Miếng trầu là đầu câu chuyện
Miếng trầu là đầu câu chuyện
Có lẽ cách đây một khoảng thời gian, chúng ta thường bắt gặp hình ảnh những cụ bà ngồi bên thềm nhà têm trầu, quét vôi; những cụ bà ấy gặp nhau thì mời nhau một miếng trầu cho câu chuyện về con cái, nhà cửa làng xóm thêm phần đậm đà. Hình ảnh trầu cau đã đi vào văn hóa Việt Nam như một cái gì đó rất gần gũi, thân quen..Thế nhưng ngày nay, hình ảnh ấy có lẽ hiếm hoi như lá mùa thu vậy. Tuy nhiên, trầu cau vẫn là một lễ vật không thể thiếu trong những đám cưới, đám hỏi của người Việt Nam nói chung và dân tộc Kinh nói riêng.
Theo phong tục Việt nam, miếng trầu tuy rẻ tiền nhưng chứa đựng nhiều tình cảm ý nghĩa, giàu nghèo ai cũng có thể có, vùng nào cũng có. Miếng trầu đi đôi với lời chào, người lịch sự không ăn trầu cách mặt nghĩa là đã tiếp thì tiếp cho khắp:
Tiện đây ăn một miếng trầu
Hỏi rằng quê quán ở đâu chăng là
"Đầu trò tiếp khách" là trầu, ngày xưa ai mà chẳng có, hoạ chăng riêng Tú Xương mới
Bác đến chơi nhà ta với ta
Quí nhau mời trầu, ghét nhau theo phép lịch sự cũng mời nhau ăn trầu nhưng "cau sáu ra thành mười".
Đặc biệt "trầu là đầu câu chuyện" giao duyên giữa đôi trai gái:
Lân la điếu thuốc miếng trầu, đường ăn ở dễ chiều lòng bạn lứa
Trầu vàng nhá lẫn trầu xanh
Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời.
Mời trầu không ăn thì trách móc nhau:
Đi đâu cho đổ mồ hôi
Chiếu trải không ngồi trầu để không ăn.
Thưa rằng bác mẹ tôi răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu người.
Khi đã quen hơi bén tiếng, trai gái cũng mượn miếng trầu để tỏ tình, nhất là các chàng trai nhờ miếng trầu mà tán tỉnh:
Từ ngày ăn phải miếng trầu
Miệng ăn môi đỏ dạ sầu đăm chiêu.
Một thương, hai nhớ, ba sầu
Cơm ăn chẳng được, ăn trầu cầm hơi.
"Có trầu, có vỏ, không vôi" thì môi không thể nào đỏ được, chẳng khác gì "có chăn, có chiếu không người năm chung".
Cho anh một miếng trầu vàng
Mai sau anh trả cho nàng đôi mâm.
Yêu nhau chẳng lấy được nhau
Con lợn bỏ đói, buồng cau bỏ già.
Miếng trầu không đắt đỏ gì "ba đồng một mớ trầu cay" nhưng "miếng trầu nên dâu nhà người".
Ngày nay để răng trắng nhiều người không biết ăn trầu nữa, nhất là ở thành phố, nhưng theo tục lệ nhà ai có con gái gả chồng, sau khi ăn hỏi xong cũng đem cau trầu cau biếu hàng xóm và bà con nội ngoại. Vì miếng trầu là tục lệ, là tình cảm nên ăn được hay không cũng chẳng ai chối từ
Thời xưa, ăn trầu còn sợ bị bỏ "bùa mê", "bùa yêu" nên người ta có thói quen:
Ăn trầu thì mở trầu ra
Một là thuốc độc hai là mặn vôi.
Các cụ càng già càng nghiện trầu, nhưng không còn răng nên "đi đâu chỉ những cối cùng chày" (Nguyễn Khuyến). Cối chày giã trầu làm bằng đồng, chỉ bỏ vừa miếng cau, miếng trầu, miếng vỏ nhưng trạm trổ rất công phu, ngày nay không còn thấy có trên thị trường nên các cụ quá phải nhở con cháu nhá hộ.
Vì trầu cau là "đầu trò tiếp khách" lại là biểu tượng cho sự tôn kính, phổ biến dùng trong các lễ tế thần, tế gia tiên, lễ tang, lễ cưới, lễ thọ, lễ mừng... Nên têm trầu cũng đòi hỏi phải có mỹ thuật, nhất là lễ cưới có trầu têm cánh phượng có cau vỏ trổ hoa, "cau già dao sắc" thì ngon. Bày trầu trên đĩa, hạt cau phải sóng hàng, trầu vào giữa, điaz trầu bày 5 miếng hoặc 10 miếng, khi đưa mời khách phải bưng hai tay. Tế gia tiên thì trầu têm, còn tế lễ thiên thần thì phải 3 là trầu phết một tí vôi trên ngọn lá và 3 quả cau để nguyên .
Theo Phong tục Việt Nam
HELLBOY (st).
Miếng trầu trong tình yêu của người Cor
Miếng trầu trong tình yêu của người Cor
Hiện nay có hơn 22.000 người Cor đang sinh sống tập trung ở huyện Trà Bồng (Quảng Ngãi), một số ít ở Sơn Hà (Quảng Ngãi) và một phần ở huyện Trà My (Quảng Nam). Người Cor có mặt trên vùng đất này khá sớm. Vì vậy, họ rất tự hào về nguồn gốc, truyền thống tổ tiên của mình. Đồng bào sống gắn bó với làng (nóc), với núi rừng và ra sức giữ gìn phong tục tập quán của cha ông để lại. Mọi người sống hòa mình trong phong tục tập quán và tuân thủ những tục lệ của tổ tiên, tạo thành nếp sống văn hóa riêng của tộc người. Trong số những nếp văn hóa tốt đẹp đó, thì quan niệm về tình yêu và hôn nhân được người Cor đặt ra hết sức nghiêm túc, vừa nhân tình nhưng cũng vừa nguyên tắc và đi kèm với nó, có một phong tục rất hay, rất văn hóa, đó là miếng trầu.
Tục lệ trao trầu cau là một trong những nghi lễ không thể bỏ qua trong việc biểu lộ tình yêu của thanh niên nam nữ Cor. Đó cũng là một trong những lệ làng được quy định trước khi đôi trai gái tiến đến hôn nhân. Ngay từ khi mới lên năm, đứa trẻ đã được cha mẹ, già làng giáo dục, truyền đạt những kinh nghiệm, tập quán của làng, trong đó có những chuẩn mực về quan hệ nam nữ. Đến tuổi thanh thiếu niên, họ được giáo huấn những chuẩn mực về quan hệ tình yêu trong sáng. Và đối với người Cor, khi bước vào tuổi trưởng thành, con trai, con gái được tự do trong tình yêu đôi lứa. Họ biết nhau rồi quen nhau nhờ các buổi làm nương rẫy hay những lần gặp nhau trong dịp lễ hội của làng. Nét đẹp của người bạn đời theo quan niệm của nam nữ thanh niên Cor là những gì gần gũi, thiết thực. Đẹp là phải biết lao động, biết lo việc gia đình. Người con trai đẹp là phải khỏe mạnh, biết săn bắn, lo toan công việc, cần cù làm ăn, gắn bó với núi rừng. Người con gái đẹp là phải biết làm rẫy giỏi, biết chăm lo việc gia đình, biết ứng xử tốt với nhà chồng. Và miếng trầu đã làm môi giới cho tình yêu của họ.
Khi đôi nam nữ đã tìm được nét đồng cảm trong tình cảm riêng tư, họ càng hiểu nhau hơn qua những lần trao nhau miếng trầu quả cau. Quả cau róc vỏ, bổ đôi, lá trầu xanh róc đôi, quệt vôi têm thành từng miếng, được gói cẩn thận trong mảnh vải vuông, luôn đi theo các chàng trai trong những lần trò chuyện, trao duyên cùng bạn gái. Miếng trầu như là một phương tiện mở đầu, là chất keo cố kết những tình cảm thiêng liêng, thầm kín mà cả đôi bên không thể nói bằng lời. Miếng trầu quả cau sẽ là "người mối" nói hộ tình yêu cho họ. Vì lẽ đó mà tục lệ trao trầu của đồng bào Cor trong giai đoạn tìm hiểu tình yêu là rất quan trọng, được hầu hết thanh niên hưởng ứng. Cử chỉ trao trầu cau của đôi nam nữ không giống bất cứ cách trao trầu cau nào trong ngày thường. Sau những lần gặp gỡ trò chuyện qua lại, rồi sẽ có một ngày, người con trai đưa bàn tay phải của mình ra, người con gái sẽ lồng những ngón của bàn tay trái mình vào bàn tay của chàng trai. Sau đó, người con trai sẽ đặt lên mặt sấp của đôi bàn tay lồng chéo nhau của hai người những miếng trầu cau đã têm sẵn. Đây là hình ảnh mở đầu cũng là kỷ niệm đầu tiên của mối tình. Khi người con gái nhận những miếng trầu cau trao theo cử chỉ đó nghĩa là đồng ý để người con trai tìm hiểu mình. Những lần gặp nhau về sau, đôi trai gái vẫn mời nhau ăn trầu theo cử chỉ trên. Nếu người con gái vì lý do nào đó không chấp nhận làm quen hay không đồng ý tiếp tục làm quen với người con trai đó nữa thì họ sẽ không nhận trầu cau theo lối mời đó. Sau những lần ăn trầu, tìm hiểu cặn kẽ, họ mới báo cho hai bên cha mẹ biết để xét thủ tục đi đến hôn nhân.
Giới hạn trong quan hệ lứa đôi theo quan niệm của người Cor chỉ dừng lại ở mức độ trao trầu cau, đó cũng là một chuẩn mực mà xã hội cho phép. Trường hợp đôi trai gái nào vượt khỏi giới hạn này sẽ bị xử phạt tùy theo mức độ nặng nhẹ và luật tục của cộng đồng đã quy định. Nếu quan hệ bất chính phải chịu tội với tổ tiên và nộp phạt rất nặng. Nặng hơn nữa là sẽ bị dư luận lên án và cũng có thể bị đuổi ra khỏi cộng đồng (làng).
Mặc dù ngày nay, con người đã tiến xa hơn trong nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội - văn hóa, nhưng đây là một phong tục đẹp, thể hiện bản sắc riêng của cộng đồng Cor. Nó là nét mộc mạc, hồn nhiên, nhưng đã thể hiện đầy đủ tính văn hóa, tính xã hội, ý thức cộng đồng.
