó nhiều lúc nó củng ở dưới chúng ta,làm sao mà ta cho nó là trời,vì thế ta noi ĐỊA ngục là cỏi vô hình nó ở rất gần chúng ta,vì sao gọi là địa ngục ta lấy một ly nước có nhiều cặn bả ta quậy lên rồi cái gì nặng thì nó lắng xuống cái gì nhẹ thì nó ở trên nếu thật nhẹ như hơi nước thì nó sẻ bay hơi lên luôn,,căn cứ vào đó cho nên hảy người nghiệp nặng thì tự nó chìm xuống,nghiêp nhẹ thì nó ở trên nhẹ nửa thì lên trên luôn gọi là lên cỏi phật,địa là dưới thiên là trên cao,có thế thôi,cho nên kết luận của tôi là địa ngục ở ngay nơi chúng ta đang sống nhưng vì duyên nghiệp cản trở ta cho nên không thể dùng bằng mắt phàm phu của ta mà thấy được,nó chỉ cách chúng ta như bàn tay lật qua phải lật qua trái thế thôi,bài viết trên rất có tác dụng cho nên chúng ta làm bất cứ chuyện gì dù trong bóng tối củng đừng tưởng không ai biết,,đi đứng nằm ngồi điều có thể tạo nghiệp,cho nên ta luôn luôn sám hối cố tránh nhửng chuyện làm sai trái thì tâm hồn ta thư thái giấc ngủ ta bình an thì địa ngục sẻ bị phá tan THÔI TÔI NHIỀU CHUYỆN QUÁ LÀM PHIỀN CÁC BẠN XIN HOAN HỈ ,A DI ĐA PHẬT
Trên lời nói có địa ngục, trên đường đi có địa ngục..kinh Địa Tạng.....