(Theo Trần Thị Phượng)
HELLBOY
Luật tục nuôi dạy con (dân tộc Gia Rai)
Luật tục nuôi dạy con (dân tộc Gia Rai)
Xưa nam nữ đến tuổi thành niên phải cưa răng hàm trên. Khi cưa không cần phải làm lễ nghi phiền phức. ông già pơ oa tkơi (ông cưa răng) dùng đá hay liềm gặt lúa cưa cho đứt răng, sau đó cầm máu bằng một thứ lá thuốc, mam nữ một, hai tuổi thường được xâu tai. Nữ giới thì lấy lõi bấc căng dần cho rộng lỗ xâu để khi trưởng thành đeo hoa tai bằng ngà voi có đường kính tới 6cm. Nam giới chỉ đeo chiếc khuyên lủng liểng. Hiện nay tục cưa răng căng tai đã hiếm thấy.
Sự tập dượt lao động là phương pháp giáo dục trẻ em một cách tự nhiên. Ngay từ lúc 12-13 tuổi, trẻ em đã biết cầm dao, cuốc.. làm đất đặc biệt là biết cầm rìu chặt cây đốn củi... ít thấy có con gái dân tộc khác biết cầm rìu chặt củi như con gái Gia Rai. Rồi dần dần cách thức lao động được phân theo giới. Trẻ em gái ngoài việc đồng áng còn được mẹ dạy cho cách trồng bông , dệt vải, chăn nuôi gia súc... Trẻ em được tập xốc vác những công việc nặng nhọc một cách tự nhiên. Họ được cha mẹ dạy cho cách làm nhà, đi rừng, đi núi, luyện tập bàn tay đan lát ngày một khéo léo, họ được dạy cách sử dụng giáo mác, súng, bắn nỏ săn bắn chuẩn bị trở thành một người lính chiến trong làng. Đáng chú ý trai, gái trong làng đều được dạy hiểu luật tục chuẩn bị làm tròn trách nhiệm người công dân.
Ngoài ra họ còn được rèn luyện phát triển những năng khiếu thơ ca, âm nhạc, hội hoạ theo đặc tính dân gian Gia Rai.
Hiện nay trẻ em trong ở trong làng dần dần được cắp sách tới trường. Các em được học đọc, học viết và dần dần sử dụng hai ngôn ngữ Gia Rai và Việt để nâng cao sự hiểu biết của mình.
HELLBOY (st).
Nam nữ thụ thụ bất thân nghĩa là gì?
Nam nữ thụ thụ bất thân nghĩa là gì?
Đây là câu nói cửa miệng, quen dùng chỉ mối quan hệ nam nữ theo quan niệm của nhà nho.
Người đàn ông và người đàn bà ngày xưa trao cho nhau cái gì, nhận của nhau cái gì, đều không trực tiếp tận tay, sợ bấm nháy, ra hiệu gì với nhau chăng? (Hai chữ "thụ thụ" trái ngược nghĩa:một chữ "thụ" là trao cho, một chữ "thụ" là nhận).
Hai người muốn mời nhau ăn trầu, thì người chủ têm trầu, xếp vào cơi trầu, đặt giữa bàn, khách tự nhặt lấy mà ăn. Lễ giáo phong kiến thật khắt khe, việc tỏ tình yêu trực tiếp khó mà thực hiện được, họa chăng chỉ còn đôi mắt thầm lén nhìn nhau!
Người châu Âu từ nhỏ đến già, theo phép lịch sự bắt tay nhau, nhảy với nhau là chuyện thường. Nhưng, người Việt Nam và người Á Đông nói chung, nam nữ vô ý chạm vào da của người khác giới thì coi như có cử chỉ không đứng đắn.
Người đàn ông có thái độ suồng sã sẽ bị đàn bà xa lánh, nhưng không đáng lo bằng người con gái lẳng lơ, bị xã hội dèm pha thì khó mà lấy được tấm chồng cho đáng tấm chồng. Vì vậy các nhà quyền quý thường "cấm cung" con gái. Ngay từ tuổi thơ đã sớm hình thành sự ngăn cách giối tính. Thời phong kiến xưa, chỉ những người có tư tưởng tân tiến mới cho con gái đi học, và có đi học thì con trai ngồi riêng con gái ngồi riêng. Trai gái đi cùng nhau, vui chơi cùng nhau bị bạn bè cùng lứa chế nhạo. Có hội hè đình đám cũng phải phân biệt đàn ông đứng bên trái, đàn bà đứng bên phải.
Ở thành thị, vợ chồng nằm ngủ với nhau một giường là chuyện bình thường, nhưng xin các bạn lưu ý, ở nông thôn đàn bà nằm nhà trong, đàn ông nhà ngoài đã trở thành nếp rồi. Ngày xưa, phổ biến mọi nơi đều thế, ngày nay lệ đó vẫn còn ở nhiều vùng, nhiều nhà. Nếu các bạn có dịp về thăm bà con họ hàng ở quê thì tốt nhất hai vợ chồng nên tránh nằm chung giường kẻo các cụ còn cảm thấy chướng mà phật ý.
(trích Một trăm điều nên biết về phong tục tập quán Việt Nam)
HELLBOY (st).
Ngày Tết của các dân tộc Việt Nam
Ngày Tết của các dân tộc Việt Nam
Nước Việt Nam là một cộng đồng các dân tộc anh em. Mỗi dân tộc có một kiểu ăn tết riêng, đôi khi kéo dài rất nhiều ngày tạo thành mùa gọi là mùa Tết. Mỗi kiểu ăn Tết đều biểu hiện nét đặc trưng văn hoá riêng của dân tộc mình.
Tết Prơ-giê-râm của người Cơ Tu
Vào mùa xuân, lúc bắt đầu vụ mùa lúa mới, đồng bào các huyện Phước Sơn, Giằng, Hiên ở Quảng Nam tổ chức ăn Tết Prơ-giê-râm. Đây là ngày lễ lớn nhất trong năm. Nhà nhà đều trang trí hết sức đẹp đẽ. Các loại ghẻ, cung nỏ, giáo, mác, thanh la, trống, chiêng được lau chùi cẩn thận. Ở nhà Guơi (nhà làng) người ta dựng cột đâm trâu bằng cây gạo trạm trổ, sơn vẽ đẹp mắt. Nhiều sinh hoạt văn hoá diễn ra tại nhà Guơi như kể chuyện, nhảy múa, hát dân ca. Con gái được dịp trao đổi tâm tình và rủ nhau chơi xuân kéo dài cả tháng....
Tết Nhảy của người Dao
Người Dao ở Việt Bắc cho rằng, ngày đầu năm không được làm việc mà chỉ lo vui chơi, thăm viếng và chúc tụng lẫn nhau. Nhà nào nhà ấy đều trang hoàng sáng sủa và dán nhiều câu đối bằng chữ Hán lên cột nhà hay trên các vách tường để đón mừng xuân.
Người Dao đón Tết bằng Tết Nhảy gọi là "Nhiang chằm Đao" để rèn luyện sức khoẻ và võ nghệ. Tết Nhảy bắt đầu trước tết Nguyên đán chừng vài ba hôm. Thanh niên phải tập các điệu múa, điệu nhảy, làm gươm đao bằng gỗ để múa. Tết Nhảy, mỗi người phải nhảy múa đến hàng trăm lượt trong tiếng trống, tiếng thanh la giục giã...
Tết Giọt Nước của người Xơđdăng
Người Xơđdăng ở Kontum ăn tết rất giản dị và chỉ có hai tết chính là Tết Giọt Nước và Tết Lửa. Tết Giọt Nước vào khoảng tháng 3 dương lịch. Sau khi mãn mùa, người Xơđdăng bắt đầu sửa sang lại các máng nước và tổ chức lễ "cúng máng" để cầu mong Thần nước (Yang Dak) ban cho dân làng năm mới được mùa, nước non đầy đủ.
Người trong buôn làng mang choé, nồi đồng ra tại các máng nước để lấy nước mang về nhà, đồng thời tổ chức ăn uống, vui chơi suốt mấy ngày liền. Riêng "Lễ cúng máng nước" cho buôn làng thì được tổ chức tại nhà Rông, do thầy cúng tổ chức.
Tết của người Mông
Người Mông ở vùng cao Tây Bắc và Việt Bắc ăn tết rất thịnh soạn, chẳng kém gì ở miền xuôi. Trong nhà trang hoàng đủ màu sắc, nhưng màu đỏ là được ưa chuộng nhất.
Tết Nguyên đán của người Mông gọi là Naox-Cha. Trong dịp này, ngoài một con lợn béo được chuẩn bị sẵn ra, người ta còn làm bánh bằng bột nếp, bánh chưng ít khi dùng.
Tết của người Mông thường tổ chức giữa mùa đông giá rét, trước hay sau Tết dương lịch chỉ có mấy hôm. Đêm giao thừa các gia đình thường cử con trai đi "mở nước", tức là đi lấy nước ngoài sông suối đem về nhà cúng tổ tiên.
Tết của người H'Ré
Tết của đồng bào H?Ré ởã Quảng Ngãi cũng kéo dài suốt vài tháng liền. Mỗi gia đình phải lo nấu bánh tét, làm rượu cho thật nhiều. Nhà giàu có phải nấu từ 20 đến 40 nồi bánh tét, ủ hàng trăm ché rượu cần, hạ vài con trâu để đãi khách và bà con trong buôn làng. Tất cả mọi người đều tề tựu về nhà chủ làng để ăn mừng, chúc tụng lẫn nhau. Sau đó mới lần lượt đến các nhà khác. Họ vừa ăn uống vừa múa hát. Đàn ông thì đeo ống chinh, còn đàn bà thì đeo ống bương lấy hai tay vỗ vào đầu ống sẽ tạo thành tiếng bập bùng, bập bùng... Họ thích trò chơi nhảy kẹp. Hai người một nam, một nữ dùng một đòn nhảy dài chừng hai mét, trơn láng rồi đập vào nhau. Cứ hai người ngồi đập thì hai người nhảy, thay đổi cho nhau.
Tết Bỏ Mả của người Gia Rai
Tết Bỏ Mả của đồng bào Gia Rai ở tỉnh Gia Lai cũng tương tự như Tết ăn nhà Mả của đồng bào Ba Na nhưng được tổ chức lớn hơn nhiều. Trong suốt thời kỳ Bỏ Mả, bà con trong buôn làng kéo nhau đi viếng từng nhà để thưởng thức của ngon vật lạ. Mỗi khi nghe tiếng thanh la, trống, cồng vang lên ở ngoài nghĩa địa là báo hiệu lễ Bỏ Mả. Người trong buôn nối đuôi nhau, tay cầm đuốc cháy sáng rực tiến về nghĩa địa để chia vui cùng người thân thuộc. Mọi người không quên mang theo rượu, thịt để góp vui cùng gia đình gia chủ trong suốt cuộc lễ. Tùy theo gia cảnh của từng người mà chủ lễ tổ chức đơn giản hay rườm rà. Gia chủ đứng trước ngôi mả có cắm cây nêu thường làm bằng cây gạo treo nhiều lá bùa xanh đỏ bay phấp phới theo chiều gió và đưa tay lên trời lầm rầm khấn vái Yàng.
Tết của người Thái
Người Thái ở Sơn La và Lai Châu đón Tết hầu như suốt cả mùa, gọi là mùa Tết. Đầu tiên là Tết Soong Sịp (Tết Cơm Mới) sau khi lúa ở ngoài đồng đã chín vàng họ giết trâu, mổ lợn, lấy lúa mới đồ xôi nếp để cúng lễ. Mọi nhà đều tổ chức ăn uống vui vẻ. Sau Tết Soong Sịp là Tết Kim Lao Mao (tết uống rượu), tết ông Táo và lớn nhất là Tết Nen Bươn Tiền (Tết Nguyên đán).
Vào ngày đầu năm, họ không quên đem dao, rựa vừa đi ra đường vừa phát quang để thông thoáng cho năm mới. Vui nhất là các hội Xoè Thái nổi tiếng, tha hồ vui chơi cho đến rằm tháng giêng mới mãn.
Tết Cơm Mới của người Ê Đê
Tết Cơm Mới của người Rhadé hay Êđê ở Đăk Lăk là vào khoảng tháng 10 dương lịch. Lúc ấy lúa đã chín vàng cả nương rẫy. Mỗi gia đình mang gùi đi tuốt lúa về phơi khô giã lấy gạo để tổ chức ăn mừng lúa chín. Tuỳ theo gia cảnh giầu hay nghèo mà các gia đình giết trâu, bò, heo, gà nhiều hay ít.
Lễ vật đặt ở giữa nhà gồm một hay hai chóe rượu cần buộc chặt vào gốc cột và vài đĩa cơm. Gia chủ hay thầy cúng lầm rầm khấn vái: "Lạy thần Mtâo Kia, thần H'Bia Kiu, thần Aêdu, thần Alê Diê đã ban cho chúng con nào thóc lúa, nào kê, nào ngô. Chúng con thỉnh chư vị thần từ phía Đông dãy Ngân Hà nơi gần nguồn gốc của lúa, xin giáng lâm chứng giám. Lạy thần Aê Nghi ở dưới đất, lạy thần Aê Ngăn ở trên trời xin cho mỗi năm lúa được đầy vựạ..".
Tết Yang Pa của người Chơ-Ro
Người Chơ-Ro hay Chu-Ru sinh sống tại Đồng Nai, Lâm Đồng và Bà Rịa - Vũng Tàu. Hai tết lớn của đồng bào Chơ-Ro là lễ cúng thần rừng và lễ cúng thần lúa vào khoảng tháng ba âm lịch. Ngày cúng thần lúa cũng là lúc các cô gái trình cho buôn làng các loại bánh ngon như bánh tét, bánh ống, bánh dầy... Sau lễ cúng thần lúa tại nhà là bữa ăn tập thể do gia chủ đứng ra khoản đãi tại nơi hành lễ. Thường thường nơi cúng lễ là gốc cây cổ thụ trong buôn làng. Họ quan niệm thần lúa thường đến nghỉ ngơi ở đó.
Tết Nhô LirBông của người K'Ho
Người K'Ho hay sinh sống ở Lâm Đồng. Họ ăn Tết sau Tết Nguyên đán của người Kinh ở miền xuôi độ một tháng, gọi là Nhô LirBông, tức Tết mừng lúa về nhà. Tết này kéo dài cả tháng. Hai chữ LirBông có nghĩa là cót thóc. Người LirBông rất quý trọng thóc lúa, vì thóc lúa là những hạt ngọc của Yàng ban phát. Lễ cúng mừng lúa được tổ chức tại kho lúa của mỗi gia đình, bắt đầu từ xế chiều với sự tham dự của chủ làng và nhiều gia chủ khác. Người ta lấy máu gà hiến sinh bôi lên vựa thóc, sàn kho, các cửa lớn, cửa sổ. Máu gà còn được trộn chung với vỏ cây đa, củ nghệ, các con mối đất. Cỏ tranh giã nhỏ để bôi lên ngực, lên trán những thành viên trong gia đình, sau đó còn bôi lên những đồ gia dụng.
Sau lễ cúng cót thóc trong gia đình, người K'Ho rủ nhau đi từ nhà này sang nhà nọ để ăn uống, ca hát, nhảy múa chung vui, cứ thế cho đến cả tháng trời mới mãn.
Lễ Tết cổ truyền của người Chăm
Đồng bào Chăm còn gọi là Chàm, hiện đang sinh sống tại hai tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận và một số ít tại Châu Giang (tỉnh An Giang).
Cũng như các dân tộc anh em khác, người Chăm ăn Tết cũng rất linh đình, nhộn nhịp. Hai lễ lớn nhất trong năm là Păng-Katê và Păng-Chabư được xem như cái Tết của họ.
Păng-Katê cử hành vào ngày 1 tháng 7 theo lịch Chăm tức khoảng tháng 9 dương lịch và Păng-Chabư cử hành vào ngày 16 tháng 9 theo lịch Chăm tức vào khoảng tháng 2, tháng 3 dương lịch.
Vào những ngày lễ, đông đảo đồng bào Chăm từ các nơi đổ về tại ba nơi hành lễ: đó là đền Pô nưgar, tháp Pô Rômê ở huyện Ninh Phước (Ninh Thuận) và tháp Pô Klông Garai ở thị xã Phan Rang.
Tết Păng Katê là ngày tế lễ các vua Chăm thuở xa xưa có công dựng nước và hướng dẫn việc nông tang, thuộc về dòng họ người cha, tượng trưng cho khí dương, cho nên phải cử hành vào buổi mai. Còn Tết Păng Chabư là lễ cúng tế các lễ thần Pô Giang nữ, tức các hoàng hậu, công chúa Chăm, thuộc dòng họ mẹ, tượng trưng cho khí âm nên được cử hành vào buổi chiều tối.
Sáng mồng Một Tết, các chức sắc Chăm cùng toàn thể bà con xa gần đều tề tựu về ba nơi hành lễ, quần áo thật mới mẻ, chỉnh tề. Các thầy Cả và các bà Bóng ngồi theo phẩm trật, thứ tự cao thấp trong căn nhà dựng trước cửa đền hay cửa tháp. Lễ cúng gồm có hoa quả, bánh trái đủ loại, cúng cơm, rượu và thịt. Ba nghi lễ gồm các thầy Cả sư, phó Cả sư, thầy Bà xế, thầy Kè-ke vừa kéo đờn Kanhi (đàân mai rùa) vừa xướng văn tế lễ. Còn các bà Bóng thì lo dâng rượu và múa mừng. Tưởng cũng nên nhắc đến người Chăm gồm có 2 ngành: Ngành theo đạo Bà la môn và ngành theo đạo Hồi. Ngành theo đạo Bà la môn rất kiêng cữ thịt bò, còn ngành theo đạo Hồi thì kiêng ăn thịt heo.
Ngày Tết, người Chăm theo đạo Hồi thường đến nhà thờ đạo Hồi vào ngày đầu năm để nghe chức sắc, đọc kinh Coran, cầu nguyện đấng Alah, sau đó các tín hữu ra sông, ra suối tắm tẩy uế những cái xui, cái xấu của năm cũ và rước cái mới, cái tốt lành của năm mới.
Ngày mồng hai Tết là ngày dành riêng cho các chức sắc ăn Tết tại nhà. Qua ngày thứ ba trở đi, cho đến ngày thứ 7 hay thứ 9 thì đến lượt mọi người tổ chức ăn Tết, lần lượt từ nhà này sang nhà khác. Tuy nhiên, mỗi gia đình chỉ lựa chọn cho mình một ngày duy nhất trong khoảng thời gian qui định mà thôi.
Họ giết heo, giết gà vịt, bày đủ loại hoa quả, bánh trái. Trong dịp Tết, người Chăm không có tục kiêng cữ cho nên bạn bè, hàng xóm ở xa có thể đến chung vui một cách thoải mái. Trong thời gian ăn Tết, người Chăm còn tổ chức các trò vui chơi như múa quạt, tổ chức đánh cồng chiêng, ca hát uống rượu, bắn cung.
Ngoài hai lễ lớn trên, người Chăm còn có các lễ khác trong năm như: Lễ cúng thần Nông vào tháng 4 theo lịch Chăm, cử hành ở các đền, tháp; Lễ cầu đảo (Chakap Hiâu Kron) cử hành tại các đập nước hay ở các bờ sông, bờ suối; Lễ cúng ruộng (Pô Phùm) để cầu cho ruộng lúa tốt tươi và lễ tống ôn (Rija Nưgar) tổ chức vào mồng Một tháng Giêng theo lịch Chăm, để cầu cho làng xóm, gia đình được thịnh vượng, an khang.
Tết của người Lô Lô
Người Lô Lô ở Hà Giang, Cao Bằng, Lai Châu cũng giống như người Kinh. Họ chuẩn bị lợn gà, các loại bánh trái thật đầy đủ để ăn Tết. Ngay từ 29-30 Tết, các nhà đều dọn dẹp sạch sẽ, đưa hết rác rưởi từ trong nhà, ngoài vườn ra ngoài đường để tống khứ uế tạp trong năm cũ. Chiều 30 Tết, mọi gia đình tổ chức bữa cơm sum họp và gia chủ chúc phúc cho hết thảy các thành viên trong gia đình.
Người Lô Lô có tục đón giao thừa bằng cách đánh thức tất cả gia súc nuôi trong nhà cùng dậy. Tất cả đồ dùng trong gia đình và cây cối trong vườn đều được dán giấy mầu vàng bạc để nghỉ ngơi trong ba ngày Tết, không được đụng chạm đến.
Tết của người Tày
Lễ đón năm mới của người Tày ở Hà Giang.
Người Tày bắt đầu ăn Tết từ ngày 28. Họ trang trí lại nhà cửa, quét dọn sạch sẽ, sắp xếp lại đồ đạc trong nhà. Ngày 29, họ thịt lợn để làm thức ăn như giò chả, thịt nướng, thịt luộc, lạp xường... Ngày 30 Tết, tất cả đồ dùng trong nhà như dao, dựa, cày, bừa... gom vào một nơi để làm lễ cúng và cho nghỉ ngơi ăn Tết. Đêm giao thừa không được thắp đuốc vì làm như thế năm mới sẽ hạn. Ngày Tết, họ làm đủ thứ bánh như miền xuôi, nhưng chỉ có bánh chưng thì gói tròn gọi là bánh tày. Nhiều hội xuân tổ chức vào dịp Tết như hội còn, hát lượn thật vui vẻ và hào hứng.
Tết của người Nhắng
Người Nhắng ở Lào Cai ăn Tết giống người Kinh ở miền xuôi. Giờ giao thừa, họ có tục đi lấy nước đầu năm về pha trà cúng tổ tiên. Lúc trở về, bao giờ họ cũng đem theo cành lộc để cắm trên bàn thờ. Bàn thờ của người Nhắng rất đơn giản, chỉ có một bát hương và vài đĩa quả. Trước bàn thờ là một chiếc cồng làm bằng nứa thật dài, còn nguyên cả lá uốn cong xuống. Sau đó chọn giờ tốt để mang chum vại ra suối múc nước mang về dùng. Mồng Một Tết, người Nhắng chỉ cúng và ăn đồ chay, họ cũng không ra khỏi nhà mà chỉ chúc tụng những người trong gia đình. Ngày mồng Hai trở đi họ cúng mặn, đi thăm chúc Tết bà con họ hàng và đến các đền miếu để cầu xin những điều may mắn, tốt lành cho gia đình. Ngày Tết, họ cũng tổ chức vui chơi, ca hát cho đến lễ Lục Tùng, tức lễ cúng ông Thần coi về mùa màng vào mồng bảy tháng Giêng mới mãn.
Tết của người Ba Na
Người Ba Na ở Bình Định và Gia Lai thường ăn Tết thật linh đình và hầu như tổ chức lễ tết quanh năm. Về lễ, họ có nhiều lễ lớn như Bru-Hoposat (lễ Bỏ Mả) vào tháng Giêng và tháng Hai; lễ Midak-Mat-Aton để cầu hồn người chết, Lễ Puh-Sodu để xua đuổi tà ma; Lễ Koh-Sa-Kopo để cầu bình an vào khoảng tháng 6 dương lịch và lễ Nùng Chàm để cầu mưa thuận gió hòa. Cuối cùng là Tết Et Tojur Sa hay Yang Sré (Tết mãn mùa) tổ chức sau mùa gặt hái (khoảng sau Tết Nguyên đán ở miền xuôi).
Riêng người Ba Na ở Bình Định ăn Tết mãn mùa gọi là CHRUL-COL kéo dài cả tháng vào dịp trăng tròn để cho cuộc vui thêm trọn vẹn.
Tết của người Khmer Nam Bộ
Người Khmer ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long tổ chức ăn Tết Chôn Chăm Mây và tháng "chét" theo lịch Khmer, tức vào khoảng tháng Tư dương lịch, nhằm vào ba ngày 13-14-15 trăng tròn. Người Khmer xem Tết Chôn Chăm Mây là ngày lễ tôn giáo và cũng là dịp để tẩy sạch bụi trần.
Trong ngày đầu năm, họ lo đi viếng chùa lễ Phật, sau đó xuống sông gánh cát đắp nhiều ngọn núi cát chung quanh chùa. Đến ngày mồng Bốn Tết trở đi, họ mới đi thăm viếng chúc tụng lẫn nhau, đồng thời tổ chức các trò vui chơi. Những trò vui thường tổ chức trước sân chùa vào ban đêm dưới ánh trăng.
HELLBOY (st).
Những cái Tết đặc biệt của người Mường
Những cái Tết đặc biệt của người Mường
Tết trước một tháng
Người Mường chòm Mới ở Eo Kén, xã Thành Sơn, huyện Bá Thước, Thanh Hóa thường ăn Tết vào tháng 11 âm lịch, so với lịch chung, thì đây theo một lịch riêng. Bà con cho là mùa xuân đã đến từ tháng 11 rồi.
Các cụ giải thích rằng dân chòm Mới này vốn là chủ nhân ông của đất Mường Khoòng cổ kính. Vì có một công lao với nhân gian, nên được ông thần làm lịch cho đi trước nhân gian về ngày tháng. Xuân chưa về đến bản làng nào khác thì đã phải tới đây rồi.
Chuyện kể về rằng xưa kia trên trời có một con rồng ngậm chiếc bình vàng. Bình này chứa các hoa màu cây cỏ để làm cho đẹp đất đẹp mường. Ai đến xin rồng cũng không cho. Hết ngày này sang tháng khác, nhiều người tài giỏi đã tìm cách để giành bình vàng mà không được vì miệng rồng ngậm rất chặt. Cuối cùng một người dân ở Mường Khoòng đã lập mẹo làm cho rồng cười, nhả bình ra. Người vác bình chạy vội về nhà, gieo giống gieo hạt. Vùng Thành Sơn (ngày nay) có cây cối hoa lá trước cả mọi nơi. Vì thế mà xuân đến sớm.
Tết muộn mười ngày
Dân làng Kim Bôi, nay thuộc xã Đông Thanh, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa có tục ăn Tết hết ngày mồng ba tháng giêng rồi, nhưng đến ngày mồng 10 lại tổ chức ăn Tết lại.
Phong tục này cũng không phải đã có lâu lắm, chỉ vào khoảng từ thế kỷ 16. Nguyên nhân, theo lời các người già cả là vì có một năm kia, có vị võ tướng trong làng được lệnh lên đường dẹp giặc. Ra đi, ông hẹn với họ hàng làng nước sẽ đánh thắng, về ăn Tết ở làng. Song qua Tết, vị tướng vẫn chưa về.
Bỗng nhiên, sáng ngày mồng 10, bóng cờ, tiếng loa từ xa đưa đến. Đội quân chiến thắng trở về. Viên tướng vào xin lỗi thần linh cùng các bậc bô lão, họ hàng làng nước. Vì tình hình khó khăn, ông đã về chậm mấy hôm, nhưng ra quân đã thắng. Dân làng mừng rỡ, họ tổ chức ăn Tết lại, để mừng các tướng tá và quân sĩ.
Từ đó, dân Kim Bôi đặt thêm một tục mới, tục ăn Tết ngày 10 tháng giêng, vốn dĩ là ngày liên hoan mừng quân chiến thắng.
HELLBOY
Tục nhuộm răng đen của phụ nữ Thái
Tục nhuộm răng đen của phụ nữ Thái
Tục nhuộm răng đen của phụ nữ Thái đã có từ lâu đời. Một người phụ nữ Thái được xem là đẹp khi họ có sự hài hoà giữa các loại trang phục, trang sức có màu đen: khăn đen (nhuộm chàm), váy đen (váy chàm), răng đen (do nhuộm cánh kiến, nhựa mét non do đốt cháy chảy ra?). Họ nhuộm răng cũng là để bảo vệ răng. Cùng với thói quen ăn trầu, nhuộm răng cũng làm cho răng bền thêm, tránh được các loại bệnh về răng.
Khi đang còn là con gái thì họ chưa nhuộm răng. Sau khi lấy chồng, người phụ nữ Thái mới nhuộm răng, ăn trầu. Đầu tiên, họ phải làm sạch răng bằng cách dùng miếng cau chà sát nhiều lần. Sau đó họ nướng lưỡi dao cùn hoặc lưỡi thuổng cùn trong than hồng cho nóng, rồi rắc bột cánh kiến lên sao cho cánh kiến nóng chảy ra. Chờ cho cánh kiến nguội một chút, họ mới lấy nhựa cánh kiến đó quệt vào răng. Họ quệt, bôi cánh kiến nhiều lần, sao cho cánh kiến bọc được hết răng. Suốt mấy ngày, họ phải giữ gìn răng, không ăn uống nóng, hoặc không nhai vật cứng. Những ngày tiếp theo, họ đi rằng chặt lấy cây mét non đem về đốt cho nhựa chảy ra, thứ nhựa này đen và quánh, rất dính, họ bôi tiếp cho răng đen. Như vậy là họ đã có bộ răng đẹp.
Thời gian thay đổi, chuẩn mực về cái đẹp cũng thay đổi. Ngày nay, còn rất ít người phụ nữ Thái nhuộm răng. Thay vào đó là thói quen đánh răng thường xuyên, giữ cho hàm răng trắng đẹp, thơm tho.
(Theo La Quán Miên)
HELLBOY
Phiên chợ cầu may đầu năm
Phiên chợ cầu may đầu năm
Chợ Viềng (Nam Định) nổi tiếng xưa nay bởi những nét độc đáo không hề giống với các chợ khác ở đồng bằng Bắc Bộ. Những mặt hàng chính được bán ở chợ là cây, đòn gánh và đồ cũ; món ăn thì chủ yếu là thịt bò, bê thui. Chợ họp từ nửa đêm, cảnh mua bán diễn ra trong ánh sáng nhập nhoạng của những chiếc đèn pin. "Chợ Viềng" đã trở thành danh từ chung chỉ những phiên chợ cầu may đầu năm của người dân vùng chiêm trũng.
Quãng hai giờ sáng. Trời vẫn chưa có chút ánh sáng nào của một ngày mới. Cảm giác mùa đông vẫn còn dù đã lập xuân, con đường lên huyện từ bến Đò Quan (TP Nam Định) đi Liễu Đề tối đen như đêm 30. Gió lạnh căm căm...
Từng tốp, từng tốp xe đạp, xe thồ, xích lô nối nhau miệt mài, lầm lũi, đi gần mới thấy xe nào xe nấy lặc lè hai sọt hàng, có xe buộc theo cả những bó tre trúc cao lêu nghêu, xích lô chất cây ngất nghểu. Mọi người đang háo hức chuẩn bị đến phiên chợ có lẽ là độc đáo nhất còn lại của xứ bắc, phiên chợ mỗi năm chỉ mở đúng một ngày - mồng 8 Tết, bắt đầu lúc 0 giờ: Chợ Viềng.
Chưa thấy ai giải thích thỏa đáng cái tên Nôm của chợ. Có một dạo nó còn bị gọi chệch là chợ Riềng, nghe đã thấy mùi ăn uống hoàn toàn xa lạ với không khí của chợ. Chợ quê miền bắc ít có tên riêng, người ta gọi tên chợ bằng tên làng, tên phố chợ nơi người ta họp chợ. Phố Sơn có chợ Sơn, làng Ve có chợ Ve, dưới Bịu là chợ Bịu, chợ Và bên làng Và... Nhưng có chợ Viềng mà không có làng Viềng, phố Viềng; chợ Viềng cũng không phải chỉ có một và nó còn có những tên khác. Được coi lớn nhất là Viềng Kim Thái hay còn gọi là chợ Phủ, chợ Phủ Giáp Bà (Bà chúa Ba) vì gắn với di tích Hội Phủ Dày, thuộc xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Hà Nam. Chợ họp trên bãi đất trống, ngày thường chỉ là sân bóng của lũ trẻ quê.
Nằm gần Quốc lộ 1, lại gắn với lễ hội đồng bóng lớn nhất xứ bắc, chợ Viềng Kim Thái tập trung người mua kẻ bán khắp tứ xứ - gần có Thái Bình, Nam Định, xa tận Thanh Hóa, Vinh..., bây giờ có cả khách phương nam, đáp máy bay xuống Nội Bài rồi thuê xe xuôi Hà Nam, tan chợ lại ngược về ngay...
Cũng không kém phần nổi tiếng là chợ Viềng Nam Trực (thuộc xã Nam Trực, huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Định), hay còn gọi là chợ Chùa vì họp ngay trước cổng chùa Đại Bi. Người làng Kim Thái kể rằng chợ Viềng xưa vốn chỉ ở Kim Thái, nhưng vì họp quá sớm, nhiều người từ xa đến không kịp, thấy trời sáng bèn ngã chợ luôn ở cổng chùa, thành Viềng - chợ Chùa từ đấy. Không nghe người chợ Chùa có giai thoại ngược lại, nhưng chợ Chùa vẫn họp phiên ngày 8 và 11, riêng ngày 8 Tết hằng năm mới gọi chợ Viềng, mặt hàng và lối bán hàng cũng khác. Nhưng ngoài hai chợ Viềng có tiếng xưa nay cùng họp mùng 8 Tết, với người dân thành Nam, họ còn đi chợ Viềng Liễu Đề ngày mùng 6 và 7 Tết là phiên Viềng - chợ Lạng, quy mô nhỏ hơn, nhưng cũng là chợ - một - phiên với các mặt hàng và lối bán đặc biệt chỉ có ở chợ Viềng. Cái tên chợ Viềng có lẽ không còn là tên riêng, nó đã được sử dụng như một danh từ chung chỉ những phiên chợ cầu may đầu năm của người dân vùng chiêm trũng.
Người ta gọi chợ Viềng là chợ cầu may. Người bán muốn nhanh nhẩu lấy may cho việc buôn bán, làm ăn quanh năm, còn người tới chợ, ra về không khi nào tay không. Còn tôi, tôi gọi chợ Viềng là chợ cây - chợ đòn gánh và chợ đồ cũ, đấy cũng là ba mặt hàng chính của chợ Viềng. Anh bạn tôi lại khăng khăng gọi đấy là chợ nửa đêm và thích thú nhất cảnh nhập nhoạng bán mua trong ánh sáng của những chiếc đèn pin cũng chỉ có ở chợ Viềng. Phần lớn diện tích chợ dành cho người bán cây kiểng và cây giống, nhưng không giống chợ kiểng Hà Nội hay Sài Gòn, ở đây tuyệt nhiên không thấy bóng dáng loại kiểng của người giàu tính tiền triệu, tiền cây mà chỉ độc kiểng bình dân giá mươi nghìn đến vài trăm nghìn, loại không dành cho những người quăng tiền chơi ngay mà cho người biết thú chơi kiểng, không tiếc thời gian và công sức cho những cây xanh mới thành hình. Còn thì cơ man là cây giống, chợ Viềng như một trung tâm cây giống cây trồng loại uy tín nhất của vùng đất nông nghiệp này. ở chợ Viềng Nam Trực, vì thôn Vân Tràng, Đồng Côi và thôn Tư ngay đấy có nghề rèn, nên bày bán cả cuốc, xẻng, rìu, rựa, cày bừa dao, kéo... toàn những vật dụng gắn liền với đất đai, với bàn tay lam lũ của dân quê xứ Bắc.
Nhưng lạ nhất, có lẽ chỉ có ở chợ Viềng, và náo nhiệt nhất là khu bán đồ cũ, nói chính xác là đồ dùng sinh hoạt gia đình cũ. Theo tục lệ, người ta có thể mang tới chợ bất cứ vật dụng gì trong nhà từ quý giá như vàng, bạc, đồ thờ, tới đồ thông thường như bát đĩa, nồi mâm, bình vôi, bát điếụ.., những vật đã qua sử dụng bất kể còn nguyên vẹn hay sứt vỡ. Cũng theo tục cũ kể lại, việc bán mua đồ cũ chỉ để lấy may, chuyện bán được, mua được không quan trọng. Với khu đồ cũ, chợ Viềng thành phiên chợ đồ cổ công khai duy nhất hiện nay của cả nước. Những người săn đồ cổ từ Hà Nội, thậm chí cả Sài Gòn chầu chực ở chợ từ nửa đêm, đầy kinh nghiệm với đèn pin tiểu Trung Quốc cầm tay, xem "hàng" chỉ bằng vài liếc mắt. Trời lờ mờ sáng cũng là lúc những "hàng độc" đều đã có chủ, còn lại gần như nguyên vẹn dành cho người đi chợ muộn là đống nồi xoong nhôm đen sì chất cao ngất nghểu...
Thịt bò thui, bê thui cũng là một trong những đặc sản chợ Viềng. Một cuộc tế lễ trời đất lớn chưa từng có trong năm; mỗi phiên chợ Viềng hàng trăm con bò, bê thui bày bán la liệt từ cổng chợ đến vài cây số. Có lẽ chỉ thế thôi, mới lý giải được tại sao có những cuộc đi miệt mài, lầm lũi và háo hức như thế hàng chục cây số trong cái rét căm căm của một đêm tối trời, để rồi khi tàn chợ lại miệt mài quay về có thể trong túi chỉ giắt thêm vài chục nghìn đồng. Và có lẽ chỉ thế thôi, cái phiên chợ một năm chỉ có một lần cứ mãi là lời đến hẹn lại lên, bao nhiêu năm qua vẫn chưa lỗi hẹn một lần.
(Theo Phạm Thị Thu Thủy)
HELLBOY
Lễ rước giao hiếu của hai làng Kim Lũ, Kim Văn
Lễ rước giao hiếu của hai làng Kim Lũ, Kim Văn
Kim Lũ, Kim Văn là hai trong ba làng cùng có tên nôm là Kẻ Lư (Kim Lũ - Lủ Trung và Kim Văn - Lủ Văn), ngoài ra còn có Kim Giang - Lủ Cần) nằm ở vùng đất phía tây nam kinh thành xưa, là nơi có sản phẩm bánh chè lam nổi tiếng làm cống vật tiến vua. Trước Cách mạng Tháng Tám nơi đây thuộc tổng Khương Đình, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông, hiện nay là xã Đại Kim - huyện Thanh Trì, Hà Nội.
Hai làng Kim Lũ, Kim Văn thờ hai vị thành hoàng khác nhau, sống ở hai giai đoạn lịch sử cách nhau hàng nghìn năm. Làng Kim Lũ thờ vị thần hiệu là Quý (Quý Minh), thuở hàn vi lấy nghề kiếm củi nuôi dưỡng mẹ già. Thấy được tấm lòng hiếu thảo của ngài, bà tiên đã dạy ngài phép lạ. Ngài dùng phép thuật cứu dân thoát khỏi nạn dịch ốm đau, chết chóc hoành hành. Khi quân Thục nhăm nhe ngôi báu, vua Hùng Duệ Vương vời ngài ra diệt giặc cứu nước. Gặp năm trời hạn hán, mất mùa, đói kém, ngài cứu giúp muôn dân được no lành. Các triều đại đều ban sắc phong ngài là Thượng đẳng thần. Hiện còn chín đạo sắc của các triều đại Lê, Nguyễn là Cảnh Hưng, Chiêu Thống, Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng Khánh, Duy Tân, Khải Định.
Đình Kim Lũ sát đường cái quan, nhìn ra sông Tô Lịch. Tổng thể kiến trúc gồm: cửa tam quan, sân gạch, đại đình và hậu cung. Tam quan đình cửa kính cao rộng, nóc kiểu hai tầng bốn mái, chính giữa đắp nổi bức cuốn thư. Hai cổng phụ liền kề, trên nóc mái đắp nổi hai hình rồng dát mảnh sứ, đầu ngoảnh về cửa chính. Đình Kim Lũ kết cấu kiểu chữ đinh gồm đại đình ba gian hai chái, tòa nhà dọc hai gian nối đại đình với hậu cung hình vuông. Hai bờ đình đắp nổi đôi rồng uốn khúc từ trên xuống đầu rồng ngoảnh lên nóc mái. Hậu cung đình xây kiểu hai tầng tám mái, cao hơn đại đình, tầng dưới bốn đầu đao gắn vân mây, tầng trên đắp nối hình bốn đầu rồng chầu lên nóc mái gắn mặt trời ngậm hổ phù.
Đình Kim Văn thờ công chúa Lê Cúc Phương, con vua Lê Đại Hành và hoàng hậu Dương Thị Mai. Nàng sinh ngày 9 tháng giêng năm Ất Sửu niên hiệu Thiên Phúc triều Lê. Khi công chúa 13 tuổi hình dung yểu điệu da trắng, tóc trơn đúng là một tuyệt thế giai nhân.
Chưa kịp lập thái tử, Đại Hành hoàng đế đã băng hà. Triều thần lập hoàng tử Long Việt lên ngôi lấy hiệu là Trung Tông. Được ba ngày vua Trung Tông bị em cùng mẹ là Long Đĩnh sát hại cướp ngôi (tức là vua Lê Ngọa Triều). Khi họa lớn xảy ra, mọi người trong cung đều hoảng sợ tìm nơi lẩn tránh. Còn công chúa Lê Cúc Phương vẫn ôm lấy xác Long Việt khóc thảm thiết và nhiếc mắng Long Đĩnh thậm tệ. Quá tức tối vì bị xử nhục Long Đĩnh liền sát hại công chúa.
Một vị quan trong triều là Lý Công Uẩn đem vua Trung Tông đi mai táng. Sau khi Lê Ngọa Triều chết, Lý Công Uẩn được Đào Can Hộc cùng triều thần tôn lên ngôi báu là vua Lý Thái Tổ. Vua Lý đổi niên hiệu Thuận Thiên rời đô ra Thăng Long. Khi giặc quấy phá vùng Diễn Châu, vua Lý dẫn quân đi chinh phạt. Công chúa đã hiển linh giúp đỡ. Về đến kinh đô vua sai triều thần viết sắc phong, ban cho công chúa bốn chữ "Linh Quang Thánh Ý" và cấp cho 22 làng làm ấp thang mộc phụng sự công chúa. Kế tiếp vua Lý Thái Tổ, các triều đại sau đều ban tặng sắc phong. Hiện nay đình Kim Văn còn lưu giữ được sáu đạo sắc phong của các triều đại, sớm nhất là năm Cảnh Hưng thứ 44 (1784) và muộn nhất là năm Khải Định thứ 9 (1925).
Trải bao thăng trầm của lịch sử ngôi đình thờ công chúa Lê Cúc Phương vẫn được dân làng Kim Văn gìn giữ, tôn tạo. Đình quay hướng tây, nhìn ra cánh đồng rộng mênh mông bát ngát, kết cấu kiểu chữ đinh. Toàn bộ kiến trúc gồm: giếng đình, cửa tam quan, sân gạch Bát Tràng, đại đình năm gian được nối với hậu cung ba gian bằng hai gian nhà dọc. Chính giữa hậu cung ở vị trí cao nhất tượng công chúa đặt trong ngai chạm rồng, mây. Gian giữa đại đình bầy hương án và các đồ tế khí. Trong đình còn giữ được nhiều hoành phi, câu đối, cuốn thư sơn son thiếp vàng rực rỡ.
Từ bao đời nay hai làng Kim Lủ, Kim Văn bắt chạ với nhau, hàng năm cùng lấy ngày 9 tháng 2 mở hội với tục rước giao hiếu giữa hai làng.
Sáng sớm ngày 7 tháng 2, già trẻ, gái, trai hai làng đã tấp nập chuẩn bị cho ngày mở hội. Chọn giờ tốt các cụ mở cửa đình sửa soạn đồ tế khí. Ngày 8 tháng 2 tiến hành lễ mộc dục ở cả hai đình. Sáng ngày 9 tháng giêng làng xóm như bừng lên trong tiếng trống, chiêng, nhã nhạc. Đội ngũ đám rước chỉnh tề với các sắc mầu rực rỡ của cờ, quạt, tàn lọng, trang phục của trai kiệu, nữ quan. Dứt một hồi ba tiếng trống, đám rước khởi hành từ đình Kim Lũ xuống đình Kim Văn. Đi đầu là 20 lá cờ ngũ sắc bay phấp phới trong gió xuân đến trống, chiêng rồi đến phường Đồng Văn vừa đi vừa múa xênh tiền. Kiệu long đình bên trong bày hương hoa do bốn thôn nữ khiêng, các cô đầu vấn khăn nhung đen, mặc áo nâu non, thắt lưng một bên mầu xanh, một bên mầu hồng đeo xà tích. Sau kiệu long đình là tám trai làng mang bút kích, họ mặc quần trắng, áo nâu mầu đỏ, thắt lưng bỏ giọt. Kiệu Bát Cống do tám nam giới khiêng, nam quan, đội dâng hương rồi đến dân làng và khách thập phương. Đám rước đến đình Kim Văn thì dừng kiệu ở sân, các cụ cao niên vào đình dâng lễ thánh. Sau khi hai bên thăm hỏi, nghỉ ngơi, đám rước hội trở về đình Kim Lũ... Lúc này đám rước làng Kim Văn đã hòa nhập vào một đoàn gồm cờ quạt, bát kích và một cỗ kiệu long đình, một cỗ kiệu vông đức Thánh Bà. Kiệu làng Kim Văn đi trước kiệu làng Kim Lũ. Về tới đình Kim Lũ, kiệu dừng ngang hàng ở ngoài sân, đưa bát hương bài vị thánh vào ngự trong đình. Đến chiều dân làng Kim Văn rước thánh Bà hoàn cung, dân làng Kim Lũ đưa tiễn đến cuối làng.
Sau lễ rước thánh giao hiếu hai làng, nhiều trò chơi được tổ chức để trai, gái đua tài chơi đu, đấu vật chọi gà, đánh cờ thẻ... Buổi tối mời phường chèo về diễn hai làng cùng xem.
Tục kết chạ có ở nhiều làng quê Bắc Bộ, trai, gái hai làng không được lấy nhau. Còn ở Kim Lũ, Kim Văn không có tục này. Có lẽ tục kết giao hiếu ở đây là thể hiện tinh thần đoàn kết cộng đồng khi cùng chung vai đấu cật vật lộn với thiên nhiên dựng xây nên xóm làng. Vì thế sau một năm lao động, họ cùng nhau dâng sản vật lên các vị phúc thần, phụng nghiêng hai vị Thánh đã bảo trợ cho dân làng có cuộc sống ấm no, tươi đẹp.
(Theo Đào Hương)
HELLBOY
Tục sinh nở của phụ nữ các dân tộc
Tục sinh nở của phụ nữ các dân tộc
Bố Y
Trước kia, sau lễ cưới độ hai - ba ngày, cô dâu về nhà bố mẹ đẻ cho tới khi có thai mới trở lại nhà chồng. Nhưng nay người phụ nữ Bố Y chỉ về ở nhà mẹ đẻ trong vòng một hay hai tháng là đã trở lại nhà chồng.
Khi có thai, người thiếu phụ ở hẳn nhà chồng chờ ngày sinh nở. Xưa kia, phụ nữ Bố Y có tục đẻ ngồi. Người ta cắt rốn cho đứa trẻ sơ sinh bằng mảnh nứa. Rau chôn chỗ gầm giường bà mẹ. Nhưng ngày nay, nhờ có trạm xá với một đội ngũ y tế gồm y sĩ, y tá, dược tá, hộ sinh viên, vệ sinh viên thường trực mà tập quán nói trên đã được xóa bỏ.
Trước kia, khi đứa trẻ được ba ngày và bây giờ nhiều khi là đủ tháng, gia đình mới làm lễ cúng mụ, đặt tên tục. Nếu đứa trẻ quấy quả, không chịu ăn ngủ thì bà mẹ tìm cách nhận cho nó một người "bố nuôi". Họ tin rằng, có bố nuôi thì "vía" của đứa trẻ được nương tựa, hay ăn, chóng lớn. Lúc đứa bé lên hai, lên ba, bố mẹ đặt cho nó một tên chính thức. Tên đó được đọc trong khi cúng lễ và dùng trên hồ sơ hành chính. Phụ nữ Bố Y khi thai sản, kiêng kỵ một tháng mới được ra ngoài cửa. Sinh nở là sự kiện hệ trọng của đời sống. Vì vậy, trong dịp này, người phụ nữ được cả nhà quan tâm săn sóc. Khi đã có con, địa vị người vợ được nâng lên rõ rệt trong quan hệ gia đình.
Brâu
Người phụ nữ Brâu đến kỳ sinh đẻ vẫn đi rẫy, đi nương một cách bình thường. Lúc đẻ, sản phụ nằm trong góc nhà và được bà mụ (dạ boi) chăm sóc, giúp đỡ, tắm rửa cho đứa bé mới sinh. Khi đứa bé ra đời được năm - ba ngày, mới làm phép đặt tên cho nó. Bà tự nghĩ ra một cái tên, rồi khấn vái thần linh để hỏi ý kiến, sau đó rót rượu uống. Cảm thấy rượu ngon không xóc, không buốt là thần linh đã đồng ý. Ngược lại bà sẽ đặt cho đứa bé tên khác, cho đến khi nào thử rượu thấy ngon, cay, thơm thì thôi.
Cờ Lao
Trong thời kỳ ở cữ, người phụ nữ Cờ Lao phải kiêng kỵ nhiều điều để mong đẻ dễ và con cái mạnh khỏe. Nếu đẻ khó, họ không dùng thuốc mà gia đình thường mời người già trong bản tới rửa tay vào một chậu nước rồi múc một chén trong chậu đó cho sản phụ uống. Họ tin rằng, trước kia có thể vợ hay chồng cãi nhau với người già và bị nguyền rủa, nên bây giờ phải mời người già tới rửa lời nguyền ấy. Cũng có khi người ta rửa con thoi dệt vải và lấy nước đó cho sản phụ uống để mong đẻ sẽ dễ như thoi đưa. Đôi khi gia đình còn bắt con gián đất đem rang khô, giã nhỏ rồi hòa với nước cho người đẻ uống. Người Cờ Lao ở Đồng Văn (Hà Giang) không có tục chôn hay treo rau đẻ lên cây mà thường đem đốt. Tro than được bỏ vào hốc đá trên rừng. Người ta quan niệm rằng tro đó không sạch, sợ chó, lợn giẫm phải trời sẽ sinh ra sấm sét hại người.
Đối với con trai sau ba ngày ba đêm, với con gái sau hai ngày ba đêm, bố mẹ tổ chức lễ đặt tên cho con. Sau khi tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo mới cho con, người bố giết gà cúng tổ tiên và thần Ghi trếch (thần bảo vệ trẻ em). Sau đó người ta làm lễ trừ ma cho đứa trẻ bằng cách: đặt những hòn đá nung nóng ở các cửa trong nhà, chỗ đẻ đứa trẻ..., trên mỗi hòn đá để một cây ngải cứu. Người mẹ bế đứa trẻ tới gần hòn đá đó, một người khác phun nước vào hòn đá nóng cho hơi bốc lên, một tay cầm kéo (đã dùng để cắt rốn đứa trẻ) cắt trên không khí. Vừa làm như thế người ta vừa nói "sạch rồi!" (nói ba lần, phun nước ba lần ở mỗi hòn đá). Sau khi cúng xong, cả gia đình cùng ăn cơm. Theo phong tục, đứa con đầu lòng do bà ngoại đặt tên. Hôm đó, ông bà ngoại hay ông cậu nhất thiết phải có mặt và cho cháu quà.
Ở Hoàng Su Phì, (Hà Giang), người Cờ Lao Đỏ đặt tên cho con khi đầy tháng. Trong buổi lễ người ta phải cúng hoa nương thần (Hoa nhiáng sần) - thần trông coi trẻ nhỏ - và cạo trọc đầu đứa trẻ. Sau đó, bố mẹ tự đặt tên cho con.
Dao
Trước đây, ở miền núi nói chung, ở vùng đồng bào Dao nói riêng hầu như không có bệnh viện, trạm xá, vì vậy việc sinh đẻ đều do mỗi người, mỗi gia đình tự lo liệu, chăm sóc lấy. Ngoài việc biết chạy chữa bằng một số vị thuốc lá, rễ cây cổ truyền, đồng bào chỉ còn cách tổ chức cúng lễ để tổ tiên, thần thánh phù hộ cho việc sinh đẻ và nuôi nấng con được tốt lành. Và tùy theo từng nhóm Dao, tùy từng địa phương mà người có thai (có khi cả những người trong gia đình, nhất là người chồng) có những tục kiêng kỵ khác nhau để tránh cái xấu có thể xảy ra đối với bản thân hoặc đối với những người và những vật chung quanh: người có thai kiêng đến những chỗ đặt bàn thờ, nhất là bàn thờ tổ tiên; kiêng tiếp xúc với thầy cúng, thầy tào; kiêng vào những nơi để hạt giống, để rượu, kiêng trèo cây, hái quả; cả hai vợ chồng không được buộc lạt, không ăn thịt rùa, thịt diều hâu, thịt thú bị hổ bắt... Đồng bào còn cho rằng, một năm kiêng sáu thứ nên khi người phụ nữ có thai vào những tháng nào thì trong những tháng đó họ đều phải kiêng: tháng giêng, tháng bảy, hồn thai ở cửa chính "thất chỏi muần chìn", kiêng không đào đất, không sửa chữa động đến cửa chính; tháng hai, tháng tám hồn thai ở giữa sân "nhị sết chỏi tồng thình", kiêng không đào đất, không đốt lửa, không đặt những vật nặng vào sân; tháng ba, tháng chín, hồn thai ở cối giã gạo "phạm chùa chỏi tòi tạp", kiêng không di chuyển cối; tháng tư, tháng mười hồn thai ở bếp "phỉa chiệp chỏi dua tòng", kiêng không giội nước lã vào bếp: tháng năm, tháng mười một hồn thai ở trong buồng "hửng chiệp đất chỏi tồng tào", kiêng không chữa, không động mạnh buồng của người thai nghén; tháng sáu, tháng mười hai, hồn thai ở bụng mẹ "lụa chiệp nhậy chỏi puốn diền", kiêng không nhúng quần áo người thai nghén vào nước sôi.
Người Dao đẻ ngồi và đẻ ngay trong buồng ngủ, không được đẻ ở nơi khác. Chồng, mẹ chồng đỡ hộ hoặc sản phụ tự đỡ lấy, rất ít khi nhờ người ngoài đỡ giúp. Khi đứa trẻ lọt lòng mẹ, người ta chờ khi nào nó khóc mới bế lên, tắm rửa bằng nước nóng. Nếu đứa bé chưa khóc, người ta thường lấy sách cúng quạt cho nó, tin rằng làm như vậy đứa trẻ sẽ khóc được và sau này đứa trẻ được đặt tên là "Sách" (Slâu). Người ta cắt rốn bằng dao nứa và cho rau vào trong cái sọt gác lên cành cây hoặc cho vào ống nứa đem lên rừng chôn ở nơi khô ráo, làm như vậy, theo quan niệm của đồng bào, đứa bé mới được mát mẻ, khỏe mạnh. Cuống rốn được sấy khô, để làm thuốc chữa bệnh.
Ngay sau khi đẻ, sản phụ được ăn các thức ăn nấu với gừng và rượu. Người ta còn cho sản phụ ăn nhiều cơm nếp, thịt gà, giò lợn nấu lẫn với các vị thuốc bổ (thường là cây thuốc hái ở rừng) để sức khỏe chóng hồi phục.
Khi nhà có người đẻ, người ta treo cành lá xanh hay cái hoa chuối trước cửa làm dấu cấm cữ để mọi người biết không vào nhà, nhất là những người sắp làm dám "chẩu đàng" (Bàn vương), cấp sắc "tẩu slai" hoặc sắp làm các nghi lễ lớn khác. Nếu chưa kịp làm dấu mà đã có người trót vào nhà và nếu người ấy là đàn ông thì người đó phải nhận đứa trẻ làm con nuôi và đứa trẻ được đặt tên là "Khách". Nhưng nói chung người ta không muốn người ngoài, nhất là khách lạ, vào nhà vì sợ vía độc ảnh hưởng xấu đến đứa trẻ. Người trong gia đình kiêng tới những nơi thờ cúng "linh thiêng", ít tiếp xúc với người ngoài vì sợ hồn vía độc ở ngoài sẽ theo về làm hại đứa trẻ. Ngược lại, người ngoài cũng không muốn đến nhà có người đẻ đang độ cấm cữ vì họ cho đó là nơi "không sạch", có thể ảnh hưởng xấu đến mình, nhất là các thầy mo, thì sợ ảnh hưởng xấu đến pháp thuật. Riêng ở nhóm Dao quần trắng, người lạ và bà con trong thôn xóm có thể đến thăm hỏi người đẻ.
Sản phụ, khi có nhiều sữa kiêng vắt sữa xuống tro bếp, người ta tin rằng làm như vậy sẽ bị tro "hút" hết sữa, sợ "mẹ sữa" phật ý làm mất sữa. Sản phụ kiêng đến các nơi thờ cúng, không ra gian nhà ngoài, không ngồi cạnh bếp nấu ăn hay bếp khách. Nếu sản phụ cần đi lại thì qua cửa phụ ở phía sau. Tã lót và quần của sản phụ chỉ được phơi ở chỗ khuất, nhất thiết không được phơi phía trước nhà.
Khi đẻ sinh đôi, nếu là một trai một gái, đồng bào thường làm lễ "hợp cẩn" giả cho hai đứa trẻ, và họ tin rằng làm như vậy mới nuôi được cả hai ("Hợp cẩn" là lễ cho hồn hai vợ chồng nhập vào nhau để khi chết sang âm phủ hồn của hai người đoàn tụ. Ơ? đây, theo quan niệm của đồng bào có sinh đôi một trai một gái là do bà Chúa hoa đã xe duyên vợ chồng cho chúng nhưng thực tế chúng lớn lên không thể lấy nhau được nên phải làm lễ giả như vậy). Những đứa trẻ khi lọt lòng mẹ có tràng hoa quấn cổ thì cho là khó nuôi và muốn để dễ nuôi, đứa trẻ ấy phải gọi ông bà là bố mẹ và gọi bố mẹ là anh chị, tuy nhiên không phải nhóm nào cũng có tục lệ này. Trước đây, người Dao còn có tệ tục là khi đứa con lọt lòng mà không quay mặt về phía người mẹ thì cho là điềm xấu phải cúng bái rất nhiều mới dám nuôi, có người bỏ không nuôi; nếu đứa bé lại còn phun nước bọt nữa thì bị bỏ đi hẳn. Trẻ sơ sinh quá ốm yếu thì người ta đặt tên cho trẻ ấy rồi ghi vào mảnh giấy nhỏ đem "gửi" vào một hốc đá nào đó, sau này đứa trẻ sẽ gọi hòn đá ấy là bố và tên thường ngày của nó sẽ được gọi là "Thạch". Cũng có thể họ nhờ một thầy cúng đứng ra "bảo lãnh" cho đứa bé, nhận đứa bé làm con nuôi.
Trẻ sơ sinh được ba ngày thì gia đình lập đàn cúng mụ gọi là làm lễ "nam han". Người ta thường mổ một lợn, một gà, một vịt để cúng tạ ơn bà mụ ở động Đào-hoa Lâm-châu (Theo quan niệm của đồng bào Dao thì động Đào-hoa Lâm-châu là nơi mụ trú ngụ) đã "cho" họ đứa trẻ và cầu mong ở mụ sự phù hộ lâu dài. Mỗi khi làm lễ phải mời hai thầy cúng, một người cúng hồn đứa trẻ, một người cúng hồn người mẹ, nhưng cả hai đều cầu mong ma mụ phù hộ cho người mẹ và đứa con. Cúng xong, bố đứa trẻ bưng một khay rượu đến trước thầy cúng là khách dự lễ, lạy mỗi người bốn lạy để tạ ơn. Trừ thầy cúng, còn khách đến dự đều mừng tiền cho chủ nhà (thường là vài hào bạc trắng).
Ở nhóm Dao quần trắng, khi làm lễ cúng ma, mụ đồng bào phải chọn "ngày tốt". Khi cúng người ta làm lễ dâng hoa. Con gái dâng hoa mầu đỏ, con trai dâng hoa mầu trắng; hoa bằng giấy và gắn vào các que nứa được đặt trên chiếc yếm của phụ nữ đang dệt dở. Đồng bào tin rằng, làm lễ "dâng hoa" là để bà Chúa hoa hay bà mụ mải mê với hoa và các vật cúng khác mà không đến quấy rầy đứa trẻ.
Đồng bào Dao chăm sóc trẻ sơ sinh khá chu đáo. Hằng ngày đồng bào thường tắm rửa cho trẻ bằng nước đun với lá cây có hương thơm, cho trẻ ăn mật ong...
Nhìn chung, đồng bào Dao rất thương yêu con. Cha mẹ ít đánh đập, chửi mắng con, kể cả con nuôi cũng vậy, cho nên con nuôi cũng gắn bó với cha mẹ nuôi không khác gì đối với cha mẹ đẻ.
HELLBOY (st).
Lễ tẳng cẩu của cô dâu Thái
Lễ tẳng cẩu của cô dâu Thái
Hôn lễ của gia đình người Thái diễn ra rất long trọng và công phu. Khi mang lễ vật sang nhà cô dâu, nếu nhà khá giả là một đôi gà đủ trống mái, hai chiếc đệm, hai chiếc chăn, hai chiếc gối, hai súc vải (mỗi súc mười sải tay), một đôi cẩu (tóc rối và một cái trâm bạc đính đồng bạc hoa xòe). Trong đám đón dâu nếu thiếu gà, thiếu đệm cũng có thể cho qua, nhưng nhất thiết không thể thiếu đôi "cẩu".
Đã gần sáng mà Quàng Thị Hồng không tài nào chợp mắt được, bởi ngày mai, ông mối bà mối sẽ sang hỏi cô về làm vợ Lò A Páo ở bản bên. Hồng quen Páo sau mùa gặt hái. A Páo cùng bọn con trai đến chân sàn của các cô gái thổi "pí pặp" (một loại sáo chuyên dùng để ướm hỏi vợ của các chàng trai Thái). Tiếng sáo véo von của Páo khiến lòng Hồng xao xuyến. Qua ba mùa rẫy, đôi trai gái đã thực lòng yêu nhau và họ quyết định nên vợ nên chồng.
Buổi chiều, gia đình nhà trai đến đúng hẹn. Chú rể ra mắt họ nhà gái trước sự chứng kiến của những người thân thích. Sau khi thắp hương trên ban thờ để khấn gia tiên, là bữa cơm thân mật. Trong bữa ăn, hai bên trai gái trò chuyện vui vẻ và chúc nhau những lời chúc tốt đẹp nhất. Đêm tân hôn, Hồng và Páo vẫn chưa được ngủ cùng ngăn, bởi tóc Hồng chưa dựng cẩu. Trước đó, cô dâu được gội đầu bằng nước lá thơm lấy từ trên đỉnh núi. Tục lệ dựng cẩu mang ý nghĩa quan trọng trong cuộc đời người con gái nên diễn ra khá công phu. Chọn giờ tốt, bố mẹ A Páo ngồi một bên, bố mẹ Hồng ngồi một bên, chú rể chắp tay lạy bố mẹ vợ và bà mối tuyên bố trao cẩu cho cô dâu. Gương mặt Hồng ửng đỏ, cô vừa bối rối, e lệ, vừa ngượng ngùng khi bà mối đưa chiếc lược đồi mồi chải từng lọn tóc mượt mà của cô vuốt ngược lên. Con gái Thái ai cũng có mái tóc dài tuyệt đẹp, dày và mượt như dòng suối. Cả đời họ ít biết đến loại xà-phòng hay dầu gội đầu nào. Thứ nước gội yêu thích nhất của các cô là nước gạo đã lên men chua. Sau khi gội, tóc được xả kỹ bằng nước lá thơm nhiều lần. Có lẽ, đối với người phụ nữ Thái, chẳng có thứ dầu gội nào có thể sánh ngang bằng thứ nước vừa rẻ lại vừa làm mượt tóc như nước vo gạo.
Chẳng mấy chốc, mái tóc của Hồng đã được kết thành chín đường vòng cung, búi tết với mớ tóc rối cũ nhà trai đem sang. Từng múi tóc đen nhánh, mềm mại đan nhau bện thành những đường cong nằm gọn trên đỉnh đầu trông như một nắm xôi to, tượng trưng cho sự khéo léo dịu dàng của người vợ, cho sự no ấm của gia đình. Chín múi tóc đã cuộn tròn vào nhau, bà mối đính chiếc trâm, tượng trưng cho ánh mặt trời chói toả ánh hào quang và sự vĩnh cửu của tình yêu đôi lứa.
Phong tục "tẳng cẩu" ở mỗi vùng Sơn La, Điện Biên, Lai Châu có khác nhau đôi chút nhưng nói chung ở miền Tây Bắc, đây vẫn là tục lệ thiêng liêng, đánh dấu sự kiện trọng đại trong cuộc đời của người phụ nữ Thái. Sau lễ tẳng cẩu, đôi trai gái mới được chính thức công nhận nên vợ nên chồng...
Mới "tẳng cẩu" cho nên các búi tóc làm da đầu Hồng đau ê ẩm, nhưng cô cảm thấy rất hạnh phúc. Kể từ ngay mai, cô sẽ phải tự búi tóc một mình, mấy ngày hôm trước, mẹ cô cứ bắt cô búi đi búi lại nhiều lần.
Khi người con gái Thái đã dựng "cẩu", có nghĩa họ sẽ không được quan hệ tình ái với người con trai nào khác. Nếu người con trai lỡ yêu người đã dựng cẩu cũng không được quan hệ với họ, chính vì vậy mối quan hệ trong gia đình người Thái luôn được bền vững. Người phụ nữ Thái là tấm gương của người phụ nữ chịu thương chịu khó, nhường nhịn hết lòng vì chồng con. Khi đã "tẳng cẩu", người phụ nữ Thái không bao giờ được phép hạ cẩu ngay cả khi đi ngủ hay xuống suối tắm. Họ chỉ được phép thả tóc khi gội đầu hay chẳng may bị xổ tóc. Nhưng trường hợp bị xổ tóc rất hãn hữu vì chiếc trâm giữ rất chặt búi tóc trên đầu. Nếu chẳng may người chồng mất, người phụ nữ được phép hạ cẩu xuống 100 ngày để chịu tang.
"Tẳng cẩu" là một nét đẹp độc đáo của người phụ nữ Thái, nó cũng là một đồ trang sức không thể thiếu. Trong vòng xòe, dưới ánh lửa bập bùng, chiếc tẳng cẩu loang loáng như những ngôi sao nhỏ nhấp nháy trên những gương mặt tươi tắn, hồng hào của người phụ nữ Thái tạo cho họ sự duyên dáng và kiêu hãnh. Ngoài ra, còn ngầm nhắn nhủ ai còn tơ tưởng rằng: Tôi đã là người phụ nữ có chồng.
(Theo Thanh Hà)
HELLBOY
Tập quán độc đáo của người Nguồn
Tập quán độc đáo của người Nguồn
"Pơng Thết" và "Chỗ Sôống"
Khoảng từ rằm tháng chạp trở đi, con cháu người Nguồn có tục dâng cỗ cho ông bà, cha mẹ mà họ thường gọi là giỗ sống (chỗ sôống) hay pơng thết (bưng Tết). Dù khó khăn mấy, họ cũng lo một mâm cỗ tươm tất do chính mình làm ra, dâng lên ông bà, cha mẹ... để tỏ lòng hiếu thảo. Nếu một cặp vợ chồng mà trên họ, cả ba thế hệ (cha mẹ, ông bà, cố) còn sống thì phải có 3 mâm cỗ như nhau, tất nhiên phải lo đều cho cả hai bên nội, ngoại.
Thông thường, tục giỗ sống được tiến hành trước Tết vì họ cho rằng, vào dịp đó các cụ mới ăn ngon miệng, mới tận hưởng được hương vị của các phẩm vật con cháu dâng lên. Tục lệ này được thực hiện dưới một nghi thức rất trịnh trọng: Ông bà, cha mẹ ăn mặc tươm tất, con cháu dâng cỗ và đứng khoanh tay chờ người lớn dùng xong bữa. Trường hợp người già từ chối mâm cỗ dâng lên, có nghĩa là trong năm con cháu có lỗi trong ăn ở, cư xử với gia đình, làng xóm. Lúc ấy, người dâng cỗ phải dâng trầu, lạy tạ và nói lời xin lỗi.
Ngày nay, đời sống ngày một khấm khá, người Nguồn còn dâng cỗ giỗ sống các cụ vào rằm tháng ba, Tết mừng cơm mới và Tết độc lập (2-9)...
"Thết Cấy"
Con trai người Nguồn từ khi có bạn gái đến khi lấy vợ phải qua bốn bước: lễ nói troong, lễ hỏi, lễ sế và lễ cưới. Sau lễ nói troong (như lễ chạm ngõ của người Kinh), lễ hỏi sẽ được tiến hành ngay. Nếu nhà gái nhận lễ và nói một tiếng "ì" (đồng ý), coi như người con trai đã có vợ chưa cưới. Từ đó, vào các dịp lễ Tết, nhà trai phải đi "thết cấy" (đi Tết cho vợ).
Trước đây, con trai, con gái từ 13 - 14 tuổi đã được hai gia đình mai mối dựng vợ, gả chồng, từ đó đến khi cưới phải mất 7 - 8 năm sau và năm nào người con trai cũng đi "thết cấy". Lễ vật cũng đơn giản như rượu, bánh, thịt, cá... vừa đặt trong cái "teo" (cái giỏ đan). Người con trai phải nhờ một người hàng xóm ăn mặc tươm tất xách "teo" cùng mình đến nhà bố mẹ vợ tương lai.
Nhà gái sau khi nhận lễ vật, làm cơm đãi khách phải đem teo trả lại và có "lễ nhập teo", tức là phải có lễ vật biếu lại nhà trai. Căn cứ vào lễ vật mang đến và "lễ nhập teo", hai gia đình biết được là nhà trai đã xin cưới hay chưa và nhà gái có chấp thuận không.
"Pắt xiếu"
Người Nguồn có phong tục pắt xiếu rất độc đáo. Nếu hai người muốn làm bạn với nhau, coi nhau như anh em ruột thịt thì họ "pắt xiếu" với nhau. Khi đã "pắt xiếu" rồi mặc nhiên, gia đình hai bên cũng trở nên gắn bó. Họ gọi nhau là "xiếu", gọi bố mẹ bạn là "bố mẹ xiếu", gọi thành viên trong gia đình bạn là "anh xiếu", "chị xiếu", "em xiếu"...
Điều đặc biệt là con gái có thể "pắt xiếu" với con trai, bố mẹ hai bên gọi nhau là "ông sui", "bà sui", kiểu như hai gia đình sui gia. Vì họ quan niệm tìm được một người để làm "xiếu" còn khó hơn tìm một người làm vợ, làm chồng nên thường các "xiếu" thân thiết và tôn trọng nhau suốt đời.
(Theo Nguyễn Thế Thịnh)
HELLBOY